2
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
384 replies to this topic
#331
Gửi vào 14/09/2024 - 08:56
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Cửu
Sáu ngày quý giờ nhâm tuất đoán
Sáu ngày quý sanh giờ nhâm tuất, kho trong địa chi chánh quan sanh tài;
Tháng gồm cả có quý cứu trợ thường thành công, chỗ dựa không có cả đời không giàu.
Ngày quý giờ nhâm tuất: thuỷ hoả ký tế, quý lấy bính đinh làm tài, mậu thổ làm quan, mậu với quý hợp vượng là người có mưu trí, tháng thông khí là người có chỗ nương tựa QUÝ; còn không thông chỉ BÌNH THƯỜNG; tháng thông hoả thổ khí PHÚ QUÝ có đủ cả hai; vận thông khí cũng TỐT.
Ngày quý sửu giờ nhâm tuất: HÌNH, tháng hợi chỗ đất dày THƯỢNG QUÝ. Năm tháng thìn thân vận hướng nam TRẠNG NGUYÊN (đỗ đầu khoa thi Đình gọi là Trạng nguyên). Tháng năm vận hướng nam ĐÔ HIẾN (tục cũ tôn xưng quan trên là hiến, đô là thành phố lớn). Nếu sanh mùa xuân hay mùa thu vận hướng nam quan đến bậc tám, bậc chín.
Ngày quý mão giờ nhâm tuất: nhật quý cách, năm tháng dần tỵ thiên can lộ ra mậu đinh tài quan nên vượng ĐẠI QUÝ có quyền lực. Các năm tháng mão thìn sửu ngọ tý VĂN QUÝ. Dậu tuất vận kim thổ quan đến bậc năm, bậc sáu.
Ngày quý tỵ giờ nhâm tuất: tài quan đẹp cả hai, mùa xuân BÌNH THƯỜNG, mùa hạ, mùa thu, mùa đông QUÝ. Năm tháng thìn sửu mùi dần dậu PHONG HIẾN (một chức quan xưa).
Ngày quý mùi giờ nhâm tuất: HÌNH. Sanh tháng tỵ quan đến bậc ba, bậc bốn. Năm tháng tý, canh CẬN THỊ (chức vụ thường gần vua) QUÝ.
Ngày quý dậu giờ nhâm tuất: tháng hợi tý tài trí CAO QUÝ, vợ hiền con hiếu thảo. Mùa xuân BÌNH THƯỜNG. Mùa hạ tài quan, mùa thu ấn thụ đều TỐT. Thìn sửu hình xung tuất khố PHú QUÝ cò đủ cả hai. Tháng tuất vận đông nam VŨ (theo bên ngành quân sự) QUÝ.
Ngày quý hợi giờ nhâm tuất: sanh mùa xuân thương quan kiến quan, mùa hạ tài vượng, mùa thu, mùa đông TỐT, danh lợi thành công. Tháng thìn tuất đi vận hợi tý QUÝ. Tháng tý đi vận hướng tây nam KIM TỬ (ấn vàng dây thao tím).
Thiên ất nhâm quý giờ tuất an bài, tài quan trong khố chờ chìa khoá mở;
Không gặp hình xung không vong khoá chặt, tuổi trẻ khó phát lại sanh hoạ.
Ngày quý giờ gặp nhâm tuất, tụ trong kho vựa dồi dào, tướng tinh thiên đức cả hai giúp đỡ, thìn tuất là chìa khoá giúp khai mở.
Thổ vượng cách trường lưu thuỷ, người thân chỗ ân đức thành xa lạ, không gặp không vong thêm dư thừa, trung niên đến già hưởng vinh hoa phúc lành.
六癸日生日壬戌,支内正官生财库;
月兼有救贵多成,倚托若无终不富。
癸日壬戌时,水火既济,癸用丙丁为财,戊土为官,戊与癸合旺,为人智谋,通月气有倚托者贵;不通,平常;通火土月气,富贵双全;运气通,亦吉。
癸丑日壬戌时,刑,亥月,土厚地方上贵。辰申年月,南方运,状元。五月,南运,都宪。若春秋生,南方运,八九品。
癸卯日壬戌时,日贵格,寅巳年月,干透戊丁财官而旺,大贵有权。卯辰丑午子等年月,文贵。酉戌,金土运,五六品。
癸巳日壬戌时,财官双美,春平,夏秋冬贵。辰丑未寅酉年月,风宪。
癸未日壬戌时,刑。巳月生,三四品。子庚年月,近侍贵。
癸酉日壬戌时,亥子月,才智高贵,妻贤子孝。春平常。夏财官,秋印绶,俱吉。辰丑,刑冲戌库,贵富两全。戌月,东南运,武贵。
癸亥日壬戌时,春生,伤官见官,夏财旺,秋、冬吉,名利有成。戌辰月,行亥子运,贵。子月,行西南运,金紫。
天乙壬癸戌时排,库内财官等钥开;
不遇刑冲空锁闭,少年难发更生灾。
癸日时逢壬戌,就中仓库盈余,将星天德两相扶,辰戌钥匙开助。
土旺长流水局,六亲恩处成疏,不遇空亡有增余,中末荣华享福。
.
Sáu ngày quý giờ nhâm tuất đoán
Sáu ngày quý sanh giờ nhâm tuất, kho trong địa chi chánh quan sanh tài;
Tháng gồm cả có quý cứu trợ thường thành công, chỗ dựa không có cả đời không giàu.
Ngày quý giờ nhâm tuất: thuỷ hoả ký tế, quý lấy bính đinh làm tài, mậu thổ làm quan, mậu với quý hợp vượng là người có mưu trí, tháng thông khí là người có chỗ nương tựa QUÝ; còn không thông chỉ BÌNH THƯỜNG; tháng thông hoả thổ khí PHÚ QUÝ có đủ cả hai; vận thông khí cũng TỐT.
Ngày quý sửu giờ nhâm tuất: HÌNH, tháng hợi chỗ đất dày THƯỢNG QUÝ. Năm tháng thìn thân vận hướng nam TRẠNG NGUYÊN (đỗ đầu khoa thi Đình gọi là Trạng nguyên). Tháng năm vận hướng nam ĐÔ HIẾN (tục cũ tôn xưng quan trên là hiến, đô là thành phố lớn). Nếu sanh mùa xuân hay mùa thu vận hướng nam quan đến bậc tám, bậc chín.
Ngày quý mão giờ nhâm tuất: nhật quý cách, năm tháng dần tỵ thiên can lộ ra mậu đinh tài quan nên vượng ĐẠI QUÝ có quyền lực. Các năm tháng mão thìn sửu ngọ tý VĂN QUÝ. Dậu tuất vận kim thổ quan đến bậc năm, bậc sáu.
Ngày quý tỵ giờ nhâm tuất: tài quan đẹp cả hai, mùa xuân BÌNH THƯỜNG, mùa hạ, mùa thu, mùa đông QUÝ. Năm tháng thìn sửu mùi dần dậu PHONG HIẾN (một chức quan xưa).
Ngày quý mùi giờ nhâm tuất: HÌNH. Sanh tháng tỵ quan đến bậc ba, bậc bốn. Năm tháng tý, canh CẬN THỊ (chức vụ thường gần vua) QUÝ.
Ngày quý dậu giờ nhâm tuất: tháng hợi tý tài trí CAO QUÝ, vợ hiền con hiếu thảo. Mùa xuân BÌNH THƯỜNG. Mùa hạ tài quan, mùa thu ấn thụ đều TỐT. Thìn sửu hình xung tuất khố PHú QUÝ cò đủ cả hai. Tháng tuất vận đông nam VŨ (theo bên ngành quân sự) QUÝ.
Ngày quý hợi giờ nhâm tuất: sanh mùa xuân thương quan kiến quan, mùa hạ tài vượng, mùa thu, mùa đông TỐT, danh lợi thành công. Tháng thìn tuất đi vận hợi tý QUÝ. Tháng tý đi vận hướng tây nam KIM TỬ (ấn vàng dây thao tím).
Thiên ất nhâm quý giờ tuất an bài, tài quan trong khố chờ chìa khoá mở;
Không gặp hình xung không vong khoá chặt, tuổi trẻ khó phát lại sanh hoạ.
Ngày quý giờ gặp nhâm tuất, tụ trong kho vựa dồi dào, tướng tinh thiên đức cả hai giúp đỡ, thìn tuất là chìa khoá giúp khai mở.
Thổ vượng cách trường lưu thuỷ, người thân chỗ ân đức thành xa lạ, không gặp không vong thêm dư thừa, trung niên đến già hưởng vinh hoa phúc lành.
六癸日生日壬戌,支内正官生财库;
月兼有救贵多成,倚托若无终不富。
癸日壬戌时,水火既济,癸用丙丁为财,戊土为官,戊与癸合旺,为人智谋,通月气有倚托者贵;不通,平常;通火土月气,富贵双全;运气通,亦吉。
癸丑日壬戌时,刑,亥月,土厚地方上贵。辰申年月,南方运,状元。五月,南运,都宪。若春秋生,南方运,八九品。
癸卯日壬戌时,日贵格,寅巳年月,干透戊丁财官而旺,大贵有权。卯辰丑午子等年月,文贵。酉戌,金土运,五六品。
癸巳日壬戌时,财官双美,春平,夏秋冬贵。辰丑未寅酉年月,风宪。
癸未日壬戌时,刑。巳月生,三四品。子庚年月,近侍贵。
癸酉日壬戌时,亥子月,才智高贵,妻贤子孝。春平常。夏财官,秋印绶,俱吉。辰丑,刑冲戌库,贵富两全。戌月,东南运,武贵。
癸亥日壬戌时,春生,伤官见官,夏财旺,秋、冬吉,名利有成。戌辰月,行亥子运,贵。子月,行西南运,金紫。
天乙壬癸戌时排,库内财官等钥开;
不遇刑冲空锁闭,少年难发更生灾。
癸日时逢壬戌,就中仓库盈余,将星天德两相扶,辰戌钥匙开助。
土旺长流水局,六亲恩处成疏,不遇空亡有增余,中末荣华享福。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#332
Gửi vào 14/09/2024 - 09:29
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Cửu
Sáu ngày quý giờ quý hợi đoán
Sáu ngày quý sanh giờ quý hợi, lộc mã phi thiên đến chỗ vượng thần;
Không thấy quan tinh cùng bị gò bó, sẽ là người có quý cách khác thường.
Ngày quý giờ quý hợi: lộc mã phi thiên cách, quý thuỷ cường vượng ở hợi, quý lấy mạu làm quan, bính làm tài, bính mậu đều tuyệt ở hợi, quý không có tài quan, liền đi xung bính mậu trong tỵ xuất ra, bay tới tụ về với quý làm tài quan, trụ không có mậu kỷ làm cho gò bó cùng với quan tinh phá lộc, nếu thấy canh tân trong sạch nên đẹp, là người trí tuệ, PHƯƠNG DIỆN (ngày xưa chỉ chức chính yếu trong quân ở một địa phương hoặc trưởng quan ở đó) QUÝ.
Ngày quý sửu giờ quý hợi: tạo thành củng lộc cách. Sanh tỵ dậu sửu phúc đức tú khí. Tháng ngọ BÌNH THƯỜNG. Tháng mão dậu đi vận hướng nam KIM TỬ PHONG HIẾN (một chức quan xưa có ấn vàng dây thao tím), nhưng khó có tuổi thọ.
Ngày quý mão giờ quý hợi: BÌNH THƯỜNG, nhật quý cách. Tháng dần mão luận theo thương quan, đi vận kim thuỷ PHONG HIẾN (một chức quan xưa). Tháng thìn tuất sửu mùi quan vượng. Toàn là mão quan đến bậc ba QUÝ. Thìn tuất với mão hình chủ CÔ ĐỘC và NGHÈO.
Ngày quý tỵ giờ quý hợi: tháng sửu là tạp khí ấn thụ QUÝ. Năm tháng hợi tý đi vận hướng nam QUÝ. Lại thêm lộc mã đồng hương cách, năm tháng tỵ thân ĐẠI QUÝ.
Ngày quý mùi giờ quý hợi: tài quan ngồi dưới thân. Tháng thìn tuất sửu mùi đi vận hướng đông bắc QUÝ. Tháng mùa thu vận hướng đông quan đến bậc bảy, bậc tám QUÝ; thiên can lộ ra chánh ấn, chánh quan KIM TỬ (ấn vàng dây thao tím).
Ngày quý dậu giờ quý hợi: tháng thìn tuất sửu mùi đời sống vừa ý. Tháng dậu đi vận hướng đông bắc quan đến bậc tám, bậc chín QUÝ. Tháng thân vận hường đông quan đến bậc năm.
Ngày quý hợi giờ quý hợi: bẫm tính thông minh phiêu dật, tuổi trung niên ĐẠI PHÚ. Sanh các tháng mùa đông phi thiên lộc mã, không có các chữ mậu tỵ tý điền thật gò bó thì QUÝ HIỂN; còn không thì CÔ KHẮC nên là tăng đạo (tu sĩ), cũng chủ được THANH CAO. Năm tháng thìn hợi, thiên can lộ ra chữ tân, nhâm không có chữ tỹ điền thật có trí tuệ rộng lớn ĐẠI QUÝ. Tháng mão KIM TỬ (ấn vàng dây thao tím). Tỵ sửu cũng QUÝ.
Âm thuỷ trùng trùng hiển lộ sóng biển, tuổi trẻ chưa gặp đã tha đà (lỡ làng);
Khốn long đắc chí (rồng bị vây hãm đã thành công).
六癸日生时癸亥,禄马飞天临旺神;
不见官星兼惹绊,必为贵格异常人。
癸日癸亥时,禄马飞天格,癸水亥健旺,癸用戊为官,丙为财,亥中丙戊俱绝,癸无财官,却亥去冲出巳中丙戊,飞来就癸为财官,柱无戊己惹绊及官星破禄,若见庚辛,清白而秀,为人智慧,贵为方面。
癸丑日癸亥时,作拱禄格。巳酉丑生,福德秀气。午月平常。卯酉月,行南运,金紫风宪,但难为寿。
癸卯日癸亥时,平,日贵格。寅卯月,伤官论,行金水运,风宪。辰戌丑未月,官旺。纯卯,三品贵。辰戌与卯刑,主孤贫。
癸巳日癸亥时,丑月,杂气印绶。贵。亥子年月,行南运,贵。又禄马同乡格,巳申年月,大贵。
癸未日癸亥时,身下坐财官。辰戌丑未月,行东北运,贵。秋月,东运,七八品贵;干透正印、正官,金紫。
癸酉日癸亥时,辰戌丑未月,生涯遂意。酉月,行东北运,八九品贵。申月,东方运,五品。
癸亥日癸亥时,性聪飘逸,中年大富。冬月生,飞天禄马,无戊巳子字填实惹绊,贵显;不然,孤克为僧道,亦主清高。年月辰亥,干透辛壬,无填实巳字,有智量,大贵。卯月,金紫。巳丑亦贵。
阴水重重透海波,少年未遇且蹉跎;
困龙得志
.
Sáu ngày quý giờ quý hợi đoán
Sáu ngày quý sanh giờ quý hợi, lộc mã phi thiên đến chỗ vượng thần;
Không thấy quan tinh cùng bị gò bó, sẽ là người có quý cách khác thường.
Ngày quý giờ quý hợi: lộc mã phi thiên cách, quý thuỷ cường vượng ở hợi, quý lấy mạu làm quan, bính làm tài, bính mậu đều tuyệt ở hợi, quý không có tài quan, liền đi xung bính mậu trong tỵ xuất ra, bay tới tụ về với quý làm tài quan, trụ không có mậu kỷ làm cho gò bó cùng với quan tinh phá lộc, nếu thấy canh tân trong sạch nên đẹp, là người trí tuệ, PHƯƠNG DIỆN (ngày xưa chỉ chức chính yếu trong quân ở một địa phương hoặc trưởng quan ở đó) QUÝ.
Ngày quý sửu giờ quý hợi: tạo thành củng lộc cách. Sanh tỵ dậu sửu phúc đức tú khí. Tháng ngọ BÌNH THƯỜNG. Tháng mão dậu đi vận hướng nam KIM TỬ PHONG HIẾN (một chức quan xưa có ấn vàng dây thao tím), nhưng khó có tuổi thọ.
Ngày quý mão giờ quý hợi: BÌNH THƯỜNG, nhật quý cách. Tháng dần mão luận theo thương quan, đi vận kim thuỷ PHONG HIẾN (một chức quan xưa). Tháng thìn tuất sửu mùi quan vượng. Toàn là mão quan đến bậc ba QUÝ. Thìn tuất với mão hình chủ CÔ ĐỘC và NGHÈO.
Ngày quý tỵ giờ quý hợi: tháng sửu là tạp khí ấn thụ QUÝ. Năm tháng hợi tý đi vận hướng nam QUÝ. Lại thêm lộc mã đồng hương cách, năm tháng tỵ thân ĐẠI QUÝ.
Ngày quý mùi giờ quý hợi: tài quan ngồi dưới thân. Tháng thìn tuất sửu mùi đi vận hướng đông bắc QUÝ. Tháng mùa thu vận hướng đông quan đến bậc bảy, bậc tám QUÝ; thiên can lộ ra chánh ấn, chánh quan KIM TỬ (ấn vàng dây thao tím).
Ngày quý dậu giờ quý hợi: tháng thìn tuất sửu mùi đời sống vừa ý. Tháng dậu đi vận hướng đông bắc quan đến bậc tám, bậc chín QUÝ. Tháng thân vận hường đông quan đến bậc năm.
Ngày quý hợi giờ quý hợi: bẫm tính thông minh phiêu dật, tuổi trung niên ĐẠI PHÚ. Sanh các tháng mùa đông phi thiên lộc mã, không có các chữ mậu tỵ tý điền thật gò bó thì QUÝ HIỂN; còn không thì CÔ KHẮC nên là tăng đạo (tu sĩ), cũng chủ được THANH CAO. Năm tháng thìn hợi, thiên can lộ ra chữ tân, nhâm không có chữ tỹ điền thật có trí tuệ rộng lớn ĐẠI QUÝ. Tháng mão KIM TỬ (ấn vàng dây thao tím). Tỵ sửu cũng QUÝ.
Âm thuỷ trùng trùng hiển lộ sóng biển, tuổi trẻ chưa gặp đã tha đà (lỡ làng);
Khốn long đắc chí (rồng bị vây hãm đã thành công).
六癸日生时癸亥,禄马飞天临旺神;
不见官星兼惹绊,必为贵格异常人。
癸日癸亥时,禄马飞天格,癸水亥健旺,癸用戊为官,丙为财,亥中丙戊俱绝,癸无财官,却亥去冲出巳中丙戊,飞来就癸为财官,柱无戊己惹绊及官星破禄,若见庚辛,清白而秀,为人智慧,贵为方面。
癸丑日癸亥时,作拱禄格。巳酉丑生,福德秀气。午月平常。卯酉月,行南运,金紫风宪,但难为寿。
癸卯日癸亥时,平,日贵格。寅卯月,伤官论,行金水运,风宪。辰戌丑未月,官旺。纯卯,三品贵。辰戌与卯刑,主孤贫。
癸巳日癸亥时,丑月,杂气印绶。贵。亥子年月,行南运,贵。又禄马同乡格,巳申年月,大贵。
癸未日癸亥时,身下坐财官。辰戌丑未月,行东北运,贵。秋月,东运,七八品贵;干透正印、正官,金紫。
癸酉日癸亥时,辰戌丑未月,生涯遂意。酉月,行东北运,八九品贵。申月,东方运,五品。
癸亥日癸亥时,性聪飘逸,中年大富。冬月生,飞天禄马,无戊巳子字填实惹绊,贵显;不然,孤克为僧道,亦主清高。年月辰亥,干透辛壬,无填实巳字,有智量,大贵。卯月,金紫。巳丑亦贵。
阴水重重透海波,少年未遇且蹉跎;
困龙得志
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#333
Gửi vào 15/09/2024 - 08:56
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết nhất
Thông thường xem mệnh trước tiên xem địa chi của tháng, có tài quan hay không, mới xem đến những cái khác, lệnh tháng giúp mệnh vậy.
Tháng chọn lấy địa chi, năm chọn lấy thiên can, ngày chọn lấy thiên can, lưu niên chọn lấy thiên can, đại vận chọn lấy địa chi.
Tháng là gốc, ngày làm chủ, như tháng có chánh quan với thiên quan, mà giờ lại hợp cách khác, chỉ chọn lấy trong tháng, cách khác không dùng.
Như lệnh tháng hoàn toàn không thể dùng mới xem đến cách khác.
Bài ca xưa hát rằng: ba cung mang theo cách hỗn loạn khó rõ ràng, không hiểu lấy gì làm bằng chứng là phương diện chú trọng, một khi ba cung đều có cách cục, bỏ hết chỉ dùng ở đề cương mà thôi.
Lệnh tháng dùng địa chi, thí dụ như quan tinh, phải cần trên dưới thiên can địa chi lộ ra mới là mầu nhiệm. Có thể lộ ra ở thiên can, còn địa chi không lộ chủ thiên tư đỉnh ngộ, tài giỏi xuất chúng.
Kỵ năm với giờ xung, địa chi tháng địa chi ngày tự xung không tổn hại, đại vận với tuế quân tới xung địa chi tháng sẽ là tai hoạ.
Thông thường một vị trí chánh quan chính là người quân tử cao quý, một lòng thành thật trung hậu, cương trực thanh liêm, năm giờ có ấn càng tốt đẹp, nhiều thì trái ngược lại chủ có thành có bại.
Bốn trụ toàn là quan, tiếng làm quan hư ảo.
Thông thường một vị trí thất sát thông minh hoạt bát, hai vị trí ba vị trí trước thanh sau trọc. Tứ trụ toàn sát có chế phục QUÝ, không có chế phục NGHÈO TẦM THƯỜNG.
Tài một vị trí nhứt thiết phải gặp thời, giàu sang và nhà cửa thành tựu, là người bản tinh nóng nảy cấp bách. Hai vị trí tính khí giảm mất phân nửa, ba vị trí bốn vị trí thân suy vận mệnh giảm bớt .
Nếu bản thân rất vượng sẽ có thành tựu, còn yếu đuối thì đời sống khổ cực vất vả.
Riêng ấn thụ không kể một vị trí hai vị trí hay bốn vị trí đều tốt đẹp, trong cách không nên thấy tài phá ấn.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀一
大凡看命先看月支,有无财官,方看其它,月令为命也。
月取支神,年取天干,日取天干,流岁取天干,大运取支神。
月为本,日为主,如月有正官及偏官,而时又入他格,只以月中取,他格无用。
如月令全无可用,方看他格。
古歌云:三宫带格混难详,不晓凭谁是贵方,一任三宫皆带格,除非只得用提纲是也。
月令用地支,假如官星,须要上下干支透出为妙。或干透出,支中不透,主聪俊。
忌年与时冲,月支日支自冲不妨,大运及岁君来冲月支则祸。
凡正官一位,乃君子贵人,笃厚纯粹,刚直廉明,年时有印尤妙,多则反主成败。
四位纯官,仕宦虚名。
凡七煞一位,聪明伶俐,二位三位,先清后浊。四柱纯煞有制贵,无制贫凡。
财一位务要得时,富贵成家,为人性燥紧急。二位性气灭半,三位四位耗气身衰。
若身旺甚则可成立,弱则劳苦生受。
凡印不论一位二位四位都好,格中不宜见财破印。
.
khán mệnh khẩu quyết nhất
Thông thường xem mệnh trước tiên xem địa chi của tháng, có tài quan hay không, mới xem đến những cái khác, lệnh tháng giúp mệnh vậy.
Tháng chọn lấy địa chi, năm chọn lấy thiên can, ngày chọn lấy thiên can, lưu niên chọn lấy thiên can, đại vận chọn lấy địa chi.
Tháng là gốc, ngày làm chủ, như tháng có chánh quan với thiên quan, mà giờ lại hợp cách khác, chỉ chọn lấy trong tháng, cách khác không dùng.
Như lệnh tháng hoàn toàn không thể dùng mới xem đến cách khác.
Bài ca xưa hát rằng: ba cung mang theo cách hỗn loạn khó rõ ràng, không hiểu lấy gì làm bằng chứng là phương diện chú trọng, một khi ba cung đều có cách cục, bỏ hết chỉ dùng ở đề cương mà thôi.
Lệnh tháng dùng địa chi, thí dụ như quan tinh, phải cần trên dưới thiên can địa chi lộ ra mới là mầu nhiệm. Có thể lộ ra ở thiên can, còn địa chi không lộ chủ thiên tư đỉnh ngộ, tài giỏi xuất chúng.
Kỵ năm với giờ xung, địa chi tháng địa chi ngày tự xung không tổn hại, đại vận với tuế quân tới xung địa chi tháng sẽ là tai hoạ.
Thông thường một vị trí chánh quan chính là người quân tử cao quý, một lòng thành thật trung hậu, cương trực thanh liêm, năm giờ có ấn càng tốt đẹp, nhiều thì trái ngược lại chủ có thành có bại.
Bốn trụ toàn là quan, tiếng làm quan hư ảo.
Thông thường một vị trí thất sát thông minh hoạt bát, hai vị trí ba vị trí trước thanh sau trọc. Tứ trụ toàn sát có chế phục QUÝ, không có chế phục NGHÈO TẦM THƯỜNG.
Tài một vị trí nhứt thiết phải gặp thời, giàu sang và nhà cửa thành tựu, là người bản tinh nóng nảy cấp bách. Hai vị trí tính khí giảm mất phân nửa, ba vị trí bốn vị trí thân suy vận mệnh giảm bớt .
Nếu bản thân rất vượng sẽ có thành tựu, còn yếu đuối thì đời sống khổ cực vất vả.
Riêng ấn thụ không kể một vị trí hai vị trí hay bốn vị trí đều tốt đẹp, trong cách không nên thấy tài phá ấn.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀一
大凡看命先看月支,有无财官,方看其它,月令为命也。
月取支神,年取天干,日取天干,流岁取天干,大运取支神。
月为本,日为主,如月有正官及偏官,而时又入他格,只以月中取,他格无用。
如月令全无可用,方看他格。
古歌云:三宫带格混难详,不晓凭谁是贵方,一任三宫皆带格,除非只得用提纲是也。
月令用地支,假如官星,须要上下干支透出为妙。或干透出,支中不透,主聪俊。
忌年与时冲,月支日支自冲不妨,大运及岁君来冲月支则祸。
凡正官一位,乃君子贵人,笃厚纯粹,刚直廉明,年时有印尤妙,多则反主成败。
四位纯官,仕宦虚名。
凡七煞一位,聪明伶俐,二位三位,先清后浊。四柱纯煞有制贵,无制贫凡。
财一位务要得时,富贵成家,为人性燥紧急。二位性气灭半,三位四位耗气身衰。
若身旺甚则可成立,弱则劳苦生受。
凡印不论一位二位四位都好,格中不宜见财破印。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#334
Gửi vào 16/09/2024 - 08:33
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết nhị
Đại khái đi vận tốt, can ngày thương tổn can đầu lưu niên tuế quân thì hoạ nhẹ.
Đi vận không tốt, can ngày thương tổncan đầu của tuế quân thì hoạ nặng, nếu vượt qua sẽ chết.
Thìn tuất sửu mùi mỗi chữ còn ba phần dư khí:
Như trường hợp đi vận ngọ đến mùi, còn ba phần hoả khí; đi vận tý đến sửu còn ba phần thuỷ khí, không thể hoàn toàn lấy thổ để luận
Thông thường dương nhận cách tuế vận rất sợ xung hợp.
Thiên can thái tuế hợp thiên can của ngày, giờ là hối khí sát. Thiên can địa chi của ngày giờ gống với thiên can địa chi của lưu niên là chuyển chỉ sát.
Như ngày canh thân thấy thái tuế là canh thân hoặc canh dần các loại, nhẹ thì dời chuyển xa, nặng thì huỷ hoại nhà cửa phá tài.
Thường trụ năm, trụ tháng, trụ giờ có cát thần, cần có trụ giờ dẫn về nơi sanh vượng. Có hung thần, trụ giờ dẫn về nơi chế phục.
Nếu ở trụ giờ có cát thần hoặc hung thần, cũng cần trụ năm trụ thang trụ giờ sanh cho cát thần hay chế phục hung thần.
Ở trụ giờ có dụng thần được sức lực của tổ tiên, trên trụ giờ có dụng thần thì được sức lực của con cháu, ngược lại điều này thì không phải.
Thường xem mệnh thì lấy can ngày làm thiên nguyên, do thiên can làm lộc. Địa chi ngày, địa chi tháng làm địa nguyên do địa chi làm thành mệnh.
Thí dụ như ngày nhâm quý tháng kỷ mùi, thiên can địa chi lộ ra tài quan là vậy.
Tài quan luận vốn có hay không, địa chi vốn có tài quan, thiên can không lộ ra thì không tra hỏi.
Nếu địa chi không có tài quan, chỉ là lộ ra ở thiên can, tuy đi vận tốt cũng không lợi ích gì.
Xem lưu niên tuế quân chỉ dùng thiên nguyên, nếu đi vận tuy xem nặng địa chi cũng cần xem thiên nguyên của vận.
Mệnh người trong trụ có quan tinh hoặc có thiên quan có chế phục thái quá, mà thiên can vận thấy quan sát có thể phát.
Địa chi vận không có tài mà thiên can vận là tài cũng có thể là phúc. Địa chi vận không có sát mà thiên can vận là sát cũng có thể gây hoạ.
Mệnh người lấy địa chi tháng lúc sanh làm vận nguyên (khởi đầu vận), rất sợ đại vận hợp cùng tuế quân tới xung là tai hoạ. Lấy quan tinh lúc sanh làm lộc nguyên, rất sợ bị xung hoại.
Như người sanh ngày đinh lấy nhâm làm quan, và sanh tháng hợi trong có nhâm là lộc của đinh, nếu năm với giờ có chữ kỷ sẽ xung hoại lộc nguyên.
Tài tinh lúc sanh là mã nguyên, rất sợ bị cướp đoạt. Như người sanh ngày canh lấy giáp ất mộc làm tài, và sanh tháng dần mão.
Giáp mộc trong dần là thiên tài, ất mộc trong mão là chánh tài. Nếu trụ năm trụ giờ có chữ tân tức là có lo lắn bị cướp đoạt, tuế vận luận giống nhau.
Thường ở thiên can năm có quan tinh của trụ ngày thì phúc khí rất dày. Có thất sát của trụ ngày cả đời không thể trừ khử.
Quan tinh là lộc, tài tinh là mã. Đi vận quan tinh sẽ phát quan, đi vận tài tinh sẽ phát tài, cả hai không thể thiếu một, mỗi cái có chỗ dùng riêng.
Ở trụ năm trụ tháng có quan tinh, chắc là sanh ở gia đình phú quý, ông cha có căn cơ. Tuổi trẻ liền đi vận quan lộc thường là được phong quan lúc còn nhỏ tuổi, sớm phát công danh.
Năm tháng không có tài quan, ngày giờ thì có tức là tự bản thân mình gầy dựng.
Mệnh người có tài quan làm gốc, trong trụ chỉ được một thôi cũng có thể phát phúc.
Nếu tứ trụ vốn không có quan tinh, không hợp cách khác, mà thiên can địa chi của năm tháng ngày giờ nhiều tài, lại đi vận tài vượng cũng có thể thành tựu công danh.
Vì tài vượng tự có thể sanh quan, cần phải có bản thân vượng mới hứa hẹn.
Năm tháng không có tài quan, tuổi nhỏ lại đi vận không tốt đẹp, thường là xuất thân thấp hèn, phá tan sản nghiệp của ông cha, trước mắt không có phúc.
Thường quan sát hỗn tạp, thương quan hợp thần nhiều, con trai phạm phải thì đắm chìm trong tửu sắc, con gái gặp phải thì tự lấy chồng không cần mai mối.
Link bản chữ Hoa:
看命口诀二
大凡行好运,日干伤流年岁君干头祸轻。
行不好运,日干伤岁君干头祸重,若已发过则死。
辰戌丑未各有三分余气:
如行午运至未,有三分火气。行子运至丑,有三分水气之例,不可全作土论。
凡阳刃格岁运最怕冲合。
太岁干合日时干者,为晦气煞。日时干支与流年干支同,为转趾煞。
如庚申日见庚申或庚寅太岁之类,轻则远迁,重则毁屋破财。
凡年月日有吉神,要时引归生旺之处。有凶神,要时引归制伏之乡。
若时上带吉神或凶神,亦要年月日上吉者生之,凶者制之。
月上有用神得祖宗之力,时上有用神得子孙之力,反此则否。
凡看命以日干用为天元,是以干为禄。日支月支用为地元,是以支为命。
假如壬癸日已未月,干支透出财官是也。
财官论原有原无,地支原有财官,天干不透出者不问。
若地支无财官,只是天干透出,虽行好运亦不济事。
看流年岁君只用天元,若行运虽重地支亦要看运天元。
人命柱中,或有官星,或有偏官有制伏太过,而运干见官煞可发。
运支无财,而运干是财亦可为福。运支无煞,而运干是煞亦可为祸。
人命以当生之月为运元,最怕大运并岁君来冲为祸。以当生官星为禄元,最怕冲坏。
如丁日生人以壬为官,而生亥月,中有壬是丁之禄,若年与时有己字则冲坏禄元。
当生财星为马元,最怕劫夺。如庚日生人以甲乙木为财,而生寅卯月。
寅中甲木偏财,卯中乙木正财。若年时有辛字却有争夺之患,岁运同论。
凡年干上有日之官星,福气最厚。有日之七煞,终身不可除去。
官星为禄,财星为马。行官星发官,行财星发财,二者不可缺一,各有所用。
年月上有财官,必生富贵之家,祖父根基。少年便行官禄运,多是幼年拜命,早发功名。
年月无财官,日时有之,则是自己成立。
人命以财官为本,柱中但得其一,亦可发福。
若四柱原无官星,不入他格,年月日时干支财多,又行财旺运,亦能成就功名。
以财旺自能生官,须身旺方许。
年月无财官,幼年又行不好运,多是出身卑微,破祖伤父,无现成之福。
凡官煞混杂,伤官合神重,男子犯之沉迷酒色。女人逢之不媒自嫁。
.
khán mệnh khẩu quyết nhị
Đại khái đi vận tốt, can ngày thương tổn can đầu lưu niên tuế quân thì hoạ nhẹ.
Đi vận không tốt, can ngày thương tổncan đầu của tuế quân thì hoạ nặng, nếu vượt qua sẽ chết.
Thìn tuất sửu mùi mỗi chữ còn ba phần dư khí:
Như trường hợp đi vận ngọ đến mùi, còn ba phần hoả khí; đi vận tý đến sửu còn ba phần thuỷ khí, không thể hoàn toàn lấy thổ để luận
Thông thường dương nhận cách tuế vận rất sợ xung hợp.
Thiên can thái tuế hợp thiên can của ngày, giờ là hối khí sát. Thiên can địa chi của ngày giờ gống với thiên can địa chi của lưu niên là chuyển chỉ sát.
Như ngày canh thân thấy thái tuế là canh thân hoặc canh dần các loại, nhẹ thì dời chuyển xa, nặng thì huỷ hoại nhà cửa phá tài.
Thường trụ năm, trụ tháng, trụ giờ có cát thần, cần có trụ giờ dẫn về nơi sanh vượng. Có hung thần, trụ giờ dẫn về nơi chế phục.
Nếu ở trụ giờ có cát thần hoặc hung thần, cũng cần trụ năm trụ thang trụ giờ sanh cho cát thần hay chế phục hung thần.
Ở trụ giờ có dụng thần được sức lực của tổ tiên, trên trụ giờ có dụng thần thì được sức lực của con cháu, ngược lại điều này thì không phải.
Thường xem mệnh thì lấy can ngày làm thiên nguyên, do thiên can làm lộc. Địa chi ngày, địa chi tháng làm địa nguyên do địa chi làm thành mệnh.
Thí dụ như ngày nhâm quý tháng kỷ mùi, thiên can địa chi lộ ra tài quan là vậy.
Tài quan luận vốn có hay không, địa chi vốn có tài quan, thiên can không lộ ra thì không tra hỏi.
Nếu địa chi không có tài quan, chỉ là lộ ra ở thiên can, tuy đi vận tốt cũng không lợi ích gì.
Xem lưu niên tuế quân chỉ dùng thiên nguyên, nếu đi vận tuy xem nặng địa chi cũng cần xem thiên nguyên của vận.
Mệnh người trong trụ có quan tinh hoặc có thiên quan có chế phục thái quá, mà thiên can vận thấy quan sát có thể phát.
Địa chi vận không có tài mà thiên can vận là tài cũng có thể là phúc. Địa chi vận không có sát mà thiên can vận là sát cũng có thể gây hoạ.
Mệnh người lấy địa chi tháng lúc sanh làm vận nguyên (khởi đầu vận), rất sợ đại vận hợp cùng tuế quân tới xung là tai hoạ. Lấy quan tinh lúc sanh làm lộc nguyên, rất sợ bị xung hoại.
Như người sanh ngày đinh lấy nhâm làm quan, và sanh tháng hợi trong có nhâm là lộc của đinh, nếu năm với giờ có chữ kỷ sẽ xung hoại lộc nguyên.
Tài tinh lúc sanh là mã nguyên, rất sợ bị cướp đoạt. Như người sanh ngày canh lấy giáp ất mộc làm tài, và sanh tháng dần mão.
Giáp mộc trong dần là thiên tài, ất mộc trong mão là chánh tài. Nếu trụ năm trụ giờ có chữ tân tức là có lo lắn bị cướp đoạt, tuế vận luận giống nhau.
Thường ở thiên can năm có quan tinh của trụ ngày thì phúc khí rất dày. Có thất sát của trụ ngày cả đời không thể trừ khử.
Quan tinh là lộc, tài tinh là mã. Đi vận quan tinh sẽ phát quan, đi vận tài tinh sẽ phát tài, cả hai không thể thiếu một, mỗi cái có chỗ dùng riêng.
Ở trụ năm trụ tháng có quan tinh, chắc là sanh ở gia đình phú quý, ông cha có căn cơ. Tuổi trẻ liền đi vận quan lộc thường là được phong quan lúc còn nhỏ tuổi, sớm phát công danh.
Năm tháng không có tài quan, ngày giờ thì có tức là tự bản thân mình gầy dựng.
Mệnh người có tài quan làm gốc, trong trụ chỉ được một thôi cũng có thể phát phúc.
Nếu tứ trụ vốn không có quan tinh, không hợp cách khác, mà thiên can địa chi của năm tháng ngày giờ nhiều tài, lại đi vận tài vượng cũng có thể thành tựu công danh.
Vì tài vượng tự có thể sanh quan, cần phải có bản thân vượng mới hứa hẹn.
Năm tháng không có tài quan, tuổi nhỏ lại đi vận không tốt đẹp, thường là xuất thân thấp hèn, phá tan sản nghiệp của ông cha, trước mắt không có phúc.
Thường quan sát hỗn tạp, thương quan hợp thần nhiều, con trai phạm phải thì đắm chìm trong tửu sắc, con gái gặp phải thì tự lấy chồng không cần mai mối.
Link bản chữ Hoa:
看命口诀二
大凡行好运,日干伤流年岁君干头祸轻。
行不好运,日干伤岁君干头祸重,若已发过则死。
辰戌丑未各有三分余气:
如行午运至未,有三分火气。行子运至丑,有三分水气之例,不可全作土论。
凡阳刃格岁运最怕冲合。
太岁干合日时干者,为晦气煞。日时干支与流年干支同,为转趾煞。
如庚申日见庚申或庚寅太岁之类,轻则远迁,重则毁屋破财。
凡年月日有吉神,要时引归生旺之处。有凶神,要时引归制伏之乡。
若时上带吉神或凶神,亦要年月日上吉者生之,凶者制之。
月上有用神得祖宗之力,时上有用神得子孙之力,反此则否。
凡看命以日干用为天元,是以干为禄。日支月支用为地元,是以支为命。
假如壬癸日已未月,干支透出财官是也。
财官论原有原无,地支原有财官,天干不透出者不问。
若地支无财官,只是天干透出,虽行好运亦不济事。
看流年岁君只用天元,若行运虽重地支亦要看运天元。
人命柱中,或有官星,或有偏官有制伏太过,而运干见官煞可发。
运支无财,而运干是财亦可为福。运支无煞,而运干是煞亦可为祸。
人命以当生之月为运元,最怕大运并岁君来冲为祸。以当生官星为禄元,最怕冲坏。
如丁日生人以壬为官,而生亥月,中有壬是丁之禄,若年与时有己字则冲坏禄元。
当生财星为马元,最怕劫夺。如庚日生人以甲乙木为财,而生寅卯月。
寅中甲木偏财,卯中乙木正财。若年时有辛字却有争夺之患,岁运同论。
凡年干上有日之官星,福气最厚。有日之七煞,终身不可除去。
官星为禄,财星为马。行官星发官,行财星发财,二者不可缺一,各有所用。
年月上有财官,必生富贵之家,祖父根基。少年便行官禄运,多是幼年拜命,早发功名。
年月无财官,日时有之,则是自己成立。
人命以财官为本,柱中但得其一,亦可发福。
若四柱原无官星,不入他格,年月日时干支财多,又行财旺运,亦能成就功名。
以财旺自能生官,须身旺方许。
年月无财官,幼年又行不好运,多是出身卑微,破祖伤父,无现成之福。
凡官煞混杂,伤官合神重,男子犯之沉迷酒色。女人逢之不媒自嫁。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#335
Gửi vào 17/09/2024 - 09:20
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết tam
Thường xem mệnh chuyên lấy can ngày làm chủ, chọn lấy chỗ dùng của vật trong đề cương làm mênh.
Thí dụ lệnh tháng lấy kim mộc thuỷ hoả thổ làm dụng, chỉ có một cái, chọn lấy tiết khí trước sau, nặng nhẹ nông sâu, thành cục, phá xung cặn kẽ khảo cứu thêm.
Gọi là quan, gọi là ấn, gọi là tài, gọi là sát, gọi là thực thần, gọi là thương quan, vì đây là sáu tin tức căn bản.
Gặp quan thì xem tài, gặp sát thì xem ấn, gặp ấn thì xem quan.
Chọn lấy bốn cái không thiên không lệch, sanh khắc chế hoà là tốt nhất, gặp phá hại hưu tù là thấp kém.
Vận có sanh có bỏ là phúc, có trợ giúp có lộc là hoạ, cũng có dùng địa chi của năm ngày giờ hợp thành cách cục. Nhưng đều lấy lệnh tháng để sử dụng.
Thí dụ lệnh tháng dùng kim chỉ dùng kim, dùng hoả chỉ dùng hoả. Trong mười tám cách, chọn lấy sáu cách quan trọng.
Dụng thần tương sanh làm thành cách, hợp cục tức là dụng phần dưới của năm ngày giờ, để xét nặng nhẹ, nông sâu.
Như gặp quan dụng ấn không sợ sát, là vì sát cục ấn, ấn cục thân, vẫn thành chọn lấy ở cục.
Gặp ấn xem sát, chỉ có quan sát ở mệnh, đi vận nơi quan sát cũng thành QUÝ để luận.
Lệnh tháng thông quan trong trụ gặp tài, tài vượng sanh quan chính là phú quý. Trụ trung thấy tài, cần nhập vận tài vượng thì phát phúc.
Chỉ thấy một sát thì lấy sát làm quan trọng, không thể dùng tài. Nếu đi vận tài vượng chính là tài sanh bọn sát, thành cách nghèo hèn.
Thường cách lấy sát làm quan trọng.
Thường mệnh trước xem thiên can có khắc chế hay không, địa chi có hình xung hay không, thiên can địa chi nạp âm có chiến đầu hàng phục hay không.
Nhứ giáp lấy dần làm lộc mà ở dần có thiên can gì? Giáp lấy tân làm quan mà tân gặp địa chi gì? Thiên can không xâm lấn địa chi chính là thiên can được cao quý.
Địa chi không mạo phạm thiên can thì đại chi là thấp hèn. Ngũ hành không làm tổn hại nhau, chính là người hoà thuận, Bốn tháng đầu mùa không hại lẫn nhau, thì mã có thể giong ruỗi.
Nếu thiên can xâm chiếm hay địa chi mạo phạm, là ngũ hành làm hại lẫn nhau. Lại nên phân biệt chủ vốn là có hay không có khí lực, có hữu dụng hay không, có cứu trợ hay không, thành cách hay không thành cách?
Nếu thiên can địa chi đan chéo rắc rối, ngũ hành biến hoá, phúc lành ở trong đó vậy!
Lý Thuần Phong nói: ngũ hành sanh vượng, xem xét sự đi và trở về của phúc khí. Ngũ hành tử tuyệt, xem xét ở sự cứu giúp của cát thần.
Ngũ hành đắc địa nạp âm tương sanh, cát thần không trợ giúp vẫn vẻ vang. Ngũ hành vô khí nạp âm tổn hại nhau, cho dù có cát thần cũng không dùng được.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀三
凡看命专以日干为主,取提纲所用之物为命。
譬月令以金木水火土为用,但有一件,取其节气先后,轻重浅深,成局、破冲细加考究。
曰官曰印曰才曰煞曰食曰伤官,以此六法消息之。
逢官看财,逢煞看印,逢印看官。
取四者不偏不倚,生克制化为上,遇破害休因为下。
运有生有去为福,有助有禄为祸,亦有用年日时支合成格局者。然皆以月令为用。
假令月用金只用金,用火只用火。十八格内,取六格为重。
用相生定格,合局却用年日时下,以推轻重浅深。
如逢官用印不怕煞,是煞局印印局身,还作上局取之。
逢印看煞,但有官煞在命,行官煞乡亦作贵论。
月令通官柱中遇财,财旺生官乃富贵。柱中见财,要入财旺运发福。
但见一煞,则以煞为重,不可用财。若行财旺运,乃财生煞党,作贫贱言。
凡格以煞为重。
凡命先看干神有无克制,支神有无刑冲,干支纳音有无战斗降伏。
如甲以寅为禄,而寅上有何干?甲以辛为官,而辛得何支?干不侵支,则天乃尊。
支不犯干,则地乃卑。五行不相贼,则人乃顺。四孟不相害,则马乃能驰。
若干侵支犯,五行相贼。又当分别,主本有气无气,有用无用,有救无救,成格不成格?
则干支错综,五行变化,造化在其中矣!
李淳风云:五行生旺,观福气之往还。五行死绝,在吉神之救助。
五行得地纳音相生,吉神无助亦荣。五行无气纳音相妨,纵有吉神不用。
.
khán mệnh khẩu quyết tam
Thường xem mệnh chuyên lấy can ngày làm chủ, chọn lấy chỗ dùng của vật trong đề cương làm mênh.
Thí dụ lệnh tháng lấy kim mộc thuỷ hoả thổ làm dụng, chỉ có một cái, chọn lấy tiết khí trước sau, nặng nhẹ nông sâu, thành cục, phá xung cặn kẽ khảo cứu thêm.
Gọi là quan, gọi là ấn, gọi là tài, gọi là sát, gọi là thực thần, gọi là thương quan, vì đây là sáu tin tức căn bản.
Gặp quan thì xem tài, gặp sát thì xem ấn, gặp ấn thì xem quan.
Chọn lấy bốn cái không thiên không lệch, sanh khắc chế hoà là tốt nhất, gặp phá hại hưu tù là thấp kém.
Vận có sanh có bỏ là phúc, có trợ giúp có lộc là hoạ, cũng có dùng địa chi của năm ngày giờ hợp thành cách cục. Nhưng đều lấy lệnh tháng để sử dụng.
Thí dụ lệnh tháng dùng kim chỉ dùng kim, dùng hoả chỉ dùng hoả. Trong mười tám cách, chọn lấy sáu cách quan trọng.
Dụng thần tương sanh làm thành cách, hợp cục tức là dụng phần dưới của năm ngày giờ, để xét nặng nhẹ, nông sâu.
Như gặp quan dụng ấn không sợ sát, là vì sát cục ấn, ấn cục thân, vẫn thành chọn lấy ở cục.
Gặp ấn xem sát, chỉ có quan sát ở mệnh, đi vận nơi quan sát cũng thành QUÝ để luận.
Lệnh tháng thông quan trong trụ gặp tài, tài vượng sanh quan chính là phú quý. Trụ trung thấy tài, cần nhập vận tài vượng thì phát phúc.
Chỉ thấy một sát thì lấy sát làm quan trọng, không thể dùng tài. Nếu đi vận tài vượng chính là tài sanh bọn sát, thành cách nghèo hèn.
Thường cách lấy sát làm quan trọng.
Thường mệnh trước xem thiên can có khắc chế hay không, địa chi có hình xung hay không, thiên can địa chi nạp âm có chiến đầu hàng phục hay không.
Nhứ giáp lấy dần làm lộc mà ở dần có thiên can gì? Giáp lấy tân làm quan mà tân gặp địa chi gì? Thiên can không xâm lấn địa chi chính là thiên can được cao quý.
Địa chi không mạo phạm thiên can thì đại chi là thấp hèn. Ngũ hành không làm tổn hại nhau, chính là người hoà thuận, Bốn tháng đầu mùa không hại lẫn nhau, thì mã có thể giong ruỗi.
Nếu thiên can xâm chiếm hay địa chi mạo phạm, là ngũ hành làm hại lẫn nhau. Lại nên phân biệt chủ vốn là có hay không có khí lực, có hữu dụng hay không, có cứu trợ hay không, thành cách hay không thành cách?
Nếu thiên can địa chi đan chéo rắc rối, ngũ hành biến hoá, phúc lành ở trong đó vậy!
Lý Thuần Phong nói: ngũ hành sanh vượng, xem xét sự đi và trở về của phúc khí. Ngũ hành tử tuyệt, xem xét ở sự cứu giúp của cát thần.
Ngũ hành đắc địa nạp âm tương sanh, cát thần không trợ giúp vẫn vẻ vang. Ngũ hành vô khí nạp âm tổn hại nhau, cho dù có cát thần cũng không dùng được.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀三
凡看命专以日干为主,取提纲所用之物为命。
譬月令以金木水火土为用,但有一件,取其节气先后,轻重浅深,成局、破冲细加考究。
曰官曰印曰才曰煞曰食曰伤官,以此六法消息之。
逢官看财,逢煞看印,逢印看官。
取四者不偏不倚,生克制化为上,遇破害休因为下。
运有生有去为福,有助有禄为祸,亦有用年日时支合成格局者。然皆以月令为用。
假令月用金只用金,用火只用火。十八格内,取六格为重。
用相生定格,合局却用年日时下,以推轻重浅深。
如逢官用印不怕煞,是煞局印印局身,还作上局取之。
逢印看煞,但有官煞在命,行官煞乡亦作贵论。
月令通官柱中遇财,财旺生官乃富贵。柱中见财,要入财旺运发福。
但见一煞,则以煞为重,不可用财。若行财旺运,乃财生煞党,作贫贱言。
凡格以煞为重。
凡命先看干神有无克制,支神有无刑冲,干支纳音有无战斗降伏。
如甲以寅为禄,而寅上有何干?甲以辛为官,而辛得何支?干不侵支,则天乃尊。
支不犯干,则地乃卑。五行不相贼,则人乃顺。四孟不相害,则马乃能驰。
若干侵支犯,五行相贼。又当分别,主本有气无气,有用无用,有救无救,成格不成格?
则干支错综,五行变化,造化在其中矣!
李淳风云:五行生旺,观福气之往还。五行死绝,在吉神之救助。
五行得地纳音相生,吉神无助亦荣。五行无气纳音相妨,纵有吉神不用。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#336
Gửi vào 18/09/2024 - 09:15
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết tứ
Thường thiên nguyên của mệnh mừng địa nguyên có lộc: như giáp kỷ thích bốn tháng cuối mùa, ất canh thích thân dậu, bính tân thích hợi tý, đinh nhâm thích dần mão, mậu quý thích tỵ ngọ.
Địa nguyên thích thiên nguyên có hợp: như tý sửu thích mậu, dần thích kỷ, mão thìn thích canh, tỵ thích tân và quý, ngọ mùi thích giáp nhâm, thân thích ất, dậu tuất thích bính, hợi thích đinh.
Thiên nguyên địa nguyên đều có, cả đời phúc khí cao quý, còn như không có thì danh lợi không thành công.
Thiên nguyên bị huỷ hoại thì trước ba mươi chín tuổi danh lợi khó phát. Địa nguyên bị huỷ hoại thì bốn mươi tuổi trở vầ sau phúc không như trước đó.
Nếu thiên nguyên tú khí toạ lộc như quý gặp tý, giáp gặp dần các loại, không quý tức là phú.
Địa nguyên kỵ thiên nguyên khắc: như tý sửu sợ kỷ; dần sợ canh; mão thìn sợ tân; tỵ sợ giáp nhâm; ngọ mùi sợ ất quý; thân sợ bính; dậu tuất sợ đinh; hợi sợ mậu.
Lại xem thêm hỷ kỵ như thế nào, không thể quyết định một cách cố chấp.
Thường mệnh chọn lấy thiên can, địa chi với nạp âm cùng loại: nhâm tý nhâm ngọ chân mộc, kỷ dậu kỷ mão chân thổ, bính tý bính ngọ chân thuỷ, mậu tý mậu ngọ chân hoả, ất sửu ất mùi canh thìn canh tuất chân kim.
Nếu ngày ất dậu giờ canh thìn là tinh kim (thuần kim); ngày đinh tỵ giờ bính ngọ là tinh hoả (thuần hoả); ngày quý hợi giờ nhâm tý là tinh thuỷ (thuần thuỷ); ngày kỷ sửu giờ mậu thìn là tinh thổ (thuần thổ); ngày giáp dần giờ đinh mão là tinh mộc (thuần mộc); gặp những liệt kê trên đều chủ phú quý.
Nếu người hoả ngày bính giờ tân hay ngày tân giờ bính. Người mộc ngày giáp giờ kỷ hay ngày kỷ giờ giáp. Người thổ ngày mậu giờ quý hay ngày quý giờ mậu; người thuỷ ngày nhâm giờ đinh hay ngày đinh giờ nâm; người kim ngày canh giờ ất hay ngày ất giờ canh. Tuy là ngũ hành chân quý (quý thật sự) nhưng phạm nhiều thì giảm phúc.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀四
凡命天元喜地元有禄:
如甲己喜四季,乙庚喜申酉,丙辛喜亥子,丁壬喜寅卯,戊癸喜巳午。
地元喜天元有合:
如子丑喜戊,寅喜己,卯辰喜庚,巳喜辛,癸午未喜甲壬,申喜乙,酉戌喜丙,亥喜丁。
天元地元皆有,平生福气高崇,皆无,名利无成。
坏天元者,39岁以前名利难发。坏地元者,40岁后福不如前。
若天元秀气坐禄,如癸得子,甲得寅之例,不贵即富。
地元忌天元相克:
如子丑怕己,寅怕庚,卯辰怕辛,巳怕甲壬,午未怕乙癸,申怕丙,酉戌怕丁,亥怕戊。
更看喜忌何如,不可执定。
凡命取干支与纳音同类:
壬子壬午真木,己酉己卯真土,丙子丙午真水,戊子戊午真火,乙丑乙未庚辰庚戌真金。
若乙酉日庚辰时为精金,丁巳日丙午时为精火,癸亥日壬子时为精水,己丑日戊辰时为精土,甲寅日丁卯时为精木,以上遇者皆主富贵。
若火人丙日辛时,辛日丙时。木人甲日己时,己日甲时。土人戊日癸时,癸日戊时。
水人壬日丁时,丁日壬时。金人庚日乙时,乙日庚时,虽为五行真贵,重犯减福。
.
khán mệnh khẩu quyết tứ
Thường thiên nguyên của mệnh mừng địa nguyên có lộc: như giáp kỷ thích bốn tháng cuối mùa, ất canh thích thân dậu, bính tân thích hợi tý, đinh nhâm thích dần mão, mậu quý thích tỵ ngọ.
Địa nguyên thích thiên nguyên có hợp: như tý sửu thích mậu, dần thích kỷ, mão thìn thích canh, tỵ thích tân và quý, ngọ mùi thích giáp nhâm, thân thích ất, dậu tuất thích bính, hợi thích đinh.
Thiên nguyên địa nguyên đều có, cả đời phúc khí cao quý, còn như không có thì danh lợi không thành công.
Thiên nguyên bị huỷ hoại thì trước ba mươi chín tuổi danh lợi khó phát. Địa nguyên bị huỷ hoại thì bốn mươi tuổi trở vầ sau phúc không như trước đó.
Nếu thiên nguyên tú khí toạ lộc như quý gặp tý, giáp gặp dần các loại, không quý tức là phú.
Địa nguyên kỵ thiên nguyên khắc: như tý sửu sợ kỷ; dần sợ canh; mão thìn sợ tân; tỵ sợ giáp nhâm; ngọ mùi sợ ất quý; thân sợ bính; dậu tuất sợ đinh; hợi sợ mậu.
Lại xem thêm hỷ kỵ như thế nào, không thể quyết định một cách cố chấp.
Thường mệnh chọn lấy thiên can, địa chi với nạp âm cùng loại: nhâm tý nhâm ngọ chân mộc, kỷ dậu kỷ mão chân thổ, bính tý bính ngọ chân thuỷ, mậu tý mậu ngọ chân hoả, ất sửu ất mùi canh thìn canh tuất chân kim.
Nếu ngày ất dậu giờ canh thìn là tinh kim (thuần kim); ngày đinh tỵ giờ bính ngọ là tinh hoả (thuần hoả); ngày quý hợi giờ nhâm tý là tinh thuỷ (thuần thuỷ); ngày kỷ sửu giờ mậu thìn là tinh thổ (thuần thổ); ngày giáp dần giờ đinh mão là tinh mộc (thuần mộc); gặp những liệt kê trên đều chủ phú quý.
Nếu người hoả ngày bính giờ tân hay ngày tân giờ bính. Người mộc ngày giáp giờ kỷ hay ngày kỷ giờ giáp. Người thổ ngày mậu giờ quý hay ngày quý giờ mậu; người thuỷ ngày nhâm giờ đinh hay ngày đinh giờ nâm; người kim ngày canh giờ ất hay ngày ất giờ canh. Tuy là ngũ hành chân quý (quý thật sự) nhưng phạm nhiều thì giảm phúc.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀四
凡命天元喜地元有禄:
如甲己喜四季,乙庚喜申酉,丙辛喜亥子,丁壬喜寅卯,戊癸喜巳午。
地元喜天元有合:
如子丑喜戊,寅喜己,卯辰喜庚,巳喜辛,癸午未喜甲壬,申喜乙,酉戌喜丙,亥喜丁。
天元地元皆有,平生福气高崇,皆无,名利无成。
坏天元者,39岁以前名利难发。坏地元者,40岁后福不如前。
若天元秀气坐禄,如癸得子,甲得寅之例,不贵即富。
地元忌天元相克:
如子丑怕己,寅怕庚,卯辰怕辛,巳怕甲壬,午未怕乙癸,申怕丙,酉戌怕丁,亥怕戊。
更看喜忌何如,不可执定。
凡命取干支与纳音同类:
壬子壬午真木,己酉己卯真土,丙子丙午真水,戊子戊午真火,乙丑乙未庚辰庚戌真金。
若乙酉日庚辰时为精金,丁巳日丙午时为精火,癸亥日壬子时为精水,己丑日戊辰时为精土,甲寅日丁卯时为精木,以上遇者皆主富贵。
若火人丙日辛时,辛日丙时。木人甲日己时,己日甲时。土人戊日癸时,癸日戊时。
水人壬日丁时,丁日壬时。金人庚日乙时,乙日庚时,虽为五行真贵,重犯减福。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#337
Gửi vào 19/09/2024 - 09:25
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết ngũ
Thường mệnh chọn lấy ngũ hành chân khí giao hỗ (thay thế lẫn nhau), như:
Người tân hợi kim gặp đinh tỵ thổ, có đinh nhâm hợp thành chân mộc qua lại, có bính tân hợp thànhchân thuỷ qua lại.
Người đinh tỵ thổ gặp quý hợi thuỷ, có mậu quý hợp thành chân hoả qua lại, có đinh nhâm hợp thành chân mộc qua lại.
Như mậu tuất quý hợi đinh tỵ tân hợi giao hỗ toàn chân khí chính là mệnh của tể tướng (chức quan tướng cầm đầu cả trăm quan).
Mậu ngọ hoả gặp nhâm tý mộc, trong có đinh nhâm là chân mộc, mậu quý là chân hoả.
Bính thân hoả gặp ất dậu thuỷ, trong có bính tân là chân thuỷ, ất canh là chân kim.
Canh dần mộc gặp kỷ mão thổ, trong có giáp kỷ là chân thổ, ất canh là chân kim.
Như canh dần kỷ mão giao hỗ hoàn toàn, chính là mệnh của hai phủ (nơi làm việc của quan lại).
Thường mệnh trước khi luận hoá khí, phải khảo sát Ngũ Vận Thiên lấy giáp bính mậu canh nhâm hợp năm can âm là thái quá; ất đinh kỷ tân quý hợp năm can dương là bất cập, thái quá hay bất cập sao mà có quyền tồn tại.
Khảo sát Thiên Nguyên Biến Hoá Thư lại phân chia trú dạ (ngày đêm), như
Người sanh sáu ngày giáp dụng thuỷ, sanh ban đêm hoá thổ, cho nên sáu người mậu gặp giáp chọn lấy sanh ban ngày làm quỷ, sanh ban đêm làm quan để sử dụng.
Sáu người ất sanh ban ngày dụng kim, ban đêm dụng mộc, cho nên sáu người kỷ coi người sanh ban ngày là quan, sanh ban đêm là quỷ.
Chỉ sáu kỷ và sáu canh là không thay đổi, đúng là can dương sanh ban ngày là bổn thể (chính bản thân mình), sanh ban đêm hoá khán (xem theo thay đổi).
Sáu kiểu dương mệnh nam phạm lộc quỷ đảo thực, đều chọn dạ sanh (sanh ban đêm) phản xấu thành tốt. Xưng quỷ là quan, đảo thực là hỷ thần tức là vì sanh ban ngày là thuận.
Sáu kiểu âm mệnh nam phạm lộc quỷ đảo thực, đều chọn nhật sanh (sanh ban ngày) phản xấu thành tốt. Còn lại giống với phần trước tức lấy dạ sanh là thuận, nữ nhân đều trái ngược lại điều đó. Đây là trú dạ khí tượng (cảnh huống ngày đêm), là âm dương phối hợp với cương nhu thể dụng vậy.
Thường ngũ hành mệnh dưới sanh trên gọi là trợ khí, chủ một đời tự hưởng phúc của mình. Còn trên sanh dưới gọi là đạo khí (trộm khí), chủ cả đời cung cấp phúc lành cho người.
Trên khắc dưới gọi là thuận, chủ có uy thế mà chế phục người. Dưới khắc trên gọi là nghịch, chủ thường chìm đắm, trì trệ nên khó phát. Tử tuyệt càng nghiêm trọng, còn sanh vượng thì khá chậm chạp.
Tứ trụ nạp âm quỷ nhiều chủ bổn (nhật chủ) đương thời, tên gọi quan tinh thừa vượng. Nạp âm tài nhiều chủ bổn vô khí, tên gọi tài nhiều hại thân.
Thường ngũ hành mệnh quý khi âm dương bằng nhau, như:
Hai kim gặp hai mộc hoặc hai hoả, hai thổ, hai thuỷ các loại, mỗi hành tự thành tượng mới tốt.
Nếu thái quá bất cập như ba thuỷ một mộc hay một thuỷ ba mộc các loại đều không phải là phúc.
Thí dụ người lệnh kim có ba kim một mộc, kim khắc mộc là tài, ba kim tranh giành một mộc nghĩa là phân chia cướp doạt phúc của mình, thường chủ tài vật không vừa lòng.
Nếu một kim ba hoả, hoả nhiều kim ít, tiên ngao (rang nấu, cũng chỉ đau thương buồn khổ) quá nhiều, chủ một đời không rảnh rỗi.
Lại như người giáp gặp ba nhâm hay ba kỷ, gọi là tam thôn (lắm lượt tiêu diệt) tam ngẫu (lắm lượt kết hôn) chủ không tốt.
Nếu gặp hai kỷ hay hai canh, nghĩa là trùng ngẫu (nhiều lần kết hôn) trùng thương (nhiều lần thương tổn), biểu hiện ba càng thêm hung, không nghèo cũng yểu, Còn lại xét theo lệ đó.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀五
凡命取五行真气交互,如
辛亥金人得丁已土,有丁壬合真木往来,有丙辛合真水往来。
丁已土人得癸亥水,有戊癸合真火往来,有丁壬合真木往来。
如戊戌、癸亥、丁已、辛亥交互真气全,乃宰相命也。
戊午火得壬子木,中有丁壬真木,戊癸真火。
丙申火得乙酉水,中有丙辛真水,乙庚真金。
庚寅得己卯土,中有甲己真土,乙庚真金。
如庚寅己卯交互全,乃两府命也。
凡命先论化气,考五运篇以甲丙戊庚壬,合五阴干为太过,乙丁已辛癸合五阳干为不及,太过不及之间有权存焉。
考天元变化书又分昼夜,如
六甲人日生用水,夜生化土,故六戊人得甲取日生为鬼,夜生为官用。
六乙人日生用金,夜生用木,故六己人见之取日生为官,夜生为鬼。
独六己六庚不变,是以
五阳干昼生为本体,夜生作化看。五阴干夜生为本体,昼生作化看。
六般阳命男犯禄鬼倒食,须取夜生,反凶作吉。呼鬼为官,倒食为喜神,却以日生为顺。
六般阴命男犯禄鬼倒食,须取日生,反凶作吉。余并同前却以夜生为顺,女人皆反此求之。此昼夜气象,是阴阳配合刚柔体用也。
凡命五行下生上曰助气,主一生自享其福。上生下曰盗气,主一生供人之福。
上克下曰顺,主有威势而制人。下克上曰逆,主多沉滞而难发。死绝尤紧,生旺差慢。
四柱纳音鬼多,主本当时,名日官星乘旺。纳音财多,主本无气,名曰财多害身。
凡命五行贵阴阳相等,如:
两金见两木或两火两土两水之类,各自成象方吉。
若太过不及如三水一木一水三木等类,俱不为福。
假令金人三金一木,金克木为财,三金争一木,是分夺其福,多主财物不遂。
若一金三火,火多金少,煎熬太过,主一生不闲。
又如甲人逢三壬三己,谓之三吞三偶,主不吉。
若逢两己两庚,谓之重偶重伤,视三尤凶,不贫即夭,余以例推。
.
khán mệnh khẩu quyết ngũ
Thường mệnh chọn lấy ngũ hành chân khí giao hỗ (thay thế lẫn nhau), như:
Người tân hợi kim gặp đinh tỵ thổ, có đinh nhâm hợp thành chân mộc qua lại, có bính tân hợp thànhchân thuỷ qua lại.
Người đinh tỵ thổ gặp quý hợi thuỷ, có mậu quý hợp thành chân hoả qua lại, có đinh nhâm hợp thành chân mộc qua lại.
Như mậu tuất quý hợi đinh tỵ tân hợi giao hỗ toàn chân khí chính là mệnh của tể tướng (chức quan tướng cầm đầu cả trăm quan).
Mậu ngọ hoả gặp nhâm tý mộc, trong có đinh nhâm là chân mộc, mậu quý là chân hoả.
Bính thân hoả gặp ất dậu thuỷ, trong có bính tân là chân thuỷ, ất canh là chân kim.
Canh dần mộc gặp kỷ mão thổ, trong có giáp kỷ là chân thổ, ất canh là chân kim.
Như canh dần kỷ mão giao hỗ hoàn toàn, chính là mệnh của hai phủ (nơi làm việc của quan lại).
Thường mệnh trước khi luận hoá khí, phải khảo sát Ngũ Vận Thiên lấy giáp bính mậu canh nhâm hợp năm can âm là thái quá; ất đinh kỷ tân quý hợp năm can dương là bất cập, thái quá hay bất cập sao mà có quyền tồn tại.
Khảo sát Thiên Nguyên Biến Hoá Thư lại phân chia trú dạ (ngày đêm), như
Người sanh sáu ngày giáp dụng thuỷ, sanh ban đêm hoá thổ, cho nên sáu người mậu gặp giáp chọn lấy sanh ban ngày làm quỷ, sanh ban đêm làm quan để sử dụng.
Sáu người ất sanh ban ngày dụng kim, ban đêm dụng mộc, cho nên sáu người kỷ coi người sanh ban ngày là quan, sanh ban đêm là quỷ.
Chỉ sáu kỷ và sáu canh là không thay đổi, đúng là can dương sanh ban ngày là bổn thể (chính bản thân mình), sanh ban đêm hoá khán (xem theo thay đổi).
Sáu kiểu dương mệnh nam phạm lộc quỷ đảo thực, đều chọn dạ sanh (sanh ban đêm) phản xấu thành tốt. Xưng quỷ là quan, đảo thực là hỷ thần tức là vì sanh ban ngày là thuận.
Sáu kiểu âm mệnh nam phạm lộc quỷ đảo thực, đều chọn nhật sanh (sanh ban ngày) phản xấu thành tốt. Còn lại giống với phần trước tức lấy dạ sanh là thuận, nữ nhân đều trái ngược lại điều đó. Đây là trú dạ khí tượng (cảnh huống ngày đêm), là âm dương phối hợp với cương nhu thể dụng vậy.
Thường ngũ hành mệnh dưới sanh trên gọi là trợ khí, chủ một đời tự hưởng phúc của mình. Còn trên sanh dưới gọi là đạo khí (trộm khí), chủ cả đời cung cấp phúc lành cho người.
Trên khắc dưới gọi là thuận, chủ có uy thế mà chế phục người. Dưới khắc trên gọi là nghịch, chủ thường chìm đắm, trì trệ nên khó phát. Tử tuyệt càng nghiêm trọng, còn sanh vượng thì khá chậm chạp.
Tứ trụ nạp âm quỷ nhiều chủ bổn (nhật chủ) đương thời, tên gọi quan tinh thừa vượng. Nạp âm tài nhiều chủ bổn vô khí, tên gọi tài nhiều hại thân.
Thường ngũ hành mệnh quý khi âm dương bằng nhau, như:
Hai kim gặp hai mộc hoặc hai hoả, hai thổ, hai thuỷ các loại, mỗi hành tự thành tượng mới tốt.
Nếu thái quá bất cập như ba thuỷ một mộc hay một thuỷ ba mộc các loại đều không phải là phúc.
Thí dụ người lệnh kim có ba kim một mộc, kim khắc mộc là tài, ba kim tranh giành một mộc nghĩa là phân chia cướp doạt phúc của mình, thường chủ tài vật không vừa lòng.
Nếu một kim ba hoả, hoả nhiều kim ít, tiên ngao (rang nấu, cũng chỉ đau thương buồn khổ) quá nhiều, chủ một đời không rảnh rỗi.
Lại như người giáp gặp ba nhâm hay ba kỷ, gọi là tam thôn (lắm lượt tiêu diệt) tam ngẫu (lắm lượt kết hôn) chủ không tốt.
Nếu gặp hai kỷ hay hai canh, nghĩa là trùng ngẫu (nhiều lần kết hôn) trùng thương (nhiều lần thương tổn), biểu hiện ba càng thêm hung, không nghèo cũng yểu, Còn lại xét theo lệ đó.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀五
凡命取五行真气交互,如
辛亥金人得丁已土,有丁壬合真木往来,有丙辛合真水往来。
丁已土人得癸亥水,有戊癸合真火往来,有丁壬合真木往来。
如戊戌、癸亥、丁已、辛亥交互真气全,乃宰相命也。
戊午火得壬子木,中有丁壬真木,戊癸真火。
丙申火得乙酉水,中有丙辛真水,乙庚真金。
庚寅得己卯土,中有甲己真土,乙庚真金。
如庚寅己卯交互全,乃两府命也。
凡命先论化气,考五运篇以甲丙戊庚壬,合五阴干为太过,乙丁已辛癸合五阳干为不及,太过不及之间有权存焉。
考天元变化书又分昼夜,如
六甲人日生用水,夜生化土,故六戊人得甲取日生为鬼,夜生为官用。
六乙人日生用金,夜生用木,故六己人见之取日生为官,夜生为鬼。
独六己六庚不变,是以
五阳干昼生为本体,夜生作化看。五阴干夜生为本体,昼生作化看。
六般阳命男犯禄鬼倒食,须取夜生,反凶作吉。呼鬼为官,倒食为喜神,却以日生为顺。
六般阴命男犯禄鬼倒食,须取日生,反凶作吉。余并同前却以夜生为顺,女人皆反此求之。此昼夜气象,是阴阳配合刚柔体用也。
凡命五行下生上曰助气,主一生自享其福。上生下曰盗气,主一生供人之福。
上克下曰顺,主有威势而制人。下克上曰逆,主多沉滞而难发。死绝尤紧,生旺差慢。
四柱纳音鬼多,主本当时,名日官星乘旺。纳音财多,主本无气,名曰财多害身。
凡命五行贵阴阳相等,如:
两金见两木或两火两土两水之类,各自成象方吉。
若太过不及如三水一木一水三木等类,俱不为福。
假令金人三金一木,金克木为财,三金争一木,是分夺其福,多主财物不遂。
若一金三火,火多金少,煎熬太过,主一生不闲。
又如甲人逢三壬三己,谓之三吞三偶,主不吉。
若逢两己两庚,谓之重偶重伤,视三尤凶,不贫即夭,余以例推。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#338
Gửi vào 20/09/2024 - 09:53
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết lục
Thường xem mệnh thương quan kiến quan thì chết sớm, thất sát kiến tài chết trẻ, tài gặp kiếp chết hết, tài chồng chất phá ấn hung. Thuỷ thịnh vượng mộc trôi nổi, cuối cùng là ngoại quỷ (quỷ không chính thức). Thực thần gặp kiêu thần chết ở nhà tù. Kiếp chồng chất gặp tài chết, sát vượng quải căn hưu (treo triệt để phúc lộc, quải cũng có nghĩa là chết). Vong thần thất sát xung hình không phải tội nhân lưu đày cũng chết. Luy tiết (Luy tiết 縲絏 dây màu đen để trói kẻ có tội thời xưa. Sau tỉ dụ xiềng xích, tù ngục) thương quan, dương nhận nhiều che chở, tuy chết toàn thây nhưng đẫm máu. Tài tinh gặp dương nhận thì của cải phân tán mà người thì mất. Sanh vượng chết ở mộ khố, mộ khố tuyệt ở sanh vượng.
Muộn mới đi vận tốt, mà chưa vào hung vận người lính chết phân biệt thế nào. Còn vận xấu đến mà vận tốt thì chưa đến thì luận khi nào phát phúc.
Nên nghiên cứu nguyên do tiến khí thối khí, thêm xét rõ ý nghĩa của đã phát hay chức phát. Tương lai thì thăng tiến nhanh, trả lại công việc được đề cử trước đây đã ngưng.
Một đời tuế vận đều xấu, tuổi còn trẻ đã chết sớm. Sao mệnh cuối tuần đắc địa tuổi thọ kéo dài.
Già sợ sanh vượng trẻ ngại tử tuyệt. Dương nhận gặp sanh thường chết độc, sát vượng có gốc nhật định kết thúc xấu.
Mùa xuân vượng hoả nhiều thích hợp tây bắc khố là lúc nương về. Mùa hạ lù mù kim vượng có lợi ở hướng đông nam nơi của quý đất thọ.
Bốn dương nhận chồng chất, chế ở bên trong chánh tài. Một khi quan quý nông cạn, kết thúc bởi dương nhận.
Tứ trụ đều thương tổn người tự tử, kim thần nhập thuỷ tai nạn chết đuối.
Dương nhận làm phản quỷ không có đầu, sát tinh thay dương nhận bán thể chi đồ (bọn nửa thân).
Chế phục trung hoà, sát rất hoàn bị nhưng khí tử (trạng thái chết). Sanh phù quá mức, ấn càng thêm vượng nên thân chung (cuối đời).
Thương quan nhập mộ chết, vãn cục (tình huống gần cuối) rất nên quán xét. Dương sanh thì âm tử; âm tử thì dương sanh.
Sát gặp tam hợp quá mức sẽ sụp đỗ, trong ngũ hành nên biết rõ chi tiết.
Thường xem mệnh ngũ hành thái quá hay bất cập, quyết không phải là phúc, trong đó sự kỳ diệu cũng không giống nhau.
Như thuỷ thổ không ghét tử tuyệt, vì đầy trong trời đất đều là thuỷ thổ, không phân biệt bốn mùa, làm sao mà có cái lý cuả tử tuyệt.
Nhưng hãy phân tích mức độ nghiêm trọng, như chấm một giọt nước vào trong đống đất sẽ bị khô, nếu nhún đất vào trong nước tắc nghẽn thì đất sẽ tan. Đang luận về nhiều ít, phân biệt mức dộ nghiêm trọng vậy.
Kim chẳng có thổ không có đời sống, mộc chẳng có thuỷ không lớn lên. Cho nên kim moậ muốn mình được sanh vượng, sợ gặp tử tuyệt.
Như kim tử sẽ chìm đắm, mộc tử sẽ thành tro, cùng với thuỷ thổ không giống nhau.
Hoả ẩn tàng ở mộc, giữ ở thố, cho nên không muốn vượng, vì vượng sẽ đổ ngã, bại hoại. Cũng không muốn tử, tử sẽ tiêu diệt, chỉ khi nó bình ổn sẽ đẹp.
Ngũ hành thuỷ thổ cậy nhờ sự quân bình, nhưng mệnh mộc kim hay hoả thật là quan trọng.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀六
凡看命伤官见官而早死,七煞见财夭亡,财逢劫尽死,重财破印凶。水盛木流,终为外鬼。食神逢枭,死于牢狱。劫重见财死,煞旺挂根休。亡神七煞冲刑,非徒流亦亡。缧绁伤官,阳刃重并,虽全体而死血光。财星见刃,财散人亡。生旺死于库墓,库墓绝于生旺。
晚有吉运行,凶运未入,死卒何分。有凶运来,吉运未来发福曷论。
当究进气退气之由,更审已发未发之义。将来而速进,功举以先归。
一生岁运皆凶,年少早死。末旬命星得地,老寿弥高。
老怕生旺,少嫌死绝。阳刃逢生多恶死,有根煞旺定凶终。
春旺火多,宜西北库是归期。夏荧金旺,利东南鬼乡寿地。
四刃星重,死在正财之下。一官贵浅,终于阳刃之中。
四柱俱伤人自死,金神入水溺为灾。
阳刃倒戈无头之鬼,煞星迭刃半体之徒。
制伏中和,煞极全而气死。生扶太过,印更旺而身终。
伤官入墓死,晚局最宜观。阳生而阴死,阴死而阳生。
煞逢三合太过必倾,五行之内宜细消详。
凡看命五行太过不及,固不为福,中间亦微不同。
如水土不嫌死绝,以盈天地间皆水土,无分四时,岂有死绝之理。
但辨轻重,如点水滴众土之中则干,撮土壅众水之中则散。当论多寡,分轻重也。
金非土不生,木非水不长。故金木欲其生旺,怕见死绝。
如金死则沉,木死则灰,与水土不同。
火藏于木,宿于土,故不欲旺,旺则焚。亦不欲死,死则灭,惟得其平则佳。
五行水土均赖,凡木金火之命尤为要也。
.
khán mệnh khẩu quyết lục
Thường xem mệnh thương quan kiến quan thì chết sớm, thất sát kiến tài chết trẻ, tài gặp kiếp chết hết, tài chồng chất phá ấn hung. Thuỷ thịnh vượng mộc trôi nổi, cuối cùng là ngoại quỷ (quỷ không chính thức). Thực thần gặp kiêu thần chết ở nhà tù. Kiếp chồng chất gặp tài chết, sát vượng quải căn hưu (treo triệt để phúc lộc, quải cũng có nghĩa là chết). Vong thần thất sát xung hình không phải tội nhân lưu đày cũng chết. Luy tiết (Luy tiết 縲絏 dây màu đen để trói kẻ có tội thời xưa. Sau tỉ dụ xiềng xích, tù ngục) thương quan, dương nhận nhiều che chở, tuy chết toàn thây nhưng đẫm máu. Tài tinh gặp dương nhận thì của cải phân tán mà người thì mất. Sanh vượng chết ở mộ khố, mộ khố tuyệt ở sanh vượng.
Muộn mới đi vận tốt, mà chưa vào hung vận người lính chết phân biệt thế nào. Còn vận xấu đến mà vận tốt thì chưa đến thì luận khi nào phát phúc.
Nên nghiên cứu nguyên do tiến khí thối khí, thêm xét rõ ý nghĩa của đã phát hay chức phát. Tương lai thì thăng tiến nhanh, trả lại công việc được đề cử trước đây đã ngưng.
Một đời tuế vận đều xấu, tuổi còn trẻ đã chết sớm. Sao mệnh cuối tuần đắc địa tuổi thọ kéo dài.
Già sợ sanh vượng trẻ ngại tử tuyệt. Dương nhận gặp sanh thường chết độc, sát vượng có gốc nhật định kết thúc xấu.
Mùa xuân vượng hoả nhiều thích hợp tây bắc khố là lúc nương về. Mùa hạ lù mù kim vượng có lợi ở hướng đông nam nơi của quý đất thọ.
Bốn dương nhận chồng chất, chế ở bên trong chánh tài. Một khi quan quý nông cạn, kết thúc bởi dương nhận.
Tứ trụ đều thương tổn người tự tử, kim thần nhập thuỷ tai nạn chết đuối.
Dương nhận làm phản quỷ không có đầu, sát tinh thay dương nhận bán thể chi đồ (bọn nửa thân).
Chế phục trung hoà, sát rất hoàn bị nhưng khí tử (trạng thái chết). Sanh phù quá mức, ấn càng thêm vượng nên thân chung (cuối đời).
Thương quan nhập mộ chết, vãn cục (tình huống gần cuối) rất nên quán xét. Dương sanh thì âm tử; âm tử thì dương sanh.
Sát gặp tam hợp quá mức sẽ sụp đỗ, trong ngũ hành nên biết rõ chi tiết.
Thường xem mệnh ngũ hành thái quá hay bất cập, quyết không phải là phúc, trong đó sự kỳ diệu cũng không giống nhau.
Như thuỷ thổ không ghét tử tuyệt, vì đầy trong trời đất đều là thuỷ thổ, không phân biệt bốn mùa, làm sao mà có cái lý cuả tử tuyệt.
Nhưng hãy phân tích mức độ nghiêm trọng, như chấm một giọt nước vào trong đống đất sẽ bị khô, nếu nhún đất vào trong nước tắc nghẽn thì đất sẽ tan. Đang luận về nhiều ít, phân biệt mức dộ nghiêm trọng vậy.
Kim chẳng có thổ không có đời sống, mộc chẳng có thuỷ không lớn lên. Cho nên kim moậ muốn mình được sanh vượng, sợ gặp tử tuyệt.
Như kim tử sẽ chìm đắm, mộc tử sẽ thành tro, cùng với thuỷ thổ không giống nhau.
Hoả ẩn tàng ở mộc, giữ ở thố, cho nên không muốn vượng, vì vượng sẽ đổ ngã, bại hoại. Cũng không muốn tử, tử sẽ tiêu diệt, chỉ khi nó bình ổn sẽ đẹp.
Ngũ hành thuỷ thổ cậy nhờ sự quân bình, nhưng mệnh mộc kim hay hoả thật là quan trọng.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀六
凡看命伤官见官而早死,七煞见财夭亡,财逢劫尽死,重财破印凶。水盛木流,终为外鬼。食神逢枭,死于牢狱。劫重见财死,煞旺挂根休。亡神七煞冲刑,非徒流亦亡。缧绁伤官,阳刃重并,虽全体而死血光。财星见刃,财散人亡。生旺死于库墓,库墓绝于生旺。
晚有吉运行,凶运未入,死卒何分。有凶运来,吉运未来发福曷论。
当究进气退气之由,更审已发未发之义。将来而速进,功举以先归。
一生岁运皆凶,年少早死。末旬命星得地,老寿弥高。
老怕生旺,少嫌死绝。阳刃逢生多恶死,有根煞旺定凶终。
春旺火多,宜西北库是归期。夏荧金旺,利东南鬼乡寿地。
四刃星重,死在正财之下。一官贵浅,终于阳刃之中。
四柱俱伤人自死,金神入水溺为灾。
阳刃倒戈无头之鬼,煞星迭刃半体之徒。
制伏中和,煞极全而气死。生扶太过,印更旺而身终。
伤官入墓死,晚局最宜观。阳生而阴死,阴死而阳生。
煞逢三合太过必倾,五行之内宜细消详。
凡看命五行太过不及,固不为福,中间亦微不同。
如水土不嫌死绝,以盈天地间皆水土,无分四时,岂有死绝之理。
但辨轻重,如点水滴众土之中则干,撮土壅众水之中则散。当论多寡,分轻重也。
金非土不生,木非水不长。故金木欲其生旺,怕见死绝。
如金死则沉,木死则灰,与水土不同。
火藏于木,宿于土,故不欲旺,旺则焚。亦不欲死,死则灭,惟得其平则佳。
五行水土均赖,凡木金火之命尤为要也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#339
Gửi vào 21/09/2024 - 08:52
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết thất
Thông thường ngũ hành chọn lấy tượng,
Tượng gốc chọn lấy tượng gốc, kiểu như giáp ất bính đinh là tượng mộc hoả.
Hoá tượng thì chọn lấy hoá tượng kiểu như mậu quý đinh nhâm là tượng hoả mộc.
Tượng kim thuỷ không thể gặp thổ, nghĩa là thổ lẫn lộn thì thuỷ không trong sạch, kim vốn là không thanh. Tuế vận gặp thổ cũng trì trệ, chỉ kim thuỷ không lẫn lộn, sanh ở các tháng mùa thu rất cao quý.
Như Minh Thần Tông quý hợi tân dậu quý hợi tân dậu, thiên can địa chi đều là kim thuỷ không lẫn lộn, thuỷ sanh tháng mùa thu nên kim trợ giúp thuỷ trong sạch, hai thuỷ hai kim thành tượng.
Đáng kể là kim bạch thuỷ thanh, đặc biệt không lẫn lộn chen vào, lại hợp hai thiên can không tạp, cho nên là bậc thiên tử cao quý.
Như quý dậu quý hợi canh tý tân tỵ, kim sanh tháng thuỷ, kim trái lại tiết khí chìm đắm trong hợi tý, cho nên không tránh khỏi tai nạn về nước.
Tượng kim thổ không thể gặp mộc, cho là mộc khắc thổ, thì thổ không có khả năng sanh cho kim, kim không thành tượng vậy.
Thổ úng đọng thành kim, thổ nhiều kim ít, phúc cuả nó thật dày. Kim nhiều thổ ít phúc sinh ra từ gian nan khốn khổ.
Tượng kim hoả không thể gặp thuỷ, gặp thuỷ thì hoả bị tiêu diệt kim chìm đắm, không thể thành vật dụng.
Kim nhiều hoả ít phát chậm nhưng có lợi cho tuổi thọ. Kim ít hoả nhiều phát sớm cũng mau thối lui, có thể tuổi thọ bị hao tổn.
Tượng kim mộc không thể thấy hoả, hoạt mộc (ất) sợ kim, gặp hoả trở thành xinh đẹp. Tử mộc (giáp) gặp kim, mới trở thành muôn vật.
Kim nhiều mộc ít khiến người đau nhức xương cốt. Mộc nhiều kim ít chủ hao tổn tiền tài, hoặc bệnh tật ở phổi công kích nhau, chỉ khi kim mộc thuận hợp nhau thì tốt.
Tượng thuỷ mộc đẹp nên thanh cao, không thể gặp mão tỵ bởi vì thuỷ tử tuyệt.
Tượng mộc hoả đẹp nên dồi dào, không thể gặp kim, vì mộc bị khắc. Lưu niên gặp phải đều là tai hoạ.
Tượng thuỷ hoả thành ký tế rất mầu nhiệm, hoặc vị tế cũng không thể gặp thổ, hoả nhiều bản chất nóng nảy, xảo trá, thuỷ nhiều thì tạt bệnh về mắt.
Hoả sợ tử, thuỷ sợ mộc dục, vào cung dậu hoả tử thuỷ mộc dục, chủ gian nan mà chết. Tuế vận giống nhau, ngày giờ kỵ tượng này.
Tượng thuỷ thổ không thể gặp hoả, thổ nhiều thuỷ ít, đẹp nhưng không thật, thuỷ nhiều thổ nhẹ tức là có tên thi đậu.
Tượng hoả thổ không thể gặp thuỷ, hoả yếu đuối thổ tụ họp thì không thành vật, nếu cùng thuỷ trôi chảy chủ chìm dưới nước. Như:
Mậu tý mậu ngọ kỷ sửu kỷ mùi,
Đinh tỵ đinh hợi bính thìn bính tuất,
Bính đinh với mậu kỷ kề bên nhau, chính là hoả yếu đuồi mà thổ tụ họp.
Lý Cửu Vạn lấy
Mậu tý kỷ sửu mậu ngọ kỷ mùi,
Bính thìn đinh tỵ bính tuất đinh hợi,
Đều là tượng hoả thổ giáp tạp, không thể coi là quý vì liên châu .
Trụ giờ gặp nhâm quý thuỷ, nên thổ ứ đọng hoả bị diệt, cả đời khó khăn không may.
Lại nói rằng: hoả hoả gặp thổ thì u ám, thổ thổ gặp hoả thì hư (yếu đuối).
Thổ nhẹ hoả nhiều thì táo (khô ráo cũng là nóng nảy), ngày kỷ mão gặp giờ bính dần là vậy.
Hoả ít thổ nhiều thì không sáng, ngày đinh dậu gặp giờ mậu thân là vậy.
Như Hàn Học Sĩ
Mậu tuất đinh tỵ mậu tuất đinh tỵ,
Hoả thổ thành tượng, lại là phượng hoàng can chi cách, cho nên quý.
Sách nói rằng:
Kim thuỷ thường thanh, kim thổ thường dày vì nó tương sanh.
Kim hoả thường cứng, kim mộc thường thẳng vì nó thương khắc.
Hoả thổ thường độc (có tính chất làm hại), hoả mộc thường thông (hiểu nhanh), hoả thuỷ thường muội (mờ mờ không sáng), hoả kim thường liệt (mạnh mẽ, hiển hách).
Mộc hoả văn chương đẹp rực rỡ, mộc thuỷ thanh kỳ (trong sạch đặc biệt), mộc kim ngay thẳng, mộc thổ độc hại.
Thuỷ hoả trí tuệ (thông minh tài trí), thuỷ mộc trí nhân (hiểu biết và nhân từ), thuỷ kim xinh đẹp, thuỷ thổ thô nặng, Mỗi thứ lấy ngũ hành mà suy xét.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀七
凡五行取象,
本象取本象,如甲乙丙丁木火象之类。
化象取化象,如戊癸丁壬亦木火象之类。
金水象不可见土,谓土杂水混,金自不清。岁运遇土亦滞,惟金水不杂,生于秋月最贵。
如明神宗癸亥、辛酉、癸亥、辛酉,干支皆金水不杂,水生金月,金助水清,二水二金成象。
所谓金白水清,别无夹杂,又合两干不杂,所以尊为天子。
如癸酉、癸亥、庚子、辛巳,金生水月,金反泄气,沉于亥子之中,所以不免水厄。
金土象不可见木,谓木克土,则土不能生金,金不成象也。
土积成金,土多金少,其福厚实。金重土轻,福出艰辛。
金火象不可见水,见水则火灭金沉,不能成器。
金重火轻,发迟益寿。金轻火重,发早退速,或主寿亏。
金木象不可见火,活木畏金,见火成秀。死木得金,方成造化。
金重木轻,令人骨痛。木重金轻,主损钱财,或肺疾相攻,惟金木相宜则吉。
水木象秀而清高,不可见卯巳,以水死绝。
木火象秀而丰富,不见可金,以木受克。流年遇之俱灾。
水火象成既济最妙,或未济。亦得不可见土,火多性躁,水多眼疾。
火怕死水怕浴,入酉火死水浴,主艰难而死。岁运同,此象日时忌之。
水土象不可见火,土重水轻,秀而不实,水重土轻,却有科名。
火土象不可见水,火虚土聚不成物,若同水流主汨没。如:
戊子、戊午、己丑、己未,
丁巳、丁亥、丙辰、丙戌,
丙丁与戊己相夹,乃火虚土聚。
李九万以
戊子、己丑、戊午、己未,
丙辰、丁巳、丙戌、丁亥,
皆火土夹杂之象,不可以连珠为贵。
时上逢壬癸水,土滞火灭,平生蹇薄。
又云:火火见土则暗,土土见火则虚。
土轻火重则燥,己卯日见丙寅时是也。
火轻土重不明,丁酉日见戊申时是也。
如韩学士
戊戌、丁巳、戊戌、丁巳,
火土成象,又为凤凰干支格,故贵。
经云:
金水多清,金土多厚,以其相生。
金火多刚,金木多正,以其相克。
火土多毒,火木多聪,火水多昧,火金多烈。
木火文采,木水清奇,木金方直,木土毒害。
水火智慧,水木智仁,水金秀丽,水土重浊。各以五行推之
.
khán mệnh khẩu quyết thất
Thông thường ngũ hành chọn lấy tượng,
Tượng gốc chọn lấy tượng gốc, kiểu như giáp ất bính đinh là tượng mộc hoả.
Hoá tượng thì chọn lấy hoá tượng kiểu như mậu quý đinh nhâm là tượng hoả mộc.
Tượng kim thuỷ không thể gặp thổ, nghĩa là thổ lẫn lộn thì thuỷ không trong sạch, kim vốn là không thanh. Tuế vận gặp thổ cũng trì trệ, chỉ kim thuỷ không lẫn lộn, sanh ở các tháng mùa thu rất cao quý.
Như Minh Thần Tông quý hợi tân dậu quý hợi tân dậu, thiên can địa chi đều là kim thuỷ không lẫn lộn, thuỷ sanh tháng mùa thu nên kim trợ giúp thuỷ trong sạch, hai thuỷ hai kim thành tượng.
Đáng kể là kim bạch thuỷ thanh, đặc biệt không lẫn lộn chen vào, lại hợp hai thiên can không tạp, cho nên là bậc thiên tử cao quý.
Như quý dậu quý hợi canh tý tân tỵ, kim sanh tháng thuỷ, kim trái lại tiết khí chìm đắm trong hợi tý, cho nên không tránh khỏi tai nạn về nước.
Tượng kim thổ không thể gặp mộc, cho là mộc khắc thổ, thì thổ không có khả năng sanh cho kim, kim không thành tượng vậy.
Thổ úng đọng thành kim, thổ nhiều kim ít, phúc cuả nó thật dày. Kim nhiều thổ ít phúc sinh ra từ gian nan khốn khổ.
Tượng kim hoả không thể gặp thuỷ, gặp thuỷ thì hoả bị tiêu diệt kim chìm đắm, không thể thành vật dụng.
Kim nhiều hoả ít phát chậm nhưng có lợi cho tuổi thọ. Kim ít hoả nhiều phát sớm cũng mau thối lui, có thể tuổi thọ bị hao tổn.
Tượng kim mộc không thể thấy hoả, hoạt mộc (ất) sợ kim, gặp hoả trở thành xinh đẹp. Tử mộc (giáp) gặp kim, mới trở thành muôn vật.
Kim nhiều mộc ít khiến người đau nhức xương cốt. Mộc nhiều kim ít chủ hao tổn tiền tài, hoặc bệnh tật ở phổi công kích nhau, chỉ khi kim mộc thuận hợp nhau thì tốt.
Tượng thuỷ mộc đẹp nên thanh cao, không thể gặp mão tỵ bởi vì thuỷ tử tuyệt.
Tượng mộc hoả đẹp nên dồi dào, không thể gặp kim, vì mộc bị khắc. Lưu niên gặp phải đều là tai hoạ.
Tượng thuỷ hoả thành ký tế rất mầu nhiệm, hoặc vị tế cũng không thể gặp thổ, hoả nhiều bản chất nóng nảy, xảo trá, thuỷ nhiều thì tạt bệnh về mắt.
Hoả sợ tử, thuỷ sợ mộc dục, vào cung dậu hoả tử thuỷ mộc dục, chủ gian nan mà chết. Tuế vận giống nhau, ngày giờ kỵ tượng này.
Tượng thuỷ thổ không thể gặp hoả, thổ nhiều thuỷ ít, đẹp nhưng không thật, thuỷ nhiều thổ nhẹ tức là có tên thi đậu.
Tượng hoả thổ không thể gặp thuỷ, hoả yếu đuối thổ tụ họp thì không thành vật, nếu cùng thuỷ trôi chảy chủ chìm dưới nước. Như:
Mậu tý mậu ngọ kỷ sửu kỷ mùi,
Đinh tỵ đinh hợi bính thìn bính tuất,
Bính đinh với mậu kỷ kề bên nhau, chính là hoả yếu đuồi mà thổ tụ họp.
Lý Cửu Vạn lấy
Mậu tý kỷ sửu mậu ngọ kỷ mùi,
Bính thìn đinh tỵ bính tuất đinh hợi,
Đều là tượng hoả thổ giáp tạp, không thể coi là quý vì liên châu .
Trụ giờ gặp nhâm quý thuỷ, nên thổ ứ đọng hoả bị diệt, cả đời khó khăn không may.
Lại nói rằng: hoả hoả gặp thổ thì u ám, thổ thổ gặp hoả thì hư (yếu đuối).
Thổ nhẹ hoả nhiều thì táo (khô ráo cũng là nóng nảy), ngày kỷ mão gặp giờ bính dần là vậy.
Hoả ít thổ nhiều thì không sáng, ngày đinh dậu gặp giờ mậu thân là vậy.
Như Hàn Học Sĩ
Mậu tuất đinh tỵ mậu tuất đinh tỵ,
Hoả thổ thành tượng, lại là phượng hoàng can chi cách, cho nên quý.
Sách nói rằng:
Kim thuỷ thường thanh, kim thổ thường dày vì nó tương sanh.
Kim hoả thường cứng, kim mộc thường thẳng vì nó thương khắc.
Hoả thổ thường độc (có tính chất làm hại), hoả mộc thường thông (hiểu nhanh), hoả thuỷ thường muội (mờ mờ không sáng), hoả kim thường liệt (mạnh mẽ, hiển hách).
Mộc hoả văn chương đẹp rực rỡ, mộc thuỷ thanh kỳ (trong sạch đặc biệt), mộc kim ngay thẳng, mộc thổ độc hại.
Thuỷ hoả trí tuệ (thông minh tài trí), thuỷ mộc trí nhân (hiểu biết và nhân từ), thuỷ kim xinh đẹp, thuỷ thổ thô nặng, Mỗi thứ lấy ngũ hành mà suy xét.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀七
凡五行取象,
本象取本象,如甲乙丙丁木火象之类。
化象取化象,如戊癸丁壬亦木火象之类。
金水象不可见土,谓土杂水混,金自不清。岁运遇土亦滞,惟金水不杂,生于秋月最贵。
如明神宗癸亥、辛酉、癸亥、辛酉,干支皆金水不杂,水生金月,金助水清,二水二金成象。
所谓金白水清,别无夹杂,又合两干不杂,所以尊为天子。
如癸酉、癸亥、庚子、辛巳,金生水月,金反泄气,沉于亥子之中,所以不免水厄。
金土象不可见木,谓木克土,则土不能生金,金不成象也。
土积成金,土多金少,其福厚实。金重土轻,福出艰辛。
金火象不可见水,见水则火灭金沉,不能成器。
金重火轻,发迟益寿。金轻火重,发早退速,或主寿亏。
金木象不可见火,活木畏金,见火成秀。死木得金,方成造化。
金重木轻,令人骨痛。木重金轻,主损钱财,或肺疾相攻,惟金木相宜则吉。
水木象秀而清高,不可见卯巳,以水死绝。
木火象秀而丰富,不见可金,以木受克。流年遇之俱灾。
水火象成既济最妙,或未济。亦得不可见土,火多性躁,水多眼疾。
火怕死水怕浴,入酉火死水浴,主艰难而死。岁运同,此象日时忌之。
水土象不可见火,土重水轻,秀而不实,水重土轻,却有科名。
火土象不可见水,火虚土聚不成物,若同水流主汨没。如:
戊子、戊午、己丑、己未,
丁巳、丁亥、丙辰、丙戌,
丙丁与戊己相夹,乃火虚土聚。
李九万以
戊子、己丑、戊午、己未,
丙辰、丁巳、丙戌、丁亥,
皆火土夹杂之象,不可以连珠为贵。
时上逢壬癸水,土滞火灭,平生蹇薄。
又云:火火见土则暗,土土见火则虚。
土轻火重则燥,己卯日见丙寅时是也。
火轻土重不明,丁酉日见戊申时是也。
如韩学士
戊戌、丁巳、戊戌、丁巳,
火土成象,又为凤凰干支格,故贵。
经云:
金水多清,金土多厚,以其相生。
金火多刚,金木多正,以其相克。
火土多毒,火木多聪,火水多昧,火金多烈。
木火文采,木水清奇,木金方直,木土毒害。
水火智慧,水木智仁,水金秀丽,水土重浊。各以五行推之
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#340
Gửi vào 22/09/2024 - 09:58
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết bát
Thường mệnh sợ đồng loại phá lẫn nhau, như:
Kỷ mùi gặp giáp thìn; giáp thìn gặp kỷ sửu; kỷ sửu gặp giáp tuất; giáp tuất gặp kỷ mùi.
Thường ở đất tứ xung, đồng loại nạp âm lần lượt hai vị trí nghịch số.
Dần thân tỵ hợi, tý ngọ mão dậu cũng chọn lấy điều này, chủ cả đời không đầy đủ, thường không thành khí dụng.
Đạo Kinh nói rằng: tỉnh lan phá lẫn nhau, không có thuốc chữa trị , kế là gặp không vong, tuế vận cũng kỵ.
Thường mệnh chủ vốn gặp tuế vận không thể gặp tử địa, như bính dần hoả sợ ất mão thuỷ (水 thuỷ thay vì 木 mộc), tân tỵ kim sợ đinh dậu hoả, giáp thân thuỷ sợ kỷ mão thổ.
Mậu thân thổ sợ nhâm ngọ mộc, kỷ hợi mộc sợ giáp tý kim. Đồng nghĩa với người sống sợ chết. Chủ vốn sanh tử cùng một đường thì không kỵ.
Thường mệnh rất sợ quỷ khắc mà khoả quỷ (quỷ cùng một ổ) rất độc, như bính tý thuỷ gặp canh tý thổ, đinh sửu thuỷ gặp tân sửu thổ các loại.
Tụ về cùng vị trí trông hang ổ mà khắc nhau cho nên rất độc. Có quỷ trong mộ, như nhâm thìn thuỷ gặp bính thìn thổ, bính thìn thổ gặp mậu thìn mộc các loại.
Có cách bích quỷ (quỷ cách vách) như canh tý thổ gặp quý sửu mộc. Có không vong quỷ như giáp tuất gặp giáp thân, ất dậu các loại. Đều chủ là tai hoạ.
Trong đó phân ra mộ quỷ nhẹ hơn với khoả quỷ, bích quỷ nhẹ hơn mộ quỷ, không vong quỷ nhẹ hơn bích quỷ.
Nếu như người mệnh mộc gặp tháng hoả ngày giờ kim, có hoả khắc kim, kim không thể thượng tổn mộc là ngự quỷ (ngăn chống quỷ). Quỷ không là tai hoạ.
Như người mệnh thuỷ tứ trụ có hoả, do thổ khắc thuỷ, hoả lại sanh thổ là trợ quỷ. Quỷ đó càng hung.
Thiên can địa chi thông xuất, nạp âm rất quan trọng, ngự quỷ thì gầy dựng địa vị ở gian nan. Trợ quỷ thì người thân ruột thịt nhiều, cả đời đấu đá.
Nếu trong quỷ có quỷ gọi là quỷ khiếu (quỷ hú), như người thổ sanh tháng mộc ngày giờ kim, vì mộc khắc thổ, kim khắc mộc căn cơ yếu đuối sẽ hung.
Đương sự vốn cường vượng thì không kỵ, như có ông Vương nọ kỷ mùi ất hợi bính dần tân mão gặp tam hợp sanh, thêm gặp dần mão là kỷ vào đất quan, bính với tân hợp ĐẠI QUÝ. Nhưng mà kỷ là âm thổ gặp ất mộc thành quỷ, lại gặp tân thành quỷ của ất, biến dần mão quan trở thành quỷ của kỷ thổ. Tại hợi mão mùi hợp thông suốt là quỷ khắc, phạm quỷ khiếu vậy. Cho nên chủ chết độc ác. Sách nói rằng: ngũ hành rất kỵ dưới làm tổn hại trên, cả đời không đầy đủ sự việc để ràng buộc.
Lại nói: quỷ khiếu phân rõ cách cục ác, có thêm hình sát tai hoạ không hề sai, dù cho trước đây từng phú quý, định rằng ngày sau chán ghét tuổi thanh xuân.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀八
凡命怕同类相破如:
己未见甲辰,甲辰见己丑,己丑见甲戌,甲戌见己未。
凡在四冲之地,纳音同类,逐两位逆数之。
寅申巳亥,子午卯酉亦以此取,主平生不足,多不成器。
道经云:井栏互破,无药可医,遇空亡庶几,岁运亦忌之。
凡命主本逢岁运不可遇死地,如丙寅火畏乙卯木,辛已金畏丁酉火,甲申水畏己卯土,
戊申土畏壬午木,己亥木畏甲子金。与人生怕死同义。主本生死同途则不忌。
凡命最怕鬼克而窠鬼最毒,如丙子水见庚子土,丁丑水见辛丑土之类。
窠中就位相克所以最毒,有墓中鬼,如壬辰水见丙辰土,丙辰土见戊辰木之类。
有隔壁鬼,如庚子土见癸丑木之类。有空亡鬼,如甲戌见甲申乙酉之类。皆主为害。
内墓鬼轻于窠鬼,璧鬼轻于墓鬼,空鬼轻于璧鬼。
若木命人得火月金日时之类,有火克金,金不得伤木是御鬼也。
鬼不为害,如水命人四柱有火,上土克水,火又生土是助鬼也。其鬼尤凶。
干支通出,纳音最紧,御鬼则立身于艰难。助鬼则骨肉多,生平破斗。
若鬼中有鬼谓之鬼啸,如土人生木月金日时之类,以木克土金克木根基劣弱则凶。
主本强健不忌,如王某己未、乙亥、丙寅、辛卯逢三合生,更遇寅卯,为己入官乡,丙与辛合大贵。奈己阴土逢乙木作鬼,又遇辛作乙木之鬼,变寅卯之官作己土鬼。在亥卯未三合位,通是鬼克,犯鬼啸也。故主恶死。经曰:五行切忌下贼上,平生不足事相萦。
又曰:鬼啸分明格局恶,更加刑煞祸不差,纵使以前逢富贵,定知日后厌年华。
.
khán mệnh khẩu quyết bát
Thường mệnh sợ đồng loại phá lẫn nhau, như:
Kỷ mùi gặp giáp thìn; giáp thìn gặp kỷ sửu; kỷ sửu gặp giáp tuất; giáp tuất gặp kỷ mùi.
Thường ở đất tứ xung, đồng loại nạp âm lần lượt hai vị trí nghịch số.
Dần thân tỵ hợi, tý ngọ mão dậu cũng chọn lấy điều này, chủ cả đời không đầy đủ, thường không thành khí dụng.
Đạo Kinh nói rằng: tỉnh lan phá lẫn nhau, không có thuốc chữa trị , kế là gặp không vong, tuế vận cũng kỵ.
Thường mệnh chủ vốn gặp tuế vận không thể gặp tử địa, như bính dần hoả sợ ất mão thuỷ (水 thuỷ thay vì 木 mộc), tân tỵ kim sợ đinh dậu hoả, giáp thân thuỷ sợ kỷ mão thổ.
Mậu thân thổ sợ nhâm ngọ mộc, kỷ hợi mộc sợ giáp tý kim. Đồng nghĩa với người sống sợ chết. Chủ vốn sanh tử cùng một đường thì không kỵ.
Thường mệnh rất sợ quỷ khắc mà khoả quỷ (quỷ cùng một ổ) rất độc, như bính tý thuỷ gặp canh tý thổ, đinh sửu thuỷ gặp tân sửu thổ các loại.
Tụ về cùng vị trí trông hang ổ mà khắc nhau cho nên rất độc. Có quỷ trong mộ, như nhâm thìn thuỷ gặp bính thìn thổ, bính thìn thổ gặp mậu thìn mộc các loại.
Có cách bích quỷ (quỷ cách vách) như canh tý thổ gặp quý sửu mộc. Có không vong quỷ như giáp tuất gặp giáp thân, ất dậu các loại. Đều chủ là tai hoạ.
Trong đó phân ra mộ quỷ nhẹ hơn với khoả quỷ, bích quỷ nhẹ hơn mộ quỷ, không vong quỷ nhẹ hơn bích quỷ.
Nếu như người mệnh mộc gặp tháng hoả ngày giờ kim, có hoả khắc kim, kim không thể thượng tổn mộc là ngự quỷ (ngăn chống quỷ). Quỷ không là tai hoạ.
Như người mệnh thuỷ tứ trụ có hoả, do thổ khắc thuỷ, hoả lại sanh thổ là trợ quỷ. Quỷ đó càng hung.
Thiên can địa chi thông xuất, nạp âm rất quan trọng, ngự quỷ thì gầy dựng địa vị ở gian nan. Trợ quỷ thì người thân ruột thịt nhiều, cả đời đấu đá.
Nếu trong quỷ có quỷ gọi là quỷ khiếu (quỷ hú), như người thổ sanh tháng mộc ngày giờ kim, vì mộc khắc thổ, kim khắc mộc căn cơ yếu đuối sẽ hung.
Đương sự vốn cường vượng thì không kỵ, như có ông Vương nọ kỷ mùi ất hợi bính dần tân mão gặp tam hợp sanh, thêm gặp dần mão là kỷ vào đất quan, bính với tân hợp ĐẠI QUÝ. Nhưng mà kỷ là âm thổ gặp ất mộc thành quỷ, lại gặp tân thành quỷ của ất, biến dần mão quan trở thành quỷ của kỷ thổ. Tại hợi mão mùi hợp thông suốt là quỷ khắc, phạm quỷ khiếu vậy. Cho nên chủ chết độc ác. Sách nói rằng: ngũ hành rất kỵ dưới làm tổn hại trên, cả đời không đầy đủ sự việc để ràng buộc.
Lại nói: quỷ khiếu phân rõ cách cục ác, có thêm hình sát tai hoạ không hề sai, dù cho trước đây từng phú quý, định rằng ngày sau chán ghét tuổi thanh xuân.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀八
凡命怕同类相破如:
己未见甲辰,甲辰见己丑,己丑见甲戌,甲戌见己未。
凡在四冲之地,纳音同类,逐两位逆数之。
寅申巳亥,子午卯酉亦以此取,主平生不足,多不成器。
道经云:井栏互破,无药可医,遇空亡庶几,岁运亦忌之。
凡命主本逢岁运不可遇死地,如丙寅火畏乙卯木,辛已金畏丁酉火,甲申水畏己卯土,
戊申土畏壬午木,己亥木畏甲子金。与人生怕死同义。主本生死同途则不忌。
凡命最怕鬼克而窠鬼最毒,如丙子水见庚子土,丁丑水见辛丑土之类。
窠中就位相克所以最毒,有墓中鬼,如壬辰水见丙辰土,丙辰土见戊辰木之类。
有隔壁鬼,如庚子土见癸丑木之类。有空亡鬼,如甲戌见甲申乙酉之类。皆主为害。
内墓鬼轻于窠鬼,璧鬼轻于墓鬼,空鬼轻于璧鬼。
若木命人得火月金日时之类,有火克金,金不得伤木是御鬼也。
鬼不为害,如水命人四柱有火,上土克水,火又生土是助鬼也。其鬼尤凶。
干支通出,纳音最紧,御鬼则立身于艰难。助鬼则骨肉多,生平破斗。
若鬼中有鬼谓之鬼啸,如土人生木月金日时之类,以木克土金克木根基劣弱则凶。
主本强健不忌,如王某己未、乙亥、丙寅、辛卯逢三合生,更遇寅卯,为己入官乡,丙与辛合大贵。奈己阴土逢乙木作鬼,又遇辛作乙木之鬼,变寅卯之官作己土鬼。在亥卯未三合位,通是鬼克,犯鬼啸也。故主恶死。经曰:五行切忌下贼上,平生不足事相萦。
又曰:鬼啸分明格局恶,更加刑煞祸不差,纵使以前逢富贵,定知日后厌年华。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#341
Gửi vào 23/09/2024 - 08:55
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết cửu
Thường xem mệnh chọn lấy thai sanh vượng khố làm bốn điều quý, tử tuyệt bậnh bại là bốn điều kỵ, bốn vị trí còn lại bình thường.
Lấy thiên can thái tuế làm chủ, phối với ngũ hành, chọn bốn vị trí quý, bốn vị trí bình thường, bốn vị trí kỵ để mà phân biệt quý tiện.
Gặp quý nhiều thì quý, gặp tiện nhiều thì tiện. Trong bốn vị trí quý lại phân bốn vượng khố là trên hết, kế là thai.
Nếu mệnh người thai tháng ngày giờ gặp ba điều quý, thiên can đều có trợ giúp, có thể là chánh lộc, chánh quan, chánh ấn là mệnh tam công (ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保.).
Đới chánh thiên ất kiểu như người sanh sửu mùi mà tháng ngày giờ được giáp mậu canh.
Đới lộc nhà mình như người sanh dần mà tháng ngày giờ có giáp, gọi là phúc hội tụ.
Hoặc thiên ất và quý hợp hai tầng cũng là mệnh tam công (ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保.).
Ba vị trí quý kèm theo trên dưới hợp hoặc một quan một ấn, với một chánh thiên ất hoặc một vị trí lộc nhà mình, ba hai vị trí quý nhân hợp là mệnh tể phụ (chức quan đứng đầu để giúp vua như tể tướng).
Nếu ngày giờ gặp hai quý và mang theo phẩm vật cũng đúng như vậy.
Nếu một vị trí gặp các thần sát tai sát, địa sát, vong kiếp, dương nhận, đồng thời nắm cả binh quyền, chưởng quan kỵ binh lo về lễ nghi. Nếu tháng thai và tháng sanh cùng với ngày giờ gặp thai khố một quý, tức đới chánh thiên ất trên dưới hợp hoặc thiên ất với quý hợp lộc nhà mình,
Chánh quan, chánh ấn, lộc nhà mìnhco1 khí lực, hoặc quý nhân cũng mang can lộc trước đó cũng là mệnh của tể phụ (chức quan đứng đầu để giúp vua như tể tướng), cửu khanh (Cửu khanh: chín chức quan to nhà Chu thời xưa: Thiếu Sư 少師, Thiếu Phó 少傅, Thiếu Bảo 少保, Trủng Tể 冢宰, Tư Đồ 司徒, Tông Bá 宗伯, Tư Mã 司馬, Tư Khấu 司寇, Tư Không 司空.).
Nếu kỵ thần ở tại tháng, mà ngày gặp quý, hoặc kỵ thần ở tại ngày mà giờ gặp quý thì không hại gì cả, là thanh hoa thị tòng chi chức (chức vụ theo hầu)
Nếu ngày tháng đều gặp lại quý, mà giờ gặp kỵ thần đó thường là chọn người điều giải.
Tứ kỵ chủ ngheo hèn, cũng có nặng nhẹ, tử bại tuyệt thì nặng, bệnh thì nhẹ.
Ngũ hành mỗi tam vị như dần ngọ tuất hoả người bính đinh gặp được là quý, tam vị với tứ quý giống nhau.
Chỉ thiếu thai quý nhất vị nó chủ phúc của quý, cũng với tứ quý giống nhau.
Dương lộc quý ở lâm quan, âm lộc quý ở đế vượng. Nếu dương lộc gặp vượng, âm lộc gặp quan tuy là vị trí của mình nhưng phúc của nó giảm phân nửa.
Nếu vượng mà không có lộc, như bính dần gặp ngày giờ mậu ngọ, thêm khắc bổn mệnh lại đới hình sát chủ dâm đảng, ng* d*t, thấp hèn.
Còn gặp một hai vị quý, tức là hung sát hình hai, phá gặp rất nặng cũng chủ không có lộc.
Thẩm Chi nói: ngũ hành lấy sanh vượng làm vua, lâm quan làm tướng. Nếu nạp âm là mộc, tháng ngày giờ gặp hai vị trí dần mão. kim gặp thân dậu, thuỷ gặp hợi tý, hoả gặp tỵ ngọ, thổ gặp thìn tuất sửu mùi đều là luận quý.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀九
凡看命取胎生旺库为四贵,死绝病败为四忌,余为四平。
以太岁干为主,配于五行,取四贵四平四忌之位,而分贵贱。
遇贵多则贵,遇贱多则贱。四贵之中,又分四旺库为上,胎为次。
若人命胎月日时遇三贵,干皆有辅,或正禄正官正印三公命也。
带正天乙如丑未生人月日时,得甲戊庚之类。
带本家禄如寅生人月日时,带甲之类,谓之福会。
或天乙贵合两重者,亦三公命也。
三贵带上下合,或一官一印,及一正天乙或一位本家禄,三两位贵人合者,宰辅命也。
若日时上遇两贵,而带上件者亦然。
若一位上遇灾煞、地煞、亡劫、羊刃等神,兼主兵权,司马节钺之贵。若胎月生月与日时上遇胎库一贵,却带正天乙上下合或天乙贵合本家禄,
正官正印本家禄有气,或贵人上亦带前件禄干者,亦宰辅九卿命也。
若月在忌神,而日遇贵,或日在忌神,而时遇贵不害,为清华侍从之职。
若日月俱再贵,而时遇忌神,此常调选人也。
四忌主贫贱,亦有轻重,死败绝为重,病为轻。
五行各三位,如寅午戌火丙丁人遇之为贵,与四贵三位同。
惟阙胎贵一位其主贵之福,亦与四贵同。
阳禄贵在临官,阴禄贵在帝旺。若阳禄遇旺,阴禄遇官,虽为本位,其福灭半。
若旺而无禄,如丙寅得戊午日时,更克本命又带刑煞,主淫荡愚贱。
有遇一两位贵,却为凶煞刑害,破得深重,亦主无禄。
沈芝曰:五行以生旺为君,临官为相。若纳音是木,月日时遇寅卯两位。
金遇申酉,水遇亥子,火遇巳午,土遇辰戌丑未,皆以贵论。
.
khán mệnh khẩu quyết cửu
Thường xem mệnh chọn lấy thai sanh vượng khố làm bốn điều quý, tử tuyệt bậnh bại là bốn điều kỵ, bốn vị trí còn lại bình thường.
Lấy thiên can thái tuế làm chủ, phối với ngũ hành, chọn bốn vị trí quý, bốn vị trí bình thường, bốn vị trí kỵ để mà phân biệt quý tiện.
Gặp quý nhiều thì quý, gặp tiện nhiều thì tiện. Trong bốn vị trí quý lại phân bốn vượng khố là trên hết, kế là thai.
Nếu mệnh người thai tháng ngày giờ gặp ba điều quý, thiên can đều có trợ giúp, có thể là chánh lộc, chánh quan, chánh ấn là mệnh tam công (ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保.).
Đới chánh thiên ất kiểu như người sanh sửu mùi mà tháng ngày giờ được giáp mậu canh.
Đới lộc nhà mình như người sanh dần mà tháng ngày giờ có giáp, gọi là phúc hội tụ.
Hoặc thiên ất và quý hợp hai tầng cũng là mệnh tam công (ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保.).
Ba vị trí quý kèm theo trên dưới hợp hoặc một quan một ấn, với một chánh thiên ất hoặc một vị trí lộc nhà mình, ba hai vị trí quý nhân hợp là mệnh tể phụ (chức quan đứng đầu để giúp vua như tể tướng).
Nếu ngày giờ gặp hai quý và mang theo phẩm vật cũng đúng như vậy.
Nếu một vị trí gặp các thần sát tai sát, địa sát, vong kiếp, dương nhận, đồng thời nắm cả binh quyền, chưởng quan kỵ binh lo về lễ nghi. Nếu tháng thai và tháng sanh cùng với ngày giờ gặp thai khố một quý, tức đới chánh thiên ất trên dưới hợp hoặc thiên ất với quý hợp lộc nhà mình,
Chánh quan, chánh ấn, lộc nhà mìnhco1 khí lực, hoặc quý nhân cũng mang can lộc trước đó cũng là mệnh của tể phụ (chức quan đứng đầu để giúp vua như tể tướng), cửu khanh (Cửu khanh: chín chức quan to nhà Chu thời xưa: Thiếu Sư 少師, Thiếu Phó 少傅, Thiếu Bảo 少保, Trủng Tể 冢宰, Tư Đồ 司徒, Tông Bá 宗伯, Tư Mã 司馬, Tư Khấu 司寇, Tư Không 司空.).
Nếu kỵ thần ở tại tháng, mà ngày gặp quý, hoặc kỵ thần ở tại ngày mà giờ gặp quý thì không hại gì cả, là thanh hoa thị tòng chi chức (chức vụ theo hầu)
Nếu ngày tháng đều gặp lại quý, mà giờ gặp kỵ thần đó thường là chọn người điều giải.
Tứ kỵ chủ ngheo hèn, cũng có nặng nhẹ, tử bại tuyệt thì nặng, bệnh thì nhẹ.
Ngũ hành mỗi tam vị như dần ngọ tuất hoả người bính đinh gặp được là quý, tam vị với tứ quý giống nhau.
Chỉ thiếu thai quý nhất vị nó chủ phúc của quý, cũng với tứ quý giống nhau.
Dương lộc quý ở lâm quan, âm lộc quý ở đế vượng. Nếu dương lộc gặp vượng, âm lộc gặp quan tuy là vị trí của mình nhưng phúc của nó giảm phân nửa.
Nếu vượng mà không có lộc, như bính dần gặp ngày giờ mậu ngọ, thêm khắc bổn mệnh lại đới hình sát chủ dâm đảng, ng* d*t, thấp hèn.
Còn gặp một hai vị quý, tức là hung sát hình hai, phá gặp rất nặng cũng chủ không có lộc.
Thẩm Chi nói: ngũ hành lấy sanh vượng làm vua, lâm quan làm tướng. Nếu nạp âm là mộc, tháng ngày giờ gặp hai vị trí dần mão. kim gặp thân dậu, thuỷ gặp hợi tý, hoả gặp tỵ ngọ, thổ gặp thìn tuất sửu mùi đều là luận quý.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀九
凡看命取胎生旺库为四贵,死绝病败为四忌,余为四平。
以太岁干为主,配于五行,取四贵四平四忌之位,而分贵贱。
遇贵多则贵,遇贱多则贱。四贵之中,又分四旺库为上,胎为次。
若人命胎月日时遇三贵,干皆有辅,或正禄正官正印三公命也。
带正天乙如丑未生人月日时,得甲戊庚之类。
带本家禄如寅生人月日时,带甲之类,谓之福会。
或天乙贵合两重者,亦三公命也。
三贵带上下合,或一官一印,及一正天乙或一位本家禄,三两位贵人合者,宰辅命也。
若日时上遇两贵,而带上件者亦然。
若一位上遇灾煞、地煞、亡劫、羊刃等神,兼主兵权,司马节钺之贵。若胎月生月与日时上遇胎库一贵,却带正天乙上下合或天乙贵合本家禄,
正官正印本家禄有气,或贵人上亦带前件禄干者,亦宰辅九卿命也。
若月在忌神,而日遇贵,或日在忌神,而时遇贵不害,为清华侍从之职。
若日月俱再贵,而时遇忌神,此常调选人也。
四忌主贫贱,亦有轻重,死败绝为重,病为轻。
五行各三位,如寅午戌火丙丁人遇之为贵,与四贵三位同。
惟阙胎贵一位其主贵之福,亦与四贵同。
阳禄贵在临官,阴禄贵在帝旺。若阳禄遇旺,阴禄遇官,虽为本位,其福灭半。
若旺而无禄,如丙寅得戊午日时,更克本命又带刑煞,主淫荡愚贱。
有遇一两位贵,却为凶煞刑害,破得深重,亦主无禄。
沈芝曰:五行以生旺为君,临官为相。若纳音是木,月日时遇寅卯两位。
金遇申酉,水遇亥子,火遇巳午,土遇辰戌丑未,皆以贵论。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#342
Gửi vào 24/09/2024 - 09:33
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết thập
Thông thường xem mệnh phải phân biệt ngũ hành sanh vượng tử tuyệt, như: giáp thân, bính dần, kỷ hợi, tân tỵ, mậu thân đều là ngũ hành tự trường sanh.
Mặc kệ bốn mùa, vượt qua quy luật tự sanh. Mệnh người có bẫm tính nhanh nhẹn sáng suốt, người quý gặp được, sự tiến bộ nó sẽ diễn ra từ từ. Phú quý gặp được, cũng sắp hướng tới vẻ vang, nên nó được gọi là sanh vậy.
Bính tý, mậu ngọ, tân mão, quý dậu canh tý đều là ngũ hành tự vượng. Không đợi bốn mùa, nó có khả năng tự đạt tới vượng, phúc lành tạo ra mạnh mẽ, không có gì so sánh được.
Quý mùi, nhâm thìn, bính thìn, giáp tuất, ất sửu đều ngũ hành tự mộ. Chính là lúc quay trở về và lấy lại sự sống.
Thường ở chỗ khố mong muốn vật được tích trữ thì khố của nó dồi dào. Như nhâm thìn thuỷ, muốn các dòng nước cùng trở về, rồi sau là vượng. Có thêm hành kim qua lại tương sanh, nên được nhiều quyền lực.
Nếu mộc chế hoả, hoả chế kim, và thiên trung chiếu sáng (ý là không vong) là bần ấn bất khởi (ấn nghèo không khởi dậy) chủ nghèo hèn.
Ất mão, đinh dậu, nhâm ngọ, giáp tý, kỷ mão đó là ngũ hành tự tử.
Sanh thì vất vả, tử thì ngừng nghĩ, lý của nó là tự nhiên. Không có đất tử vạn vật không tự quay trở về. Cái gọi là tự tử, đã có sự trở lại thực sự của nó
Thường mệnh gặp thông minh sáng suốt như thế, nhiều trí tuệ mà phúc ít, lấy tĩnh mặc làm thể mà không có lợi cho sự thành công. Lấy đời sống thanh đạm làm công việc mà không màng đến sự vươn lên.
Chỉ có thể học đạo và thăm viếng bậc siêu phàm, mới vượt qua được cửa sống chết.
Quý tỵ, ất hợi, canh thân, nhâm dần, đinh tỵ đó là ngũ hành tự tuyệt.
Đạo trời không thể tuyệt mãi, thiên can địa chi phối hợp đã tuyệt, sẽ sanh lại. Người gặp điều này thì chuyên vui buồn không chắc chắn, như:
Quý tỵ tuyệt thuỷ được quý dậu vượng kim trợ giúp, là tuyệt thuỷ phùng sanh, càng thêm là việc tốt lành.
Thường mệnh ở tử tuyệt sanh vượng khố các loại, không thể dựa theo đó mà nói, cần phải xem lệnh tháng để phân biệt trong đục.
Trong là nghĩa là có chế phục như thuỷ bệnh gặp thổ sẽ đục, nhưng không có thổ làm đê thì không thể ngăn chặn được. Đã ngăn chặn sẽ từ từ trong lại vậy.
Đục nghìa là không có chế phục, như thuỷ nhiều không có thổ sẽ chảy tràn lan không thu lại được, mà thuỷ cực sanh mộc cực sẽ biến biến sẽ thông.
Bởi ngũ hành coi trọng sự biến đổi mà không coi trọng sự cố định, quý ở ẩn tàng mà không quý ở sự hiển lộ. Tử tuyệt có cứu trợ thì gọi là hoàn hồn (sống lại), thường là luận quý.
Sanh vượng có khắc sẽ là kiêu ngạo, trái ngược lại chủ là phúc lành nông cạn.
Nếu bên kia với mình sanh lẫn nhau thuận thì lợi ích cho mình, nghịch thì tranh doạt khí. Bên kia với mình khắc nhau, thuận thì quyền lực mạnh mẽ, nghịch thì có thương tổn.
Sách nói rằng: vì nhỏ khinh thường lớn tự gây hoạ, vì yếu mà thắng mạnh tự vời lấy tai hoạ.
Một thuỷ khắc ba hoả là lấy yếu thắng mạnh, lấy âm thắng dương, tuy làm hại mà không được tuyên dương. Lấy dương thắng âm, nguy hại không nặng.
Hai dương ngang ngạnh nhau thì tai hoạ xấu lập tức ập đến. Hai âm chống đối nhau thì nơi đo không yên ổn.
Như ất tỵ hoả khắc nhâm thân kim là lấy âm thắng dương, âm dương hữu tình cho nên không có tai hoạ lớn.
Nếu đinh mão gặp quý dậu là hai âm chống đối nhau, mậu ngọ gặp giáp tý là hai dương chống lại nhau, dương thì cương âm thì nhu, nhất định phải thắng nhưng mà sau đó sẽ gây hoạ.
Thái ất nói rằng: trời đất biến hoá, cơ chế âm dương không thường lấy âm gọi dương, hay dương gọi âm. Khi đó trời đất sẽ hợp chánh khí của ngũ hành điều hoà.
Nếu chính dương thuận theo dương, âm thuận theo âm thì âm dương sinh ra lệch lạc, động tĩnh mất trật tự, có thể tạo ra hai dường phúc hoạ.
Đại khái âm dương sinh ra lệch lạc, tạo hoá không thành ngũ hành. Như hỏ nhiều kim ít, tụ tán không thành hình. Còn hoả ít kim nhiều, đã không có khả năng nung chảy, ngược lại có nguy cơ bị nhấn chìm. Còn lại suy xét theo lệ đó.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀十
凡看命分五行生旺死绝,如:
甲申,丙寅,己亥,辛巳,戊申皆五行自长生。
不论四时,超然得自生之理。人命禀之敏快高明,贵者得之,其进以渐。
富贵得之,亦将向荣,而得其所以生也。
丙子,戊午,辛卯,癸酉,庚子皆五行自旺。
不待四时,而能自致其旺,福力奋发,无与比拟。
癸未,壬辰,丙辰,甲戌,乙丑皆五行自墓。乃归根复命之时。
凡库之所在,必欲物聚之,则其库充。
如壬辰水,欲得众水交归,然后为旺。更有金往来相生,当得重权。
傥木制火,火制金,更天中临之,是为贫印不起,主贫贱。
乙卯,丁酉,壬午,甲子,己卯此五行自死者也。
生则劳,死则息,其理自然。不有死之地,其物无自而归。
所谓自死者,得其真归之理焉。
凡命遇此颖特高明,多慧少福,以静默为体,而不利有为。以淡薄为事,而不利兴起。
惟可学道访仙,超生死之门也。
癸巳,乙亥,庚申,壬寅,丁巳此五行自绝者也。
天之道无可绝焉,干支适会已绝,则更生凡。遇此者忧喜未定,如:
癸巳绝水得癸酉旺金扶之,是谓绝水逢生,尤为吉庆。
凡命上带死绝生旺库墓等,不可就以所带言之,须看月令以辨清浊。
清者有制伏之谓,如水病见土则浊,却非土堤防不能止息。既止息,则清之有渐也。
浊者无制伏之谓,如水多无土则泛滥无归,而水极生木极则变,变则通也。
盖五行尚其变,而不尚其常,贵其隐而不贵其显。死绝有救,则谓还魂,多以贵论。
生旺有克,则为傲气,反主福浅。
若夫彼我之相生,顺则益本,逆则夺气。彼此之相克,顺则势强,逆则有伤。
经云:以小凌大,自贻其害,以弱胜强,自招其殃。
一水克三火,是以弱胜强,以阴胜阳,虽殃不彰。以阳胜阴,危害不深。
两阳相梗,凶祸旋至。两阴相敌,不安其处。
如乙巳火克壬申金,是以阴胜阳,阴阳有情,故无大害。
若丁卯见癸酉是二阴相敌,戊午见甲子是两阳相拒,阳刚阴柔,必胜而后已故祸。
太乙云:天地变化,阴阳之机,未尝不以阴召阳,阳召阴。则天地合正,五行气融。
若乃阳从乎阳,阴从乎阴,则阴阳偏出,动静失序,所以祸福两途也。
大抵阴阳偏出,造化不成五行。如火多金少,聚散不得成形。
火少金多,既不能销铄,反有淹灭之患。余以例推。
.
khán mệnh khẩu quyết thập
Thông thường xem mệnh phải phân biệt ngũ hành sanh vượng tử tuyệt, như: giáp thân, bính dần, kỷ hợi, tân tỵ, mậu thân đều là ngũ hành tự trường sanh.
Mặc kệ bốn mùa, vượt qua quy luật tự sanh. Mệnh người có bẫm tính nhanh nhẹn sáng suốt, người quý gặp được, sự tiến bộ nó sẽ diễn ra từ từ. Phú quý gặp được, cũng sắp hướng tới vẻ vang, nên nó được gọi là sanh vậy.
Bính tý, mậu ngọ, tân mão, quý dậu canh tý đều là ngũ hành tự vượng. Không đợi bốn mùa, nó có khả năng tự đạt tới vượng, phúc lành tạo ra mạnh mẽ, không có gì so sánh được.
Quý mùi, nhâm thìn, bính thìn, giáp tuất, ất sửu đều ngũ hành tự mộ. Chính là lúc quay trở về và lấy lại sự sống.
Thường ở chỗ khố mong muốn vật được tích trữ thì khố của nó dồi dào. Như nhâm thìn thuỷ, muốn các dòng nước cùng trở về, rồi sau là vượng. Có thêm hành kim qua lại tương sanh, nên được nhiều quyền lực.
Nếu mộc chế hoả, hoả chế kim, và thiên trung chiếu sáng (ý là không vong) là bần ấn bất khởi (ấn nghèo không khởi dậy) chủ nghèo hèn.
Ất mão, đinh dậu, nhâm ngọ, giáp tý, kỷ mão đó là ngũ hành tự tử.
Sanh thì vất vả, tử thì ngừng nghĩ, lý của nó là tự nhiên. Không có đất tử vạn vật không tự quay trở về. Cái gọi là tự tử, đã có sự trở lại thực sự của nó
Thường mệnh gặp thông minh sáng suốt như thế, nhiều trí tuệ mà phúc ít, lấy tĩnh mặc làm thể mà không có lợi cho sự thành công. Lấy đời sống thanh đạm làm công việc mà không màng đến sự vươn lên.
Chỉ có thể học đạo và thăm viếng bậc siêu phàm, mới vượt qua được cửa sống chết.
Quý tỵ, ất hợi, canh thân, nhâm dần, đinh tỵ đó là ngũ hành tự tuyệt.
Đạo trời không thể tuyệt mãi, thiên can địa chi phối hợp đã tuyệt, sẽ sanh lại. Người gặp điều này thì chuyên vui buồn không chắc chắn, như:
Quý tỵ tuyệt thuỷ được quý dậu vượng kim trợ giúp, là tuyệt thuỷ phùng sanh, càng thêm là việc tốt lành.
Thường mệnh ở tử tuyệt sanh vượng khố các loại, không thể dựa theo đó mà nói, cần phải xem lệnh tháng để phân biệt trong đục.
Trong là nghĩa là có chế phục như thuỷ bệnh gặp thổ sẽ đục, nhưng không có thổ làm đê thì không thể ngăn chặn được. Đã ngăn chặn sẽ từ từ trong lại vậy.
Đục nghìa là không có chế phục, như thuỷ nhiều không có thổ sẽ chảy tràn lan không thu lại được, mà thuỷ cực sanh mộc cực sẽ biến biến sẽ thông.
Bởi ngũ hành coi trọng sự biến đổi mà không coi trọng sự cố định, quý ở ẩn tàng mà không quý ở sự hiển lộ. Tử tuyệt có cứu trợ thì gọi là hoàn hồn (sống lại), thường là luận quý.
Sanh vượng có khắc sẽ là kiêu ngạo, trái ngược lại chủ là phúc lành nông cạn.
Nếu bên kia với mình sanh lẫn nhau thuận thì lợi ích cho mình, nghịch thì tranh doạt khí. Bên kia với mình khắc nhau, thuận thì quyền lực mạnh mẽ, nghịch thì có thương tổn.
Sách nói rằng: vì nhỏ khinh thường lớn tự gây hoạ, vì yếu mà thắng mạnh tự vời lấy tai hoạ.
Một thuỷ khắc ba hoả là lấy yếu thắng mạnh, lấy âm thắng dương, tuy làm hại mà không được tuyên dương. Lấy dương thắng âm, nguy hại không nặng.
Hai dương ngang ngạnh nhau thì tai hoạ xấu lập tức ập đến. Hai âm chống đối nhau thì nơi đo không yên ổn.
Như ất tỵ hoả khắc nhâm thân kim là lấy âm thắng dương, âm dương hữu tình cho nên không có tai hoạ lớn.
Nếu đinh mão gặp quý dậu là hai âm chống đối nhau, mậu ngọ gặp giáp tý là hai dương chống lại nhau, dương thì cương âm thì nhu, nhất định phải thắng nhưng mà sau đó sẽ gây hoạ.
Thái ất nói rằng: trời đất biến hoá, cơ chế âm dương không thường lấy âm gọi dương, hay dương gọi âm. Khi đó trời đất sẽ hợp chánh khí của ngũ hành điều hoà.
Nếu chính dương thuận theo dương, âm thuận theo âm thì âm dương sinh ra lệch lạc, động tĩnh mất trật tự, có thể tạo ra hai dường phúc hoạ.
Đại khái âm dương sinh ra lệch lạc, tạo hoá không thành ngũ hành. Như hỏ nhiều kim ít, tụ tán không thành hình. Còn hoả ít kim nhiều, đã không có khả năng nung chảy, ngược lại có nguy cơ bị nhấn chìm. Còn lại suy xét theo lệ đó.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀十
凡看命分五行生旺死绝,如:
甲申,丙寅,己亥,辛巳,戊申皆五行自长生。
不论四时,超然得自生之理。人命禀之敏快高明,贵者得之,其进以渐。
富贵得之,亦将向荣,而得其所以生也。
丙子,戊午,辛卯,癸酉,庚子皆五行自旺。
不待四时,而能自致其旺,福力奋发,无与比拟。
癸未,壬辰,丙辰,甲戌,乙丑皆五行自墓。乃归根复命之时。
凡库之所在,必欲物聚之,则其库充。
如壬辰水,欲得众水交归,然后为旺。更有金往来相生,当得重权。
傥木制火,火制金,更天中临之,是为贫印不起,主贫贱。
乙卯,丁酉,壬午,甲子,己卯此五行自死者也。
生则劳,死则息,其理自然。不有死之地,其物无自而归。
所谓自死者,得其真归之理焉。
凡命遇此颖特高明,多慧少福,以静默为体,而不利有为。以淡薄为事,而不利兴起。
惟可学道访仙,超生死之门也。
癸巳,乙亥,庚申,壬寅,丁巳此五行自绝者也。
天之道无可绝焉,干支适会已绝,则更生凡。遇此者忧喜未定,如:
癸巳绝水得癸酉旺金扶之,是谓绝水逢生,尤为吉庆。
凡命上带死绝生旺库墓等,不可就以所带言之,须看月令以辨清浊。
清者有制伏之谓,如水病见土则浊,却非土堤防不能止息。既止息,则清之有渐也。
浊者无制伏之谓,如水多无土则泛滥无归,而水极生木极则变,变则通也。
盖五行尚其变,而不尚其常,贵其隐而不贵其显。死绝有救,则谓还魂,多以贵论。
生旺有克,则为傲气,反主福浅。
若夫彼我之相生,顺则益本,逆则夺气。彼此之相克,顺则势强,逆则有伤。
经云:以小凌大,自贻其害,以弱胜强,自招其殃。
一水克三火,是以弱胜强,以阴胜阳,虽殃不彰。以阳胜阴,危害不深。
两阳相梗,凶祸旋至。两阴相敌,不安其处。
如乙巳火克壬申金,是以阴胜阳,阴阳有情,故无大害。
若丁卯见癸酉是二阴相敌,戊午见甲子是两阳相拒,阳刚阴柔,必胜而后已故祸。
太乙云:天地变化,阴阳之机,未尝不以阴召阳,阳召阴。则天地合正,五行气融。
若乃阳从乎阳,阴从乎阴,则阴阳偏出,动静失序,所以祸福两途也。
大抵阴阳偏出,造化不成五行。如火多金少,聚散不得成形。
火少金多,既不能销铄,反有淹灭之患。余以例推。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#343
Gửi vào 25/09/2024 - 09:24
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết thập nhất
Thường xem mệnh trước tiên bàn về ngũ hành, thể diện, cục thế. Sau đó mới tính đến hỷ kỵ hảo ác, vượng tướng, hưu tù.
Như người kim gặp canh tân hoặc thân dậu là thể diện, gặp tỵ dậu sửu là cục thế. Hỷ hoả chế phục thổ phù trợ, kỵ kim hàn thuỷ lãnh.
Sanh ba tháng mùa thu, bốn tháng cuối mùa là vượng tướng, mùa xuân mùa hạ là hưu tù. Còn lại các hành mộc hoả thuỷ thổ theo lệ đó mà suy xét.
Người kim gặp canh thân tân dậu là ngũ ly sát, nếu sanh các tháng mùa thu gặp thuỷ sẽ biến độc của kim thành kim bạch thuỷ thanh.
Tạo hoá gặp hoả, sẽ chế thành thép làm thành công cụ sắc bén. Trong trụ không có hoả không có thuỷ tức là ngoan kim (kim loại ương bướng) chủ những năm đầu đam mê tửu sắc, chết vì bệnh lỵ. Nếu gặp ngày giờ mậu dần đúng lúc gặp sanh chủ giàu mà lại có tuổi thọ.
Người mộc gặp thổ tức là gốc rễ được vun trồng, gặp thuỷ tức là cành lá nhờ đó được tươi tốt. Gặp kim đẽo gọt liền trở thành vật liệu.
Mộc gặp dần mão thêm sanh vào mùa xuân rất tốt, nếu tam hợp hội mộc cục đầy đủ, không cần phải sanh mùa xuân thường là người có đức nhân và trường thọ.
Mộc gặp kim chế , kim được rèn luyện bởi hoả, nên độ cứng và độ mềm được kết hợp nhau.
Nếu hoả quá nhiều sẽ đốt cháy, kim nhiều quá sẽ huỷ hoại. Thổ hư thì không thể vun bón, thuỷ tràn ngập thì không thể làm ẩm, mầu nhiệm khi nó gặp trung hoà.
Người thuỷ lấy hợi tý làm nguồn gốc, lấy dần mão thìn tỵ làm nơi dung nạp. Bến nước bắt nguồn từ hướng bắc đổi sang hướng đông, cho nên thuỷ và lòng nhân từ mừng gặp nhau ở hướng đông thì sóng yên biển lặng.
Thuỷ nhờ thổ làm đê, nếu sanh hợi tý thổ nhiều sẽ tốt. Đã ở tại phương đông gặp thổ cũng vẫn tốt.
Không nên thổ nhiều, có thêm quý nhân, tài lộc sẽ QUÝ.
Nếu ngày giờ gặp canh thân, tân dậu thì thuỷ kỵ chảy về hướng tây, e rằng tuổi thọ không cao.
Sanh vào mùa thu, mùa đông sanh vượng trong suốt, lúc này nhâm quý gặp hợi tý chủ có nghiên cứu học tập.
Nạp âm thuỷ tiếp theo nhau, thì thuỷ quá nhiều, trụ không có thổ nâng đỡ, nên đoán là con cái ít.
Chỉ có nghệ thuật (phiếm chỉ các thứ kĩ năng kĩ thuật về lục nghệ), không môn (cửa không tức là đi tu) sẽ tốt, thêm cách giác gặp nhiều nhất định chủ hình khắc
Các tháng mùa xuân cạn kiệt nên 凅 (không rõ nghĩa chữ này), các tháng mùa hạ vẩn đục mà tràn ngập, trụ không có thuỷ trợ giúp thì không quý.
Hoả ở dần mão sanh ở các tháng mùa xuân mộc đẹp hoả sáng nên giàu sang vẻ vang.
Sanh vào các tháng hạ thì quá nóng, trong trụ không có thuỷ nhất định yểu, có thuỷ thì quý.
Sanh vào các tháng mùa thu hoả tắt kim hiện hữu, ánh sáng tiềm ẩn soi rọi bên trong, ngày giờ ngầm gặp vượng khí sẽ tốt.
Bởi vì thuỷ hoả không ghét tử tuyệt, chỉ nên điềm đạm (dửng dưng trước danh lợi) là phúc lành.
Sanh vào các tháng mùa đông, trong trụ lại được hoả trợ giúp, thì sương tuyết tan đi, núi sông được sưởi ấm.
Người xưa nói rằng: ngày đông có thể đáng yêu, ngày mùa hạ có thể đáng sợ, đó là ý nghĩa.
Thổ gặp đủ bốn tháng cuối mùa thì cao quý, như nạp âm toàn thổ, trong trụ có thêm chữ dần tức là quẻ cấn là núi cũng quý.
Thổ có khả năng hậu tải (nâng đỡ nồng đậm), vạn vật nhờ vào đó mà sống còn, kim mộc thuỷ hoả đều không thể thiếu cho nên bốn hành này hết thảy đều cậy nhờ.
Bàn luận việc công dụng của ngũ hành, nhiều sẽ là thái quá, ít sẽ là bất cập, khí hay số của nó có dư hay không đủ đều có thể dẫn đến hung xấu.
Cao thấp phải quay trở về quân bình, sau đó mới là phúc lành. Người thành công nên thối lui và ẩn tàng, tương lai sẽ có giá trị hơn vinh quang.
Ngũ hành vượng nghĩa là thành công, vượng thì có khả năng ngưng lại nghĩa là thối lui và ẩn tàng.
Ngũ hành ở vị trí quan đới, thai, dưỡng, thì khí của nó còn thiếu sót vì chưa đầy gọi là tương lai. Cho nên muốn con và mẹ tương sanh để mang lại lợi ích cho khí của nó.
Sẽ có con đường thăng tiến và bùng nổ.
Như mộc không đúng thời, suy thì thân cứng ngắc, tử thì khô héo.
Kim vượng thái quá thì hành động thường hung xấu.
Ngọn lữa nóng hừng lực quý ở dập tắt, nếu không tắt sẽ dẫn đến tai hoạ tự thiêu.
Nước chảy cuồn cuộn quý ở đình chỉ, không đình chỉ sẽ có tai nạn chìm đắm.
Hoả đi nam lục (đất cao khỏi mặt nước mà bằng phẳng ở phía nam) thì hoá thành sức nóng, vượng sẽ đốt cháy mà hại vạn vật, đến dậu hợi thì khí âm có thể hấp thụ sau đó mới có khả năng sưởi ấm vạn vật.
Thuỷ chảy về bắc lục (đất cao khỏi mặt nước mà bằng phẳng ở phía bắc) thì hoá lạnh, vượng thì giá rét mà giết chết vạn vật, đến mão tỵ thì khí dương có khả năng trừ bỏ đi, sau đó mới có khả năng nuôi dưỡng vạn vật.
Lại có trường hợp sanh mà không sanh, vượng mà không vượng, đó là tình trạng hung mà trước đó thì tốt.
Lại có trường hợp tử mà không tử, tuyệt mà không tuyệt, đó là tình trạng tốt mà trước đó thì xấu.
Như thuỷ gặp mậu thân thổ, đây là sanh mà không sanh. Gặp canh tý thổ, đây là vượng mà không vượng. Gặp điều này thường thành công nhưng ngược lại là thất bại, người vui mừng lại thành lo lắng.
Như thuỷ thấy quý mão kim, đây là tửt mà không tử. Gặp tân tỵ kim, đây là tuyệt mà không tuyệt.
Khí ngũ hành cạn kiệt nhưng được ân đức của cha mẹ sanh vì lợi ích đó nên khí của nó sẽ sống lại. Người gặp phải thì trong nguy hiểm có được phúc lành, tưởng cùng đường nhưng lại được suôn sẻ, tình trạng co cụm lại được duỗi ra.
Sanh vượng thái quá thì trong phúc có ẩn tai hoạ, tử tuyệt thái quá thì phúc không thể giao cho.
Nếu tử tuyệt gặp sanh, tai hoạ có thể tranh thoát, hoả thổ là đầu tiên, kế đó mới là kim thuỷ.
Hoả tuyệt gặp được thổ gọi là duệ (sáng suốt) "hoả lấy thổ làm gốc, hoả tuyệt ở hợi, nên đoài đinh hợi là vậy".
Thổ tuyệt gặp được kim là tử mà không mất gọi là thọ "thổ tuyệt ở tỵ, gặp được tân tỵ kim vậy".
Kim tuyệt gặp được thuỷ tinh thần lại thân thể kế thừa "kim tuyệt ở dần, gặp được giáp dần thuỷ là vậy".
Thuỷ tuyệt gặp được mộc hồn lại về trời"thuỷ tuyệt ở tỵ gặp được kỷ tỵ mộc là vậy".
Mộc tuyệt gặp được hoả hoả sinh ra mộc bị thiêu huỷ, tro bay khói tắt cho nên chỉ là hung. "Mộc tuyệt ở thân gặp bính thân hoả là vậy". rắn ngựa không có dũng khí, đó là bằng chứng đầy đủ;
Rắn ngựa ở vị trí tỵ ngọ, mộc đi qua tỵ ngọ thì tử. Mộc ở tạng thuộc gan, ở phủ thuộc mật, chứng thật mộc tử là hung.
Sách nói rằng:
Thân thổ gặp hoả sanh nên dần dần có lợi, mệnh thuỷ gặp được năm kim thì sung túc lâu dài. Kim nhiều phải cần hoả hoặc là tòng cách để thành danh; mộc nhiều gặp kim uốn nắng thành khúc trực thì mặc sức sử dụng, thuỷ chảy không ngừng cần thổ để ngăn trở, hoả thịnh không có chỗ dựa chỉ có thuỷ mới giúp được.
Ngũ hành sử dụng thích hợp, tuy có khắc nhau nhưng vẫn là phúc lành. Nếu sử dụng không thích hợp cho dù có sanh nhau nhưng vẫn là tai hoạ.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀十一
凡看命先论五行,体面,局势。然后参以喜忌好恶,旺相休囚。
如金人得庚辛或申酉为体面,得巳酉丑三合为局势。喜火制土扶,忌金寒水冷。
生三秋四季为旺相,春夏为休囚。余木火水土以例推之。
金人遇庚申辛酉为五离煞,若生秋月逢水则化金之毒,为金白水清。
造化逢火,则制金之钢,为煅成锋利之器。柱无火无水是谓顽金,主早年酒色,瘵痢身死。若得戊寅日时,刚处逢生,主富而寿。
木人得土则根荄藉以栽培,得水则枝叶赖以涤畅。得金斲削便成材也。
木逢寅卯,更在春生最吉,若三合会木局全,不须春生,多主仁寿。
木逢金制,金煅火伏,则刚柔相制。
若火太多则焚,金太多则损。土虚则不能培,水泛则不能润,妙在得其中和。
水人以亥子为源,以寅卯辰巳为纳。干源自北万折朝东,故水仁喜逢东方,则浪息波平。
水赖土防,若生亥子,土多则吉。既在东方,逢土亦吉。
不宜土多,更有贵人,财禄则贵。
若日时遇庚申辛酉,水忌西流,恐寿不高。
生于秋冬,生旺清澄,壬癸此时,而逢亥子,主有文学。
纳音更水,则水太过,柱无土提,乃少子之断。
惟艺术,空门则吉,更隔角重逢,定主刑克。
春月干渴而凅,夏月浑浊而泛,柱无水助则不贵。
火居寅卯,生于春月,木秀火明,荣华富贵。
生于夏月则太炎,柱中无水定夭,有水早贵。
生于秋月,火死金成,藏光内照,时日微逢旺气则吉。
盖水火不嫌死绝,只宜恬淡为福。
生于冬月,柱中再得火助,则潜消霜雪,温暖山河。
古人云:冬日可爱,夏日可畏,此之谓也。
土逢四季全上贵,如纳音全土,柱中更得寅字,为艮山亦贵。
土能厚载,万物资生,金木水火,皆不可缺,故此四行,咸赖之也。
夫论五行之用,多则太过,少则不及,其气其数,有余不足皆能致凶。
抑扬归中,然后为福。功成者宜于退藏,将来者贵于荣振。
五行禀旺谓之成功,旺而能止息是谓退藏。
五行在冠带胎养之地,其气亏而未盈,是谓将来。故欲子母相生,以益其气。
则有荣进振发之道。
如木非其时,衰则梗介,死则枯槁。
金旺太过,则动作多凶。
炎炎者贵乎熄,不熄则有自焚之灾。
滔滔者贵乎止,不止则有自溺之患。
火行南陆而化热,盛则焚烈而害物,至酉亥则阴能翕之,然后能温暖万物。
水行北陆而化寒,盛则严冷而杀物,至卯巳则阳能辟之,然后能滋生万物。
又有生而不生,旺而不旺,此为凶乃先吉也。
有死而不死,绝而不绝,此为吉乃先凶也。
如水见戊申土,此生而不生。见庚子土,此旺而不旺。遇此多成而反败,因喜而反忧。
如水见癸卯金,此死而不死。见辛巳金,此绝而不绝。
五行气尽而得父母之德,以生益之则其气复生。遇之者危中有福,穷而通屈而伸也。
生旺太过则福中藏祸,死绝太过则福无可托。
若夫死绝逢生,殃变能逃,火土最先,金水犹后。
火绝得土曰睿“火以土为干,火绝于亥,而兑丁亥是也”
土绝得金死而不亡曰寿“土绝在巳,得辛巳金是也”
金绝得水精复继体“金绝于寅,得甲寅水是也”
水绝得木魂复天游“水绝于巳得己巳木是也”
木绝得火火出木烬,灰飞湮灭故独为凶。“木绝于申,得丙申火是也”蛇马无胆于焉足证:
蛇马在位巳午,木历巳午而死。木于脏属肝,于腑属胆,证木死为凶也。
经云:
身土遇火生而渐利,命水得金年乃优长。金多须火或从革以成名,木重得金揉曲直而任使,水流不止须土以拥之,火盛无依惟水以济之。
五行用得其宜,虽相克而为福。若用失其宜,虽相生而为灾。
.
khán mệnh khẩu quyết thập nhất
Thường xem mệnh trước tiên bàn về ngũ hành, thể diện, cục thế. Sau đó mới tính đến hỷ kỵ hảo ác, vượng tướng, hưu tù.
Như người kim gặp canh tân hoặc thân dậu là thể diện, gặp tỵ dậu sửu là cục thế. Hỷ hoả chế phục thổ phù trợ, kỵ kim hàn thuỷ lãnh.
Sanh ba tháng mùa thu, bốn tháng cuối mùa là vượng tướng, mùa xuân mùa hạ là hưu tù. Còn lại các hành mộc hoả thuỷ thổ theo lệ đó mà suy xét.
Người kim gặp canh thân tân dậu là ngũ ly sát, nếu sanh các tháng mùa thu gặp thuỷ sẽ biến độc của kim thành kim bạch thuỷ thanh.
Tạo hoá gặp hoả, sẽ chế thành thép làm thành công cụ sắc bén. Trong trụ không có hoả không có thuỷ tức là ngoan kim (kim loại ương bướng) chủ những năm đầu đam mê tửu sắc, chết vì bệnh lỵ. Nếu gặp ngày giờ mậu dần đúng lúc gặp sanh chủ giàu mà lại có tuổi thọ.
Người mộc gặp thổ tức là gốc rễ được vun trồng, gặp thuỷ tức là cành lá nhờ đó được tươi tốt. Gặp kim đẽo gọt liền trở thành vật liệu.
Mộc gặp dần mão thêm sanh vào mùa xuân rất tốt, nếu tam hợp hội mộc cục đầy đủ, không cần phải sanh mùa xuân thường là người có đức nhân và trường thọ.
Mộc gặp kim chế , kim được rèn luyện bởi hoả, nên độ cứng và độ mềm được kết hợp nhau.
Nếu hoả quá nhiều sẽ đốt cháy, kim nhiều quá sẽ huỷ hoại. Thổ hư thì không thể vun bón, thuỷ tràn ngập thì không thể làm ẩm, mầu nhiệm khi nó gặp trung hoà.
Người thuỷ lấy hợi tý làm nguồn gốc, lấy dần mão thìn tỵ làm nơi dung nạp. Bến nước bắt nguồn từ hướng bắc đổi sang hướng đông, cho nên thuỷ và lòng nhân từ mừng gặp nhau ở hướng đông thì sóng yên biển lặng.
Thuỷ nhờ thổ làm đê, nếu sanh hợi tý thổ nhiều sẽ tốt. Đã ở tại phương đông gặp thổ cũng vẫn tốt.
Không nên thổ nhiều, có thêm quý nhân, tài lộc sẽ QUÝ.
Nếu ngày giờ gặp canh thân, tân dậu thì thuỷ kỵ chảy về hướng tây, e rằng tuổi thọ không cao.
Sanh vào mùa thu, mùa đông sanh vượng trong suốt, lúc này nhâm quý gặp hợi tý chủ có nghiên cứu học tập.
Nạp âm thuỷ tiếp theo nhau, thì thuỷ quá nhiều, trụ không có thổ nâng đỡ, nên đoán là con cái ít.
Chỉ có nghệ thuật (phiếm chỉ các thứ kĩ năng kĩ thuật về lục nghệ), không môn (cửa không tức là đi tu) sẽ tốt, thêm cách giác gặp nhiều nhất định chủ hình khắc
Các tháng mùa xuân cạn kiệt nên 凅 (không rõ nghĩa chữ này), các tháng mùa hạ vẩn đục mà tràn ngập, trụ không có thuỷ trợ giúp thì không quý.
Hoả ở dần mão sanh ở các tháng mùa xuân mộc đẹp hoả sáng nên giàu sang vẻ vang.
Sanh vào các tháng hạ thì quá nóng, trong trụ không có thuỷ nhất định yểu, có thuỷ thì quý.
Sanh vào các tháng mùa thu hoả tắt kim hiện hữu, ánh sáng tiềm ẩn soi rọi bên trong, ngày giờ ngầm gặp vượng khí sẽ tốt.
Bởi vì thuỷ hoả không ghét tử tuyệt, chỉ nên điềm đạm (dửng dưng trước danh lợi) là phúc lành.
Sanh vào các tháng mùa đông, trong trụ lại được hoả trợ giúp, thì sương tuyết tan đi, núi sông được sưởi ấm.
Người xưa nói rằng: ngày đông có thể đáng yêu, ngày mùa hạ có thể đáng sợ, đó là ý nghĩa.
Thổ gặp đủ bốn tháng cuối mùa thì cao quý, như nạp âm toàn thổ, trong trụ có thêm chữ dần tức là quẻ cấn là núi cũng quý.
Thổ có khả năng hậu tải (nâng đỡ nồng đậm), vạn vật nhờ vào đó mà sống còn, kim mộc thuỷ hoả đều không thể thiếu cho nên bốn hành này hết thảy đều cậy nhờ.
Bàn luận việc công dụng của ngũ hành, nhiều sẽ là thái quá, ít sẽ là bất cập, khí hay số của nó có dư hay không đủ đều có thể dẫn đến hung xấu.
Cao thấp phải quay trở về quân bình, sau đó mới là phúc lành. Người thành công nên thối lui và ẩn tàng, tương lai sẽ có giá trị hơn vinh quang.
Ngũ hành vượng nghĩa là thành công, vượng thì có khả năng ngưng lại nghĩa là thối lui và ẩn tàng.
Ngũ hành ở vị trí quan đới, thai, dưỡng, thì khí của nó còn thiếu sót vì chưa đầy gọi là tương lai. Cho nên muốn con và mẹ tương sanh để mang lại lợi ích cho khí của nó.
Sẽ có con đường thăng tiến và bùng nổ.
Như mộc không đúng thời, suy thì thân cứng ngắc, tử thì khô héo.
Kim vượng thái quá thì hành động thường hung xấu.
Ngọn lữa nóng hừng lực quý ở dập tắt, nếu không tắt sẽ dẫn đến tai hoạ tự thiêu.
Nước chảy cuồn cuộn quý ở đình chỉ, không đình chỉ sẽ có tai nạn chìm đắm.
Hoả đi nam lục (đất cao khỏi mặt nước mà bằng phẳng ở phía nam) thì hoá thành sức nóng, vượng sẽ đốt cháy mà hại vạn vật, đến dậu hợi thì khí âm có thể hấp thụ sau đó mới có khả năng sưởi ấm vạn vật.
Thuỷ chảy về bắc lục (đất cao khỏi mặt nước mà bằng phẳng ở phía bắc) thì hoá lạnh, vượng thì giá rét mà giết chết vạn vật, đến mão tỵ thì khí dương có khả năng trừ bỏ đi, sau đó mới có khả năng nuôi dưỡng vạn vật.
Lại có trường hợp sanh mà không sanh, vượng mà không vượng, đó là tình trạng hung mà trước đó thì tốt.
Lại có trường hợp tử mà không tử, tuyệt mà không tuyệt, đó là tình trạng tốt mà trước đó thì xấu.
Như thuỷ gặp mậu thân thổ, đây là sanh mà không sanh. Gặp canh tý thổ, đây là vượng mà không vượng. Gặp điều này thường thành công nhưng ngược lại là thất bại, người vui mừng lại thành lo lắng.
Như thuỷ thấy quý mão kim, đây là tửt mà không tử. Gặp tân tỵ kim, đây là tuyệt mà không tuyệt.
Khí ngũ hành cạn kiệt nhưng được ân đức của cha mẹ sanh vì lợi ích đó nên khí của nó sẽ sống lại. Người gặp phải thì trong nguy hiểm có được phúc lành, tưởng cùng đường nhưng lại được suôn sẻ, tình trạng co cụm lại được duỗi ra.
Sanh vượng thái quá thì trong phúc có ẩn tai hoạ, tử tuyệt thái quá thì phúc không thể giao cho.
Nếu tử tuyệt gặp sanh, tai hoạ có thể tranh thoát, hoả thổ là đầu tiên, kế đó mới là kim thuỷ.
Hoả tuyệt gặp được thổ gọi là duệ (sáng suốt) "hoả lấy thổ làm gốc, hoả tuyệt ở hợi, nên đoài đinh hợi là vậy".
Thổ tuyệt gặp được kim là tử mà không mất gọi là thọ "thổ tuyệt ở tỵ, gặp được tân tỵ kim vậy".
Kim tuyệt gặp được thuỷ tinh thần lại thân thể kế thừa "kim tuyệt ở dần, gặp được giáp dần thuỷ là vậy".
Thuỷ tuyệt gặp được mộc hồn lại về trời"thuỷ tuyệt ở tỵ gặp được kỷ tỵ mộc là vậy".
Mộc tuyệt gặp được hoả hoả sinh ra mộc bị thiêu huỷ, tro bay khói tắt cho nên chỉ là hung. "Mộc tuyệt ở thân gặp bính thân hoả là vậy". rắn ngựa không có dũng khí, đó là bằng chứng đầy đủ;
Rắn ngựa ở vị trí tỵ ngọ, mộc đi qua tỵ ngọ thì tử. Mộc ở tạng thuộc gan, ở phủ thuộc mật, chứng thật mộc tử là hung.
Sách nói rằng:
Thân thổ gặp hoả sanh nên dần dần có lợi, mệnh thuỷ gặp được năm kim thì sung túc lâu dài. Kim nhiều phải cần hoả hoặc là tòng cách để thành danh; mộc nhiều gặp kim uốn nắng thành khúc trực thì mặc sức sử dụng, thuỷ chảy không ngừng cần thổ để ngăn trở, hoả thịnh không có chỗ dựa chỉ có thuỷ mới giúp được.
Ngũ hành sử dụng thích hợp, tuy có khắc nhau nhưng vẫn là phúc lành. Nếu sử dụng không thích hợp cho dù có sanh nhau nhưng vẫn là tai hoạ.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀十一
凡看命先论五行,体面,局势。然后参以喜忌好恶,旺相休囚。
如金人得庚辛或申酉为体面,得巳酉丑三合为局势。喜火制土扶,忌金寒水冷。
生三秋四季为旺相,春夏为休囚。余木火水土以例推之。
金人遇庚申辛酉为五离煞,若生秋月逢水则化金之毒,为金白水清。
造化逢火,则制金之钢,为煅成锋利之器。柱无火无水是谓顽金,主早年酒色,瘵痢身死。若得戊寅日时,刚处逢生,主富而寿。
木人得土则根荄藉以栽培,得水则枝叶赖以涤畅。得金斲削便成材也。
木逢寅卯,更在春生最吉,若三合会木局全,不须春生,多主仁寿。
木逢金制,金煅火伏,则刚柔相制。
若火太多则焚,金太多则损。土虚则不能培,水泛则不能润,妙在得其中和。
水人以亥子为源,以寅卯辰巳为纳。干源自北万折朝东,故水仁喜逢东方,则浪息波平。
水赖土防,若生亥子,土多则吉。既在东方,逢土亦吉。
不宜土多,更有贵人,财禄则贵。
若日时遇庚申辛酉,水忌西流,恐寿不高。
生于秋冬,生旺清澄,壬癸此时,而逢亥子,主有文学。
纳音更水,则水太过,柱无土提,乃少子之断。
惟艺术,空门则吉,更隔角重逢,定主刑克。
春月干渴而凅,夏月浑浊而泛,柱无水助则不贵。
火居寅卯,生于春月,木秀火明,荣华富贵。
生于夏月则太炎,柱中无水定夭,有水早贵。
生于秋月,火死金成,藏光内照,时日微逢旺气则吉。
盖水火不嫌死绝,只宜恬淡为福。
生于冬月,柱中再得火助,则潜消霜雪,温暖山河。
古人云:冬日可爱,夏日可畏,此之谓也。
土逢四季全上贵,如纳音全土,柱中更得寅字,为艮山亦贵。
土能厚载,万物资生,金木水火,皆不可缺,故此四行,咸赖之也。
夫论五行之用,多则太过,少则不及,其气其数,有余不足皆能致凶。
抑扬归中,然后为福。功成者宜于退藏,将来者贵于荣振。
五行禀旺谓之成功,旺而能止息是谓退藏。
五行在冠带胎养之地,其气亏而未盈,是谓将来。故欲子母相生,以益其气。
则有荣进振发之道。
如木非其时,衰则梗介,死则枯槁。
金旺太过,则动作多凶。
炎炎者贵乎熄,不熄则有自焚之灾。
滔滔者贵乎止,不止则有自溺之患。
火行南陆而化热,盛则焚烈而害物,至酉亥则阴能翕之,然后能温暖万物。
水行北陆而化寒,盛则严冷而杀物,至卯巳则阳能辟之,然后能滋生万物。
又有生而不生,旺而不旺,此为凶乃先吉也。
有死而不死,绝而不绝,此为吉乃先凶也。
如水见戊申土,此生而不生。见庚子土,此旺而不旺。遇此多成而反败,因喜而反忧。
如水见癸卯金,此死而不死。见辛巳金,此绝而不绝。
五行气尽而得父母之德,以生益之则其气复生。遇之者危中有福,穷而通屈而伸也。
生旺太过则福中藏祸,死绝太过则福无可托。
若夫死绝逢生,殃变能逃,火土最先,金水犹后。
火绝得土曰睿“火以土为干,火绝于亥,而兑丁亥是也”
土绝得金死而不亡曰寿“土绝在巳,得辛巳金是也”
金绝得水精复继体“金绝于寅,得甲寅水是也”
水绝得木魂复天游“水绝于巳得己巳木是也”
木绝得火火出木烬,灰飞湮灭故独为凶。“木绝于申,得丙申火是也”蛇马无胆于焉足证:
蛇马在位巳午,木历巳午而死。木于脏属肝,于腑属胆,证木死为凶也。
经云:
身土遇火生而渐利,命水得金年乃优长。金多须火或从革以成名,木重得金揉曲直而任使,水流不止须土以拥之,火盛无依惟水以济之。
五行用得其宜,虽相克而为福。若用失其宜,虽相生而为灾。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#344
Gửi vào 26/09/2024 - 08:45
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết thập nhị
Thường ngũ hành sợ thái quá thì nghịch lại với nhau, như lộc nhiều thì nghèo, mã nhiều thì bệnh, ấn nhiều thì cô độc, khố nhiều thì yếu đuối.
Sanh vượng nhiều không có chỗ trở về nghĩ ngơi, tử tuyệt nhiều thì không có ý chí nổ lực.
Ngũ hành không thể quá thương tổn nhau, cũng không nên quá thuần khiết. Mã của quý nhân thường được đề bạt, còn mã của người thường thường rong ruổi.
Phá cuối cùng là tai hoạ thương tổn, không vong cuối cùng là toàn bộ bỏ trống.
Những cái mà mình yêu thương thì không nên huỷ hoại, những cái mình sợ hãi thì không nên vượng, Trước sợ hãi, sau yêu thích là phúc lành, trước yêu thích, sau sợ hãi là tai hoạ.
Hợp nhiều mà không phát nên nịnh nọt, học đường nhiều thì không thành công.
Quý nhân nhiều thì nhu nhược không có quyết tâm, lộc mã hiển lộ nhiều quá không thể luận là quý nhân.
Vẻ ngoài của quý nhân cũng đủ không thể để luận là thường nhân.
Tứ trụ đều là dương miệng ác mà tâm lành, tứ trụ đều là âm rất ngang ngược và trầm độc (ngầm ác hiểm).
Củng cần phải củng mã, củng lộc, củng quý, củng phúc thần. Không nên củng hình, củng hoạ, củng tuế, củng thời.
Âm dương quý ở quân bình và hoà hợp , bệnh và trở ngại cần có khắc chế.
Thường mệnh bính tân nhâm quý gặp mậu tuất, thì đối diện thương tổn và thất bại.
Nhâm tý bính ngọ bính ngọ nhâm tý tinh thần thuỷ mộc là âm dương thuần khiết.
Vị trí khác không có trợ giúp cũng là tài năng phi thường, hơn nữa khí của mùa đẹp, khoáng thế (đời không có phối ngẫu) không kỵ đức lớn để bao dung, chính là bậc tài trai có khí tiết.
Mão dậu là đất của mặt trời mọc và lặn, tý ngọ là chỗ bắt đầu phân chia âm dương. Người gặp phải, khiến người qua lại không chắc chắn, tuế vận cũng như vậy.
Tỵ hợi là nơi của hai cực, đất trời xoay vần. Dần thân là nơi ba điểm dừng, người chuyển đạt qua lại, như người gặp vậy thường chấp không giống nhau.
Sửu mùi thong thả, thìn tuất nhanh chóng. Gặp vậy khiến người chấp phương (giữ vững đạo lý) bản tính không biết thông biến. Thìn tuất có khí lực thì có khả năng tạo thành việc lớn.
Người bính tý mà tứ trụ có nhâm dần, là nhâm vào nhà bính, khắc phá không đẹp.
Canh tý gặp canh ngọ là ngũ quỷ đến nhà.
Mậu dần gặp giáp dần, giáp khắc mậu. Mậu dần thuận theo sức mạnh khắc giáp dần là thiên can địa chi và nạp âm, trên dưới không hoà hợp.
Trừ phi có phúc thần đặc biệt mới là phúc lực.
Quý dậu gặp mậu dần, mậu thổ khắc quý thuỷ, lại thêm kim khí hướng về nơi tuyệt và kiếp sát nguyên thần ở bên trong.
Trừ phi gặp được tú khí trong lệnh tháng, mới có thể hữu dung, cũng lâu dài nhưng không tốt đẹp.
Canh ngọ đinh dậu vừa vượng vừa phá lẫn nhau, chính là trong vượng có phá, không thể hoàn toàn là phúc lực.
Kỷ mùi tân dậu tuy rằng gặp thực thần, nhưng là trở về tử địa, kết cuộc không tốt đẹp.
Ất sửu ất mùi canh thìn canh tuất gặp mậu dần rất tốt, vận cũng như vậy.
Sách nói: nếu như gặp được cương kim cứu giúp, mậu dần muốn chống lại mà không tuyệt nên trở thành phúc lực.
Ất mão gặp mậu dần, mậu dần gặp ất mão là mệnh rất tốt đẹp.
Đan Dương Thư nói rằng: trong tam kỳ còn có hư thanh, trong tử tuyệt càng tồn tại sanh vượng.
Bởi tam hợp tam kỳ mà không hợp phần của tháng thì không quý.
Như giáp mậu canh có giờ tý ngọ mới quý, ất bính đinh có giờ dần mão mới quý.
Thiên Nguyên Biến Hoá Thư nói rằng: ất bính đinh chánh ái dậu hợi, xem thêm nạp âm có giao thiệp hay không.
Lại nói thêm: thường tam kỳ, tam hợp đới tú khí trong lệnh tháng hợp ách quý, cũng không tránh khỏi là con dòng thứ làm con nuôi, cầm đợ con (tục lệ ngày xưa, đem con bán lấy tiền, sau ba năm không chuộc lại được, con thành nô tì cho người).
Lại nói thêm: thường mệnh thấy tam hợp tam kỳ, mà năm gốc không ở tứ mạnh (bốn trưởng). Sanh mà được tứ trọng (bốn giữa), tứ quý (bốn cuối). Tháng ngày giờ tứ trọng, tứ quý luận giống nhau. Cùng với thai tháng ngày hỗ hoán thiên can hợp hoặc lục hợp mà bổn mệnh không có, đều là ngày lay động thái tuế, thường chủ xa rời quê tổ và cô lập, là người không có sức lực ít được trợ giúp. Nhưng nên đạo lý ở địa vị giả hợp mà thành tựu vậy, mệnh quý thường dựa vào để thăng tiến.
Thường người có tứ trụ đới tam kỳ tam hợp, bản thân không phải con nuôi từ dòng thứ, tương lai con cháu sẽ có con nuôi từ dòng thứ, tuỳ mẩu chi tử (con theo mẹ).
Thơ xưa nói rằng: tam hợp với tam kỳ. thanh tú thêm phì nhiêu, không là con vợ lẽ, ấy là theo mẹ con.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀十二
凡五行怕太过相忤,如禄多则贫,马多则病,印多则孤,库多则虚。
生旺多无归宿,死绝多无激扬。
五行 不可太相伤,不可太纯粹。贵人马多升擢,常人马多奔驰。
破要伤祸,空要空尽。
所爱者不可毁,所畏者不可旺。先畏后爱为福,先爱后畏为祸。
合多不发而媚,学堂多则无成。
贵人多则巽懦而无立志,禄马太显不可以贵人论。
贵人表里足不可以常人论。
四柱俱阳,口恶心善,四柱俱阴,狠戾沉毒。
拱要拱马,拱禄,拱贵,拱福神。不要拱刑,拱祸,拱岁,拱时。
阴阳贵在均协,病伤要有克制。
凡命丙辛壬癸见戊戌,则当途刃伤折挫。
壬子、丙午、丙午、壬子水木精神,阴阳纯粹。
余位无助亦非常器,加以季秀之气,旷世无忌大德有容,乃丈夫也。
卯酉日出入之地,子午阴阳始分之宫。遇之者,令人往来不定,岁运亦然。
巳亥为两极之地,地天斡旋。寅申为三停之方,邮递往来,如人遇之多执不一。
丑未迟迟,辰戌速速。遇之令人执方,性不通变。辰戌有气,却能建立大事。
丙子人四柱有壬寅,是壬入丙家,克破不美。
庚子见庚午,是五鬼临门。
戊寅见甲寅,甲克其戊。戊寅随势克甲寅,是干支纳音,上下不和。
除别有福神,方为福力。
癸酉见戊寅,戊土克癸水,又金气向绝乡劫煞,元辰居中。
除得月令中秀气,方可为用,亦久而不佳。
庚午、丁酉互旺互破,乃旺中破也,不可全为福力。
己未、辛酉虽得食,却归死地,终久不佳。
乙丑、乙未、庚辰、庚戌见戊寅大好运亦然。
经曰:如得刚金济,戊寅欲绝不绝成福力。
乙卯见戊寅,戊寅见乙卯,是大好命。
丹阳书云:三奇之际尚有虚声,死绝之中尤存生旺。
盖三合三奇,不合月分则不贵。
如甲戊庚有子午时方贵,乙丙丁有寅卯时方贵。
天元变化书云:乙丙丁正爱酉亥,更看纳音有无交涉。
又云:凡三奇三合带月令中秀气入贵格,亦不免庶出过房作赘。
又云:凡命见三合三奇,而本年不带在四孟。生而得四仲、四季。月日时四仲、四季同论。及胎月日互换干合或六合,而本命不带,皆各日掉太岁,多主离祖孤立,为人不得力少救助。却宜义居假合而立也,
贵命则多倚仗而升进。
凡四柱带三奇三合者,本身不是过房庶出,将来子孙必有过房庶出,随母之子。
古诗云:三合与三奇,清秀更饶肥,不为过房子,便是随母儿。
.
khán mệnh khẩu quyết thập nhị
Thường ngũ hành sợ thái quá thì nghịch lại với nhau, như lộc nhiều thì nghèo, mã nhiều thì bệnh, ấn nhiều thì cô độc, khố nhiều thì yếu đuối.
Sanh vượng nhiều không có chỗ trở về nghĩ ngơi, tử tuyệt nhiều thì không có ý chí nổ lực.
Ngũ hành không thể quá thương tổn nhau, cũng không nên quá thuần khiết. Mã của quý nhân thường được đề bạt, còn mã của người thường thường rong ruổi.
Phá cuối cùng là tai hoạ thương tổn, không vong cuối cùng là toàn bộ bỏ trống.
Những cái mà mình yêu thương thì không nên huỷ hoại, những cái mình sợ hãi thì không nên vượng, Trước sợ hãi, sau yêu thích là phúc lành, trước yêu thích, sau sợ hãi là tai hoạ.
Hợp nhiều mà không phát nên nịnh nọt, học đường nhiều thì không thành công.
Quý nhân nhiều thì nhu nhược không có quyết tâm, lộc mã hiển lộ nhiều quá không thể luận là quý nhân.
Vẻ ngoài của quý nhân cũng đủ không thể để luận là thường nhân.
Tứ trụ đều là dương miệng ác mà tâm lành, tứ trụ đều là âm rất ngang ngược và trầm độc (ngầm ác hiểm).
Củng cần phải củng mã, củng lộc, củng quý, củng phúc thần. Không nên củng hình, củng hoạ, củng tuế, củng thời.
Âm dương quý ở quân bình và hoà hợp , bệnh và trở ngại cần có khắc chế.
Thường mệnh bính tân nhâm quý gặp mậu tuất, thì đối diện thương tổn và thất bại.
Nhâm tý bính ngọ bính ngọ nhâm tý tinh thần thuỷ mộc là âm dương thuần khiết.
Vị trí khác không có trợ giúp cũng là tài năng phi thường, hơn nữa khí của mùa đẹp, khoáng thế (đời không có phối ngẫu) không kỵ đức lớn để bao dung, chính là bậc tài trai có khí tiết.
Mão dậu là đất của mặt trời mọc và lặn, tý ngọ là chỗ bắt đầu phân chia âm dương. Người gặp phải, khiến người qua lại không chắc chắn, tuế vận cũng như vậy.
Tỵ hợi là nơi của hai cực, đất trời xoay vần. Dần thân là nơi ba điểm dừng, người chuyển đạt qua lại, như người gặp vậy thường chấp không giống nhau.
Sửu mùi thong thả, thìn tuất nhanh chóng. Gặp vậy khiến người chấp phương (giữ vững đạo lý) bản tính không biết thông biến. Thìn tuất có khí lực thì có khả năng tạo thành việc lớn.
Người bính tý mà tứ trụ có nhâm dần, là nhâm vào nhà bính, khắc phá không đẹp.
Canh tý gặp canh ngọ là ngũ quỷ đến nhà.
Mậu dần gặp giáp dần, giáp khắc mậu. Mậu dần thuận theo sức mạnh khắc giáp dần là thiên can địa chi và nạp âm, trên dưới không hoà hợp.
Trừ phi có phúc thần đặc biệt mới là phúc lực.
Quý dậu gặp mậu dần, mậu thổ khắc quý thuỷ, lại thêm kim khí hướng về nơi tuyệt và kiếp sát nguyên thần ở bên trong.
Trừ phi gặp được tú khí trong lệnh tháng, mới có thể hữu dung, cũng lâu dài nhưng không tốt đẹp.
Canh ngọ đinh dậu vừa vượng vừa phá lẫn nhau, chính là trong vượng có phá, không thể hoàn toàn là phúc lực.
Kỷ mùi tân dậu tuy rằng gặp thực thần, nhưng là trở về tử địa, kết cuộc không tốt đẹp.
Ất sửu ất mùi canh thìn canh tuất gặp mậu dần rất tốt, vận cũng như vậy.
Sách nói: nếu như gặp được cương kim cứu giúp, mậu dần muốn chống lại mà không tuyệt nên trở thành phúc lực.
Ất mão gặp mậu dần, mậu dần gặp ất mão là mệnh rất tốt đẹp.
Đan Dương Thư nói rằng: trong tam kỳ còn có hư thanh, trong tử tuyệt càng tồn tại sanh vượng.
Bởi tam hợp tam kỳ mà không hợp phần của tháng thì không quý.
Như giáp mậu canh có giờ tý ngọ mới quý, ất bính đinh có giờ dần mão mới quý.
Thiên Nguyên Biến Hoá Thư nói rằng: ất bính đinh chánh ái dậu hợi, xem thêm nạp âm có giao thiệp hay không.
Lại nói thêm: thường tam kỳ, tam hợp đới tú khí trong lệnh tháng hợp ách quý, cũng không tránh khỏi là con dòng thứ làm con nuôi, cầm đợ con (tục lệ ngày xưa, đem con bán lấy tiền, sau ba năm không chuộc lại được, con thành nô tì cho người).
Lại nói thêm: thường mệnh thấy tam hợp tam kỳ, mà năm gốc không ở tứ mạnh (bốn trưởng). Sanh mà được tứ trọng (bốn giữa), tứ quý (bốn cuối). Tháng ngày giờ tứ trọng, tứ quý luận giống nhau. Cùng với thai tháng ngày hỗ hoán thiên can hợp hoặc lục hợp mà bổn mệnh không có, đều là ngày lay động thái tuế, thường chủ xa rời quê tổ và cô lập, là người không có sức lực ít được trợ giúp. Nhưng nên đạo lý ở địa vị giả hợp mà thành tựu vậy, mệnh quý thường dựa vào để thăng tiến.
Thường người có tứ trụ đới tam kỳ tam hợp, bản thân không phải con nuôi từ dòng thứ, tương lai con cháu sẽ có con nuôi từ dòng thứ, tuỳ mẩu chi tử (con theo mẹ).
Thơ xưa nói rằng: tam hợp với tam kỳ. thanh tú thêm phì nhiêu, không là con vợ lẽ, ấy là theo mẹ con.
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀十二
凡五行怕太过相忤,如禄多则贫,马多则病,印多则孤,库多则虚。
生旺多无归宿,死绝多无激扬。
五行 不可太相伤,不可太纯粹。贵人马多升擢,常人马多奔驰。
破要伤祸,空要空尽。
所爱者不可毁,所畏者不可旺。先畏后爱为福,先爱后畏为祸。
合多不发而媚,学堂多则无成。
贵人多则巽懦而无立志,禄马太显不可以贵人论。
贵人表里足不可以常人论。
四柱俱阳,口恶心善,四柱俱阴,狠戾沉毒。
拱要拱马,拱禄,拱贵,拱福神。不要拱刑,拱祸,拱岁,拱时。
阴阳贵在均协,病伤要有克制。
凡命丙辛壬癸见戊戌,则当途刃伤折挫。
壬子、丙午、丙午、壬子水木精神,阴阳纯粹。
余位无助亦非常器,加以季秀之气,旷世无忌大德有容,乃丈夫也。
卯酉日出入之地,子午阴阳始分之宫。遇之者,令人往来不定,岁运亦然。
巳亥为两极之地,地天斡旋。寅申为三停之方,邮递往来,如人遇之多执不一。
丑未迟迟,辰戌速速。遇之令人执方,性不通变。辰戌有气,却能建立大事。
丙子人四柱有壬寅,是壬入丙家,克破不美。
庚子见庚午,是五鬼临门。
戊寅见甲寅,甲克其戊。戊寅随势克甲寅,是干支纳音,上下不和。
除别有福神,方为福力。
癸酉见戊寅,戊土克癸水,又金气向绝乡劫煞,元辰居中。
除得月令中秀气,方可为用,亦久而不佳。
庚午、丁酉互旺互破,乃旺中破也,不可全为福力。
己未、辛酉虽得食,却归死地,终久不佳。
乙丑、乙未、庚辰、庚戌见戊寅大好运亦然。
经曰:如得刚金济,戊寅欲绝不绝成福力。
乙卯见戊寅,戊寅见乙卯,是大好命。
丹阳书云:三奇之际尚有虚声,死绝之中尤存生旺。
盖三合三奇,不合月分则不贵。
如甲戊庚有子午时方贵,乙丙丁有寅卯时方贵。
天元变化书云:乙丙丁正爱酉亥,更看纳音有无交涉。
又云:凡三奇三合带月令中秀气入贵格,亦不免庶出过房作赘。
又云:凡命见三合三奇,而本年不带在四孟。生而得四仲、四季。月日时四仲、四季同论。及胎月日互换干合或六合,而本命不带,皆各日掉太岁,多主离祖孤立,为人不得力少救助。却宜义居假合而立也,
贵命则多倚仗而升进。
凡四柱带三奇三合者,本身不是过房庶出,将来子孙必有过房庶出,随母之子。
古诗云:三合与三奇,清秀更饶肥,不为过房子,便是随母儿。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#345
Gửi vào 27/09/2024 - 08:59
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
khán mệnh khẩu quyết thập tam
Thường năm thần trước mệnh là trạch xá, nếu có khí lực cùng với cát thần đến đây, chủ có nhà tốt đẹp, gia thế cao quý, con cháu vinh hiển.
Thí dụ người lệnh giáp thân thì sửu là trạch xá, sanh tháng mười hai được thiên ất đến nhà là tốt.
Nếu vô khí với hung thần đến đây, chủ nhà đó hư hao, phá hoại không sửa sang, không giữ được tổ nghiệp.
Thí dụ người lệnh canh ngọ trạch xá ở hợi, tuần giáp tý hợi lạc không vong, lại gặp kiếp sát đến đây là hung. Còn lại dựa theo điều này mà suy xét.
Một thần sau mệnh là phá trạch sát, nếu trúng nhằm phá trạch sát, chủ không có sản nghiệp của ông cha hoặc là chết nơi đất khách quê người.
Lại xem thêm nạp âm của trạch với nạp âm bổn mệnh tương sanh thì tốt. Trạch khắc thân thì nhà tốt, thân khắc trạch thì nhà tan nát.
Thí dụ lệnh giáp tý kim lấy kỷ tỵ mộc làm trạch, sanh tháng hai nên trạch vượng hợp là nhà tốt, vì thân khắc trạch nên tàn ta.
Mậu ngọ hoả lấy quý hợi thuỷ làm trạch, sanh tháng chín là trạch quan đới, sanh tháng mười là trạch kiến, sanh tháng mười một là trạch vượng.
Lại thêm gặp trạch sanh khắc thân là được nhà tốt. Nếu người sanh trong trạch quỷ vượng, có quan thì tốt, không có quan thì xấu.
Thượng mệnh lộc tuy có mà hưu vượng, luận thêm nhà đó để quản lý tốt hay xấu.
Thẩm Chi nói rằng: trạch sợ phám phá.
Như người giáp tý lấy kỷ tỵ làm trạch, như phạm chữ hợi là trạch bị phá, , mệnh vốn hơi mỏng, thái tuế xung năm cũng dừng phá lại, phải là thời gian lâu mới có thể đoán.
Như người bính tý được tân tỵ là trạch, gặp lưu niên ất hợi. Vận số tốt ngược lại khởi đầu hưng thịnhmoi71 ứng.
Thường năm thần sau mệnh là ruộng vườn, nếu ở nơi có khí lực lại thêm phúc thần đến đó, chủ ruộng vườn tăng thêm, kho vựa sung túc. Ví như người giáp tý ruộng vườn ở mùi, sanh tháng sáu thổ được vượng khí, lại gặp thiên ất quý nhân thì tốt.
Nếu gặp nơi không có khí lực lại thêm hung thần tới đó, chủ ruộng vườn cằn cỗi, kho vựa trống rỗng.
Ví như người mậu tý ruộng vườn ở quý mùi, sanh tháng sáu tuần giáp thân mùi lạc không vong. Còn lại dựa theo lệ đó.
Quỷ Cốc Khiển Văn nói rằng: mã không có hại "tài phá", lộc không quỷ "quỷ khắc", thực không có vong "không vong", địa chi hợp không có nguyên "nguyên thần", thiên can hợp không có ách "lục ách", vượng không có tang "tang môn", suy không có điếu "điếu khách", thê không có nhận "dương nhận", tài không có phi "phi liêm", mạnh (đầu, trưởng) không có cô "cô thần", quý (cuối, út) không có quả "quả tú", bản thân trọng cần quỷ, lộc trọng cần quan. Chồng cần ít, vợ cần nhiều; tốt cần hiển lộ , hung cần tiềm tàng. Thiên can địa chi mất hoà hợp nên ngăn trở, vợ chồng lỡ thời nên xấu. Tứ trụ chủ là gốc, lộc mã qua lại cần phân biệt kiến hay phá. Thiên ất giúp đỡ, tướng đức là xung, và làm ra tôn ti. Có gốc mà không có mầm là thật sự nghèo nhưng chấp nhận được, ăn ngon ngọt mà bổn khí tuyệt nên hoa nhiều dù có trái mà thiếu mùi vị .
Nếu quý thần đang ở vị trí, các sát ẩn náu, tam nguyên vượng tướng hãy tập trung vào thần sát.
Trong mệnh dụng sát lấy ngũ hành làm gốc, như ngũ hành đắc địa mà không có quý thì sát cũng là quý, tuy rằng có ác sát mà không có hại đối vợi sự việc. Nếu ngũ hành không đắc địa cho dù có cát sát cũng phát mà không bền, như hoa trong tháng mùa đông vậy.
Nạp âm là cân nhắc cử động của trời đất vậy, dịch mã học đường ở vị trí trường sanh, tài năng của quan chức ở nơi vượng tướng, văn chương phú quý ở đất của ấn khố. Như gặp suy bại sẽ mất ba phần, thêm gặp tử tuyệt thì mười phần bỏ hết phân nửa. Rất kỵ không vong, xung, khắc, không nên bị hình hại tiêu diệt. Cho nên đồng nguyên tương thành (cùng nguồn bổ xung cho nhau) thì toàn bộ cử động của trời đất căn bản là mạnh mẽ. "Đồng nguyên tương thành bản chất của số là trên hết còn ứng số thì kế tiếp". Đồng loại tương thương (cùng loại thương tổn lẫn nhau) thì địa chi khí tán không có hợp trở lại "Đồng loại tương thương kiểu như đinh mùi hình đinh sửu". Quản Lộ nói: ngũ hành hỗ vượng (trao đổi thịnh vượng cho nhau), tuy rằng xung nhưng khí bền chặt. Ngũ hành khắc nhau tuy rằng hợp mà khí phân tán, đó là ý nghĩa vậy.
Có thể hỏi đời người về công danh phú quý cả đời, có một ngày nào đó bỗng nhiên nổi lên hưng thịnh bất ngờ, có ngày nào bị cách chức mà trong lúc đang phấn phát, có cả nửa đời chìm đắm mà cuối đời lại thành tựu. Những trường hợp đó như thế nào?
Trả lời: chẳng qua là số mệnh vậy. Phú quý cả đời chính là trong trụ bản thân chủ chuyên vượng, nó vị trí thích hợp của cát thần hoặc quan ấn tài thực, mỗi thứ đều đới lộc đắc lệnh, không nghiêng lệch, không bè nhóm, không hình xung khắc hại. Ra ngoài đi vận từng bước đều tốt, cho nên có thể thành tài năng chấn diệu. Kế thừa cơ nghiệp của người đi trước, lập công danh đương đại. Không rước lấy dèm pha, dị nghị, luôn bảo vệ mình trước sau như một đó là mệnh vận sanh vượng thể dụng đều đắc là lý do vậy.
Nó có một ngày bỗng nhiên nổi lên hưng thịnh bất ngờ, giống như trong trụ thích hợp dụng quý thần, tất cả đều đắc vị và vượng, mà lại hợp cách. Nhưng mà nhật chủ vô lực, không thể gánh nỗi phúc của mình, cho nên nhọc nhằn vất vả. Chợt gặp vận tốt sanh phù can ngày, được cường vượng của nguyên mệnh, dụng thần mới là cái công hiệu của mình. Mình nhân cơ hội đó thừa hưởng, hổ khiếu phong sanh (cọp gầm gây ra gió) nên đại phát giàu sang. Là sự trợ giúp khí hoà hợp, suy mà gặp vượng, cho nên nghênh đón cái tốt nên phát, trước sau khác hẳn nhau.
Cũng có trường hợp nhật chủ cường vượng, ngũ hành toàn sát không lẫn lộn. Nhưng khổ nổi căn gốc vốn là không có chế phục, nên phú quý không thành tựu. Chỉ có đợi vận đến chế phục sát hoá thành quyền lực, công danh hiển đạt vượt qua mọi người, chế thần lực vượng sẽ phát phúc phi thường. Cho nên hưng thịnh bất ngờ. Giống như từ nghèo hèn lên đến cực phẩm, hoàn toàn do đi vận đắc địa mới gặp sự hưng thịnh của nó, nếu như vận không đến chỉ là người tầm thường vậy.
Người cả đời nỗ lực mà nửa đường đổ nát, chính là trong trụ nhật chủ cường vượng, dụng thần cũng vượng, sức lực của mỗi thần ổn thoả nhau. Là con đức hạnh của phú thất chu môn (thời xưa, vương hầu quý tộc đều sơn nhà màu đỏ. Sau phiếm chỉ nhà phú quý là chu môn 朱門), đến khi thành người lớn tự lập cần phải có sao tốt đẹp. Nếu đại vận đến với nguyên mệnh, thấy tài của nó thì tranh đoạt, vì quan của nó mà thương tổn, đến với ấn thì huỷ hoại, gặp thực của nó thì tiêu diệt. Gặp phải vận không may như vậy hoạ nói không nổi, vì thế những năm thịnh vượng gặp sụp đổ thì không phát được.
Như vận xấu đều đã qua, lại gặp vận tốt nâng đỡ trợ giúp, khiến dụng thần đều sửa đổi. Thí dụ như mầm khô gặp mưa, bỗng nhiên phát triễn mạnh. Lông chim hồng gặp gió vụt bay không thể chống lại.
Nếu nửa đời gian nan trắc trở mà cuối đời thành tựu chính là tứ trụ bản thân cường, có dương nhận tỷ kiên đều tranh vượng. Chỉ tài quan sát thần các vật hư ảo không thiết thực, coi thường tuổi trẻ không sức lực để thành đạt công danh. Ra khỏi nhà đi vận lại không phải là đất phúc, vì thế một đời nghèo đói nhọc nhằn vất vả, đổ nát thẳng đến tuổi già.
Bỗng nhiên gặp vận tốt đẹp, có thể bù đắp tài quan sát các loại, lợi dụng sát thành sức mạnh, chế phục dương nhận. Hoặc được quyền quý mà phô bày, có thể bắt đầu tài sản mà phát phúc, nên thuận theo ngũ hành trong đục, lấy vận mình gặp được mà phân biệt.
Ôi mệnh có cùng khốn và hiển đạt, phú quý do trời Khổng Tử đã nói thế, làm sao trí lực của con người có khả năng thay đổi được đây!
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀十三
凡命前五辰为宅舍,若遇有气及吉神临之,主有好宅,门阀崇峻,子孙华显。
假令甲申人宅舍在丑,十二月生得,天乙临宅为吉。
若居无气及凶神临之,主其宅虚耗,破坏不完,祖业不守。
假令庚午人宅舍在亥,甲子旬亥落空亡,又遇劫杀临之为凶。余准此推。
命后一辰为破宅煞,若在破宅煞中,主无父祖产业或客死他乡。
又看宅纳音与本命纳音相生则吉。宅克身得好宅,身克宅必破散。
假令甲子金以己巳木为宅,二月生系宅旺合有好宅,以身克宅后当破落。
戊午火以癸亥木为宅,九月生宅冠带,十月生宅建,十一月生宅旺。
又值宅生克身必得好宅。若宅鬼旺中生者,有官则吉,无官则凶。
凡禄命虽有休旺,更论其宅以办吉凶。
沈芝云:宅怕犯破。
如甲子人以己巳是宅,如犯亥字其宅受破,命元稍薄,太岁冲年亦须破,须是为长方可断。
如丙子人得辛巳金为宅,遇乙亥流年之类是也。命好亦更动兴作方应。
凡命后五辰为田园,若居有气之乡又福神临之。主田园盈野仓库充实。假令甲子人田园在未,六月生土乘旺气,又逢天乙贵为吉。
若遇无气之乡又凶神临之,主田园瘠薄仓库空虚。
假令戊子人田园在癸未,六月生甲申旬,未落空亡。余准此例。
鬼谷遣文云:马无害“财破”禄无鬼“鬼克”食无亡“空亡”支合无元“元辰”干合无厄“六厄”旺无丧“丧门”衰无吊“吊客”妻无刃“羊刃”财无飞“飞廉”孟无孤“孤辰”季无寡“寡宿”体重须鬼,禄重须官。夫须少,妻须倍,吉须显然,凶须沉味。支干失和而塞,夫妇失时而凶。四柱主本,禄马往来,须分建破。天乙扶持,将德是冲,更办尊卑。有根而无苗实贫而尚可,甘食本气绝而花繁纵子,成而味拙至。
若贵神当位,诸煞伏藏,三元旺相,岂专神煞。
命中用煞,以五行为本,如五行得地无贵,煞而亦贵,虽有恶煞无害于事。若五行不得地,纵有吉煞,亦发不久,如冬月中花耳。
纳音者天地之舞数也,驿马学堂居长生之位,才能官职在旺相之乡,文章富贵处印库之地。如逢衰败则灭三分之一,更遇死绝则去十分之半。切忌空亡冲克,不宜刑害吞食。故同源相成,则天地舞全基本强壮。“同源相成质数为上应数次之”同类相伤,则支神气散理无复合“同类相伤如丁未刑丁丑之类”管辂曰:五行互旺,虽冲气完。五行相克,虽合气散,此之谓也。
或问人生,有始终功名富贵,有一旦崛起忽然骤兴,有始终剥落而中间奋发,有半世淹寋而晚年成就。其故何也?
答曰:莫非命也。其始终富贵,乃柱中身主专旺,其所用吉神或官印财食,俱各带禄得令,不偏不党,无刑冲克害。出门行运步步皆吉,故能成材能振耀。绍前人之基业,立当代之功名。不招谗谤不致伤害,保其终始,是命运生旺,体用俱得故也。
其一旦崛起忽然骤兴,由柱中所用贵神,悉皆得位乘旺,又且合格。奈日主无力,不能胜任其福,所以劳困堰寋。倏逢好运,生扶日干,得其强健元命,用神方为我用。我因乘之,虎啸风生大发富贵。是偏气乘和,衰以遇旺,故迎吉而发,前后迥异。
亦有日主强旺,五行煞纯不杂。奈根本原无制伏,富贵不成。惟待运来制伏煞神,化为权柄,功名显达出类超群,制神力旺发福非常。所以骤兴。由贫贱而至极品,全由行运得地方见其兴,如运不至即常人耳。
其始终奋发而中间剥落者,乃柱中日主健旺,用神亦旺,各相力停。为富室朱门之贤子,及其长大成立,要逢好曜。若大运加临元命,见其财而夺之,因其官而伤之,临其印而坏之,逢其食而枭之。遭际此运祸不胜言,所以盛年见倾而不发。
如其恶运一去,又逢好运扶持,使用神一新。譬如枯苗得雨,勃然而兴。鸿毛遇风,飘然而举,不可御也。
若半世淹蹇,晚年成就,乃四柱身强,阳刃比肩,又各争旺。惟财官煞神等物虚浮,轻少无力而成功名。出门行运又非作福之地,所以一生,饥寒劳苦剥落,直至晚年。
顿逢好运,补起财官煞神等物,假煞为权,制伏阳刃。或得权贵而显扬,或起资财而发福,当随五行清浊,以其所遇之运别之。
嗟夫穷通有命,富贵在天,孔子有是言也,岂人智力所能移易乎哉。
.
khán mệnh khẩu quyết thập tam
Thường năm thần trước mệnh là trạch xá, nếu có khí lực cùng với cát thần đến đây, chủ có nhà tốt đẹp, gia thế cao quý, con cháu vinh hiển.
Thí dụ người lệnh giáp thân thì sửu là trạch xá, sanh tháng mười hai được thiên ất đến nhà là tốt.
Nếu vô khí với hung thần đến đây, chủ nhà đó hư hao, phá hoại không sửa sang, không giữ được tổ nghiệp.
Thí dụ người lệnh canh ngọ trạch xá ở hợi, tuần giáp tý hợi lạc không vong, lại gặp kiếp sát đến đây là hung. Còn lại dựa theo điều này mà suy xét.
Một thần sau mệnh là phá trạch sát, nếu trúng nhằm phá trạch sát, chủ không có sản nghiệp của ông cha hoặc là chết nơi đất khách quê người.
Lại xem thêm nạp âm của trạch với nạp âm bổn mệnh tương sanh thì tốt. Trạch khắc thân thì nhà tốt, thân khắc trạch thì nhà tan nát.
Thí dụ lệnh giáp tý kim lấy kỷ tỵ mộc làm trạch, sanh tháng hai nên trạch vượng hợp là nhà tốt, vì thân khắc trạch nên tàn ta.
Mậu ngọ hoả lấy quý hợi thuỷ làm trạch, sanh tháng chín là trạch quan đới, sanh tháng mười là trạch kiến, sanh tháng mười một là trạch vượng.
Lại thêm gặp trạch sanh khắc thân là được nhà tốt. Nếu người sanh trong trạch quỷ vượng, có quan thì tốt, không có quan thì xấu.
Thượng mệnh lộc tuy có mà hưu vượng, luận thêm nhà đó để quản lý tốt hay xấu.
Thẩm Chi nói rằng: trạch sợ phám phá.
Như người giáp tý lấy kỷ tỵ làm trạch, như phạm chữ hợi là trạch bị phá, , mệnh vốn hơi mỏng, thái tuế xung năm cũng dừng phá lại, phải là thời gian lâu mới có thể đoán.
Như người bính tý được tân tỵ là trạch, gặp lưu niên ất hợi. Vận số tốt ngược lại khởi đầu hưng thịnhmoi71 ứng.
Thường năm thần sau mệnh là ruộng vườn, nếu ở nơi có khí lực lại thêm phúc thần đến đó, chủ ruộng vườn tăng thêm, kho vựa sung túc. Ví như người giáp tý ruộng vườn ở mùi, sanh tháng sáu thổ được vượng khí, lại gặp thiên ất quý nhân thì tốt.
Nếu gặp nơi không có khí lực lại thêm hung thần tới đó, chủ ruộng vườn cằn cỗi, kho vựa trống rỗng.
Ví như người mậu tý ruộng vườn ở quý mùi, sanh tháng sáu tuần giáp thân mùi lạc không vong. Còn lại dựa theo lệ đó.
Quỷ Cốc Khiển Văn nói rằng: mã không có hại "tài phá", lộc không quỷ "quỷ khắc", thực không có vong "không vong", địa chi hợp không có nguyên "nguyên thần", thiên can hợp không có ách "lục ách", vượng không có tang "tang môn", suy không có điếu "điếu khách", thê không có nhận "dương nhận", tài không có phi "phi liêm", mạnh (đầu, trưởng) không có cô "cô thần", quý (cuối, út) không có quả "quả tú", bản thân trọng cần quỷ, lộc trọng cần quan. Chồng cần ít, vợ cần nhiều; tốt cần hiển lộ , hung cần tiềm tàng. Thiên can địa chi mất hoà hợp nên ngăn trở, vợ chồng lỡ thời nên xấu. Tứ trụ chủ là gốc, lộc mã qua lại cần phân biệt kiến hay phá. Thiên ất giúp đỡ, tướng đức là xung, và làm ra tôn ti. Có gốc mà không có mầm là thật sự nghèo nhưng chấp nhận được, ăn ngon ngọt mà bổn khí tuyệt nên hoa nhiều dù có trái mà thiếu mùi vị .
Nếu quý thần đang ở vị trí, các sát ẩn náu, tam nguyên vượng tướng hãy tập trung vào thần sát.
Trong mệnh dụng sát lấy ngũ hành làm gốc, như ngũ hành đắc địa mà không có quý thì sát cũng là quý, tuy rằng có ác sát mà không có hại đối vợi sự việc. Nếu ngũ hành không đắc địa cho dù có cát sát cũng phát mà không bền, như hoa trong tháng mùa đông vậy.
Nạp âm là cân nhắc cử động của trời đất vậy, dịch mã học đường ở vị trí trường sanh, tài năng của quan chức ở nơi vượng tướng, văn chương phú quý ở đất của ấn khố. Như gặp suy bại sẽ mất ba phần, thêm gặp tử tuyệt thì mười phần bỏ hết phân nửa. Rất kỵ không vong, xung, khắc, không nên bị hình hại tiêu diệt. Cho nên đồng nguyên tương thành (cùng nguồn bổ xung cho nhau) thì toàn bộ cử động của trời đất căn bản là mạnh mẽ. "Đồng nguyên tương thành bản chất của số là trên hết còn ứng số thì kế tiếp". Đồng loại tương thương (cùng loại thương tổn lẫn nhau) thì địa chi khí tán không có hợp trở lại "Đồng loại tương thương kiểu như đinh mùi hình đinh sửu". Quản Lộ nói: ngũ hành hỗ vượng (trao đổi thịnh vượng cho nhau), tuy rằng xung nhưng khí bền chặt. Ngũ hành khắc nhau tuy rằng hợp mà khí phân tán, đó là ý nghĩa vậy.
Có thể hỏi đời người về công danh phú quý cả đời, có một ngày nào đó bỗng nhiên nổi lên hưng thịnh bất ngờ, có ngày nào bị cách chức mà trong lúc đang phấn phát, có cả nửa đời chìm đắm mà cuối đời lại thành tựu. Những trường hợp đó như thế nào?
Trả lời: chẳng qua là số mệnh vậy. Phú quý cả đời chính là trong trụ bản thân chủ chuyên vượng, nó vị trí thích hợp của cát thần hoặc quan ấn tài thực, mỗi thứ đều đới lộc đắc lệnh, không nghiêng lệch, không bè nhóm, không hình xung khắc hại. Ra ngoài đi vận từng bước đều tốt, cho nên có thể thành tài năng chấn diệu. Kế thừa cơ nghiệp của người đi trước, lập công danh đương đại. Không rước lấy dèm pha, dị nghị, luôn bảo vệ mình trước sau như một đó là mệnh vận sanh vượng thể dụng đều đắc là lý do vậy.
Nó có một ngày bỗng nhiên nổi lên hưng thịnh bất ngờ, giống như trong trụ thích hợp dụng quý thần, tất cả đều đắc vị và vượng, mà lại hợp cách. Nhưng mà nhật chủ vô lực, không thể gánh nỗi phúc của mình, cho nên nhọc nhằn vất vả. Chợt gặp vận tốt sanh phù can ngày, được cường vượng của nguyên mệnh, dụng thần mới là cái công hiệu của mình. Mình nhân cơ hội đó thừa hưởng, hổ khiếu phong sanh (cọp gầm gây ra gió) nên đại phát giàu sang. Là sự trợ giúp khí hoà hợp, suy mà gặp vượng, cho nên nghênh đón cái tốt nên phát, trước sau khác hẳn nhau.
Cũng có trường hợp nhật chủ cường vượng, ngũ hành toàn sát không lẫn lộn. Nhưng khổ nổi căn gốc vốn là không có chế phục, nên phú quý không thành tựu. Chỉ có đợi vận đến chế phục sát hoá thành quyền lực, công danh hiển đạt vượt qua mọi người, chế thần lực vượng sẽ phát phúc phi thường. Cho nên hưng thịnh bất ngờ. Giống như từ nghèo hèn lên đến cực phẩm, hoàn toàn do đi vận đắc địa mới gặp sự hưng thịnh của nó, nếu như vận không đến chỉ là người tầm thường vậy.
Người cả đời nỗ lực mà nửa đường đổ nát, chính là trong trụ nhật chủ cường vượng, dụng thần cũng vượng, sức lực của mỗi thần ổn thoả nhau. Là con đức hạnh của phú thất chu môn (thời xưa, vương hầu quý tộc đều sơn nhà màu đỏ. Sau phiếm chỉ nhà phú quý là chu môn 朱門), đến khi thành người lớn tự lập cần phải có sao tốt đẹp. Nếu đại vận đến với nguyên mệnh, thấy tài của nó thì tranh đoạt, vì quan của nó mà thương tổn, đến với ấn thì huỷ hoại, gặp thực của nó thì tiêu diệt. Gặp phải vận không may như vậy hoạ nói không nổi, vì thế những năm thịnh vượng gặp sụp đổ thì không phát được.
Như vận xấu đều đã qua, lại gặp vận tốt nâng đỡ trợ giúp, khiến dụng thần đều sửa đổi. Thí dụ như mầm khô gặp mưa, bỗng nhiên phát triễn mạnh. Lông chim hồng gặp gió vụt bay không thể chống lại.
Nếu nửa đời gian nan trắc trở mà cuối đời thành tựu chính là tứ trụ bản thân cường, có dương nhận tỷ kiên đều tranh vượng. Chỉ tài quan sát thần các vật hư ảo không thiết thực, coi thường tuổi trẻ không sức lực để thành đạt công danh. Ra khỏi nhà đi vận lại không phải là đất phúc, vì thế một đời nghèo đói nhọc nhằn vất vả, đổ nát thẳng đến tuổi già.
Bỗng nhiên gặp vận tốt đẹp, có thể bù đắp tài quan sát các loại, lợi dụng sát thành sức mạnh, chế phục dương nhận. Hoặc được quyền quý mà phô bày, có thể bắt đầu tài sản mà phát phúc, nên thuận theo ngũ hành trong đục, lấy vận mình gặp được mà phân biệt.
Ôi mệnh có cùng khốn và hiển đạt, phú quý do trời Khổng Tử đã nói thế, làm sao trí lực của con người có khả năng thay đổi được đây!
Link đến bản chữ Hoa:
看命口诀十三
凡命前五辰为宅舍,若遇有气及吉神临之,主有好宅,门阀崇峻,子孙华显。
假令甲申人宅舍在丑,十二月生得,天乙临宅为吉。
若居无气及凶神临之,主其宅虚耗,破坏不完,祖业不守。
假令庚午人宅舍在亥,甲子旬亥落空亡,又遇劫杀临之为凶。余准此推。
命后一辰为破宅煞,若在破宅煞中,主无父祖产业或客死他乡。
又看宅纳音与本命纳音相生则吉。宅克身得好宅,身克宅必破散。
假令甲子金以己巳木为宅,二月生系宅旺合有好宅,以身克宅后当破落。
戊午火以癸亥木为宅,九月生宅冠带,十月生宅建,十一月生宅旺。
又值宅生克身必得好宅。若宅鬼旺中生者,有官则吉,无官则凶。
凡禄命虽有休旺,更论其宅以办吉凶。
沈芝云:宅怕犯破。
如甲子人以己巳是宅,如犯亥字其宅受破,命元稍薄,太岁冲年亦须破,须是为长方可断。
如丙子人得辛巳金为宅,遇乙亥流年之类是也。命好亦更动兴作方应。
凡命后五辰为田园,若居有气之乡又福神临之。主田园盈野仓库充实。假令甲子人田园在未,六月生土乘旺气,又逢天乙贵为吉。
若遇无气之乡又凶神临之,主田园瘠薄仓库空虚。
假令戊子人田园在癸未,六月生甲申旬,未落空亡。余准此例。
鬼谷遣文云:马无害“财破”禄无鬼“鬼克”食无亡“空亡”支合无元“元辰”干合无厄“六厄”旺无丧“丧门”衰无吊“吊客”妻无刃“羊刃”财无飞“飞廉”孟无孤“孤辰”季无寡“寡宿”体重须鬼,禄重须官。夫须少,妻须倍,吉须显然,凶须沉味。支干失和而塞,夫妇失时而凶。四柱主本,禄马往来,须分建破。天乙扶持,将德是冲,更办尊卑。有根而无苗实贫而尚可,甘食本气绝而花繁纵子,成而味拙至。
若贵神当位,诸煞伏藏,三元旺相,岂专神煞。
命中用煞,以五行为本,如五行得地无贵,煞而亦贵,虽有恶煞无害于事。若五行不得地,纵有吉煞,亦发不久,如冬月中花耳。
纳音者天地之舞数也,驿马学堂居长生之位,才能官职在旺相之乡,文章富贵处印库之地。如逢衰败则灭三分之一,更遇死绝则去十分之半。切忌空亡冲克,不宜刑害吞食。故同源相成,则天地舞全基本强壮。“同源相成质数为上应数次之”同类相伤,则支神气散理无复合“同类相伤如丁未刑丁丑之类”管辂曰:五行互旺,虽冲气完。五行相克,虽合气散,此之谓也。
或问人生,有始终功名富贵,有一旦崛起忽然骤兴,有始终剥落而中间奋发,有半世淹寋而晚年成就。其故何也?
答曰:莫非命也。其始终富贵,乃柱中身主专旺,其所用吉神或官印财食,俱各带禄得令,不偏不党,无刑冲克害。出门行运步步皆吉,故能成材能振耀。绍前人之基业,立当代之功名。不招谗谤不致伤害,保其终始,是命运生旺,体用俱得故也。
其一旦崛起忽然骤兴,由柱中所用贵神,悉皆得位乘旺,又且合格。奈日主无力,不能胜任其福,所以劳困堰寋。倏逢好运,生扶日干,得其强健元命,用神方为我用。我因乘之,虎啸风生大发富贵。是偏气乘和,衰以遇旺,故迎吉而发,前后迥异。
亦有日主强旺,五行煞纯不杂。奈根本原无制伏,富贵不成。惟待运来制伏煞神,化为权柄,功名显达出类超群,制神力旺发福非常。所以骤兴。由贫贱而至极品,全由行运得地方见其兴,如运不至即常人耳。
其始终奋发而中间剥落者,乃柱中日主健旺,用神亦旺,各相力停。为富室朱门之贤子,及其长大成立,要逢好曜。若大运加临元命,见其财而夺之,因其官而伤之,临其印而坏之,逢其食而枭之。遭际此运祸不胜言,所以盛年见倾而不发。
如其恶运一去,又逢好运扶持,使用神一新。譬如枯苗得雨,勃然而兴。鸿毛遇风,飘然而举,不可御也。
若半世淹蹇,晚年成就,乃四柱身强,阳刃比肩,又各争旺。惟财官煞神等物虚浮,轻少无力而成功名。出门行运又非作福之地,所以一生,饥寒劳苦剥落,直至晚年。
顿逢好运,补起财官煞神等物,假煞为权,制伏阳刃。或得权贵而显扬,或起资财而发福,当随五行清浊,以其所遇之运别之。
嗟夫穷通有命,富贵在天,孔子有是言也,岂人智力所能移易乎哉。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
||
Tác giả của sách lịch pháp thông thư đại toàn và ngao đầu thông thư |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
4 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 4 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |