2
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
384 replies to this topic
#346
Gửi vào 28/09/2024 - 09:23
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết thập tứ
Có thể hỏi về hưng vong, sanh tử?
Trả lời: thường trong mệnh người có sát làm dụng, sát thần không chế phục sẽ là người nghèo, khốn khổ cùng quẩn, hoặc coi như là người xuất chúng con nhà hào môn, cần gặp vận chế phục mượn sát thành hưng thịnh.
Không thể thoát khỏi vận chế phục, một khi vào nơi tài thì tài có thể bè đảng với sát, lại gặp lưu niên tài sát được trợ giúp nên vượng, sức thôn tính thành tai hoạ, bản thân chủ nghèo khó không có nơi nương tựa. Khắc hại nhẹ thì tan nát nhà cửa, lưu đày; nặng thì bị hình phạt mất mạng. Sát thần cùng nhau tụ hội tai hoạ mất mát đáng sợ, với dương nhận luận giống nhau.
Lại có khi lệnh tháng trong trụ là chánh khí quan tinh là một đời phú quý, chỉ gặp tài ấn sẽ có lợi. Quan tinh mừng có tài vượng sanh cho, ấn vượng để bảo hộ. Vì thế khiến người này có thể làm việc nhân từ ban phát ân huệ, cai trị đất nước, quyền to chức tước cao. Sau khi sát thần đắc vị, tuế sát cùng đến, quan hoá thành quỷ, mất mạng là điều chắc chắn vậy.
Không đi vận sát hoặc đi vận thương quan, lại không có ấn thụ chế phục, thương quan đắc địa quý lộc bị hao tổn. mất vợ khắc con, mất chức quan gặp tai hoạ, gặp thêm lưu niên bè nhóm khác, nhất định dẫn đền mất mạng thảm khốc.
Như người có kiến thức cao rộng sáng suốt, biết nắm bắt cơ hội tiến thối để tồn vong nên bảo vệ thân mình không gặp bất hạnh, cũng tự mình có bệnh hiểm nghèo mà chết.
Lại có dụng thần chính trong trụ, không có quan sát, chỉ có thiên tài, chánh tài vượng. Tài thần cai quản, hưng long lờ mờ, tích trữ tiền của làm cho giàu có, chỉ ít quý. Lại xem đi vận như thế nào? Như gặp nơi quan lộc vượng, phú quý có đủ cả hai.
Nếu có bất hạnh, tài thần thoát khỏi cách cục, dương nhận gặp nhau, thêm gặp lưu niên xung hợp với dương nhận, tài thần đều tổn hại nguyên mệnh suy tuyệt, dương nhận gây tai hoạ thất bại diệt vong là chắc chắn vậy.
Sống chết thì lấy cách cục để luận:
Như ấn thụ gặp tài, đi vận tài lại gồm cả tử tuyệt, thì chắc chắn vào suối vàng. Trụ có tỷ kiên chút hy vọng được giải cứu.
Chánh quan gặp sát cùng với thương quan hình xung phá hại, tuế vận tụ hợp nhất định chết.
Chánh tài, thiên tài gặp tỷ kiên phân chia tranh đoạt, dương nhận cướp tài, tuế vận xung hợp nhất định chết.
Thương quan cách, tài vượng mà thân nhược, quan sát gặp nhiều, hỗn tạp xung dương nhận, tuế vận lại gặp nhất định chết. Có chế phục thì tổn hại tàn tật.
Củng lộc củng quý điền thật, lại gặp quan sát, kiếp vong xung dương nhận, tuế vận xung gặp thì chết.
Nhật lộc quy thời, hình xung phá hại gặp thất sát, quan tinh không vong xung dương nhận nhất định chết.
Sát quan rất kỵ tuế vận hội tụ nhau, nhất định chết.
Các cách còn lại đều kỵ sát cùng với điền thật, tuế vận cùng đến, nhất định chết.
Tụ tập các hung thần ác sát: câu giảo, nguyên thần, vong thần, kiếp sát, điếu khách, mộ, bệnh, tử ở cung của sát thì chín phần chết chỉ một phần sống.
Tài quan quá nhiều mà thân nhược, nguyên phạm thất sát mà thân yếu,
Như can ngày bính đinh, năm tháng giờ canh tân, thêm vận dậu hoặc năm canh tân nhất định chết.
Can ngày giáp ất, tháng và giờ canh tân tạp loạn xen kẻ, tuế vận gặp canh tân nhất định chết. Nếu có cứu thì tốt, còn không có cứu giúp nhất định là hung.
Ngũ hành thần sát: kim nhiều thì yểu chiết, thuỷ vượng thì trôi nổi, mộc vượng thì yểu, thổ nhiều thì đần độn, hoả nhiều thì cố chấp, thái quá bất cập mới luận thế này. Một là không thể cố chấp, hai phải dám cắt đứt, quyết định cầu tìm sống chết không thể nghi ngờ.
Cho dến ngũ hành sanh tử:
Như sanh ngày nhâm ở tháng hai đi vận thân tức là chết, sanh ở tháng bảy đi vận mão tức là chết, chính là gặp sanh sợ tử, gặp tử sợ sanh. Tạo hoá với vấn đề của con người giống nhau, cần xem xét cùng nhau.
Có thể nói sống chết của con người, năm tháng ngày giờ đều đã định trước, tạm thời dưa ra vài thí dụ.
Như Định Hưng Trương Dịch Kim, giữa mùa thu năm thứ hai Gia Hy, vì con dâu Mã Mục Các sanh con và cầu nguyện chùa Bảo Tuyền cho một giấc mông thiêng liêng, chó vàng, gà ngọc, dê vàng, chó xanh lần lượt đến khi ra đời người có dũng khí. Bát tự Hoài Vương mậu tuất tân dậu, kỷ mùi giáp tuất, quả ứng với Hoài Vương rằng con cái được vun bồi thành bảy công tướng (tước Công, tước to nhất trong năm tước Công Hầu Bá Tử Nam 公侯伯子男).
Cũng bói cầu tự ở đền Giang Văn Thông, mộng thấy một con chó đỏ mệt mỏi, lại thấy một con chó vàng béo mập với con ngựa trắng đứng ở bên dường, bên trái cây lại thấy con heo đỏ liên tục cắn đuôi chó đi vào nhà, chỗ thổ công cai quản (bàn thờ thổ địa). Tự suy nghĩ đó chính là năm tháng ngày giờ bính tuất mậu tuất canh ngọ đinh hợi. Năm kế cuối thu, sau nửa đêm mồng một vừa mới sanh con quả là ứng nghiệm.
Lại thêm Nguyên Văn Ngũ thầy trò phẩm hạnh cao, năm đinh mùi tháng giêng ngày mười bảy giờ nhâm ngọ, đến Minh Hồng Vũ ngày nguyên đán năm kỷ mùi, trong mộng gặp dê vàng húc bảy mươi ba cái quả chết ngay trong năm kỷ mùi đó.
Con trai ông, Thức Kính suy tính cáo hưu, mộng thấy thỏ trắng nhập nội (vào trong người của vợ), Khương Thẩm trong phòng mang thai, chính là năm thứ mười một của Thuận Đế giữa mùa xuân giáp thìn trời sắp sáng sanh Thục, tìm kiếm đúng đắn tứ trụ của hai người đều là tân mão, hậu nhân có ghi lại rõ ràng, hồi tưởng tấm lòng người xưa, chỉ có thể nhìn lên núi cao, cho đến bây giờ hai con thỏ tròn trịa chỉ sanh trong mộng báo, bốn lần chồng chất tân mão lại gặp âm (nữ tính).
Lại thêm gà trắng, chuột bạc ứng với điềm tốt lành của tân dậu, canh tý. Gà trắng ở dậu gặp thái tuế điềm báo của bất khởi (不起之兆). Noi theo các số mệnh trên mà quán xét sự việc, sống chết của con người tin rằng có định trước rồi vậy.
Nếu doãn tử thường chiêm bao, tỵ đến ngọ khốn khổ, dần trừ tuyệt, sau gặp rắn vào hang được vàng, ngựa ngã cọp cắn đều là bằng chứng.
Hiếu Giới Kinh ba cụ già mộng đến quý (con đường cái thông cả bốn phương tám ngả), gặp ất tỵ đối cục đạt đến thành hoá, đủ ba mươi mốt năm, là can chi lên đến tuổi thọ. Ngày rằm tháng tư tiến cử tuyên dương Nghĩa Lang, thứ tự cháu liên quan đến cha cũng giống trước. Sau giấc mộng, đến năm thứ tư Chánh Đức, giữa mùa hạ ất tỵ được thăng tước hầu nước Vệ. Lại thêm người xưa mộng hỏi về con cháu ở thổ địa. được bài thơ rằng: chó dê cha mẹ rồng xanh con, ngựa đỏ ngựa vàng với gà trắng, cháu cọp chắt cùng cha thuộc bính cao thêm một khí, mọi tính toán thường ứng nghiệm. Lấy con trưởng sanh giáp thìn, con giữa sanh bính ngọ, con thứ ba sanh mậu ngọ con út sanh tân dậu, cháu đích tôn sanh dần, chắt sanh bính tuất, xem xét đều ứng nghiệm. Là ông cha con cháu một nhà, họ ra đời đều là tiền định. (trong các hàng anh em ruột, gồm có: bá, trọng, thúc, quý 伯, 仲, 叔, 季 hoặc mạnh, trọng, thúc, quý 孟, 仲, 叔, 季).
Lại thêm người xưa cấu cúng có con kế thừa ở xã miếu (miếu thổ thần), Thần Thị Thi nói rằng: bên trái rồng, bên phải cọp đỏ (bính dần) cùng hướng, chỉ sợ viêm hầu (khỉ nóng là bính thân) cùng với mộc dương (ất mùi), ba mươi tám năm sống chết cách nhau, phong vân tế hội đều vô thường. Năm tháng ngày giờ tiếp theo sự sống chết, không có gì là chẳng đúng.
Người xưa nói ẩm trác (ăn uống sinh sống, cũng chỉ tự do tự tại) chớ nói không định trước, huống chi là công danh! Huống chi là sống chết! Huống chi là con cháu! Ông kia không biết mệnh nên toan tính xằng bậy, không tránh khỏi quỷ thần cười chê.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀十四
或问兴亡生死?
答曰:凡人命中有煞为用,煞神未制,则为白屋穷途之人,或作豪门卓荦之士,要逢制伏运,假煞而兴。
切不可脱制伏运,一入财乡财能党煞,再遇流年财煞助旺,并力为殃,身主孤寒。克害轻则倾家徒流,重则刑弃其身。煞神并合凶亡可畏,如此阳刃同论。
又有柱中月令,正气官星为一生富贵,惟逢财印则利。官星喜财旺以生之,印旺以护之。故令其人能行仁布德,纬国经邦,权重爵高。
之后煞神得位,岁煞并临,官化为鬼,丧身必矣。
不行煞运或行伤官运,又无印绶制之,伤官得地贵禄遭伤。丧妻克子,剥职生灾,更遇流年党他,必致身亡惨恶。
如有高见明识,知进退存亡之机,而保其身者,不遭非横,亦自己恶疾而终。
又有柱中所专用神,无官煞气,惟偏正财旺。财神当道,隐隐兴隆,积财聚富,但少贵耳。再看行运何如?如逢官禄旺乡,富贵双全。
设有不幸,财神脱局,阳刃相逢,更遇流年冲合阳刃,财神尽伤元命衰绝,阳刃生灾败亡必矣。
生死则以格局论:
如印绶见财,行财运又兼死绝,必入黄泉。柱有比肩,庶几有解。
正官见煞及伤官刑冲破害,岁运相并必死。
正财偏财见比肩分夺,阳刃劫财,岁运冲合必死。
伤官之格,财旺身弱,官煞重见,混杂冲刃,岁运又见必死。有制则伤残。
拱禄拱贵填实,又见官煞,劫亡冲刃,岁运重见即死。
日禄归时,刑冲破害见七煞,官星空亡冲刃必死。
煞官大忌岁运相并必死。
其余诸格并忌煞及填实,岁运并临必死。
会诸凶神恶煞,勾绞、元辰、亡神、劫煞、吊客、墓、病、死宫诸煞,九死一生。
财官太多身弱,元犯七煞身轻,
如丙丁日干,年月时庚辛,加酉运或庚辛年必死。
甲乙日干,庚辛月时夹杂,年运见庚辛必死。若有救则吉,无救定凶。
五行神煞,金多夭折,水盛漂流,木旺则夭,土多痴呆,火多愚顽,太过不及作此论。一不可拘,二须敢断,求其生死,决定无疑。
至若五行生死:
如壬日生在二月行申运即死,生在七月行卯运即死,乃遇生怕死,即死怕生。造化与人事一也,须并看之。
尝谓人之生死,年月日时俱皆前定,姑举一二。
如定兴张易金,嘉熙二年仲秋,以儿妇马睦阁临盆,乞灵宝泉寺当境神梦,金狗、玉鸡、黄羊、青犬次第而至逮生勇九。淮王则戊戌、辛酉巳未、甲戌八字,果应淮王云孙壅七公相。
亦占嗣于江文通祠,梦始出疲赤犬,再见肥黄狗在路傍,及白马立平地木左复睹赭猪联咬犬尾入屋,上土公相。自忖度乃丙戌、戊戌、庚午、丁亥年月日时成化。岁次暮秋朔后夜半甫生子果验。
又元文式五师生大德,丁未岁正月十七日壬午申时,至明洪武己未元旦,梦中得黄羊触数七十有三至斯际果逝。
其子式敬筹六老,梦数白兔入内,姜沉闺怀,及顺帝十一年仲春甲辰眛爽产淑,正求二者四柱皆辛卯,后人有记云历周,追忆古人心,仰止高山,直到今睆兔两只生梦兆,四重辛卯又逢阴。
又白鸡、银鼠应辛酉、庚子之祥,白鸡在酉值太岁不起之兆。
由上数事观之,人之生死信前定矣哉。
若尹子常梦,巳达午厄寅灭,后见蛇入穴得金,坠马虎啮皆符。
孝介经三叟梦达逵,逢乙巳对局至成化,三十一年周,是干支登耋寿。四月望日进宣义郎,秩孙干父亦同前。梦后复以正德四年乙巳仲夏,遂升卫侯。又古人祈梦问子孙于土地神,得诗云:犬羊父母青龙子,赤马黄驹与白鸡,孙虎曾同翁属肖丙隆一气,应多齐解者。以其伯子生甲辰,仲子生丙午,叔子生戊午,季子生辛酉,长孙生寅,曾孙生丙戌,推算皆验。是一家祖父子孙,其生皆前定也。
又古人祈嗣社庙,神示诗云:左龙右虎赤同方,只怕炎猴及木羊,三十八年生死隔,风云际会总无常。其后生死年月日时,无不符验。
古人谓饮啄莫非前定,况功名乎!况生死乎!况子孙乎!彼不知命而妄图者,其不为鬼神所笑者几希。
.
khán mệnh khẩu quyết thập tứ
Có thể hỏi về hưng vong, sanh tử?
Trả lời: thường trong mệnh người có sát làm dụng, sát thần không chế phục sẽ là người nghèo, khốn khổ cùng quẩn, hoặc coi như là người xuất chúng con nhà hào môn, cần gặp vận chế phục mượn sát thành hưng thịnh.
Không thể thoát khỏi vận chế phục, một khi vào nơi tài thì tài có thể bè đảng với sát, lại gặp lưu niên tài sát được trợ giúp nên vượng, sức thôn tính thành tai hoạ, bản thân chủ nghèo khó không có nơi nương tựa. Khắc hại nhẹ thì tan nát nhà cửa, lưu đày; nặng thì bị hình phạt mất mạng. Sát thần cùng nhau tụ hội tai hoạ mất mát đáng sợ, với dương nhận luận giống nhau.
Lại có khi lệnh tháng trong trụ là chánh khí quan tinh là một đời phú quý, chỉ gặp tài ấn sẽ có lợi. Quan tinh mừng có tài vượng sanh cho, ấn vượng để bảo hộ. Vì thế khiến người này có thể làm việc nhân từ ban phát ân huệ, cai trị đất nước, quyền to chức tước cao. Sau khi sát thần đắc vị, tuế sát cùng đến, quan hoá thành quỷ, mất mạng là điều chắc chắn vậy.
Không đi vận sát hoặc đi vận thương quan, lại không có ấn thụ chế phục, thương quan đắc địa quý lộc bị hao tổn. mất vợ khắc con, mất chức quan gặp tai hoạ, gặp thêm lưu niên bè nhóm khác, nhất định dẫn đền mất mạng thảm khốc.
Như người có kiến thức cao rộng sáng suốt, biết nắm bắt cơ hội tiến thối để tồn vong nên bảo vệ thân mình không gặp bất hạnh, cũng tự mình có bệnh hiểm nghèo mà chết.
Lại có dụng thần chính trong trụ, không có quan sát, chỉ có thiên tài, chánh tài vượng. Tài thần cai quản, hưng long lờ mờ, tích trữ tiền của làm cho giàu có, chỉ ít quý. Lại xem đi vận như thế nào? Như gặp nơi quan lộc vượng, phú quý có đủ cả hai.
Nếu có bất hạnh, tài thần thoát khỏi cách cục, dương nhận gặp nhau, thêm gặp lưu niên xung hợp với dương nhận, tài thần đều tổn hại nguyên mệnh suy tuyệt, dương nhận gây tai hoạ thất bại diệt vong là chắc chắn vậy.
Sống chết thì lấy cách cục để luận:
Như ấn thụ gặp tài, đi vận tài lại gồm cả tử tuyệt, thì chắc chắn vào suối vàng. Trụ có tỷ kiên chút hy vọng được giải cứu.
Chánh quan gặp sát cùng với thương quan hình xung phá hại, tuế vận tụ hợp nhất định chết.
Chánh tài, thiên tài gặp tỷ kiên phân chia tranh đoạt, dương nhận cướp tài, tuế vận xung hợp nhất định chết.
Thương quan cách, tài vượng mà thân nhược, quan sát gặp nhiều, hỗn tạp xung dương nhận, tuế vận lại gặp nhất định chết. Có chế phục thì tổn hại tàn tật.
Củng lộc củng quý điền thật, lại gặp quan sát, kiếp vong xung dương nhận, tuế vận xung gặp thì chết.
Nhật lộc quy thời, hình xung phá hại gặp thất sát, quan tinh không vong xung dương nhận nhất định chết.
Sát quan rất kỵ tuế vận hội tụ nhau, nhất định chết.
Các cách còn lại đều kỵ sát cùng với điền thật, tuế vận cùng đến, nhất định chết.
Tụ tập các hung thần ác sát: câu giảo, nguyên thần, vong thần, kiếp sát, điếu khách, mộ, bệnh, tử ở cung của sát thì chín phần chết chỉ một phần sống.
Tài quan quá nhiều mà thân nhược, nguyên phạm thất sát mà thân yếu,
Như can ngày bính đinh, năm tháng giờ canh tân, thêm vận dậu hoặc năm canh tân nhất định chết.
Can ngày giáp ất, tháng và giờ canh tân tạp loạn xen kẻ, tuế vận gặp canh tân nhất định chết. Nếu có cứu thì tốt, còn không có cứu giúp nhất định là hung.
Ngũ hành thần sát: kim nhiều thì yểu chiết, thuỷ vượng thì trôi nổi, mộc vượng thì yểu, thổ nhiều thì đần độn, hoả nhiều thì cố chấp, thái quá bất cập mới luận thế này. Một là không thể cố chấp, hai phải dám cắt đứt, quyết định cầu tìm sống chết không thể nghi ngờ.
Cho dến ngũ hành sanh tử:
Như sanh ngày nhâm ở tháng hai đi vận thân tức là chết, sanh ở tháng bảy đi vận mão tức là chết, chính là gặp sanh sợ tử, gặp tử sợ sanh. Tạo hoá với vấn đề của con người giống nhau, cần xem xét cùng nhau.
Có thể nói sống chết của con người, năm tháng ngày giờ đều đã định trước, tạm thời dưa ra vài thí dụ.
Như Định Hưng Trương Dịch Kim, giữa mùa thu năm thứ hai Gia Hy, vì con dâu Mã Mục Các sanh con và cầu nguyện chùa Bảo Tuyền cho một giấc mông thiêng liêng, chó vàng, gà ngọc, dê vàng, chó xanh lần lượt đến khi ra đời người có dũng khí. Bát tự Hoài Vương mậu tuất tân dậu, kỷ mùi giáp tuất, quả ứng với Hoài Vương rằng con cái được vun bồi thành bảy công tướng (tước Công, tước to nhất trong năm tước Công Hầu Bá Tử Nam 公侯伯子男).
Cũng bói cầu tự ở đền Giang Văn Thông, mộng thấy một con chó đỏ mệt mỏi, lại thấy một con chó vàng béo mập với con ngựa trắng đứng ở bên dường, bên trái cây lại thấy con heo đỏ liên tục cắn đuôi chó đi vào nhà, chỗ thổ công cai quản (bàn thờ thổ địa). Tự suy nghĩ đó chính là năm tháng ngày giờ bính tuất mậu tuất canh ngọ đinh hợi. Năm kế cuối thu, sau nửa đêm mồng một vừa mới sanh con quả là ứng nghiệm.
Lại thêm Nguyên Văn Ngũ thầy trò phẩm hạnh cao, năm đinh mùi tháng giêng ngày mười bảy giờ nhâm ngọ, đến Minh Hồng Vũ ngày nguyên đán năm kỷ mùi, trong mộng gặp dê vàng húc bảy mươi ba cái quả chết ngay trong năm kỷ mùi đó.
Con trai ông, Thức Kính suy tính cáo hưu, mộng thấy thỏ trắng nhập nội (vào trong người của vợ), Khương Thẩm trong phòng mang thai, chính là năm thứ mười một của Thuận Đế giữa mùa xuân giáp thìn trời sắp sáng sanh Thục, tìm kiếm đúng đắn tứ trụ của hai người đều là tân mão, hậu nhân có ghi lại rõ ràng, hồi tưởng tấm lòng người xưa, chỉ có thể nhìn lên núi cao, cho đến bây giờ hai con thỏ tròn trịa chỉ sanh trong mộng báo, bốn lần chồng chất tân mão lại gặp âm (nữ tính).
Lại thêm gà trắng, chuột bạc ứng với điềm tốt lành của tân dậu, canh tý. Gà trắng ở dậu gặp thái tuế điềm báo của bất khởi (不起之兆). Noi theo các số mệnh trên mà quán xét sự việc, sống chết của con người tin rằng có định trước rồi vậy.
Nếu doãn tử thường chiêm bao, tỵ đến ngọ khốn khổ, dần trừ tuyệt, sau gặp rắn vào hang được vàng, ngựa ngã cọp cắn đều là bằng chứng.
Hiếu Giới Kinh ba cụ già mộng đến quý (con đường cái thông cả bốn phương tám ngả), gặp ất tỵ đối cục đạt đến thành hoá, đủ ba mươi mốt năm, là can chi lên đến tuổi thọ. Ngày rằm tháng tư tiến cử tuyên dương Nghĩa Lang, thứ tự cháu liên quan đến cha cũng giống trước. Sau giấc mộng, đến năm thứ tư Chánh Đức, giữa mùa hạ ất tỵ được thăng tước hầu nước Vệ. Lại thêm người xưa mộng hỏi về con cháu ở thổ địa. được bài thơ rằng: chó dê cha mẹ rồng xanh con, ngựa đỏ ngựa vàng với gà trắng, cháu cọp chắt cùng cha thuộc bính cao thêm một khí, mọi tính toán thường ứng nghiệm. Lấy con trưởng sanh giáp thìn, con giữa sanh bính ngọ, con thứ ba sanh mậu ngọ con út sanh tân dậu, cháu đích tôn sanh dần, chắt sanh bính tuất, xem xét đều ứng nghiệm. Là ông cha con cháu một nhà, họ ra đời đều là tiền định. (trong các hàng anh em ruột, gồm có: bá, trọng, thúc, quý 伯, 仲, 叔, 季 hoặc mạnh, trọng, thúc, quý 孟, 仲, 叔, 季).
Lại thêm người xưa cấu cúng có con kế thừa ở xã miếu (miếu thổ thần), Thần Thị Thi nói rằng: bên trái rồng, bên phải cọp đỏ (bính dần) cùng hướng, chỉ sợ viêm hầu (khỉ nóng là bính thân) cùng với mộc dương (ất mùi), ba mươi tám năm sống chết cách nhau, phong vân tế hội đều vô thường. Năm tháng ngày giờ tiếp theo sự sống chết, không có gì là chẳng đúng.
Người xưa nói ẩm trác (ăn uống sinh sống, cũng chỉ tự do tự tại) chớ nói không định trước, huống chi là công danh! Huống chi là sống chết! Huống chi là con cháu! Ông kia không biết mệnh nên toan tính xằng bậy, không tránh khỏi quỷ thần cười chê.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀十四
或问兴亡生死?
答曰:凡人命中有煞为用,煞神未制,则为白屋穷途之人,或作豪门卓荦之士,要逢制伏运,假煞而兴。
切不可脱制伏运,一入财乡财能党煞,再遇流年财煞助旺,并力为殃,身主孤寒。克害轻则倾家徒流,重则刑弃其身。煞神并合凶亡可畏,如此阳刃同论。
又有柱中月令,正气官星为一生富贵,惟逢财印则利。官星喜财旺以生之,印旺以护之。故令其人能行仁布德,纬国经邦,权重爵高。
之后煞神得位,岁煞并临,官化为鬼,丧身必矣。
不行煞运或行伤官运,又无印绶制之,伤官得地贵禄遭伤。丧妻克子,剥职生灾,更遇流年党他,必致身亡惨恶。
如有高见明识,知进退存亡之机,而保其身者,不遭非横,亦自己恶疾而终。
又有柱中所专用神,无官煞气,惟偏正财旺。财神当道,隐隐兴隆,积财聚富,但少贵耳。再看行运何如?如逢官禄旺乡,富贵双全。
设有不幸,财神脱局,阳刃相逢,更遇流年冲合阳刃,财神尽伤元命衰绝,阳刃生灾败亡必矣。
生死则以格局论:
如印绶见财,行财运又兼死绝,必入黄泉。柱有比肩,庶几有解。
正官见煞及伤官刑冲破害,岁运相并必死。
正财偏财见比肩分夺,阳刃劫财,岁运冲合必死。
伤官之格,财旺身弱,官煞重见,混杂冲刃,岁运又见必死。有制则伤残。
拱禄拱贵填实,又见官煞,劫亡冲刃,岁运重见即死。
日禄归时,刑冲破害见七煞,官星空亡冲刃必死。
煞官大忌岁运相并必死。
其余诸格并忌煞及填实,岁运并临必死。
会诸凶神恶煞,勾绞、元辰、亡神、劫煞、吊客、墓、病、死宫诸煞,九死一生。
财官太多身弱,元犯七煞身轻,
如丙丁日干,年月时庚辛,加酉运或庚辛年必死。
甲乙日干,庚辛月时夹杂,年运见庚辛必死。若有救则吉,无救定凶。
五行神煞,金多夭折,水盛漂流,木旺则夭,土多痴呆,火多愚顽,太过不及作此论。一不可拘,二须敢断,求其生死,决定无疑。
至若五行生死:
如壬日生在二月行申运即死,生在七月行卯运即死,乃遇生怕死,即死怕生。造化与人事一也,须并看之。
尝谓人之生死,年月日时俱皆前定,姑举一二。
如定兴张易金,嘉熙二年仲秋,以儿妇马睦阁临盆,乞灵宝泉寺当境神梦,金狗、玉鸡、黄羊、青犬次第而至逮生勇九。淮王则戊戌、辛酉巳未、甲戌八字,果应淮王云孙壅七公相。
亦占嗣于江文通祠,梦始出疲赤犬,再见肥黄狗在路傍,及白马立平地木左复睹赭猪联咬犬尾入屋,上土公相。自忖度乃丙戌、戊戌、庚午、丁亥年月日时成化。岁次暮秋朔后夜半甫生子果验。
又元文式五师生大德,丁未岁正月十七日壬午申时,至明洪武己未元旦,梦中得黄羊触数七十有三至斯际果逝。
其子式敬筹六老,梦数白兔入内,姜沉闺怀,及顺帝十一年仲春甲辰眛爽产淑,正求二者四柱皆辛卯,后人有记云历周,追忆古人心,仰止高山,直到今睆兔两只生梦兆,四重辛卯又逢阴。
又白鸡、银鼠应辛酉、庚子之祥,白鸡在酉值太岁不起之兆。
由上数事观之,人之生死信前定矣哉。
若尹子常梦,巳达午厄寅灭,后见蛇入穴得金,坠马虎啮皆符。
孝介经三叟梦达逵,逢乙巳对局至成化,三十一年周,是干支登耋寿。四月望日进宣义郎,秩孙干父亦同前。梦后复以正德四年乙巳仲夏,遂升卫侯。又古人祈梦问子孙于土地神,得诗云:犬羊父母青龙子,赤马黄驹与白鸡,孙虎曾同翁属肖丙隆一气,应多齐解者。以其伯子生甲辰,仲子生丙午,叔子生戊午,季子生辛酉,长孙生寅,曾孙生丙戌,推算皆验。是一家祖父子孙,其生皆前定也。
又古人祈嗣社庙,神示诗云:左龙右虎赤同方,只怕炎猴及木羊,三十八年生死隔,风云际会总无常。其后生死年月日时,无不符验。
古人谓饮啄莫非前定,况功名乎!况生死乎!况子孙乎!彼不知命而妄图者,其不为鬼神所笑者几希。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#347
Gửi vào 29/09/2024 - 09:28
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
vu hàm toát yếu nhất
Thiên Nguyên Thần Thú Kinh nói rằng:
Thường xem xét mệnh người, trước tiên là nhật hạ thịnh hay suy, thay đổi dụng thần cách rõ ràng, trời đất mới thành.
Phúc lành sang hèn rõ ràng ở trên dưới, hưng suy toàn bộ ở can chi.
Lý mầu nhiệm trong bốn mùa nên triệt để thông suốt, vinh khô trong ngũ hành tự bẩm (tính có được từ lúc mới sinh).
Vì thế:
Sanh mùa xuân giáp ất ở dần mão, làm sao mà sợ canh tân.
Sanh ra ở mùa hạ bính đinh cưởi tỵ ngọ, sao phải lo nhâm quý.
Canh tân gặp đoài sanh mùa thu thì ly hoả khó xâm phạm.
Nhâm quý gặp càn mùa đông giáng xuống thì mậu kỷ làm sao mà khắc.
Thổ sanh tứ quý (bốn tháng cuối mùa) đắc thời nên gặp quỷ cũng vô hại.
Ví thử ngũ hành thất địa mà gặp khắc tai hoạ không thể chữa khỏi.
Lại thêm nếu hoá cách thành tượng, cần phải phân biệt suy vượng ổn thoả lẫn nhau. Càng thích hợp trong phối hợp phải hiểu rõ đường đi qua lại.
Kim tuyệt ở cấn bắc, hoả chết ở càn tây, mộc tàn tạ ở khôn nam nên vô hình, thỷ tới tốn đông nên không chỗ đứng.
Đây chính là can dương đều tử, gặp hợp vì thuện theo nhau, vợ nếu ần hình chỉ thấy trong cục.
Nhưng có thể xác định can âm sanh ở tứ chánh (tý mão ngọ dậu), khi đó vượng nên bản thân quý gia đình vẻ vang. Tử tuyệt mộ tổn hại loại liên quan, đặc biệt là không đủ.
Hoá khí hợp cách không bị phá, người đại hiển quý mười phần được tám chín.
Hoá khí lạc cách cục có thương tổn, luận rằng không hơn hai ba phần trăm được vinh hiển.
Người cao quý nhất, ở ba vị trí vượng xứ, cần phải giúp đỡ lẫn nhau.
Cho đến người nghèo hèn, cở suy xứ, tứ trụ khó tìm thấy phúc lành.
Nguyên tượng ở trong địa chi , phối hợp ở bên trong thiên can.
Tượng thành vượng dụng, đều sanh hoả trong thổ. Tứ trụ không thương tổn, thẳng đến chức vị ở triều đình.
Sợ hãi trong địa chi cũng là huỹ báng tiếng tăm. Vận nghèo đến nơi suy, nhất định gặp tai hoạ.
Hoá thành phúc lành, đều ở nơi suy mộ tuyệt. Tượng thành tạp cục (cách cục hỗn loạn), giống như gặp hợp mà không hợp.
Chồng đi vận vượng, vợ bèn thuận theo chồng. Vợ vận giúp đỡ, luận chồng thuận theo vợ.
Tự mình đối diện quỷ, phải rõ ràng trong thiên can địa chi.
Tượng vượng hay suy, rốt cuộc biết được giàu nghèo sang hèn.
Thân suy quỷ vượng, ứng vào thân thể bị tổn hại tàn tật. Thân vượng quỷ suy, nhất định là mệnh của người hung ác.
Quỷ và thân đều suy, đàn ông phiêu bồng, phụ nữ làm ni cô, nép mình ẩn kín trong danh vọng cao sang.
Nguyệt khí thương tổn nhau, đó chính là phục tượng (tượng thừa nhận), quan quỷ đều có đủ, tuổi nào không toại chí
Phá bại trong thiên can, vẫn có tài năng để mang theo mình.
Địa chi sanh toàn. Khó cậy nhờ lục thân mà tự lập.
Ngũ hành thuộc về tượng của nó, đều ở trong mười hai địa chi. Trước hết phân biệt nam bắc với đông tây, kế mới xem rõ khác biệt bên trong tam hợp .
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要一
天元神趣经云:
凡推人命,先详日下兴衰,变用分局,天地方成。
造化贵贱明于上下,兴衰尽在干支。
四时中妙理穷通,五行内荣枯自禀。
是以:
春生甲乙居寅卯,岂怕庚辛。
夏长丙丁乘巳午,何愁壬癸。
庚辛值兑秋生兮,离火难侵。
壬癸逢干冬降兮,戊己怎克。
土生四季得时而遇鬼,其伤无害。
设使五行失地而逢克,其灾不愈。
又若化格成象,须分衰旺相停。尤宜配合之中,要识往来去路。
金绝艮北,火没乾西,木落坤南而无形,水到巽东而无位。
此乃阳干皆死,遇合而以类相从,妻若潜形,但见局中。
而可决阴生四正,时旺者身贵家荣。死绝墓伤类伤干,尤为不足。
化气入格不破,大显贵者十有八九。
化气失局有伤,论显荣者百无二三。
最高最贵者,居旺处三位,需要相扶持
至贱至贫者,居衰处,四柱难寻造化。
元象在地支之中,配合在天干之内。
象成旺用,皆生火土之中。四柱无伤,直列朝廷之上。
支中畏惧,亦须声誉非。贫运至衰乡,必主灾咎。
化成造化,各居于衰墓绝乡。象成杂局,遇合犹如不遇。
夫行旺运,妻乃从夫。妻运扶持,夫从妻论。
己身临鬼,须明天地之中。
象旺象衰,要识荣枯贵贱。
身衰鬼旺,应须肢体伤残。身旺鬼衰,定作凶徒之命。
鬼身皆衰,男必飘蓬,女必师尼,伏身潜匿,自居高名。
月气相伤,此乃伏象,官鬼皆全,遐龄不遂。
干中破败,乃有技艺以随身。
支乃生全。难仗六亲而独立。
五行属于其象,皆在十二支中。先分南北与东西,次看三合内别认。
.
vu hàm toát yếu nhất
Thiên Nguyên Thần Thú Kinh nói rằng:
Thường xem xét mệnh người, trước tiên là nhật hạ thịnh hay suy, thay đổi dụng thần cách rõ ràng, trời đất mới thành.
Phúc lành sang hèn rõ ràng ở trên dưới, hưng suy toàn bộ ở can chi.
Lý mầu nhiệm trong bốn mùa nên triệt để thông suốt, vinh khô trong ngũ hành tự bẩm (tính có được từ lúc mới sinh).
Vì thế:
Sanh mùa xuân giáp ất ở dần mão, làm sao mà sợ canh tân.
Sanh ra ở mùa hạ bính đinh cưởi tỵ ngọ, sao phải lo nhâm quý.
Canh tân gặp đoài sanh mùa thu thì ly hoả khó xâm phạm.
Nhâm quý gặp càn mùa đông giáng xuống thì mậu kỷ làm sao mà khắc.
Thổ sanh tứ quý (bốn tháng cuối mùa) đắc thời nên gặp quỷ cũng vô hại.
Ví thử ngũ hành thất địa mà gặp khắc tai hoạ không thể chữa khỏi.
Lại thêm nếu hoá cách thành tượng, cần phải phân biệt suy vượng ổn thoả lẫn nhau. Càng thích hợp trong phối hợp phải hiểu rõ đường đi qua lại.
Kim tuyệt ở cấn bắc, hoả chết ở càn tây, mộc tàn tạ ở khôn nam nên vô hình, thỷ tới tốn đông nên không chỗ đứng.
Đây chính là can dương đều tử, gặp hợp vì thuện theo nhau, vợ nếu ần hình chỉ thấy trong cục.
Nhưng có thể xác định can âm sanh ở tứ chánh (tý mão ngọ dậu), khi đó vượng nên bản thân quý gia đình vẻ vang. Tử tuyệt mộ tổn hại loại liên quan, đặc biệt là không đủ.
Hoá khí hợp cách không bị phá, người đại hiển quý mười phần được tám chín.
Hoá khí lạc cách cục có thương tổn, luận rằng không hơn hai ba phần trăm được vinh hiển.
Người cao quý nhất, ở ba vị trí vượng xứ, cần phải giúp đỡ lẫn nhau.
Cho đến người nghèo hèn, cở suy xứ, tứ trụ khó tìm thấy phúc lành.
Nguyên tượng ở trong địa chi , phối hợp ở bên trong thiên can.
Tượng thành vượng dụng, đều sanh hoả trong thổ. Tứ trụ không thương tổn, thẳng đến chức vị ở triều đình.
Sợ hãi trong địa chi cũng là huỹ báng tiếng tăm. Vận nghèo đến nơi suy, nhất định gặp tai hoạ.
Hoá thành phúc lành, đều ở nơi suy mộ tuyệt. Tượng thành tạp cục (cách cục hỗn loạn), giống như gặp hợp mà không hợp.
Chồng đi vận vượng, vợ bèn thuận theo chồng. Vợ vận giúp đỡ, luận chồng thuận theo vợ.
Tự mình đối diện quỷ, phải rõ ràng trong thiên can địa chi.
Tượng vượng hay suy, rốt cuộc biết được giàu nghèo sang hèn.
Thân suy quỷ vượng, ứng vào thân thể bị tổn hại tàn tật. Thân vượng quỷ suy, nhất định là mệnh của người hung ác.
Quỷ và thân đều suy, đàn ông phiêu bồng, phụ nữ làm ni cô, nép mình ẩn kín trong danh vọng cao sang.
Nguyệt khí thương tổn nhau, đó chính là phục tượng (tượng thừa nhận), quan quỷ đều có đủ, tuổi nào không toại chí
Phá bại trong thiên can, vẫn có tài năng để mang theo mình.
Địa chi sanh toàn. Khó cậy nhờ lục thân mà tự lập.
Ngũ hành thuộc về tượng của nó, đều ở trong mười hai địa chi. Trước hết phân biệt nam bắc với đông tây, kế mới xem rõ khác biệt bên trong tam hợp .
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要一
天元神趣经云:
凡推人命,先详日下兴衰,变用分局,天地方成。
造化贵贱明于上下,兴衰尽在干支。
四时中妙理穷通,五行内荣枯自禀。
是以:
春生甲乙居寅卯,岂怕庚辛。
夏长丙丁乘巳午,何愁壬癸。
庚辛值兑秋生兮,离火难侵。
壬癸逢干冬降兮,戊己怎克。
土生四季得时而遇鬼,其伤无害。
设使五行失地而逢克,其灾不愈。
又若化格成象,须分衰旺相停。尤宜配合之中,要识往来去路。
金绝艮北,火没乾西,木落坤南而无形,水到巽东而无位。
此乃阳干皆死,遇合而以类相从,妻若潜形,但见局中。
而可决阴生四正,时旺者身贵家荣。死绝墓伤类伤干,尤为不足。
化气入格不破,大显贵者十有八九。
化气失局有伤,论显荣者百无二三。
最高最贵者,居旺处三位,需要相扶持
至贱至贫者,居衰处,四柱难寻造化。
元象在地支之中,配合在天干之内。
象成旺用,皆生火土之中。四柱无伤,直列朝廷之上。
支中畏惧,亦须声誉非。贫运至衰乡,必主灾咎。
化成造化,各居于衰墓绝乡。象成杂局,遇合犹如不遇。
夫行旺运,妻乃从夫。妻运扶持,夫从妻论。
己身临鬼,须明天地之中。
象旺象衰,要识荣枯贵贱。
身衰鬼旺,应须肢体伤残。身旺鬼衰,定作凶徒之命。
鬼身皆衰,男必飘蓬,女必师尼,伏身潜匿,自居高名。
月气相伤,此乃伏象,官鬼皆全,遐龄不遂。
干中破败,乃有技艺以随身。
支乃生全。难仗六亲而独立。
五行属于其象,皆在十二支中。先分南北与东西,次看三合内别认。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#348
Gửi vào 30/09/2024 - 09:20
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
vu hàm toát yếu nhị
Hiểu rõ lục thân, thuận theo tượng mà suy xét. Đánh giá phú quý, có hai chủ trương: chức vị và bỗng lộc.
Người có lộc thịnh vượng, goá vợ goá chồng cô độc. Người có quan quỷ , tàn tật và chết trẻ, thân như thể hiện thay đổi.
Bản thân vốn không có khí lực, bản tính hoàn toàn thiệt thòi.
Nếu ngũ hành thành tượng cả đời khốn quẫn, bức bách, làm sao được tài sản của tổ tiên. Hiển lộ phúc lành , thịnh vượng do xúc phạm cha mẹ ở phòng khác.
Luận tòng tượng dẫn dắt dụng thần thành khí, luận hoá tượng thì trời đất ổn thoả nhau.
Trong tòng có sang có hèn, trong hoá có giàu có nghèo.
Trong tòng quý hiển đắc thời nên có chức vị trong triều đình.
Trong hoá thành cục vận, biến thành phong (đắp đất cao làm mộ) đế (thời Tam Đại gọi vua đã chết là đế 帝) trắc
Tòng tượng suy nên đến già còn bôn ba. Hoá tượng phục nên cả đời thịnh vượng.
Lại nói phép xem tử bình, chuyên luận tài quan, lấy tài quan ở tháng là quan trọng nhất. Tìm ra ở ngày giờ, cần phải hiểu rõ cường nhược.
Luận tài quan thì không luận cách cục, luận cách cục thì không luận tài quan. Người hợp cách không giàu cũng sang, còn không hợp cách thì chẳng nghèo cũng yểu.
Cách một cách hai chẳng phải khanh (tên chức quan. § Ngày xưa có quan chánh khanh 正卿, quan thiếu khanh 少卿) cũng là tướng, cách ba cách bốn tài quan không thành thực. Chẳng bị hình chết, thường là cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家).
Quan sợ thương, tài sợ kiếp, ấn thụ gặp tài càng nhiều càng tai hoạ.
Thương quan kiến quan vốn có thì nặng, vốn không có thì nhẹ. Nặng thì dời chuyển lưu đày, nhẹ thì trách phạt.
Thương quan trên trụ năm cha mẹ không còn đủ. Thương quan trên trụ tháng anh em không đủ.
Thương quan trên trụ giờ, khó có vợ. Thương quan trụ giờ con cái không truyền lại.
Năm tháng thương quan kiếp tài, sanh ở nhà nghèo hèn, hoặc là con vợ lẽ.
Ngày giờ thương quan kiếp tài thương tổn con cái, chủ không có phúc cuối đời.
Quan sát hỗn tạp là người hiếu sắc dâm đãng, làm việc tiểu xảo (giả dối) hèn tiện (nghèo nàn rẽ tiền). Người có tài ấn thì tốt, không tài ấn thì xấu.
Kiếp tài bại tài tâm cao ngạo hạ tiện, là người tham lam.
Lệnh tháng chánh tài, chăm chỉ, dẻ sẻn, keo kiệt. Trụ có kiếp tài tỷ nhận nhiều, làm khổ cha mẹ tổn hại vợ , tiền tài không giữ được.
Người buôn bán cần xem đất suy bại của tài, còn quan chức cần xem được thởi chánh lộc.
Thất sát kiêu thần nhiều, chạy đến nơi xa xôi làm khách tha hương. Thương quan kiếp tài, là lũ lừa dối, phụ ơn. Trùng phạm kỳ nghi (phép tắc đặc biệt) thì quý. Trùng phạm vong thần (một loại thần sát) thì yểu.
Thất sát nên chế phục, đứng một mình thì cường. Trong quỷ gặp quan, ép buộc thái quá.
Sát lộ rõ ràng được hợp mất, ngũ hành ôn hoà thân thiện như ngọn gió xuân. Sát ngầm đến hợp trong tứ trụ, hình thương hai tự mình. Sát và nhận không chế phục, phụ nữ thường gặp tai nạn khi sanh đẻ, đàn ông thì phạm hình phạt.
Nhị đức không bị phá, phụ nữ nhất định hiền lương (tốt lành, có tài đức), đàn ông thường trung hiếu (yêu nước và hiếu thảo).
Tài quan ấn thực, nhất định biểu lộ đức hạnhyeu6 thương, tốt lành.
Kiếp thương tỷ kiêu, khó tránh khỏi tiếng xấu.
Xung quan không có hợp, chính là bè đãng trôi nổi. Mã lạc không vong là bọn mất hồn vía.
Lệnh tháng gặp xung, quá phòng, xa rời quê tổ. Quan ấn gặp thiên thứ xuất (con vợ lẽ) nghiệt sanh (con vợ thứ hoặc dòng phụ).
Can đầu diệt liệt (hy sinh vì chính nghĩa mà mất), chịu đựng được tật quát tháo của Bá Ngưu. Ngày giờ xung hình, khó tránh khỏi rơi nước mắt vì dự liệu cùa người buôn bán. Lục hư (sáu phương hướng) đến với ất hợi, học trò Mạnh Hạo Nhiên có văn chương.
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要二
详六亲者,从象而推之。审富贵者,官禄而两说。
有禄盛者,鳏寡孤独。有官鬼者,残疾夭寿,身如显化。
自身无气,本性全亏。
假五行成象,平生窘迫,岂得祖宗之财。显福显盈,因犯别房父母。
从象论引用为气,化象论天地相停。
从中有贵有贱,化内有富有贫。
从中贵显得时,而位列朝中。
化内成局运,转而成封帝侧。
从象衰,而至老驱驱。化象伏,而平生禄禄。
又曰看子平之法,专论财官,以月上财官为紧要。发觉在于日时,要消详于强弱。
论财官不论格局,论格局不论财官。入格者非富即贵,不入格者非贫即夭。
一格二格非卿即相,三格四格财官不纯。非刑卒,多是九流。
官怕伤、财怕劫、印绶见财,愈多愈灾。
伤官见官,原有者重,原无者轻。重者迁徙,轻者刑责。
年上伤官,父母不全。月上伤官,兄弟不完。
日上伤官,难为妻妾。时上伤官,子孙无传。
岁月伤官劫财,生于贫贱之家,或是庶出。
日时伤官劫财,伤损子孙,主无晚福。
官煞混杂,为人好色多淫,做事小巧寒贱。有财印者吉,无财印者凶。
劫财败财,心高下贱,为人贪婪。
正财月令,勤俭悭吝。柱有劫财,比刃多者,刑父母伤妻妾,不聚财。
商贾须观落地之财,宰相须看得时正禄。
七杀枭重,走偏他乡之客。伤官劫财,瞒心负赖之徒。重犯奇仪者贵。重犯亡神者夭。
七杀宜制,独立为强。鬼中逢官,逼迫太甚。
明杀合去,五行和气春风。暗杀合来四柱,刑伤害己。煞刃无制,女多产厄,男犯刑名。
二德无破,女必贤良,男多忠孝。
财官印食,定显慈祥之德。
劫伤比枭,难逃寡恶之名。
冲官无合,乃漂流之徒。坐马落空,是落魄之辈。
月令逢冲,过房离祖。官印遇偏,庶出孽生。
干头灭烈,堪嗟伯牛之疾。时日冲刑,难免卜商之泣。六虚临于乙亥,孟浩然徒有文章。
.
vu hàm toát yếu nhị
Hiểu rõ lục thân, thuận theo tượng mà suy xét. Đánh giá phú quý, có hai chủ trương: chức vị và bỗng lộc.
Người có lộc thịnh vượng, goá vợ goá chồng cô độc. Người có quan quỷ , tàn tật và chết trẻ, thân như thể hiện thay đổi.
Bản thân vốn không có khí lực, bản tính hoàn toàn thiệt thòi.
Nếu ngũ hành thành tượng cả đời khốn quẫn, bức bách, làm sao được tài sản của tổ tiên. Hiển lộ phúc lành , thịnh vượng do xúc phạm cha mẹ ở phòng khác.
Luận tòng tượng dẫn dắt dụng thần thành khí, luận hoá tượng thì trời đất ổn thoả nhau.
Trong tòng có sang có hèn, trong hoá có giàu có nghèo.
Trong tòng quý hiển đắc thời nên có chức vị trong triều đình.
Trong hoá thành cục vận, biến thành phong (đắp đất cao làm mộ) đế (thời Tam Đại gọi vua đã chết là đế 帝) trắc
Tòng tượng suy nên đến già còn bôn ba. Hoá tượng phục nên cả đời thịnh vượng.
Lại nói phép xem tử bình, chuyên luận tài quan, lấy tài quan ở tháng là quan trọng nhất. Tìm ra ở ngày giờ, cần phải hiểu rõ cường nhược.
Luận tài quan thì không luận cách cục, luận cách cục thì không luận tài quan. Người hợp cách không giàu cũng sang, còn không hợp cách thì chẳng nghèo cũng yểu.
Cách một cách hai chẳng phải khanh (tên chức quan. § Ngày xưa có quan chánh khanh 正卿, quan thiếu khanh 少卿) cũng là tướng, cách ba cách bốn tài quan không thành thực. Chẳng bị hình chết, thường là cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家).
Quan sợ thương, tài sợ kiếp, ấn thụ gặp tài càng nhiều càng tai hoạ.
Thương quan kiến quan vốn có thì nặng, vốn không có thì nhẹ. Nặng thì dời chuyển lưu đày, nhẹ thì trách phạt.
Thương quan trên trụ năm cha mẹ không còn đủ. Thương quan trên trụ tháng anh em không đủ.
Thương quan trên trụ giờ, khó có vợ. Thương quan trụ giờ con cái không truyền lại.
Năm tháng thương quan kiếp tài, sanh ở nhà nghèo hèn, hoặc là con vợ lẽ.
Ngày giờ thương quan kiếp tài thương tổn con cái, chủ không có phúc cuối đời.
Quan sát hỗn tạp là người hiếu sắc dâm đãng, làm việc tiểu xảo (giả dối) hèn tiện (nghèo nàn rẽ tiền). Người có tài ấn thì tốt, không tài ấn thì xấu.
Kiếp tài bại tài tâm cao ngạo hạ tiện, là người tham lam.
Lệnh tháng chánh tài, chăm chỉ, dẻ sẻn, keo kiệt. Trụ có kiếp tài tỷ nhận nhiều, làm khổ cha mẹ tổn hại vợ , tiền tài không giữ được.
Người buôn bán cần xem đất suy bại của tài, còn quan chức cần xem được thởi chánh lộc.
Thất sát kiêu thần nhiều, chạy đến nơi xa xôi làm khách tha hương. Thương quan kiếp tài, là lũ lừa dối, phụ ơn. Trùng phạm kỳ nghi (phép tắc đặc biệt) thì quý. Trùng phạm vong thần (một loại thần sát) thì yểu.
Thất sát nên chế phục, đứng một mình thì cường. Trong quỷ gặp quan, ép buộc thái quá.
Sát lộ rõ ràng được hợp mất, ngũ hành ôn hoà thân thiện như ngọn gió xuân. Sát ngầm đến hợp trong tứ trụ, hình thương hai tự mình. Sát và nhận không chế phục, phụ nữ thường gặp tai nạn khi sanh đẻ, đàn ông thì phạm hình phạt.
Nhị đức không bị phá, phụ nữ nhất định hiền lương (tốt lành, có tài đức), đàn ông thường trung hiếu (yêu nước và hiếu thảo).
Tài quan ấn thực, nhất định biểu lộ đức hạnhyeu6 thương, tốt lành.
Kiếp thương tỷ kiêu, khó tránh khỏi tiếng xấu.
Xung quan không có hợp, chính là bè đãng trôi nổi. Mã lạc không vong là bọn mất hồn vía.
Lệnh tháng gặp xung, quá phòng, xa rời quê tổ. Quan ấn gặp thiên thứ xuất (con vợ lẽ) nghiệt sanh (con vợ thứ hoặc dòng phụ).
Can đầu diệt liệt (hy sinh vì chính nghĩa mà mất), chịu đựng được tật quát tháo của Bá Ngưu. Ngày giờ xung hình, khó tránh khỏi rơi nước mắt vì dự liệu cùa người buôn bán. Lục hư (sáu phương hướng) đến với ất hợi, học trò Mạnh Hạo Nhiên có văn chương.
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要二
详六亲者,从象而推之。审富贵者,官禄而两说。
有禄盛者,鳏寡孤独。有官鬼者,残疾夭寿,身如显化。
自身无气,本性全亏。
假五行成象,平生窘迫,岂得祖宗之财。显福显盈,因犯别房父母。
从象论引用为气,化象论天地相停。
从中有贵有贱,化内有富有贫。
从中贵显得时,而位列朝中。
化内成局运,转而成封帝侧。
从象衰,而至老驱驱。化象伏,而平生禄禄。
又曰看子平之法,专论财官,以月上财官为紧要。发觉在于日时,要消详于强弱。
论财官不论格局,论格局不论财官。入格者非富即贵,不入格者非贫即夭。
一格二格非卿即相,三格四格财官不纯。非刑卒,多是九流。
官怕伤、财怕劫、印绶见财,愈多愈灾。
伤官见官,原有者重,原无者轻。重者迁徙,轻者刑责。
年上伤官,父母不全。月上伤官,兄弟不完。
日上伤官,难为妻妾。时上伤官,子孙无传。
岁月伤官劫财,生于贫贱之家,或是庶出。
日时伤官劫财,伤损子孙,主无晚福。
官煞混杂,为人好色多淫,做事小巧寒贱。有财印者吉,无财印者凶。
劫财败财,心高下贱,为人贪婪。
正财月令,勤俭悭吝。柱有劫财,比刃多者,刑父母伤妻妾,不聚财。
商贾须观落地之财,宰相须看得时正禄。
七杀枭重,走偏他乡之客。伤官劫财,瞒心负赖之徒。重犯奇仪者贵。重犯亡神者夭。
七杀宜制,独立为强。鬼中逢官,逼迫太甚。
明杀合去,五行和气春风。暗杀合来四柱,刑伤害己。煞刃无制,女多产厄,男犯刑名。
二德无破,女必贤良,男多忠孝。
财官印食,定显慈祥之德。
劫伤比枭,难逃寡恶之名。
冲官无合,乃漂流之徒。坐马落空,是落魄之辈。
月令逢冲,过房离祖。官印遇偏,庶出孽生。
干头灭烈,堪嗟伯牛之疾。时日冲刑,难免卜商之泣。六虚临于乙亥,孟浩然徒有文章。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#349
Gửi vào 01/10/2024 - 09:01
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
vu hàm toát yếu tam
Tam tài hội tụ ở nhâm thìn, Thạch Quý Luân đam mê vàng ngọc.
Có văn mà không có ấn, Giả Nghĩa hàng phục ở Trường Sa.
Có ấn mà không có văn, Lý Tư Chuyên bị đuổi đi xa.
Người có hình nhiều là người bất nghĩa. Người có hợp nhiều thì người mới hay cũ đều thân.
Hợp nhiều chủ tối tăm, xung nhiều chủ hung. Thìn nhiều thích chiến đấu. Tuất nhiều ưa tranh tụng.
Thìn tuất khôi cương thường là hung ít khi tốt. Ngày giờ không vong khó có
Lưng cõng dịch mã xa cách quê tổ. Tài quan hỗn tạp vì cơm áo phải bôn ba.
Ấn thụ bị tổn hại danh lợi thành bại. Thiên trù (thực thần) gặp kiêu thần bỗng lộc thiệt thòi tổn thất. .
Thương quan gặp dương nhận kiếp tài, suốt ngày lo việc ăn uống.
Đắc chí chánh quan gặp vận thất sát tổn hại, một đời bận rộn tìm sự sống còn.
Tài quan khiến quý nhân thương tình, sát thương quan khiến tiểu nhân xấu hổ.
Quan không bị xung phá, chức tước và bỗng lộc chỉ vượt trội. Tài ít kiếp bị tổn hại, danh lợi có đủ.
Quan ần ở đất hình tù, lòng không yên bản thân bận rộn.
Ngày giờ ở nơi mộ của quỷ buồn nhiều vui ít.
Phúc không phúc, e rằng tốt lành lại bị tổn hại. Thành không thành là trong cách đới sát.
Tài quan đều vượng chủ trì lễ hội. Sát nhận cùng sáng tỏ, nắm giữ binh quyền.
Quan là gốc nâng đỡ cho mình, quan ở trường sanh nên giàu học vấn.
Tài là nguồn dưỡng mệnh, tài gặp vượng xứ nên tiền của dồi dào.
Tài quan và ấn thụ ba điều tốt lành, không thể không gặp. Kiếp nhận thương sát bốn thứ hung xấu, không thể không sợ.
Ấn tới thiên ất, nhân ban thưởng thời thịnh vượng. Tài ẩn quan khố tích chứa vật báo hiếm có.
Tam kỳ quý nhân gặp lúc sanh, từ quán học đường rõ ràng tốt đẹp ít có trong đời.
Quý nhân nếu gặp lộc mã đến, ví thử huân chương vàng cũng không đủ.
Quan quý nếu gặp tài quan trợ giúp, trùng phạm kỳ nghi nên là tể phụ (chức quan đứng đầu giúp đỡ vua).
Không làm khách bồng lai (núi tiên ở trong biển Bột Hải) tam đảo (chỉ ba hòn núi ở biển Bột Hải ), cũng cần điện vàng thềm ngọc để đi.
Lộc mã hỗ trợ nhau, tất cả vượt qua đầu đen công tướng (tước Công, tước to nhất trong năm tước Công Hầu Bá Tử Nam).
Đới hình phá, cuối cùng chỉ là bạch diện thư sanh (chỉ người chỉ biết đọc sách, kiến thức nông cạn, thiếu lịch duyệt).
Có ấn mà không có quan, phát không được chấp nhận nhanh chóng.
Có quan mà không có ấn, khó được danh tiếng vẻ vang rực rỡ.
Tài quan đới ấn, tích chứa ngọc vàng. Thiên chánh gặp tài kho vựa đầy tràn.
Ấn thụ yên gấm ghì cương ngựa, quan quý đai ngọc cá vàng.
Hung chẳng hung ở dương nhận, hoạ chẳng hoạ ở thương quan.
Vận gặp dương nhận kiếp bại, tài sản tiêu tan.
Dương nhận nếu cùng sanh khí (đạo giáo nhận rằng khí từ nửa đêm tới giữa trưa là sanh khí 生氣, để phân biệt với tử khí 死氣 từ giữa ngày tới nửa đêm), nắm quyền ở ngoài biên ải.
Thương quan bị hợp tổn vợ hại con. Thương quan đới nhận khắc cha tổn mẹ.
Quan tàng sát hiện, nhất định gặp hoạ không bất ngờ.
Sát lặn quan sáng nên ứng quyền của chư hầu phụ tá.
Ít vui nhiều buồn quan tinh lại đới kiếp tài.
Người thân chia lìa, cô loan (một loại thần sát) gặp lại thương sát.
Tam hình lục hại xung kích thì khó được xuất chúng, vượt trội.
Cô thần (một loại thần sát) cách góc và gặp lại thì thường chủ nghèo và yểu.
Được hưởng đầy đủ cái sẵn có, ra ngoài liền được tài lộc. Cả đời hiu quạnh, đi vận với mệnh phải triển khai riêng biệt.
Có quan mà không bỗng lộc, chánh quan ở trụ tháng bị thương.
Có tài mà không được hưởng, trong trụ có kiếp tài chia cắt và tranh đoạt.
Lộc mã trước gặp ở tháng sanh, âm đức (sự việc ở hậu cung vua) vinh hoa. Nếu ngày giờ gắp lại tài quan, chính là gặp mà không gặp.
Lại nói trong bốn tượng ẩn nấp trong thổ nên thành. Trong ngũ hành thiên can tú mỹ thì vẻ vang.
Hợi mão mùi thêm vẻ vang giáp ất; dần ngọ tuất tụ phúc bính đinh. Nhâm quý mừng sanh nhuận hạ, canh tân ưa gặp tòng cách, mậu kỷ hớn hở gặp bốn tháng cuối mùa.
Thuỷ nhuận hạ thì văn học quý hiển, thổ giá sắc thì phú quý kinh thương (làm nghề buôn bán).
Giáp ất sanh mùa xuân ôm ấp lòng nhân đức. Bính đinh tụ họp mùa hạ, giữ trong lòng tài biện bạch rõ ràng.
Kim mùa thu thì bản tính cứng cỏi quả quyết, thuỷ mùa đông thì đầy đủ thông minh và nhiều mưu kế.
Mộc thịnh vượng mà không có kim, tuy rằng nhân từ nhưng không thành tạo hoá.
Hoả vượng mộc suy, cho dù có học vấn cũng khó đạt được quý hiển.
Thuỷ nhiều gặp thổ là công tạo thành đê phòng nước lụt.
Môc thịnh gặp kim là đức hạnh của người có tài gánh vác việc nước.
Thuỷ hoả ổn thoả nhau thành ký tế, thổ gặp mộc vượng là giá sắc (canh tác).
Kim hoả khí bằng nhau, đúc thành vũ khí sắc bén.
Ngũ hành tạo hoá đều do quỷ mà thành công.
Mộc bại thì không nhân từ mà làm điều xằng bậy, kim suy thì ít nghĩa cũng vô ân.
Hoả diệt (lửa tắt) là lũ vô lễ, thuỷ trọc (nước đục) là người mất trí.
Thổ gặp mộc khắc lời nói thường không đáng tin. Kim quỷ háo sắc, thuỷ thịnh vượng thường dâm đảng.
Ngày vượng vẫn phải tự lập, hiểu rõ thêm trên dưới tốt xấu.
Mộ suy cả đời cô lập, sanh vượng một đời vượt trội.
Năm tháng phù trợ nhau, nhờ tổ tiên mà phát. Ngày giờ xung nhau vợ con không có kết quả.
Trên dưới hợp nhau nhưng không hại, qua lại khắc chiến nhiều lo lắng.
Lộc mã giờ khắc ngày phá chức vị cuối cùng phải rút lui.
Ngày vượng giờ cường tụ hội ưu tú, không có phúc lành cũng được hoạnh phát.
Tháng gặp tổn hại giờ đắc địa, tài vận tự có thể thành tựu.
Tháng gặp tuyệt tổn hại giờ đối xung, nhất định ba lần dời đổi chỗ ở.
Sanh nhằm đất suy tuổi thơ gian khổ khó khăn, tháng ở nơi vượng, tuổi già không khó.
Giờ suy ngày đẹp có khởi đầu mà không kết thúc. Tháng nhược giờ cường tuổi già vinh hiển.
Nguyên khí cường vượng, tuy chưa thành đạt cuối cùng cũng hiển lộ công danh.
Cơ bản hưu tù, cho dù đắc địa cũng khó thành giàu sang.
Nếu thiên nguyên yếu đuối, mệnh không được cứu, bỗng nhiên bổn chủ hưu tù, nghèo khó không có đất đai.
Khí vượng gặp phải tổn hại, tuy là gặp nguy hiểm nhưng luôn được cứu giúp.
Khí bại gặp sanh, cho dù đắc địa cả một đời không thành công.
Ngũ hành thất địa, đừng nói đến lộc mã đồng hương.
Tứ trụ không nơi trở về khó luận là tài quan song mỹ.
Lấy ngày khắc làm vợ, vợ sanh làm con. Xét chỗ sanh vượng của nó, biết được chỗ nó tử tuyệt.
Giờ ở vượng xứ nên nhiều con, giờ ở nơi bại thì không con nối dõi.
Nam gặp hai vị trí tài thì có thêm nàng hầu (ngày nay là vợ bé). Nếu gặp hợp xứ phùng lộc, nhất định mang theo vẻ vang của vợ.
Đất tài gặp hợp, bản thân thành tựu nương tựa vào vợ.
Can dương trên dưới gặp hợp, dễ được nhiều vợ. Trong hợp gặp thêm sanh khí, vợ và vợ bé hiền lương.
Tứ trụ lần lượt hỗ tương bản thân, thường sa h ra vui mừng. Ngũ hành qua lại hại nhau, đều chủ không hợp với lẽ phải.
Tài thất địa, nên con dường kinh doanh theo ngã rẻ. Thân rất vượng sẽ là nghề cửu lưu thuật sĩ.
Hoả tụ thuỷ đức hình nhau, là tăng phản phục. Thuỷ gặp thổ vượng sát hại nhau, là đường đi không có điểm cuối.
Hoả sáng mộc đẹp, tuổi thơ hiển đạt ở triều đình. Hoả nóng thuỷ cố (lâu năm) cả đời kiếm tiền ở phố chợ.
Kim bạch thuỷ thanh thường hiển đạt, quỷ gặp quan chủ nghèo túng quẫn bách.
Dưới tài gặp tài giàu mà keo kiệt.
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要三
三才会于壬辰,石季伦恣情金玉。
有文无印,贾谊屈于长沙。
有印无文,李斯专于上蔡。
刑多者,为人不义。合多者,疏背皆亲。
合多主晦,冲多主凶。辰多好斗。戌多好讼。
辰戌魁罡,多凶少吉。日时空亡,难为妻子。
背驼驿马,离别乡土。混杂财官,奔走衣食。
印绶遭伤,名利成败。天厨逢枭,食禄亏盈。
伤官遇羊刃劫财,营食终日。
区区正官逢七煞剥伤,求生一世忙忙。
财官招上贵之怜,煞伤虑小人之耻。
官无冲破,爵禄独显。财少伤劫,名利双全。
官印在刑囚之地,心乱身忙。
日时在鬼墓之乡,忧多乐少。
福不福,恐吉还遭伤。成不成,是格中带煞。
财官两旺兮,主持节钺。煞刃交显兮,掌握兵权。
官是扶身之本,官在长生须富学。
财为养命之源,财逢旺处足钱帛。
财官印绶三吉,不可不逢。劫刃伤煞四凶,不可不畏。
印临天乙,受盛世之封。财藏官库,畜希异之宝。
三奇贵人见生时,馆学清华世所希。
贵人若逢禄马来,设使金章未为足。
官贵若逢财官助,重犯奇仪须宰辅。
不作蓬莱三岛客,也须金殿玉阶行。
互禄互马,共羡黑头公相。
带刑带破,终为白面书生。
有印无官,发不在迅速之内。
有官无印,难求乎荣显之名。
财官带印,积玉堆金。偏正逢财,仓盈库满。
印绶锦鞍勒马,官贵玉带金鱼。
凶莫凶于羊刃,祸莫祸于伤官。
运逢羊刃劫败,财物耗散。
羊刃倘同生气,关外持权。
伤官被合,妨妻害子。伤官带刃,克爷损娘。
官藏煞见,定招非横之灾。
煞没官明,当膺藩辅之柄。
少乐多忧,官星又带劫财。
骨肉分离,孤鸾再遇伤煞。
三刑六害冲击者,难得峥嵘。
孤辰隔角重见者,多主贫夭。
享用现成,出门便行财禄。一生寂寞,行运与命分张。
有官而不食禄,月上正官被伤。
有财而不得享,柱中劫财分夺。
禄马先逢于生月,阴德荣华。若日时再见财官,此乃遇而不遇。
又曰四象之中,隐土而成。五行之内,干秀为荣。
亥卯未滋荣甲乙,寅午戌聚福丙丁。壬癸喜生润下,、庚辛爱见从革,戊己忻逢四季。
水润下兮文学贵显,土稼穑兮富贵经商。
春生甲乙,抱怀仁德之心。夏聚丙丁,胸藏明辨之才。
秋金兮性多刚毅,冬水兮智足权谋。
木盛无金,虽仁不成造化。
火旺木衰,纵学难得贵显。
水多遇土,成堤岸之功。
木盛逢金,作栋梁之美。
水火相停成既济,土逢木旺为稼穑。
金火气均,炼出锋刃之器。
五行造化,皆因鬼而成功。
木败不仁而妄作,金衰寡义亦无恩。
火灭无礼之辈,水浊失智之人。
土遭木克,言常失信。金鬼好杀,水盛多淫。
日旺仍须自立,更详上下吉凶。
衰墓平生孤立,生旺一世峥嵘。
岁月相扶,因祖而发。时日相冲,妻子无功。
上下相合而无害,往来克战乃多忧。
禄马时克日破,职位终须退剥。
日旺时强聚秀,无福亦须横发。
月逢伤害时得地,财运自能成立。
月遇绝伤时对冲,门户定有三迁。
生逢衰地,幼岁艰难,月在旺乡,晚年不足。
时衰日秀,有始无终。月弱时强,晚年荣显。
元气强旺,虽未达终显功名。
基本休囚,纵得地难成富贵。
若夫天元赢弱,命不再苏,忽值本主休囚,贫寒无地。
气旺遭伤,虽遇险终身有救。
气败逢生,纵得地一世无成。
五行失地,休言禄马同乡。
四柱无归,难论财官双美。
以日克者为妻,妻生者为子。考其生旺,定其死绝。
时临旺处须多儿,时在败乡必绝嗣。
男逢两位之财,必须置妾。若遇合处逢禄,定挟妻荣。
财乡见合,立身倚妻。
阳干上下逢合,妻多易得。合中更遇生气,妻妾贤良。
四柱递互相亲,多生喜庆。五行往来相害,皆主不义。
财失地,而岐路经商。身旺甚,则九流术业。
火聚水德相刑,为僧反复。水逢土旺相残,为道无终。
火明木秀,幼年显达朝廷。火炎水凅,终身求财市井。
金白水清多显达,鬼位逢官主困穷。
财下见财,富而悭吝。
.
vu hàm toát yếu tam
Tam tài hội tụ ở nhâm thìn, Thạch Quý Luân đam mê vàng ngọc.
Có văn mà không có ấn, Giả Nghĩa hàng phục ở Trường Sa.
Có ấn mà không có văn, Lý Tư Chuyên bị đuổi đi xa.
Người có hình nhiều là người bất nghĩa. Người có hợp nhiều thì người mới hay cũ đều thân.
Hợp nhiều chủ tối tăm, xung nhiều chủ hung. Thìn nhiều thích chiến đấu. Tuất nhiều ưa tranh tụng.
Thìn tuất khôi cương thường là hung ít khi tốt. Ngày giờ không vong khó có
Lưng cõng dịch mã xa cách quê tổ. Tài quan hỗn tạp vì cơm áo phải bôn ba.
Ấn thụ bị tổn hại danh lợi thành bại. Thiên trù (thực thần) gặp kiêu thần bỗng lộc thiệt thòi tổn thất. .
Thương quan gặp dương nhận kiếp tài, suốt ngày lo việc ăn uống.
Đắc chí chánh quan gặp vận thất sát tổn hại, một đời bận rộn tìm sự sống còn.
Tài quan khiến quý nhân thương tình, sát thương quan khiến tiểu nhân xấu hổ.
Quan không bị xung phá, chức tước và bỗng lộc chỉ vượt trội. Tài ít kiếp bị tổn hại, danh lợi có đủ.
Quan ần ở đất hình tù, lòng không yên bản thân bận rộn.
Ngày giờ ở nơi mộ của quỷ buồn nhiều vui ít.
Phúc không phúc, e rằng tốt lành lại bị tổn hại. Thành không thành là trong cách đới sát.
Tài quan đều vượng chủ trì lễ hội. Sát nhận cùng sáng tỏ, nắm giữ binh quyền.
Quan là gốc nâng đỡ cho mình, quan ở trường sanh nên giàu học vấn.
Tài là nguồn dưỡng mệnh, tài gặp vượng xứ nên tiền của dồi dào.
Tài quan và ấn thụ ba điều tốt lành, không thể không gặp. Kiếp nhận thương sát bốn thứ hung xấu, không thể không sợ.
Ấn tới thiên ất, nhân ban thưởng thời thịnh vượng. Tài ẩn quan khố tích chứa vật báo hiếm có.
Tam kỳ quý nhân gặp lúc sanh, từ quán học đường rõ ràng tốt đẹp ít có trong đời.
Quý nhân nếu gặp lộc mã đến, ví thử huân chương vàng cũng không đủ.
Quan quý nếu gặp tài quan trợ giúp, trùng phạm kỳ nghi nên là tể phụ (chức quan đứng đầu giúp đỡ vua).
Không làm khách bồng lai (núi tiên ở trong biển Bột Hải) tam đảo (chỉ ba hòn núi ở biển Bột Hải ), cũng cần điện vàng thềm ngọc để đi.
Lộc mã hỗ trợ nhau, tất cả vượt qua đầu đen công tướng (tước Công, tước to nhất trong năm tước Công Hầu Bá Tử Nam).
Đới hình phá, cuối cùng chỉ là bạch diện thư sanh (chỉ người chỉ biết đọc sách, kiến thức nông cạn, thiếu lịch duyệt).
Có ấn mà không có quan, phát không được chấp nhận nhanh chóng.
Có quan mà không có ấn, khó được danh tiếng vẻ vang rực rỡ.
Tài quan đới ấn, tích chứa ngọc vàng. Thiên chánh gặp tài kho vựa đầy tràn.
Ấn thụ yên gấm ghì cương ngựa, quan quý đai ngọc cá vàng.
Hung chẳng hung ở dương nhận, hoạ chẳng hoạ ở thương quan.
Vận gặp dương nhận kiếp bại, tài sản tiêu tan.
Dương nhận nếu cùng sanh khí (đạo giáo nhận rằng khí từ nửa đêm tới giữa trưa là sanh khí 生氣, để phân biệt với tử khí 死氣 từ giữa ngày tới nửa đêm), nắm quyền ở ngoài biên ải.
Thương quan bị hợp tổn vợ hại con. Thương quan đới nhận khắc cha tổn mẹ.
Quan tàng sát hiện, nhất định gặp hoạ không bất ngờ.
Sát lặn quan sáng nên ứng quyền của chư hầu phụ tá.
Ít vui nhiều buồn quan tinh lại đới kiếp tài.
Người thân chia lìa, cô loan (một loại thần sát) gặp lại thương sát.
Tam hình lục hại xung kích thì khó được xuất chúng, vượt trội.
Cô thần (một loại thần sát) cách góc và gặp lại thì thường chủ nghèo và yểu.
Được hưởng đầy đủ cái sẵn có, ra ngoài liền được tài lộc. Cả đời hiu quạnh, đi vận với mệnh phải triển khai riêng biệt.
Có quan mà không bỗng lộc, chánh quan ở trụ tháng bị thương.
Có tài mà không được hưởng, trong trụ có kiếp tài chia cắt và tranh đoạt.
Lộc mã trước gặp ở tháng sanh, âm đức (sự việc ở hậu cung vua) vinh hoa. Nếu ngày giờ gắp lại tài quan, chính là gặp mà không gặp.
Lại nói trong bốn tượng ẩn nấp trong thổ nên thành. Trong ngũ hành thiên can tú mỹ thì vẻ vang.
Hợi mão mùi thêm vẻ vang giáp ất; dần ngọ tuất tụ phúc bính đinh. Nhâm quý mừng sanh nhuận hạ, canh tân ưa gặp tòng cách, mậu kỷ hớn hở gặp bốn tháng cuối mùa.
Thuỷ nhuận hạ thì văn học quý hiển, thổ giá sắc thì phú quý kinh thương (làm nghề buôn bán).
Giáp ất sanh mùa xuân ôm ấp lòng nhân đức. Bính đinh tụ họp mùa hạ, giữ trong lòng tài biện bạch rõ ràng.
Kim mùa thu thì bản tính cứng cỏi quả quyết, thuỷ mùa đông thì đầy đủ thông minh và nhiều mưu kế.
Mộc thịnh vượng mà không có kim, tuy rằng nhân từ nhưng không thành tạo hoá.
Hoả vượng mộc suy, cho dù có học vấn cũng khó đạt được quý hiển.
Thuỷ nhiều gặp thổ là công tạo thành đê phòng nước lụt.
Môc thịnh gặp kim là đức hạnh của người có tài gánh vác việc nước.
Thuỷ hoả ổn thoả nhau thành ký tế, thổ gặp mộc vượng là giá sắc (canh tác).
Kim hoả khí bằng nhau, đúc thành vũ khí sắc bén.
Ngũ hành tạo hoá đều do quỷ mà thành công.
Mộc bại thì không nhân từ mà làm điều xằng bậy, kim suy thì ít nghĩa cũng vô ân.
Hoả diệt (lửa tắt) là lũ vô lễ, thuỷ trọc (nước đục) là người mất trí.
Thổ gặp mộc khắc lời nói thường không đáng tin. Kim quỷ háo sắc, thuỷ thịnh vượng thường dâm đảng.
Ngày vượng vẫn phải tự lập, hiểu rõ thêm trên dưới tốt xấu.
Mộ suy cả đời cô lập, sanh vượng một đời vượt trội.
Năm tháng phù trợ nhau, nhờ tổ tiên mà phát. Ngày giờ xung nhau vợ con không có kết quả.
Trên dưới hợp nhau nhưng không hại, qua lại khắc chiến nhiều lo lắng.
Lộc mã giờ khắc ngày phá chức vị cuối cùng phải rút lui.
Ngày vượng giờ cường tụ hội ưu tú, không có phúc lành cũng được hoạnh phát.
Tháng gặp tổn hại giờ đắc địa, tài vận tự có thể thành tựu.
Tháng gặp tuyệt tổn hại giờ đối xung, nhất định ba lần dời đổi chỗ ở.
Sanh nhằm đất suy tuổi thơ gian khổ khó khăn, tháng ở nơi vượng, tuổi già không khó.
Giờ suy ngày đẹp có khởi đầu mà không kết thúc. Tháng nhược giờ cường tuổi già vinh hiển.
Nguyên khí cường vượng, tuy chưa thành đạt cuối cùng cũng hiển lộ công danh.
Cơ bản hưu tù, cho dù đắc địa cũng khó thành giàu sang.
Nếu thiên nguyên yếu đuối, mệnh không được cứu, bỗng nhiên bổn chủ hưu tù, nghèo khó không có đất đai.
Khí vượng gặp phải tổn hại, tuy là gặp nguy hiểm nhưng luôn được cứu giúp.
Khí bại gặp sanh, cho dù đắc địa cả một đời không thành công.
Ngũ hành thất địa, đừng nói đến lộc mã đồng hương.
Tứ trụ không nơi trở về khó luận là tài quan song mỹ.
Lấy ngày khắc làm vợ, vợ sanh làm con. Xét chỗ sanh vượng của nó, biết được chỗ nó tử tuyệt.
Giờ ở vượng xứ nên nhiều con, giờ ở nơi bại thì không con nối dõi.
Nam gặp hai vị trí tài thì có thêm nàng hầu (ngày nay là vợ bé). Nếu gặp hợp xứ phùng lộc, nhất định mang theo vẻ vang của vợ.
Đất tài gặp hợp, bản thân thành tựu nương tựa vào vợ.
Can dương trên dưới gặp hợp, dễ được nhiều vợ. Trong hợp gặp thêm sanh khí, vợ và vợ bé hiền lương.
Tứ trụ lần lượt hỗ tương bản thân, thường sa h ra vui mừng. Ngũ hành qua lại hại nhau, đều chủ không hợp với lẽ phải.
Tài thất địa, nên con dường kinh doanh theo ngã rẻ. Thân rất vượng sẽ là nghề cửu lưu thuật sĩ.
Hoả tụ thuỷ đức hình nhau, là tăng phản phục. Thuỷ gặp thổ vượng sát hại nhau, là đường đi không có điểm cuối.
Hoả sáng mộc đẹp, tuổi thơ hiển đạt ở triều đình. Hoả nóng thuỷ cố (lâu năm) cả đời kiếm tiền ở phố chợ.
Kim bạch thuỷ thanh thường hiển đạt, quỷ gặp quan chủ nghèo túng quẫn bách.
Dưới tài gặp tài giàu mà keo kiệt.
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要三
三才会于壬辰,石季伦恣情金玉。
有文无印,贾谊屈于长沙。
有印无文,李斯专于上蔡。
刑多者,为人不义。合多者,疏背皆亲。
合多主晦,冲多主凶。辰多好斗。戌多好讼。
辰戌魁罡,多凶少吉。日时空亡,难为妻子。
背驼驿马,离别乡土。混杂财官,奔走衣食。
印绶遭伤,名利成败。天厨逢枭,食禄亏盈。
伤官遇羊刃劫财,营食终日。
区区正官逢七煞剥伤,求生一世忙忙。
财官招上贵之怜,煞伤虑小人之耻。
官无冲破,爵禄独显。财少伤劫,名利双全。
官印在刑囚之地,心乱身忙。
日时在鬼墓之乡,忧多乐少。
福不福,恐吉还遭伤。成不成,是格中带煞。
财官两旺兮,主持节钺。煞刃交显兮,掌握兵权。
官是扶身之本,官在长生须富学。
财为养命之源,财逢旺处足钱帛。
财官印绶三吉,不可不逢。劫刃伤煞四凶,不可不畏。
印临天乙,受盛世之封。财藏官库,畜希异之宝。
三奇贵人见生时,馆学清华世所希。
贵人若逢禄马来,设使金章未为足。
官贵若逢财官助,重犯奇仪须宰辅。
不作蓬莱三岛客,也须金殿玉阶行。
互禄互马,共羡黑头公相。
带刑带破,终为白面书生。
有印无官,发不在迅速之内。
有官无印,难求乎荣显之名。
财官带印,积玉堆金。偏正逢财,仓盈库满。
印绶锦鞍勒马,官贵玉带金鱼。
凶莫凶于羊刃,祸莫祸于伤官。
运逢羊刃劫败,财物耗散。
羊刃倘同生气,关外持权。
伤官被合,妨妻害子。伤官带刃,克爷损娘。
官藏煞见,定招非横之灾。
煞没官明,当膺藩辅之柄。
少乐多忧,官星又带劫财。
骨肉分离,孤鸾再遇伤煞。
三刑六害冲击者,难得峥嵘。
孤辰隔角重见者,多主贫夭。
享用现成,出门便行财禄。一生寂寞,行运与命分张。
有官而不食禄,月上正官被伤。
有财而不得享,柱中劫财分夺。
禄马先逢于生月,阴德荣华。若日时再见财官,此乃遇而不遇。
又曰四象之中,隐土而成。五行之内,干秀为荣。
亥卯未滋荣甲乙,寅午戌聚福丙丁。壬癸喜生润下,、庚辛爱见从革,戊己忻逢四季。
水润下兮文学贵显,土稼穑兮富贵经商。
春生甲乙,抱怀仁德之心。夏聚丙丁,胸藏明辨之才。
秋金兮性多刚毅,冬水兮智足权谋。
木盛无金,虽仁不成造化。
火旺木衰,纵学难得贵显。
水多遇土,成堤岸之功。
木盛逢金,作栋梁之美。
水火相停成既济,土逢木旺为稼穑。
金火气均,炼出锋刃之器。
五行造化,皆因鬼而成功。
木败不仁而妄作,金衰寡义亦无恩。
火灭无礼之辈,水浊失智之人。
土遭木克,言常失信。金鬼好杀,水盛多淫。
日旺仍须自立,更详上下吉凶。
衰墓平生孤立,生旺一世峥嵘。
岁月相扶,因祖而发。时日相冲,妻子无功。
上下相合而无害,往来克战乃多忧。
禄马时克日破,职位终须退剥。
日旺时强聚秀,无福亦须横发。
月逢伤害时得地,财运自能成立。
月遇绝伤时对冲,门户定有三迁。
生逢衰地,幼岁艰难,月在旺乡,晚年不足。
时衰日秀,有始无终。月弱时强,晚年荣显。
元气强旺,虽未达终显功名。
基本休囚,纵得地难成富贵。
若夫天元赢弱,命不再苏,忽值本主休囚,贫寒无地。
气旺遭伤,虽遇险终身有救。
气败逢生,纵得地一世无成。
五行失地,休言禄马同乡。
四柱无归,难论财官双美。
以日克者为妻,妻生者为子。考其生旺,定其死绝。
时临旺处须多儿,时在败乡必绝嗣。
男逢两位之财,必须置妾。若遇合处逢禄,定挟妻荣。
财乡见合,立身倚妻。
阳干上下逢合,妻多易得。合中更遇生气,妻妾贤良。
四柱递互相亲,多生喜庆。五行往来相害,皆主不义。
财失地,而岐路经商。身旺甚,则九流术业。
火聚水德相刑,为僧反复。水逢土旺相残,为道无终。
火明木秀,幼年显达朝廷。火炎水凅,终身求财市井。
金白水清多显达,鬼位逢官主困穷。
财下见财,富而悭吝。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#350
Gửi vào 02/10/2024 - 11:07
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
vu hàm toát yếu tứ
Dương nhận đới sát bị hình, đàn ông gặp cảnh đòn roi.
Tài vượng hình thương cha mẹ, quỷ vượng con cháu vẻ vang.
Tòng hoá kỵ tòng ngược lại gốc, cả đời buồn vui không yên ổn.
Bính tân hoá thuỷ tới nơi thuỷ, chức vị ở triều đình.
Đinh nhâm hoá mộc đến chỗ mộc, thân giữ địa vị tể phụ (đứng đầu các quan phụ giúp vua).
Đông kim tây mộc mà không tòng hoá, cả một đời chỉ được hư danh.
Khi ly nhâm khảm bính đắc vị, đời này lưu lại công nghiệp to lớn.
Dụng thần bại suy đới lộc không thể là phúc lành.
Lộc mã khí vượng gặp quý, hợp chủ vẻ vang.
Có quan mà không có mã nên chức vị nhỏ, có mã mà không có quan nên bản thân thấp hèn.
Tứ trụ sanh vượng, dù không có quan lộc cũng được tuổi thọ.
Ngụ hành bại suy, dù có lộc mã cuối cùng cũng chết yểu.
Khôi cương gặp phải xung khắc thường gặp hình ngục.
Kiến lộc (lộc ở trụ tháng) không có tài hình chế nhất định là nô tỳ.
Dương hoả tử ở mộ tuyệt bản tính hung hãn, bường bỉnh, thường là quan lại tàn ác.
Âm hoả sanh ở trường sanh, dưỡng, là người phong hậu nên là phú hào (người giàu có).
Ngũ hành kỵ mộc dục gặp thương quan, tứ trụ mừng sanh vượng chế phục sát.
Có hại nên nhân thân (người thân thích do quan hệ hôn nhân mà thành) chia lìa, có giao tranh nên gặp phải bệnh tật.
Mộc hoả kỵ gặp thân dậu, rên rỉ vì tai hoạ bệnh tật.
Kim suy sợ gặp hoả vượng, than thở vì bệnh tật tình huống bi thảm.
Giờ đến đất quỷ, không có chế phục thường là nghèo. Vận đến tài quan, không có hình nhất định phát.
Thất sát dương nhận, tiếng tăm, địa vị vẻ vang. Chánh ấn quan tinh hình xung chính là tai hoạ.
Nhâm theo về vị trí cấn, gặp vậy sẽ tích trữ tài sản. Biến sát thành quan, tuổi nhỏ công danh đã hiển đạt.
Ngày mậu tháng ngọ, hoả nhiều nên mừng vận quan hương.
Tam kỳ không có tổn hại, cả đời phú quý. Tài quan bại địa, một đời nghèo nàn thiếu thốn.
Ngày tuy kiến lộc, không gặp tài quan chủ cô độc và nghèo.
Lộc ngày quy thời, không gặp tài ấn cũng khó phát.
Trụ giờ thiên tài, vận đến vị trí của anh em chủ tai hoạ cho vợ.
Trụ giờ dương nhận, năm gặp thiên tài chánh tài gây ra tai hoạ xấu.
Chánh quan trên tháng vượng phú quý co đủ cả hai.
Thiên quan gặp ở trụ giờ, vô tình có tai hoạ.
Tài nương về đất vượng không bị phá, gia đạo thịnh vượng.
Ấn thụ sanh thân không tổn hại, góc nhà sáng rực rỡ.
Có quan không có ấn tức là chẳng phải quan thật sự, Có ấn không có quan, ngược lại trở thành phúc dày.
Đào hoa đới hợp, là người phong lưu nho nhã.
Mây bao quanh ngũ hồ, khách ở thủ dương bị đói.
Thiên can hình địa chi hợp, vui biến thành buồn. Thiên can hợp địa chi hình trong vui mừng nhưng không tốt đẹp.
Nếu không là cửu lưu tăng đạo, nhất định phải vái lạy cha mẹ lần nữa.
Mộ ở trụ giờ là tạp khí gặp chìa khoá, bắt đầu được hiển vinh.
Dương nhận kim thần gặp thất sát nhất định thành đại quý.
Hai thìn giáp góc, là người dân bình thường.
Quả tú cô thần, sống cùng với con khác họ.
Nhâm thuỷ cưởi rồng gặp thìn nhiều, tuổi trẻ thi đậu.
Ất mộc bắt chuột gặp tý nhiều, sớm bước thiềm cung (theo truyền thuyết trên mặt trăng có con cóc — thiềm thừ 蟾蜍 và cây quế — đan quế 丹桂. Về sau mượn dùng thiềm quế 蟾桂 để gọi cung trăng).
Nhật lộc nương về trụ giờ không có quan tinh, yên ngựa bằng gấm
Tháng sanh cho can ngày không có tài khí, đai ngọc cá vàng.
Lục âm triều dương gặp tháng cuối mùa, chỉ lấy ấn để xem.
Lục nhâm xu cấn gặp tháng hợi, nên luận là nghèo.
Cách cục không phá không hình, danh lợi thành tựu.
Quan ấn có thương có tổn chức vị hao tổn và đình chỉ.
Cung vợ yếu đuối mà phạm kiếp tài, vợ sẽ bị tổn hại.
Vị trí anh em yếu mà gặp quan cường, con em sẽ bị tổn lại.
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要四
阳刃带煞被刑,男子身遭鞭配。
财盛刑伤父母,鬼旺后代昌荣。
从化忌从返本,平生哀乐无宁。
丙辛化水到水乡,位列朝廷。
丁壬化木临木位,身居宰辅。
东金西木不从化,一世虚名。
离壬坎丙得位时,平生显迹。
用神败衰带禄,不能为福。
禄马气旺遇贵,合主显荣。
有官无马而职微,有马无官而身贱。
四柱生旺,虽无官禄亦长年。
五行败衰,纵带禄马终夭折。
魁罡相逢冲克,多遭刑狱。
建禄无财刑制,定为奴婢。
阳火死于墓绝,性凶顽,多为酷吏。
阴火生于长养,人丰厚,当为富豪。
五行忌沐浴逢伤,四柱喜生旺制煞。
有害而姻亲散失,遇战而疾病缠身。
木火忌逢申酉,灾病呻吟。
衰金畏遇旺火,苦形悲叹。
时临鬼地,无制多贫。运至财官,无刑必发。
七煞阳刃,名位大显。正印官星,刑冲乃祸。
壬趋艮位,遇之则发资财。变煞为官,幼岁功名显达。
戊日午月,火多而运喜官乡。
三奇无伤,平生富贵。财官败地,一世贫寒。
日虽建禄,不逢财官主孤贫。
日禄归时,不遇财印亦难发。
时上偏财,运至兄弟之位,主妻灾。
时上羊刃,岁遇偏正之财,生凶祸。
正官月上旺,富贵双全。
偏官时上逢,无情有祸。
财归旺地无破,家道兴隆。
印绶生身无伤,门隅光彩。
有官无印,即非真官。有印无官,反成厚福。
桃花带合,风流儒雅之人。
五湖云扰,饿于首阳之客。
干刑支合,乐变为忧。干合支刑,喜中不美。
若不九流僧道,定须重拜爹娘。
墓时杂气逢局钥,始得显荣。
阳刃金神遇七煞,必为大贵。
双辰夹角,偏生庶出之人。
寡宿孤辰,异姓同居之子。
壬水骑龙逢辰多,少登天府。
乙木捕鼠遇子多,早步蟾宫。
日禄归时没官星,锦鞍绣曫。
月生日干无财气,玉带金鱼。
六阴朝阳逢季月,只作印看。
六壬趋艮逢亥月,当以贫论。
格局无破无刑,名利成就。
官印有伤有损,爵位亏停。
妻宫赢弱犯劫财,必损其妻。
兄弟位柔见官强,必伤昆季。
.
vu hàm toát yếu tứ
Dương nhận đới sát bị hình, đàn ông gặp cảnh đòn roi.
Tài vượng hình thương cha mẹ, quỷ vượng con cháu vẻ vang.
Tòng hoá kỵ tòng ngược lại gốc, cả đời buồn vui không yên ổn.
Bính tân hoá thuỷ tới nơi thuỷ, chức vị ở triều đình.
Đinh nhâm hoá mộc đến chỗ mộc, thân giữ địa vị tể phụ (đứng đầu các quan phụ giúp vua).
Đông kim tây mộc mà không tòng hoá, cả một đời chỉ được hư danh.
Khi ly nhâm khảm bính đắc vị, đời này lưu lại công nghiệp to lớn.
Dụng thần bại suy đới lộc không thể là phúc lành.
Lộc mã khí vượng gặp quý, hợp chủ vẻ vang.
Có quan mà không có mã nên chức vị nhỏ, có mã mà không có quan nên bản thân thấp hèn.
Tứ trụ sanh vượng, dù không có quan lộc cũng được tuổi thọ.
Ngụ hành bại suy, dù có lộc mã cuối cùng cũng chết yểu.
Khôi cương gặp phải xung khắc thường gặp hình ngục.
Kiến lộc (lộc ở trụ tháng) không có tài hình chế nhất định là nô tỳ.
Dương hoả tử ở mộ tuyệt bản tính hung hãn, bường bỉnh, thường là quan lại tàn ác.
Âm hoả sanh ở trường sanh, dưỡng, là người phong hậu nên là phú hào (người giàu có).
Ngũ hành kỵ mộc dục gặp thương quan, tứ trụ mừng sanh vượng chế phục sát.
Có hại nên nhân thân (người thân thích do quan hệ hôn nhân mà thành) chia lìa, có giao tranh nên gặp phải bệnh tật.
Mộc hoả kỵ gặp thân dậu, rên rỉ vì tai hoạ bệnh tật.
Kim suy sợ gặp hoả vượng, than thở vì bệnh tật tình huống bi thảm.
Giờ đến đất quỷ, không có chế phục thường là nghèo. Vận đến tài quan, không có hình nhất định phát.
Thất sát dương nhận, tiếng tăm, địa vị vẻ vang. Chánh ấn quan tinh hình xung chính là tai hoạ.
Nhâm theo về vị trí cấn, gặp vậy sẽ tích trữ tài sản. Biến sát thành quan, tuổi nhỏ công danh đã hiển đạt.
Ngày mậu tháng ngọ, hoả nhiều nên mừng vận quan hương.
Tam kỳ không có tổn hại, cả đời phú quý. Tài quan bại địa, một đời nghèo nàn thiếu thốn.
Ngày tuy kiến lộc, không gặp tài quan chủ cô độc và nghèo.
Lộc ngày quy thời, không gặp tài ấn cũng khó phát.
Trụ giờ thiên tài, vận đến vị trí của anh em chủ tai hoạ cho vợ.
Trụ giờ dương nhận, năm gặp thiên tài chánh tài gây ra tai hoạ xấu.
Chánh quan trên tháng vượng phú quý co đủ cả hai.
Thiên quan gặp ở trụ giờ, vô tình có tai hoạ.
Tài nương về đất vượng không bị phá, gia đạo thịnh vượng.
Ấn thụ sanh thân không tổn hại, góc nhà sáng rực rỡ.
Có quan không có ấn tức là chẳng phải quan thật sự, Có ấn không có quan, ngược lại trở thành phúc dày.
Đào hoa đới hợp, là người phong lưu nho nhã.
Mây bao quanh ngũ hồ, khách ở thủ dương bị đói.
Thiên can hình địa chi hợp, vui biến thành buồn. Thiên can hợp địa chi hình trong vui mừng nhưng không tốt đẹp.
Nếu không là cửu lưu tăng đạo, nhất định phải vái lạy cha mẹ lần nữa.
Mộ ở trụ giờ là tạp khí gặp chìa khoá, bắt đầu được hiển vinh.
Dương nhận kim thần gặp thất sát nhất định thành đại quý.
Hai thìn giáp góc, là người dân bình thường.
Quả tú cô thần, sống cùng với con khác họ.
Nhâm thuỷ cưởi rồng gặp thìn nhiều, tuổi trẻ thi đậu.
Ất mộc bắt chuột gặp tý nhiều, sớm bước thiềm cung (theo truyền thuyết trên mặt trăng có con cóc — thiềm thừ 蟾蜍 và cây quế — đan quế 丹桂. Về sau mượn dùng thiềm quế 蟾桂 để gọi cung trăng).
Nhật lộc nương về trụ giờ không có quan tinh, yên ngựa bằng gấm
Tháng sanh cho can ngày không có tài khí, đai ngọc cá vàng.
Lục âm triều dương gặp tháng cuối mùa, chỉ lấy ấn để xem.
Lục nhâm xu cấn gặp tháng hợi, nên luận là nghèo.
Cách cục không phá không hình, danh lợi thành tựu.
Quan ấn có thương có tổn chức vị hao tổn và đình chỉ.
Cung vợ yếu đuối mà phạm kiếp tài, vợ sẽ bị tổn hại.
Vị trí anh em yếu mà gặp quan cường, con em sẽ bị tổn lại.
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要四
阳刃带煞被刑,男子身遭鞭配。
财盛刑伤父母,鬼旺后代昌荣。
从化忌从返本,平生哀乐无宁。
丙辛化水到水乡,位列朝廷。
丁壬化木临木位,身居宰辅。
东金西木不从化,一世虚名。
离壬坎丙得位时,平生显迹。
用神败衰带禄,不能为福。
禄马气旺遇贵,合主显荣。
有官无马而职微,有马无官而身贱。
四柱生旺,虽无官禄亦长年。
五行败衰,纵带禄马终夭折。
魁罡相逢冲克,多遭刑狱。
建禄无财刑制,定为奴婢。
阳火死于墓绝,性凶顽,多为酷吏。
阴火生于长养,人丰厚,当为富豪。
五行忌沐浴逢伤,四柱喜生旺制煞。
有害而姻亲散失,遇战而疾病缠身。
木火忌逢申酉,灾病呻吟。
衰金畏遇旺火,苦形悲叹。
时临鬼地,无制多贫。运至财官,无刑必发。
七煞阳刃,名位大显。正印官星,刑冲乃祸。
壬趋艮位,遇之则发资财。变煞为官,幼岁功名显达。
戊日午月,火多而运喜官乡。
三奇无伤,平生富贵。财官败地,一世贫寒。
日虽建禄,不逢财官主孤贫。
日禄归时,不遇财印亦难发。
时上偏财,运至兄弟之位,主妻灾。
时上羊刃,岁遇偏正之财,生凶祸。
正官月上旺,富贵双全。
偏官时上逢,无情有祸。
财归旺地无破,家道兴隆。
印绶生身无伤,门隅光彩。
有官无印,即非真官。有印无官,反成厚福。
桃花带合,风流儒雅之人。
五湖云扰,饿于首阳之客。
干刑支合,乐变为忧。干合支刑,喜中不美。
若不九流僧道,定须重拜爹娘。
墓时杂气逢局钥,始得显荣。
阳刃金神遇七煞,必为大贵。
双辰夹角,偏生庶出之人。
寡宿孤辰,异姓同居之子。
壬水骑龙逢辰多,少登天府。
乙木捕鼠遇子多,早步蟾宫。
日禄归时没官星,锦鞍绣曫。
月生日干无财气,玉带金鱼。
六阴朝阳逢季月,只作印看。
六壬趋艮逢亥月,当以贫论。
格局无破无刑,名利成就。
官印有伤有损,爵位亏停。
妻宫赢弱犯劫财,必损其妻。
兄弟位柔见官强,必伤昆季。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#351
Gửi vào 03/10/2024 - 12:21
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
vu hàm toát yếu ngũ
Thiên nguyên được mất thất thời, tuổi thọ khó kéo dài. Nhật chủ cao cường hoá quỷ, nên nhận phúc dày.
Ngày vượng mà không có chỗ nương tựa, bỏ quê dời nhà. Nếu không có dời nhà, cũng chết ở đất khác.
Ngày vượng mà không có chỗ nương tựa, tổn tài hại vợ. Nếu không tổn hại vợ, ngoại gia (nhà không chính thức) tan nát.
Chánh quan bị hợp, cả đời danh lợi đều hư ảo.
Thất sát bị hợp, cái hung biến thành tốt.
Sát vượng mà gặp thân suy, vì cái ăn cái mặc phải chạy vạy bôn ba.
Quan nhu lại gặp sát làm loạn, hành tàng tiêu mất.
Tài vượng thân cường, tích trữ của cài. Giả như: giáp thìn giáp tuất lọt vào dần hợi, vàng lụa đầy nhà.
Đinh hợi đinh mão đến dậu hợi, phòng đầy vật báu.
Sáu ngày giáp gặp canh tân, nếu chồng chất sẽ chủ tai ách.
Sáu chữ bính mà thân ở hợi tý, không có chế phục, nhất định là học giả nghèo.
Đi vận được mất, phải xem xét cho thật tỉ mỉ.
Đắc địa mà thất thời như ruộng đất gặp mưa. Được thời mà thất địa như chốt nối liền càng xe với đòn ngang của xe lớn bị tổn hại bởi đường lầy lội.
Được thời thì có thể nhảy vọt, thất địa thì khó lên cao (ý nghĩa là khó lên chức vị).
Cho nên hoả đến phương nam nên vẻ vang, thuỷ đến đất bắc thì vượng.
Thổ đến phương đông nên bệnh, mộc đến tây thì suy, kim vào phương bắc thì chìm.
Sanh ở vượng xứ thì tuyệt ở tử xứ, sanh ở từ xứ thì rơi mất ở vượng xứ.
Tuế vận đều tổn hại nhật chủ, mệnh gặp như thế sẽ huỷ hoại và nguy hiểm.
Vận khí với tổ khí thương tàn, gia đình và cha mẹ đều tổn hại.
Vận thần khắc tuế, hình tụng sẽ đến. tuế khắc vận thần, tai hoạ với nhà nước sẽ phát sanh.
Kim chủ hình thương bởi lưỡi đao, thuỷ chủ chết đuối ở sông hồ. Mộc thì treo cổ tự ải, hổ ngoạm rồng giận.
Hoả thì đêm ngũ áp đảo, đốt chết rắn đau đớn. Thổ chính là tường ngăn thổ sụp đỗ. Ngũ hành sát nhiều, nên hiểu như vậy.
Lại nói: có lý do hó mà không hoá, có cơ hội tụ hội mà không tụ hội, tương tự hợp mà không hợp, chân xác đẹp mà không đẹp.
Hoá mà không hoá tổn hại ở quý, tụ mà không tụ tổn ở tài, hợp mà không hợp tổn hại ở quan, đẹp mà không đẹp tổn hại ở phúc.
Lại có lý do không hoá mà hoá, cơ hội không tụ hội mà tụ hội, quy luật không hợp mà lại hợp, hiệu quả không đẹp mà lại đẹp.
Không hoá mà hoá là nhất định ở quyền quý. Không tụ hội mà tụ hội là kết cục củ giàu có.
Không hợp mà hợp là được thăng chức. Không đẹp mà đẹp là đều ở vị trí hưởng lộc.
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要五
天元赢弱失时,难获延年。日主高强化鬼,当膺厚福。
日旺无依,离祖迁居。若不迁居,死在外地。
日旺无依,损财伤妻。若不伤妻,外家零落。
正官被合,平生名利皆虚。
七煞被合,处世反凶为吉。
煞旺更值身衰,衣食奔走。
官柔又遇煞扰,行藏汨没。
财旺身强,资财迭积。假如:、甲辰甲戌落寅亥,金帛满屋。
丁亥丁卯到酉亥,珍宝盈室。
六甲日遇庚辛,若重多必主灾厄。
六丙身居亥子,无制伏定是贫儒。
行运得失,更当详察。
得地失时,如田畴得雨。得时失地,如輗损涂泥。
得时者亦能举跃,失地者难以升迁。
故火到南方而荣,水临北地而盛。
土到东而病,木至西而衰,金入北而沉。
旺处生而死处灭,死处生而旺处脱。
岁运俱伤日主,遇之命必亏危。
气运与祖气伤残,门户与父母俱损。
运神克岁,刑讼来临。岁克运神,官灾竞起。
金主刀刃刑伤,水主江河覆溺。木则悬梁自缢,虎咬龙嗔。
火则夜眠压倒,焚死蛇伤。土乃墙推土陷。五行煞重,当如此详。
又曰:有化而不化之由,聚而不聚之机,合而不合之类,秀而不秀之实。
化而不化损于贵,聚而不聚损于财,合而不合损于官,秀而不秀损于福。
又有不化而化之因,不聚而聚之机,不合而合之理,不秀而秀之用。
不化而化者,定居权贵。不聚而聚者,终于富足。
不合而合者,必迁高职。不秀而秀者,须享禄位。
.
vu hàm toát yếu ngũ
Thiên nguyên được mất thất thời, tuổi thọ khó kéo dài. Nhật chủ cao cường hoá quỷ, nên nhận phúc dày.
Ngày vượng mà không có chỗ nương tựa, bỏ quê dời nhà. Nếu không có dời nhà, cũng chết ở đất khác.
Ngày vượng mà không có chỗ nương tựa, tổn tài hại vợ. Nếu không tổn hại vợ, ngoại gia (nhà không chính thức) tan nát.
Chánh quan bị hợp, cả đời danh lợi đều hư ảo.
Thất sát bị hợp, cái hung biến thành tốt.
Sát vượng mà gặp thân suy, vì cái ăn cái mặc phải chạy vạy bôn ba.
Quan nhu lại gặp sát làm loạn, hành tàng tiêu mất.
Tài vượng thân cường, tích trữ của cài. Giả như: giáp thìn giáp tuất lọt vào dần hợi, vàng lụa đầy nhà.
Đinh hợi đinh mão đến dậu hợi, phòng đầy vật báu.
Sáu ngày giáp gặp canh tân, nếu chồng chất sẽ chủ tai ách.
Sáu chữ bính mà thân ở hợi tý, không có chế phục, nhất định là học giả nghèo.
Đi vận được mất, phải xem xét cho thật tỉ mỉ.
Đắc địa mà thất thời như ruộng đất gặp mưa. Được thời mà thất địa như chốt nối liền càng xe với đòn ngang của xe lớn bị tổn hại bởi đường lầy lội.
Được thời thì có thể nhảy vọt, thất địa thì khó lên cao (ý nghĩa là khó lên chức vị).
Cho nên hoả đến phương nam nên vẻ vang, thuỷ đến đất bắc thì vượng.
Thổ đến phương đông nên bệnh, mộc đến tây thì suy, kim vào phương bắc thì chìm.
Sanh ở vượng xứ thì tuyệt ở tử xứ, sanh ở từ xứ thì rơi mất ở vượng xứ.
Tuế vận đều tổn hại nhật chủ, mệnh gặp như thế sẽ huỷ hoại và nguy hiểm.
Vận khí với tổ khí thương tàn, gia đình và cha mẹ đều tổn hại.
Vận thần khắc tuế, hình tụng sẽ đến. tuế khắc vận thần, tai hoạ với nhà nước sẽ phát sanh.
Kim chủ hình thương bởi lưỡi đao, thuỷ chủ chết đuối ở sông hồ. Mộc thì treo cổ tự ải, hổ ngoạm rồng giận.
Hoả thì đêm ngũ áp đảo, đốt chết rắn đau đớn. Thổ chính là tường ngăn thổ sụp đỗ. Ngũ hành sát nhiều, nên hiểu như vậy.
Lại nói: có lý do hó mà không hoá, có cơ hội tụ hội mà không tụ hội, tương tự hợp mà không hợp, chân xác đẹp mà không đẹp.
Hoá mà không hoá tổn hại ở quý, tụ mà không tụ tổn ở tài, hợp mà không hợp tổn hại ở quan, đẹp mà không đẹp tổn hại ở phúc.
Lại có lý do không hoá mà hoá, cơ hội không tụ hội mà tụ hội, quy luật không hợp mà lại hợp, hiệu quả không đẹp mà lại đẹp.
Không hoá mà hoá là nhất định ở quyền quý. Không tụ hội mà tụ hội là kết cục củ giàu có.
Không hợp mà hợp là được thăng chức. Không đẹp mà đẹp là đều ở vị trí hưởng lộc.
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要五
天元赢弱失时,难获延年。日主高强化鬼,当膺厚福。
日旺无依,离祖迁居。若不迁居,死在外地。
日旺无依,损财伤妻。若不伤妻,外家零落。
正官被合,平生名利皆虚。
七煞被合,处世反凶为吉。
煞旺更值身衰,衣食奔走。
官柔又遇煞扰,行藏汨没。
财旺身强,资财迭积。假如:、甲辰甲戌落寅亥,金帛满屋。
丁亥丁卯到酉亥,珍宝盈室。
六甲日遇庚辛,若重多必主灾厄。
六丙身居亥子,无制伏定是贫儒。
行运得失,更当详察。
得地失时,如田畴得雨。得时失地,如輗损涂泥。
得时者亦能举跃,失地者难以升迁。
故火到南方而荣,水临北地而盛。
土到东而病,木至西而衰,金入北而沉。
旺处生而死处灭,死处生而旺处脱。
岁运俱伤日主,遇之命必亏危。
气运与祖气伤残,门户与父母俱损。
运神克岁,刑讼来临。岁克运神,官灾竞起。
金主刀刃刑伤,水主江河覆溺。木则悬梁自缢,虎咬龙嗔。
火则夜眠压倒,焚死蛇伤。土乃墙推土陷。五行煞重,当如此详。
又曰:有化而不化之由,聚而不聚之机,合而不合之类,秀而不秀之实。
化而不化损于贵,聚而不聚损于财,合而不合损于官,秀而不秀损于福。
又有不化而化之因,不聚而聚之机,不合而合之理,不秀而秀之用。
不化而化者,定居权贵。不聚而聚者,终于富足。
不合而合者,必迁高职。不秀而秀者,须享禄位。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#352
Gửi vào 04/10/2024 - 09:21
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
vu hàm toát yếu lục
Xác định bốn mùa có vượng hay không, xem xét ngũ hành có khí lực hay không. Tuỳ theo vật mà thay đổi vật, do loại mà tìm loại. Ngũ hành đều cần phải trung hoà, mỗi vật không thể nghiêng về khô héo.
Thuỷ không thắng hoả thì trôi giạt khổ sở. Hoả không thắng kim thì khổ sở sợ hãi.
Ba tân gặp bính thì tiền tài bị phá tán. Hai nhâm gặp đinh thì gia đạo thịnh vượng.
Đẹp mà không có quan, chỉ thực hành tài nghệ khéo léo. Gặp tài mà không có uỷ thác, chỉ toại ý ở việc buôn bán.
Giáp coi như tòng cách, biến cố tai hoạ khốn khổ. Kim trở thành nhuận hạ cục, cánh bèo nơi quê người.
Đi theo vượng khiến phải thuận theo, đi theo suy thì biến thành vật khác.
Một quỷ không thể thắng ba quan, một lộc không thể thắng hai quỷ.
Ngũ hành dừng lại ở quê mình, không quý cũng phú. Tứ trụ đến đất phá, chẳng hèn cũng nghèo.
Sanh vượng là ưu đẳng, đức tú là kỳ (đặc thù, kỳ lạ).
Thân ngồi ở học đường, là khách quý của văn học nghệ thuật. Mệnh đến quỷ hoạ, là kẻ trộm cướp bị lưu đày.
Trong lộc ẩn hình, nhất định huấn luyện quân đội về vũ khí. .
Trong tú gặp khắc chủ chiếu theo văn kiện ở công môn.
Quỷ hưu mẫu vượng, của cải nô bộc ngựa thường kìm kẹp bức bách.
Quỷ vượng mẫu suy, cha mẹ anh em chia lìa.
Quan ấn cả hai có đủ, nắm giữ tinh mao (cờ có cắm lông chim) coi như là chức vụ bên quân đội.
Thục tú (người tài trí xuất chúng và hiền lành) hoàn chỉnh, ứng khoa giáp (thi đậu đầu bảng) nên được văn thuyên (tuyển chọn kẻ hiền bổ vào làm quan).
Lộc ẩn tàng quan đến cực phẩm. Gặp quan thật sự, bỗng lộc không tầm thường.
Mười thiên can đến tử tuyệt bệnh suy, hèn mọn coi như bụi đất.
Ngũ hành ở mộ khố của tam kỳ, vinh liệt (thứ bậc vẻ vang) tấn thân (người cầm hốt mà xỏa tay áo đỏ, chỉ quan viên, thân sĩ hoặc người thượng lưu)
Hai vị trí quỷ gặp đảo thực, nhất định phải là nô tỳ.
Một khi khí nương về mà gặp mộ của thang, nhất định chủ cô độc và nghèo khó.
Câu trần đắc vị ở thìn tỵ, quý đến bậc tam thai (tương tự tam công, là ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保).
Huyền vũ đang nắm quyền gặp hợi tý, quan đến bậc nhất.
Quý gặp canh thân được chức vị coi trọng, tân gặp mậu tý thi đậu cao.
Âm thuỷ gặp người ưu tú mà thất địa, bản thân là tăng đạo.
Dương hoả không chỗ trở về mà gặp thuỷ, nhất định là bọn hung ác.
Kim đến nơi hoả, tài thượng tụ tán (được rồi mất). Vượng thuỷ đến phương nam, sản nghiệp gia đình thịnh vượng.
Canh ở ba tháng mùa đông thuỷ lãnh kim hàn, được hoả trợ giúp, chớ đợi thong dong.
Phá lộc thì chết, khí tuyệt thì bệnh.
Giờ đến vị trí quỷ thêm gặp xung, tổn hại không sai.
Lâm quan trở lại đất suy bại, tử tuyệt không nghi ngờ.
Cao quý nhất lấy quan tinh làm mệnh, tài gặp thiên chánh là phúc.
Rất hung xấu là thất sát tới thân, thiên xá và nhị đức là điềm tốt lành.
Quan tinh như gặp tỷ kiếp, tuy có chức quan nhưng không quý.
Thất sát nếu gặp tài trợ giúp thì sát này càng thêm hung.
Tam hợp lục hợp, tuế vận hợp nên nhất định vẻ vang.
Bảy quan tám quan, nguyệt kiến quan nên trở thành vui mừng.
Bốn hợp bốn hình, hình hợp luôn rõ ràng tà với chánh.
Bảy xung tám kích, xung kích mừng được gặp kho.
Kế bên quý kế bên mộ là ám hội, tài khố quan khố cần phải có xung rõ ràng.
Quan tinh ở nơi sanh vượng, người gặp sao cần phải phát hiện.
Ấn thụ ẩn dưới mạnh (dần tỵ thân hợi) trọng (mão ngọ dậu tý), gặp mà không cần phải lộ hình ra.
Ấn thụ gặp kiếp tài thì quý, tài vốn ưa thực thần thương quan là kỳ (đặc thù).
Thương quan nếu gặp ấn thụ, quý không thể tả.
Quy lộc nếu gặp thực thần thương quan, phúc lành huyền diệu vô hạn.
Năm và ngày có âm dương lẫn nhau, hai nhận hình pháp trùng phạm (sai trái lặp đi lặp lại).
Quan sát hỗn tạp gặp tháng ngày, nhị đức: bỗng lộc theo chức thăng cao.
Nhận bay nhận phục nhận hội họp thường hung xấu. Thương quan bác quan (thương quan thương tẫn), gặp quan là tai hoạ.
Dương nhận nếu gặp ấn thụ, tuy rằng quý nhưng thân bị tàn tật.
Thất sát không có chế phục mà gặp quan, là tai hoạ mà tuổi thọ không bền.
Ba thiên ba chánh gặp tam kỳ, ở địa vị cao nhất rất tôn quý.
Bốn vượng bốn sanh tứ trụ có đủ, phúc ở trên mọi người.
Sát hoá thành ấn, sớm được đề bạt chức vụ to lớn. Tài vượng sanh quan, tuổi nhỏ được truyền lại ân trạch (ơn vua ban phát cho dân).
Quan sát cùng đến, cần phải biết dựa vào quan hay dựa vào sát.
Thiên chánh hội hợp nhau, phải biết hợp chánh hay hợp thiên.
Quy lộc tháng gặp dương nhận, thế sự không rõ ràng.
Kim thần vận đến nơi thuỷ, xác thân bị phân cắt (phanh thây).
Sát tàng trong bóng tối, phải rõ dụng thần ở dưới tháng.
Gặp xứ không có tài, nhất định bị tai vạ hoạn nạn của không vong.
Dương nhận gồm cả hội hợp, bị tội lưu đày ngàn dặm.
Dụng thần là tài nếu gặp cướp đoạt, cả đời nghèo khó, bức bách.
Đời sống con người đã định trước, nghèo giàu đã phân rõ, cần phải hiểu sự tiêu trưởng của nó, cũng nên nghiên cứu nguyên uỷ của sự vật.
Hoặc có trường hợp trước nghèo sau giàu, hoặc có trường hợp bỗng nhiên phát triễn rồi nghèo.
Hoặc là từ bạch ốc (nhà nghèo) đến công khanh (chỉ chức quan đại thần thời xưa), hoặc là từ chu môn (phiếm chỉ nhà phú quý) thành ngạ biễu (người chết đói).
Hoặc cả đời luôn vui vẻ, hoặc một đời lạc mất vị trí của mình.
Nên hiểu rõ nguồn của vận trôi chảy, phải xem xét vị trí của năm di động.
Thân yếu nhược như gặp thất sát, vận đến chế phục nhất định bị nguy ngập.
Thân vượng nếu gặp phúc nhẹ, vận đến suy bại nhất định chết.
Thái tuế với mệnh không hoà hợp, có tai hoạ có bệnh tật.
Tứ trụ với thái tuế tương sanh, không gây hại không có tai ương.
Thân nhược vô cớ hợp cách, tuy là phát nhưng chết sớm.
Phúc nhẹ nếu gặp hưu tù, dĩ nhiên nguy ngập và chết yểu.
Vì thế dụng thần không thể cấu tìm xằng bậy, các dấu hiệu sẽ phát hiện một cách tự nhiên.
Có phúc thì nên dùng nó liền, còn không thì nhất định phải dụng bản thân.
Hoạ hại ở năm nhà, phúc vẻ vang xét ở vận khí. Phúc dày hợp với mọi người, còn như vốn dĩ thương tổn, sẽ mắc kẹt trong đó.
Bí ẩn của các chi tiết nằm ở sự hiểu biết và lý luận của mình.
Lại nói: tuyệt: không thể chọn để tài ở dưới.
Suy: không thể chống cự với quỷ vượng.
Nghịch với chế phục thì vô tình, thuận theo sanh có thể cứu. Chủ không có nên vốn có thể cứu, đều đạt trong một nửa ngày giờ.
Nhị đức (thiên đức và nguyệt đức) trăm sự không xấu, gặp thêm tài quan nhất định chủ giàu có.
Nhật chủ vốn có khí lực quỷ có thể thành quan. Nhật chủ vốn không khí lực, quan đến làm quỷ.
Quy tắc hình xung phải xem xét tỉ mỉ.
Có hình xuất, hình nhập, hình cát, hình hung.
Có xung động, xung bất động , xung hợp, xung bất hợp phải nhận rõ.
Thiên can suy nhất định lay động để hợp, hữu tình mới là phú quý.
Tạp khí giữ bên trong, cần phải xác định cái gì trước cái gì sau.
Đề cương chuyên dụng, phải phân biệt khí vận nông hay sâu.
Nhất dương trở lại, mộc hoả dụng mà thuỷ ẩn tàng.
Nhất âm như sanh, hoả thổ thịnh mà kim ẩn phục.
Tương lai thì tiến, gặp vậy là có hiệu quả. Thành công thì thôi, gặp vậy có ích gì.
Tháng xây dựng nên tài quan ấn thụ, giờ làm giới hạn quy nguyên (nơi nhật chủ trở về).
Hoặc bổ trợ cái mà nó thiếu, hoặc đè nén cái gì quá mức, tạo hoá cần phải quân bình mới tốt.
Lại nói: tam nguyên xác định mệnh, trước tiên hiểu rõ tứ trụ, ngũ hành có thành cách hay không, kế mới luận mệnh vận cường nhược.
Nếu như thân nhược tài vượng, phải nương tựa nơi thân vượng (nói về hành vận).
Nếu thân vượng mà lộc suy, tức là mừng đất sanh lộc.
Ấn sanh là phúc, sợ gặp đất tài.
Sát có ở trong trụ, sát không nên vượng.
Mệnh không có tài lộc, vận gặp lộc mã sẽ là tai hoạ.
Vốn có thương quan, lại gặp đất quan sẽ gây hoạ.
Rất kỵ can ngày xung vận, Cái đáng mừng là can vận sanh ở can ngày.
Nhưng xem hữu tình hay vô tình, hợp với không hợp, hung xấu tụ hội hay tốt lành tụ hội cần phải bit61 rõ. Nếu như vốn dĩ có hại nhận thì người thân thuộc sẽ sát hại lẫn nhau.
Vốn dĩ có thương quan thất sát, địa chi bị tử tuyệt. Lại thêm lộc mã trong vận đều nhược, hoạ sẽ ập đến. Thêm nửa lưu tuế đè nén hay khen tụng mà hoạ phúc không có thì không chính xác.
Nếu gặp đất kiến lộc, danh là lộc mã đều tuyệt, hạn kỳ tuổi thọ khó tránh.
Có trường hợp lộc tuyệt mà phát, tỷ kiên nên hao tổn.
Khí có nông sâu, cách có thành hoại, không thể xét một cách cố chấp.
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要六
定四时有旺无旺,察五行有气无气。随物而变物,因类而求类。五行俱要中和,一物不可偏枯。
水不胜火兮,奔波流荡。火不胜金兮,困苦恓惶。
三辛见丙兮,钱财破散。二壬见丁兮,家道兴隆。
有秀而无官者,但施巧于技艺。见财而无托者,惟遂志于经商。
甲居从革之方,风灾困苦。金成润下之局,萍梗他乡。
俱旺则从之所使,俱衰则变为他物。
一鬼不能胜两官,一禄不能胜两鬼。
五行落在本乡,不贵则富。四柱临于破地,非贱则贫。
生旺为上,德秀为奇。
身坐学堂,文艺清高之客。命临鬼祸,徙流盗贼之人。
禄内隐刑,定操兵戟于戎位。
秀中见克,必主案牍于公门。
鬼休母旺,钱财奴马多掐。
鬼旺母衰,父母兄弟分散。
官印两全,秉旌旄而居武职。
淑秀全备,应科甲而入文铨。
藏暗禄者,官居极品。遇真官者,禄位非常。
十干临死绝病衰,贱居尘土。
五行在三奇库墓,荣列缙绅。
两位鬼乡逢倒食,必为奴婢。
一气有归遇墓月,定主孤贫。
勾陈得位居辰巳,贵列三台。
元武当权逢亥子,官封一品。
癸见庚申居右职,辛逢戊子中高科。
阴水遇秀失地者,身为僧道。
阳火无归遇水兮,定作凶徒。
金到火乡,财多聚散。旺水入南,家道盈昌。
庚居三冬,水冷金寒,得火相扶,莫作等闲。
破禄则亡,气绝则病。
时临鬼位更逢冲,伤危不诬。
临官复加衰败地,死绝无疑。
最贵者官星为命,财得偏正为福。
最凶者七煞临身,天赦二德为祥。
官星如遇比劫,虽官无贵。
七煞若逢资助,其煞愈凶。
三合六合,岁运合而必荣。
七官八官,月建官而为喜。
四合四刑,刑合常明邪正。
七冲八击,冲击喜得会藏。
夹贵夹丘为暗会,财库官库要明冲。
官星在生旺之方,逢者何须发见。
印绶藏孟仲之下,见而不用露形。
印绶得劫财为贵,财元喜食伤为奇。
伤官若见印绶,贵不可言。
归禄若遇食伤,福无限妙。
年日互有阴阳,二刃刑法重犯。
官煞混逢天月,二德禄位高迁。
飞刃伏刃,会刃多凶。伤官剥官,见官为祸。
羊刃若逢印绶,虽贵而残疾在身。
七煞无制逢官,为祸而寿元不久。
三偏三正遇三奇,贵居一品之尊。
四旺四生全四柱,福在众人之上。
煞化为印,早擢巍科。财旺生官,少受贻泽。
官煞同来,要知扶官扶煞。
偏正相会,须知合正合偏。
归禄月逢羊刃,世事不明。
金神运到水乡,身尸分拆。
暗中藏煞,须明月下用神。
见处无财,必受空中祸害。
羊刃更兼会合,千里徙流。
用财若遇劫夺,一生贫窘。
人生前定,穷达已分,须要识其消长,亦当究其始终。
或有先贫后富,或有骤发而贫。
或是白屋之公卿,或是朱门之饿殍。
或一生长乐,或一世失所。
当详流运之源,要察行年之位。
身弱如逢七煞,运到制伏必倾。
身旺若逢福轻,运到衰败必死。
太岁与命不和,有灾有病。
四柱与岁相生,无祸无殃。
身弱徒然入格,虽发早亡。
福轻若遇休囚,必然倾夭。
是以用神不可妄求,形迹自然发见。
有福则当用彼,无时必是用身。
祸害在于五门,福荣存于运气。福厚人所共同,如或伤原,终困此中。
消详元妙,在我明通理推。
又曰:、绝,不能取生下之财。
衰,不能敌旺中之鬼。
逆制无情,顺生可救。主无而本有可救,一半日时俱达。
二德百事无凶,更值财官,定主豪富。
主本有力,鬼可为官。主本无气,官来做鬼。
刑冲之法,仔细推详。
有刑出、刑入、刑吉、刑凶。
有冲动、冲不动、冲合、冲不合之辨。
干衰,必定动摇来合,有情方为富贵。
杂气藏蓄,要定谁先谁后。
提纲专用,须分气浅气深。
一阳来复,木火用而水藏。
一阴如生,火土盛而金伏。
将来者进,遇之有功。成功者退,得之何益。
月建财官印绶,时作分野归元。
或补其不足,或抑其太过,要造化中和为吉。
又曰:、三元定命,先详四柱,有无五行成格,次论命运强弱。
如身弱财旺,须假身旺之乡。
若身旺禄衰,却喜禄生之地。
印生为福,畏见财乡。
煞在柱中,煞不宜旺。
命无财禄,运逢禄马则灾。
原有伤官,再遇官乡则祸。
最忌者,日干冲运。所喜者,运干生于日干也。
但看有情无情,合与不合,凶会吉会消详。如原有害刃,则骨肉残伤。
原有伤煞,地支死绝。加以运中禄马俱弱,祸不旋踵。更以流岁抑扬,祸福无有不准。
若逢建禄之地,名为禄马俱绝,寿限难逃。
内有禄绝而发,比肩而耗。
气有浅深,格有成坏,不可执一推之。
.
vu hàm toát yếu lục
Xác định bốn mùa có vượng hay không, xem xét ngũ hành có khí lực hay không. Tuỳ theo vật mà thay đổi vật, do loại mà tìm loại. Ngũ hành đều cần phải trung hoà, mỗi vật không thể nghiêng về khô héo.
Thuỷ không thắng hoả thì trôi giạt khổ sở. Hoả không thắng kim thì khổ sở sợ hãi.
Ba tân gặp bính thì tiền tài bị phá tán. Hai nhâm gặp đinh thì gia đạo thịnh vượng.
Đẹp mà không có quan, chỉ thực hành tài nghệ khéo léo. Gặp tài mà không có uỷ thác, chỉ toại ý ở việc buôn bán.
Giáp coi như tòng cách, biến cố tai hoạ khốn khổ. Kim trở thành nhuận hạ cục, cánh bèo nơi quê người.
Đi theo vượng khiến phải thuận theo, đi theo suy thì biến thành vật khác.
Một quỷ không thể thắng ba quan, một lộc không thể thắng hai quỷ.
Ngũ hành dừng lại ở quê mình, không quý cũng phú. Tứ trụ đến đất phá, chẳng hèn cũng nghèo.
Sanh vượng là ưu đẳng, đức tú là kỳ (đặc thù, kỳ lạ).
Thân ngồi ở học đường, là khách quý của văn học nghệ thuật. Mệnh đến quỷ hoạ, là kẻ trộm cướp bị lưu đày.
Trong lộc ẩn hình, nhất định huấn luyện quân đội về vũ khí. .
Trong tú gặp khắc chủ chiếu theo văn kiện ở công môn.
Quỷ hưu mẫu vượng, của cải nô bộc ngựa thường kìm kẹp bức bách.
Quỷ vượng mẫu suy, cha mẹ anh em chia lìa.
Quan ấn cả hai có đủ, nắm giữ tinh mao (cờ có cắm lông chim) coi như là chức vụ bên quân đội.
Thục tú (người tài trí xuất chúng và hiền lành) hoàn chỉnh, ứng khoa giáp (thi đậu đầu bảng) nên được văn thuyên (tuyển chọn kẻ hiền bổ vào làm quan).
Lộc ẩn tàng quan đến cực phẩm. Gặp quan thật sự, bỗng lộc không tầm thường.
Mười thiên can đến tử tuyệt bệnh suy, hèn mọn coi như bụi đất.
Ngũ hành ở mộ khố của tam kỳ, vinh liệt (thứ bậc vẻ vang) tấn thân (người cầm hốt mà xỏa tay áo đỏ, chỉ quan viên, thân sĩ hoặc người thượng lưu)
Hai vị trí quỷ gặp đảo thực, nhất định phải là nô tỳ.
Một khi khí nương về mà gặp mộ của thang, nhất định chủ cô độc và nghèo khó.
Câu trần đắc vị ở thìn tỵ, quý đến bậc tam thai (tương tự tam công, là ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保).
Huyền vũ đang nắm quyền gặp hợi tý, quan đến bậc nhất.
Quý gặp canh thân được chức vị coi trọng, tân gặp mậu tý thi đậu cao.
Âm thuỷ gặp người ưu tú mà thất địa, bản thân là tăng đạo.
Dương hoả không chỗ trở về mà gặp thuỷ, nhất định là bọn hung ác.
Kim đến nơi hoả, tài thượng tụ tán (được rồi mất). Vượng thuỷ đến phương nam, sản nghiệp gia đình thịnh vượng.
Canh ở ba tháng mùa đông thuỷ lãnh kim hàn, được hoả trợ giúp, chớ đợi thong dong.
Phá lộc thì chết, khí tuyệt thì bệnh.
Giờ đến vị trí quỷ thêm gặp xung, tổn hại không sai.
Lâm quan trở lại đất suy bại, tử tuyệt không nghi ngờ.
Cao quý nhất lấy quan tinh làm mệnh, tài gặp thiên chánh là phúc.
Rất hung xấu là thất sát tới thân, thiên xá và nhị đức là điềm tốt lành.
Quan tinh như gặp tỷ kiếp, tuy có chức quan nhưng không quý.
Thất sát nếu gặp tài trợ giúp thì sát này càng thêm hung.
Tam hợp lục hợp, tuế vận hợp nên nhất định vẻ vang.
Bảy quan tám quan, nguyệt kiến quan nên trở thành vui mừng.
Bốn hợp bốn hình, hình hợp luôn rõ ràng tà với chánh.
Bảy xung tám kích, xung kích mừng được gặp kho.
Kế bên quý kế bên mộ là ám hội, tài khố quan khố cần phải có xung rõ ràng.
Quan tinh ở nơi sanh vượng, người gặp sao cần phải phát hiện.
Ấn thụ ẩn dưới mạnh (dần tỵ thân hợi) trọng (mão ngọ dậu tý), gặp mà không cần phải lộ hình ra.
Ấn thụ gặp kiếp tài thì quý, tài vốn ưa thực thần thương quan là kỳ (đặc thù).
Thương quan nếu gặp ấn thụ, quý không thể tả.
Quy lộc nếu gặp thực thần thương quan, phúc lành huyền diệu vô hạn.
Năm và ngày có âm dương lẫn nhau, hai nhận hình pháp trùng phạm (sai trái lặp đi lặp lại).
Quan sát hỗn tạp gặp tháng ngày, nhị đức: bỗng lộc theo chức thăng cao.
Nhận bay nhận phục nhận hội họp thường hung xấu. Thương quan bác quan (thương quan thương tẫn), gặp quan là tai hoạ.
Dương nhận nếu gặp ấn thụ, tuy rằng quý nhưng thân bị tàn tật.
Thất sát không có chế phục mà gặp quan, là tai hoạ mà tuổi thọ không bền.
Ba thiên ba chánh gặp tam kỳ, ở địa vị cao nhất rất tôn quý.
Bốn vượng bốn sanh tứ trụ có đủ, phúc ở trên mọi người.
Sát hoá thành ấn, sớm được đề bạt chức vụ to lớn. Tài vượng sanh quan, tuổi nhỏ được truyền lại ân trạch (ơn vua ban phát cho dân).
Quan sát cùng đến, cần phải biết dựa vào quan hay dựa vào sát.
Thiên chánh hội hợp nhau, phải biết hợp chánh hay hợp thiên.
Quy lộc tháng gặp dương nhận, thế sự không rõ ràng.
Kim thần vận đến nơi thuỷ, xác thân bị phân cắt (phanh thây).
Sát tàng trong bóng tối, phải rõ dụng thần ở dưới tháng.
Gặp xứ không có tài, nhất định bị tai vạ hoạn nạn của không vong.
Dương nhận gồm cả hội hợp, bị tội lưu đày ngàn dặm.
Dụng thần là tài nếu gặp cướp đoạt, cả đời nghèo khó, bức bách.
Đời sống con người đã định trước, nghèo giàu đã phân rõ, cần phải hiểu sự tiêu trưởng của nó, cũng nên nghiên cứu nguyên uỷ của sự vật.
Hoặc có trường hợp trước nghèo sau giàu, hoặc có trường hợp bỗng nhiên phát triễn rồi nghèo.
Hoặc là từ bạch ốc (nhà nghèo) đến công khanh (chỉ chức quan đại thần thời xưa), hoặc là từ chu môn (phiếm chỉ nhà phú quý) thành ngạ biễu (người chết đói).
Hoặc cả đời luôn vui vẻ, hoặc một đời lạc mất vị trí của mình.
Nên hiểu rõ nguồn của vận trôi chảy, phải xem xét vị trí của năm di động.
Thân yếu nhược như gặp thất sát, vận đến chế phục nhất định bị nguy ngập.
Thân vượng nếu gặp phúc nhẹ, vận đến suy bại nhất định chết.
Thái tuế với mệnh không hoà hợp, có tai hoạ có bệnh tật.
Tứ trụ với thái tuế tương sanh, không gây hại không có tai ương.
Thân nhược vô cớ hợp cách, tuy là phát nhưng chết sớm.
Phúc nhẹ nếu gặp hưu tù, dĩ nhiên nguy ngập và chết yểu.
Vì thế dụng thần không thể cấu tìm xằng bậy, các dấu hiệu sẽ phát hiện một cách tự nhiên.
Có phúc thì nên dùng nó liền, còn không thì nhất định phải dụng bản thân.
Hoạ hại ở năm nhà, phúc vẻ vang xét ở vận khí. Phúc dày hợp với mọi người, còn như vốn dĩ thương tổn, sẽ mắc kẹt trong đó.
Bí ẩn của các chi tiết nằm ở sự hiểu biết và lý luận của mình.
Lại nói: tuyệt: không thể chọn để tài ở dưới.
Suy: không thể chống cự với quỷ vượng.
Nghịch với chế phục thì vô tình, thuận theo sanh có thể cứu. Chủ không có nên vốn có thể cứu, đều đạt trong một nửa ngày giờ.
Nhị đức (thiên đức và nguyệt đức) trăm sự không xấu, gặp thêm tài quan nhất định chủ giàu có.
Nhật chủ vốn có khí lực quỷ có thể thành quan. Nhật chủ vốn không khí lực, quan đến làm quỷ.
Quy tắc hình xung phải xem xét tỉ mỉ.
Có hình xuất, hình nhập, hình cát, hình hung.
Có xung động, xung bất động , xung hợp, xung bất hợp phải nhận rõ.
Thiên can suy nhất định lay động để hợp, hữu tình mới là phú quý.
Tạp khí giữ bên trong, cần phải xác định cái gì trước cái gì sau.
Đề cương chuyên dụng, phải phân biệt khí vận nông hay sâu.
Nhất dương trở lại, mộc hoả dụng mà thuỷ ẩn tàng.
Nhất âm như sanh, hoả thổ thịnh mà kim ẩn phục.
Tương lai thì tiến, gặp vậy là có hiệu quả. Thành công thì thôi, gặp vậy có ích gì.
Tháng xây dựng nên tài quan ấn thụ, giờ làm giới hạn quy nguyên (nơi nhật chủ trở về).
Hoặc bổ trợ cái mà nó thiếu, hoặc đè nén cái gì quá mức, tạo hoá cần phải quân bình mới tốt.
Lại nói: tam nguyên xác định mệnh, trước tiên hiểu rõ tứ trụ, ngũ hành có thành cách hay không, kế mới luận mệnh vận cường nhược.
Nếu như thân nhược tài vượng, phải nương tựa nơi thân vượng (nói về hành vận).
Nếu thân vượng mà lộc suy, tức là mừng đất sanh lộc.
Ấn sanh là phúc, sợ gặp đất tài.
Sát có ở trong trụ, sát không nên vượng.
Mệnh không có tài lộc, vận gặp lộc mã sẽ là tai hoạ.
Vốn có thương quan, lại gặp đất quan sẽ gây hoạ.
Rất kỵ can ngày xung vận, Cái đáng mừng là can vận sanh ở can ngày.
Nhưng xem hữu tình hay vô tình, hợp với không hợp, hung xấu tụ hội hay tốt lành tụ hội cần phải bit61 rõ. Nếu như vốn dĩ có hại nhận thì người thân thuộc sẽ sát hại lẫn nhau.
Vốn dĩ có thương quan thất sát, địa chi bị tử tuyệt. Lại thêm lộc mã trong vận đều nhược, hoạ sẽ ập đến. Thêm nửa lưu tuế đè nén hay khen tụng mà hoạ phúc không có thì không chính xác.
Nếu gặp đất kiến lộc, danh là lộc mã đều tuyệt, hạn kỳ tuổi thọ khó tránh.
Có trường hợp lộc tuyệt mà phát, tỷ kiên nên hao tổn.
Khí có nông sâu, cách có thành hoại, không thể xét một cách cố chấp.
Link đến bản tiếng Hoa:
巫咸撮要六
定四时有旺无旺,察五行有气无气。随物而变物,因类而求类。五行俱要中和,一物不可偏枯。
水不胜火兮,奔波流荡。火不胜金兮,困苦恓惶。
三辛见丙兮,钱财破散。二壬见丁兮,家道兴隆。
有秀而无官者,但施巧于技艺。见财而无托者,惟遂志于经商。
甲居从革之方,风灾困苦。金成润下之局,萍梗他乡。
俱旺则从之所使,俱衰则变为他物。
一鬼不能胜两官,一禄不能胜两鬼。
五行落在本乡,不贵则富。四柱临于破地,非贱则贫。
生旺为上,德秀为奇。
身坐学堂,文艺清高之客。命临鬼祸,徙流盗贼之人。
禄内隐刑,定操兵戟于戎位。
秀中见克,必主案牍于公门。
鬼休母旺,钱财奴马多掐。
鬼旺母衰,父母兄弟分散。
官印两全,秉旌旄而居武职。
淑秀全备,应科甲而入文铨。
藏暗禄者,官居极品。遇真官者,禄位非常。
十干临死绝病衰,贱居尘土。
五行在三奇库墓,荣列缙绅。
两位鬼乡逢倒食,必为奴婢。
一气有归遇墓月,定主孤贫。
勾陈得位居辰巳,贵列三台。
元武当权逢亥子,官封一品。
癸见庚申居右职,辛逢戊子中高科。
阴水遇秀失地者,身为僧道。
阳火无归遇水兮,定作凶徒。
金到火乡,财多聚散。旺水入南,家道盈昌。
庚居三冬,水冷金寒,得火相扶,莫作等闲。
破禄则亡,气绝则病。
时临鬼位更逢冲,伤危不诬。
临官复加衰败地,死绝无疑。
最贵者官星为命,财得偏正为福。
最凶者七煞临身,天赦二德为祥。
官星如遇比劫,虽官无贵。
七煞若逢资助,其煞愈凶。
三合六合,岁运合而必荣。
七官八官,月建官而为喜。
四合四刑,刑合常明邪正。
七冲八击,冲击喜得会藏。
夹贵夹丘为暗会,财库官库要明冲。
官星在生旺之方,逢者何须发见。
印绶藏孟仲之下,见而不用露形。
印绶得劫财为贵,财元喜食伤为奇。
伤官若见印绶,贵不可言。
归禄若遇食伤,福无限妙。
年日互有阴阳,二刃刑法重犯。
官煞混逢天月,二德禄位高迁。
飞刃伏刃,会刃多凶。伤官剥官,见官为祸。
羊刃若逢印绶,虽贵而残疾在身。
七煞无制逢官,为祸而寿元不久。
三偏三正遇三奇,贵居一品之尊。
四旺四生全四柱,福在众人之上。
煞化为印,早擢巍科。财旺生官,少受贻泽。
官煞同来,要知扶官扶煞。
偏正相会,须知合正合偏。
归禄月逢羊刃,世事不明。
金神运到水乡,身尸分拆。
暗中藏煞,须明月下用神。
见处无财,必受空中祸害。
羊刃更兼会合,千里徙流。
用财若遇劫夺,一生贫窘。
人生前定,穷达已分,须要识其消长,亦当究其始终。
或有先贫后富,或有骤发而贫。
或是白屋之公卿,或是朱门之饿殍。
或一生长乐,或一世失所。
当详流运之源,要察行年之位。
身弱如逢七煞,运到制伏必倾。
身旺若逢福轻,运到衰败必死。
太岁与命不和,有灾有病。
四柱与岁相生,无祸无殃。
身弱徒然入格,虽发早亡。
福轻若遇休囚,必然倾夭。
是以用神不可妄求,形迹自然发见。
有福则当用彼,无时必是用身。
祸害在于五门,福荣存于运气。福厚人所共同,如或伤原,终困此中。
消详元妙,在我明通理推。
又曰:、绝,不能取生下之财。
衰,不能敌旺中之鬼。
逆制无情,顺生可救。主无而本有可救,一半日时俱达。
二德百事无凶,更值财官,定主豪富。
主本有力,鬼可为官。主本无气,官来做鬼。
刑冲之法,仔细推详。
有刑出、刑入、刑吉、刑凶。
有冲动、冲不动、冲合、冲不合之辨。
干衰,必定动摇来合,有情方为富贵。
杂气藏蓄,要定谁先谁后。
提纲专用,须分气浅气深。
一阳来复,木火用而水藏。
一阴如生,火土盛而金伏。
将来者进,遇之有功。成功者退,得之何益。
月建财官印绶,时作分野归元。
或补其不足,或抑其太过,要造化中和为吉。
又曰:、三元定命,先详四柱,有无五行成格,次论命运强弱。
如身弱财旺,须假身旺之乡。
若身旺禄衰,却喜禄生之地。
印生为福,畏见财乡。
煞在柱中,煞不宜旺。
命无财禄,运逢禄马则灾。
原有伤官,再遇官乡则祸。
最忌者,日干冲运。所喜者,运干生于日干也。
但看有情无情,合与不合,凶会吉会消详。如原有害刃,则骨肉残伤。
原有伤煞,地支死绝。加以运中禄马俱弱,祸不旋踵。更以流岁抑扬,祸福无有不准。
若逢建禄之地,名为禄马俱绝,寿限难逃。
内有禄绝而发,比肩而耗。
气有浅深,格有成坏,不可执一推之。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#353
Gửi vào 05/10/2024 - 09:33
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết nhất
Hễ suy xét cái lý của tạo hoá, phương pháp của nó là lấy ngày làm chủ.
Phong cách đề cập duy nhất, phải nhận biết rõ quan điểm của đương sự. Là hoá khí, là bổn thể, người mới nhập môn phải biết thông biến. Phải biết được can chủ có bổn tượng có hoá tượng mới có thể rõ chi tiết. Như giáp tức bổn tượng là mộc, hoá tượng là thổ.
Trước tiên tìm ý nghĩa của địa chi ngồi dưới, khí nông sâu của tháng là chủ quyền.
Chính là ngồi dưới can ngày, chọn trước tiên xem địa chi này, cùng với địa chi tháng một vị trí, địa chi giờ một vị trí, địa chi năm một vị trí, hình xung khắc hại , sanh khắc bỉ hoà như thế nào.
Can chủ hỷ kỵ vật nào có thể đến, không thể coi là bình thường. Không thể lo liệu.
Khí nông sâu của tháng. Làm thế nào chủ quyền.
Bên dưới nguyệt kiến, khí hậu nông sâu (phép nhà lịch cứ năm ngày gọi là một hậu, ba hậu là một khí tiết, vì thế nên tóm gọi tiết trời là khí hậu 氣候, tiết hậu 節候.). Khí của ngũ hành, là thiên can gì.
Lệnh của thiên thời ngày đó hợp lý. Năm ngày là khí của một hậu. Lại nói (đức tú có không) địa chi rất rõ ràng. Bè nhóm thịnh nên mạnh.
Địa chi chính là chi thần ở bốn trụ, rất quan trọng, so sánh thiên can thì càng quan trọng.
Cần phải xem cái nào là chủ liên quan trạch xá, cái nào là nền tảng của dụng thần. Cái nào nhẹ, cái nào nặng. Trạch xá tức là nơi đắc địa, chi thần tức là lợi dụng chỗ của quý.
Một là xem sức mạnh của nó xung khởi là chi thần nào.
Hai là xem sức mạnh của nó củng khởi là chi thần nào.
Ba là xem sức mạnh của nó hình khởi là chi thần nào.
Bốn là xem sức mạnh của nó hợp khởi là chi thần nào.
Năm là xem địa chi thống lĩnh. Phương pháp này là tạo ra cái có từ cái không vậy.
Luận địa chi, bốn yếu tố xung, củng, hình, hợp rất là gần gũi với nhau. Một phương pháp là chỉ lấy can ngày để chọn dụng thần. Bên trong có thể cát thần có hình xung, hung sát có củng hợp. Sanh vượng hưu phế của nó giao sai (kết hợp và chênh lệch) không như nhau, khó mà ra tay phụ giúp. Không như chỉ hiểu rõ nền tảng địa chi trong tứ trụ, vật nào là quan trọng nhất trong năm khí. Phẩm lượng sắp đến tức là thần nào có thể hao tán, thần nào có thể sanh phù, thần nào có thể xung hợp, thần nào có thể biến hoá.
Sau đó xem can ngày thuộc năm khí nào, cùng với khí thống lĩnh của nó quan trọng như thế nào. Lấy các loại tài quan, khí của dụng thần cùng với năm khí trước dẫn về trụ giờ, để so sánh các vật khác. Cái nào nhẹ, cái nào nặng, nghĩa lý thuận hoà là điềm tốt lành, trái lại là ngang ngược vậy.
Như điều này đã xác định, sau đó mới xem khí của địa chi, mỗi thứ có nguyên nhân của chỗ hỷ chỗ kỵ không thể không biết rõ. Năm khí nghĩa như mộc hoả thổ kim thuỷ năm hành, cần phải mỗi thứ đều có đề mục của trụ. Nếu trong năm khí, cái nào bè nhóm nhiều thì quan trọng. Như địa chi thiên can trong ngoài lộ hay ẩn mộc nhiều, thì mộc khí là bẻ đảng thịnh vậy. Hỷ kỵ của nó đã bàn trong ngũ hành đầu tiên. Tập trung nắm giữ dụng thần. Cần thiết hiểu rõ hỷ kỵ. .
Tập trung nắm giữ một dụng thần là bậc tôn trưởng, là quyền thần, là hiệu lệnh, là căn bản, là chỗ đựa. Điều này chẳng phải là tầm thường, chấp vào mà suy xét, chẳng dám buông lung ý nghĩa tìm kiếm của nó.
Ngoài việc chọn dụng thần, có thể là tài có thể là quan, có thể là nhận có thể là sát, có thể là thực thần có thể là quý, có thể là ấn có thể là lộc mã các yếu tố. Các loại quy định chọn lấy vốn không có phương pháp xác định. Dụng thần rất kỵ bị tổn phạm, đồng thời sợ cả chia cắt và đánh cắp, không nên thái quá với bất cập.
Như vật mà thái quá vốn không có kết quả tốt đẹp, hoặc tuế vận lại tới sanh phù, tức là sẽ lật đỗ, làm hỏng. Như mộc sẽ gãy, thuỷ sẽ tràn ra, thổ sẽ sạt lỡ, hoả sẽ một khi phát lên thì tắt, kim sẽ bị tổn hại. Còn như vật bất cập vốn không có kết quả tốt đẹp. Có thể tuế vận lại tới khắc thiết (trộm cắp), phá huỷ tất cả các thứ này, chẳng phải là tai hoạ sao.
Hỷ kỵ của dụng thần, rất cơ bản rất huyền diệu, chương sau hiểu rõ hơn, cần phải được trung hoà thì quý.
Khí khí đã cạn quy tắc của nó, vật vật đến cực điểm sẽ ngừng.
Năm khí kim mộc thuỷ hoả thổ, một âm một dương, cộng lại có mười loại tin tức.
Mỗi việc cần phải xem suy hay vượng, nặng hay nhẹ, rõ ràng hay tối tăm, rộng hay hẹp, cần nghiên cứu đến tận cùng. Sanh cho thần nào, khắc thần nào, hình thần nào, hợp thần nào các loại.
Vật bị phá huỷ, vật được sanh chủ liên hệ tới sự việc gì. Mọi vật bị đầy đi, cần phải hướng về chỗ nương tựa. Cho đến không có chỗ nào để chọn lựa thì phải quay lại. Hợp phong cách nào, một khi chuyển theo hướng cực đoan, tức là đạt được thành công, xuyên qua trơn tru. Tức là cần phải xác định kết cục, quyết định thành tài năng hay không thành tài năng như thế nào.
Người hữu khí thì nóng vội, người hữu tình thì cắn chặt.
Hữu khí chính là đang lúc này, xem thiên can địa chi trong ngoài lộ hay ám của bát tự.
Ví như khí trong tháng sáu là tiết đại thử, thổ kim vượng tướng là hữu khí. Đây là gấp, vội, còn lại thì không phải.
Hữu tình chính là hợp khí, ví như giáp gặp kỷ, bính gặp tân, đinh gặp nhâm các loại.
Khoảng giữa thiên can địa chi minh và ám đều được chọn kết hợp, đây là rất cấp thiết vậy.
Lại có thuyết không chỉ hợp khí là hữu tình, mà cát thần sanh mình hay khắc mình cũng là hữu tình.
Hư củng quý khí, sanh mình, khắc mình, hình mình, hợp mình. Cũng không khác biệt.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀一
凡推造化之理,其法以日为主。
单提作体,要认为主者之端。为化气为本体,入门便要通变。识得主干有本象有化象,方可消详。如甲即本像是木,化像是土。
坐下支神先求其意,月气深浅何者主权。
乃日干坐下,首先看此地支,与月支一位,时支一位,年支一位,刑冲破害,生克比和何如。
主干喜忌何物得来,不可视为泛常。不可顾盼。
月气浅深。何者主权。
月建之下,气候浅深。五行之气,是何干神。
正当此日天时之令。五日一侯之气。一云(德秀有无)
地支至切。党盛为强。
地支乃四位支神,至切者,视天干为尤切也。
要看何者为主干之宅舍,何者为用神之基业。何者力轻,何者力重。宅舍即得地之方,支神即乘贵之所。
一看其力势冲起,是何支神。
二看其力势拱起,是何支神。
三看其力势刑起,是何支神。
四看其力势合起,是何支神。
五看地支统摄。此法是空中立有者也。
论地支,冲拱刑合四件,极切门庭。一法,只拿日干作主取用。中间或吉神有刑冲,凶煞有拱合。其生旺休废,交差不一,难下手脚。不如只详四个地支基址,五气中何物最重。将来品量,却能耗散何神,能生扶何神,能冲合何神,能变化何神。
然后却看日干属何五气,与其最重之气统摄何如。便拿财官等物,用神之气,共前五气引于时座,参较其物。何者轻,何者重,义理调顺为详瑞,反则即为乖戾矣。
如此已立定,然后看其支气,各有所喜所忌之端,不可不详。五气谓如木火土金水五者,须要各各记住题目。若五气中,何者党多为重。如支干内外,明暗木多,则木气党盛矣。其喜忌已论于前五行中。
专执用神。切详喜忌。
专执一位用神位为尊长,为权神,为号令,为本领,为倚托。此非小可,执而推之,未敢纵求其意。
外取用神,或财或官、或刃或煞、或食或贵、或印或禄马等件。各类例取,原无定法。其用神最忌损犯,兼怕分窃,不宜太过与不及。
如太过之物,本不好了,或岁运又来生扶,即是倾覆坏了。如木则折、水则倾、土则崩、火则一发而灭、金则折损。如不及之物,本不好了。或岁运又来克窃,坏尽此物,岂独有祸。
用神喜忌,至元至妙,后篇别详,务要得中和为贵。
气气切穷其理,物物至极转关。
金木水火土五气,一阴一阳,共有十般消息。
一件件要看衰旺、轻重、明晦、广狭,穷则究理尽处。生何神,克何神,刑何神,合何神之类。
被坏之物,得生之物,主系何事。物物推将去,须要有依倚下落。至无可奈何处,便是转关。入何格调,极处一转,即是建功,圆活参透。却要定见下落,断成器不成器何如。
有气者急,有情者切。
有气乃当时也,看八字内外明暗干支。
如六月中气,大暑节,土金旺相,有气之类。此为至急,余则否。
有情乃合气也,如甲见己,丙见辛,丁见壬之类。
中间干支明暗,有合皆取,此为最切也。
一说非特合气有情,吉神生我克我,亦为有情。
虚拱贵气,生我、克我、刑我、合我。亦无异也。
.
ngọc tỉnh áo quyết nhất
Hễ suy xét cái lý của tạo hoá, phương pháp của nó là lấy ngày làm chủ.
Phong cách đề cập duy nhất, phải nhận biết rõ quan điểm của đương sự. Là hoá khí, là bổn thể, người mới nhập môn phải biết thông biến. Phải biết được can chủ có bổn tượng có hoá tượng mới có thể rõ chi tiết. Như giáp tức bổn tượng là mộc, hoá tượng là thổ.
Trước tiên tìm ý nghĩa của địa chi ngồi dưới, khí nông sâu của tháng là chủ quyền.
Chính là ngồi dưới can ngày, chọn trước tiên xem địa chi này, cùng với địa chi tháng một vị trí, địa chi giờ một vị trí, địa chi năm một vị trí, hình xung khắc hại , sanh khắc bỉ hoà như thế nào.
Can chủ hỷ kỵ vật nào có thể đến, không thể coi là bình thường. Không thể lo liệu.
Khí nông sâu của tháng. Làm thế nào chủ quyền.
Bên dưới nguyệt kiến, khí hậu nông sâu (phép nhà lịch cứ năm ngày gọi là một hậu, ba hậu là một khí tiết, vì thế nên tóm gọi tiết trời là khí hậu 氣候, tiết hậu 節候.). Khí của ngũ hành, là thiên can gì.
Lệnh của thiên thời ngày đó hợp lý. Năm ngày là khí của một hậu. Lại nói (đức tú có không) địa chi rất rõ ràng. Bè nhóm thịnh nên mạnh.
Địa chi chính là chi thần ở bốn trụ, rất quan trọng, so sánh thiên can thì càng quan trọng.
Cần phải xem cái nào là chủ liên quan trạch xá, cái nào là nền tảng của dụng thần. Cái nào nhẹ, cái nào nặng. Trạch xá tức là nơi đắc địa, chi thần tức là lợi dụng chỗ của quý.
Một là xem sức mạnh của nó xung khởi là chi thần nào.
Hai là xem sức mạnh của nó củng khởi là chi thần nào.
Ba là xem sức mạnh của nó hình khởi là chi thần nào.
Bốn là xem sức mạnh của nó hợp khởi là chi thần nào.
Năm là xem địa chi thống lĩnh. Phương pháp này là tạo ra cái có từ cái không vậy.
Luận địa chi, bốn yếu tố xung, củng, hình, hợp rất là gần gũi với nhau. Một phương pháp là chỉ lấy can ngày để chọn dụng thần. Bên trong có thể cát thần có hình xung, hung sát có củng hợp. Sanh vượng hưu phế của nó giao sai (kết hợp và chênh lệch) không như nhau, khó mà ra tay phụ giúp. Không như chỉ hiểu rõ nền tảng địa chi trong tứ trụ, vật nào là quan trọng nhất trong năm khí. Phẩm lượng sắp đến tức là thần nào có thể hao tán, thần nào có thể sanh phù, thần nào có thể xung hợp, thần nào có thể biến hoá.
Sau đó xem can ngày thuộc năm khí nào, cùng với khí thống lĩnh của nó quan trọng như thế nào. Lấy các loại tài quan, khí của dụng thần cùng với năm khí trước dẫn về trụ giờ, để so sánh các vật khác. Cái nào nhẹ, cái nào nặng, nghĩa lý thuận hoà là điềm tốt lành, trái lại là ngang ngược vậy.
Như điều này đã xác định, sau đó mới xem khí của địa chi, mỗi thứ có nguyên nhân của chỗ hỷ chỗ kỵ không thể không biết rõ. Năm khí nghĩa như mộc hoả thổ kim thuỷ năm hành, cần phải mỗi thứ đều có đề mục của trụ. Nếu trong năm khí, cái nào bè nhóm nhiều thì quan trọng. Như địa chi thiên can trong ngoài lộ hay ẩn mộc nhiều, thì mộc khí là bẻ đảng thịnh vậy. Hỷ kỵ của nó đã bàn trong ngũ hành đầu tiên. Tập trung nắm giữ dụng thần. Cần thiết hiểu rõ hỷ kỵ. .
Tập trung nắm giữ một dụng thần là bậc tôn trưởng, là quyền thần, là hiệu lệnh, là căn bản, là chỗ đựa. Điều này chẳng phải là tầm thường, chấp vào mà suy xét, chẳng dám buông lung ý nghĩa tìm kiếm của nó.
Ngoài việc chọn dụng thần, có thể là tài có thể là quan, có thể là nhận có thể là sát, có thể là thực thần có thể là quý, có thể là ấn có thể là lộc mã các yếu tố. Các loại quy định chọn lấy vốn không có phương pháp xác định. Dụng thần rất kỵ bị tổn phạm, đồng thời sợ cả chia cắt và đánh cắp, không nên thái quá với bất cập.
Như vật mà thái quá vốn không có kết quả tốt đẹp, hoặc tuế vận lại tới sanh phù, tức là sẽ lật đỗ, làm hỏng. Như mộc sẽ gãy, thuỷ sẽ tràn ra, thổ sẽ sạt lỡ, hoả sẽ một khi phát lên thì tắt, kim sẽ bị tổn hại. Còn như vật bất cập vốn không có kết quả tốt đẹp. Có thể tuế vận lại tới khắc thiết (trộm cắp), phá huỷ tất cả các thứ này, chẳng phải là tai hoạ sao.
Hỷ kỵ của dụng thần, rất cơ bản rất huyền diệu, chương sau hiểu rõ hơn, cần phải được trung hoà thì quý.
Khí khí đã cạn quy tắc của nó, vật vật đến cực điểm sẽ ngừng.
Năm khí kim mộc thuỷ hoả thổ, một âm một dương, cộng lại có mười loại tin tức.
Mỗi việc cần phải xem suy hay vượng, nặng hay nhẹ, rõ ràng hay tối tăm, rộng hay hẹp, cần nghiên cứu đến tận cùng. Sanh cho thần nào, khắc thần nào, hình thần nào, hợp thần nào các loại.
Vật bị phá huỷ, vật được sanh chủ liên hệ tới sự việc gì. Mọi vật bị đầy đi, cần phải hướng về chỗ nương tựa. Cho đến không có chỗ nào để chọn lựa thì phải quay lại. Hợp phong cách nào, một khi chuyển theo hướng cực đoan, tức là đạt được thành công, xuyên qua trơn tru. Tức là cần phải xác định kết cục, quyết định thành tài năng hay không thành tài năng như thế nào.
Người hữu khí thì nóng vội, người hữu tình thì cắn chặt.
Hữu khí chính là đang lúc này, xem thiên can địa chi trong ngoài lộ hay ám của bát tự.
Ví như khí trong tháng sáu là tiết đại thử, thổ kim vượng tướng là hữu khí. Đây là gấp, vội, còn lại thì không phải.
Hữu tình chính là hợp khí, ví như giáp gặp kỷ, bính gặp tân, đinh gặp nhâm các loại.
Khoảng giữa thiên can địa chi minh và ám đều được chọn kết hợp, đây là rất cấp thiết vậy.
Lại có thuyết không chỉ hợp khí là hữu tình, mà cát thần sanh mình hay khắc mình cũng là hữu tình.
Hư củng quý khí, sanh mình, khắc mình, hình mình, hợp mình. Cũng không khác biệt.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀一
凡推造化之理,其法以日为主。
单提作体,要认为主者之端。为化气为本体,入门便要通变。识得主干有本象有化象,方可消详。如甲即本像是木,化像是土。
坐下支神先求其意,月气深浅何者主权。
乃日干坐下,首先看此地支,与月支一位,时支一位,年支一位,刑冲破害,生克比和何如。
主干喜忌何物得来,不可视为泛常。不可顾盼。
月气浅深。何者主权。
月建之下,气候浅深。五行之气,是何干神。
正当此日天时之令。五日一侯之气。一云(德秀有无)
地支至切。党盛为强。
地支乃四位支神,至切者,视天干为尤切也。
要看何者为主干之宅舍,何者为用神之基业。何者力轻,何者力重。宅舍即得地之方,支神即乘贵之所。
一看其力势冲起,是何支神。
二看其力势拱起,是何支神。
三看其力势刑起,是何支神。
四看其力势合起,是何支神。
五看地支统摄。此法是空中立有者也。
论地支,冲拱刑合四件,极切门庭。一法,只拿日干作主取用。中间或吉神有刑冲,凶煞有拱合。其生旺休废,交差不一,难下手脚。不如只详四个地支基址,五气中何物最重。将来品量,却能耗散何神,能生扶何神,能冲合何神,能变化何神。
然后却看日干属何五气,与其最重之气统摄何如。便拿财官等物,用神之气,共前五气引于时座,参较其物。何者轻,何者重,义理调顺为详瑞,反则即为乖戾矣。
如此已立定,然后看其支气,各有所喜所忌之端,不可不详。五气谓如木火土金水五者,须要各各记住题目。若五气中,何者党多为重。如支干内外,明暗木多,则木气党盛矣。其喜忌已论于前五行中。
专执用神。切详喜忌。
专执一位用神位为尊长,为权神,为号令,为本领,为倚托。此非小可,执而推之,未敢纵求其意。
外取用神,或财或官、或刃或煞、或食或贵、或印或禄马等件。各类例取,原无定法。其用神最忌损犯,兼怕分窃,不宜太过与不及。
如太过之物,本不好了,或岁运又来生扶,即是倾覆坏了。如木则折、水则倾、土则崩、火则一发而灭、金则折损。如不及之物,本不好了。或岁运又来克窃,坏尽此物,岂独有祸。
用神喜忌,至元至妙,后篇别详,务要得中和为贵。
气气切穷其理,物物至极转关。
金木水火土五气,一阴一阳,共有十般消息。
一件件要看衰旺、轻重、明晦、广狭,穷则究理尽处。生何神,克何神,刑何神,合何神之类。
被坏之物,得生之物,主系何事。物物推将去,须要有依倚下落。至无可奈何处,便是转关。入何格调,极处一转,即是建功,圆活参透。却要定见下落,断成器不成器何如。
有气者急,有情者切。
有气乃当时也,看八字内外明暗干支。
如六月中气,大暑节,土金旺相,有气之类。此为至急,余则否。
有情乃合气也,如甲见己,丙见辛,丁见壬之类。
中间干支明暗,有合皆取,此为最切也。
一说非特合气有情,吉神生我克我,亦为有情。
虚拱贵气,生我、克我、刑我、合我。亦无异也。
.
Thanked by 3 Members:
|
|
#354
Gửi vào 06/10/2024 - 09:23
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết nhị
Can năm thống lĩnh, kế xem tháng giờ, giờ như quyền hành thêm bớt từng chi tiết nhỏ.
Xem can năm ngồi trên địa chi nào, cùng với mình giúp đỡ thay thế nhau như thế nào là cần thiết, cũng cần kéo về đất có quý khí, cục thể mới lớn.
Lại xem dụng thần, tức là liên hệ tới tuế quân, là thần sát cát hung nào. Và nếu dụng thần với tuế quân hoà hợp, toàn quý không nghi ngờ.
Kế đến xem quan hệ của hai can tháng và giờ, không thể quá chậm để phạm sai lầm, không đến lôi kéo.
Tượng số trong trụ biến hoá, năm khí thật giả, cát hung thần sát, đều nên dẫn về trụ giờ, phân biệt nặng nhẹ tỉ mỉ. Mỗi phần nhỏ đều phải so sánh.
Lại nói rằng: thái tuế là lãnh tụ của một năm, chúa tể của các vị thần, vô cùng hữu dụng.
Chỉ vì Từ Tử Bình lấy ngày làm chủ, chuyên chọn tài quan. Làm hại người đời sau ít nhiều lĩnh hội sai lầm về ý nghĩa.
Cho nên nói: năm xưng là câu (cái móc), buộc chặt vạn vật. Tháng xưng là hệ (buộc), nêu lên phần chủ yếu của sự vật cần buộc chặt. Ngày như hành thân (vật thể cân đối), các vì sao cũng không khác biệt. Giờ là xứng chuỳ (quả cân), nặng nhẹ thêm bớt. Ví dụ khá rõ ràng vậy.
Tuỳ hợp luôn chặt chẽ, diêu hợp thì không nhàn rỗi.
Tuỳ hợp: như bính ngọ khí mạnh mẽ, liền biết có hai chữ tân mùi. Như bóng theo hình, vẫn là ân nhân của nhà mình, tức là người phối ngẫu.
Diêu hợp: tức là thần ẩn trong địa chi, cùng với khí ẩn tàng kia hợp. Như thân mão, tý tỵ, hợi ngọ các loại. Bởi vì nó có khí, loại việc hợp xa, ý nghĩa vốn là không phóng nhàn rồi vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀二
年干统摄,次看月时,时如权衡,分毫加减。
看年干所乘何支,与我如何相摄为切,亦要引在有气贵地,体局方大。
又看用神,却系岁君,是何吉凶神煞。若更用神与岁君和,全贵无疑。
次看月时二干之关系,不可竟作差慢,不来扳揽。
柱中象数变化,五气真假,吉凶神煞,俱当引归时座,细分轻重。分毫必须比较。
又云:太岁一年之领袖,诸神之主宰,极有用处。
只因徐子平以日为主,专取财官。误了后人多少错会了义。
故曰:年如称钩,绾起其物。月如称系,提起纲纽。日如衡身,星两不差。时如称锤,轻重加减。其譬可谓切矣。
随合仍紧,遥合不闲。
随合:如丙午气壮,便知有辛未二字。如影随形,亦看辛未,还是我家恩人,却是仇人。
遥合:即是支中所藏之神,与彼所藏之气合也。如申卯、子巳、亥午等类。盖有其气,类遥合事,意自不放闲矣。
.
ngọc tỉnh áo quyết nhị
Can năm thống lĩnh, kế xem tháng giờ, giờ như quyền hành thêm bớt từng chi tiết nhỏ.
Xem can năm ngồi trên địa chi nào, cùng với mình giúp đỡ thay thế nhau như thế nào là cần thiết, cũng cần kéo về đất có quý khí, cục thể mới lớn.
Lại xem dụng thần, tức là liên hệ tới tuế quân, là thần sát cát hung nào. Và nếu dụng thần với tuế quân hoà hợp, toàn quý không nghi ngờ.
Kế đến xem quan hệ của hai can tháng và giờ, không thể quá chậm để phạm sai lầm, không đến lôi kéo.
Tượng số trong trụ biến hoá, năm khí thật giả, cát hung thần sát, đều nên dẫn về trụ giờ, phân biệt nặng nhẹ tỉ mỉ. Mỗi phần nhỏ đều phải so sánh.
Lại nói rằng: thái tuế là lãnh tụ của một năm, chúa tể của các vị thần, vô cùng hữu dụng.
Chỉ vì Từ Tử Bình lấy ngày làm chủ, chuyên chọn tài quan. Làm hại người đời sau ít nhiều lĩnh hội sai lầm về ý nghĩa.
Cho nên nói: năm xưng là câu (cái móc), buộc chặt vạn vật. Tháng xưng là hệ (buộc), nêu lên phần chủ yếu của sự vật cần buộc chặt. Ngày như hành thân (vật thể cân đối), các vì sao cũng không khác biệt. Giờ là xứng chuỳ (quả cân), nặng nhẹ thêm bớt. Ví dụ khá rõ ràng vậy.
Tuỳ hợp luôn chặt chẽ, diêu hợp thì không nhàn rỗi.
Tuỳ hợp: như bính ngọ khí mạnh mẽ, liền biết có hai chữ tân mùi. Như bóng theo hình, vẫn là ân nhân của nhà mình, tức là người phối ngẫu.
Diêu hợp: tức là thần ẩn trong địa chi, cùng với khí ẩn tàng kia hợp. Như thân mão, tý tỵ, hợi ngọ các loại. Bởi vì nó có khí, loại việc hợp xa, ý nghĩa vốn là không phóng nhàn rồi vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀二
年干统摄,次看月时,时如权衡,分毫加减。
看年干所乘何支,与我如何相摄为切,亦要引在有气贵地,体局方大。
又看用神,却系岁君,是何吉凶神煞。若更用神与岁君和,全贵无疑。
次看月时二干之关系,不可竟作差慢,不来扳揽。
柱中象数变化,五气真假,吉凶神煞,俱当引归时座,细分轻重。分毫必须比较。
又云:太岁一年之领袖,诸神之主宰,极有用处。
只因徐子平以日为主,专取财官。误了后人多少错会了义。
故曰:年如称钩,绾起其物。月如称系,提起纲纽。日如衡身,星两不差。时如称锤,轻重加减。其譬可谓切矣。
随合仍紧,遥合不闲。
随合:如丙午气壮,便知有辛未二字。如影随形,亦看辛未,还是我家恩人,却是仇人。
遥合:即是支中所藏之神,与彼所藏之气合也。如申卯、子巳、亥午等类。盖有其气,类遥合事,意自不放闲矣。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#355
Gửi vào 07/10/2024 - 09:53
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết tam
Thể chế phải rộng lớn.
Thông thường bát tự cần phải xem phạm vi khí tượng: sức mạnh của bản thể phải rộng mở, thiên địa ổn thoả nhau, mạnh mẽ và vững chắc. Năm khí thuận sanh nên có khí lực, đảo sanh nghịch hoá thì có công, quý khí qua lại không hỗn tạp, nhất định phong cách chẳng tầm thường.
Xem thêm sơ lược ý nghĩa hình thức của bát tự:
- Thanh (trong) quá thì có thể hàn (lạnh) có thể bạc (mỏng).
- Hậu (dày) quá thì có thể trọc (đục) có thể trệ (chậm chạp).
- Hoa lệ (rực rỡ) quá thì có thể khinh (nhẹ) có thể phù (nổi).
- Tứ dật (phóng túng) quá thì có thể lưu (trôi dạt) có thể đãng (lêu lổng).
- Hữu tình quá thì có thể lạm (bừa bãi) có thể dâm (chìm đắm).
- Cô giới (thu mình) quá thì độc lập (lẽ loi không nơi nương tựa) không thể dung vật (không dung túng vật).
- Cương dũng (cứng cỏi và mạnh mẽ) quá thì có thể bạo (tàn ác) có thể táo (nóng nảy) mà không có hàm dưỡng (tu thân dưỡng tính).
- Nhu noạ (mềm yếu và nhu nhược) quá thì có thể ngu (đôn hậu) có thể dộn (chậm chạp) nên không làm gì cả.
- Chấp thật (thực dụng) quá thì gò bó nên chỉ biết có mình.
- Hiên hoát (cởi mở) quá thi có tham vọng lớn, phô trương nhưng không thể thực hiện.
Mặt chữ phân trước sau.
Sử dụng câu chữ, tức là xa ở phía sau, hoặc gặp phải chữ khác là nhàn thần, chiếm trước ngăn cách. Nếu không có phạm thương tổn, phải được tuế vận sanh phù mới là toàn mỹ.
Sử dụng câu chữ, tuy gần lại ở phía trước, tức là câu chữ nhàn thần, nơi xa ở phía sau. Lay động chắc chắn trở ngại câu chữ dụng thần. Tức là xem trong trụ cái nào có thể diệt trừ hết.
Thiên can chuyên luận về sanh khắc chế hoá.
Sanh sẽ là tương sanh, có lý do của sanh mà không muốn sanh
Khắc sẽ là tượng khắc, có trạng huống khắc mà không muốn khắc.
Chế thì như thuỷ khắc hoả, mà có thổ chế sát của nó, hoả có trạng huống sanh trở lại.
Hoá thì thuỷ vốn khắc hoả, gặp mộc có thể trộm khí của nó, lý do hoả chuyển thành được sanh.
Còn lại phỏng theo đó.
Địa chi chuyên chọn lấy hình xung phá hại.
Hình: tương tự như ngày sửu giờ tuất thì hình xuất ra. Tương tự như ngày tỵ giờ dần kết cục là hình. Vật chán ghét nên hình khứ (khử đi), còn vật ưa thích mừng hình quy (theo về).
Xung: tượng tốt lành nên xung tượng hung xấu, quý khí nên xung nhà mình.
Phá: đại khái phá hoại vật của nó, trong đó có tốt có xấu.
Như mão phá ngọ, chính là ất khắc nhà ngọ kỷ thổ bị phá. Nếu kỷ thổ là sát, mặt đất có sức lực, tuế vận cùng lộ ra, nó hại là không nghi ngờ. Nếu có thể không lộ, cũng giống như ôm cọp mà ngũ. Lại xem thêm chữ dậu có khí hay không, có thể điều khiển được không.
Lại như kỷ là quý khí, lộ ra nên có có quyền lực có uy thế, thì cũng nhờ phá mà lại thành phúc.
Hại: sáu nơi có hại, nếu có đới kỵ thần hung sát. Tới khắc tới trộm khí đúng là kẻ thù gây hại.
Tượng thành một nhà. Không chấp vào quý khí.
Trong bát tự của người mà hoàn toàn không có tài quan quý khí, làm sao có thể an nhiên mà nỗ lực làm cho giàu có được? Bởi vì khí sanh nhau, tự lập thành tượng vậy. Công việc làm ăn phát đạt, có tình yêu thương vô bờ bến, sự cao cả và vững chắc cũng như vậy.
Bổn tượng kết hợp với gốc tương tự như giáp ất bính đinh.
Hoá tượng kết hợp với hoá tương tự như mậu quý, đinh nhâm.
Mộc hoả thành tượng, thổ kim thành tượng, kim thuỷ thành tượng, thuỷ mộc thành tượng, cùng với ba tượng thuận theo thứ tự cũng giống cách này. Tương tự như tượng của hoả thổ kim.
Lại có bốn tượng hoà hợp để nuôi dưỡng thì cũng vậy, Tương tự như thuỷ mộc hoả thổ.
Nguồn gốc cùng một khí. Sanh vật tràn đầy.
Như kim khí đến đúng mùa vượng, thì không bị khắc hay ăn trộm. Một khi khí của nó đã đi theo con là thuỷ thần. Thuỷ thần đã hiện ra ở thiên can, hoặc tràn ngập ở địa chi, vật thịnh hung mãnh. Phải cần bao nhiêu hoả thổ để có thể làm đê phòng mà trông cậy đây. Còn lại phỏng theo đó mà suy xét.
Chính là con đường tạo hoá có đầy có khuyết được thiết lập vững chắc và rõ ràng.
Tám cách then chốt. Năm khí mở mối.
Tám cách đã bàn luận ở trước, còn năm khí có khác biệt tụ tán (họp và tan), hoàn khuyết (đủ và thiếu), thật hư (đầy và trống), thâm thiển (nông sâu), địch giao (chống đối và tiếp xúc), hiệp quảng (hẹp và rộng), khinh trọng (nhẹ và nặng), hậu bạc (dày và mỏng), hàn hoà (lạnh và ấm). Thiên can địa chi đều có lực hắc vật đưa về cùng một tổ.
Tinh thần cường mạnh là tụ, mừng đối với cát thần, kỵ đối với hung sát. Cũng cần phải giúp đỡ, cát thần xung thì cũng không có nghĩa gì.
Hình nên không kéo về là tán, hợp cho hung sát, kỵ cho cát thần.
Kim mộc thuỷ hoả thổ đều hoàn toàn thuận theo thứ tự đó là khí hoàn.
Ngũ hành thiếu một thì đợi tuế vận bổ túc đó là khí khuyết.
Thật thì tương tự như giáp tuất gặp bính dần, vừa có hợp vừa có sanh, kết cấu cùng một hình tượng, tích tụ cùng một nơi. Trong trụ nếu không có kích dương (khiến cho phấn phát chí khí) ngang tàng (khí độ hiên ngang), như thế thì chẳng qua là một người giàu có mà thôi. Tức là có thể mà không có dụng, cho dù quý cũng chỉ là thi vị tố xan (không có công mà ăn lộc). Như thổ khí trong trụ quá nặng, đại khái thấy quan tới tức là quý. còn lại phỏng theo điều đó.
Hư thì như thổ vào dậu dần, một đến ất tỵ, kim đến thìn hợi, thuỷ hướng mão tuất, hoả ở sửu thân. Khí hư nên không thể kiên quyết. Còn lại phỏng theo đó.
Khí thâm như bổn tượng và hoá tượng của mộc gần tiết thanh minh.
Khí thiển như bổn tượng và hoá tượng của mộc đang lúc gặp tiết vũ thuỷ.
Khí địch như tân dậu gặp ất mão thông thường càng hung xấu. Nếu gặp kỷ sửu kỷ mùi chuyển thành nương tựa, thì tốt lành. Như không có nương tựa, lại phải xem chủ khách mạnh yếu, chủ yếu sẽ là quỷ tượng, khách yếu sẽ là tài tượng.
Giao tương tự như đinh tỵ gặp tân hợi, bính tuất gặp kỷ sửu, canh thìn gặp quý mùi. Vẫn phải phân biệt khí nào vượng mà đàm luận.
Hiệp (hẹp) như dụng thần kết cấu ở một hai chi thần, hiệp cũng có sanh vượng, nhưng khí không đến được nơi dụng thần.
Quảng (rộng) thỉ dẫn khí của nó tới được nơi dụng thần, nơi nguồn sanh vẫn còn khí lực, thông khí của tam hợp hoặc thông khí lục hợp.
Khinh (nhẹ) tương tự như bổn tượng hoá tượng của mộc nhưng vào nơi kim, lại chẳng được thiên thời.
Trọng (nặng) tương tự như tượng mộc gặp dần mão chính là địa chi của bổn tượng.
Bạc (mỏng) tương tự như tượng mộc gặp mặt đất tử tuyệt của nhà mình, vẫn không được thiên thời.
Hậu (dày) tương tự như tượng mộc gặp đất mộ khố, trường sanh, hoặc được thiên thời, hoặc thiên can khác tới trợ giúp.
Hàn (lạnh) như mộc khô hoả tán, kim hàn thuỷ lãnh thổ đống (đóng băng). Tương tự như thiên can hưu tù, địa chi tử tuyệt.
Hoà (ấm) thì có hợp có sanh, có tình có trợ giúp, có lâm quan đế vượng, không có hưu phế tử tuyệt.
Có thể có thần vượng tướng đến giúp đỡ, hoặc trước sau lúc thiên thời, có khí tràn đầy nên thịnh vượng. Chính là vật không nương vào đê phòng, không lâu thì sụp đổ.
Có trường hợp khí yếu kém nên suy, chính là căn bản không sung túc. Vì thế không đắc thời, khí cũng không dồi dào. Lại không có giúp đỡ, đó là các loại suy bại, làm sao có thể đảm nhiệm được.
Có trường hợp khí suy lâu rồi không gặp được thiên thời, lại đến tử bại. Tuy nhiên có ám can tương sanh, dẫn về nơi sanh vượng.
Có trường hợp khí vượng nhưng không lâu, bắt đầu thì khí thế mạnh mẽ, thoải mái như thường. Cuối cùng thì thu rút về cất trữ, cuối cùng không có nơi nương tựa. Dễ tản mác, không có nguồn gốc của ý tốt. Không có chuyển sanh, lợi dụng cơ hội không liên tục.
Có trường hợp khí mới bắt đầu dễ thôi thúc. Khí ở nơi đến, người ta đều lấy làm tượng của vượng tướng. Nếu gặp ở khoảng giữa khí chắc dày có thể chiếm giữ, hung không thể tả.
Có trường hợp khí quá lâu. Khí hậu đã đi qua đều gọi là hưu phế, lại nói rằng thành công thì rút lui. Mà không biết còn dư khí, bỗng nhiên gặp phải vượng xứ tới giúp đỡ, sức sống bắt đầu thông suốt, khí trở thành nơi dồi dào, càng chịu được tuế hàn (cùng quẫn). Dư khí tức là hưu phế. Cho nên hoá thành tượng khác vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀三
体制须广大。
凡八字要看气象规模:体势豁达,天地相停,雄健壮实。五气顺克而有力,倒生逆化而有功,贵气往来不杂,必非寻常格调。
又看八字大意体段:
过于清,则或寒或薄。
过于厚,则或浊或滞。
过于华丽,则或轻或浮。
过于肆逸,则或流或荡。
过于有情,则或滥或淫。
过于孤介,则独立不能容物。
过于刚勇,则或暴或燥而无涵养。
过于柔懦,则或愚或钝而无作为。
过于执实,则拘局而只知有己。
过于轩豁,则图谋广而秀不能实。
字面分先后。
紧用字样,却远在后,或被别字闲神,占先隔了。若无伤犯,须得岁运生扶,方为全美。
紧用字样,虽近且先,却有闲神字样,远处在后。动摇得切,妨碍用神字样。却看柱内,何者可以剿除去得。
天干专论生克制化。
生则相生,有生不欲生之理。
克则相克,有克不欲克之情。
制则如水克火,而有土制其煞,火能复生之情。
化则水本克火,见木能窃其气,火转得生之理。
余皆仿此。
地支专取刑冲破害。
刑者:如丑日戌时之类,则刑其出。如巳日寅时之类,则刑其归。恶物宜刑去,好物喜刑归。
冲者:吉象宜冲凶象,贵气宜冲我家。
破者:大概破坏其物,中间有吉有凶。
如卯破午,乃乙克午家己土受破。若己土为煞,地面有力,岁运一露,其害无疑。若或不露,亦犹抱虎而眠。又看酉字有气无气,可能驭服否。
又如己为贵气,露而有力有势,则亦因破而来为福。
害者:六害之处,若带忌神凶煞。来克来窃,真为仇害。
象成一家。不执贵气。
人八字中,全无财官等件贵气,有安然奋发富贵者何?盖以相生之气,自立成象也。生意滔滔,有不尽之情,高远坚实如此。
本象配本,如甲乙丙丁之类。
化象配化,如戊癸丁壬之类。
木火成象、土金成象、金水成象、水木成象、及有三象顺序者,同此法。如火土金象之类。
又有四象和协生育者,亦然。如水木火土之类。
根源一气。生物满盈。
如金气正临天时建旺之序,既无克窃。其气一往据生其子者,水神也。水神既显露于干,或泛滥于支,物盛不祥。还得几多火土,能堤防倚赖哉。余仿此推。
则造化盈亏之道,灼然有凭,万无一失也。
八法关键。五气开端。
八法已论于前,五气有聚散、完缺、实虚、深浅、敌交、狭广、轻重、厚薄、寒和之不同。干支俱有力,克物归窠。
精神强健为聚,喜吉神,忌凶煞。亦要辅佐,吉神冲而无义。
刑而不归为散,宜凶煞,忌吉神。
金木水火土俱全顺序为气完。
五行欠一以待岁运补足为气缺。
实则如甲戌见丙寅之类,有合有生,局于一象,滞于一方。柱中若无激扬昂藏之类,如此则不过一富翁而已。即有体无用,纵贵亦尸位素餐。如柱中土气太重,略见官来即贵。余仿此。
虚则如土入酉寅、木临乙巳、金到辰亥、水向卯戌、火居丑申。气虚而不能确固。余仿此。
气深如木之本象化象近清明节。
气浅如木之本象化象方得雨水节之例。
气敌如辛酉见乙卯,大概凶甚。若见己未己丑,转有凭籍,反吉。如无凭依,又看宾主强弱,主弱则为鬼象,宾弱则为财象。
交如丁巳见辛亥,丙戌见己丑,庚辰见癸未之类。仍分何者气旺而言。
狭如用神局于一二支神之情,狭亦有生旺,引用处其气却来不得。
广则引用处其气来得,生源处仍有精神,通三合之气,或通六合气。
轻如木之本象化象,却入金乡,又非天时之类。
重如木象逢寅卯,乃本象地支之类。
薄如木象逢自家死绝之地面,仍非天时之类。
厚如木象逢库墓长生之地,或得天时,或他干来助之类。
寒如木枯火散,金寒水冷土冻。天干休囚,地支死绝之类。
和则有合有生,有情有助,有临官帝旺,无休废死绝。
或有旺相之神来扶助,或当天时前后,有气满而盛。乃物无依藉堤防者,不久而倾。
有气亏而衰,乃根本不实。仍未得时,气亦不足。又无生扶,此等废物,何可胜言。
有气衰而久不得天时,又临死败。却有暗干相生,引归生旺之乡。
有气旺非长,始则气焰奋发,通舒自若。终则收敛归藏,去处竟无依靠。易于散漫,盛意无源。殊乏转生,乘势无续。
有气嫩易催。方来之气,人皆以为旺相之象。中间若逢,顽厚之气克窃者,凶不可言。
有气过耐远。过去气候俱曰休废,又云成功者退。殊不知余气,忽被旺处资来,绾动生意,气返实处,愈耐岁寒。余气即休废。别化他象故也。
.
ngọc tỉnh áo quyết tam
Thể chế phải rộng lớn.
Thông thường bát tự cần phải xem phạm vi khí tượng: sức mạnh của bản thể phải rộng mở, thiên địa ổn thoả nhau, mạnh mẽ và vững chắc. Năm khí thuận sanh nên có khí lực, đảo sanh nghịch hoá thì có công, quý khí qua lại không hỗn tạp, nhất định phong cách chẳng tầm thường.
Xem thêm sơ lược ý nghĩa hình thức của bát tự:
- Thanh (trong) quá thì có thể hàn (lạnh) có thể bạc (mỏng).
- Hậu (dày) quá thì có thể trọc (đục) có thể trệ (chậm chạp).
- Hoa lệ (rực rỡ) quá thì có thể khinh (nhẹ) có thể phù (nổi).
- Tứ dật (phóng túng) quá thì có thể lưu (trôi dạt) có thể đãng (lêu lổng).
- Hữu tình quá thì có thể lạm (bừa bãi) có thể dâm (chìm đắm).
- Cô giới (thu mình) quá thì độc lập (lẽ loi không nơi nương tựa) không thể dung vật (không dung túng vật).
- Cương dũng (cứng cỏi và mạnh mẽ) quá thì có thể bạo (tàn ác) có thể táo (nóng nảy) mà không có hàm dưỡng (tu thân dưỡng tính).
- Nhu noạ (mềm yếu và nhu nhược) quá thì có thể ngu (đôn hậu) có thể dộn (chậm chạp) nên không làm gì cả.
- Chấp thật (thực dụng) quá thì gò bó nên chỉ biết có mình.
- Hiên hoát (cởi mở) quá thi có tham vọng lớn, phô trương nhưng không thể thực hiện.
Mặt chữ phân trước sau.
Sử dụng câu chữ, tức là xa ở phía sau, hoặc gặp phải chữ khác là nhàn thần, chiếm trước ngăn cách. Nếu không có phạm thương tổn, phải được tuế vận sanh phù mới là toàn mỹ.
Sử dụng câu chữ, tuy gần lại ở phía trước, tức là câu chữ nhàn thần, nơi xa ở phía sau. Lay động chắc chắn trở ngại câu chữ dụng thần. Tức là xem trong trụ cái nào có thể diệt trừ hết.
Thiên can chuyên luận về sanh khắc chế hoá.
Sanh sẽ là tương sanh, có lý do của sanh mà không muốn sanh
Khắc sẽ là tượng khắc, có trạng huống khắc mà không muốn khắc.
Chế thì như thuỷ khắc hoả, mà có thổ chế sát của nó, hoả có trạng huống sanh trở lại.
Hoá thì thuỷ vốn khắc hoả, gặp mộc có thể trộm khí của nó, lý do hoả chuyển thành được sanh.
Còn lại phỏng theo đó.
Địa chi chuyên chọn lấy hình xung phá hại.
Hình: tương tự như ngày sửu giờ tuất thì hình xuất ra. Tương tự như ngày tỵ giờ dần kết cục là hình. Vật chán ghét nên hình khứ (khử đi), còn vật ưa thích mừng hình quy (theo về).
Xung: tượng tốt lành nên xung tượng hung xấu, quý khí nên xung nhà mình.
Phá: đại khái phá hoại vật của nó, trong đó có tốt có xấu.
Như mão phá ngọ, chính là ất khắc nhà ngọ kỷ thổ bị phá. Nếu kỷ thổ là sát, mặt đất có sức lực, tuế vận cùng lộ ra, nó hại là không nghi ngờ. Nếu có thể không lộ, cũng giống như ôm cọp mà ngũ. Lại xem thêm chữ dậu có khí hay không, có thể điều khiển được không.
Lại như kỷ là quý khí, lộ ra nên có có quyền lực có uy thế, thì cũng nhờ phá mà lại thành phúc.
Hại: sáu nơi có hại, nếu có đới kỵ thần hung sát. Tới khắc tới trộm khí đúng là kẻ thù gây hại.
Tượng thành một nhà. Không chấp vào quý khí.
Trong bát tự của người mà hoàn toàn không có tài quan quý khí, làm sao có thể an nhiên mà nỗ lực làm cho giàu có được? Bởi vì khí sanh nhau, tự lập thành tượng vậy. Công việc làm ăn phát đạt, có tình yêu thương vô bờ bến, sự cao cả và vững chắc cũng như vậy.
Bổn tượng kết hợp với gốc tương tự như giáp ất bính đinh.
Hoá tượng kết hợp với hoá tương tự như mậu quý, đinh nhâm.
Mộc hoả thành tượng, thổ kim thành tượng, kim thuỷ thành tượng, thuỷ mộc thành tượng, cùng với ba tượng thuận theo thứ tự cũng giống cách này. Tương tự như tượng của hoả thổ kim.
Lại có bốn tượng hoà hợp để nuôi dưỡng thì cũng vậy, Tương tự như thuỷ mộc hoả thổ.
Nguồn gốc cùng một khí. Sanh vật tràn đầy.
Như kim khí đến đúng mùa vượng, thì không bị khắc hay ăn trộm. Một khi khí của nó đã đi theo con là thuỷ thần. Thuỷ thần đã hiện ra ở thiên can, hoặc tràn ngập ở địa chi, vật thịnh hung mãnh. Phải cần bao nhiêu hoả thổ để có thể làm đê phòng mà trông cậy đây. Còn lại phỏng theo đó mà suy xét.
Chính là con đường tạo hoá có đầy có khuyết được thiết lập vững chắc và rõ ràng.
Tám cách then chốt. Năm khí mở mối.
Tám cách đã bàn luận ở trước, còn năm khí có khác biệt tụ tán (họp và tan), hoàn khuyết (đủ và thiếu), thật hư (đầy và trống), thâm thiển (nông sâu), địch giao (chống đối và tiếp xúc), hiệp quảng (hẹp và rộng), khinh trọng (nhẹ và nặng), hậu bạc (dày và mỏng), hàn hoà (lạnh và ấm). Thiên can địa chi đều có lực hắc vật đưa về cùng một tổ.
Tinh thần cường mạnh là tụ, mừng đối với cát thần, kỵ đối với hung sát. Cũng cần phải giúp đỡ, cát thần xung thì cũng không có nghĩa gì.
Hình nên không kéo về là tán, hợp cho hung sát, kỵ cho cát thần.
Kim mộc thuỷ hoả thổ đều hoàn toàn thuận theo thứ tự đó là khí hoàn.
Ngũ hành thiếu một thì đợi tuế vận bổ túc đó là khí khuyết.
Thật thì tương tự như giáp tuất gặp bính dần, vừa có hợp vừa có sanh, kết cấu cùng một hình tượng, tích tụ cùng một nơi. Trong trụ nếu không có kích dương (khiến cho phấn phát chí khí) ngang tàng (khí độ hiên ngang), như thế thì chẳng qua là một người giàu có mà thôi. Tức là có thể mà không có dụng, cho dù quý cũng chỉ là thi vị tố xan (không có công mà ăn lộc). Như thổ khí trong trụ quá nặng, đại khái thấy quan tới tức là quý. còn lại phỏng theo điều đó.
Hư thì như thổ vào dậu dần, một đến ất tỵ, kim đến thìn hợi, thuỷ hướng mão tuất, hoả ở sửu thân. Khí hư nên không thể kiên quyết. Còn lại phỏng theo đó.
Khí thâm như bổn tượng và hoá tượng của mộc gần tiết thanh minh.
Khí thiển như bổn tượng và hoá tượng của mộc đang lúc gặp tiết vũ thuỷ.
Khí địch như tân dậu gặp ất mão thông thường càng hung xấu. Nếu gặp kỷ sửu kỷ mùi chuyển thành nương tựa, thì tốt lành. Như không có nương tựa, lại phải xem chủ khách mạnh yếu, chủ yếu sẽ là quỷ tượng, khách yếu sẽ là tài tượng.
Giao tương tự như đinh tỵ gặp tân hợi, bính tuất gặp kỷ sửu, canh thìn gặp quý mùi. Vẫn phải phân biệt khí nào vượng mà đàm luận.
Hiệp (hẹp) như dụng thần kết cấu ở một hai chi thần, hiệp cũng có sanh vượng, nhưng khí không đến được nơi dụng thần.
Quảng (rộng) thỉ dẫn khí của nó tới được nơi dụng thần, nơi nguồn sanh vẫn còn khí lực, thông khí của tam hợp hoặc thông khí lục hợp.
Khinh (nhẹ) tương tự như bổn tượng hoá tượng của mộc nhưng vào nơi kim, lại chẳng được thiên thời.
Trọng (nặng) tương tự như tượng mộc gặp dần mão chính là địa chi của bổn tượng.
Bạc (mỏng) tương tự như tượng mộc gặp mặt đất tử tuyệt của nhà mình, vẫn không được thiên thời.
Hậu (dày) tương tự như tượng mộc gặp đất mộ khố, trường sanh, hoặc được thiên thời, hoặc thiên can khác tới trợ giúp.
Hàn (lạnh) như mộc khô hoả tán, kim hàn thuỷ lãnh thổ đống (đóng băng). Tương tự như thiên can hưu tù, địa chi tử tuyệt.
Hoà (ấm) thì có hợp có sanh, có tình có trợ giúp, có lâm quan đế vượng, không có hưu phế tử tuyệt.
Có thể có thần vượng tướng đến giúp đỡ, hoặc trước sau lúc thiên thời, có khí tràn đầy nên thịnh vượng. Chính là vật không nương vào đê phòng, không lâu thì sụp đổ.
Có trường hợp khí yếu kém nên suy, chính là căn bản không sung túc. Vì thế không đắc thời, khí cũng không dồi dào. Lại không có giúp đỡ, đó là các loại suy bại, làm sao có thể đảm nhiệm được.
Có trường hợp khí suy lâu rồi không gặp được thiên thời, lại đến tử bại. Tuy nhiên có ám can tương sanh, dẫn về nơi sanh vượng.
Có trường hợp khí vượng nhưng không lâu, bắt đầu thì khí thế mạnh mẽ, thoải mái như thường. Cuối cùng thì thu rút về cất trữ, cuối cùng không có nơi nương tựa. Dễ tản mác, không có nguồn gốc của ý tốt. Không có chuyển sanh, lợi dụng cơ hội không liên tục.
Có trường hợp khí mới bắt đầu dễ thôi thúc. Khí ở nơi đến, người ta đều lấy làm tượng của vượng tướng. Nếu gặp ở khoảng giữa khí chắc dày có thể chiếm giữ, hung không thể tả.
Có trường hợp khí quá lâu. Khí hậu đã đi qua đều gọi là hưu phế, lại nói rằng thành công thì rút lui. Mà không biết còn dư khí, bỗng nhiên gặp phải vượng xứ tới giúp đỡ, sức sống bắt đầu thông suốt, khí trở thành nơi dồi dào, càng chịu được tuế hàn (cùng quẫn). Dư khí tức là hưu phế. Cho nên hoá thành tượng khác vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀三
体制须广大。
凡八字要看气象规模:体势豁达,天地相停,雄健壮实。五气顺克而有力,倒生逆化而有功,贵气往来不杂,必非寻常格调。
又看八字大意体段:
过于清,则或寒或薄。
过于厚,则或浊或滞。
过于华丽,则或轻或浮。
过于肆逸,则或流或荡。
过于有情,则或滥或淫。
过于孤介,则独立不能容物。
过于刚勇,则或暴或燥而无涵养。
过于柔懦,则或愚或钝而无作为。
过于执实,则拘局而只知有己。
过于轩豁,则图谋广而秀不能实。
字面分先后。
紧用字样,却远在后,或被别字闲神,占先隔了。若无伤犯,须得岁运生扶,方为全美。
紧用字样,虽近且先,却有闲神字样,远处在后。动摇得切,妨碍用神字样。却看柱内,何者可以剿除去得。
天干专论生克制化。
生则相生,有生不欲生之理。
克则相克,有克不欲克之情。
制则如水克火,而有土制其煞,火能复生之情。
化则水本克火,见木能窃其气,火转得生之理。
余皆仿此。
地支专取刑冲破害。
刑者:如丑日戌时之类,则刑其出。如巳日寅时之类,则刑其归。恶物宜刑去,好物喜刑归。
冲者:吉象宜冲凶象,贵气宜冲我家。
破者:大概破坏其物,中间有吉有凶。
如卯破午,乃乙克午家己土受破。若己土为煞,地面有力,岁运一露,其害无疑。若或不露,亦犹抱虎而眠。又看酉字有气无气,可能驭服否。
又如己为贵气,露而有力有势,则亦因破而来为福。
害者:六害之处,若带忌神凶煞。来克来窃,真为仇害。
象成一家。不执贵气。
人八字中,全无财官等件贵气,有安然奋发富贵者何?盖以相生之气,自立成象也。生意滔滔,有不尽之情,高远坚实如此。
本象配本,如甲乙丙丁之类。
化象配化,如戊癸丁壬之类。
木火成象、土金成象、金水成象、水木成象、及有三象顺序者,同此法。如火土金象之类。
又有四象和协生育者,亦然。如水木火土之类。
根源一气。生物满盈。
如金气正临天时建旺之序,既无克窃。其气一往据生其子者,水神也。水神既显露于干,或泛滥于支,物盛不祥。还得几多火土,能堤防倚赖哉。余仿此推。
则造化盈亏之道,灼然有凭,万无一失也。
八法关键。五气开端。
八法已论于前,五气有聚散、完缺、实虚、深浅、敌交、狭广、轻重、厚薄、寒和之不同。干支俱有力,克物归窠。
精神强健为聚,喜吉神,忌凶煞。亦要辅佐,吉神冲而无义。
刑而不归为散,宜凶煞,忌吉神。
金木水火土俱全顺序为气完。
五行欠一以待岁运补足为气缺。
实则如甲戌见丙寅之类,有合有生,局于一象,滞于一方。柱中若无激扬昂藏之类,如此则不过一富翁而已。即有体无用,纵贵亦尸位素餐。如柱中土气太重,略见官来即贵。余仿此。
虚则如土入酉寅、木临乙巳、金到辰亥、水向卯戌、火居丑申。气虚而不能确固。余仿此。
气深如木之本象化象近清明节。
气浅如木之本象化象方得雨水节之例。
气敌如辛酉见乙卯,大概凶甚。若见己未己丑,转有凭籍,反吉。如无凭依,又看宾主强弱,主弱则为鬼象,宾弱则为财象。
交如丁巳见辛亥,丙戌见己丑,庚辰见癸未之类。仍分何者气旺而言。
狭如用神局于一二支神之情,狭亦有生旺,引用处其气却来不得。
广则引用处其气来得,生源处仍有精神,通三合之气,或通六合气。
轻如木之本象化象,却入金乡,又非天时之类。
重如木象逢寅卯,乃本象地支之类。
薄如木象逢自家死绝之地面,仍非天时之类。
厚如木象逢库墓长生之地,或得天时,或他干来助之类。
寒如木枯火散,金寒水冷土冻。天干休囚,地支死绝之类。
和则有合有生,有情有助,有临官帝旺,无休废死绝。
或有旺相之神来扶助,或当天时前后,有气满而盛。乃物无依藉堤防者,不久而倾。
有气亏而衰,乃根本不实。仍未得时,气亦不足。又无生扶,此等废物,何可胜言。
有气衰而久不得天时,又临死败。却有暗干相生,引归生旺之乡。
有气旺非长,始则气焰奋发,通舒自若。终则收敛归藏,去处竟无依靠。易于散漫,盛意无源。殊乏转生,乘势无续。
有气嫩易催。方来之气,人皆以为旺相之象。中间若逢,顽厚之气克窃者,凶不可言。
有气过耐远。过去气候俱曰休废,又云成功者退。殊不知余气,忽被旺处资来,绾动生意,气返实处,愈耐岁寒。余气即休废。别化他象故也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#356
Gửi vào 08/10/2024 - 08:56
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết tứ
GIỐNG VỚI NGỌC TỈNH ÁO QUYẾT TAM
Thể chế phải rộng lớn.
Thông thường bát tự cần phải xem phạm vi khí tượng: sức mạnh của bản thể phải rộng mở, thiên địa ổn thoả nhau, mạnh mẽ và vững chắc. Năm khí thuận sanh nên có khí lực, đảo sanh nghịch hoá thì có công, quý khí qua lại không hỗn tạp, nhất định phong cách chẳng tầm thường.
Xem thêm sơ lược ý nghĩa hình thức của bát tự:
- Thanh (trong) quá thì có thể hàn (lạnh) có thể bạc (mỏng).
- Hậu (dày) quá thì có thể trọc (đục) có thể trệ (chậm chạp).
- Hoa lệ (rực rỡ) quá thì có thể khinh (nhẹ) có thể phù (nổi).
- Tứ dật (phóng túng) quá thì có thể lưu (trôi dạt) có thể đãng (lêu lổng).
- Hữu tình quá thì có thể lạm (bừa bãi) có thể dâm (chìm đắm).
- Cô giới (thu mình) quá thì độc lập (lẽ loi không nơi nương tựa) không thể dung vật (không dung túng vật).
- Cương dũng (cứng cỏi và mạnh mẽ) quá thì có thể bạo (tàn ác) có thể táo (nóng nảy) mà không có hàm dưỡng (tu thân dưỡng tính).
- Nhu noạ (mềm yếu và nhu nhược) quá thì có thể ngu (đôn hậu) có thể dộn (chậm chạp) nên không làm gì cả.
- Chấp thật (thực dụng) quá thì gò bó nên chỉ biết có mình.
- Hiên hoát (cởi mở) quá thi có tham vọng lớn, phô trương nhưng không thể thực hiện.
Mặt chữ phân trước sau.
Sử dụng câu chữ, tức là xa ở phía sau, hoặc gặp phải chữ khác là nhàn thần, chiếm trước ngăn cách. Nếu không có phạm thương tổn, phải được tuế vận sanh phù mới là toàn mỹ.
Sử dụng câu chữ, tuy gần lại ở phía trước, tức là câu chữ nhàn thần, nơi xa ở phía sau. Lay động chắc chắn trở ngại câu chữ dụng thần. Tức là xem trong trụ cái nào có thể diệt trừ hết.
Thiên can chuyên luận về sanh khắc chế hoá.
Sanh sẽ là tương sanh, có lý do của sanh mà không muốn sanh
Khắc sẽ là tượng khắc, có trạng huống khắc mà không muốn khắc.
Chế thì như thuỷ khắc hoả, mà có thổ chế sát của nó, hoả có trạng huống sanh trở lại.
Hoá thì thuỷ vốn khắc hoả, gặp mộc có thể trộm khí của nó, lý do hoả chuyển thành được sanh.
Còn lại phỏng theo đó.
Địa chi chuyên chọn lấy hình xung phá hại.
Hình: tương tự như ngày sửu giờ tuất thì hình xuất ra. Tương tự như ngày tỵ giờ dần kết cục là hình. Vật chán ghét nên hình khứ (khử đi), còn vật ưa thích mừng hình quy (theo về).
Xung: tượng tốt lành nên xung tượng hung xấu, quý khí nên xung nhà mình.
Phá: đại khái phá hoại vật của nó, trong đó có tốt có xấu.
Như mão phá ngọ, chính là ất khắc nhà ngọ kỷ thổ bị phá. Nếu kỷ thổ là sát, mặt đất có sức lực, tuế vận cùng lộ ra, nó hại là không nghi ngờ. Nếu có thể không lộ, cũng giống như ôm cọp mà ngũ. Lại xem thêm chữ dậu có khí hay không, có thể điều khiển được không.
Lại như kỷ là quý khí, lộ ra nên có có quyền lực có uy thế, thì cũng nhờ phá mà lại thành phúc.
Hại: sáu nơi có hại, nếu có đới kỵ thần hung sát. Tới khắc tới trộm khí đúng là kẻ thù gây hại.
Tượng thành một nhà. Không chấp vào quý khí.
Trong bát tự của người mà hoàn toàn không có tài quan quý khí, làm sao có thể an nhiên mà nỗ lực làm cho giàu có được? Bởi vì khí sanh nhau, tự lập thành tượng vậy. Công việc làm ăn phát đạt, có tình yêu thương vô bờ bến, sự cao cả và vững chắc cũng như vậy.
Bổn tượng kết hợp với gốc tương tự như giáp ất bính đinh.
Hoá tượng kết hợp với hoá tương tự như mậu quý, đinh nhâm.
Mộc hoả thành tượng, thổ kim thành tượng, kim thuỷ thành tượng, thuỷ mộc thành tượng, cùng với ba tượng thuận theo thứ tự cũng giống cách này. Tương tự như tượng của hoả thổ kim.
Lại có bốn tượng hoà hợp để nuôi dưỡng thì cũng vậy, Tương tự như thuỷ mộc hoả thổ.
Nguồn gốc cùng một khí. Sanh vật tràn đầy.
Như kim khí đến đúng mùa vượng, thì không bị khắc hay ăn trộm. Một khi khí của nó đã đi theo con là thuỷ thần. Thuỷ thần đã hiện ra ở thiên can, hoặc tràn ngập ở địa chi, vật thịnh hung mãnh. Phải cần bao nhiêu hoả thổ để có thể làm đê phòng mà trông cậy đây. Còn lại phỏng theo đó mà suy xét.
Chính là con đường tạo hoá có đầy có khuyết được thiết lập vững chắc và rõ ràng.
Tám cách then chốt. Năm khí mở mối.
Tám cách đã bàn luận ở trước, còn năm khí có khác biệt tụ tán (họp và tan), hoàn khuyết (đủ và thiếu), thật hư (đầy và trống), thâm thiển (nông sâu), địch giao (chống đối và tiếp xúc), hiệp quảng (hẹp và rộng), khinh trọng (nhẹ và nặng), hậu bạc (dày và mỏng), hàn hoà (lạnh và ấm). Thiên can địa chi đều có lực hắc vật đưa về cùng một tổ.
Tinh thần cường mạnh là tụ, mừng đối với cát thần, kỵ đối với hung sát. Cũng cần phải giúp đỡ, cát thần xung thì cũng không có nghĩa gì.
Hình nên không kéo về là tán, hợp cho hung sát, kỵ cho cát thần.
Kim mộc thuỷ hoả thổ đều hoàn toàn thuận theo thứ tự đó là khí hoàn.
Ngũ hành thiếu một thì đợi tuế vận bổ túc đó là khí khuyết.
Thật thì tương tự như giáp tuất gặp bính dần, vừa có hợp vừa có sanh, kết cấu cùng một hình tượng, tích tụ cùng một nơi. Trong trụ nếu không có kích dương (khiến cho phấn phát chí khí) ngang tàng (khí độ hiên ngang), như thế thì chẳng qua là một người giàu có mà thôi. Tức là có thể mà không có dụng, cho dù quý cũng chỉ là thi vị tố xan (không có công mà ăn lộc). Như thổ khí trong trụ quá nặng, đại khái thấy quan tới tức là quý. còn lại phỏng theo điều đó.
Hư thì như thổ vào dậu dần, một đến ất tỵ, kim đến thìn hợi, thuỷ hướng mão tuất, hoả ở sửu thân. Khí hư nên không thể kiên quyết. Còn lại phỏng theo đó.
Khí thâm như bổn tượng và hoá tượng của mộc gần tiết thanh minh.
Khí thiển như bổn tượng và hoá tượng của mộc đang lúc gặp tiết vũ thuỷ.
Khí địch như tân dậu gặp ất mão thông thường càng hung xấu. Nếu gặp kỷ sửu kỷ mùi chuyển thành nương tựa, thì tốt lành. Như không có nương tựa, lại phải xem chủ khách mạnh yếu, chủ yếu sẽ là quỷ tượng, khách yếu sẽ là tài tượng.
Giao tương tự như đinh tỵ gặp tân hợi, bính tuất gặp kỷ sửu, canh thìn gặp quý mùi. Vẫn phải phân biệt khí nào vượng mà đàm luận.
Hiệp (hẹp) như dụng thần kết cấu ở một hai chi thần, hiệp cũng có sanh vượng, nhưng khí không đến được nơi dụng thần.
Quảng (rộng) thỉ dẫn khí của nó tới được nơi dụng thần, nơi nguồn sanh vẫn còn khí lực, thông khí của tam hợp hoặc thông khí lục hợp.
Khinh (nhẹ) tương tự như bổn tượng hoá tượng của mộc nhưng vào nơi kim, lại chẳng được thiên thời.
Trọng (nặng) tương tự như tượng mộc gặp dần mão chính là địa chi của bổn tượng.
Bạc (mỏng) tương tự như tượng mộc gặp mặt đất tử tuyệt của nhà mình, vẫn không được thiên thời.
Hậu (dày) tương tự như tượng mộc gặp đất mộ khố, trường sanh, hoặc được thiên thời, hoặc thiên can khác tới trợ giúp.
Hàn (lạnh) như mộc khô hoả tán, kim hàn thuỷ lãnh thổ đống (đóng băng). Tương tự như thiên can hưu tù, địa chi tử tuyệt.
Hoà (ấm) thì có hợp có sanh, có tình có trợ giúp, có lâm quan đế vượng, không có hưu phế tử tuyệt.
Có thể có thần vượng tướng đến giúp đỡ, hoặc trước sau lúc thiên thời, có khí tràn đầy nên thịnh vượng. Chính là vật không nương vào đê phòng, không lâu thì sụp đổ.
Có trường hợp khí yếu kém nên suy, chính là căn bản không sung túc. Vì thế không đắc thời, khí cũng không dồi dào. Lại không có giúp đỡ, đó là các loại suy bại, làm sao có thể đảm nhiệm được.
Có trường hợp khí suy lâu rồi không gặp được thiên thời, lại đến tử bại. Tuy nhiên có ám can tương sanh, dẫn về nơi sanh vượng.
Có trường hợp khí vượng nhưng không lâu, bắt đầu thì khí thế mạnh mẽ, thoải mái như thường. Cuối cùng thì thu rút về cất trữ, cuối cùng không có nơi nương tựa. Dễ tản mác, không có nguồn gốc của ý tốt. Không có chuyển sanh, lợi dụng cơ hội không liên tục.
Có trường hợp khí mới bắt đầu dễ thôi thúc. Khí ở nơi đến, người ta đều lấy làm tượng của vượng tướng. Nếu gặp ở khoảng giữa khí chắc dày có thể chiếm giữ, hung không thể tả.
Có trường hợp khí quá lâu. Khí hậu đã đi qua đều gọi là hưu phế, lại nói rằng thành công thì rút lui. Mà không biết còn dư khí, bỗng nhiên gặp phải vượng xứ tới giúp đỡ, sức sống bắt đầu thông suốt, khí trở thành nơi dồi dào, càng chịu được tuế hàn (cùng quẫn). Dư khí tức là hưu phế. Cho nên hoá thành tượng khác vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀四
体制须广大。
凡八字要看气象规模:体势豁达,天地相停,雄健壮实。五气顺克而有力,倒生逆化而有功,贵气往来不杂,必非寻常格调。
又看八字大意体段:
过于清,则或寒或薄。
过于厚,则或浊或滞。
过于华丽,则或轻或浮。
过于肆逸,则或流或荡。
过于有情,则或滥或淫。
过于孤介,则独立不能容物。
过于刚勇,则或暴或燥而无涵养。
过于柔懦,则或愚或钝而无作为。
过于执实,则拘局而只知有己。
过于轩豁,则图谋广而秀不能实。
字面分先后。
紧用字样,却远在后,或被别字闲神,占先隔了。若无伤犯,须得岁运生扶,方为全美。
紧用字样,虽近且先,却有闲神字样,远处在后。动摇得切,妨碍用神字样。却看柱内,何者可以剿除去得。
天干专论生克制化。
生则相生,有生不欲生之理。
克则相克,有克不欲克之情。
制则如水克火,而有土制其煞,火能复生之情。
化则水本克火,见木能窃其气,火转得生之理。
余皆仿此。
地支专取刑冲破害。
刑者:如丑日戌时之类,则刑其出。如巳日寅时之类,则刑其归。恶物宜刑去,好物喜刑归。
冲者:吉象宜冲凶象,贵气宜冲我家。
破者:大概破坏其物,中间有吉有凶。
如卯破午,乃乙克午家己土受破。若己土为煞,地面有力,岁运一露,其害无疑。若或不露,亦犹抱虎而眠。又看酉字有气无气,可能驭服否。
又如己为贵气,露而有力有势,则亦因破而来为福。
害者:六害之处,若带忌神凶煞。来克来窃,真为仇害。
象成一家。不执贵气。
人八字中,全无财官等件贵气,有安然奋发富贵者何?盖以相生之气,自立成象也。生意滔滔,有不尽之情,高远坚实如此。
本象配本,如甲乙丙丁之类。
化象配化,如戊癸丁壬之类。
木火成象、土金成象、金水成象、水木成象、及有三象顺序者,同此法。如火土金象之类。
又有四象和协生育者,亦然。如水木火土之类。
根源一气。生物满盈。
如金气正临天时建旺之序,既无克窃。其气一往据生其子者,水神也。水神既显露于干,或泛滥于支,物盛不祥。还得几多火土,能堤防倚赖哉。余仿此推。
则造化盈亏之道,灼然有凭,万无一失也。
八法关键。五气开端。
八法已论于前,五气有聚散、完缺、实虚、深浅、敌交、狭广、轻重、厚薄、寒和之不同。干支俱有力,克物归窠。
精神强健为聚,喜吉神,忌凶煞。亦要辅佐,吉神冲而无义。
刑而不归为散,宜凶煞,忌吉神。
金木水火土俱全顺序为气完。
五行欠一以待岁运补足为气缺。
实则如甲戌见丙寅之类,有合有生,局于一象,滞于一方。柱中若无激扬昂藏之类,如此则不过一富翁而已。即有体无用,纵贵亦尸位素餐。如柱中土气太重,略见官来即贵。余仿此。
虚则如土入酉寅、木临乙巳、金到辰亥、水向卯戌、火居丑申。气虚而不能确固。余仿此。
气深如木之本象化象近清明节。
气浅如木之本象化象方得雨水节之例。
气敌如辛酉见乙卯,大概凶甚。若见己未己丑,转有凭籍,反吉。如无凭依,又看宾主强弱,主弱则为鬼象,宾弱则为财象。
交如丁巳见辛亥,丙戌见己丑,庚辰见癸未之类。仍分何者气旺而言。
狭如用神局于一二支神之情,狭亦有生旺,引用处其气却来不得。
广则引用处其气来得,生源处仍有精神,通三合之气,或通六合气。
轻如木之本象化象,却入金乡,又非天时之类。
重如木象逢寅卯,乃本象地支之类。
薄如木象逢自家死绝之地面,仍非天时之类。
厚如木象逢库墓长生之地,或得天时,或他干来助之类。
寒如木枯火散,金寒水冷土冻。天干休囚,地支死绝之类。
和则有合有生,有情有助,有临官帝旺,无休废死绝。
或有旺相之神来扶助,或当天时前后,有气满而盛。乃物无依藉堤防者,不久而倾。
有气亏而衰,乃根本不实。仍未得时,气亦不足。又无生扶,此等废物,何可胜言。
有气衰而久不得天时,又临死败。却有暗干相生,引归生旺之乡。
有气旺非长,始则气焰奋发,通舒自若。终则收敛归藏,去处竟无依靠。易于散漫,盛意无源。殊乏转生,乘势无续。
有气嫩易催。方来之气,人皆以为旺相之象。中间若逢,顽厚之气克窃者,凶不可言。
有气过耐远。过去气候俱曰休废,又云成功者退。殊不知余气,忽被旺处资来,绾动生意,气返实处,愈耐岁寒。余气即休废。别化他象故也。
.
ngọc tỉnh áo quyết tứ
GIỐNG VỚI NGỌC TỈNH ÁO QUYẾT TAM
Thể chế phải rộng lớn.
Thông thường bát tự cần phải xem phạm vi khí tượng: sức mạnh của bản thể phải rộng mở, thiên địa ổn thoả nhau, mạnh mẽ và vững chắc. Năm khí thuận sanh nên có khí lực, đảo sanh nghịch hoá thì có công, quý khí qua lại không hỗn tạp, nhất định phong cách chẳng tầm thường.
Xem thêm sơ lược ý nghĩa hình thức của bát tự:
- Thanh (trong) quá thì có thể hàn (lạnh) có thể bạc (mỏng).
- Hậu (dày) quá thì có thể trọc (đục) có thể trệ (chậm chạp).
- Hoa lệ (rực rỡ) quá thì có thể khinh (nhẹ) có thể phù (nổi).
- Tứ dật (phóng túng) quá thì có thể lưu (trôi dạt) có thể đãng (lêu lổng).
- Hữu tình quá thì có thể lạm (bừa bãi) có thể dâm (chìm đắm).
- Cô giới (thu mình) quá thì độc lập (lẽ loi không nơi nương tựa) không thể dung vật (không dung túng vật).
- Cương dũng (cứng cỏi và mạnh mẽ) quá thì có thể bạo (tàn ác) có thể táo (nóng nảy) mà không có hàm dưỡng (tu thân dưỡng tính).
- Nhu noạ (mềm yếu và nhu nhược) quá thì có thể ngu (đôn hậu) có thể dộn (chậm chạp) nên không làm gì cả.
- Chấp thật (thực dụng) quá thì gò bó nên chỉ biết có mình.
- Hiên hoát (cởi mở) quá thi có tham vọng lớn, phô trương nhưng không thể thực hiện.
Mặt chữ phân trước sau.
Sử dụng câu chữ, tức là xa ở phía sau, hoặc gặp phải chữ khác là nhàn thần, chiếm trước ngăn cách. Nếu không có phạm thương tổn, phải được tuế vận sanh phù mới là toàn mỹ.
Sử dụng câu chữ, tuy gần lại ở phía trước, tức là câu chữ nhàn thần, nơi xa ở phía sau. Lay động chắc chắn trở ngại câu chữ dụng thần. Tức là xem trong trụ cái nào có thể diệt trừ hết.
Thiên can chuyên luận về sanh khắc chế hoá.
Sanh sẽ là tương sanh, có lý do của sanh mà không muốn sanh
Khắc sẽ là tượng khắc, có trạng huống khắc mà không muốn khắc.
Chế thì như thuỷ khắc hoả, mà có thổ chế sát của nó, hoả có trạng huống sanh trở lại.
Hoá thì thuỷ vốn khắc hoả, gặp mộc có thể trộm khí của nó, lý do hoả chuyển thành được sanh.
Còn lại phỏng theo đó.
Địa chi chuyên chọn lấy hình xung phá hại.
Hình: tương tự như ngày sửu giờ tuất thì hình xuất ra. Tương tự như ngày tỵ giờ dần kết cục là hình. Vật chán ghét nên hình khứ (khử đi), còn vật ưa thích mừng hình quy (theo về).
Xung: tượng tốt lành nên xung tượng hung xấu, quý khí nên xung nhà mình.
Phá: đại khái phá hoại vật của nó, trong đó có tốt có xấu.
Như mão phá ngọ, chính là ất khắc nhà ngọ kỷ thổ bị phá. Nếu kỷ thổ là sát, mặt đất có sức lực, tuế vận cùng lộ ra, nó hại là không nghi ngờ. Nếu có thể không lộ, cũng giống như ôm cọp mà ngũ. Lại xem thêm chữ dậu có khí hay không, có thể điều khiển được không.
Lại như kỷ là quý khí, lộ ra nên có có quyền lực có uy thế, thì cũng nhờ phá mà lại thành phúc.
Hại: sáu nơi có hại, nếu có đới kỵ thần hung sát. Tới khắc tới trộm khí đúng là kẻ thù gây hại.
Tượng thành một nhà. Không chấp vào quý khí.
Trong bát tự của người mà hoàn toàn không có tài quan quý khí, làm sao có thể an nhiên mà nỗ lực làm cho giàu có được? Bởi vì khí sanh nhau, tự lập thành tượng vậy. Công việc làm ăn phát đạt, có tình yêu thương vô bờ bến, sự cao cả và vững chắc cũng như vậy.
Bổn tượng kết hợp với gốc tương tự như giáp ất bính đinh.
Hoá tượng kết hợp với hoá tương tự như mậu quý, đinh nhâm.
Mộc hoả thành tượng, thổ kim thành tượng, kim thuỷ thành tượng, thuỷ mộc thành tượng, cùng với ba tượng thuận theo thứ tự cũng giống cách này. Tương tự như tượng của hoả thổ kim.
Lại có bốn tượng hoà hợp để nuôi dưỡng thì cũng vậy, Tương tự như thuỷ mộc hoả thổ.
Nguồn gốc cùng một khí. Sanh vật tràn đầy.
Như kim khí đến đúng mùa vượng, thì không bị khắc hay ăn trộm. Một khi khí của nó đã đi theo con là thuỷ thần. Thuỷ thần đã hiện ra ở thiên can, hoặc tràn ngập ở địa chi, vật thịnh hung mãnh. Phải cần bao nhiêu hoả thổ để có thể làm đê phòng mà trông cậy đây. Còn lại phỏng theo đó mà suy xét.
Chính là con đường tạo hoá có đầy có khuyết được thiết lập vững chắc và rõ ràng.
Tám cách then chốt. Năm khí mở mối.
Tám cách đã bàn luận ở trước, còn năm khí có khác biệt tụ tán (họp và tan), hoàn khuyết (đủ và thiếu), thật hư (đầy và trống), thâm thiển (nông sâu), địch giao (chống đối và tiếp xúc), hiệp quảng (hẹp và rộng), khinh trọng (nhẹ và nặng), hậu bạc (dày và mỏng), hàn hoà (lạnh và ấm). Thiên can địa chi đều có lực hắc vật đưa về cùng một tổ.
Tinh thần cường mạnh là tụ, mừng đối với cát thần, kỵ đối với hung sát. Cũng cần phải giúp đỡ, cát thần xung thì cũng không có nghĩa gì.
Hình nên không kéo về là tán, hợp cho hung sát, kỵ cho cát thần.
Kim mộc thuỷ hoả thổ đều hoàn toàn thuận theo thứ tự đó là khí hoàn.
Ngũ hành thiếu một thì đợi tuế vận bổ túc đó là khí khuyết.
Thật thì tương tự như giáp tuất gặp bính dần, vừa có hợp vừa có sanh, kết cấu cùng một hình tượng, tích tụ cùng một nơi. Trong trụ nếu không có kích dương (khiến cho phấn phát chí khí) ngang tàng (khí độ hiên ngang), như thế thì chẳng qua là một người giàu có mà thôi. Tức là có thể mà không có dụng, cho dù quý cũng chỉ là thi vị tố xan (không có công mà ăn lộc). Như thổ khí trong trụ quá nặng, đại khái thấy quan tới tức là quý. còn lại phỏng theo điều đó.
Hư thì như thổ vào dậu dần, một đến ất tỵ, kim đến thìn hợi, thuỷ hướng mão tuất, hoả ở sửu thân. Khí hư nên không thể kiên quyết. Còn lại phỏng theo đó.
Khí thâm như bổn tượng và hoá tượng của mộc gần tiết thanh minh.
Khí thiển như bổn tượng và hoá tượng của mộc đang lúc gặp tiết vũ thuỷ.
Khí địch như tân dậu gặp ất mão thông thường càng hung xấu. Nếu gặp kỷ sửu kỷ mùi chuyển thành nương tựa, thì tốt lành. Như không có nương tựa, lại phải xem chủ khách mạnh yếu, chủ yếu sẽ là quỷ tượng, khách yếu sẽ là tài tượng.
Giao tương tự như đinh tỵ gặp tân hợi, bính tuất gặp kỷ sửu, canh thìn gặp quý mùi. Vẫn phải phân biệt khí nào vượng mà đàm luận.
Hiệp (hẹp) như dụng thần kết cấu ở một hai chi thần, hiệp cũng có sanh vượng, nhưng khí không đến được nơi dụng thần.
Quảng (rộng) thỉ dẫn khí của nó tới được nơi dụng thần, nơi nguồn sanh vẫn còn khí lực, thông khí của tam hợp hoặc thông khí lục hợp.
Khinh (nhẹ) tương tự như bổn tượng hoá tượng của mộc nhưng vào nơi kim, lại chẳng được thiên thời.
Trọng (nặng) tương tự như tượng mộc gặp dần mão chính là địa chi của bổn tượng.
Bạc (mỏng) tương tự như tượng mộc gặp mặt đất tử tuyệt của nhà mình, vẫn không được thiên thời.
Hậu (dày) tương tự như tượng mộc gặp đất mộ khố, trường sanh, hoặc được thiên thời, hoặc thiên can khác tới trợ giúp.
Hàn (lạnh) như mộc khô hoả tán, kim hàn thuỷ lãnh thổ đống (đóng băng). Tương tự như thiên can hưu tù, địa chi tử tuyệt.
Hoà (ấm) thì có hợp có sanh, có tình có trợ giúp, có lâm quan đế vượng, không có hưu phế tử tuyệt.
Có thể có thần vượng tướng đến giúp đỡ, hoặc trước sau lúc thiên thời, có khí tràn đầy nên thịnh vượng. Chính là vật không nương vào đê phòng, không lâu thì sụp đổ.
Có trường hợp khí yếu kém nên suy, chính là căn bản không sung túc. Vì thế không đắc thời, khí cũng không dồi dào. Lại không có giúp đỡ, đó là các loại suy bại, làm sao có thể đảm nhiệm được.
Có trường hợp khí suy lâu rồi không gặp được thiên thời, lại đến tử bại. Tuy nhiên có ám can tương sanh, dẫn về nơi sanh vượng.
Có trường hợp khí vượng nhưng không lâu, bắt đầu thì khí thế mạnh mẽ, thoải mái như thường. Cuối cùng thì thu rút về cất trữ, cuối cùng không có nơi nương tựa. Dễ tản mác, không có nguồn gốc của ý tốt. Không có chuyển sanh, lợi dụng cơ hội không liên tục.
Có trường hợp khí mới bắt đầu dễ thôi thúc. Khí ở nơi đến, người ta đều lấy làm tượng của vượng tướng. Nếu gặp ở khoảng giữa khí chắc dày có thể chiếm giữ, hung không thể tả.
Có trường hợp khí quá lâu. Khí hậu đã đi qua đều gọi là hưu phế, lại nói rằng thành công thì rút lui. Mà không biết còn dư khí, bỗng nhiên gặp phải vượng xứ tới giúp đỡ, sức sống bắt đầu thông suốt, khí trở thành nơi dồi dào, càng chịu được tuế hàn (cùng quẫn). Dư khí tức là hưu phế. Cho nên hoá thành tượng khác vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀四
体制须广大。
凡八字要看气象规模:体势豁达,天地相停,雄健壮实。五气顺克而有力,倒生逆化而有功,贵气往来不杂,必非寻常格调。
又看八字大意体段:
过于清,则或寒或薄。
过于厚,则或浊或滞。
过于华丽,则或轻或浮。
过于肆逸,则或流或荡。
过于有情,则或滥或淫。
过于孤介,则独立不能容物。
过于刚勇,则或暴或燥而无涵养。
过于柔懦,则或愚或钝而无作为。
过于执实,则拘局而只知有己。
过于轩豁,则图谋广而秀不能实。
字面分先后。
紧用字样,却远在后,或被别字闲神,占先隔了。若无伤犯,须得岁运生扶,方为全美。
紧用字样,虽近且先,却有闲神字样,远处在后。动摇得切,妨碍用神字样。却看柱内,何者可以剿除去得。
天干专论生克制化。
生则相生,有生不欲生之理。
克则相克,有克不欲克之情。
制则如水克火,而有土制其煞,火能复生之情。
化则水本克火,见木能窃其气,火转得生之理。
余皆仿此。
地支专取刑冲破害。
刑者:如丑日戌时之类,则刑其出。如巳日寅时之类,则刑其归。恶物宜刑去,好物喜刑归。
冲者:吉象宜冲凶象,贵气宜冲我家。
破者:大概破坏其物,中间有吉有凶。
如卯破午,乃乙克午家己土受破。若己土为煞,地面有力,岁运一露,其害无疑。若或不露,亦犹抱虎而眠。又看酉字有气无气,可能驭服否。
又如己为贵气,露而有力有势,则亦因破而来为福。
害者:六害之处,若带忌神凶煞。来克来窃,真为仇害。
象成一家。不执贵气。
人八字中,全无财官等件贵气,有安然奋发富贵者何?盖以相生之气,自立成象也。生意滔滔,有不尽之情,高远坚实如此。
本象配本,如甲乙丙丁之类。
化象配化,如戊癸丁壬之类。
木火成象、土金成象、金水成象、水木成象、及有三象顺序者,同此法。如火土金象之类。
又有四象和协生育者,亦然。如水木火土之类。
根源一气。生物满盈。
如金气正临天时建旺之序,既无克窃。其气一往据生其子者,水神也。水神既显露于干,或泛滥于支,物盛不祥。还得几多火土,能堤防倚赖哉。余仿此推。
则造化盈亏之道,灼然有凭,万无一失也。
八法关键。五气开端。
八法已论于前,五气有聚散、完缺、实虚、深浅、敌交、狭广、轻重、厚薄、寒和之不同。干支俱有力,克物归窠。
精神强健为聚,喜吉神,忌凶煞。亦要辅佐,吉神冲而无义。
刑而不归为散,宜凶煞,忌吉神。
金木水火土俱全顺序为气完。
五行欠一以待岁运补足为气缺。
实则如甲戌见丙寅之类,有合有生,局于一象,滞于一方。柱中若无激扬昂藏之类,如此则不过一富翁而已。即有体无用,纵贵亦尸位素餐。如柱中土气太重,略见官来即贵。余仿此。
虚则如土入酉寅、木临乙巳、金到辰亥、水向卯戌、火居丑申。气虚而不能确固。余仿此。
气深如木之本象化象近清明节。
气浅如木之本象化象方得雨水节之例。
气敌如辛酉见乙卯,大概凶甚。若见己未己丑,转有凭籍,反吉。如无凭依,又看宾主强弱,主弱则为鬼象,宾弱则为财象。
交如丁巳见辛亥,丙戌见己丑,庚辰见癸未之类。仍分何者气旺而言。
狭如用神局于一二支神之情,狭亦有生旺,引用处其气却来不得。
广则引用处其气来得,生源处仍有精神,通三合之气,或通六合气。
轻如木之本象化象,却入金乡,又非天时之类。
重如木象逢寅卯,乃本象地支之类。
薄如木象逢自家死绝之地面,仍非天时之类。
厚如木象逢库墓长生之地,或得天时,或他干来助之类。
寒如木枯火散,金寒水冷土冻。天干休囚,地支死绝之类。
和则有合有生,有情有助,有临官帝旺,无休废死绝。
或有旺相之神来扶助,或当天时前后,有气满而盛。乃物无依藉堤防者,不久而倾。
有气亏而衰,乃根本不实。仍未得时,气亦不足。又无生扶,此等废物,何可胜言。
有气衰而久不得天时,又临死败。却有暗干相生,引归生旺之乡。
有气旺非长,始则气焰奋发,通舒自若。终则收敛归藏,去处竟无依靠。易于散漫,盛意无源。殊乏转生,乘势无续。
有气嫩易催。方来之气,人皆以为旺相之象。中间若逢,顽厚之气克窃者,凶不可言。
有气过耐远。过去气候俱曰休废,又云成功者退。殊不知余气,忽被旺处资来,绾动生意,气返实处,愈耐岁寒。余气即休废。别化他象故也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#357
Gửi vào 09/10/2024 - 10:03
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết ngũ
Tạo vật tu nguyên bổn thể
(Tạo vật phải suy cầu cho tới bổn thể)
Dương khí phóng đi từ phương đông là lý do sanh phong (tạo ra gió), và phong sanh mộc (gió sanh ra cây cối). Khí âm ngừng lại ở phương tây vì rút về nên sanh táo (gây ra khô), táo sanh kim (khô ráo sanh ra kim loại). Khí dương cực ở phương nam nên sanh nhiệt (nóng), nhiệt sanh hoả. Khí âm cực ở phương bắc nên sanh hàn (lạnh), hàn sanh thuỷ. Khí âm khí dương tiếp xúc ở trung ượng nên sanh thấp (ẩm ướt), thấp sanh thổ. Nguồn cội thể tượng của ngũ hành. Đã được bàn luận ở trên.
Khí hoàn do xuất căn cơ
(Khí hoàn giống như xuất phát từ nền tảng)
Nói chung khi thành tượng xứ, là khí hoàn. Hễ quý khí gom góp lại một cũng là khí hoàn.
Thông thường lục thân thống nhất ta sanh tức là con, tương tự như bính tân thấy mộc vậy. Một thuyết khác nói là vợ sanh tức là con, cả hai nghĩa đều chọn lấy từ cách sống, mỗi thuyết đều có ý nghĩa của nó. Sanh mình là mẹ, hợp mình là vợ, trọn thành vật tượng đầy đủ cũng là chỗ sanh của lục thân, thống nhất mà thành vậy.
Như vận trung thành tượng, ích do căn cơ, nguyên hữu lai ý tắc thành hĩ
(Như trong vận thành tượng, lợi ích giống như nền tảng, và ý định ban đầu sẽ hoàn thành)
Nói mộc hoả nhất định không ổn thoả nhau, mỗi thứ có nặng nhẹ, là mộc nặng mà hoả nhẹ. Ở vận gặp can hoả chi hoả, thu thập hết tình trạng thật sự.
Nếu trong tứ trụ vốn có hoả ở các chữ lâm quan, đế vượng, trường sanh, khố mộ, mới là khí hoàn. Không thì không chân không thật, không đầy đủ, không chuẩn xác, có vẻ đúng mà lại sai vậy. Còn lại phỏng theo ý nghĩa này.
Pháp như sưu kiểm. Các bẩm cát hung
(Pháp như kiểm tra. Mỗi thứ nhận cát hung)
Giờ với ngày, tháng với năm can chi bát tự. Cần phải hợp tác ngang dọc, qua lại, giúp nhau chọn dụng thần, không thể có một nơi nhỏ nào mà không chiếu cố. Như bốn thiên can cưởi trên bốn địa chi, là mỗi chử tự chiếm quý, hay sát. Có thể thiên can năm lợi dụng địa chi tháng, địa chi giờ để chọn quý, có thể thiên can năm chọn địa chi ngày, thiên can ngày chọn địa chi tháng, thiên can tháng chọn địa chi năm mà có quý có sát. Có thể hai địa chi của năm và tháng, hai địa chi của ngày và giờ, tự chọn quý khí của can thần. Bằng như cách kiểm tra này có thể không sai lầm.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀五
造物须原本体。
东方阳散以泄而生风,风生木。西方阴止以收而生燥,燥生金。南方阳极而生热,热生火。北方阴极而生寒,寒生水。中央阴阳交而生湿,湿生土。五行体象渊源。已取论于前。
器完由出根基。
凡成象处,是为器完。凡贵气归一,亦为器完。
凡六亲致一,我生即子,丙辛见木之类是也。一说妻生者即子,两义在活法而取,各有理趣。生我者为母,合我者为妻,成其物象相备,亦六亲所生,致一而成者也。
如运中成象,益由根基,原有来意则成矣。
谓木火必无相停,各有轻重,为木重火轻。运上遇火干火支,凑完真象。
若四柱中,原带火之临官,帝旺,长生,库墓等字,方是器完。否则不真不实,不完不正,似是而非矣。余仿此义。
法如搜检。各禀吉凶。
时与日月与年,干支八字。要纵横来往勾合,互相取用,不可有一处分毫关照不到。如四干乘四支,为各自占贵占煞。或年干乘月支时支取贵,或年干取日支,日干取月支,月干取年支,有贵有煞。或岁月二支,时日二支,自取干神贵气。如此搜检庶不差误。
.
ngọc tỉnh áo quyết ngũ
Tạo vật tu nguyên bổn thể
(Tạo vật phải suy cầu cho tới bổn thể)
Dương khí phóng đi từ phương đông là lý do sanh phong (tạo ra gió), và phong sanh mộc (gió sanh ra cây cối). Khí âm ngừng lại ở phương tây vì rút về nên sanh táo (gây ra khô), táo sanh kim (khô ráo sanh ra kim loại). Khí dương cực ở phương nam nên sanh nhiệt (nóng), nhiệt sanh hoả. Khí âm cực ở phương bắc nên sanh hàn (lạnh), hàn sanh thuỷ. Khí âm khí dương tiếp xúc ở trung ượng nên sanh thấp (ẩm ướt), thấp sanh thổ. Nguồn cội thể tượng của ngũ hành. Đã được bàn luận ở trên.
Khí hoàn do xuất căn cơ
(Khí hoàn giống như xuất phát từ nền tảng)
Nói chung khi thành tượng xứ, là khí hoàn. Hễ quý khí gom góp lại một cũng là khí hoàn.
Thông thường lục thân thống nhất ta sanh tức là con, tương tự như bính tân thấy mộc vậy. Một thuyết khác nói là vợ sanh tức là con, cả hai nghĩa đều chọn lấy từ cách sống, mỗi thuyết đều có ý nghĩa của nó. Sanh mình là mẹ, hợp mình là vợ, trọn thành vật tượng đầy đủ cũng là chỗ sanh của lục thân, thống nhất mà thành vậy.
Như vận trung thành tượng, ích do căn cơ, nguyên hữu lai ý tắc thành hĩ
(Như trong vận thành tượng, lợi ích giống như nền tảng, và ý định ban đầu sẽ hoàn thành)
Nói mộc hoả nhất định không ổn thoả nhau, mỗi thứ có nặng nhẹ, là mộc nặng mà hoả nhẹ. Ở vận gặp can hoả chi hoả, thu thập hết tình trạng thật sự.
Nếu trong tứ trụ vốn có hoả ở các chữ lâm quan, đế vượng, trường sanh, khố mộ, mới là khí hoàn. Không thì không chân không thật, không đầy đủ, không chuẩn xác, có vẻ đúng mà lại sai vậy. Còn lại phỏng theo ý nghĩa này.
Pháp như sưu kiểm. Các bẩm cát hung
(Pháp như kiểm tra. Mỗi thứ nhận cát hung)
Giờ với ngày, tháng với năm can chi bát tự. Cần phải hợp tác ngang dọc, qua lại, giúp nhau chọn dụng thần, không thể có một nơi nhỏ nào mà không chiếu cố. Như bốn thiên can cưởi trên bốn địa chi, là mỗi chử tự chiếm quý, hay sát. Có thể thiên can năm lợi dụng địa chi tháng, địa chi giờ để chọn quý, có thể thiên can năm chọn địa chi ngày, thiên can ngày chọn địa chi tháng, thiên can tháng chọn địa chi năm mà có quý có sát. Có thể hai địa chi của năm và tháng, hai địa chi của ngày và giờ, tự chọn quý khí của can thần. Bằng như cách kiểm tra này có thể không sai lầm.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀五
造物须原本体。
东方阳散以泄而生风,风生木。西方阴止以收而生燥,燥生金。南方阳极而生热,热生火。北方阴极而生寒,寒生水。中央阴阳交而生湿,湿生土。五行体象渊源。已取论于前。
器完由出根基。
凡成象处,是为器完。凡贵气归一,亦为器完。
凡六亲致一,我生即子,丙辛见木之类是也。一说妻生者即子,两义在活法而取,各有理趣。生我者为母,合我者为妻,成其物象相备,亦六亲所生,致一而成者也。
如运中成象,益由根基,原有来意则成矣。
谓木火必无相停,各有轻重,为木重火轻。运上遇火干火支,凑完真象。
若四柱中,原带火之临官,帝旺,长生,库墓等字,方是器完。否则不真不实,不完不正,似是而非矣。余仿此义。
法如搜检。各禀吉凶。
时与日月与年,干支八字。要纵横来往勾合,互相取用,不可有一处分毫关照不到。如四干乘四支,为各自占贵占煞。或年干乘月支时支取贵,或年干取日支,日干取月支,月干取年支,有贵有煞。或岁月二支,时日二支,自取干神贵气。如此搜检庶不差误。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#358
Gửi vào 10/10/2024 - 09:31
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết lục
Vật tu đề hoát. Phương minh khinh trọng.
(Nội dung phải nêu rõ. Tầm quan trọng so sánh rõ ràng).
Đoạn này cần phải xem trước. Bốn địa chi mổi cái có thể tàng ẩn can khí, đề cập đến để mang ra, suy xét tỉ mỉ cái nào thành bè nhóm, cái nào ít sức mạnh, cái nào vượng cái nào nhược, cái nào nhẹ cái nào nặng. So sánh rõ ràng tình lý để được cát hung của dụng thần. Không bỏ sót từng điểm một được đề cập, nội dung sẽ bị che lắp tối tăm, khó nghĩ kỹ được quy tắc chọn lấy hay bỏ.
Vinh nhi dịch khô, phát thân tạm trí. Hiển nhi bất lộ, thành vật tuế hàn
(Thịnh vượng nhưng dễ nghèo nàn, khiến cho thân tạm thời đạt đến. Giàu nhưng không lộ ra, trở thành vật cùng quẫn)
Thường khí giòn yếu nổi mềm, nơi hưu phế bại tuyệt, được thiên can kề bên phù trợ, tạm thời hợp nên phát triễn một thời gian. Nếu gặp chi thần của tuế vận tán trợ tổn hại, hoặc ngăn chặn sự vô khí của nó, thì dễ thất bại và không tồn tại lâu dài.
Như vật không hiển lộ, dụng thần có khí lực, hợp thần thành tượng lợi dụng lẫn nhau, suốt trong vận không có phá, thì chịu được lâu dài. Dù cho tuế quân cùng năm trắc trở, chính là mây trôi che khuất mặt trời, chỉ còn bóng cây che phủ mà thôi. Cho nên không chỉ ở thiên can lộ mà khí ẩn tàng trong địa chi phải được sanh. Nó cũng ảnh hưởng sâu rộng.
Đại khí từ cơ, tự nhiên át ác nhi dương thiện.
(Tài năng như nền có tính chất hút sắt, tự nhiên lấn át cái ác và phát huy cái thiện).
Nếu thể cục to lớn, nguồn gốc của mình trang trọng, dụng thần chuyên nhất, có cả quý nhân đức tú, cho dù có các đại hao, nguyên thần, dương nhận, thất sát là tà ác, trái lại có thể trợ giúp uy quyền, thì được cho là ngăn cái ác và phát huy cái thiện vậy.
Bạc tài thể cục, phương tri hại vật canh thương nhân
(Tài năng của thể cục kém, mới biết vật có hại càng tổn hại con người hơn).
Sức mạnh của năm với ngày yếu đuối và không chuyên nhất, gặp phải cát hung thần sát khuấy động, khí liền bị xáo trộn, thần khí bị nó khống chế, chủ trương của mình không chắc chắn, hầu hết là trong tượng hung sát: nhận, sát, vong kiếp, kim nhận, bạch hổ và những thứ tương tự, cho nên không thể so sánh khí của đức, tú, thuần, hậu. Xây dựng sự nghiệp và thành lập doanh nghiệp, tuy có bất chợt thành công, cũng không hại vật hại người.
Quý nhân lộc mã giao thác, câu giảo nguyên vong đa đoan
(Quý nhân lộc mã thay thế lẫn nhau, câu giảo nguyên vong nhiều mối, tạp loạn).
Quý khí không muốn rắc rối, phiền phức, dụng tài chỉ dụng tài, dụng quan chỉ dụng quan. Tương tự như dụng lộc mã quý nhân thực thần ấn thụ, chỉ nên một hoặc hai thứ, quý khí nhân cơ hội giúp đỡ. Tương tự như dụng tài lấy quan giúp nhau, quan ấn gánh vác lẫn nhau, lộc mã cùng đi chung; còn ba hay bốn thứ thì tràn lan bừa bãi khó đưa về một mối.
Lại nói rằng: mỗi một quý khí to lớn, cần phải có quý nhân đức thần trợ giúp mới có thể bày tỏ; nếu quý khí nghiêm trọng thì các loại câu giảo, kiếp sát, nguyên thần, vong thần, sẽ trợ giúp mình thành uy quyền.
Ác sát nhiều, sẽ gây tai hoạ rất thảm khốc, lại nói vì các loại sát đa đoan, chỉ nên tiêu tức (hưu dưỡng, đình chỉ).
Cát thần tham thiên nguyệt phù trì; hung sát bát không vong phẩm tảo.
(Cát thần xen vào thiên nguyệt đức giúp đỡ, hung sát không vong bình phẩm nhân vật).
Quý thần lộc mã đều là cát thần, gặp thêm thiên đức nguyệt đức càng thêm tốt lành.
Câu giảo nguyên vong đều là hung sát, nếu không vong giảm phân nửa. Cát thần cũng ghét không vong, hung sát cũng muốn nhị đức.
chú giải xưa về quý khí của cát thần tuy thanh khiết và thống nhất, và không ẩm ướt và đục, có thể thích hợp cách khác, vì suy luận sự khéo léo của nó. Nếu không có thiên đức và nguyệt đức, mà hợp với thiên đức và nguyệt đức, nguyệt không, thiên xá các loại tương tự giúp đỡ, phân số cũng giảm sút, sức mạnh của phúc lành không đầy đủ.
Không vong lấy theo ngày sanh thuộc tuần nào, như tuần giáp tý là hai vị trí tuất hợi. Không vong có ba thần: một là những can thần ẩn giấu trong vòng mười ngày, như tuần giáp thìn là hai can giáp ất vậy. Một khác là can thần độn đến trong vòng mười ngày như tuần giáp thìn: bính ngọ tức là canh tân vậy. Một nửa là tiệt lộ không vong (cũng nói là triệt lộ không vong) càng khẩn cấp hơn, tương tự như ngày giáp kỷ giờ thân dậu.
Hung thần nên ngồi ở không vong, cát thần sợ không vong.
Lại nói rằng: kim và hoả hợp không vong, mộc thổ và thuỷ kỵ không vong.
Lại nói: thuỷ cũng thích không vong. (câu này trái ngược một phần ý nghĩa của câu trên).
Lại nói: trong trụ có hung sát cùng nhau hội họp, người có đức thần, gặp nguy hiểm tự tránh khỏi, chết không do mệnh lầm lỗi, ngày giờ có thì càng nghiêm trọng.
Thập toàn quý khí hoàn khán ỷ phục họa tinh, nhất cục hung thần yếu thức ẩn tàng phúc khí.
(Quý khí hoàn mỹ cũng nên xem sao hoạ ngầm nương tựa, hung thần toàn cục cần biết có phúc khí ẩn tàng).
Quý khí mười phần có đủ, cả đời không bị hoại, cũng không có hoạ thần ẩn núp bên trong đo.
Hung sát qua lại phức tạp, nhưng trong đó có một vị thần ban phúc, mơ hồ rất khó hiểu. Có thể hư giáp diêu hợp, hoặc hình xuất xung quy, cũng cần phải có mục đích, không thể xem toàn là hung sát. Chỉ đợi vận nào giúp khởi phúc khí trong cục thì tốt. Còn giúp khởi sao hoạ phá quý khí làm hoại dụng thần thì hung xấu.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀六
物须提豁。方明轻重。
此一段须要先看四支。一一将所藏干气,提豁出来,细推何者党众,何者力寡,何旺何弱,何轻何重。方明得用神吉凶道理。不去一一提豁,大纲昏蔽,难以忖度取舍。
荣而易枯,发身暂致。显而不露,成物岁寒。
凡脆虚浮嫩之气,休废败绝之乡,得支干夹扶,暂合而发于一时。倘遇岁运将赞助之神伤坏,或抑扬其无气,则易败而不长久。
如物不显露,用神有气,合神成象相乘,一路运中无破,则耐久远。纵有岁君逐年驳杂,乃浮云蔽日,树影横阴而已。故不在露其干,支中隐藏有气得生。反远大也。
大器磁基,自然遏恶而扬善。
体局若大,本源若重,用神若专,兼带贵人德秀,虽有大耗元辰刃煞等件为恶,反能助威,则所谓遏恶而扬其善矣。
薄才体局,方知害物更伤人。
岁与日辰力虚薄不专,被吉凶神煞播弄,随气动荡,精神被其所役,自家主张无定,多是凶煞象内,刃煞亡劫金刃白虎之类作为,故非德秀纯厚之气比也。建业立事,虽有偶成,岂不害物损人也哉。
贵人禄马交错,勾绞元亡多端。
贵气不欲烦杂,用财只用财,用官只用官。如用禄马贵人食神印绶之类,只宜一件二件,贵气便当辅佐。如用财以官相辅,官印相承,禄马兼行之类,三件四件,泛滥便不归一。
又云:一项贵气,须要贵人德神相助,方可大显,勾绞劫煞元辰亡神等物,若贵气重,则助身行威。
恶煞重,则肆害酷切,一说以此等煞多端,独宜消息。
吉神参天月扶持,凶煞八空亡品藻。
贵神禄马,皆吉神也,更遇天月二德尤吉。
勾绞元亡,皆凶煞也,若入空亡减半互言之。吉神亦嫌空亡,凶煞亦要二德。
旧注吉神贵气,虽清归一,更无湿浊,或入别格,因推其妙。若无天月二德,天月二合,月空天赦之类赞助,亦减分数,福力非全。
空亡以生日系何旬所属,如甲子旬,即戌亥二位是也。空亡有三神,一旬内之后所藏干神,如甲辰旬,甲乙二干是也。一旬后所遁到干神,如甲辰旬,丙午即庚辛是也。一截路空亡,加至愈紧,如甲己日申酉时之类。
凶神宜坐空,吉神怕坐空。
又云:金火宜空,木土水忌空。
又云:水亦喜空。
又云:柱中凶煞交并,有德神者,遇险自散,死不致非命,日时带则紧。
十全贵气还看倚伏祸星,一局凶神要识隐藏福气。
贵气十分完备,始终不坏,中间宁无一件祸神隐藏。
凶煞之神,往来繁杂,其中却有一件福神,隐隐深奥。或虚夹遥合,或刑出冲归,亦系切当有意处,不可便作满盘凶煞看。只待何运,扶起局中福气则吉。扶起祸星,破贵坏用则凶。
.
ngọc tỉnh áo quyết lục
Vật tu đề hoát. Phương minh khinh trọng.
(Nội dung phải nêu rõ. Tầm quan trọng so sánh rõ ràng).
Đoạn này cần phải xem trước. Bốn địa chi mổi cái có thể tàng ẩn can khí, đề cập đến để mang ra, suy xét tỉ mỉ cái nào thành bè nhóm, cái nào ít sức mạnh, cái nào vượng cái nào nhược, cái nào nhẹ cái nào nặng. So sánh rõ ràng tình lý để được cát hung của dụng thần. Không bỏ sót từng điểm một được đề cập, nội dung sẽ bị che lắp tối tăm, khó nghĩ kỹ được quy tắc chọn lấy hay bỏ.
Vinh nhi dịch khô, phát thân tạm trí. Hiển nhi bất lộ, thành vật tuế hàn
(Thịnh vượng nhưng dễ nghèo nàn, khiến cho thân tạm thời đạt đến. Giàu nhưng không lộ ra, trở thành vật cùng quẫn)
Thường khí giòn yếu nổi mềm, nơi hưu phế bại tuyệt, được thiên can kề bên phù trợ, tạm thời hợp nên phát triễn một thời gian. Nếu gặp chi thần của tuế vận tán trợ tổn hại, hoặc ngăn chặn sự vô khí của nó, thì dễ thất bại và không tồn tại lâu dài.
Như vật không hiển lộ, dụng thần có khí lực, hợp thần thành tượng lợi dụng lẫn nhau, suốt trong vận không có phá, thì chịu được lâu dài. Dù cho tuế quân cùng năm trắc trở, chính là mây trôi che khuất mặt trời, chỉ còn bóng cây che phủ mà thôi. Cho nên không chỉ ở thiên can lộ mà khí ẩn tàng trong địa chi phải được sanh. Nó cũng ảnh hưởng sâu rộng.
Đại khí từ cơ, tự nhiên át ác nhi dương thiện.
(Tài năng như nền có tính chất hút sắt, tự nhiên lấn át cái ác và phát huy cái thiện).
Nếu thể cục to lớn, nguồn gốc của mình trang trọng, dụng thần chuyên nhất, có cả quý nhân đức tú, cho dù có các đại hao, nguyên thần, dương nhận, thất sát là tà ác, trái lại có thể trợ giúp uy quyền, thì được cho là ngăn cái ác và phát huy cái thiện vậy.
Bạc tài thể cục, phương tri hại vật canh thương nhân
(Tài năng của thể cục kém, mới biết vật có hại càng tổn hại con người hơn).
Sức mạnh của năm với ngày yếu đuối và không chuyên nhất, gặp phải cát hung thần sát khuấy động, khí liền bị xáo trộn, thần khí bị nó khống chế, chủ trương của mình không chắc chắn, hầu hết là trong tượng hung sát: nhận, sát, vong kiếp, kim nhận, bạch hổ và những thứ tương tự, cho nên không thể so sánh khí của đức, tú, thuần, hậu. Xây dựng sự nghiệp và thành lập doanh nghiệp, tuy có bất chợt thành công, cũng không hại vật hại người.
Quý nhân lộc mã giao thác, câu giảo nguyên vong đa đoan
(Quý nhân lộc mã thay thế lẫn nhau, câu giảo nguyên vong nhiều mối, tạp loạn).
Quý khí không muốn rắc rối, phiền phức, dụng tài chỉ dụng tài, dụng quan chỉ dụng quan. Tương tự như dụng lộc mã quý nhân thực thần ấn thụ, chỉ nên một hoặc hai thứ, quý khí nhân cơ hội giúp đỡ. Tương tự như dụng tài lấy quan giúp nhau, quan ấn gánh vác lẫn nhau, lộc mã cùng đi chung; còn ba hay bốn thứ thì tràn lan bừa bãi khó đưa về một mối.
Lại nói rằng: mỗi một quý khí to lớn, cần phải có quý nhân đức thần trợ giúp mới có thể bày tỏ; nếu quý khí nghiêm trọng thì các loại câu giảo, kiếp sát, nguyên thần, vong thần, sẽ trợ giúp mình thành uy quyền.
Ác sát nhiều, sẽ gây tai hoạ rất thảm khốc, lại nói vì các loại sát đa đoan, chỉ nên tiêu tức (hưu dưỡng, đình chỉ).
Cát thần tham thiên nguyệt phù trì; hung sát bát không vong phẩm tảo.
(Cát thần xen vào thiên nguyệt đức giúp đỡ, hung sát không vong bình phẩm nhân vật).
Quý thần lộc mã đều là cát thần, gặp thêm thiên đức nguyệt đức càng thêm tốt lành.
Câu giảo nguyên vong đều là hung sát, nếu không vong giảm phân nửa. Cát thần cũng ghét không vong, hung sát cũng muốn nhị đức.
chú giải xưa về quý khí của cát thần tuy thanh khiết và thống nhất, và không ẩm ướt và đục, có thể thích hợp cách khác, vì suy luận sự khéo léo của nó. Nếu không có thiên đức và nguyệt đức, mà hợp với thiên đức và nguyệt đức, nguyệt không, thiên xá các loại tương tự giúp đỡ, phân số cũng giảm sút, sức mạnh của phúc lành không đầy đủ.
Không vong lấy theo ngày sanh thuộc tuần nào, như tuần giáp tý là hai vị trí tuất hợi. Không vong có ba thần: một là những can thần ẩn giấu trong vòng mười ngày, như tuần giáp thìn là hai can giáp ất vậy. Một khác là can thần độn đến trong vòng mười ngày như tuần giáp thìn: bính ngọ tức là canh tân vậy. Một nửa là tiệt lộ không vong (cũng nói là triệt lộ không vong) càng khẩn cấp hơn, tương tự như ngày giáp kỷ giờ thân dậu.
Hung thần nên ngồi ở không vong, cát thần sợ không vong.
Lại nói rằng: kim và hoả hợp không vong, mộc thổ và thuỷ kỵ không vong.
Lại nói: thuỷ cũng thích không vong. (câu này trái ngược một phần ý nghĩa của câu trên).
Lại nói: trong trụ có hung sát cùng nhau hội họp, người có đức thần, gặp nguy hiểm tự tránh khỏi, chết không do mệnh lầm lỗi, ngày giờ có thì càng nghiêm trọng.
Thập toàn quý khí hoàn khán ỷ phục họa tinh, nhất cục hung thần yếu thức ẩn tàng phúc khí.
(Quý khí hoàn mỹ cũng nên xem sao hoạ ngầm nương tựa, hung thần toàn cục cần biết có phúc khí ẩn tàng).
Quý khí mười phần có đủ, cả đời không bị hoại, cũng không có hoạ thần ẩn núp bên trong đo.
Hung sát qua lại phức tạp, nhưng trong đó có một vị thần ban phúc, mơ hồ rất khó hiểu. Có thể hư giáp diêu hợp, hoặc hình xuất xung quy, cũng cần phải có mục đích, không thể xem toàn là hung sát. Chỉ đợi vận nào giúp khởi phúc khí trong cục thì tốt. Còn giúp khởi sao hoạ phá quý khí làm hoại dụng thần thì hung xấu.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀六
物须提豁。方明轻重。
此一段须要先看四支。一一将所藏干气,提豁出来,细推何者党众,何者力寡,何旺何弱,何轻何重。方明得用神吉凶道理。不去一一提豁,大纲昏蔽,难以忖度取舍。
荣而易枯,发身暂致。显而不露,成物岁寒。
凡脆虚浮嫩之气,休废败绝之乡,得支干夹扶,暂合而发于一时。倘遇岁运将赞助之神伤坏,或抑扬其无气,则易败而不长久。
如物不显露,用神有气,合神成象相乘,一路运中无破,则耐久远。纵有岁君逐年驳杂,乃浮云蔽日,树影横阴而已。故不在露其干,支中隐藏有气得生。反远大也。
大器磁基,自然遏恶而扬善。
体局若大,本源若重,用神若专,兼带贵人德秀,虽有大耗元辰刃煞等件为恶,反能助威,则所谓遏恶而扬其善矣。
薄才体局,方知害物更伤人。
岁与日辰力虚薄不专,被吉凶神煞播弄,随气动荡,精神被其所役,自家主张无定,多是凶煞象内,刃煞亡劫金刃白虎之类作为,故非德秀纯厚之气比也。建业立事,虽有偶成,岂不害物损人也哉。
贵人禄马交错,勾绞元亡多端。
贵气不欲烦杂,用财只用财,用官只用官。如用禄马贵人食神印绶之类,只宜一件二件,贵气便当辅佐。如用财以官相辅,官印相承,禄马兼行之类,三件四件,泛滥便不归一。
又云:一项贵气,须要贵人德神相助,方可大显,勾绞劫煞元辰亡神等物,若贵气重,则助身行威。
恶煞重,则肆害酷切,一说以此等煞多端,独宜消息。
吉神参天月扶持,凶煞八空亡品藻。
贵神禄马,皆吉神也,更遇天月二德尤吉。
勾绞元亡,皆凶煞也,若入空亡减半互言之。吉神亦嫌空亡,凶煞亦要二德。
旧注吉神贵气,虽清归一,更无湿浊,或入别格,因推其妙。若无天月二德,天月二合,月空天赦之类赞助,亦减分数,福力非全。
空亡以生日系何旬所属,如甲子旬,即戌亥二位是也。空亡有三神,一旬内之后所藏干神,如甲辰旬,甲乙二干是也。一旬后所遁到干神,如甲辰旬,丙午即庚辛是也。一截路空亡,加至愈紧,如甲己日申酉时之类。
凶神宜坐空,吉神怕坐空。
又云:金火宜空,木土水忌空。
又云:水亦喜空。
又云:柱中凶煞交并,有德神者,遇险自散,死不致非命,日时带则紧。
十全贵气还看倚伏祸星,一局凶神要识隐藏福气。
贵气十分完备,始终不坏,中间宁无一件祸神隐藏。
凶煞之神,往来繁杂,其中却有一件福神,隐隐深奥。或虚夹遥合,或刑出冲归,亦系切当有意处,不可便作满盘凶煞看。只待何运,扶起局中福气则吉。扶起祸星,破贵坏用则凶。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#359
Gửi vào 11/10/2024 - 13:06
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thất
Điều tuấn cách cô, thế cùng lực tận, nghĩa lý chánh dục biến thông.
(Giọng điệu nghiêm khắc cách gàn dở, quyền lực kiệt tận, nghĩa chánh là muốn linh hoạt).
Nhiên cứu can ngày và dụng thần, kiểm tra sáng và tối, tạo hoá cát hung, nơi của thần sát ẩn hiện, bản chất sự vật cô tuấn (cô độc và khắc nghiệt), khí ở giai đoạn cuối thì cùng tận, khó mà chọn dụng thần. Những thứ cực đoan này chuyển đổi khi có giới hạn, tự có cái lý cùng tắc biến, biến tắc thông, vận nghênh đón khí nào một đường khôi phục, là sanh ý gì khởi phát nguồn cảm xúc cũng có nghĩa là vô hạn.
Khí doanh vật thịnh, vận tịnh tuế xung, thân chủ hà năng điềm tĩnh.
(Khí đầy đủ vật dồi dào, vận cùng tuế xung, thân chủ làm sao có thể điềm tỉnh).
Muốn quan sát ý nghĩa tổng quát của nó, khí tượng có thể đầy có thể chuyển động, quan sát bản chất vật lý của nó thì thịnh vượng lại cực đoan thì sẽ có dấu hiệu không bền vững. Huống chi tuế vận đè nén sẽ làm thất bại, còn vênh vang thì bị nhấn chìm, nếu có thêm hình xung tụ hợp, chủ thân đó, chỉ có thể an nhiên điềm tĩnh không rối loạn là điều vô lý vậy.
Niên nguyệt nhật thì, can chi hữu tự, nhược thần tân chủ, thể cách triêu luân.
(Năm tháng ngày giờ, thiên can địa chi đều theo thứ tự, giống như là khách và chủ, bản chất sự vật cũng có trật tự).
Can tháng nên đứng sau can năm, can giờ nên đứng sau can ngày, nếu chu kỳ thứ hạng là đặc thù. Tương tự như giáp tý ất sửu, bính dần đinh mão, cách đặc thù vậy.
Năm là vua, ngày làm chủ, tháng giờ như khách như bầy tôi, giúp đỡ quý khí, gồm cả quy tắc trước đây, duy trì trật tự triều đình, hỗ trợ trật tự đại đứa, sửa chữa sự tôn nghiêm.
Lại nói: dương muốn một mình thận trọng, âm thì muốn theo bầy đàn, vẫn nên xem xét nơi mà quý sát tham gia.
Nhật chủ tối hỉ tiên can, nhật chủ ứng hiềm thứ vị
(Nhật chủ rất thích chen dự vào cầm đầu, nhật chủ không thích tiếp nhận vị trí thứ hai).
Nhật chủ chen dự vào cầm đầu, tương tự như ngày giáp gặp quý, Điều này có ba lợi ích: có khả năng hợp tài thịnh vượng để nuôi mình là một. Có thể giỏi ở nuôi lớn mình là hai. Có thể biến đổi tượng của nó để sanh mình là ba. Nhưng mà khí đã đi qua hơi chậm, nhật chủ chiếm vị trí thứ hai, tương tự như giáp gặp ất, điều này có bốn tổn hại: có thể cướp đoạt thê tài làm mình trống rỗng, có thể hợp sát tổn hại mình, có thể biến dổi tượng làm tiết khí của mình, một có thể ngăn chặn con đường phía trước, làm nhận gây hại cho mình là bốn vậy.
Chi thần tiền khí, chi thần hậu cung.
(Khí ở phía trước của địa chi, cung ở phía sau địa chi).
Địa chi nghênh đón khí ở phía trước nhiều, cả đời là người có khí lực lổi lạc, tương tự như năm giáp tý hoặc ngày tý gặp sửu dần mão thìn tỵ.
Địa chi ở cung phía sau chủ vất vả và hối hận về công việc của mình, có thể trắc trở và thất bại, tiến thối nhiều mối, tương tự như năm giáp tý hoặc ngày tý gặp hợi tuất thân mùi. Còn lại phỏng theo đó.
Độc điệu tuế quân, cô hư nhật chủ.
(Tuế quân một mình lay động, nhật chủ một mình trống rỗng).
Thiên can địa chi của tháng ngày giờ làm thành kết hợp làm thành bè nhóm, làm thành vượng làm thành tụ hội, có thể thành một tượng, có thể biến thành một khí, chỉ thái tuế lẻ loi một nơi, giống như lánh xa giống như không gần gũi, dĩ nhiên sẽ xa rời quê cha đất tổ mà tự lập, hoặc thân phận là con nuôi, nghèo khó và cô độc, năm tháng giờ giống như trên, nhật chủ cô quả ở một mình, vẫn không có hợp không có sanh, người tồn tại lẻ loi ở nơi khiếm khuyết, nếu chẳng sống cùng nhau ở một nơi khác sẽ là sống nhờ vào xin ăn, sống ở bên ngoài.
Đảng hợp song tranh, thê tài lưỡng nghĩa.
(Bè nhóm cùng cạnh tranh, thê tài có hai nghĩa).
Trong trụ như nhóm thổ đã nhiều, nhưng thời tiết liên quan mộc vượng, sử dụng như thế nào phép kiềm chế và thúc đẩy, không thể thích hợp cho hai bên cạnh tranh nhau, nếu thổ không trống rỗng mà thêm dày, mộc có khí lực lại lộ ra, địa chi cùng lúc không hình hại xung khắc, tức là có khả năng vun bồi nuôi mộc lớn lên thành rừng, là dụng thần càng thêm đặc thù. Mình hợp là thê (vợ), mình khắc là tài (tiền của), người đời chỉ biết mình khắc đều là thê tài, lầm lẫn này không tốt, phải xem lại hoá tượng như thế nào.
Dụng thần nhất tự, quý khí trọng lai, tượng dục tinh minh, khí thương lãn tán.
(Một chữ dụng thần, quý khí lại đến, tượng muốn như ánh sáng rõ ràng, khí tổn hại không thích tan rã).
Thường ngày chỉ có một chữ dụng thần trong trụ, nghĩa là không như cách mặt chữ (nghĩa đen), cùng hợp cùng tan, mỗi thứ trong nhóm tự biến mất, can ngày cũng một chữ treo lơ lửng ở một nơi khác, không có chỗ dựa vào, cho nên dụng chữ này, có thể dùng hai chữ. Một chữ dụng thần, khí lực nghiêm túc thật tốt đẹp, như dụng thần là quan tinh rồi, lại thấy quan tinh lại đến, khôi phục lương bỗng như nhau. Hoặc dụng thần là tài, lại gặp thực thần quý nhân, đều là quý khí trùng điệt (lại thoát mất), nên lúa không ra hoa, hoa không kết trái.
Dụng thần mạnh mẽ thành tượng, tâm trí tập trung vào sức mạnh phơi bày mà không yếu đuối, không quay lưng lại với ngày và đêm. Như thổ mộc thuỷ sanh ban ngày, kim hoả sanh ban đêm, trong trụ như thế, làm sao không phải là người nổi tiếng và thành đạt.
Nếu địa chi thiên can, cùng với mìnhkhong6 chiếu cố nhau, dụng thần không phù hợp, tinh chủ chỉ có một mình, xung hình khắc hại, quay lưng nhau trộm khí càng nhiều, tượng không tán trợ, lần lượt gặp hưu phế, không gây dựng không thành công, tiêu chuẩn không đáng kể.
Ngã sanh ngã khắc tình năng thối, tha khắc tha sanh khí tự quy.
(Mình sanh mình khắc tình có thể thối lui, nó khắc nó sanh khí tự trở về).
Thông thường mình sanh mình khắc, nghĩa của nó là đương nhiên rút lui và tan rã, nó đến sanh mình khắc mình đều do khí thích hợp, vì địa chi sanh, vì có thể hợp cát thần, như thế là điều tuyệt vời nhất.
Sanh khắc lai vãng, hợp chủ phù trì.
(Sanh khắc đến đi, hợp chủ trợ giúp).
Trong trụ hợp không có thể có thần tán trợ (giúp đỡ). Hợp thật có thể có thần phá hoại. Sanh có kiềm chế; khắc có trợ giúp, đến đi tiến thối không giống nhau, chẳng may thất thủ, thì sai một ly đi ngàn dặm, nhưng dịp hội họp chủ trợ giúp, thần nào cần kíp là sự việc đó cấp bách vậy.
Thiện ác phồn nan, thì phân chúng quả.
(Thiện ác phức tạp và khó khăn, thường xuyên phân ra đông hay ít).
Hai vị thiện ác đều là chúng (đông, nhiều), có thể sai lầm có thể lẫn lộn, nhưng phải xem nơi giờ tụ họp số đông là hưu hay vượng, tụ họp số ít là hưu hay vượng, ác chúng (số đông ác) sẽ là tụ tập hung sát, thiện chúng (số đông thiện) sẽ là tụ tập phúc lành, thiện quả (số ít thiện) thì rụt rè, ác quả (số ít ác) người bình thường. Lại nói năm tháng giờ gặp quý nhân sanh vượng của nhau, cùng với ngày hoà hợp là điều kỳ diệu nhất.
Sanh nhi phục sanh, giai ỷ thác thành vu hà giả.
(Sanh và phục sanh, đều dựa vào họ là ai).
Như người bính tân gặp vận mậu thân, nhưng gặp năm canh thân, chuyển đổi ý tưởng trông cậy phục sanh vào nhâm thuỷ khí lực tự đến, huống chi bính tân hoá thuỷ, cho nên được sanh, phụ thuộc vào người mà mình trông cậy để thành hiện thực vậy.
Hóa nhi hựu hóa, cánh miểu mang quy vu hà địa.
(Hoá mà lại hoá, cuối cùng mờ mịt trở về đất nào).
Như đinh nhâm hoá mộc, huống chi mặt đất có dần mão hợi mùi, lại có thêm thần khác, thuỷ mộc giúp đỡ, cuồn cuộn nuôi dưỡng mộc, thích nghi có thể lại dùng nước nuôi dưỡng, khí mờ mịt không có chỗ dựa, tức là phải xem vận dẫn dắt, có thể đắp đê để điều khiển, mới có thể là phúc lành, nếu gặp nơi chuyển sanh, khoảnh khắc mù mịt, trái lại không thành tựu vậy.
Ngũ tượng tương thừa hữu tường thụy, hữu quai kiển. Ngũ khí giao chiến hoặc thương tàn, hoặc phấn phát.
(Năm tượng lợi dụng lẫn nhau sẽ có điềm tốt, hoặc có khập khiễng. Năm khí đánh nhau có thể thương tàn, có thể phấn chấn).
Tường thuỵ: như mộc hoả, hoả thổ, thổ kim, kim thuỷ, thuỷ mộc thành tượng.
Đắc thời: nghĩa là được thiên thời. Đắc vị: nghĩa là được vị trí sanh vượng, hoặc nhân lúc khí kiên lộc. Đắc quyền: nghĩa là nhân lúc tài quan quý nhân các loại, như người có quyền có thế thi hành chức vụ.
Quai kiển: trái ngược với ba điều trên, nếu quý khí bên trong chỗ ngồi, cho dù lợi dụng đất quý của mình, địa chi cũng bị hình xung khắc hại là vậy.
Giao chiến: nghĩa là thể quân bình sức lực ổn thoả, như một vật nương nhờ thiên thời, còn một vật kia nương nhờ số đông bè nhóm, hoặc một vật đắc địa, hoặc một vật đắc quyền, tương tự như thuỷ hoả hay thổ thuỷ giao chiến.
Thương tàn: nghĩa là dụng thần bị khắc, can chủ bị hại, có thể tài cũng bị thương tổn, quan cũng bị khắc, hoặc một vật biến thành đảng phái, nhưng gặp khắc thần tới huỷ hoại. Tương tự như bính tân hoá thuỷ, bỗng nhiên gặp một thổ tới khắc.
Phấn phát: người khác và mình yên ổn với nhau, khách chủ hoà hợp. Mình nhân lúc vượng nên đụng chạm nhau, bên kia đắc địa nên đón tiếp nhau, mình thế mạnh nên kẻ thù bị khử, bên kia có khí lực nên tới chầu.
Tài quan dục chân, trí diệu hề tu lí hóa khí.
(Tài quan muốn thật thụ, để được khéo léo thì phải lo liệu hoá khí).
Như bính tân gặp mậu quý là tài, giáp kỷ là quan, đó là hạnh vận thật thụ, khí chất ưu nhã không thể nói, còn lại các loại theo đo mà suy xét.
Tài quan hữu tượng, trí tinh hề yếu ỷ cục thần.
(Tài quan có tượng, để được tinh khiết thì phải dựa vào thần của kết cấu)
Như bính tân gặp mậu quý là tài, gặp được hoả cục, giáp kỷ là quan gặp được thổ cục thì tài năng của nó mới tốt đẹp trọn vẹn, mà lại thuần khiết không thể so sánh. Còn lại cứ theo đó mà suy xét.
Tài quan tạp khí, cát vi khố hung vi mộ.
(Khí tài quan lẫn lộn, tốt là kho xấu là mộ).
Khí của tài quan, bằng nhau có củng (vây quanh), có thêm quý khí ở trên, là tốt là khố (kho), tạp khí trong khố có ba phẩm vật, nếu đương vượng tướng thì quý, có lợi cho mình thì tuyệt diệu.
Nếu quan hoá quỷ nhập mộ, hay tài thần hưu tù nhập mộ thì hung xấu, sẽ không phải là khố. Nếu cát thần nhập khố, vẫn có hưu phế tới hình, lại khắc mình cũng không phải là khố.
Thiện ác xung thần, khắc tắc nhập, sanh tắc thông.
(Thiện ác xung đột với tinh thần, khắc sẽ gia nhập, sanh sẽ linh hoạt).
Quý khí của địa chi tới xung, không thể nói ngay là tốt, còn ác thần thì không thể nói ngay là xấu, phải là địa chi và thiên can cùng khắc mới là tốt xấu khắc nhập, có thể một sanh một khắc, một hoà một chế, đó cũng là biến hoá thông suốt ở bên trong vậy.
Thượng sanh hạ, thành thoát khí, khả ưu tử vượng mẫu suy.
Tam thiết nhất, sanh dụng thần, phiên hỉ tử suy mẫu vượng.
(Trên sanh dưới, nên tiết khí, có thể lo lắngcon vượng mẹ suy.
Ba trộm một, sanh dụng thần, trái lại mừng con suy mẹ vượng).
Trên sanh dưới: như thiên can sanh địa chi, địa chi sanh âm là một.
Năm sanh tháng. tháng sanh ngày, ngày sanh giờ là hai.
Cái được sanh là con, nếu quan hệ đến nhàn (thông thuộc) thần là ba vậy. Như mộc sanh hoả ở ngay mùa hạ là con vượng mẹ suy, còn lại phỏng theo đó.
Ba trộm một: như kim sanh ba thuỷ, bốn thuỷ, mẹ sanh đông con, mẹ đã yếu đuối, tức là mừng con suy và mẹ ở nơi vượng thì tốt. Như mộc sanh hoả ở hợi, đúng là con suy mẹ vượng, còn lại đều theo ví dụ đó mà suy xét.
Tiền hô hậu ứng, sanh tắc kế, khắc tắc trị.
(Phía trước hô hào phía sau đáp ứng, sanh sẽ được tiếp tục, khắc sẽ được sửa chữa).
Thông thường cách cục một địa chi một thiên can, có thể dụng, có gốc ngọn, có hô hào và đáp ứng, khó nhĩ. Sanh sẽ tiếp tục nên không tuyệt, nhu thuận hoà ái hữu tình, nếu khắc sẽ đẽo gọt, rèn luyện, đã có đê cứu giúp, khai thông tạo vật và sửa chữa. Như trạng huống này hạn chế ở chi tiết nhò của sanh khắc, vì thế không thể nghiên cứu thấu suốt cơ chế ban đầu.
Tả bao hữu thừa, thu tắc quy, tán tắc hư.
(Bên trái vây bọc bên phải kế tục, thu sẽ trở về, tán sẽ hư nhược).
Thông thường một thiên can một địa chi, tồn tại kiệt xuất trong trụ, tương tự có điềm triệu trái phải nối tiếp nhau, có bao quát, có cái hướng về, có cái tản mác, có cái rút lui và thoát khỏi, cân nhắc nặng nhẹ , được mất thêm bớt, ý nghĩa của nơi thích hợp. không thể chọn nhỏ bỏ lớn, bỏ gốc theo ngọn.
Cục thần vô thủ, nhàn lai nhất phái thanh lãnh.
(Kết cấu không chọn lấy, hạn chế một trào lưu lãnh đạm).
Trong trụ chọn lấy nhật chủ, tài quan làm dụng thần, có thể lộn xộn có thể đục, có thể phức tạp có thể hỗn loạn, có thể thiếu thắng thua, có thể thiếu cai quản hay đầu hàng, không có phân biệt tốt và xấu. Bỗng nhiên một nhàn can chẳng phải nhật chủ cũng chẳng phải dụng thần, đang đến trái phải gặp phải gốc rễ, có khả năng lợi dụng quý khí, tức là chọn thiên can của nó, liên quan đến tinh thần của nhật chủ, loại thần ẩn nào, lý do khác nó dùng hư xứ (nơi phòng sẵn) tạo tượng, hoặc hợp quan hợp tài các hạng loại, chọn lấy kết cục rất cần dùng, tuy bắt đầu nhàn rỗi nhưng cũng vô dụng, rồi khi thời nhàn thần đến, nhàn được thành tài năng, là cơ hội hữu dụng, nghĩa là trong thế giới không có vật vứt bỏ, huống chi hạnh vận.
Quan khí hỗn cầu, diệu tại các chi thất phối.
(Quan khí chiêu dẫn giả tạo, kỳ diệu ở mỗi địa chi chồng vợ).
Đó cũng là vi phạm cách kỳ nghi một lần nữa. Nói rằng như quan sát hỗn loạn, một là người có duyên, một là vị quy (chưa đi lấy chồng) nhân lúc tiếp xúc, hoặc trong trụ có quan sát mỗi thứ tìm chỗ hợp, chỗ chế, dù đẹp thì cũng không bằng. Còn một đầu mối rất là quan trọng, có hai quan một sát hay hai sát một quan đều giống như vậy.
Như dụng thổ là nhật chủ, lộ ra giáp ất là quan sát, có chữ thân dậu trong địa chi, hoặc chữ thìn tỵ, đó là chỗ hợp chỗ chế vậy.
Giao hỗ hữu ý, yếu thẩm phù thùy, củng giáp tuy chân, đương phòng tổn lộ.
(Cố ý kết giao qua lại, phải xét giúp đỡ ai, vây quanh và kề bên tuy là thật, nên đề phòng tổn hại và lộ diện).
Giao hỗ hữu ý: (cố ý kết giao qua lại) như bính ngọ gặp nhâm tý, mỗi thứ có chỗ cậy nhờ, bính dùng quý làm quan, nhâm dùng đinh làm tài kỷ làm quan, xem các thần còn lại nâng đỡ ai là khẩn cấp, ai là không khẩn cấp. Củng giáp tuy chân: (vây quanh và kề bên tuy là thật) như người ất gặp hai vị trí quý mùi ất dậu, rõ ràng vây quanh và kề bên giáp thân là quan thật sự, quý khí không nghi ngờ, có thể các thần còn lại chôn dấu hoả thần, nếu gặp phải tuế vận hiện ra hoả, hiện ra canh, hoặc thấy điền thật, thì phát sanh tai hoạ không thể nói hết.
Hợp khởi lực lộ, mạc tác đẳng nhàn, thoát phế tinh anh, chuyển gia thì dụng.
(Bày ra sức mạnh tổng hợp, chớ làm các loại thông thạo, thoát khỏi và vứt bỏ tinh anh, chuyên chở thêm thời gian sử dụng).
Thiên can hợp nhau, phải xem cát hung của địa chi là quan trọng, địa chi có khí lực sẽ tự nhiên phi thường. Với địa chi hợp nhau, phải xem sức mạnh của thiên can mà nó cưởi lên, nếu lực mạnh thì càng thêm khí lực vậy.
Lại nói rằng: trên dưới đều hợp, có hợp sát thật sự tương tự như kỷ hợi gặp giáp dần, lại thêm hợp sát tương tự như giáp tý gặp kỷ sửu.
Lại nói rằng: sát thần kỵ hợp mà mừng xung hình phá hại, thiên can địa chi mỗi thứ có nhàn mạn (thong dong) tuế vận hợp khí lực tăng lên gấp trăm lần.
Lại nói rằng: lộc mã nên lục hợp, kỵ hình phá, huống chi trong trụ thấy hợp, bày ra sức mạnh, cho nên sẽ không nhàn rỗi.
Thoát khỏi và vứt bỏ khí lực: như tinh thần mình sanh mình khắc, vốn là tán khí của mình, nếu thêm dụng thần ở giờ, cái xấu được chế ngự tức là chuyển thành sanh trợ nhật chủ, sẽ khôi phục sức sống thật sự.
Quần phân hữu nhật chủ chuyên hành, nhật thần vụ tại cát hung chi vị.
(Chia nhóm nhật chủ có việc làm đặc biệt, nhật thần chuyên ở vị trí cát hung).
Cát thần gồm có: tài nguyên, quan quý, ấn thụ, thực thần, nhật đức, nguyệt đức, nhật lộc, quý nhân, đức thần, thiên nguyệt đức hợp, thiên xá, nguyệt không, thời lộc, thời tượng, kỳ bảo học đường. Hung thần gồm có: kim thần, dương nhận, thất sát, không vong, lục hại, cô quả, cách giác, tam hìn, xung thần, tử thần, tử tuyệt, câu giảo. Giải thích rằng ở năm, vong thần cùng giải thích ở trên, nguyên thần cũng giống ở trên.
Loại tụ hữu niên thần lĩnh dụng, thái tuế tham trạch cát hung chi cung.
(Thần năm tập hợp lại và sử dụng nó, thái tuế tham gia vào cung tốt xấu).
Cát thần gồm có: kiến lộc, dịch mã, trạch thần, thiên y, phúc đức, khuyết môn, tiến thần, sanh vượng vị, hoa cái, tam kỳ. Hung sát gồm có: toái sát, đích sát, hàm trì, mộc dục, vong kiếp, bạch hổ, dương nhận, phi nhận, phá trạch, đại hao, câu giảo, tang điếu, quan phù, bệnh phù, tử tuyệt.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀七
调峻格孤,势穷力尽,义理正欲变通。
究其日干用神,搜检明暗,造化吉凶,神煞隐显之处,其体孤峻,气亦末为穷绝,难于取用。此等至极转关处,自有穷则变,变则通之理,运迎何者之气,一路挽回,是何生意,起发情源,亦有无限之义。
气盈物盛,运并岁冲,身主何能恬静。
欲观其大概之义,气象或盈或流,察其物理之体,则盛且极,便自有不耐久之兆。况岁运抑则倾覆,扬则泛没,更若冲刑并,此身之主,独能安然恬静不扰,无此理也。
年月日时,干支有序,若臣宾主,体格朝伦。
月于宜在年干之次,时于宜在日于之次,若或循环次第又奇。如甲子、乙丑、丙寅、丁卯之类,奇格也。
年为君,日为主,月时如宾如臣,辅佐贵气,兼似前法有次,朝其纲常,辅其伦序,正其尊严。
又云:阳欲独慎,阴欲群随,仍察贵煞所加之处。
日主最喜先干,日主应嫌次位。
日主先干,如甲日见癸之类,此等其益有三,一能合戊财资我,一也。一能善于长发我,二也。一能化其象生我,三也。但已往之气稍慢,日主次位,如甲见乙之类,此等其损有四,一能劫妻财空我,一能合煞损我,一能化象以泄我气,一能拦截前路,作刃害我四也。
支神前气,支神后宫。
地支迎前之气多者,平生为人精神磊落,如甲子年,或子日见丑寅卯辰巳之类是也。
地支后宫者,主作事悔屯,或折挫,进退多端,如甲子年,或子日,见亥戌申未之类是也,余仿此。
独掉岁君,孤虚日主。
月日时支干,作联作党,作旺作合,或成一象,或化一气,独太岁孤另一位,似远似疏,必然离祖别宗自立,或偏出螟蛉者有之,穷乏孤独,年月时同上,日主独居孤寡,仍自无合无生,另立于缺陷处者,非异居同活,则乞养寄生,赘居外立。
党合双争,妻财两义。
柱中如土党既多,天时却系木旺,抑扬之道,在如何用,不可便作两雠相竞,若土不虚加厚,木有气而露,支音兼不刑害冲克,却能培养木秀成林,为用更奇,我合者为妻,我克者为财,世人但知我克者总为妻财,纰缪未善,又还看化象如何。
用神一字,贵气重来,象欲晶明,气伤懒散。
柱中有平生独用一字者,谓之不如格字面,俱合俱散,各自竟成群党去了,日干亦另处悬一字,无依无倚,故用此字,或用二字。用神一件,精神严切最妙,如用官星了,又见官星再来,复建禄等。或用财,又见食神贵人,皆为贵气重迭,苗不秀,秀不实。
用神壮健成象,意专力露不虚,不背昼夜。如土木水昼生,金火夜生,柱中如此,岂不为名利特达之士。
若地支天干,与我竟不相顾,用神不合,星主孤处,冲刑克害,相背窃气更多,象无赞助,迭见休废者,无立无成,不足道之格也。
我生我克情能退,他克他生气自归。
凡我生我克者,其义自然退散,他来生我克我,二者皆为气入,为支生,为克入吉神,如此第一妙。
生克来往,合主扶持。
柱中合空,或有赞助之神。合实,或有破坏之神。生有制者,克有扶持者,来往进退不一,万一失取,分毫之间,便差远千里,却会在合主扶佐,何神至切,为急事也。
善恶繁难,时分众寡。
善恶二位俱众,或错或杂,但看时座聚众休旺,聚寡休旺,恶众则为攒凶聚煞,善众则为吉聚福集,善寡力怯,恶寡庶几。一云年月时互见贵人生旺,与日和,第一妙。
生而复生,皆倚托成于何者。
如丙辛人见戊申运,却见庚申岁,转有倚靠复生之意,有壬水精神自来,况丙辛化水,故得生,倚托成于何者此也。
化而又化,竟渺茫归于何地。
如丁壬化木,况有寅卯亥未地面,又有余神,水木赞助,腾腾顽养之木,安可又用水来滋助,渺茫之气无倚,却看运引,或有堤防驭制之道,方能为福,若遇转生处,一向汗漫,反不立矣。
五象相乘有祥瑞,有乖蹇。五气交战或伤残,或奋发。
祥瑞,如木火、火土、土金、金水、水木成象。
得时,谓得天时。得位,谓得生旺位,或乘建禄等气。得权,谓乘财官贵人等,如有权有势有执事者。
乖蹇反是三者,若坐下贵气,纵乘贵地,地支却又刑冲克害是也。
交战,谓体均力停,如一物恃天时,一物恃其党众,或一物得地,或一物得权,水火土水交战之类。
伤残,谓用神被克,主干被害,或财亦被伤,官亦被克,或一物有党成化,却见克神来坏。如丙辛化水,忽见一土来克之类。
奋发,物我相安,宾主和协。我乘旺而相犯,他得地而相迎,我势强而敌去,他有气而来朝。
财官欲真,致妙兮须理化气。
如丙辛见戊癸为财,甲己为官,此为真造化,秀气不可言,余皆类此推之。
财官有象,致精兮要倚局神。
如丙辛见戊癸为财,得火局,甲己为官,得土局,方就其器完,而且清纯无比矣,余例此推。
财官杂气,吉为库凶为墓。
财官之气,均停有拱,更加贵气于上,为吉为库,库中杂气有三件,若当旺相为贵,益我者妙。
若官化鬼入墓,财神休囚入墓为凶,则不为库,若吉神入库,仍带休废来刑,且克我者亦非库。
善恶冲神,克则入,生则通。
地支贵气来冲,未可便言其吉,恶神未可便言其凶,须是支干同克,方为吉凶克入,或一生一克,一和一制,此亦变化通达在其中矣。
上生下,成脱气,可忧子旺母衰。
三窃一,生用神,翻喜子衰母旺。
上生下,如干生支,支生音,一也。
岁生月。月生日,日生时二也。
得生者既为子,若系闲神,三也。如木生火,在夏正为子旺母衰,余仿此。
三窃一,如金生三水四水,母生子广,母既当虚,即喜子衰而母在旺乡为吉。如木生火在亥,正为子衰母旺,余皆例此推。
前呼后应,生则继,克则治。
凡格局一辰一干,有体用,有本末,有呼应,难矣。生则继续而无绝,婉转有情,若克则削朴煅炼,既济堤防,疏通造物之切治也。如是局面,拘于生克小节,所以不能洞究元机耳。
左包右承,收则归,散则虚。
凡一干一支,挺立于柱中者,类有左右相承之兆,有包罗,有归向,有散漫,有退脱,轻重较量,得失加减,宜处当然之义,不可务小弃大,舍本逐末。
局神无取,闲来一派清冷。
柱中取其日主财官用神等件,或杂或浊,或繁或混,或欠胜负,或欠制降,无分优劣。忽一闲干,非主非用,却来左右逢原,能乘一贵气,却取其干,系日主之神,何等遁神,以别其用虚处造象,或合官合财等项,取其成局有切用者,始虽闲而无用,既而闲神时至,闲得成器,际遇有用,则天下无弃物之谓,况造化乎。
官气混求,妙在各支匹配。
既重犯奇仪之格一体也。谓如官煞混紊,一有所配,一有未归乘着,须得岁运,更配其未归偶者吉,或官煞柱中,各寻所合所制,则佳有过不及,又有消息极为切事,又有两官一煞,两煞一官,皆此类矣。
如用土为日主,露甲乙为官煞,支中有申西字,或辰巳字,此为所合所制也。
交互有意,要审扶谁,拱夹虽真,当防损露。
交互有意,如丙午见壬子,各有所赖,丙用癸官,壬用丁财己官,看余神扶何者为急,何者非急,拱夹虽真,如乙人遇癸未乙酉二位,明见拱夹甲申之真官,贵气无疑,或余神埋藏火神,倘遇岁运见火见庚,或见填实其位,发祸可胜言哉。
合起力露,莫作等闲,脱废精英,转加时用。
天干相合,看支神吉凶为要,支神有力,则自然非常。和地支相合,看所乘之干力,力重愈精神也。
一云:上下俱合,有真合煞,如己亥见甲寅之类,又合煞如甲子见己丑之类。
一云:煞神忌合,喜冲刑破害,干神支神一有闲慢,岁运合者,精神百倍。
一云:禄马宜六合,忌刑破,况柱中见合,力露,不等闲也。
脱废精神,如我生我克之精,本散我气,若加时上用神,凶则制驭,却转生助主本,则挽回生意真矣。
群分有日主专行,日辰务在吉凶之位。
吉神、财元,官贵、印绶、食神、日德、月德、日禄、贵人、德神、天月德合、天赦、月空、时禄、时象、奇宝学堂、凶神、金神、羊刃、七煞、空亡、六害、孤寡、隔角、三刑、冲神、死神、死绝、勾绞,一说在年,亡神同上说,元辰同上。
类聚有年神领用,太岁参宅吉凶之宫。
吉神、建禄、驿马、宅神、天医、福德、阙门、进神、生旺位、华盖、三奇、凶煞、碎煞、的煞、咸池、沐浴、亡劫、白虎、羊刃、飞刃、破宅、大耗、勾绞、丧吊、官符、病符、死绝。
.
ngọc tỉnh áo quyết thất
Điều tuấn cách cô, thế cùng lực tận, nghĩa lý chánh dục biến thông.
(Giọng điệu nghiêm khắc cách gàn dở, quyền lực kiệt tận, nghĩa chánh là muốn linh hoạt).
Nhiên cứu can ngày và dụng thần, kiểm tra sáng và tối, tạo hoá cát hung, nơi của thần sát ẩn hiện, bản chất sự vật cô tuấn (cô độc và khắc nghiệt), khí ở giai đoạn cuối thì cùng tận, khó mà chọn dụng thần. Những thứ cực đoan này chuyển đổi khi có giới hạn, tự có cái lý cùng tắc biến, biến tắc thông, vận nghênh đón khí nào một đường khôi phục, là sanh ý gì khởi phát nguồn cảm xúc cũng có nghĩa là vô hạn.
Khí doanh vật thịnh, vận tịnh tuế xung, thân chủ hà năng điềm tĩnh.
(Khí đầy đủ vật dồi dào, vận cùng tuế xung, thân chủ làm sao có thể điềm tỉnh).
Muốn quan sát ý nghĩa tổng quát của nó, khí tượng có thể đầy có thể chuyển động, quan sát bản chất vật lý của nó thì thịnh vượng lại cực đoan thì sẽ có dấu hiệu không bền vững. Huống chi tuế vận đè nén sẽ làm thất bại, còn vênh vang thì bị nhấn chìm, nếu có thêm hình xung tụ hợp, chủ thân đó, chỉ có thể an nhiên điềm tĩnh không rối loạn là điều vô lý vậy.
Niên nguyệt nhật thì, can chi hữu tự, nhược thần tân chủ, thể cách triêu luân.
(Năm tháng ngày giờ, thiên can địa chi đều theo thứ tự, giống như là khách và chủ, bản chất sự vật cũng có trật tự).
Can tháng nên đứng sau can năm, can giờ nên đứng sau can ngày, nếu chu kỳ thứ hạng là đặc thù. Tương tự như giáp tý ất sửu, bính dần đinh mão, cách đặc thù vậy.
Năm là vua, ngày làm chủ, tháng giờ như khách như bầy tôi, giúp đỡ quý khí, gồm cả quy tắc trước đây, duy trì trật tự triều đình, hỗ trợ trật tự đại đứa, sửa chữa sự tôn nghiêm.
Lại nói: dương muốn một mình thận trọng, âm thì muốn theo bầy đàn, vẫn nên xem xét nơi mà quý sát tham gia.
Nhật chủ tối hỉ tiên can, nhật chủ ứng hiềm thứ vị
(Nhật chủ rất thích chen dự vào cầm đầu, nhật chủ không thích tiếp nhận vị trí thứ hai).
Nhật chủ chen dự vào cầm đầu, tương tự như ngày giáp gặp quý, Điều này có ba lợi ích: có khả năng hợp tài thịnh vượng để nuôi mình là một. Có thể giỏi ở nuôi lớn mình là hai. Có thể biến đổi tượng của nó để sanh mình là ba. Nhưng mà khí đã đi qua hơi chậm, nhật chủ chiếm vị trí thứ hai, tương tự như giáp gặp ất, điều này có bốn tổn hại: có thể cướp đoạt thê tài làm mình trống rỗng, có thể hợp sát tổn hại mình, có thể biến dổi tượng làm tiết khí của mình, một có thể ngăn chặn con đường phía trước, làm nhận gây hại cho mình là bốn vậy.
Chi thần tiền khí, chi thần hậu cung.
(Khí ở phía trước của địa chi, cung ở phía sau địa chi).
Địa chi nghênh đón khí ở phía trước nhiều, cả đời là người có khí lực lổi lạc, tương tự như năm giáp tý hoặc ngày tý gặp sửu dần mão thìn tỵ.
Địa chi ở cung phía sau chủ vất vả và hối hận về công việc của mình, có thể trắc trở và thất bại, tiến thối nhiều mối, tương tự như năm giáp tý hoặc ngày tý gặp hợi tuất thân mùi. Còn lại phỏng theo đó.
Độc điệu tuế quân, cô hư nhật chủ.
(Tuế quân một mình lay động, nhật chủ một mình trống rỗng).
Thiên can địa chi của tháng ngày giờ làm thành kết hợp làm thành bè nhóm, làm thành vượng làm thành tụ hội, có thể thành một tượng, có thể biến thành một khí, chỉ thái tuế lẻ loi một nơi, giống như lánh xa giống như không gần gũi, dĩ nhiên sẽ xa rời quê cha đất tổ mà tự lập, hoặc thân phận là con nuôi, nghèo khó và cô độc, năm tháng giờ giống như trên, nhật chủ cô quả ở một mình, vẫn không có hợp không có sanh, người tồn tại lẻ loi ở nơi khiếm khuyết, nếu chẳng sống cùng nhau ở một nơi khác sẽ là sống nhờ vào xin ăn, sống ở bên ngoài.
Đảng hợp song tranh, thê tài lưỡng nghĩa.
(Bè nhóm cùng cạnh tranh, thê tài có hai nghĩa).
Trong trụ như nhóm thổ đã nhiều, nhưng thời tiết liên quan mộc vượng, sử dụng như thế nào phép kiềm chế và thúc đẩy, không thể thích hợp cho hai bên cạnh tranh nhau, nếu thổ không trống rỗng mà thêm dày, mộc có khí lực lại lộ ra, địa chi cùng lúc không hình hại xung khắc, tức là có khả năng vun bồi nuôi mộc lớn lên thành rừng, là dụng thần càng thêm đặc thù. Mình hợp là thê (vợ), mình khắc là tài (tiền của), người đời chỉ biết mình khắc đều là thê tài, lầm lẫn này không tốt, phải xem lại hoá tượng như thế nào.
Dụng thần nhất tự, quý khí trọng lai, tượng dục tinh minh, khí thương lãn tán.
(Một chữ dụng thần, quý khí lại đến, tượng muốn như ánh sáng rõ ràng, khí tổn hại không thích tan rã).
Thường ngày chỉ có một chữ dụng thần trong trụ, nghĩa là không như cách mặt chữ (nghĩa đen), cùng hợp cùng tan, mỗi thứ trong nhóm tự biến mất, can ngày cũng một chữ treo lơ lửng ở một nơi khác, không có chỗ dựa vào, cho nên dụng chữ này, có thể dùng hai chữ. Một chữ dụng thần, khí lực nghiêm túc thật tốt đẹp, như dụng thần là quan tinh rồi, lại thấy quan tinh lại đến, khôi phục lương bỗng như nhau. Hoặc dụng thần là tài, lại gặp thực thần quý nhân, đều là quý khí trùng điệt (lại thoát mất), nên lúa không ra hoa, hoa không kết trái.
Dụng thần mạnh mẽ thành tượng, tâm trí tập trung vào sức mạnh phơi bày mà không yếu đuối, không quay lưng lại với ngày và đêm. Như thổ mộc thuỷ sanh ban ngày, kim hoả sanh ban đêm, trong trụ như thế, làm sao không phải là người nổi tiếng và thành đạt.
Nếu địa chi thiên can, cùng với mìnhkhong6 chiếu cố nhau, dụng thần không phù hợp, tinh chủ chỉ có một mình, xung hình khắc hại, quay lưng nhau trộm khí càng nhiều, tượng không tán trợ, lần lượt gặp hưu phế, không gây dựng không thành công, tiêu chuẩn không đáng kể.
Ngã sanh ngã khắc tình năng thối, tha khắc tha sanh khí tự quy.
(Mình sanh mình khắc tình có thể thối lui, nó khắc nó sanh khí tự trở về).
Thông thường mình sanh mình khắc, nghĩa của nó là đương nhiên rút lui và tan rã, nó đến sanh mình khắc mình đều do khí thích hợp, vì địa chi sanh, vì có thể hợp cát thần, như thế là điều tuyệt vời nhất.
Sanh khắc lai vãng, hợp chủ phù trì.
(Sanh khắc đến đi, hợp chủ trợ giúp).
Trong trụ hợp không có thể có thần tán trợ (giúp đỡ). Hợp thật có thể có thần phá hoại. Sanh có kiềm chế; khắc có trợ giúp, đến đi tiến thối không giống nhau, chẳng may thất thủ, thì sai một ly đi ngàn dặm, nhưng dịp hội họp chủ trợ giúp, thần nào cần kíp là sự việc đó cấp bách vậy.
Thiện ác phồn nan, thì phân chúng quả.
(Thiện ác phức tạp và khó khăn, thường xuyên phân ra đông hay ít).
Hai vị thiện ác đều là chúng (đông, nhiều), có thể sai lầm có thể lẫn lộn, nhưng phải xem nơi giờ tụ họp số đông là hưu hay vượng, tụ họp số ít là hưu hay vượng, ác chúng (số đông ác) sẽ là tụ tập hung sát, thiện chúng (số đông thiện) sẽ là tụ tập phúc lành, thiện quả (số ít thiện) thì rụt rè, ác quả (số ít ác) người bình thường. Lại nói năm tháng giờ gặp quý nhân sanh vượng của nhau, cùng với ngày hoà hợp là điều kỳ diệu nhất.
Sanh nhi phục sanh, giai ỷ thác thành vu hà giả.
(Sanh và phục sanh, đều dựa vào họ là ai).
Như người bính tân gặp vận mậu thân, nhưng gặp năm canh thân, chuyển đổi ý tưởng trông cậy phục sanh vào nhâm thuỷ khí lực tự đến, huống chi bính tân hoá thuỷ, cho nên được sanh, phụ thuộc vào người mà mình trông cậy để thành hiện thực vậy.
Hóa nhi hựu hóa, cánh miểu mang quy vu hà địa.
(Hoá mà lại hoá, cuối cùng mờ mịt trở về đất nào).
Như đinh nhâm hoá mộc, huống chi mặt đất có dần mão hợi mùi, lại có thêm thần khác, thuỷ mộc giúp đỡ, cuồn cuộn nuôi dưỡng mộc, thích nghi có thể lại dùng nước nuôi dưỡng, khí mờ mịt không có chỗ dựa, tức là phải xem vận dẫn dắt, có thể đắp đê để điều khiển, mới có thể là phúc lành, nếu gặp nơi chuyển sanh, khoảnh khắc mù mịt, trái lại không thành tựu vậy.
Ngũ tượng tương thừa hữu tường thụy, hữu quai kiển. Ngũ khí giao chiến hoặc thương tàn, hoặc phấn phát.
(Năm tượng lợi dụng lẫn nhau sẽ có điềm tốt, hoặc có khập khiễng. Năm khí đánh nhau có thể thương tàn, có thể phấn chấn).
Tường thuỵ: như mộc hoả, hoả thổ, thổ kim, kim thuỷ, thuỷ mộc thành tượng.
Đắc thời: nghĩa là được thiên thời. Đắc vị: nghĩa là được vị trí sanh vượng, hoặc nhân lúc khí kiên lộc. Đắc quyền: nghĩa là nhân lúc tài quan quý nhân các loại, như người có quyền có thế thi hành chức vụ.
Quai kiển: trái ngược với ba điều trên, nếu quý khí bên trong chỗ ngồi, cho dù lợi dụng đất quý của mình, địa chi cũng bị hình xung khắc hại là vậy.
Giao chiến: nghĩa là thể quân bình sức lực ổn thoả, như một vật nương nhờ thiên thời, còn một vật kia nương nhờ số đông bè nhóm, hoặc một vật đắc địa, hoặc một vật đắc quyền, tương tự như thuỷ hoả hay thổ thuỷ giao chiến.
Thương tàn: nghĩa là dụng thần bị khắc, can chủ bị hại, có thể tài cũng bị thương tổn, quan cũng bị khắc, hoặc một vật biến thành đảng phái, nhưng gặp khắc thần tới huỷ hoại. Tương tự như bính tân hoá thuỷ, bỗng nhiên gặp một thổ tới khắc.
Phấn phát: người khác và mình yên ổn với nhau, khách chủ hoà hợp. Mình nhân lúc vượng nên đụng chạm nhau, bên kia đắc địa nên đón tiếp nhau, mình thế mạnh nên kẻ thù bị khử, bên kia có khí lực nên tới chầu.
Tài quan dục chân, trí diệu hề tu lí hóa khí.
(Tài quan muốn thật thụ, để được khéo léo thì phải lo liệu hoá khí).
Như bính tân gặp mậu quý là tài, giáp kỷ là quan, đó là hạnh vận thật thụ, khí chất ưu nhã không thể nói, còn lại các loại theo đo mà suy xét.
Tài quan hữu tượng, trí tinh hề yếu ỷ cục thần.
(Tài quan có tượng, để được tinh khiết thì phải dựa vào thần của kết cấu)
Như bính tân gặp mậu quý là tài, gặp được hoả cục, giáp kỷ là quan gặp được thổ cục thì tài năng của nó mới tốt đẹp trọn vẹn, mà lại thuần khiết không thể so sánh. Còn lại cứ theo đó mà suy xét.
Tài quan tạp khí, cát vi khố hung vi mộ.
(Khí tài quan lẫn lộn, tốt là kho xấu là mộ).
Khí của tài quan, bằng nhau có củng (vây quanh), có thêm quý khí ở trên, là tốt là khố (kho), tạp khí trong khố có ba phẩm vật, nếu đương vượng tướng thì quý, có lợi cho mình thì tuyệt diệu.
Nếu quan hoá quỷ nhập mộ, hay tài thần hưu tù nhập mộ thì hung xấu, sẽ không phải là khố. Nếu cát thần nhập khố, vẫn có hưu phế tới hình, lại khắc mình cũng không phải là khố.
Thiện ác xung thần, khắc tắc nhập, sanh tắc thông.
(Thiện ác xung đột với tinh thần, khắc sẽ gia nhập, sanh sẽ linh hoạt).
Quý khí của địa chi tới xung, không thể nói ngay là tốt, còn ác thần thì không thể nói ngay là xấu, phải là địa chi và thiên can cùng khắc mới là tốt xấu khắc nhập, có thể một sanh một khắc, một hoà một chế, đó cũng là biến hoá thông suốt ở bên trong vậy.
Thượng sanh hạ, thành thoát khí, khả ưu tử vượng mẫu suy.
Tam thiết nhất, sanh dụng thần, phiên hỉ tử suy mẫu vượng.
(Trên sanh dưới, nên tiết khí, có thể lo lắngcon vượng mẹ suy.
Ba trộm một, sanh dụng thần, trái lại mừng con suy mẹ vượng).
Trên sanh dưới: như thiên can sanh địa chi, địa chi sanh âm là một.
Năm sanh tháng. tháng sanh ngày, ngày sanh giờ là hai.
Cái được sanh là con, nếu quan hệ đến nhàn (thông thuộc) thần là ba vậy. Như mộc sanh hoả ở ngay mùa hạ là con vượng mẹ suy, còn lại phỏng theo đó.
Ba trộm một: như kim sanh ba thuỷ, bốn thuỷ, mẹ sanh đông con, mẹ đã yếu đuối, tức là mừng con suy và mẹ ở nơi vượng thì tốt. Như mộc sanh hoả ở hợi, đúng là con suy mẹ vượng, còn lại đều theo ví dụ đó mà suy xét.
Tiền hô hậu ứng, sanh tắc kế, khắc tắc trị.
(Phía trước hô hào phía sau đáp ứng, sanh sẽ được tiếp tục, khắc sẽ được sửa chữa).
Thông thường cách cục một địa chi một thiên can, có thể dụng, có gốc ngọn, có hô hào và đáp ứng, khó nhĩ. Sanh sẽ tiếp tục nên không tuyệt, nhu thuận hoà ái hữu tình, nếu khắc sẽ đẽo gọt, rèn luyện, đã có đê cứu giúp, khai thông tạo vật và sửa chữa. Như trạng huống này hạn chế ở chi tiết nhò của sanh khắc, vì thế không thể nghiên cứu thấu suốt cơ chế ban đầu.
Tả bao hữu thừa, thu tắc quy, tán tắc hư.
(Bên trái vây bọc bên phải kế tục, thu sẽ trở về, tán sẽ hư nhược).
Thông thường một thiên can một địa chi, tồn tại kiệt xuất trong trụ, tương tự có điềm triệu trái phải nối tiếp nhau, có bao quát, có cái hướng về, có cái tản mác, có cái rút lui và thoát khỏi, cân nhắc nặng nhẹ , được mất thêm bớt, ý nghĩa của nơi thích hợp. không thể chọn nhỏ bỏ lớn, bỏ gốc theo ngọn.
Cục thần vô thủ, nhàn lai nhất phái thanh lãnh.
(Kết cấu không chọn lấy, hạn chế một trào lưu lãnh đạm).
Trong trụ chọn lấy nhật chủ, tài quan làm dụng thần, có thể lộn xộn có thể đục, có thể phức tạp có thể hỗn loạn, có thể thiếu thắng thua, có thể thiếu cai quản hay đầu hàng, không có phân biệt tốt và xấu. Bỗng nhiên một nhàn can chẳng phải nhật chủ cũng chẳng phải dụng thần, đang đến trái phải gặp phải gốc rễ, có khả năng lợi dụng quý khí, tức là chọn thiên can của nó, liên quan đến tinh thần của nhật chủ, loại thần ẩn nào, lý do khác nó dùng hư xứ (nơi phòng sẵn) tạo tượng, hoặc hợp quan hợp tài các hạng loại, chọn lấy kết cục rất cần dùng, tuy bắt đầu nhàn rỗi nhưng cũng vô dụng, rồi khi thời nhàn thần đến, nhàn được thành tài năng, là cơ hội hữu dụng, nghĩa là trong thế giới không có vật vứt bỏ, huống chi hạnh vận.
Quan khí hỗn cầu, diệu tại các chi thất phối.
(Quan khí chiêu dẫn giả tạo, kỳ diệu ở mỗi địa chi chồng vợ).
Đó cũng là vi phạm cách kỳ nghi một lần nữa. Nói rằng như quan sát hỗn loạn, một là người có duyên, một là vị quy (chưa đi lấy chồng) nhân lúc tiếp xúc, hoặc trong trụ có quan sát mỗi thứ tìm chỗ hợp, chỗ chế, dù đẹp thì cũng không bằng. Còn một đầu mối rất là quan trọng, có hai quan một sát hay hai sát một quan đều giống như vậy.
Như dụng thổ là nhật chủ, lộ ra giáp ất là quan sát, có chữ thân dậu trong địa chi, hoặc chữ thìn tỵ, đó là chỗ hợp chỗ chế vậy.
Giao hỗ hữu ý, yếu thẩm phù thùy, củng giáp tuy chân, đương phòng tổn lộ.
(Cố ý kết giao qua lại, phải xét giúp đỡ ai, vây quanh và kề bên tuy là thật, nên đề phòng tổn hại và lộ diện).
Giao hỗ hữu ý: (cố ý kết giao qua lại) như bính ngọ gặp nhâm tý, mỗi thứ có chỗ cậy nhờ, bính dùng quý làm quan, nhâm dùng đinh làm tài kỷ làm quan, xem các thần còn lại nâng đỡ ai là khẩn cấp, ai là không khẩn cấp. Củng giáp tuy chân: (vây quanh và kề bên tuy là thật) như người ất gặp hai vị trí quý mùi ất dậu, rõ ràng vây quanh và kề bên giáp thân là quan thật sự, quý khí không nghi ngờ, có thể các thần còn lại chôn dấu hoả thần, nếu gặp phải tuế vận hiện ra hoả, hiện ra canh, hoặc thấy điền thật, thì phát sanh tai hoạ không thể nói hết.
Hợp khởi lực lộ, mạc tác đẳng nhàn, thoát phế tinh anh, chuyển gia thì dụng.
(Bày ra sức mạnh tổng hợp, chớ làm các loại thông thạo, thoát khỏi và vứt bỏ tinh anh, chuyên chở thêm thời gian sử dụng).
Thiên can hợp nhau, phải xem cát hung của địa chi là quan trọng, địa chi có khí lực sẽ tự nhiên phi thường. Với địa chi hợp nhau, phải xem sức mạnh của thiên can mà nó cưởi lên, nếu lực mạnh thì càng thêm khí lực vậy.
Lại nói rằng: trên dưới đều hợp, có hợp sát thật sự tương tự như kỷ hợi gặp giáp dần, lại thêm hợp sát tương tự như giáp tý gặp kỷ sửu.
Lại nói rằng: sát thần kỵ hợp mà mừng xung hình phá hại, thiên can địa chi mỗi thứ có nhàn mạn (thong dong) tuế vận hợp khí lực tăng lên gấp trăm lần.
Lại nói rằng: lộc mã nên lục hợp, kỵ hình phá, huống chi trong trụ thấy hợp, bày ra sức mạnh, cho nên sẽ không nhàn rỗi.
Thoát khỏi và vứt bỏ khí lực: như tinh thần mình sanh mình khắc, vốn là tán khí của mình, nếu thêm dụng thần ở giờ, cái xấu được chế ngự tức là chuyển thành sanh trợ nhật chủ, sẽ khôi phục sức sống thật sự.
Quần phân hữu nhật chủ chuyên hành, nhật thần vụ tại cát hung chi vị.
(Chia nhóm nhật chủ có việc làm đặc biệt, nhật thần chuyên ở vị trí cát hung).
Cát thần gồm có: tài nguyên, quan quý, ấn thụ, thực thần, nhật đức, nguyệt đức, nhật lộc, quý nhân, đức thần, thiên nguyệt đức hợp, thiên xá, nguyệt không, thời lộc, thời tượng, kỳ bảo học đường. Hung thần gồm có: kim thần, dương nhận, thất sát, không vong, lục hại, cô quả, cách giác, tam hìn, xung thần, tử thần, tử tuyệt, câu giảo. Giải thích rằng ở năm, vong thần cùng giải thích ở trên, nguyên thần cũng giống ở trên.
Loại tụ hữu niên thần lĩnh dụng, thái tuế tham trạch cát hung chi cung.
(Thần năm tập hợp lại và sử dụng nó, thái tuế tham gia vào cung tốt xấu).
Cát thần gồm có: kiến lộc, dịch mã, trạch thần, thiên y, phúc đức, khuyết môn, tiến thần, sanh vượng vị, hoa cái, tam kỳ. Hung sát gồm có: toái sát, đích sát, hàm trì, mộc dục, vong kiếp, bạch hổ, dương nhận, phi nhận, phá trạch, đại hao, câu giảo, tang điếu, quan phù, bệnh phù, tử tuyệt.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀七
调峻格孤,势穷力尽,义理正欲变通。
究其日干用神,搜检明暗,造化吉凶,神煞隐显之处,其体孤峻,气亦末为穷绝,难于取用。此等至极转关处,自有穷则变,变则通之理,运迎何者之气,一路挽回,是何生意,起发情源,亦有无限之义。
气盈物盛,运并岁冲,身主何能恬静。
欲观其大概之义,气象或盈或流,察其物理之体,则盛且极,便自有不耐久之兆。况岁运抑则倾覆,扬则泛没,更若冲刑并,此身之主,独能安然恬静不扰,无此理也。
年月日时,干支有序,若臣宾主,体格朝伦。
月于宜在年干之次,时于宜在日于之次,若或循环次第又奇。如甲子、乙丑、丙寅、丁卯之类,奇格也。
年为君,日为主,月时如宾如臣,辅佐贵气,兼似前法有次,朝其纲常,辅其伦序,正其尊严。
又云:阳欲独慎,阴欲群随,仍察贵煞所加之处。
日主最喜先干,日主应嫌次位。
日主先干,如甲日见癸之类,此等其益有三,一能合戊财资我,一也。一能善于长发我,二也。一能化其象生我,三也。但已往之气稍慢,日主次位,如甲见乙之类,此等其损有四,一能劫妻财空我,一能合煞损我,一能化象以泄我气,一能拦截前路,作刃害我四也。
支神前气,支神后宫。
地支迎前之气多者,平生为人精神磊落,如甲子年,或子日见丑寅卯辰巳之类是也。
地支后宫者,主作事悔屯,或折挫,进退多端,如甲子年,或子日,见亥戌申未之类是也,余仿此。
独掉岁君,孤虚日主。
月日时支干,作联作党,作旺作合,或成一象,或化一气,独太岁孤另一位,似远似疏,必然离祖别宗自立,或偏出螟蛉者有之,穷乏孤独,年月时同上,日主独居孤寡,仍自无合无生,另立于缺陷处者,非异居同活,则乞养寄生,赘居外立。
党合双争,妻财两义。
柱中如土党既多,天时却系木旺,抑扬之道,在如何用,不可便作两雠相竞,若土不虚加厚,木有气而露,支音兼不刑害冲克,却能培养木秀成林,为用更奇,我合者为妻,我克者为财,世人但知我克者总为妻财,纰缪未善,又还看化象如何。
用神一字,贵气重来,象欲晶明,气伤懒散。
柱中有平生独用一字者,谓之不如格字面,俱合俱散,各自竟成群党去了,日干亦另处悬一字,无依无倚,故用此字,或用二字。用神一件,精神严切最妙,如用官星了,又见官星再来,复建禄等。或用财,又见食神贵人,皆为贵气重迭,苗不秀,秀不实。
用神壮健成象,意专力露不虚,不背昼夜。如土木水昼生,金火夜生,柱中如此,岂不为名利特达之士。
若地支天干,与我竟不相顾,用神不合,星主孤处,冲刑克害,相背窃气更多,象无赞助,迭见休废者,无立无成,不足道之格也。
我生我克情能退,他克他生气自归。
凡我生我克者,其义自然退散,他来生我克我,二者皆为气入,为支生,为克入吉神,如此第一妙。
生克来往,合主扶持。
柱中合空,或有赞助之神。合实,或有破坏之神。生有制者,克有扶持者,来往进退不一,万一失取,分毫之间,便差远千里,却会在合主扶佐,何神至切,为急事也。
善恶繁难,时分众寡。
善恶二位俱众,或错或杂,但看时座聚众休旺,聚寡休旺,恶众则为攒凶聚煞,善众则为吉聚福集,善寡力怯,恶寡庶几。一云年月时互见贵人生旺,与日和,第一妙。
生而复生,皆倚托成于何者。
如丙辛人见戊申运,却见庚申岁,转有倚靠复生之意,有壬水精神自来,况丙辛化水,故得生,倚托成于何者此也。
化而又化,竟渺茫归于何地。
如丁壬化木,况有寅卯亥未地面,又有余神,水木赞助,腾腾顽养之木,安可又用水来滋助,渺茫之气无倚,却看运引,或有堤防驭制之道,方能为福,若遇转生处,一向汗漫,反不立矣。
五象相乘有祥瑞,有乖蹇。五气交战或伤残,或奋发。
祥瑞,如木火、火土、土金、金水、水木成象。
得时,谓得天时。得位,谓得生旺位,或乘建禄等气。得权,谓乘财官贵人等,如有权有势有执事者。
乖蹇反是三者,若坐下贵气,纵乘贵地,地支却又刑冲克害是也。
交战,谓体均力停,如一物恃天时,一物恃其党众,或一物得地,或一物得权,水火土水交战之类。
伤残,谓用神被克,主干被害,或财亦被伤,官亦被克,或一物有党成化,却见克神来坏。如丙辛化水,忽见一土来克之类。
奋发,物我相安,宾主和协。我乘旺而相犯,他得地而相迎,我势强而敌去,他有气而来朝。
财官欲真,致妙兮须理化气。
如丙辛见戊癸为财,甲己为官,此为真造化,秀气不可言,余皆类此推之。
财官有象,致精兮要倚局神。
如丙辛见戊癸为财,得火局,甲己为官,得土局,方就其器完,而且清纯无比矣,余例此推。
财官杂气,吉为库凶为墓。
财官之气,均停有拱,更加贵气于上,为吉为库,库中杂气有三件,若当旺相为贵,益我者妙。
若官化鬼入墓,财神休囚入墓为凶,则不为库,若吉神入库,仍带休废来刑,且克我者亦非库。
善恶冲神,克则入,生则通。
地支贵气来冲,未可便言其吉,恶神未可便言其凶,须是支干同克,方为吉凶克入,或一生一克,一和一制,此亦变化通达在其中矣。
上生下,成脱气,可忧子旺母衰。
三窃一,生用神,翻喜子衰母旺。
上生下,如干生支,支生音,一也。
岁生月。月生日,日生时二也。
得生者既为子,若系闲神,三也。如木生火,在夏正为子旺母衰,余仿此。
三窃一,如金生三水四水,母生子广,母既当虚,即喜子衰而母在旺乡为吉。如木生火在亥,正为子衰母旺,余皆例此推。
前呼后应,生则继,克则治。
凡格局一辰一干,有体用,有本末,有呼应,难矣。生则继续而无绝,婉转有情,若克则削朴煅炼,既济堤防,疏通造物之切治也。如是局面,拘于生克小节,所以不能洞究元机耳。
左包右承,收则归,散则虚。
凡一干一支,挺立于柱中者,类有左右相承之兆,有包罗,有归向,有散漫,有退脱,轻重较量,得失加减,宜处当然之义,不可务小弃大,舍本逐末。
局神无取,闲来一派清冷。
柱中取其日主财官用神等件,或杂或浊,或繁或混,或欠胜负,或欠制降,无分优劣。忽一闲干,非主非用,却来左右逢原,能乘一贵气,却取其干,系日主之神,何等遁神,以别其用虚处造象,或合官合财等项,取其成局有切用者,始虽闲而无用,既而闲神时至,闲得成器,际遇有用,则天下无弃物之谓,况造化乎。
官气混求,妙在各支匹配。
既重犯奇仪之格一体也。谓如官煞混紊,一有所配,一有未归乘着,须得岁运,更配其未归偶者吉,或官煞柱中,各寻所合所制,则佳有过不及,又有消息极为切事,又有两官一煞,两煞一官,皆此类矣。
如用土为日主,露甲乙为官煞,支中有申西字,或辰巳字,此为所合所制也。
交互有意,要审扶谁,拱夹虽真,当防损露。
交互有意,如丙午见壬子,各有所赖,丙用癸官,壬用丁财己官,看余神扶何者为急,何者非急,拱夹虽真,如乙人遇癸未乙酉二位,明见拱夹甲申之真官,贵气无疑,或余神埋藏火神,倘遇岁运见火见庚,或见填实其位,发祸可胜言哉。
合起力露,莫作等闲,脱废精英,转加时用。
天干相合,看支神吉凶为要,支神有力,则自然非常。和地支相合,看所乘之干力,力重愈精神也。
一云:上下俱合,有真合煞,如己亥见甲寅之类,又合煞如甲子见己丑之类。
一云:煞神忌合,喜冲刑破害,干神支神一有闲慢,岁运合者,精神百倍。
一云:禄马宜六合,忌刑破,况柱中见合,力露,不等闲也。
脱废精神,如我生我克之精,本散我气,若加时上用神,凶则制驭,却转生助主本,则挽回生意真矣。
群分有日主专行,日辰务在吉凶之位。
吉神、财元,官贵、印绶、食神、日德、月德、日禄、贵人、德神、天月德合、天赦、月空、时禄、时象、奇宝学堂、凶神、金神、羊刃、七煞、空亡、六害、孤寡、隔角、三刑、冲神、死神、死绝、勾绞,一说在年,亡神同上说,元辰同上。
类聚有年神领用,太岁参宅吉凶之宫。
吉神、建禄、驿马、宅神、天医、福德、阙门、进神、生旺位、华盖、三奇、凶煞、碎煞、的煞、咸池、沐浴、亡劫、白虎、羊刃、飞刃、破宅、大耗、勾绞、丧吊、官符、病符、死绝。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#360
Gửi vào 12/10/2024 - 09:06
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết bát
Thì tọa tiêu tường, hữu ngũ lí chi đương nhiên.
(Trụ giờ cần phải tỉ mỉ, đương nhiên có năm lý do).
Một như trên trụ giờ có vong kiếp, nhận sát, không vong, nguyên thần, cô quả, tử bại, kim thần, bạch hổ các hạng, ác khí quen tích tụ, trở về ở ngày, chỗ có phạm hình xung khắc thì không tốt lành, nếu quý khí tập hợp ở đó sẽ là điềm tốt lành. Một cái khác là ba hạng quý khí của năm tháng ngày, dẫn vào phúc lộc thần của tam nguyên, cái nào quan trọng, cái nào nhẹ hơn, phân biệt tỉ mỉ mầm mối chính xác, cái nào tới thì được yên ổn, cái nào thì không được dừng lại, và tôi vẫn chuyên chở có được không, có thể như thuyền xe, hay như nhà ở. Lại nói rằng giờ có chỗ ở tức là ở trên năm tháng ngày, lại phải xem có chỗ nương tựa, hô hào và đáp ứng nhau hay không. Lại nói rằng trụ giờ cuối cùng là nguyên nhân của chủ thể. Ta hiện không dám làm điều này, cũng liên quan đến biện biệt rõ ràng tốt xấu, những quy tắc tuyệt vời thống nhất, hiểu rõ bản chất của tạo hoá.
Trong năm tháng ngày có một trụ với trụ giờ hoà hợp thì bình an,có hai trụ với trụ giờ hoà hợp thì được một chút phú quý, cả ba vị hợp với trụ giờ thì đại phát sẽ thành công và phú quý, nhưng chỉ trụ ngày thì nhanh, trụ năm thì ngắn, trụ tháng thì chậm chạp.
Một cái khác là trụ giờ có khắc phá xung hại với giúp dẫn dụ không vong tử bại, đó là các sự kiên quan trọng, như giờ canh dần chọn ất hợi làm dụng thần, vượng tướng sanh phù, đắc khí đắc địa, có thể dựa vào đó và tham khảo tuế vận để so sanh tốt xấu, phát hay phế không?
Một cái khác là trụ giờ muốn được vượng tướng có khí lực, chớ khiến thành hưu tù và vô tình, rẽ hai gắng sức đầu giữa và cuối ba bậc tình nghĩa, như giờ dần khởi đầu thuộc thổ, ở giữa thuộc hoả, cuối mới thuộc mộc.
Một cái khác là trụ giờ có xung hình lẫn nhau, là sự việc rất khẩn cấp, chuyên chở vật không đảm bảo, thứ tự khần cấp thứ năm của trụ giờ, là điều rất quan trọng, bởi vì ngày này rộng khắp thiên hạ, mọi người chia sẻ đề cương sáng tạo vậy. Chỉ chuổi thời gian, rõ ràng mảy may không thể sai lầm có mê hoặc, cho nên nó là cơ sở cho quy luật, trong quá trình trao đổi lẫn nhau, đường đi của ngày kế được khắc, vốn là giờ mùi kế khắc thứ nhất, nhưng mũi tên trong đồng hồ lại khắc vào thứ bảy thứ tám của giờ ngọ. Còn những người sanh vào ban đêm ở thôn làng miền núi hẻo lánh thì sao?
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀八
时座消详,有五理之当然。
一如时上之亡劫、刃煞、空亡、元辰、孤寡、死败、金神、白虎等项,恶气贯聚,倒归于日,有所刑冲克犯者不祥,若贵气聚此,则为祥瑞矣。一年月日三项贵气,三元福禄神引入,何者重,何者轻,分详端确,何者来得安稳,何者不得停住,更自家还载得起否,或如船车,又如屋宅。又云时之有家,却于年月日上之处,又看有相依倚呼应否。又云时座一位,竟作主体之端。余见未敢如此,亦系辨明吉凶,妙理一致,体得造化精切也。
年月日内,有一位与时和者平,二位与时和者,小享富贵,三位共与时和者,
大发见成富贵,但日紧年浅月缓。
一时有克破冲害和助勾引空亡死败等件,最为撮要事体,如庚寅时,取乙亥为用,旺相生扶,得气得地,可否以凭借,参考岁运,较其吉凶发废之由。
一时欲旺相有气,勿使休囚无情,叉二百初中末三次之情义,如寅时初属土,中属火末属木。
一时相冲刑,是切紧事也,载物不牢,时座五紧之序,为至切至要之道,盖此日生辰,普遍天下,众人所共大纲造化也。唯时之列,分毫不可差忒有惑,故为准则凭据,况交换之间,刻次日轨,本是未时一刻之次,其铜壶漏箭,却刻午时之七刻八刻,况有山僻村落夜诞者乎。
.
ngọc tỉnh áo quyết bát
Thì tọa tiêu tường, hữu ngũ lí chi đương nhiên.
(Trụ giờ cần phải tỉ mỉ, đương nhiên có năm lý do).
Một như trên trụ giờ có vong kiếp, nhận sát, không vong, nguyên thần, cô quả, tử bại, kim thần, bạch hổ các hạng, ác khí quen tích tụ, trở về ở ngày, chỗ có phạm hình xung khắc thì không tốt lành, nếu quý khí tập hợp ở đó sẽ là điềm tốt lành. Một cái khác là ba hạng quý khí của năm tháng ngày, dẫn vào phúc lộc thần của tam nguyên, cái nào quan trọng, cái nào nhẹ hơn, phân biệt tỉ mỉ mầm mối chính xác, cái nào tới thì được yên ổn, cái nào thì không được dừng lại, và tôi vẫn chuyên chở có được không, có thể như thuyền xe, hay như nhà ở. Lại nói rằng giờ có chỗ ở tức là ở trên năm tháng ngày, lại phải xem có chỗ nương tựa, hô hào và đáp ứng nhau hay không. Lại nói rằng trụ giờ cuối cùng là nguyên nhân của chủ thể. Ta hiện không dám làm điều này, cũng liên quan đến biện biệt rõ ràng tốt xấu, những quy tắc tuyệt vời thống nhất, hiểu rõ bản chất của tạo hoá.
Trong năm tháng ngày có một trụ với trụ giờ hoà hợp thì bình an,có hai trụ với trụ giờ hoà hợp thì được một chút phú quý, cả ba vị hợp với trụ giờ thì đại phát sẽ thành công và phú quý, nhưng chỉ trụ ngày thì nhanh, trụ năm thì ngắn, trụ tháng thì chậm chạp.
Một cái khác là trụ giờ có khắc phá xung hại với giúp dẫn dụ không vong tử bại, đó là các sự kiên quan trọng, như giờ canh dần chọn ất hợi làm dụng thần, vượng tướng sanh phù, đắc khí đắc địa, có thể dựa vào đó và tham khảo tuế vận để so sanh tốt xấu, phát hay phế không?
Một cái khác là trụ giờ muốn được vượng tướng có khí lực, chớ khiến thành hưu tù và vô tình, rẽ hai gắng sức đầu giữa và cuối ba bậc tình nghĩa, như giờ dần khởi đầu thuộc thổ, ở giữa thuộc hoả, cuối mới thuộc mộc.
Một cái khác là trụ giờ có xung hình lẫn nhau, là sự việc rất khẩn cấp, chuyên chở vật không đảm bảo, thứ tự khần cấp thứ năm của trụ giờ, là điều rất quan trọng, bởi vì ngày này rộng khắp thiên hạ, mọi người chia sẻ đề cương sáng tạo vậy. Chỉ chuổi thời gian, rõ ràng mảy may không thể sai lầm có mê hoặc, cho nên nó là cơ sở cho quy luật, trong quá trình trao đổi lẫn nhau, đường đi của ngày kế được khắc, vốn là giờ mùi kế khắc thứ nhất, nhưng mũi tên trong đồng hồ lại khắc vào thứ bảy thứ tám của giờ ngọ. Còn những người sanh vào ban đêm ở thôn làng miền núi hẻo lánh thì sao?
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀八
时座消详,有五理之当然。
一如时上之亡劫、刃煞、空亡、元辰、孤寡、死败、金神、白虎等项,恶气贯聚,倒归于日,有所刑冲克犯者不祥,若贵气聚此,则为祥瑞矣。一年月日三项贵气,三元福禄神引入,何者重,何者轻,分详端确,何者来得安稳,何者不得停住,更自家还载得起否,或如船车,又如屋宅。又云时之有家,却于年月日上之处,又看有相依倚呼应否。又云时座一位,竟作主体之端。余见未敢如此,亦系辨明吉凶,妙理一致,体得造化精切也。
年月日内,有一位与时和者平,二位与时和者,小享富贵,三位共与时和者,
大发见成富贵,但日紧年浅月缓。
一时有克破冲害和助勾引空亡死败等件,最为撮要事体,如庚寅时,取乙亥为用,旺相生扶,得气得地,可否以凭借,参考岁运,较其吉凶发废之由。
一时欲旺相有气,勿使休囚无情,叉二百初中末三次之情义,如寅时初属土,中属火末属木。
一时相冲刑,是切紧事也,载物不牢,时座五紧之序,为至切至要之道,盖此日生辰,普遍天下,众人所共大纲造化也。唯时之列,分毫不可差忒有惑,故为准则凭据,况交换之间,刻次日轨,本是未时一刻之次,其铜壶漏箭,却刻午时之七刻八刻,况有山僻村落夜诞者乎。
.
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
||
Tác giả của sách lịch pháp thông thư đại toàn và ngao đầu thông thư |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
3 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |