3
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
413 replies to this topic
#166
Gửi vào 09/07/2024 - 01:43
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Tài Vượng Sanh Quan
"Kế Thiện Thiên" nói: giàu mà lại sang, nhất định là do tài vượng sanh quan. Bởi vì lý lẽ có tài sanh quan đã chọn tài làm dụng thần, không cần thấy quan, nếu như thấy quan thì đó là tài quan cách vậy. Trụ có thương, thực tuy là tài dồi dào cũng không thể sanh quan. Như mậu kỷ lấy hợi tý, nhâm quý làm tài, lấy dần mão giáp ất làm quan, nếu như sanh tháng nhâm tý, quý hợi, tứ trụ không thấy dần mão, giáp ất đúng là tài vượng sanh quan, như vậy mệnh vốn là giàu mà thành sang, hoặc kiểu như do bỗng lộc hay lễ vật đối đãi, nếu tài của lệnh tháng không bị tổn khắc cũng chủ thi cử đỗ đạt, có canh tân lộ ra thì không thể sanh, không luận theo cách này.
财旺生官
《继善篇》云:富而且贵,定因财旺生官。盖财有生官之理,既取财为用,不要见官,若见官则为财官格矣。柱有伤食,虽财厚亦不能生官。如戊己以亥子、壬癸为财,以寅卯甲乙为官,若生壬子、癸亥月,四柱不见寅卯甲乙,是为财旺生官,如此元命因富致贵,或纳粟及仪宾之类,若月令财无损克,亦主登科,透庚辛则不能生,不以此格论。
.
Tài Vượng Sanh Quan
"Kế Thiện Thiên" nói: giàu mà lại sang, nhất định là do tài vượng sanh quan. Bởi vì lý lẽ có tài sanh quan đã chọn tài làm dụng thần, không cần thấy quan, nếu như thấy quan thì đó là tài quan cách vậy. Trụ có thương, thực tuy là tài dồi dào cũng không thể sanh quan. Như mậu kỷ lấy hợi tý, nhâm quý làm tài, lấy dần mão giáp ất làm quan, nếu như sanh tháng nhâm tý, quý hợi, tứ trụ không thấy dần mão, giáp ất đúng là tài vượng sanh quan, như vậy mệnh vốn là giàu mà thành sang, hoặc kiểu như do bỗng lộc hay lễ vật đối đãi, nếu tài của lệnh tháng không bị tổn khắc cũng chủ thi cử đỗ đạt, có canh tân lộ ra thì không thể sanh, không luận theo cách này.
财旺生官
《继善篇》云:富而且贵,定因财旺生官。盖财有生官之理,既取财为用,不要见官,若见官则为财官格矣。柱有伤食,虽财厚亦不能生官。如戊己以亥子、壬癸为财,以寅卯甲乙为官,若生壬子、癸亥月,四柱不见寅卯甲乙,是为财旺生官,如此元命因富致贵,或纳粟及仪宾之类,若月令财无损克,亦主登科,透庚辛则不能生,不以此格论。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#167
Gửi vào 09/07/2024 - 01:51
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Thiên Nguyên Toạ Tài
Như ngày canh thìn, tân mão sanh vào mùa xuân có giáp ất mộc là tài, thích có mậu kỷ là ấn sanh mình, nhâm quý là thực sanh tài, kỵ canh tân kim cướp đoạt, rất không nên tuế gặp phải quan sát, tức tháng mùa xuân thì kim nhược, không thể gánh vác, ngược lại không phải là phúc. Ngày giáp ngọ, ất mùi sanh mùa hạ có kỷ thổ là tài; ngày giáp thìn sanh mùa hạ có mậu thổ là tài, ngày bính tuất, đinh sửu sanh mùa thu tân kim là tài, hỷ kỵ đều giống với phần ở trên.
Chỉ hai ngày nhâm ngọ, quý tỵ là lộc mã đồng hương, không chỉ tập trung vào tài để luận.
天元坐财
如庚辰、辛卯日,春生,甲乙木为财,喜戊己印生身,壬癸食生财,忌庚辛金劫夺,切不可岁逢官煞,即春月金弱,不能胜任,反不为福。甲午、乙未日夏生,己土为财;甲辰日夏生,戊土为财;丙戌、丁丑日秋生,辛金为财,喜忌俱与前同。惟壬午、癸巳二日,禄马同乡,不专以财论。
.
Thiên Nguyên Toạ Tài
Như ngày canh thìn, tân mão sanh vào mùa xuân có giáp ất mộc là tài, thích có mậu kỷ là ấn sanh mình, nhâm quý là thực sanh tài, kỵ canh tân kim cướp đoạt, rất không nên tuế gặp phải quan sát, tức tháng mùa xuân thì kim nhược, không thể gánh vác, ngược lại không phải là phúc. Ngày giáp ngọ, ất mùi sanh mùa hạ có kỷ thổ là tài; ngày giáp thìn sanh mùa hạ có mậu thổ là tài, ngày bính tuất, đinh sửu sanh mùa thu tân kim là tài, hỷ kỵ đều giống với phần ở trên.
Chỉ hai ngày nhâm ngọ, quý tỵ là lộc mã đồng hương, không chỉ tập trung vào tài để luận.
天元坐财
如庚辰、辛卯日,春生,甲乙木为财,喜戊己印生身,壬癸食生财,忌庚辛金劫夺,切不可岁逢官煞,即春月金弱,不能胜任,反不为福。甲午、乙未日夏生,己土为财;甲辰日夏生,戊土为财;丙戌、丁丑日秋生,辛金为财,喜忌俱与前同。惟壬午、癸巳二日,禄马同乡,不专以财论。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#168
Gửi vào 09/07/2024 - 04:18
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Luận Thiên Tài
Thế nào gọi là thiên tài? Chính là trường hợp của giáp thấy mậu, ất thấy kỷ. Chẳng phài vợ mang đến, mà chính là tài của mọi người. Rất kỵ có anh chị em chia đoạt, trụ không có quan tinh thì trăm mối tai hoạ xãy ra.
Sách nói: thiên tài dễ lộ ra, cũng không sợ tàng ẩn, chỉ sợ chia cắt, tranh đoạt cùng với bị không vong, có một trong những điều đó thì quan chức không thành, tài sẽ không trụ. Nếu như tài nhược thì phải đợi đến nơi vượng thì vẻ vang, tài hưng vượng không đời nào không thuận lợi, chỉ sợ thân thế không có sức lực thì không thể gánh vác. Thiên tài cách, chủ là người rộng rãi hào phóng, không hẹp hòi về tiền bạc, cùng với nguời hữu tình nhưng thường dối trá, nếu đúng là đắc địa, không chỉ tiền của dồi dào mà còn có thể làm quan, vì tài hưng vượng vốn là sanh quan, đi vận vượng tướng, phúc lộc đều đến, một khi gặp đất của quan liền lập tức phát phúc. Trong trụ vốn có quan tinh, thì coi là mệnh tốt để xem, nếu nhiều huynh đệ lộ ra, cho dù vào đất của quan có phát phúc cũng nhỏ bé. Lệnh tháng thiên tài rất quan trọng, không nên gặp nhiều trong trụ.
Thiên tài sanh vượng trên trụ năm, lệnh tháng được thông khí trong trụ, chủ nhận được sản nghiệp dồi dào của đời tổ, có thể sản nghiệp bên ngoại ủng hộ. Rất cần nhật chủ hưng vượng, tài tinh sanh vượng, vận hướng về nơi tài"vượng thì phát phúc. Nếu thấy hình xung phá hại, tỷ kiếp chia cắt tranh đoạt, hoặc tài tinh quá suy yếu, hay nhật chủ quá nhược, hoặc tài nhiều sanh sát, đều là mệnh cực nhọc vất vả, phá tan tổ nghiệp.
Nói chung lệnh tháng có tài chủ tuổi trẻ giàu sang, nếu lúc sanh ra không gặp đắc địa, hoặc có kiếp bại, thêm vận đến nơi hung xấu, tuổi già phá tan hết tài sản của tổ tiên, suốt đời cùng khốn, trước có giàu sau cũng bị nghèo.
Nếu năm tháng vốn không có, mà ngày giờ đới tài, đặc biệt không có kiếp bại xung khắc, sẽ chủ tự mình kiến lập gia đình, từ tuổi trung niên đến tuổi già sẽ phát lớn. Nếu trong trụ có nhiều tài mà thân nhược, tuổi trẻ đi qua đất hưu bại, luôn gặp nhiều việc không như ý muốn, tuổi trung niên trở về sau bỗng đến đất phụ mẫu, hoặc tam hợp có thể trợ giúp mình, thì bỗng nhiên hưng thịnh. Nếu tuổi trẻ được vượng, đến tuổi già mất cách cục, không chỉ gặp cảnh ngheo khổ khốn cùng và đau buồn lo lắng không yên, mà còn khởi lên thị phi, vì tài có thể lợi ích cho mình, cũng có thể mang lại sự phỉ báng. Nếu tứ trụ tương sanh, đặc biệt mang theo cách quý, không bị không vong, lại đi vận vượng, tam hợp tài tinh, tất cả đều là mệnh quý, phúc lộc của nó nông sâu, tuỳ theo cách nặng nhẹ mà bàn bạc.
Lại nói thêm: thường mệnh người có hai vị trí tài, thân nhược vẫn không trở ngại, chánh tài vốn là dụng thần, thân vượng sẽ phát tài; còn dụng thần là thiên tài thân vượng sẽ mất tiền của.
Lại nói: thiên tài và chánh tài hỷ kỵ phần lớn giống nhau, chỉ có thích quan tinh hay không thích quan tinh có chút khác biệt, có chánh tài không bằng có thiên tài, thiên tài trọng ở thật tế, phúc của nó sẽ dày, rất sợ kiếp bại, tỷ kiên, ở trụ năm rất quan trọng, ở trụ tháng thì nhẹ hơn một chút, một tên gọi khác là cô thần, một tên khác là trục mã, chủ là khắc vợ hại con, phá tài nghèo khổ, lại phải đề phòng kẻ trộm ác hại đồng loại, trong trụ vốn phạm điều cấm này, đi vận đến đất tài vượng, cũng có thể phát phúc, lại đi nơi tỷ kiếp, thối bại thì có khi bị chết, có khi gặp quan phá bại.
"Thông Minh Phú" nói: can tháng là thiên tài, không bị kiếp, không bị bại, giàu nhất nhân gian.
"Tương Tâm Phú" nói: thiên tài lộ ra, ưa việc nghĩa mà xem nhẹ tiền bạc, thích người hùa theo, ưa nói chuyện thị phi, nghiện rượu và ham thích gái đẹp, điều này cũng đúng.
"Kinh Thần Phú" nói: thiên tài mà thân vượng, nên lợi dụng làm nhà buôn.
"Áo Chỉ" nói: thiên tài có khả năng tăng thêm tuổi thọ
"Thiên Lý Mã" nói: thiên tài hiện ra ít thương vợ chánh, mà thường yêu vợ bé.
Bài ca xưa hát: thiên tài vốn là tiền của mọi người, rất kỵ can chi là anh em đến, thân cường mà tài vượng đều là phúc, nếu có mang theo quan tinh càng tuyệt diệu thay!
Lại thêm: thiên tài mà thân vượng cần có quan tinh, vận vào nơi đó phát lợi danh, anh chị em chia cắt, tranh đoạt mất, công danh không vừa ý, tai hoạ theo đến.
Lại thêm: thiên tài ở nơi tài phát quê người, bản tinh hào phóng phong lưu cần cường mạnh, nên có hai ba nhà riêng biệt, vì danh vì lợi nên nhà mình bận rộn.
论偏财
何谓偏财?乃甲见戊、乙见己之例。非妻所带,乃众人之财也。切忌有姊妹兄弟分夺,柱无官星,祸患百出。
经曰:偏财好出,亦不惧藏,唯怕分夺,及落空亡,有一于此,官将不成,财将不住。如财弱必待历旺乡而荣,财盛无往不利,但恐身势无力,不能胜任。偏财格,主人慷慨,不甚吝财,与人有情而多诈,若是得地,不止财丰,亦能旺官,以财盛自生官,运行旺相,福禄俱臻,一遇官乡,便可发福。柱中原带官星,便作好命看,若兄弟辈出,纵入官乡,发福必渺。偏财月令所带最重,不宜柱中多逢。
年上偏财生旺,月令柱中通气,主受伯叔祖考产业丰隆,或外祖产业恩养。大要日主兴隆,财星生旺,运向财旺之乡发福。若见刑冲破害,比劫分夺,或财星太衰,日主太弱,或财多生煞,皆破祖劳碌之命。
凡月令有财,主少年富贵,若生时不得地,或有劫败,更运临凶地,晚年祖财破尽,终身困穷,先富后贫。若年月本无,
日时带财,别无劫败冲克,则主自家成立,中晚之年大发。若柱中财多身弱,少年又径休败之地,多事频并,百不如意,中密年后忽临父母之地,或三合可以助我,则勃然而兴。若少年乘旺,老来脱局,不唯守穷途而ゐ惶,抑且是非蜂起,以财能利己,亦能招谤故也。若四柱相生,别带贵格,不值空亡,又行旺运,三合财星,皆是贵命,其福禄浅深,随格轻重言之。
又曰:凡人命有两位财,身弱不妨,元用正财,身旺发财,元用偏财,身旺脱财。
又云:偏正二财,喜忌大同,唯有喜官星不喜官星小异,有正财不若有偏财,偏财重实,其福则厚,最怕劫败比肩,在年最重,在月稍次,一名孤辰,一名逐马,主克妻害子,破财贫薄,又防阴贼小人同类相伤,柱中元犯此忌,运行财旺之地,亦可发福,再行比劫,退败而身死者有之,遭官破败者有之。
《通明赋》云:月上偏财,无劫无败,富甲人间。
《相心赋》云:偏财透露,轻财好义,爱人趋奉,好说是非,嗜酒贪花,亦系如此。
《惊神赋》云:偏财身旺,趁求商贾之人。
《奥旨》云:偏财能益寿延年。
《千里马》云:出现偏财,少爱正妻,多爱妾。
古歌曰:偏财元是众人财,最忌干支兄弟来,身强财旺皆为福,若带官星更妙哉!
又:偏财身旺要官星,运入乡发利名,姊妹弟兄分夺去,功名不遂祸随生。
又;偏财财位发他乡,慷慨风流性要强,别立家园三两处,因名因利自家忙。
.
Luận Thiên Tài
Thế nào gọi là thiên tài? Chính là trường hợp của giáp thấy mậu, ất thấy kỷ. Chẳng phài vợ mang đến, mà chính là tài của mọi người. Rất kỵ có anh chị em chia đoạt, trụ không có quan tinh thì trăm mối tai hoạ xãy ra.
Sách nói: thiên tài dễ lộ ra, cũng không sợ tàng ẩn, chỉ sợ chia cắt, tranh đoạt cùng với bị không vong, có một trong những điều đó thì quan chức không thành, tài sẽ không trụ. Nếu như tài nhược thì phải đợi đến nơi vượng thì vẻ vang, tài hưng vượng không đời nào không thuận lợi, chỉ sợ thân thế không có sức lực thì không thể gánh vác. Thiên tài cách, chủ là người rộng rãi hào phóng, không hẹp hòi về tiền bạc, cùng với nguời hữu tình nhưng thường dối trá, nếu đúng là đắc địa, không chỉ tiền của dồi dào mà còn có thể làm quan, vì tài hưng vượng vốn là sanh quan, đi vận vượng tướng, phúc lộc đều đến, một khi gặp đất của quan liền lập tức phát phúc. Trong trụ vốn có quan tinh, thì coi là mệnh tốt để xem, nếu nhiều huynh đệ lộ ra, cho dù vào đất của quan có phát phúc cũng nhỏ bé. Lệnh tháng thiên tài rất quan trọng, không nên gặp nhiều trong trụ.
Thiên tài sanh vượng trên trụ năm, lệnh tháng được thông khí trong trụ, chủ nhận được sản nghiệp dồi dào của đời tổ, có thể sản nghiệp bên ngoại ủng hộ. Rất cần nhật chủ hưng vượng, tài tinh sanh vượng, vận hướng về nơi tài"vượng thì phát phúc. Nếu thấy hình xung phá hại, tỷ kiếp chia cắt tranh đoạt, hoặc tài tinh quá suy yếu, hay nhật chủ quá nhược, hoặc tài nhiều sanh sát, đều là mệnh cực nhọc vất vả, phá tan tổ nghiệp.
Nói chung lệnh tháng có tài chủ tuổi trẻ giàu sang, nếu lúc sanh ra không gặp đắc địa, hoặc có kiếp bại, thêm vận đến nơi hung xấu, tuổi già phá tan hết tài sản của tổ tiên, suốt đời cùng khốn, trước có giàu sau cũng bị nghèo.
Nếu năm tháng vốn không có, mà ngày giờ đới tài, đặc biệt không có kiếp bại xung khắc, sẽ chủ tự mình kiến lập gia đình, từ tuổi trung niên đến tuổi già sẽ phát lớn. Nếu trong trụ có nhiều tài mà thân nhược, tuổi trẻ đi qua đất hưu bại, luôn gặp nhiều việc không như ý muốn, tuổi trung niên trở về sau bỗng đến đất phụ mẫu, hoặc tam hợp có thể trợ giúp mình, thì bỗng nhiên hưng thịnh. Nếu tuổi trẻ được vượng, đến tuổi già mất cách cục, không chỉ gặp cảnh ngheo khổ khốn cùng và đau buồn lo lắng không yên, mà còn khởi lên thị phi, vì tài có thể lợi ích cho mình, cũng có thể mang lại sự phỉ báng. Nếu tứ trụ tương sanh, đặc biệt mang theo cách quý, không bị không vong, lại đi vận vượng, tam hợp tài tinh, tất cả đều là mệnh quý, phúc lộc của nó nông sâu, tuỳ theo cách nặng nhẹ mà bàn bạc.
Lại nói thêm: thường mệnh người có hai vị trí tài, thân nhược vẫn không trở ngại, chánh tài vốn là dụng thần, thân vượng sẽ phát tài; còn dụng thần là thiên tài thân vượng sẽ mất tiền của.
Lại nói: thiên tài và chánh tài hỷ kỵ phần lớn giống nhau, chỉ có thích quan tinh hay không thích quan tinh có chút khác biệt, có chánh tài không bằng có thiên tài, thiên tài trọng ở thật tế, phúc của nó sẽ dày, rất sợ kiếp bại, tỷ kiên, ở trụ năm rất quan trọng, ở trụ tháng thì nhẹ hơn một chút, một tên gọi khác là cô thần, một tên khác là trục mã, chủ là khắc vợ hại con, phá tài nghèo khổ, lại phải đề phòng kẻ trộm ác hại đồng loại, trong trụ vốn phạm điều cấm này, đi vận đến đất tài vượng, cũng có thể phát phúc, lại đi nơi tỷ kiếp, thối bại thì có khi bị chết, có khi gặp quan phá bại.
"Thông Minh Phú" nói: can tháng là thiên tài, không bị kiếp, không bị bại, giàu nhất nhân gian.
"Tương Tâm Phú" nói: thiên tài lộ ra, ưa việc nghĩa mà xem nhẹ tiền bạc, thích người hùa theo, ưa nói chuyện thị phi, nghiện rượu và ham thích gái đẹp, điều này cũng đúng.
"Kinh Thần Phú" nói: thiên tài mà thân vượng, nên lợi dụng làm nhà buôn.
"Áo Chỉ" nói: thiên tài có khả năng tăng thêm tuổi thọ
"Thiên Lý Mã" nói: thiên tài hiện ra ít thương vợ chánh, mà thường yêu vợ bé.
Bài ca xưa hát: thiên tài vốn là tiền của mọi người, rất kỵ can chi là anh em đến, thân cường mà tài vượng đều là phúc, nếu có mang theo quan tinh càng tuyệt diệu thay!
Lại thêm: thiên tài mà thân vượng cần có quan tinh, vận vào nơi đó phát lợi danh, anh chị em chia cắt, tranh đoạt mất, công danh không vừa ý, tai hoạ theo đến.
Lại thêm: thiên tài ở nơi tài phát quê người, bản tinh hào phóng phong lưu cần cường mạnh, nên có hai ba nhà riêng biệt, vì danh vì lợi nên nhà mình bận rộn.
论偏财
何谓偏财?乃甲见戊、乙见己之例。非妻所带,乃众人之财也。切忌有姊妹兄弟分夺,柱无官星,祸患百出。
经曰:偏财好出,亦不惧藏,唯怕分夺,及落空亡,有一于此,官将不成,财将不住。如财弱必待历旺乡而荣,财盛无往不利,但恐身势无力,不能胜任。偏财格,主人慷慨,不甚吝财,与人有情而多诈,若是得地,不止财丰,亦能旺官,以财盛自生官,运行旺相,福禄俱臻,一遇官乡,便可发福。柱中原带官星,便作好命看,若兄弟辈出,纵入官乡,发福必渺。偏财月令所带最重,不宜柱中多逢。
年上偏财生旺,月令柱中通气,主受伯叔祖考产业丰隆,或外祖产业恩养。大要日主兴隆,财星生旺,运向财旺之乡发福。若见刑冲破害,比劫分夺,或财星太衰,日主太弱,或财多生煞,皆破祖劳碌之命。
凡月令有财,主少年富贵,若生时不得地,或有劫败,更运临凶地,晚年祖财破尽,终身困穷,先富后贫。若年月本无,
日时带财,别无劫败冲克,则主自家成立,中晚之年大发。若柱中财多身弱,少年又径休败之地,多事频并,百不如意,中密年后忽临父母之地,或三合可以助我,则勃然而兴。若少年乘旺,老来脱局,不唯守穷途而ゐ惶,抑且是非蜂起,以财能利己,亦能招谤故也。若四柱相生,别带贵格,不值空亡,又行旺运,三合财星,皆是贵命,其福禄浅深,随格轻重言之。
又曰:凡人命有两位财,身弱不妨,元用正财,身旺发财,元用偏财,身旺脱财。
又云:偏正二财,喜忌大同,唯有喜官星不喜官星小异,有正财不若有偏财,偏财重实,其福则厚,最怕劫败比肩,在年最重,在月稍次,一名孤辰,一名逐马,主克妻害子,破财贫薄,又防阴贼小人同类相伤,柱中元犯此忌,运行财旺之地,亦可发福,再行比劫,退败而身死者有之,遭官破败者有之。
《通明赋》云:月上偏财,无劫无败,富甲人间。
《相心赋》云:偏财透露,轻财好义,爱人趋奉,好说是非,嗜酒贪花,亦系如此。
《惊神赋》云:偏财身旺,趁求商贾之人。
《奥旨》云:偏财能益寿延年。
《千里马》云:出现偏财,少爱正妻,多爱妾。
古歌曰:偏财元是众人财,最忌干支兄弟来,身强财旺皆为福,若带官星更妙哉!
又:偏财身旺要官星,运入乡发利名,姊妹弟兄分夺去,功名不遂祸随生。
又;偏财财位发他乡,慷慨风流性要强,别立家园三两处,因名因利自家忙。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#169
Gửi vào 09/07/2024 - 04:29
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Thời Thượng Thiên Tài
"Hỷ Kỵ Thiên" nói: thời thượng thiên tài: rất sợ gặp anh em, như trường hợp ngày giáp thấy giờ mậu thìn, hoặc giáp tuất. Thích thấy tân là quan, nhâm quý sanh và trợ giúp, kỵ canh là sát, ất là kiếp, trong trụ không nên gặp lại mậu kỷ, nếu thân quá vượng, vận phương đông dần mão sẽ mất tiền của, còn lại các can khác suy xét theo đó. Điều này với thời thương thiên quan cách gần giống nhau, chỉ cần một vị trí, không nên gặp nhiều, thiên can lộ ra càng tuyệt diệu, ẩn tàng trong địa chi thì kế tiếp, trụ có quan, ấn trợ giúp nhau, mà nhật chủ cường mạnh, thường lấy mệnh tốt để xem. Rất sợ năm tháng xung phá, các anh em hiện ra thì phúc khí không trọn vẹn.
Thơ xưa nói: thời thượng thiên tài rất kỵ xung, bọn anh em đều là rất sợ, thích đi nơi thân vượng và quan lộc, không có lộ ra mới là quý.
时上偏财
《喜忌篇》云:时上偏财,怕逢兄弟,如甲日见戊辰或甲戌时之例。喜见辛官、壬癸生助,忌庚煞、乙劫,柱中不宜再见戊己,若身太旺,运东方寅卯则失财,余干例推。此与时上偏官格相似,只要一位,不宜多逢,天元透出为妙,支内所藏次之,柱有官印相助,日主健旺,便作好命看。大怕年月冲破,兄弟辈出,则福气不全。古诗云:时上偏财冲最忌,兄弟之辈皆为畏,喜行身旺官禄乡,别无透出方为贵。
.
Thời Thượng Thiên Tài
"Hỷ Kỵ Thiên" nói: thời thượng thiên tài: rất sợ gặp anh em, như trường hợp ngày giáp thấy giờ mậu thìn, hoặc giáp tuất. Thích thấy tân là quan, nhâm quý sanh và trợ giúp, kỵ canh là sát, ất là kiếp, trong trụ không nên gặp lại mậu kỷ, nếu thân quá vượng, vận phương đông dần mão sẽ mất tiền của, còn lại các can khác suy xét theo đó. Điều này với thời thương thiên quan cách gần giống nhau, chỉ cần một vị trí, không nên gặp nhiều, thiên can lộ ra càng tuyệt diệu, ẩn tàng trong địa chi thì kế tiếp, trụ có quan, ấn trợ giúp nhau, mà nhật chủ cường mạnh, thường lấy mệnh tốt để xem. Rất sợ năm tháng xung phá, các anh em hiện ra thì phúc khí không trọn vẹn.
Thơ xưa nói: thời thượng thiên tài rất kỵ xung, bọn anh em đều là rất sợ, thích đi nơi thân vượng và quan lộc, không có lộ ra mới là quý.
时上偏财
《喜忌篇》云:时上偏财,怕逢兄弟,如甲日见戊辰或甲戌时之例。喜见辛官、壬癸生助,忌庚煞、乙劫,柱中不宜再见戊己,若身太旺,运东方寅卯则失财,余干例推。此与时上偏官格相似,只要一位,不宜多逢,天元透出为妙,支内所藏次之,柱有官印相助,日主健旺,便作好命看。大怕年月冲破,兄弟辈出,则福气不全。古诗云:时上偏财冲最忌,兄弟之辈皆为畏,喜行身旺官禄乡,别无透出方为贵。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#170
Gửi vào 09/07/2024 - 04:37
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Khí Mệnh Tòng Tài
"Độc Bộ" nói: khí mệnh tòng tài cần phải hội họp tài, nếu gặp phải gốc rễ của khí lực, mệnh bị thương tổn không nghi ngờ. Ví như đinh sanh tháng dậu, trụ có nhiều canh tân mà nhật can vô khí, chỉ có bỏ mệnh đi theo, vận vào phương bắc là đất tài quan vượng, chính là hợp cách, đi phương nam thì tai hoạ. Bài ca xưa hát rằng: can ngày vô khí mà tài đầy bàn, bỏ mệnh đi theo là mầm của phúc, vận tài, quan vượng đều phúc và quý, như gặp gốc rễ trợ giúp ngược lại thành hoạ tai.
弃命从财
《独步》云:弃命从财,须要会财,若逢根气,命损无猜。假如丁生酉月,柱多庚辛,日干无气,只得弃命相从,运入北方财官旺地,乃为入格,南行灾。古歌云:日干无气满盘财,弃命相从是福胎,运旺财官皆皆福贵,如逢根助反为灾。
.
Khí Mệnh Tòng Tài
"Độc Bộ" nói: khí mệnh tòng tài cần phải hội họp tài, nếu gặp phải gốc rễ của khí lực, mệnh bị thương tổn không nghi ngờ. Ví như đinh sanh tháng dậu, trụ có nhiều canh tân mà nhật can vô khí, chỉ có bỏ mệnh đi theo, vận vào phương bắc là đất tài quan vượng, chính là hợp cách, đi phương nam thì tai hoạ. Bài ca xưa hát rằng: can ngày vô khí mà tài đầy bàn, bỏ mệnh đi theo là mầm của phúc, vận tài, quan vượng đều phúc và quý, như gặp gốc rễ trợ giúp ngược lại thành hoạ tai.
弃命从财
《独步》云:弃命从财,须要会财,若逢根气,命损无猜。假如丁生酉月,柱多庚辛,日干无气,只得弃命相从,运入北方财官旺地,乃为入格,南行灾。古歌云:日干无气满盘财,弃命相从是福胎,运旺财官皆皆福贵,如逢根助反为灾。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#171
Gửi vào 09/07/2024 - 04:46
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Nhật Toạ Thiên Tài
Như mậu kỷ thổ khắc thuỷ là tài, thuỷ mộ ở thìn là vậy. Bài ca xưa hát rằng: can năm khắc xuống là thiên tài, khắc nơi mộ chánh khố mở ra, tài nhập vào khố thì nhiều thóc và lụa, nhà giàu có tích luỹ vàng bạc và của cải. Như Tất trạng nguyên: kỷ tỵ quý dậu canh thìn giáp thân.
日坐天财
如戊己土克水为财,水墓辰是也。古歌云:年干克下是天财,克墓之乡正库开,财入库时多谷帛,家豪金物积成堆。如毕状元己巳、癸酉、庚辰、甲申是也。
.
Nhật Toạ Thiên Tài
Như mậu kỷ thổ khắc thuỷ là tài, thuỷ mộ ở thìn là vậy. Bài ca xưa hát rằng: can năm khắc xuống là thiên tài, khắc nơi mộ chánh khố mở ra, tài nhập vào khố thì nhiều thóc và lụa, nhà giàu có tích luỹ vàng bạc và của cải. Như Tất trạng nguyên: kỷ tỵ quý dậu canh thìn giáp thân.
日坐天财
如戊己土克水为财,水墓辰是也。古歌云:年干克下是天财,克墓之乡正库开,财入库时多谷帛,家豪金物积成堆。如毕状元己巳、癸酉、庚辰、甲申是也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#172
Gửi vào 09/07/2024 - 05:37
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Thiên Chánh Tài Hợp Luận
"Tinh Kỷ" có sanh thành tài: như giáp ất thấy mậu kỷ thổ là tài, thân tý thìn ngồi trên sanh vượng khố, đây là lý do can chi mậu thân, mậu tý, mậu thìn tạo thành một sự kết hợp. Thường mệnh hợp cách quý, ngoại trừ quý ra, đều chủ là rất giàu có, noi theo bỗng lộc của chức vị đã trải qua; còn như không hợp quý cách, lại không có phúc thần trợ giúp, cũng là dân phú hào. Nếu vốn là sanh vượng như trường hợp người giáp thấy mậu ngọ, kỷ hợi chủ giàu có. Còn lại phỏng theo đó.
Có sanh hợp tài: kiểu như các loại người giáp thấy mậu quý, người kỷ thấy quý mậu, người canh thấy giáp kỷ, chủ lớn lên tự lập phú quý.
Có tử mẫu tài, kiểu như người mệnh mộc thấy tháng hoả, ngày giờ thổ, chủ một đời thường thấy việc vui thích.
Có loại tài sát: người dần ngọ tuất thấy ất canh; người tỵ dậu sửu thấy đinh nhâm; người thân tý thìn thấy mậu quý; người hợi mão mùi thấy giáp kỷ, còn có một tên khác là u vi sát, chủ danh và lợi luôn song hành.
Có tài hội sát: người dần ngọ tuất thấy tân sửu; người tỵ dậu sửu thấy ất mùi; người thân tý thìn thấy bính tuất, người hợi mão mùi thấy mậu thìn, đây là thần tụ hợp thê tài, người gặp được chủ giàu có cùng với vợ đẹp và của hoạnh tài, nên đề phòng vợ bị người hạ độc.
Có danh vị tài: chính là trong thực thần thấy khố, như người mậu tý hoả thấy canh tuất: thực thần của mậu là canh, hoả khố ở tuất, khắc kim là tài, người gặp điều này thì một đời nhận được lộc.
Có trường sanh tài: như trường hợp giáp lấy mậu kỷ làm tài mà thấy mậu thân; quý lấy bính đinh làm tài mà thấy bính dần. Loại này thường là được tài từ bên ngoài.
Lại nói: người xem số thường lấy giáp thấy mậu, ất thấy kỷ làm tài, mà không biết rằng các loại giáp kỷ thấy bính tân; bính tân thấy mậu quý là chân tài, sanh ở nơi có khí vượng tướng chủ giàu có thịnh vượng.
Lại thêm can gốc của nạp âm thấy ngũ hành thật sự của mình: như người ất hợi trong trụ tháng ngày giờ thấy canh: ất hợi nạp âm hoả, ất canh là chân kim, can đầu vốn là tài vậy, đây là thiên tài (天財: tiền của từ trời), chủ giàu có và thoải mái.
Nếu nạp âm trái lại khắc chế can đầu, như đinh mão hoả tức thì khắc chế ất canh kim, có tên là quỷ tài, chủ một đờì được tài lâu đời, hoặc là nquan chức xảo quyệt mà khởi gia.
Mậu dần, mậu thân được bính tân; ất dậu, ất mão được mậu quý là điều chính xác. Thêm thìn tuất sửu mùi chủ là vì nghệ thuật mà thu được giàu có lớn.
偏正财合论
《精纪》有生成财,如甲乙见戊己土为财,申子辰上坐生旺库,戊申、戊辰、戊子支干成合是也。凡命入贵格,除贵外,须主大富,仍多历钱谷之任;若不入贵格,又无福神助,亦是富豪百姓。若自生自旺,甲人见戊午、己亥之例,主富。余仿此。有生合财,如甲人见戊癸,己人见癸戊,庚人见甲己等类,主成立富贵。有子母财,如木命人见火月、土日时之类,主平生多见喜事。有类财煞,寅午戌人见乙庚,巳酉丑人见丁壬,申子辰人见戊癸,亥卯未人见甲号,一名幽微煞,主名利并行。有财会煞,寅午戌人见辛丑,巳酉丑人见乙未,申子辰人见丙戌,亥卯未人见戊辰,此妻财聚会之神,遇者主富足及有美妻横财,却防妻人毒药害命。有名位财,乃食神中见库,如戊子火人见庚戌,戊食庚,火库在戌,克金为财,逢此者一生受禄。有长生财,如甲用戊己为财见戊申,癸用丙丁为财见丙寅之例,此类多得外财。又曰:术者多以甲见戊、乙见己类为财,不知甲己见丙辛、丙辛见戊癸等类为真财,生居有气旺相之位,主富盛。又纳音本干自见真五行,如乙亥人月日时中见庚,乙亥纳音火,乙庚真金,干头自是财也,此名天财,主富足优逸。若纳音反制克干头,如丁卯火却能制乙庚金,此名鬼财,主一生得世财,或为豪猾胥吏起家。戊寅、戊申得丙辛,乙酉、乙卯得戊癸,准此。更带辰戌丑未,主为艺术,大获世财。
.
Thiên Chánh Tài Hợp Luận
"Tinh Kỷ" có sanh thành tài: như giáp ất thấy mậu kỷ thổ là tài, thân tý thìn ngồi trên sanh vượng khố, đây là lý do can chi mậu thân, mậu tý, mậu thìn tạo thành một sự kết hợp. Thường mệnh hợp cách quý, ngoại trừ quý ra, đều chủ là rất giàu có, noi theo bỗng lộc của chức vị đã trải qua; còn như không hợp quý cách, lại không có phúc thần trợ giúp, cũng là dân phú hào. Nếu vốn là sanh vượng như trường hợp người giáp thấy mậu ngọ, kỷ hợi chủ giàu có. Còn lại phỏng theo đó.
Có sanh hợp tài: kiểu như các loại người giáp thấy mậu quý, người kỷ thấy quý mậu, người canh thấy giáp kỷ, chủ lớn lên tự lập phú quý.
Có tử mẫu tài, kiểu như người mệnh mộc thấy tháng hoả, ngày giờ thổ, chủ một đời thường thấy việc vui thích.
Có loại tài sát: người dần ngọ tuất thấy ất canh; người tỵ dậu sửu thấy đinh nhâm; người thân tý thìn thấy mậu quý; người hợi mão mùi thấy giáp kỷ, còn có một tên khác là u vi sát, chủ danh và lợi luôn song hành.
Có tài hội sát: người dần ngọ tuất thấy tân sửu; người tỵ dậu sửu thấy ất mùi; người thân tý thìn thấy bính tuất, người hợi mão mùi thấy mậu thìn, đây là thần tụ hợp thê tài, người gặp được chủ giàu có cùng với vợ đẹp và của hoạnh tài, nên đề phòng vợ bị người hạ độc.
Có danh vị tài: chính là trong thực thần thấy khố, như người mậu tý hoả thấy canh tuất: thực thần của mậu là canh, hoả khố ở tuất, khắc kim là tài, người gặp điều này thì một đời nhận được lộc.
Có trường sanh tài: như trường hợp giáp lấy mậu kỷ làm tài mà thấy mậu thân; quý lấy bính đinh làm tài mà thấy bính dần. Loại này thường là được tài từ bên ngoài.
Lại nói: người xem số thường lấy giáp thấy mậu, ất thấy kỷ làm tài, mà không biết rằng các loại giáp kỷ thấy bính tân; bính tân thấy mậu quý là chân tài, sanh ở nơi có khí vượng tướng chủ giàu có thịnh vượng.
Lại thêm can gốc của nạp âm thấy ngũ hành thật sự của mình: như người ất hợi trong trụ tháng ngày giờ thấy canh: ất hợi nạp âm hoả, ất canh là chân kim, can đầu vốn là tài vậy, đây là thiên tài (天財: tiền của từ trời), chủ giàu có và thoải mái.
Nếu nạp âm trái lại khắc chế can đầu, như đinh mão hoả tức thì khắc chế ất canh kim, có tên là quỷ tài, chủ một đờì được tài lâu đời, hoặc là nquan chức xảo quyệt mà khởi gia.
Mậu dần, mậu thân được bính tân; ất dậu, ất mão được mậu quý là điều chính xác. Thêm thìn tuất sửu mùi chủ là vì nghệ thuật mà thu được giàu có lớn.
偏正财合论
《精纪》有生成财,如甲乙见戊己土为财,申子辰上坐生旺库,戊申、戊辰、戊子支干成合是也。凡命入贵格,除贵外,须主大富,仍多历钱谷之任;若不入贵格,又无福神助,亦是富豪百姓。若自生自旺,甲人见戊午、己亥之例,主富。余仿此。有生合财,如甲人见戊癸,己人见癸戊,庚人见甲己等类,主成立富贵。有子母财,如木命人见火月、土日时之类,主平生多见喜事。有类财煞,寅午戌人见乙庚,巳酉丑人见丁壬,申子辰人见戊癸,亥卯未人见甲号,一名幽微煞,主名利并行。有财会煞,寅午戌人见辛丑,巳酉丑人见乙未,申子辰人见丙戌,亥卯未人见戊辰,此妻财聚会之神,遇者主富足及有美妻横财,却防妻人毒药害命。有名位财,乃食神中见库,如戊子火人见庚戌,戊食庚,火库在戌,克金为财,逢此者一生受禄。有长生财,如甲用戊己为财见戊申,癸用丙丁为财见丙寅之例,此类多得外财。又曰:术者多以甲见戊、乙见己类为财,不知甲己见丙辛、丙辛见戊癸等类为真财,生居有气旺相之位,主富盛。又纳音本干自见真五行,如乙亥人月日时中见庚,乙亥纳音火,乙庚真金,干头自是财也,此名天财,主富足优逸。若纳音反制克干头,如丁卯火却能制乙庚金,此名鬼财,主一生得世财,或为豪猾胥吏起家。戊寅、戊申得丙辛,乙酉、乙卯得戊癸,准此。更带辰戌丑未,主为艺术,大获世财。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#173
Gửi vào 09/07/2024 - 10:30
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Luận Ấn Thụ
Ấn thụ chính là tên của ngũ hành sanh mình. Như các loại giáp ất ở tháng hợi tý, bính đinh ở tháng dần mão, chính là nguòn gốc khí của mình, là sanh khí, là phụ mẫu, có khả năng giúp đỡ mình không bị thương tổn khắc chế bởi quan tinh, ví như người sanh được vật giúp đỡ, nuôi dưỡng, nhận được phúc hiện hữu, hỏi sao không là điều tuyệt diệu? Cách này chủ thông minh, nhiều trí tuệ, bản tính thương yêu , lời nói thiện lương, ăn nói chậm chạp, ngoại hình giàu có, có khiếu ăn uống, một đời ít bệnh tật, không gặp hung hiểm bất ngờ, chỉ là keo kiệt, làm quan thường là chức quan ngay thẳng, được chiếu thư của vua bất kể là quan văn hay quan võ, đều nắm giữ ấn tín, thích quan tinh vì quan có thể sanh ấn.
Sách nói: ấn nhờ quan sanh. Lại nói: có quan mà không có ấn tức là chẳng phải quan thật sự, có ấn có quan mới đúng là phúc dày. Kỵ tài tinh vì tài có thể phá ấn.
Sách nói: ấn thụ vào tháng năm sanh kỵ thấy tài tinh, vận vào nơi tài, tức là nên rút lui tránh xa nơi đó. Tuế vận luận giống nhau, ấn thụ không bị tổn thương, thường được phụ mẫu che chở ân đức, tài sản hiện hữu, an hưởng giàu sang. So sánh các mệnh với nhau, nên lấy nhiều ấn thụ là tốt nhất, trụ tháng rất quan trọng, ngày giờ thì tiếp theo, can năm tuy quan trọng, đều phải quy lộc ở trụ tháng, ngày, giờ mới có thể chọn dùng, nếu trụ năm lộ ấn mà tháng ngay giờ không có cũng không phải hữu dụng. tứ trụ vốn có quan tinh thì tuyệt diệu, nếu ấn thụ ít mà quan quỷ nhiều, hoặc hợp cách khác, lại không thể chuyên bàn về ấn thụ, nếu ấn thụ gặp các cách: củng lộc, chuyên lộc, quy lộc, thử quý, giáp quý, thời quý càng là đặc biệt kỳ lạ, chỉ là có ít con hoặc không có con, người có nhiều ấn thụ rõ ràng cô độc.
Thường ấn thụ thích có thất sát, nhưng thất sát không nên nhiều quá, nhiều thì thương tổn bản thân. Vốn là không có thất sát đi vận gặp được thì phát; vốn không có thất sát mà đi vận tài, hoặc ấn thụ tử tuyệt hoặc đến đất mộ tất cả đều là dấu hiệu xấu.
Sách nói: thất sát có thề sanh ấn thụ, sợ đi nơi tài vì tài phá ấn thụ mà trợ quỷ, nhất định là không tốt lành. Thường cách thích thân vượng, chỉ ấn thụ thích sanh nhược, nếu nguyên cục có tài thương tổn ấn, vận đi tỷ kiếp hay thân vượng cũng có thể phát phúc, không thì không nên, như không có quan, sát, tài thần lại đi vận thân vượng chủ bình thường.
"Uyên Nguyên Luận": ấn thụ như ngày giáp gặp tháng tý là chánh ấn, tháng hợi là thiên ấn, rất mừng gặp thiên nguyệt đức, tý có thiên đức ở tốn, nguyệt đức ở nhâm, hợi thiên đức tại ất, nguyệt đức tại giáp, trụ giờ cần thấy dậu, tân là chánh quan thì tuyệt diệu, hoặc thân, canh là thất sát tức cần thấy tỷ kiếp trợ thân, hợp sát thì quý, sợ mậu kỷ là tài tinh tổn hại ấn, kỵ bính đinh thực thần, thương quan sẽ sanh tài phá ấn; ất gặp tháng hợi tý hỷ kỵ giống với giáp.
Ngày bính gặp tháng mão là chánh ấn, thiên đức ở khôn, nguyệt đức ở giáp; tháng dần là thiên ấn, thiên đức ở đinh, nguyệt đức ở bính, mừng thấy tý hay quý là chánh quan, hoặc nhâm hay hợi là thất sát, tức cầntỷ kiếp trợ thân hợp sát, sợ thân canh dậu tân là tài tinh sẽ tổn hại ấn, kỵ mậu kỷ là thực thần, thương quan sanh tài phá ấn; đinh gặp tháng dần hay mão hỷ kỵ giống với bính.
Ngày mậu gặp tháng ngọ là chánh ấn, thiên đức ở hợi, nguyệt đức ở bính, tháng tỵ là thiên ấn, thiên đức ở tân, nguyệt đức ở canh, mừng gặp mão hay ất là chánh quan, dần hay giáp là thất sát, thấy sát tức nên cần tỷ kiếp trợ thân hợp sát, kỵ thấy nhâm quý là tài làm hoại ấn, thân canh tân thực thần, thương quan sẽ sanh tài phá ấn; kỷ sanh tháng tỵ ngọ, hỷ kỵ giống với mậu.
Ngày canh sanh tháng ngọ là chánh ấn, thiên đức ở càn, nguyệt đức ở bính, tháng tỵ là thiên ấn, thiên đức ở tân, nguyệt đức ở canh, mừng gặp ngọ hay đinh là quan tinh, tỵ hay bính là thất sát, thấy sát thì nên có tỷ kiếp trợ thân hợp sát, kỵ giáp ất dần mão vượng là tài tinh làm hoại ấn, nhâm quý là thực thần, thương quan sanh tài phá ấn; tân sanh tháng tỵ ngọ, hỷ kỵ giống với canh.
Ngày nhâm sanh tháng dậu là chánh ấn, thiên đức ở dần, nguyệt đức ở canh, tháng thân là thiên ấn, thiên đức ở quý, nguyệt đức ở nhâm, mừng trụ giờ gặp kỷ hay ngọ là chánh quan hoặc tỵ mậu là thất sát thì nên thấy tỷ kiếp trợ thân hợp sát, kỵ bính đinh là tài làm hoại ấn, giáp ất là thực thần, thương quan sanh tài phá ấn; quý sanh tháng thân dậu, hỷ kỵ giống với nhâm.
Sách nói: quan hình không phạm, ấn thụ với thiên đức đồng cung. Lại nói: ăn chay lòng yêu thương, ấn thụ mừng gặp thiên đức đồng cung. Một mệnh giáp dần bính dần bính dần đinh dậu, là thiên đức ở đinh, nguyệt đức ở bính, ấn thụ ở dần. Một mệnh khác canh thân canh thìn canh tý nhâm ngọ, thì thiên đức, nguyệt đức đều ở nhâm, ấn thụ ở thìn là vậy. Cách này rất cần sanh vượng, rất kỵ tử tuyệt. Như giáp ất thấy hợi tý là ấn, thấy kim trở thành lòng nhân nghĩa nuôi dưỡng nó, ấn thấy thổ là cách hỗn tạp, vận đi tây bắc quan, ấn là phúc, nếu trụ giờ dẫn ấn về đất thìn tỵ hoặc vận đi đất này, ấn đến chỗ tử tuyệt, lưu niên gặp lại tài khắc ấn, nhất định xuống suối vàng không nghi ngờ. Ấn thụ hợp cách, đi đại vận rất kỵ biến hợp, gặp địa chi tam hợp, hoặc biến thành thương quan cục, hoặc biến thành tài cục, hoặc biến thành sát cục rất là không tốt lành.
Phú nói: kim nhờ thổ sanh, thổ dày nên kim bị chôn vùi. Mộc do thuỷ nuôi dưỡng, thuỷ hưng thịnh nên mộc sẽ trôi nổi. Hoả nóng thổ khô hanh, thì không khả năng sanh vạn vật (kiểu như ngày kỷ được ngọ). Kim cứng không thể sanh thuỷ (kiểu như ngày canh được tuất). Vượng thổ vượng hoả gặp phải diều này sẽ chủ bệnh tật về mắt, ung nhọt, nhiệt. Phẩn thổ (rác rưởi, đất cát, vật vô giá trị) không thể sanh kim, kim khô hanh không thể sanh thuỷ, tuyệt thuỷ không thể sanh mộc, gặp điều này nên xem xét tỉ mỉ, không thể cứ một mực luận là ấn thụ. Nếu thuỷ được kim sanh nên gặp mùa thu, chính là thuỷ thanh kim bạch, xinh đẹp có thể khoe khoang, một thuỷ ba kim tên gọi là thể toàn chi tượng (tượng của cơ thể hoàn chỉnh). Hoả được mộc sanh nên gặp mùa xuân là mộc tú hoả minh (mộc tươi tốt hoả sáng), ngọn lửa xanh đỏ, thấy kim sẽ thương tổn mộc, làm dập tắt ngọn lửa. Hai ấn kim và mộc nhiều thì luận theo hướng tốt. Còn như hoả ấn nhiều thường là hoả táo thổ liệt (hoả khô hanh làm thổ bị đốt cháy), thuỷ ấn nhiều thì thuỷ phiếm mộc phù (nước tràn lan mộc trôi nổi), thổ ấn nhiều thì thổ trọng kim mai (thổ dày chôn kim), đều là không tốt.
Lại nói thêm:
- Ngày giáp tháng tý kỵ giờ kỷ tỵ, sợ ngọ xung;
- Ngày ất tháng hợi, kỵ giờ mậu thìn, sợ tỵ xung.
- Ngày bính tháng mão kỵ giờ tân mão, sợ dậu xung; tháng dần kỵ giờ canh dần, sợ thân xung;
- Ngày đinh tháng dần kỵ giờ canh tý, sợ thân xung, tháng mão kỵ giờ tân sửu, sợ dậu xung.
- Ngày mậu tháng ngọ kỵ giờ quý mão, sợ tý xung;
- Ngày kỷ tháng tỵ, sợ giờ nhâm tý, nhâm tuất, kỵ hợi xung.
- Ngày canh tháng ngọ kỵ giờ kỷ mão, ất dậu, sợ tý xung;
- Ngày tân tháng tỵ kỵ giờ canh dần, giáp ngọ, sợ hợi xung, tháng ngọ kỵ giờ tân mão, ất mùi, sợ tý xung.
- Ngày nhâm tháng dậu kỵ giờ đinh mùi, sợ mão xung, tháng thân kỵ giờ bính ngọ, sợ dần xung,
- tháng dậu kỵ giờ đinh tỵ, sợ mão xung.
Trên đây là can ngày đều mừng gặp tỷ kiên khai thông, kỵ gặp thực thần, thương quan trừ khử ấn vì sanh tài, phạm phải điều này, đi vận lại đến nơi mà thân hay ấn suy hay tài vượng, tất nhiên do tham tài mà hoại ấn, sẽ bị lột bỏ chức vụ.
Sách nói: ấn thụ, tài tinh thấy chồng chất, trăm sự khó thông suốt.
- Lại nói rằng: nguyệt ấn thuần tuý, không có tài tinh chủ tài học thì đậu đến hoàng giáp.
- Lại nói thêm: thân vượng ấn nhiều, vận tài không trở ngại, thân nhược có ấn, vận sát sao mà tổn hại!
- Lại nói thêm: ấn thụ có gốc rễ mừng gặp tài tinh, ấn thụ không có gốc rễ, kỵ thấy sao tài. Quan tinh là gốc rễ của ấn thụ, ấn thụ có quan tinh lại có tài thì tài sanh quan, quan sanh ấn, ấn sanh thân, thân khắc tài sẽ được vinh hoa phú quý cho nên không kỵ.
- Lại nói rằng: ấn thụ có gốc rễ, gặp tài sẽ giàu lên, gặp quan sẽ có địa vị, gặp hợp sẽ tối tăm, gặp xung sẽ có tai hoạ.
"Thông Minh Phú" nói rằng: tài ấn qua lại lẫn lộn, thì tuỳ theo khí lúc mới sinh ra nặng nhẹ mà bàn luận. Nếu như tài khí nhẹ mà ấn khí nặng thì bỏ tài giữ ấn, nó cao quý có thể cảm giác được; còn như ấn khí nhẹ mà tài khí nặng thì bỏ ấn giữ tài cho dù có bối lộc nhưng thiên can địa chi nhiều và vượng ngược lại thành tài sản.
"Bảo Giám" nói rằng: ấn thụ bị tài thương tổn, mẹ sẽ mất sớm.
"Áo Chỉ" nói rằng: ấn thụ bị thương tổn, mất sản nghiệp tổ tiên, rời bỏ quê cũ.
"Lạc Dịch Phú" nói rằng: ấn đến vị trí của con, nhận được vinh hoa của con. [Ý nói ấn ở trụ giờ]
"Thiên Lý Mã" nói rằng: gặp ấn thì xem quan, nên gặp quan mười phần có bảy phần cao quý.
"Tạo Vi Luận" nói rằng: ấn thụ gặp tốt đẹp rực rỡ sống ở nơi tôn quý như cung điện của bậc lương đống.
"Vạn Kỳ Phú" nói rằng: chánh ấn thấy tài sẽ hung, gặp quan thì tốt, có quan không có ấn cho dù giàu sang cũng bị thương tổn, tàn tật, có ấn không có quan cho dù được vinh hoa cũng mất mát, tứ trụ buồn lo gặp tử tuyệt, tam nguyên thích thấy trường sanh.
Bài thơ xưa nó rằng: mệnh gặp ấn thụ phúc chẳng nhẹ, tuổi trẻ dễ dàng hưởng thành công, vượng tướng ấn nhiều phúc thật dày, tiếp nối ân đức che chở lập công danh.
- Lại thêm: tháng gặp ấn thụ mừng quan tinh, vận vào quan hương phúc rõ ràng, vận tử tuyệt vào thân không có lợi, lại đi vận tài trăm việc không thành.
- Lại thêm: ấn thụ không tổn thất hưởng phúc đầy đủ, vì quan nhận ân đức che chở có ruộng vườn, quan nhận chiếu vua đầy tiền của, ngày dùng mâm cơm tốn vạn đồng.
- Lại thêm: trùng trùng ấn thụ cách rõ ràng đẹp, suy xét thêm tỉ mỉ trong địa chi, hàm trì trên địa chi mà can có hợp, ăn chơi phóng túng phá gia đình.
- Lại thêm: ấn thụ trùng trùng hưởng thành công, thực thần chỉ sợ ngầm hình nhau, những năm đầu nếu không về tuyền lộ (đường xuống suối vàng), rời quê cô độc bệnh triền miên.
- Lại thêm: ấn thụ không hợp thân quá vượng, dù sao không có việc gì cũng bình thường, trừ phi mệnh vốn có nhiều quan, sát, thì có thanh danh làm rường cột nước nhà.
- Lại thêm: người sanh ấn thụ toàn vượng khí, quan, sát gặp nhiều chuyển tinh thần, ấn đi tử tuyệt với đất tài, không có cứu sẽ là người dưới suối (ý là chết).
Hợp các lý thuyết lại thì thấy được hỷ kỵ của quan và ấn thụ vậy.
论印绶
印绶者,乃五行生我之名。如甲乙在亥子月,丙丁在寅卯月之类,乃我气之源,为生气,为父母,能护我官星,使无伤克,譬人生得物相助相养,受现成之福,岂不为妙?此格主聪明,多智慧,性慈惠,语善良,迟讷体,貌丰厚,能饮食,平生少病,不逢凶横,但吝财耳,为官多为正官,受宣敕不拘文武,皆掌印信,喜官星,以官能生印。经云:印赖官生。又云:有官无印,即非真官,有印有官,方成厚福是也。忌财星,以财能破印。经云:印绶生月岁时,忌见财星,运入财乡,却宜退身避位是也。岁运同论,印绶不逢损伤,多受父母倚荫,资财见成,安享富贵,诸命相比,当以印绶多者为上,月最要,日时次之,年干虽重,须归禄月日时,方可取用,若年露印,月日时无,亦不济事。四柱元有官星为妙,若印绶少,官鬼多,或入他格,又不可专言印绶,若印绶复遇拱禄、专禄、归禄、鼠贵、夹贵、时贵等格,尤为奇特,但主少子或无子,印绶多者清孤。凡印绶,喜七煞,但煞不可太多,多则伤身。原无七煞,行运遇之则发;原有七煞,行财运,或印绶死绝,或临墓地,皆凶。经云:煞能生印,畏行财乡,破印助鬼,决主不详。凡格喜身旺,惟印绶喜生弱,若元局带财伤印,运行比劫身旺,亦能发福,无则不宜,如无官煞财神,又行身旺,主平常。《渊源论》:印绶,如甲日遇子月为正印,亥月为偏印,最喜逢天月德,子天德在巽,月德在壬,亥天德在乙,月德在甲,时要见酉辛正官为妙,或申庚七煞,却要见比劫助身,合煞为贵,畏戊己财星损印,忌丙丁食伤生财破印;乙逢亥子月,喜忌与甲同。丙日逢卯月正印,天德在坤,月德在甲,寅月偏印,天德在丁,月德在丙,喜见子癸正官,或壬亥七煞,却要比劫助身合煞,畏申庚酉辛财星损印,忌戊己食伤生财破印;丁逢寅卯月,喜忌与丙同。戊日逢午月正印,天德在亥,月德在丙,巳月偏印,天德在辛,月德在庚,喜逢卯乙正官,寅甲七煞,见煞却宜比劫助身合煞,忌见壬癸之财坏印,申庚辛食伤生财破印;己生巳午月,喜忌与戊同。庚日生午月正印,天德在乾,月德在丙,巳月偏印,天德在辛,月德在庚,喜见午丁官星,巳丙七煞,见煞却宜比劫助身合煞,忌甲乙寅卯旺财坏印,壬癸伤食,午财破印;辛生巳午月,喜忌与庚同。壬日生酉月正印,天德在寅,月德在庚,申月偏印,天德在癸,月德在壬,喜时逢巳午正官或己戊七煞,却宜见比劫助身合煞,忌丙丁旺财坏印,甲乙食伤,午财破印;癸生申酉月,喜忌与壬同。
经云:官刑不犯,印绶与天德同宫。又曰:素食慈心,印绶喜逢于天德。如孟重都宪:乙亥、丁亥、乙丑、丙戌,是印绶与天德同宫。一命甲寅、丙寅、丙寅、丁酉,是天德在丁,月德在丙,印绶在寅。一命庚申、庚辰、庚子、壬午,是天德月德俱在壬,印绶在辰是也。此格大要生旺,最忌死绝。如果乙见亥子为印,见金成其仁义生养,印元见土则混杂其格,运行西北,官印为福,若时引归卯辰巳地,或运行此地,财印归死绝,流年再遇财克印,决入黄泉无疑。印绶合格,行大运最忌印绶变合,遇地支三合,或变为伤局,或变成财局,或变成煞局,最为不吉。
赋云:金赖土生,土厚而金遭埋没。木从水养,水盛而木必漂流。火炎土燥,则不能生物(如己日得午之类)。刚金不能生水(如庚日得戌之类)。旺土见旺火,逢此必主眼疾痈疽热病。粪土不能生金,燥金不能生水,绝水不能生木,遇此宜详看,不可一概印绶论。若水得金生而逢秋,乃水清金白,秀丽堪夸,一水三金,号曰体全之象。火得木生而值春,为木秀火明,发焰红绿,见金则伤其木,灭火之焰。是金木二印,多者俱作吉论。若火印多者火燥土烈,水印多者水泛木浮,土印多者土重金埋,皆不为吉。
又云:甲日子月,忌己巳时,怕午冲;乙日亥月,忌戊辰时,怕巳冲。丙日卯月,忌辛卯时,怕酉冲,寅月忌庚寅时,怕申冲;丁日寅月,忌庚子时,怕申冲,卯月忌辛丑时,怕酉冲。戊日午月,忌癸卯时,怕子冲;己日巳月,怕壬子、壬戌时,忌亥冲。庚日午月,忌己卯、乙酉时,怕子冲,巳月忌戊寅时,怕亥冲;辛日巳月,忌庚寅、甲午时,怕亥冲,午月忌辛卯、乙未时,怕子冲。壬日酉月,忌丁未时,怕卯冲,申月忌丙午时,怕寅冲,酉月忌丁巳时怕卯冲。以上日干,皆喜见比肩疏通,忌见食伤销印生财,犯此,物运又临身印衰乡财旺之地,必然贪财坏印,剥官退职。
经云:印绶、财星重见,百事难通。又云:月印纯粹,无财星,主文章中黄甲。又曰:身旺印多,财运无妨,身弱有印,煞运何伤!又曰:印绶有根,喜遇财星,印绶无根,忌见财曜,官星者,印绶之根也,印绶有官有财,则财生官,官生印,印生身,身克财则荣贵,故不忌。又云:印绶有根,逢财则发,逢官则显,逢合则晦,逢冲则灾。《通明赋》云:财印交错,论其气禀之轻重,倘若财轻而印气重,舍财取印,其贵可知;倘若印气轻而财气重,舍印取财,虽有背禄,支干重旺,反作资财。《宝鉴》云:印绶财伤,母年早丧。《奥旨》云:印绶被伤,失宗业,抛离故里。《络绎赋》云:印临子位,受子之荣。《千里马》云:逢印看官,而遇官十有七贵。《造微论》云:印绶逢华,尊居翰苑。《万祺赋》云:正印见财则凶,逢官则吉,有官无印,纵富贵而伤残,有印无官,纵荣华而有失,四柱愁逢死绝,三元喜见长生。古诗云:命逢印绶福非轻,年少从容享见成,旺相印多偏福厚,受恩承荫立功名。又:月逢印绶喜官星,运入官乡福必清,死绝运临身不利,再行财运百无成。又:印绶无亏享福全,为官承荫有田园,官膺宣敕盈财谷,日用盘餐费万钱。又:重重印绶格清奇,更要支中仔细推,支上咸池干带合,风流浪荡破家儿。又:印绶重重享见成,食神只恐暗相刑,早年若不归泉路,孤苦离乡宿疾萦。又:印绶不宜身太旺,总然无事也平常,除非原命多官煞,却有声名作栋梁。又:印绶生人旺气纯,官煞多遇转精神,印行死绝并财地,无救终为泉下人。合诸说,观印绶喜忌见矣。
.
Luận Ấn Thụ
Ấn thụ chính là tên của ngũ hành sanh mình. Như các loại giáp ất ở tháng hợi tý, bính đinh ở tháng dần mão, chính là nguòn gốc khí của mình, là sanh khí, là phụ mẫu, có khả năng giúp đỡ mình không bị thương tổn khắc chế bởi quan tinh, ví như người sanh được vật giúp đỡ, nuôi dưỡng, nhận được phúc hiện hữu, hỏi sao không là điều tuyệt diệu? Cách này chủ thông minh, nhiều trí tuệ, bản tính thương yêu , lời nói thiện lương, ăn nói chậm chạp, ngoại hình giàu có, có khiếu ăn uống, một đời ít bệnh tật, không gặp hung hiểm bất ngờ, chỉ là keo kiệt, làm quan thường là chức quan ngay thẳng, được chiếu thư của vua bất kể là quan văn hay quan võ, đều nắm giữ ấn tín, thích quan tinh vì quan có thể sanh ấn.
Sách nói: ấn nhờ quan sanh. Lại nói: có quan mà không có ấn tức là chẳng phải quan thật sự, có ấn có quan mới đúng là phúc dày. Kỵ tài tinh vì tài có thể phá ấn.
Sách nói: ấn thụ vào tháng năm sanh kỵ thấy tài tinh, vận vào nơi tài, tức là nên rút lui tránh xa nơi đó. Tuế vận luận giống nhau, ấn thụ không bị tổn thương, thường được phụ mẫu che chở ân đức, tài sản hiện hữu, an hưởng giàu sang. So sánh các mệnh với nhau, nên lấy nhiều ấn thụ là tốt nhất, trụ tháng rất quan trọng, ngày giờ thì tiếp theo, can năm tuy quan trọng, đều phải quy lộc ở trụ tháng, ngày, giờ mới có thể chọn dùng, nếu trụ năm lộ ấn mà tháng ngay giờ không có cũng không phải hữu dụng. tứ trụ vốn có quan tinh thì tuyệt diệu, nếu ấn thụ ít mà quan quỷ nhiều, hoặc hợp cách khác, lại không thể chuyên bàn về ấn thụ, nếu ấn thụ gặp các cách: củng lộc, chuyên lộc, quy lộc, thử quý, giáp quý, thời quý càng là đặc biệt kỳ lạ, chỉ là có ít con hoặc không có con, người có nhiều ấn thụ rõ ràng cô độc.
Thường ấn thụ thích có thất sát, nhưng thất sát không nên nhiều quá, nhiều thì thương tổn bản thân. Vốn là không có thất sát đi vận gặp được thì phát; vốn không có thất sát mà đi vận tài, hoặc ấn thụ tử tuyệt hoặc đến đất mộ tất cả đều là dấu hiệu xấu.
Sách nói: thất sát có thề sanh ấn thụ, sợ đi nơi tài vì tài phá ấn thụ mà trợ quỷ, nhất định là không tốt lành. Thường cách thích thân vượng, chỉ ấn thụ thích sanh nhược, nếu nguyên cục có tài thương tổn ấn, vận đi tỷ kiếp hay thân vượng cũng có thể phát phúc, không thì không nên, như không có quan, sát, tài thần lại đi vận thân vượng chủ bình thường.
"Uyên Nguyên Luận": ấn thụ như ngày giáp gặp tháng tý là chánh ấn, tháng hợi là thiên ấn, rất mừng gặp thiên nguyệt đức, tý có thiên đức ở tốn, nguyệt đức ở nhâm, hợi thiên đức tại ất, nguyệt đức tại giáp, trụ giờ cần thấy dậu, tân là chánh quan thì tuyệt diệu, hoặc thân, canh là thất sát tức cần thấy tỷ kiếp trợ thân, hợp sát thì quý, sợ mậu kỷ là tài tinh tổn hại ấn, kỵ bính đinh thực thần, thương quan sẽ sanh tài phá ấn; ất gặp tháng hợi tý hỷ kỵ giống với giáp.
Ngày bính gặp tháng mão là chánh ấn, thiên đức ở khôn, nguyệt đức ở giáp; tháng dần là thiên ấn, thiên đức ở đinh, nguyệt đức ở bính, mừng thấy tý hay quý là chánh quan, hoặc nhâm hay hợi là thất sát, tức cầntỷ kiếp trợ thân hợp sát, sợ thân canh dậu tân là tài tinh sẽ tổn hại ấn, kỵ mậu kỷ là thực thần, thương quan sanh tài phá ấn; đinh gặp tháng dần hay mão hỷ kỵ giống với bính.
Ngày mậu gặp tháng ngọ là chánh ấn, thiên đức ở hợi, nguyệt đức ở bính, tháng tỵ là thiên ấn, thiên đức ở tân, nguyệt đức ở canh, mừng gặp mão hay ất là chánh quan, dần hay giáp là thất sát, thấy sát tức nên cần tỷ kiếp trợ thân hợp sát, kỵ thấy nhâm quý là tài làm hoại ấn, thân canh tân thực thần, thương quan sẽ sanh tài phá ấn; kỷ sanh tháng tỵ ngọ, hỷ kỵ giống với mậu.
Ngày canh sanh tháng ngọ là chánh ấn, thiên đức ở càn, nguyệt đức ở bính, tháng tỵ là thiên ấn, thiên đức ở tân, nguyệt đức ở canh, mừng gặp ngọ hay đinh là quan tinh, tỵ hay bính là thất sát, thấy sát thì nên có tỷ kiếp trợ thân hợp sát, kỵ giáp ất dần mão vượng là tài tinh làm hoại ấn, nhâm quý là thực thần, thương quan sanh tài phá ấn; tân sanh tháng tỵ ngọ, hỷ kỵ giống với canh.
Ngày nhâm sanh tháng dậu là chánh ấn, thiên đức ở dần, nguyệt đức ở canh, tháng thân là thiên ấn, thiên đức ở quý, nguyệt đức ở nhâm, mừng trụ giờ gặp kỷ hay ngọ là chánh quan hoặc tỵ mậu là thất sát thì nên thấy tỷ kiếp trợ thân hợp sát, kỵ bính đinh là tài làm hoại ấn, giáp ất là thực thần, thương quan sanh tài phá ấn; quý sanh tháng thân dậu, hỷ kỵ giống với nhâm.
Sách nói: quan hình không phạm, ấn thụ với thiên đức đồng cung. Lại nói: ăn chay lòng yêu thương, ấn thụ mừng gặp thiên đức đồng cung. Một mệnh giáp dần bính dần bính dần đinh dậu, là thiên đức ở đinh, nguyệt đức ở bính, ấn thụ ở dần. Một mệnh khác canh thân canh thìn canh tý nhâm ngọ, thì thiên đức, nguyệt đức đều ở nhâm, ấn thụ ở thìn là vậy. Cách này rất cần sanh vượng, rất kỵ tử tuyệt. Như giáp ất thấy hợi tý là ấn, thấy kim trở thành lòng nhân nghĩa nuôi dưỡng nó, ấn thấy thổ là cách hỗn tạp, vận đi tây bắc quan, ấn là phúc, nếu trụ giờ dẫn ấn về đất thìn tỵ hoặc vận đi đất này, ấn đến chỗ tử tuyệt, lưu niên gặp lại tài khắc ấn, nhất định xuống suối vàng không nghi ngờ. Ấn thụ hợp cách, đi đại vận rất kỵ biến hợp, gặp địa chi tam hợp, hoặc biến thành thương quan cục, hoặc biến thành tài cục, hoặc biến thành sát cục rất là không tốt lành.
Phú nói: kim nhờ thổ sanh, thổ dày nên kim bị chôn vùi. Mộc do thuỷ nuôi dưỡng, thuỷ hưng thịnh nên mộc sẽ trôi nổi. Hoả nóng thổ khô hanh, thì không khả năng sanh vạn vật (kiểu như ngày kỷ được ngọ). Kim cứng không thể sanh thuỷ (kiểu như ngày canh được tuất). Vượng thổ vượng hoả gặp phải diều này sẽ chủ bệnh tật về mắt, ung nhọt, nhiệt. Phẩn thổ (rác rưởi, đất cát, vật vô giá trị) không thể sanh kim, kim khô hanh không thể sanh thuỷ, tuyệt thuỷ không thể sanh mộc, gặp điều này nên xem xét tỉ mỉ, không thể cứ một mực luận là ấn thụ. Nếu thuỷ được kim sanh nên gặp mùa thu, chính là thuỷ thanh kim bạch, xinh đẹp có thể khoe khoang, một thuỷ ba kim tên gọi là thể toàn chi tượng (tượng của cơ thể hoàn chỉnh). Hoả được mộc sanh nên gặp mùa xuân là mộc tú hoả minh (mộc tươi tốt hoả sáng), ngọn lửa xanh đỏ, thấy kim sẽ thương tổn mộc, làm dập tắt ngọn lửa. Hai ấn kim và mộc nhiều thì luận theo hướng tốt. Còn như hoả ấn nhiều thường là hoả táo thổ liệt (hoả khô hanh làm thổ bị đốt cháy), thuỷ ấn nhiều thì thuỷ phiếm mộc phù (nước tràn lan mộc trôi nổi), thổ ấn nhiều thì thổ trọng kim mai (thổ dày chôn kim), đều là không tốt.
Lại nói thêm:
- Ngày giáp tháng tý kỵ giờ kỷ tỵ, sợ ngọ xung;
- Ngày ất tháng hợi, kỵ giờ mậu thìn, sợ tỵ xung.
- Ngày bính tháng mão kỵ giờ tân mão, sợ dậu xung; tháng dần kỵ giờ canh dần, sợ thân xung;
- Ngày đinh tháng dần kỵ giờ canh tý, sợ thân xung, tháng mão kỵ giờ tân sửu, sợ dậu xung.
- Ngày mậu tháng ngọ kỵ giờ quý mão, sợ tý xung;
- Ngày kỷ tháng tỵ, sợ giờ nhâm tý, nhâm tuất, kỵ hợi xung.
- Ngày canh tháng ngọ kỵ giờ kỷ mão, ất dậu, sợ tý xung;
- Ngày tân tháng tỵ kỵ giờ canh dần, giáp ngọ, sợ hợi xung, tháng ngọ kỵ giờ tân mão, ất mùi, sợ tý xung.
- Ngày nhâm tháng dậu kỵ giờ đinh mùi, sợ mão xung, tháng thân kỵ giờ bính ngọ, sợ dần xung,
- tháng dậu kỵ giờ đinh tỵ, sợ mão xung.
Trên đây là can ngày đều mừng gặp tỷ kiên khai thông, kỵ gặp thực thần, thương quan trừ khử ấn vì sanh tài, phạm phải điều này, đi vận lại đến nơi mà thân hay ấn suy hay tài vượng, tất nhiên do tham tài mà hoại ấn, sẽ bị lột bỏ chức vụ.
Sách nói: ấn thụ, tài tinh thấy chồng chất, trăm sự khó thông suốt.
- Lại nói rằng: nguyệt ấn thuần tuý, không có tài tinh chủ tài học thì đậu đến hoàng giáp.
- Lại nói thêm: thân vượng ấn nhiều, vận tài không trở ngại, thân nhược có ấn, vận sát sao mà tổn hại!
- Lại nói thêm: ấn thụ có gốc rễ mừng gặp tài tinh, ấn thụ không có gốc rễ, kỵ thấy sao tài. Quan tinh là gốc rễ của ấn thụ, ấn thụ có quan tinh lại có tài thì tài sanh quan, quan sanh ấn, ấn sanh thân, thân khắc tài sẽ được vinh hoa phú quý cho nên không kỵ.
- Lại nói rằng: ấn thụ có gốc rễ, gặp tài sẽ giàu lên, gặp quan sẽ có địa vị, gặp hợp sẽ tối tăm, gặp xung sẽ có tai hoạ.
"Thông Minh Phú" nói rằng: tài ấn qua lại lẫn lộn, thì tuỳ theo khí lúc mới sinh ra nặng nhẹ mà bàn luận. Nếu như tài khí nhẹ mà ấn khí nặng thì bỏ tài giữ ấn, nó cao quý có thể cảm giác được; còn như ấn khí nhẹ mà tài khí nặng thì bỏ ấn giữ tài cho dù có bối lộc nhưng thiên can địa chi nhiều và vượng ngược lại thành tài sản.
"Bảo Giám" nói rằng: ấn thụ bị tài thương tổn, mẹ sẽ mất sớm.
"Áo Chỉ" nói rằng: ấn thụ bị thương tổn, mất sản nghiệp tổ tiên, rời bỏ quê cũ.
"Lạc Dịch Phú" nói rằng: ấn đến vị trí của con, nhận được vinh hoa của con. [Ý nói ấn ở trụ giờ]
"Thiên Lý Mã" nói rằng: gặp ấn thì xem quan, nên gặp quan mười phần có bảy phần cao quý.
"Tạo Vi Luận" nói rằng: ấn thụ gặp tốt đẹp rực rỡ sống ở nơi tôn quý như cung điện của bậc lương đống.
"Vạn Kỳ Phú" nói rằng: chánh ấn thấy tài sẽ hung, gặp quan thì tốt, có quan không có ấn cho dù giàu sang cũng bị thương tổn, tàn tật, có ấn không có quan cho dù được vinh hoa cũng mất mát, tứ trụ buồn lo gặp tử tuyệt, tam nguyên thích thấy trường sanh.
Bài thơ xưa nó rằng: mệnh gặp ấn thụ phúc chẳng nhẹ, tuổi trẻ dễ dàng hưởng thành công, vượng tướng ấn nhiều phúc thật dày, tiếp nối ân đức che chở lập công danh.
- Lại thêm: tháng gặp ấn thụ mừng quan tinh, vận vào quan hương phúc rõ ràng, vận tử tuyệt vào thân không có lợi, lại đi vận tài trăm việc không thành.
- Lại thêm: ấn thụ không tổn thất hưởng phúc đầy đủ, vì quan nhận ân đức che chở có ruộng vườn, quan nhận chiếu vua đầy tiền của, ngày dùng mâm cơm tốn vạn đồng.
- Lại thêm: trùng trùng ấn thụ cách rõ ràng đẹp, suy xét thêm tỉ mỉ trong địa chi, hàm trì trên địa chi mà can có hợp, ăn chơi phóng túng phá gia đình.
- Lại thêm: ấn thụ trùng trùng hưởng thành công, thực thần chỉ sợ ngầm hình nhau, những năm đầu nếu không về tuyền lộ (đường xuống suối vàng), rời quê cô độc bệnh triền miên.
- Lại thêm: ấn thụ không hợp thân quá vượng, dù sao không có việc gì cũng bình thường, trừ phi mệnh vốn có nhiều quan, sát, thì có thanh danh làm rường cột nước nhà.
- Lại thêm: người sanh ấn thụ toàn vượng khí, quan, sát gặp nhiều chuyển tinh thần, ấn đi tử tuyệt với đất tài, không có cứu sẽ là người dưới suối (ý là chết).
Hợp các lý thuyết lại thì thấy được hỷ kỵ của quan và ấn thụ vậy.
论印绶
印绶者,乃五行生我之名。如甲乙在亥子月,丙丁在寅卯月之类,乃我气之源,为生气,为父母,能护我官星,使无伤克,譬人生得物相助相养,受现成之福,岂不为妙?此格主聪明,多智慧,性慈惠,语善良,迟讷体,貌丰厚,能饮食,平生少病,不逢凶横,但吝财耳,为官多为正官,受宣敕不拘文武,皆掌印信,喜官星,以官能生印。经云:印赖官生。又云:有官无印,即非真官,有印有官,方成厚福是也。忌财星,以财能破印。经云:印绶生月岁时,忌见财星,运入财乡,却宜退身避位是也。岁运同论,印绶不逢损伤,多受父母倚荫,资财见成,安享富贵,诸命相比,当以印绶多者为上,月最要,日时次之,年干虽重,须归禄月日时,方可取用,若年露印,月日时无,亦不济事。四柱元有官星为妙,若印绶少,官鬼多,或入他格,又不可专言印绶,若印绶复遇拱禄、专禄、归禄、鼠贵、夹贵、时贵等格,尤为奇特,但主少子或无子,印绶多者清孤。凡印绶,喜七煞,但煞不可太多,多则伤身。原无七煞,行运遇之则发;原有七煞,行财运,或印绶死绝,或临墓地,皆凶。经云:煞能生印,畏行财乡,破印助鬼,决主不详。凡格喜身旺,惟印绶喜生弱,若元局带财伤印,运行比劫身旺,亦能发福,无则不宜,如无官煞财神,又行身旺,主平常。《渊源论》:印绶,如甲日遇子月为正印,亥月为偏印,最喜逢天月德,子天德在巽,月德在壬,亥天德在乙,月德在甲,时要见酉辛正官为妙,或申庚七煞,却要见比劫助身,合煞为贵,畏戊己财星损印,忌丙丁食伤生财破印;乙逢亥子月,喜忌与甲同。丙日逢卯月正印,天德在坤,月德在甲,寅月偏印,天德在丁,月德在丙,喜见子癸正官,或壬亥七煞,却要比劫助身合煞,畏申庚酉辛财星损印,忌戊己食伤生财破印;丁逢寅卯月,喜忌与丙同。戊日逢午月正印,天德在亥,月德在丙,巳月偏印,天德在辛,月德在庚,喜逢卯乙正官,寅甲七煞,见煞却宜比劫助身合煞,忌见壬癸之财坏印,申庚辛食伤生财破印;己生巳午月,喜忌与戊同。庚日生午月正印,天德在乾,月德在丙,巳月偏印,天德在辛,月德在庚,喜见午丁官星,巳丙七煞,见煞却宜比劫助身合煞,忌甲乙寅卯旺财坏印,壬癸伤食,午财破印;辛生巳午月,喜忌与庚同。壬日生酉月正印,天德在寅,月德在庚,申月偏印,天德在癸,月德在壬,喜时逢巳午正官或己戊七煞,却宜见比劫助身合煞,忌丙丁旺财坏印,甲乙食伤,午财破印;癸生申酉月,喜忌与壬同。
经云:官刑不犯,印绶与天德同宫。又曰:素食慈心,印绶喜逢于天德。如孟重都宪:乙亥、丁亥、乙丑、丙戌,是印绶与天德同宫。一命甲寅、丙寅、丙寅、丁酉,是天德在丁,月德在丙,印绶在寅。一命庚申、庚辰、庚子、壬午,是天德月德俱在壬,印绶在辰是也。此格大要生旺,最忌死绝。如果乙见亥子为印,见金成其仁义生养,印元见土则混杂其格,运行西北,官印为福,若时引归卯辰巳地,或运行此地,财印归死绝,流年再遇财克印,决入黄泉无疑。印绶合格,行大运最忌印绶变合,遇地支三合,或变为伤局,或变成财局,或变成煞局,最为不吉。
赋云:金赖土生,土厚而金遭埋没。木从水养,水盛而木必漂流。火炎土燥,则不能生物(如己日得午之类)。刚金不能生水(如庚日得戌之类)。旺土见旺火,逢此必主眼疾痈疽热病。粪土不能生金,燥金不能生水,绝水不能生木,遇此宜详看,不可一概印绶论。若水得金生而逢秋,乃水清金白,秀丽堪夸,一水三金,号曰体全之象。火得木生而值春,为木秀火明,发焰红绿,见金则伤其木,灭火之焰。是金木二印,多者俱作吉论。若火印多者火燥土烈,水印多者水泛木浮,土印多者土重金埋,皆不为吉。
又云:甲日子月,忌己巳时,怕午冲;乙日亥月,忌戊辰时,怕巳冲。丙日卯月,忌辛卯时,怕酉冲,寅月忌庚寅时,怕申冲;丁日寅月,忌庚子时,怕申冲,卯月忌辛丑时,怕酉冲。戊日午月,忌癸卯时,怕子冲;己日巳月,怕壬子、壬戌时,忌亥冲。庚日午月,忌己卯、乙酉时,怕子冲,巳月忌戊寅时,怕亥冲;辛日巳月,忌庚寅、甲午时,怕亥冲,午月忌辛卯、乙未时,怕子冲。壬日酉月,忌丁未时,怕卯冲,申月忌丙午时,怕寅冲,酉月忌丁巳时怕卯冲。以上日干,皆喜见比肩疏通,忌见食伤销印生财,犯此,物运又临身印衰乡财旺之地,必然贪财坏印,剥官退职。
经云:印绶、财星重见,百事难通。又云:月印纯粹,无财星,主文章中黄甲。又曰:身旺印多,财运无妨,身弱有印,煞运何伤!又曰:印绶有根,喜遇财星,印绶无根,忌见财曜,官星者,印绶之根也,印绶有官有财,则财生官,官生印,印生身,身克财则荣贵,故不忌。又云:印绶有根,逢财则发,逢官则显,逢合则晦,逢冲则灾。《通明赋》云:财印交错,论其气禀之轻重,倘若财轻而印气重,舍财取印,其贵可知;倘若印气轻而财气重,舍印取财,虽有背禄,支干重旺,反作资财。《宝鉴》云:印绶财伤,母年早丧。《奥旨》云:印绶被伤,失宗业,抛离故里。《络绎赋》云:印临子位,受子之荣。《千里马》云:逢印看官,而遇官十有七贵。《造微论》云:印绶逢华,尊居翰苑。《万祺赋》云:正印见财则凶,逢官则吉,有官无印,纵富贵而伤残,有印无官,纵荣华而有失,四柱愁逢死绝,三元喜见长生。古诗云:命逢印绶福非轻,年少从容享见成,旺相印多偏福厚,受恩承荫立功名。又:月逢印绶喜官星,运入官乡福必清,死绝运临身不利,再行财运百无成。又:印绶无亏享福全,为官承荫有田园,官膺宣敕盈财谷,日用盘餐费万钱。又:重重印绶格清奇,更要支中仔细推,支上咸池干带合,风流浪荡破家儿。又:印绶重重享见成,食神只恐暗相刑,早年若不归泉路,孤苦离乡宿疾萦。又:印绶不宜身太旺,总然无事也平常,除非原命多官煞,却有声名作栋梁。又:印绶生人旺气纯,官煞多遇转精神,印行死绝并财地,无救终为泉下人。合诸说,观印绶喜忌见矣。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#174
Gửi vào 09/07/2024 - 10:44
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Thời Phùng Sanh Ấn
Như ngày giáp giờ tý, chọn lấy quý thuỷ trong tý làm ấn, nuôi dưỡng nhật chủ, người đó nhiều mưu trí, được hưởng bỗng lộc, trên năm tháng cần thấy tân quan để sanh ấn, vận đi tây bắc là quan, ấn chính là mệnh quý, nếu trụ gặp nhiều mậu kỷ thổ, thêm chữ ngọ xung phá, vận trải qua đông nam thì quan, ấn bị suy tuyệt, trăm việc không thành, chung cho mọi quan chức, người ở thành phố.
时逢生印
如甲日子时,取子中癸水为印,资助日主,其人足智多谋,安享食禄,年月上要见辛官生印,运行西北,官印乃为贵命,若柱逢戊己土重,更有午字冲破,运历东南,官印衰绝,百事无成,公吏肆市人也。
.
Thời Phùng Sanh Ấn
Như ngày giáp giờ tý, chọn lấy quý thuỷ trong tý làm ấn, nuôi dưỡng nhật chủ, người đó nhiều mưu trí, được hưởng bỗng lộc, trên năm tháng cần thấy tân quan để sanh ấn, vận đi tây bắc là quan, ấn chính là mệnh quý, nếu trụ gặp nhiều mậu kỷ thổ, thêm chữ ngọ xung phá, vận trải qua đông nam thì quan, ấn bị suy tuyệt, trăm việc không thành, chung cho mọi quan chức, người ở thành phố.
时逢生印
如甲日子时,取子中癸水为印,资助日主,其人足智多谋,安享食禄,年月上要见辛官生印,运行西北,官印乃为贵命,若柱逢戊己土重,更有午字冲破,运历东南,官印衰绝,百事无成,公吏肆市人也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#175
Gửi vào 09/07/2024 - 10:55
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Bào Thai Phùng Ấn Thụ
Sách nói: bào thai gặp ấn thụ, hưởng bỗng lộc hậu. Như canh dần tân mão bính thân ất dậu ngày giờ lệnh tháng gặp đất ấn thụ, chủ quý.
Sách nói: ngày giờ bào thai cách, tháng thông với ấn thụ, vận gặp quan, sát, ấn trợ giúp, chức vụ lên đến tam công [ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保.].
Note: nếu canh dần tân mão bính thân ất dậu là bát tự thì phải là canh dần kỷ mão bính thân đinh dậu mới đúng.
胞胎逢印绶
经云:胞胎逢印绶,禄享千锺。如庚寅、辛卯、丙申、乙酉等,日时月令逢印绶之地,主贵。经云:时日胞胎格,月通印绶,逢煞官印运助,职位列三公。
.
Bào Thai Phùng Ấn Thụ
Sách nói: bào thai gặp ấn thụ, hưởng bỗng lộc hậu. Như canh dần tân mão bính thân ất dậu ngày giờ lệnh tháng gặp đất ấn thụ, chủ quý.
Sách nói: ngày giờ bào thai cách, tháng thông với ấn thụ, vận gặp quan, sát, ấn trợ giúp, chức vụ lên đến tam công [ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保.].
Note: nếu canh dần tân mão bính thân ất dậu là bát tự thì phải là canh dần kỷ mão bính thân đinh dậu mới đúng.
胞胎逢印绶
经云:胞胎逢印绶,禄享千锺。如庚寅、辛卯、丙申、乙酉等,日时月令逢印绶之地,主贵。经云:时日胞胎格,月通印绶,逢煞官印运助,职位列三公。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#176
Gửi vào 09/07/2024 - 11:03
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Khí Ấn Tựu Tài
Sách nói: khí ấn tựu tài (bỏ ấn theo tài) rõ ràng thiên và chánh, ấn thụ thì kỵ tài, cái lý này rất rõ ràng. Chánh ấn ở lệnh tháng, nhất định không thể thấy tài, nếu ở trụ năm và giờ mà lệnh tháng là tài thì chỉ dùng tài cách, mừng có ấn sanh thân chống lại tài là phúc. Nếu lệnh tháng là thiên ấn, trụ năm và giờ thấy tài thì không trở ngại gì, tức là khí ấn tựu tài, bỏ cái nhẹ dùng cái lớn. Như nhâm sanh tháng thân hay bính sanh tháng dần là ngồi ở đất trường sanh, trụ năm hay giờ được tài, tức là thân vượng mừng gặp đất tài, lá số như vậy sẽ chủ bỏ cơ nghiệp tổ tiên mà tự sáng tạo nghề nghiệp riêng để lập thân.
弃印就财
经云:弃印就财明偏正,印绶忌财,此理甚明。正印居月令者,决不可见财,若居年时,月令见财只用财格,喜印生身,敌财为福。若偏印,月令年时见财无妨,为弃印就财,舍轻用重。如壬生申月,丙生寅月,坐长生之地,年时得财,即身旺喜见财地,如此造化,必主弃祖基而自创别业立身。
.
Khí Ấn Tựu Tài
Sách nói: khí ấn tựu tài (bỏ ấn theo tài) rõ ràng thiên và chánh, ấn thụ thì kỵ tài, cái lý này rất rõ ràng. Chánh ấn ở lệnh tháng, nhất định không thể thấy tài, nếu ở trụ năm và giờ mà lệnh tháng là tài thì chỉ dùng tài cách, mừng có ấn sanh thân chống lại tài là phúc. Nếu lệnh tháng là thiên ấn, trụ năm và giờ thấy tài thì không trở ngại gì, tức là khí ấn tựu tài, bỏ cái nhẹ dùng cái lớn. Như nhâm sanh tháng thân hay bính sanh tháng dần là ngồi ở đất trường sanh, trụ năm hay giờ được tài, tức là thân vượng mừng gặp đất tài, lá số như vậy sẽ chủ bỏ cơ nghiệp tổ tiên mà tự sáng tạo nghề nghiệp riêng để lập thân.
弃印就财
经云:弃印就财明偏正,印绶忌财,此理甚明。正印居月令者,决不可见财,若居年时,月令见财只用财格,喜印生身,敌财为福。若偏印,月令年时见财无妨,为弃印就财,舍轻用重。如壬生申月,丙生寅月,坐长生之地,年时得财,即身旺喜见财地,如此造化,必主弃祖基而自创别业立身。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#177
Gửi vào 09/07/2024 - 11:55
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Luận Đảo Thực
Đảo thực tức là ý nghĩa củaí thiên ấn, một tên gọi khác là thôn đạm sát, thực thần rất kỵ nhìn thấy. Như giáp sanh bính hoả là thực thần, hoả có thể sanh thổ là tài của giáp, tài vượng sanh kim là quan của giáp, thực thần sanh vượng, tài, quan đầy đủ. Bây giờ giáp thấy nhâm là đảo thực, nhâm vượng sẽ khắc mất bính hoả, bính bị khắc mất không thể sanh thổ thì giáp không có tài; nhâm hợp khởi đinh đi thương tổn tân, giáp không có quan; nhâm khắc bỏ bính, canh sát được yên ổn đền thương giáp mộc, giáp gặp tai hoạ rồi. Cái gọi là dùng thực thần kỵ thấy như thế.
Nói chung mệnh có đảo thực, thì phúc mỏng, tuổi thọ ngắn ngủi, nếu có chế hợp như ngày giáp thấy nhâm thìn, nhâm tuất: trong thìn tuất có thổ chế hay đinh hợp; ngày ất thấy quý mùi, quý sửu: trong sửu mùi có kỷ chế quý; ngày bính thấy giáp thân, ngày đinh thấy ất tỵ, ất dậu; ngày mậu thấy bính tý, bính thân, bính thìn; ngày kỷ thấy đinh hợi; ngày canh thấy mậu dần, mậu thìn; ngày tân thấy kỷ mão, kỷ hợi; ngày nhâm thấy canh ngọ, canh tuất; ngày quý tháy tân tỵ, tân mùi. Những loại này thiên ấn không khả năng hại thực thần, vì có khắc chế. Trong trụ thân vượng, tài, quan đều sanh, có thể chọn lấy làm phúc trợ thân, ngày dương gặp phải có khả năng ám hợp với thương quan sanh tài, ngày âm gặp phải có khả năng ám hợp với tài tinh, trong trụ không có thực thần chỉ lấy thiên ấn để luận.
Lại nói: hễ mệnh có thực thần gặp kiêu thần (tên khác của thiên ấn), giống như bậc tôn trưởng chế phục mình, không được tự do, làm việc rụt rè, biếng nhác, có khởi đầu mà không có kết thúc, nguồn tài thường đến rồi đi, vẻ mặt nghiêng lệch, tánh tình bỉ ổi xấu xa, không có dũng khí, việc thường không thành, khắc hại người thân, lúc ấu thơ khắc mẹ, lớn lên khắc vợ con.
Phú nói: đảo thực tên là thiên ấn, hiệu là kiêu thần, gặp thân vượng nên tài dồi dào phúc dày, gặp phải hình, sát tuổi thọ ngắn ngủi, nghèo hèn. Nếu thấy tài tinh, phơi bày sao vây quanh mặt trăng không giữ lại, nếu thấy sát tinh, không định ngày ngừng nghĩ gánh vác, thân nhược mà gặp thiên ấn trùng trùng, nên buồn lo như thương tổn của Nhan Tử, đúng là thực thần gặp phải kiêu thần, không tránh khỏi tai hoạ của Hàn Tín, người bắt đầu gặp phải thì tinh thần lười biếng, phạm nhiều thì vẻ mặt nghiêng lệch.
"Vạn Kỳ Phú": kiêu thần thấy quan, sát thường thanh công thường thất bại, thiên ấn gặp phải tài chiếu sáng, chuyển nhục thành vinh hoa, thân vượng thành quý, thân nhược thì bình thường, có thương quan nên cả đời phong nhuận, gặp thực thần thì ở đời cô độc.
Bài thơ xưa nói rằng: ấn tinh thiên lệch là kiêu thần, trong trụ rất mừng thấy tài tinh, thân vượng gặp vậy mới là phúc, thân suy kiêu vượng thêm vô tình. Như bính tuất bính thân giáp tuất nhâm thân, giáp thấy bính là thực thần, lại thấy nhâm đảo thực, giáp sanh tháng thân bị sát chế phục nên vô khí, thêm hai bính trộm khí, nhâm thuỷ lại chế bính, sát được thực hiện, cho nên không có danh lợi. Lại như nhâm thân nhâm tý giáp tuất bính dần, hội tụ ấn và quy lộc, sự tuyệt diệu của thuỷ và hoả, tượng của mộc hoả thông minh.
Lại thêm: kỷ mùi nhâm thân giáp tý bính dần, lấy sát hoá ấn, quy lộc được đẹp đẽ, mộc hoả thông minh, thuỷ mộc thanh kỳ. Hai mệnh đều là rất quý. Trước kỵ đảo thực, gặp chế hợp chuyển thành quý, chớ nên vừa thấy đảo thực liền lấy hung để luận.
论倒食
倒食即偏印之谓,一名吞啖煞,食神最忌见之。如甲生丙火为食,火能生土,为甲之财,财旺生金,为甲之官,食神生旺,财官备矣。今甲见壬为倒食者,壬旺则克了丙火,丙被克去,不能生土,甲无财矣;壬合起丁,伤甲之辛,甲无官矣;壬克去丙,庚煞得安,来伤甲木,甲生灾矣。所谓用食忌见者,此也。凡命带倒食,福薄寿夭,若有制合,如甲日见壬辰、壬戌,辰戌中带有土制丁合;乙日见癸未、癸丑,丑未中有己制癸;丙日见甲申,丁日见乙巳、乙酉,戊日见丙子、丙申、丙辰,己日见丁亥,庚日见戊寅、戊辰,辛日见己卯、己亥,壬日见庚午、庚戌,癸日见辛巳、辛未。此等偏印不能为食害,有克制故也。柱中身旺,财官俱生,可取为福助身,阳日逢之能暗合伤官生财,阴日逢之能暗合财星,柱中无食,只以偏印论。又曰:凡命有食遇枭,犹尊长之制我,不得自由,作事进退悔懒,有始无终,财源屡成屡败,容貌欹斜,身品琐小,胆怯心虚,凡事无成,克害六亲,幼时克母,长大伤妻子。赋云:倒食者,名为偏印,号曰枭神,值身旺而财丰福厚,遇刑煞则寿夭身贫,财星若见,披星带月不停留,煞星若生,驰担息肩无定日,身弱重逢偏印,须愁颜子之伤,正食若遇枭神,未免韩信之祸,始遇者精神慵懒,重犯者容貌欹斜。《万祺赋》云:枭神见官煞,多成多败,偏印遇财曜,反辱为荣,身旺为贵,身弱乃常,有伤官而平生丰润,值食神则处世伶仃。古诗云:印星偏者是枭神,柱内最喜见财星,身旺遇此方为福,身衰枭旺更无情。如丙戌、丙申、甲戌、壬申,甲见丙食,又见壬倒食,甲生申月受煞制无气,二丙窃气,壬水制丙,煞得施行,故无名利。
又如壬申、壬子、甲戌、丙寅,会印归禄,水精火神之妙,木火通明之象。又,己未、壬申、甲子、丙寅,以煞化印,归禄得秀,木火通明,水木清奇。二命俱大贵。前忌倒食,逢制合反贵,切不可一见倒食,便以凶论。
.
Luận Đảo Thực
Đảo thực tức là ý nghĩa củaí thiên ấn, một tên gọi khác là thôn đạm sát, thực thần rất kỵ nhìn thấy. Như giáp sanh bính hoả là thực thần, hoả có thể sanh thổ là tài của giáp, tài vượng sanh kim là quan của giáp, thực thần sanh vượng, tài, quan đầy đủ. Bây giờ giáp thấy nhâm là đảo thực, nhâm vượng sẽ khắc mất bính hoả, bính bị khắc mất không thể sanh thổ thì giáp không có tài; nhâm hợp khởi đinh đi thương tổn tân, giáp không có quan; nhâm khắc bỏ bính, canh sát được yên ổn đền thương giáp mộc, giáp gặp tai hoạ rồi. Cái gọi là dùng thực thần kỵ thấy như thế.
Nói chung mệnh có đảo thực, thì phúc mỏng, tuổi thọ ngắn ngủi, nếu có chế hợp như ngày giáp thấy nhâm thìn, nhâm tuất: trong thìn tuất có thổ chế hay đinh hợp; ngày ất thấy quý mùi, quý sửu: trong sửu mùi có kỷ chế quý; ngày bính thấy giáp thân, ngày đinh thấy ất tỵ, ất dậu; ngày mậu thấy bính tý, bính thân, bính thìn; ngày kỷ thấy đinh hợi; ngày canh thấy mậu dần, mậu thìn; ngày tân thấy kỷ mão, kỷ hợi; ngày nhâm thấy canh ngọ, canh tuất; ngày quý tháy tân tỵ, tân mùi. Những loại này thiên ấn không khả năng hại thực thần, vì có khắc chế. Trong trụ thân vượng, tài, quan đều sanh, có thể chọn lấy làm phúc trợ thân, ngày dương gặp phải có khả năng ám hợp với thương quan sanh tài, ngày âm gặp phải có khả năng ám hợp với tài tinh, trong trụ không có thực thần chỉ lấy thiên ấn để luận.
Lại nói: hễ mệnh có thực thần gặp kiêu thần (tên khác của thiên ấn), giống như bậc tôn trưởng chế phục mình, không được tự do, làm việc rụt rè, biếng nhác, có khởi đầu mà không có kết thúc, nguồn tài thường đến rồi đi, vẻ mặt nghiêng lệch, tánh tình bỉ ổi xấu xa, không có dũng khí, việc thường không thành, khắc hại người thân, lúc ấu thơ khắc mẹ, lớn lên khắc vợ con.
Phú nói: đảo thực tên là thiên ấn, hiệu là kiêu thần, gặp thân vượng nên tài dồi dào phúc dày, gặp phải hình, sát tuổi thọ ngắn ngủi, nghèo hèn. Nếu thấy tài tinh, phơi bày sao vây quanh mặt trăng không giữ lại, nếu thấy sát tinh, không định ngày ngừng nghĩ gánh vác, thân nhược mà gặp thiên ấn trùng trùng, nên buồn lo như thương tổn của Nhan Tử, đúng là thực thần gặp phải kiêu thần, không tránh khỏi tai hoạ của Hàn Tín, người bắt đầu gặp phải thì tinh thần lười biếng, phạm nhiều thì vẻ mặt nghiêng lệch.
"Vạn Kỳ Phú": kiêu thần thấy quan, sát thường thanh công thường thất bại, thiên ấn gặp phải tài chiếu sáng, chuyển nhục thành vinh hoa, thân vượng thành quý, thân nhược thì bình thường, có thương quan nên cả đời phong nhuận, gặp thực thần thì ở đời cô độc.
Bài thơ xưa nói rằng: ấn tinh thiên lệch là kiêu thần, trong trụ rất mừng thấy tài tinh, thân vượng gặp vậy mới là phúc, thân suy kiêu vượng thêm vô tình. Như bính tuất bính thân giáp tuất nhâm thân, giáp thấy bính là thực thần, lại thấy nhâm đảo thực, giáp sanh tháng thân bị sát chế phục nên vô khí, thêm hai bính trộm khí, nhâm thuỷ lại chế bính, sát được thực hiện, cho nên không có danh lợi. Lại như nhâm thân nhâm tý giáp tuất bính dần, hội tụ ấn và quy lộc, sự tuyệt diệu của thuỷ và hoả, tượng của mộc hoả thông minh.
Lại thêm: kỷ mùi nhâm thân giáp tý bính dần, lấy sát hoá ấn, quy lộc được đẹp đẽ, mộc hoả thông minh, thuỷ mộc thanh kỳ. Hai mệnh đều là rất quý. Trước kỵ đảo thực, gặp chế hợp chuyển thành quý, chớ nên vừa thấy đảo thực liền lấy hung để luận.
论倒食
倒食即偏印之谓,一名吞啖煞,食神最忌见之。如甲生丙火为食,火能生土,为甲之财,财旺生金,为甲之官,食神生旺,财官备矣。今甲见壬为倒食者,壬旺则克了丙火,丙被克去,不能生土,甲无财矣;壬合起丁,伤甲之辛,甲无官矣;壬克去丙,庚煞得安,来伤甲木,甲生灾矣。所谓用食忌见者,此也。凡命带倒食,福薄寿夭,若有制合,如甲日见壬辰、壬戌,辰戌中带有土制丁合;乙日见癸未、癸丑,丑未中有己制癸;丙日见甲申,丁日见乙巳、乙酉,戊日见丙子、丙申、丙辰,己日见丁亥,庚日见戊寅、戊辰,辛日见己卯、己亥,壬日见庚午、庚戌,癸日见辛巳、辛未。此等偏印不能为食害,有克制故也。柱中身旺,财官俱生,可取为福助身,阳日逢之能暗合伤官生财,阴日逢之能暗合财星,柱中无食,只以偏印论。又曰:凡命有食遇枭,犹尊长之制我,不得自由,作事进退悔懒,有始无终,财源屡成屡败,容貌欹斜,身品琐小,胆怯心虚,凡事无成,克害六亲,幼时克母,长大伤妻子。赋云:倒食者,名为偏印,号曰枭神,值身旺而财丰福厚,遇刑煞则寿夭身贫,财星若见,披星带月不停留,煞星若生,驰担息肩无定日,身弱重逢偏印,须愁颜子之伤,正食若遇枭神,未免韩信之祸,始遇者精神慵懒,重犯者容貌欹斜。《万祺赋》云:枭神见官煞,多成多败,偏印遇财曜,反辱为荣,身旺为贵,身弱乃常,有伤官而平生丰润,值食神则处世伶仃。古诗云:印星偏者是枭神,柱内最喜见财星,身旺遇此方为福,身衰枭旺更无情。如丙戌、丙申、甲戌、壬申,甲见丙食,又见壬倒食,甲生申月受煞制无气,二丙窃气,壬水制丙,煞得施行,故无名利。
又如壬申、壬子、甲戌、丙寅,会印归禄,水精火神之妙,木火通明之象。又,己未、壬申、甲子、丙寅,以煞化印,归禄得秀,木火通明,水木清奇。二命俱大贵。前忌倒食,逢制合反贵,切不可一见倒食,便以凶论。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#178
Gửi vào 10/07/2024 - 01:24
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Luận Tạp Khí
Tạp khí chính là thìn tuất sửu mùi, trong thìn có ất mậu quý là khố của thuỷ và thổ; trong tuất có tân mậu đinh là khố của hoả; trong sửu có quý tân kỷ là khố của kim; trong mùi có đinh kỷ ất là khố của mộc. Tuỳ khí tích trữ trong đó mà đàm luận, xem nhật can của mình có thể là quan, có thể là tài, có thể là ấn. Quan là phúc của thân, tài là nguồn nuôi mệnh, ấn chính là chỗ nương tựa của mình, là thứ quan trọng nhất đối với con người. Mỗi khố đều tích trữ ba vật, chính là khí không thuần của trời đất, nên nói là tạp vậy.
Sách nói: tài quan ấn thụ đầy đủ, tích trữ trong bồn mùa. Cách này mừng xung hình cho lộ ra, kỵ áp phục, những hỷ kỵ còn lại cần phải hiểu rõ, với chánh khí của tài quan ấn giống nhau. Thí dụ sáu ngày giáp sanh vào tháng sửu, thì lấy tân kim trong sửu là quan, kỷ thổ là tài, quý thuỷ là ấn, xem thiên can lộ ra chữ nào là phúc thứ, phân chia tiết khí nông sâu, hành nào đang nắm lệnh, đại khái lộ ra tài thì giàu, lộ ra quan thì sang, ấn thụ thì hưởng được phúc lành của ông cha, nhận được sắc chỉ của vua ban thì quý của ân đức che chở. Như không lộ ra, thì xung hình có một chút kỳ vọng thêm thân vượng là tốt, kỵ thân nhược hay xung hình nhiều quá thì khí của phúc tụ sẽ bị tán. Như trong trụ vốn là có hành phá hại, không nên gặp lại trong các vận, lại đi vận là thái quá sẽ xung mất khí tốt đẹp, ngược lại không phải là tốt, vốn là không có phá hại thì mừng vận hình xung.
"Cảnh Giám" nói rằng: tạp khí tài, quan, thân vượng có xung thì khai mở, nếu thái quá trái lại chịu nghèo khổ, cô độc.
Lại nói rằng: tạp khí tài quan cách, cần tứ trụ có nhiều tài tinh thường là mệnh tốt, nếu tứ trụ đặc biệt hợp cách khác thì dựa theo cách khác mà đoán.
Lại nói rằng: tạp khí tài, quan có chánh quan cách, thiên quan cách, chánh tài cách, thiên tài cách, tạp khí ấn thụ có chánh ấn cách, thiên ấn cách, phải phân biệt thiên hay chánh, nếu là thiên quan cũng cần mong đợi ít chế phục thì được, nếu mộ khố trùng điệp vốn là không có hình xung, không lộ ra quý khí, bao gồm cả mậu kỷ đè ép ở trên đó, rất khó khai mở ở tuổi trẻ, cho nên nói tài, quan nhốt tuổi trẻ, không khai mở cho người trong mộ vậy.
Lại nói: bốn khố cũng là nơi của suy, dưỡng, quan đới, nếu trụ giờ thấy cách thời mộ, với trụ tháng luận giống nhau, chỉ là phát triễn khá muộn. Như đinh hợi mậu tý bính thân kỷ sửu, bính dùng sửu mộ làm tài khố, đi vận mùi xung khố của sửu mở tài ra. Thấy nhâm, thìn là khố của quan, đến vận tuất xung khố của thìn mở ra quan. Nếu trong trụ đặc biệt có mậu thìn, kỷ sửu đè ép trên khố, thì không thể phát tài phát quan được, không thể là mệnh tốt để xem, nếu có xung mà gặp hợp cũng sẽ không thể xung được.
Lại nói: tháng vào nơi khố, khí của bốn góc đông tay nam bắc, như mùi mộc đi phương đông, tuất hoả đi phương nam, thìn thuỷ đi phương bắc, sửu kim đi phương tây đến khố mộ, vận đi nơi sanh vượng sẽ khai mở, như tháng đến thìn thuỷ khí, vận đổi sang phương nam, không thấy hội họp chỉ lấy thổ để luận.
Lại nói: người xưa lấy nơi mộ của ngũ hành làm kho chứa, nếu trong mệnh mang theo kho chứa, gặp phài ngũ hành thái tuế khắc mình, như người mộc gặp tân mùi, người hoả gặp canh tuất, người thổ gặp nhâm thìn, người thuỷ gặp giáp thìn, người kim gặp quý sửu, là nghĩa trong kho có tài người đó sẽ giàu có; nếu mệnh đới mộ tuyệt thì ngược lại gặp ngũ hành thái tuế doạ nạt mình, như người mộc gặp ất mùi, người hoả gặp nhâm tuất, người thồ gặp mậu thìn, người kim gặp kỷ sửu, người thuỷ gặp bính thìn, nghĩa là tuyệt xứ vô y (nơi tuyệt không có chỗ cậy nhờ), người này không tiến triễn được. Nếu ngũ hành lần lượt mộ khố nhau hoàn toàn không có phá, lại thêm phúc thần đến đây , đó là cách lưỡng phủ (hai dinh quan). Nếu có phá mà sanh vượng, phá mà tử tuyệt có phúc thần đến đây, thì đoán giảm bớt. Nếu có khắc phá mà không có phúc thần chỉ là dân thường. Cách cục mộ khố này không hỏi sang hèn, chỉ là một đời tự mình thịnh vượng, không có lợi cho người thân, nhưng khó có con cái. Có quỷ trên khố: chính là người giáp mộc thấy tân mùi, kỵ đinh tỵ; người bính đinh thấy nhâm tuất kỵ mậu dần; người mậu kỷ thấy giáp thìn kỵ canh dần; người canh tân thấy đinh sửu kỵ quý tỵ; người nhâm quý thấy mậu thìn kỵ giáp dần. Còn một tên khác là hiên xa sát, nếu phạm vào chỗ mình kỵ, chủ xe bị hư hỏng, ngựa bị gãy chân, phụ nữ bị tật ách, người thường bị trộm cướp.
"Thần Bạch Kinh" nói rằng: ngày sanh phạm phải mà dùng được, nếu lúc gặp phải không kỵ, thường chủ giàu sang, người quân tử đỗ đạt từ lúc còn nhỏ, người thường thì nghề nghiệp vượt qua mọi người. Có tài trên đầu khố chính là người giáp, ất thấy kỷ mùi; người bính đinh thấy canh tuất; người mậu kỷ thấy nhâm thìn; người canh tân thấy ất sửu; người nhâm quý thấy bính thìn, người quân tử thường đảm đương về tiền bạc và ngũ cốc, người thường có gia nghiệp dư dả, sung túc, tức là luận theo tài quan lộ ra. Còn như kim thấy kỷ sửu hoả; mộc thấy ất mùi kim; thuỷ thấy bính thìn thổ; thổ thấy mậu thìn mộc; hoả thấy nhâm tuất thuỷ, nếu như đây là cách, tức là trong mộ gặp quỷ, nguy hiểm rất đáng sợ.
Bài ca xưa hát rằng: tạp khí tài, quan dùng cung tháng, thiên can lộ ra thì to lớn, tài nhiều, quan vượng nên xung phá, chớ nên thiên can địa chi quá đè ép.
Lại thêm: tạp khí vốn không đến từ ô uế, bắt đầu thành sự thực khi thiên can lộ ra, thân cường tài vượng sanh quan lộc, vận vào xung hình tích trữ vật báu.
Lại thêm: đề cương lệnh tháng không thể xung, mười xung chín mệnh đều là hung, chỉ có tài, quan gặp mộ khố, đại vận đến đây ngược lại thành công.
Lại thêm: giờ mộ gặp quan chủ phát muộn, mừng gặp xung khắc rất kỳ diệu, trấn áp không đến nơi cao quý, quan cao chức trọng hợp cả hai.
Lại thêm: người trong mộ không phát lúc tuổi trẻ, đều vì tài, quan bị đóng cửa kho, phá hại nên có thể mở được khoá, ẩn giấu cuối cùng nhận cay đắng; đinh nhâm vốn lấy thìn làm mộ, mậu thổ tới tổn thương người giàu thành nghèo, ất mão giáp dần cùng cứu giúp, tài tinh lộ ra sẽ tự nhiên giàu sang.
Lại nói: tạp khí tài, quan với ấn giống nhau, hợp cách rất kỵ quỷ, tài xung, chỉ thích hợp khi mình sanh vượng là tốt nhất, tuy mừng gặp nó cần phải hợp; nếu là tài nhiều nên từ chức, như gặp quan vượng phúc vô cùng, tham tài hoại ấn ngài nên nhớ, đầu ruồi nhỏ bé phí công vô ích.
Lại thêm: tài, quan tạp khí giấu trong khố, rất mừng sanh thân vào nơi vượng, sát nặng thân nhẹ nên chế phục, tài nhiều khố đầy cần xung tổn; ngũ hành có chọn tìm cách khác, tứ trụ vô tình suy xét và ghi chú, tuế vận nếu đến đất tài vượng, danh tiếng ngày càng tiến rất cao cường.
论杂气
杂气者,乃辰戌丑未,辰中有乙戊癸,为水土库;戌中有辛戊丁,为火库;丑中有癸辛己,为金库;未中有丁己乙,为木库。各随所藏之气而言,看我日干,或为官,或为财,或为印,官系福身之物,财是养命之源,印乃资身之本,在人最为切要。四库各藏三件,乃天地不正之气,故以杂言也。经云:财官印绶全备,藏蓄于四季之中是也。此格喜透露冲刑,忌压伏,其余喜忌消详,与前正气财官印同。假令六甲日生得丑月,以丑中辛金为官,己土为财,癸水为印,看天干透出何字为福次,分节气浅深,何物当令,大概透财者富,透官者贵,印绶享父祖见成之福,受宣敕荫庇之贵,如无透出,冲刑少许兼身旺为妙,忌身弱,冲刑太过则福聚之气散矣。如柱元有破害之物,再不可遇此等运,再行则为太过,冲坏秀气,反不为吉,元无破害,喜冲刑运。《景鉴》云:杂气财官,身旺有冲而发,若太过反受孤贫是也。又云:杂气财官格,要四柱财星多,便为好命,若四柱别入他格,依他格断。又云:杂气财官有正官格、偏官格、正财格、偏财格,杂气印绶有正印格、偏印格,须分偏正,若偏官,亦要少许制伏则可,若墓库重叠,元无刑冲,不透贵气,兼有戊己压其上,最难发于少年,故曰财官锁闭少年,不发墓中人是也。又曰:四库亦是衰养冠带之乡,若时上见为时墓格,与月上同论,但发较晚。如丁亥、戊子、丙申、己丑,丙用丑墓为财库,行未运冲丑库发财。见壬,辰为官库,至戌运冲辰库发官。倘柱中别有戊辰、己丑压伏库上,则不能发财发官,难作好命看,若有冲见合,则又不能冲矣。又曰:月临库地,东西南北四隅之气,如未木行东方,戌火行南方,辰水行北方,丑金行西方临库墓,运行生旺之地必发,如月临辰水气,运转南方,不见会合,只以土论。又曰:古人以五行墓处为仓库,若命中带仓库,遇太岁所克之五行加之,如木人得辛未,火人得庚戌,土人得壬辰,水人得甲辰,金人得癸丑,是谓库中有财,其人必丰厚;若命带墓绝,而反值太岁所畏之五行加之,如木人得乙未,火人得壬戌,土人得戊辰,金人得己丑,水人得丙辰,谓之绝处无依,其人必??滞。若五行递相库墓纯粹而不破,又有福神加临,此两府之格也。若破而生旺,破而死绝,有福神加临,则减退断之。若克破而无福神,只是百姓。此库墓格局,不问贵贱,只是一生自己荣旺,不利六亲,仍难得子息。有库头鬼,乃甲乙人见辛未,忌丁巳;丙丁人见壬戌,忌戊寅;戊己人见甲辰,忌庚寅;庚辛人见丁丑,忌癸巳;壬癸人见戊辰,忌甲寅。一名轩车煞,若犯所忌,主车破辆,马折足,妇人疾厄,常人致盗。《神白经》云:生日犯之得用,若遇时不犯忌,多主富贵,君子早年科甲,常人艺业出众。有库头财,乃甲乙人己未,丙丁人庚戌,戊己人壬辰,庚辛人乙丑,壬癸人丙辰,君子多主钱谷之任,常人家业从容,即透出财官论也。如金见己丑火,木见乙未金,水见丙辰土,土见戊辰木,火见壬戌水,如此之格,即墓中逢鬼,危疑者甚。
古歌云:杂气财官用月宫,天干透露始为丰,财多官旺宜冲破,切忌干支压伏重。又:杂气从来自不纯,天干透出始为真,身强财旺生官禄,运入冲刑聚宝珍。又:月令提纲不可冲,十冲九命皆为凶,惟有财官逢墓库,运行到此反成功。又:时墓逢官主发迟,喜逢冲克最为奇,镇压不来临贵处,官高职显两相宜。又:少年不发墓中人,皆为财官闭库门,破害故能开锁钥,压藏终是受苦辛;丁壬本取辰为墓,戊土来伤富作贫,乙卯甲寅同救济,财星涌出自然荣。又曰:杂气财官与印同,格中最忌鬼财重,但宜我多生为上,虽喜逢他要得中;若是财多宜退职,如逢官旺福无穷,贪财坏印君须记,蜗角蝇头枉费心。又:财官杂气库中藏,最喜生身入旺乡,煞重身轻宜制伏,财多库实要冲伤;五行有取寻他格,四柱无情反有笺,岁运若临财旺地,声名日进甚高强。
.
Luận Tạp Khí
Tạp khí chính là thìn tuất sửu mùi, trong thìn có ất mậu quý là khố của thuỷ và thổ; trong tuất có tân mậu đinh là khố của hoả; trong sửu có quý tân kỷ là khố của kim; trong mùi có đinh kỷ ất là khố của mộc. Tuỳ khí tích trữ trong đó mà đàm luận, xem nhật can của mình có thể là quan, có thể là tài, có thể là ấn. Quan là phúc của thân, tài là nguồn nuôi mệnh, ấn chính là chỗ nương tựa của mình, là thứ quan trọng nhất đối với con người. Mỗi khố đều tích trữ ba vật, chính là khí không thuần của trời đất, nên nói là tạp vậy.
Sách nói: tài quan ấn thụ đầy đủ, tích trữ trong bồn mùa. Cách này mừng xung hình cho lộ ra, kỵ áp phục, những hỷ kỵ còn lại cần phải hiểu rõ, với chánh khí của tài quan ấn giống nhau. Thí dụ sáu ngày giáp sanh vào tháng sửu, thì lấy tân kim trong sửu là quan, kỷ thổ là tài, quý thuỷ là ấn, xem thiên can lộ ra chữ nào là phúc thứ, phân chia tiết khí nông sâu, hành nào đang nắm lệnh, đại khái lộ ra tài thì giàu, lộ ra quan thì sang, ấn thụ thì hưởng được phúc lành của ông cha, nhận được sắc chỉ của vua ban thì quý của ân đức che chở. Như không lộ ra, thì xung hình có một chút kỳ vọng thêm thân vượng là tốt, kỵ thân nhược hay xung hình nhiều quá thì khí của phúc tụ sẽ bị tán. Như trong trụ vốn là có hành phá hại, không nên gặp lại trong các vận, lại đi vận là thái quá sẽ xung mất khí tốt đẹp, ngược lại không phải là tốt, vốn là không có phá hại thì mừng vận hình xung.
"Cảnh Giám" nói rằng: tạp khí tài, quan, thân vượng có xung thì khai mở, nếu thái quá trái lại chịu nghèo khổ, cô độc.
Lại nói rằng: tạp khí tài quan cách, cần tứ trụ có nhiều tài tinh thường là mệnh tốt, nếu tứ trụ đặc biệt hợp cách khác thì dựa theo cách khác mà đoán.
Lại nói rằng: tạp khí tài, quan có chánh quan cách, thiên quan cách, chánh tài cách, thiên tài cách, tạp khí ấn thụ có chánh ấn cách, thiên ấn cách, phải phân biệt thiên hay chánh, nếu là thiên quan cũng cần mong đợi ít chế phục thì được, nếu mộ khố trùng điệp vốn là không có hình xung, không lộ ra quý khí, bao gồm cả mậu kỷ đè ép ở trên đó, rất khó khai mở ở tuổi trẻ, cho nên nói tài, quan nhốt tuổi trẻ, không khai mở cho người trong mộ vậy.
Lại nói: bốn khố cũng là nơi của suy, dưỡng, quan đới, nếu trụ giờ thấy cách thời mộ, với trụ tháng luận giống nhau, chỉ là phát triễn khá muộn. Như đinh hợi mậu tý bính thân kỷ sửu, bính dùng sửu mộ làm tài khố, đi vận mùi xung khố của sửu mở tài ra. Thấy nhâm, thìn là khố của quan, đến vận tuất xung khố của thìn mở ra quan. Nếu trong trụ đặc biệt có mậu thìn, kỷ sửu đè ép trên khố, thì không thể phát tài phát quan được, không thể là mệnh tốt để xem, nếu có xung mà gặp hợp cũng sẽ không thể xung được.
Lại nói: tháng vào nơi khố, khí của bốn góc đông tay nam bắc, như mùi mộc đi phương đông, tuất hoả đi phương nam, thìn thuỷ đi phương bắc, sửu kim đi phương tây đến khố mộ, vận đi nơi sanh vượng sẽ khai mở, như tháng đến thìn thuỷ khí, vận đổi sang phương nam, không thấy hội họp chỉ lấy thổ để luận.
Lại nói: người xưa lấy nơi mộ của ngũ hành làm kho chứa, nếu trong mệnh mang theo kho chứa, gặp phài ngũ hành thái tuế khắc mình, như người mộc gặp tân mùi, người hoả gặp canh tuất, người thổ gặp nhâm thìn, người thuỷ gặp giáp thìn, người kim gặp quý sửu, là nghĩa trong kho có tài người đó sẽ giàu có; nếu mệnh đới mộ tuyệt thì ngược lại gặp ngũ hành thái tuế doạ nạt mình, như người mộc gặp ất mùi, người hoả gặp nhâm tuất, người thồ gặp mậu thìn, người kim gặp kỷ sửu, người thuỷ gặp bính thìn, nghĩa là tuyệt xứ vô y (nơi tuyệt không có chỗ cậy nhờ), người này không tiến triễn được. Nếu ngũ hành lần lượt mộ khố nhau hoàn toàn không có phá, lại thêm phúc thần đến đây , đó là cách lưỡng phủ (hai dinh quan). Nếu có phá mà sanh vượng, phá mà tử tuyệt có phúc thần đến đây, thì đoán giảm bớt. Nếu có khắc phá mà không có phúc thần chỉ là dân thường. Cách cục mộ khố này không hỏi sang hèn, chỉ là một đời tự mình thịnh vượng, không có lợi cho người thân, nhưng khó có con cái. Có quỷ trên khố: chính là người giáp mộc thấy tân mùi, kỵ đinh tỵ; người bính đinh thấy nhâm tuất kỵ mậu dần; người mậu kỷ thấy giáp thìn kỵ canh dần; người canh tân thấy đinh sửu kỵ quý tỵ; người nhâm quý thấy mậu thìn kỵ giáp dần. Còn một tên khác là hiên xa sát, nếu phạm vào chỗ mình kỵ, chủ xe bị hư hỏng, ngựa bị gãy chân, phụ nữ bị tật ách, người thường bị trộm cướp.
"Thần Bạch Kinh" nói rằng: ngày sanh phạm phải mà dùng được, nếu lúc gặp phải không kỵ, thường chủ giàu sang, người quân tử đỗ đạt từ lúc còn nhỏ, người thường thì nghề nghiệp vượt qua mọi người. Có tài trên đầu khố chính là người giáp, ất thấy kỷ mùi; người bính đinh thấy canh tuất; người mậu kỷ thấy nhâm thìn; người canh tân thấy ất sửu; người nhâm quý thấy bính thìn, người quân tử thường đảm đương về tiền bạc và ngũ cốc, người thường có gia nghiệp dư dả, sung túc, tức là luận theo tài quan lộ ra. Còn như kim thấy kỷ sửu hoả; mộc thấy ất mùi kim; thuỷ thấy bính thìn thổ; thổ thấy mậu thìn mộc; hoả thấy nhâm tuất thuỷ, nếu như đây là cách, tức là trong mộ gặp quỷ, nguy hiểm rất đáng sợ.
Bài ca xưa hát rằng: tạp khí tài, quan dùng cung tháng, thiên can lộ ra thì to lớn, tài nhiều, quan vượng nên xung phá, chớ nên thiên can địa chi quá đè ép.
Lại thêm: tạp khí vốn không đến từ ô uế, bắt đầu thành sự thực khi thiên can lộ ra, thân cường tài vượng sanh quan lộc, vận vào xung hình tích trữ vật báu.
Lại thêm: đề cương lệnh tháng không thể xung, mười xung chín mệnh đều là hung, chỉ có tài, quan gặp mộ khố, đại vận đến đây ngược lại thành công.
Lại thêm: giờ mộ gặp quan chủ phát muộn, mừng gặp xung khắc rất kỳ diệu, trấn áp không đến nơi cao quý, quan cao chức trọng hợp cả hai.
Lại thêm: người trong mộ không phát lúc tuổi trẻ, đều vì tài, quan bị đóng cửa kho, phá hại nên có thể mở được khoá, ẩn giấu cuối cùng nhận cay đắng; đinh nhâm vốn lấy thìn làm mộ, mậu thổ tới tổn thương người giàu thành nghèo, ất mão giáp dần cùng cứu giúp, tài tinh lộ ra sẽ tự nhiên giàu sang.
Lại nói: tạp khí tài, quan với ấn giống nhau, hợp cách rất kỵ quỷ, tài xung, chỉ thích hợp khi mình sanh vượng là tốt nhất, tuy mừng gặp nó cần phải hợp; nếu là tài nhiều nên từ chức, như gặp quan vượng phúc vô cùng, tham tài hoại ấn ngài nên nhớ, đầu ruồi nhỏ bé phí công vô ích.
Lại thêm: tài, quan tạp khí giấu trong khố, rất mừng sanh thân vào nơi vượng, sát nặng thân nhẹ nên chế phục, tài nhiều khố đầy cần xung tổn; ngũ hành có chọn tìm cách khác, tứ trụ vô tình suy xét và ghi chú, tuế vận nếu đến đất tài vượng, danh tiếng ngày càng tiến rất cao cường.
论杂气
杂气者,乃辰戌丑未,辰中有乙戊癸,为水土库;戌中有辛戊丁,为火库;丑中有癸辛己,为金库;未中有丁己乙,为木库。各随所藏之气而言,看我日干,或为官,或为财,或为印,官系福身之物,财是养命之源,印乃资身之本,在人最为切要。四库各藏三件,乃天地不正之气,故以杂言也。经云:财官印绶全备,藏蓄于四季之中是也。此格喜透露冲刑,忌压伏,其余喜忌消详,与前正气财官印同。假令六甲日生得丑月,以丑中辛金为官,己土为财,癸水为印,看天干透出何字为福次,分节气浅深,何物当令,大概透财者富,透官者贵,印绶享父祖见成之福,受宣敕荫庇之贵,如无透出,冲刑少许兼身旺为妙,忌身弱,冲刑太过则福聚之气散矣。如柱元有破害之物,再不可遇此等运,再行则为太过,冲坏秀气,反不为吉,元无破害,喜冲刑运。《景鉴》云:杂气财官,身旺有冲而发,若太过反受孤贫是也。又云:杂气财官格,要四柱财星多,便为好命,若四柱别入他格,依他格断。又云:杂气财官有正官格、偏官格、正财格、偏财格,杂气印绶有正印格、偏印格,须分偏正,若偏官,亦要少许制伏则可,若墓库重叠,元无刑冲,不透贵气,兼有戊己压其上,最难发于少年,故曰财官锁闭少年,不发墓中人是也。又曰:四库亦是衰养冠带之乡,若时上见为时墓格,与月上同论,但发较晚。如丁亥、戊子、丙申、己丑,丙用丑墓为财库,行未运冲丑库发财。见壬,辰为官库,至戌运冲辰库发官。倘柱中别有戊辰、己丑压伏库上,则不能发财发官,难作好命看,若有冲见合,则又不能冲矣。又曰:月临库地,东西南北四隅之气,如未木行东方,戌火行南方,辰水行北方,丑金行西方临库墓,运行生旺之地必发,如月临辰水气,运转南方,不见会合,只以土论。又曰:古人以五行墓处为仓库,若命中带仓库,遇太岁所克之五行加之,如木人得辛未,火人得庚戌,土人得壬辰,水人得甲辰,金人得癸丑,是谓库中有财,其人必丰厚;若命带墓绝,而反值太岁所畏之五行加之,如木人得乙未,火人得壬戌,土人得戊辰,金人得己丑,水人得丙辰,谓之绝处无依,其人必??滞。若五行递相库墓纯粹而不破,又有福神加临,此两府之格也。若破而生旺,破而死绝,有福神加临,则减退断之。若克破而无福神,只是百姓。此库墓格局,不问贵贱,只是一生自己荣旺,不利六亲,仍难得子息。有库头鬼,乃甲乙人见辛未,忌丁巳;丙丁人见壬戌,忌戊寅;戊己人见甲辰,忌庚寅;庚辛人见丁丑,忌癸巳;壬癸人见戊辰,忌甲寅。一名轩车煞,若犯所忌,主车破辆,马折足,妇人疾厄,常人致盗。《神白经》云:生日犯之得用,若遇时不犯忌,多主富贵,君子早年科甲,常人艺业出众。有库头财,乃甲乙人己未,丙丁人庚戌,戊己人壬辰,庚辛人乙丑,壬癸人丙辰,君子多主钱谷之任,常人家业从容,即透出财官论也。如金见己丑火,木见乙未金,水见丙辰土,土见戊辰木,火见壬戌水,如此之格,即墓中逢鬼,危疑者甚。
古歌云:杂气财官用月宫,天干透露始为丰,财多官旺宜冲破,切忌干支压伏重。又:杂气从来自不纯,天干透出始为真,身强财旺生官禄,运入冲刑聚宝珍。又:月令提纲不可冲,十冲九命皆为凶,惟有财官逢墓库,运行到此反成功。又:时墓逢官主发迟,喜逢冲克最为奇,镇压不来临贵处,官高职显两相宜。又:少年不发墓中人,皆为财官闭库门,破害故能开锁钥,压藏终是受苦辛;丁壬本取辰为墓,戊土来伤富作贫,乙卯甲寅同救济,财星涌出自然荣。又曰:杂气财官与印同,格中最忌鬼财重,但宜我多生为上,虽喜逢他要得中;若是财多宜退职,如逢官旺福无穷,贪财坏印君须记,蜗角蝇头枉费心。又:财官杂气库中藏,最喜生身入旺乡,煞重身轻宜制伏,财多库实要冲伤;五行有取寻他格,四柱无情反有笺,岁运若临财旺地,声名日进甚高强。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#179
Gửi vào 10/07/2024 - 01:33
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Phụ Luận Mộ Vận
Bí Quyết nói rằng: tuổi nhỏ không nên gặp phải mộ khố, người già gặp vậy thì thịnh vượng.
Lại nói rằng: quan vượng, ấn vượng, với tài vượng, vào mộ có tai hoạ; thương quan, thực thần với thân vượng, gặp phải khố thì tai hoạ nổi lên.
Lại nói rằng: sát vượng vào mộ, đoán tuổi thọ khó kéo dài. Có thể thấy người mà dụng thần là quan, ấn, thương quan, thất sát đều kỵ đi vận mộ khố, chỉ tuổi già đi đất khố của mình thì tốt.
附论墓运
秘诀云:幼年不宜逢墓库,老年值此却丰隆。又云:旺官旺印与旺财,入墓有祸;伤官食神并身旺,遇库兴灾。又云:旺煞入墓,寿算难延。可见凡官印伤官七煞为用神者,俱忌行墓库之运,惟晚年行自库地则吉。
.
Phụ Luận Mộ Vận
Bí Quyết nói rằng: tuổi nhỏ không nên gặp phải mộ khố, người già gặp vậy thì thịnh vượng.
Lại nói rằng: quan vượng, ấn vượng, với tài vượng, vào mộ có tai hoạ; thương quan, thực thần với thân vượng, gặp phải khố thì tai hoạ nổi lên.
Lại nói rằng: sát vượng vào mộ, đoán tuổi thọ khó kéo dài. Có thể thấy người mà dụng thần là quan, ấn, thương quan, thất sát đều kỵ đi vận mộ khố, chỉ tuổi già đi đất khố của mình thì tốt.
附论墓运
秘诀云:幼年不宜逢墓库,老年值此却丰隆。又云:旺官旺印与旺财,入墓有祸;伤官食神并身旺,遇库兴灾。又云:旺煞入墓,寿算难延。可见凡官印伤官七煞为用神者,俱忌行墓库之运,惟晚年行自库地则吉。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#180
Gửi vào 10/07/2024 - 09:59
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Lục
Luận Thương Quan
Thương quan là cái mà mình sanh, chính là giáp thấy đinh, ất thấy bính các loại, giáp lấy tân làm quan, đinh hoả nhờ trộm khí của mình mà vượng, khắc chế tân kim, khiến giúp cho giáp không trở thành quý, cho nên tên là thương quan. Cách thương quan cần phải thương tẫn (diệt tận), mới xem là quý, vốn là có quan tinh thì thương tổn sẽ nặng nề.
Sách nói: thương quan kiến quan, hoạ hoạn bách đoan là vậy. Thương quan tuy là xấu nhưng chính là mình sanh ra, vốn là người trong nhà, thương tẫn thì có thể sanh tài, mà tài vượng sẽ có thể sanh quan, vận số chuyển động hữu tình. Như thương quan ở tại lệnh tháng, tứ trụ kết hợp thành cục, đều là vị trí thương tổn, không có xung không có phá, không thấy một điểm quan tinh nào gọi là thương tẫn. Lại có trường hợp thương quan ở địa chi của tháng, hay thương quan trên trụ giờ, tứ trụ không có quan tinh cũng là thương tẫn. Thêm thân vượng, tài vượng hay ấn vượng, đề tên trên bảng vàng, nhất phẩm quý nhân (bậc quan cao nhất trong triều đình thời xưa). Cách này chủ nhiều tài nghệ, kiêu ngạo, tâm hiểm mà khong e dè gì cả, nhiều mưu kế mà ít khi thành tựu, khéo quá hoá vụng, thường xem người trong thiên hạ không ai bằng mình, huống chi là người cũng sợ lầm lỗi. Thương quan vô tài chủ nghèo khốn, bởi để sanh tài khí chính là thực thần hay thương quan, kẻ trộm tài khí chính là thất sát hay quan tinh, vì thế thương quan cần thấy tài, mà không cần thấy quan. Thí dụ giáp sanh tháng ngọ, mộc không chạy về phương nam, thân thể quá nhu nhược, làm sao có thể gặp lại kim chế phục? Kim có thể trộm khí của thổ, vì thế không nên thấy quan. Đã không có quan tinh mà trụ không có một điểm tài nào có thể nương nhờ, tuy là thông minh khéo léo, chẳng qua chỉ là danh tiếng và lợi lộc hư ảo.
Sách nói rằng: "thương quan không có tài có thể nương nhờ, tuy khéo léo nhưng sẽ nghèo" đúng là vậy. Cách thương quan dụng tài, cũng có trường hợp dụng ấn.
"Thiên Huyền Phú" nói rằng: thương quan dụng ấn nên bỏ tài, dụng tài thì nên bỏ ấn, nếu có đủ cả hai tài và ấn, làm sao có thể phát phúc? Người thân vượng dụng tài, người thân nhược dụng ấn, người dụng ấn phải bỏ tài mới có khả năng phát phúc, người dụng tài không lưu ý tới ấn cũng chủ hanh thông, thương quan dụng ấn thì không kỵ quan sát, bỏ tài mới phát, vốn là phạm thương quan phải cần thấy tài sẽ phát. Thương quan rất thích đi vận tài, tiếp theo là vận ấn thụ và thân vượng, không thích đi nơi quan, tứ trụ thương quan nhiều mà thấy quan, không thích hợp đi trở lại vận thương quan, một vị trí thì không trở ngại gì.
Lại nói: cách thương quan cốt phải diệt tận, nếu trụ thấy thương quan mà quan tinh ẩn hay hiện là thương tổn không hoàn toàn, tuế vận gặp lại quan tinh, do quan vượng, lại thấy hình xung phá hại, hay nhận sát khắc thân, hay thân nhược tài vượng, sẽ chủ bị bỏ mạng trên đường đi lưu đày, ngũ hành có cứu giúp cũng bị tàn tật. Nếu tứ trụ không có quan mà gặp thương sát nhiều, vận vào đất quan, lại gặp tuế quân, nếu không bị tật bệnh về mắt, sẽ chủ về tai nạn tàn phá.
Sách nói: ngũ hành thương quan: chỉ người hoả thương quan thổ, người thổ thương quan kim là kỵ thấy quan tinh; còn người kim thương quan thuỷ, người thuỷ thương quan mộc, người mộc thương quan hoả không kỵ (thấy quan tinh). Bởi vì hoả lấy thuỷ làm quan, lấy thổ làm thương quan, thuỷ sợ thổ khắc, thổ được thuỷ không ích lợi gì; thổ lấy mộc làm quan, lấy kim làm thương quan, mộc sợ kim khắc, kim được mộc không ích lợi gì, vì thế cách hoả và thổ thương quan kỵ thấy quan tinh. Kim lấy thuỷ làm thương quan, lấy hoả làm quan, thuỷ tuy là khắc hoả, nếu mà kim hàn thuỷ lãnh, không có hoả sưởi ấm, khó mà giúp được vạn vật, huống chi thuỷ gặp hoả trở thành công lao của ký tế; thuỷ lấy mộc làm thương quan, lấy thổ làm quan, mộc tuy khắc thổ, nhưng thuỷ tràn lan mộc sẽ trôi nổi, không gặp thổ ngăn chận khó mà sống còn, huống chi mộc gặp thổ trở thành lực vun bón; mộc lấy hoả làm thương quan, lấy kim làm quan, hoả tuy khắc kim, nếu mộc nhiều hoả bị ngộp, không gặp kim đẽo gọt khó thành thông minh, huống chi kim có hoả mới thành vật dụng, vì thế cách kim hay thuỷ hay mộc thương quan không kỵ quan tinh.
Sách xưa nói rằng: thương quan hoả thổ nên diệt tận, thương quan kim thuỷ cần thấy quan, mộc hoả thấy quan quan phải vượng, thổ kim quan bỏ đi lại thành quan, chỉ có cách thuỷ mộc thương quan, thấy cả hai tài quan mới là vui vẻ
Lại nói: thương quan thương tẫn cũng có khi không phải là phúc; thương quan kiến quan cũng có khi không phải là hoạ. Như một mệnh đinh mùi đinh mùi bính ngọbính ngọ (lẽ ra là giáp ngọ thay vì bính ngọ) ngày bính ngồi trên ngọ nhật chủ tự vượng, có hai chữ ngọ, hai chữ đinh, hai chữ mùi, tài quan đều bị thương tổn, tuy là thương quan thương tẫn, nhưng mà hoả khí quá vượng, trộm khí cũng nặng đi vận đông nam nơi hoả vượng, không có một điểm tài khí, thân vượng mà không có nương tựa, người cực kỳ nghèo, nhất định không thể thấy thương quan thương tẫn thân vượng liền xem là mệnh tốt. Lại như người sanh ngày giáp, trụ có tân là quan, lại có đinh là thương quan, nếu sanh các tháng mùa thu quan vượng, tuy là gặp đinh hoả hoặc ở trên hợi tý, hoặc thấy ngọ ẩn dưới chữ nhâm, quý thì đinh không thể thương tổn quan tinh, cuối cùng là mệnh có chức quan, tuế vận gặp sát, quan, ấn thụ đều tốt, kỵ vận thân suy bại, nhất định không nên thấy cách thương quan có quan tinh, liền xem là mệnh không tốt.
Lại nói: mệnh người vốn là có một ít thương quan, không thể tổn hại quý khí, hoặc vận vào đất quan, quan tự vượng nên cường mạnh, hoặc vào vận ấn chế phục thương sát, hoặc có tài sanh trợ, hoặc tòng hoá ở cách đặc biệt, không bị mất mệnh tốt, sợ lại đi đất thương quan, người bệnh không dậy được, không thì tranh cãi thị phi về văn thư, việc quan bị đổ nát, tai hoạ nối tiếp nhau ập đến. Trụ vốn là có tài, lại đi vận tài, cũng có thể đạt được công danh lợi lộc, một khi đi đất quan sát, hoặc đất tài suy bại tử tuyệt, tức là mất tài lộc, chẳng phải kiện cáo sẽ là gặp việc tang phục.
Lại nói: tứ trụ thương quan, chỉ can năm thương quan là quan trọng nhất, nghĩa là nền tảng phúc bị thương tổn, cả đời không thể trừ bỏ được, nếu địa chi tháng cũng có càng nghiêm trọng, hơn cả thất sát thương tổn bản thân. Như người sanh ngày giáp lấy tân làm quan, thấy năm đinh mão, sanh tháng dấn ngọ tuất, là đúng là phạm thương quan nặng nề, lại có mão là kiếp nhận, còn có tên là bối lộc trục mã, chủ là người rụt rè hối tiếc, trở lại làm thương tổn phúc trạch của tổ tiên để lại, vận đi đến đất của quan, lưu niên gặp lại lần nữa, hoặc sát vượng thân nhược nhất định có tai hoạ. Nếu lệnh tháng thật sự đúng là thương quan, lại gặp quan tinh, như các trường hợp ngày giáp sanh tháng ngọ, thấy giờ tân mùi, đinh hoả trong ngọ thương tổn tân; ngày ất sanh tháng tỵ, thấy canh hoặc giờ giáp thân, bính hoả trong tỵ thương tổn canh; ngày bính tháng ngọ thấy mậu tý giờ quý tỵ, kỷ thổ trong ngọ thương tổn quý. Nói chung nhật chủ cường vượng lại vào vận thương quan, có thể phát danh lợi; nhật chủ yếu nhược, vận trải qua nơi tài quan, hoạ không thể nói.
Lại nói: thương quan như ngày giáp thấy đinh mừng có nhâm hợp hay quý phá; ất thấy bính mừng có tân hợp hay nhâm phá; bính thấy kỷ mừng có giáp hợp hay ất phá; đinh thấy mậu mừng có quý hợp hay giáp phá; mậu thấy tân mừng có bính hợp hay đinh phá; kỷ thấy canh mừng có ất hợp hay bính phá; canh thấy quý mừng có mậu hợp hay kỷ phá; quý thấy giáp mừng có kỷ hợp hay canh phá.
"Vạn Kỳ" nói rằng: nguyên thần của thương quan không có quan tinh, lại đi vận thương quan, đó là trộm khí quá nhiều như một mộc mà gặp hoả trùng điệp, tên là tán khí chi văn (hiện tượng khí tan rã), chẳng phải nghèo thì tuổi thọ ngắn ngủi, mừng thân vượng cùng với đất quan, thương quan kiến quan sẽ là vận xấu, sẽ trì trệ, vận vào đất quan trong cách cục, trái lại là tốt, tức là thương quan thương tẫn thì mừng thấy quan tinh. Thương quan nếu đới tài thấy ấn tai hoạ không nhỏ. Thương quan nếu đới ấn, quan sát không phải là hình, người thương quan nhiều nên đi ấn, tức là thực đa dụng ấn, người thương quan ít lại đi nơi ấn, tức là kiêu thần đoạt thực. Thương quan nếu đới ấn không nên gặp phải tài, thương quan nếu đới quan, không hợp đi nơi chế phục, thương quan dụng tài không hợp đi nơi tỷ kiếp, thương quan dụng ấn không kỵ gặp quan, sát, thương quan nếu thấy quan tinh trùng điệp, chớ nên lấy quan tinh để luận. Thương quan dụng quan ở trụ năm tháng sẽ phải bãi miễn chức quan, vận ở ngày giờ không nên bị thương tổn, một khi thấy thương hoạ không thể nói, không thể vào mộ tuổi thọ khó kéo dài.
"Thiên Lý Mã" nói rằng: thương quan kiến quan, tuyệt vời khi vào nơi ấn, tài.
Lại nói: thương quan gặp phải tài nên có con.
"Tương Tâm Phú" nói rằng: thương quan thương tẫn, nhiều tài năng và bản lãnh, khiến tâm tư kiêu ngạo, thường xảo quyệt dối trá nên xúc phạm người có chí lớn. Là người có gò má cao, xương chắc khoẻ, mắt to mày thô.
"Cảnh Giám" nói rằng: thương quan không có tài mà đới dương nhận, hành động gian xảo.
"Thông Minh Phú" nói rằng: thấy nhiều thương quan, thân sẽ khó khăn, gian nan rất là cực khổ.
Lại nói: thương quan nhiều mà thân vượng không có chỗ nương nhờ, nhất định là tăng đạo, nghệ thuật hay học giả.
Bí Quyết nói rằng: thương quan quá nhiều, con sẽ hao tổn.
Lại nói: trụ năm có thương quan, cha mẹ không còn đủ, trụ tháng có thương quan anh em không còn đủ, trụ giờ tập hợp thương quan, con cái bướng bỉnh, trụ ngày có thương quan vợ và vợ bé không có đức hạnh.
Lại nói: thương quan bất tẫn (không diệt tận), phải đề phòng tai hoạ bất ngờ, thương quan phùng tài chính là ung dung hưởng phúc, thất sát cùng đến phải lo lắng bệnh tật tổn hại, thân vượng không chổ nương nhờ khó tránh khỏi cô độc, thương quan gặp kiếp của cải giống như bông liễu theo gió bay đi, thương quan vô ấn cầu lợi giống như hà tiền kình vũ (cây sen đựng tiền hứng mưa).
Bài ca xưa hát rằng: thương quan nguyên là thần sản nghiệp, diệt tận thật sự là đại quý nhân, nếu là thương quan thương bất tẫn, quan đến do vượng nên hoạ không nhỏ.
Lại thêm: lệnh tháng gặp quan ở nơi thương quan, thương quan nhẹ giảm bớt lực vẫn không sao, nếu thấy hình xung tụ hội với phá hại, nhất định biết rằng chức quan không lâu dài.
Lại thêm: thương quan thương tẫn lại sanh tài, tài vượng sanh quan trao đổi với nhau đến, tứ trụ nếu không có quan hiển lộ, liền nói giàu sang chẳng nghi ngờ.
Lại thêm: người gặp thương quan vốn chẳng nên, tài có quan không có là nền tảng của phúc, giờ ngày tháng cách cục thương quan, đi vận tài vượng thì quý không nghi ngờ.
Lại thêm: thương quan thương tẫn mới là điều kỳ lạ, lại e sợ thương quan nhiều trái lại không nên, có ngàn biến hoá trong cách cục này, phải xem xét tỉ mỉ cần dùng đến tâm khéo giỏi.
Lại thêm: thương quan không có quan rất kỵ vận xấu, vận đến nơi quan trái lại thấy điều kỳ diệu, tuế vận và mệnh gặp ấn thụ, trở thành giàu sang nhất định không nghi ngờ.
Lại thêm: thương quan không kỵ gặp tỷ kiên,thất sát" ,thiên quan cái lý cũng giống nhau, nếu đúng là không có quan nên kỵ tỷ kiên, như gặp thân vượng thì gần như nặng nề.
Lại thêm: thương quan bất tẫn lại gặp quan, chém treo, tội lưu đày, tai hoạ trăm mối, trụ tháng phạm nhằm cha con không hoàn mỹ, trụ ngày phạm tự mình có thương tổn tàn tật; trụ giờ thuong quan con cái thường chật vật khốn khổ, phải biết giàu sang không chu đáo, hoàn bị, nếu đúng là thương quan ở thái tuế, sẽ rước lấy tai hoạ bất ngờ trong năm này.
Hợp các lý thuyết lại mà nghĩ thấu thương quan hỷ, kỵ, diệt tận vậy.
论伤官
伤官者,我生彼之谓,乃甲见丁、乙见丙之类,甲用辛为官,丁火乘旺,盗我之气,克制辛金,使不辅甲为贵,故名伤官。伤官格务要伤尽,方作贵看,元有官星,伤之则重。经云:"伤官见官,祸患百端"是也。伤官虽凶,乃我所生,自家之物,伤尽则能生财,财旺则能生官,造化展转有情。如月令在伤官,四柱作合结局,皆在伤位,无冲无破,不见一点官星,谓之伤尽。又有月支伤官,时上伤官,四柱无官星,亦谓伤尽。更身旺、财旺或印旺,名标金榜,一品贵人。此格主多材艺,傲物气高,心险无忌惮,多谋少遂,弄巧成拙,常以天下之人不如己,而人亦惮之恶之。伤官无财主贫穷,盖生财气者即食神伤官,盗财气者即七煞官星,所以伤官要见财,不要见官。假如甲生午月,木不南奔,身势太柔,岂可再逢金制?金能盗土之气,所以不要见官。既无官星,而柱却无一点财可恃,虽聪明机巧,不过虚名虚利。经云"伤官无财可倚,虽巧必贫"是也。
伤官格用财,亦有用印者。《天玄赋》云:伤官用印宜去财,用财宜去印,倘使财印两全,将何发福?身旺者用财,身弱者用印,用印者须去财方能发福,用财者不论印亦主亨通,伤官用印,不忌官煞,去财方发,元犯伤官,须要见财则发。伤官最喜行财运,印绶身旺次之,不喜行官乡,四柱伤官多而见官者,不宜复行伤运,一位无妨。又曰:伤官格务要伤尽,若柱见伤官,而官星隐显,伤之不尽,岁运再见官星,官来乘旺,再见刑冲破害,刃煞克身,身弱财旺,必主徒流死亡,五行有救,亦残疾。若四柱无官而遇伤煞重者,运入官乡,岁君又遇,若不目疾,必主灾破。
经云:五行伤官,惟火人土伤官,土人金伤官忌见官星,若金人水,水人木,木人火,不忌。盖火以水为官,以土为伤,水畏土克,土得水无益;土以木为官,以金为伤,木畏金克,金得木无益,所以火土伤官格忌见官星。金以水为伤,以火为官,水虽克火,若金寒水冷,不得火温,难以济物,况水得火成既济之功;水以木为伤,以土为官,木虽克土,若水泛木浮,不得土止,难以存活,况木得土成栽培之力;木以火为伤,以金为官,火虽克金,若木繁火息,不得金削脱,难以通明,况金得火成器物之象,所以金水木伤官格不忌官星。故经云:"伤官火土宜伤尽,金水伤官要见官,木火见官官要旺,土金官去反成官,惟有水木伤官格,财官两见始为欢"是也。又曰:伤官伤尽,亦有不作福者,伤官见官,亦有不作祸者。如一命丁未、丁未、丙午、丙午,丙日坐午,日主自旺,有二午、二丁、二未,财官俱伤,虽伤官伤尽,奈四柱火气太旺,窃气又重,运行东南火旺之乡,无一点财气,身空旺无倚,至贫之人,切不可见伤官伤尽身旺,便作好命看。又如甲日生人,柱有辛为官,又有丁伤官,若生秋月官旺,虽逢丁火或居亥、子之上,或见午伏壬、癸之下,则丁不能伤官,终为有官爵之命,岁运遇煞官印绶,俱吉,忌身衰败运,切不可见伤官格有官星,便不作好命看。又曰:人命原有些小伤官,不能损贵气,或运入官乡,官自旺强健,或入印运制伏伤煞,或有财生助,或从化入于别格,不失为好命,怕再行伤地,病而不起者有之,否则文书口舌,官事破败,殃祸踵至。柱元有财,又行财运,亦可成就功名利禄,一行官煞地,或财衰败死绝地,即失财禄,非官讼则丧服重并。又曰:四柱伤官,惟年干伤官最重,谓之福基受伤,终身不可除去,若月支更有,甚于伤身七煞。如甲日人,以辛为官,见丁卯年,生寅午戌月,是伤官重犯,又有卯为劫刃,名背禄逐马,主为人退悔,反伤祖荫,运行官乡,流年再见,或煞旺身弱运,必祸。若月令真正伤官,又见官星,如甲日生午月,见辛未时,午中丁火伤辛;乙日生巳月,见庚或甲申时,巳中丙火伤庚;丙日午月,见戊子、癸巳时,午中己土伤癸之例。大要日主健旺,再临伤官运,可发名利,日主微弱,运历财官乡,祸不可言。又曰:伤官,如甲日见丁,喜壬合癸破;乙见丙,喜辛合壬破;丙见己,喜甲合乙破;丁见戊,喜癸合甲破;戊见辛,喜丙合丁破;己见庚,喜乙合丙破;庚见癸,喜戊合己破;癸见甲,喜己合庚破。
《万祺》云:伤官元辰无官星,又行伤官运,此为窃气太过,即一木叠逢火位,名为散气之文,非贫则夭,喜身旺及官乡,伤官见官,再剥再滞,运入官乡局中,反吉,即伤官伤尽却喜见官星。伤官若带财见印,祸不轻。伤官若带印,官煞不为刑,伤官多者宜行印,即食多用印。伤官少者又行印乡,即枭神夺食。伤官若带印,不宜逢财,伤官若带官,不宜行制伏,伤官用财,不宜行此劫,伤官用印,不忌见官煞,伤官若见官星重叠,莫作官星论。伤官用官,在年月必要剥官,运在日时,不宜被伤,一见被伤,祸不可言,不可临墓,住寿难延。《千里马》云:伤官见官,妙入印财之地。又云:伤官逢财而有子。
《相心赋》云:伤官伤尽,多艺多能,使心机而傲物气高,多谲诈而侮人志大,颧高骨峻,眼大眉粗。《景鉴》云:伤官无财而带刃,行奸弄巧。《通明赋》云:重见伤官,身必辛勤劳苦。又云:伤官多而身旺无依,定为僧道艺术为士。秘诀云:伤官太重,子必有亏。又云:年带伤官,父母不全,月带伤官,兄弟不完,时整伤官,子息凶顽,日带伤官,妻妾不贤。又云:伤官不尽,须防不测之灾,伤官逢财,乃享优游之福,七煞同来,疾损须忧,身旺无依,孤克难免,伤官遇劫,聚财如柳絮随风,伤官无印,求利似荷钱擎雨。古歌云:伤官原是产业神,伤尽真为大贵人,若是伤官伤不尽,官来乘旺祸非轻。又:月令逢官在伤乡,伤轻减力尚无妨,若见刑冲并破害,定知为官不久长。又:伤官伤尽复生财,财旺生官互换来,四柱若无官显露,便言富贵莫疑猜。又:伤官遇者本非宜,财有官无是福基,时日月伤官格局,运行财旺贵无疑。又:伤官伤尽始为奇,又恐伤多反不宜,此格局中千变化,详推须要用心机。又:伤官无官最忌剥,运入官乡反见奇,岁运命中逢印绶,诚为富贵定无疑。又:伤官不忌比肩逢,七煞偏官理亦同,若是无官当忌比,如逢身旺却嫌重。又:伤官不尽又逢官,斩绞徒流祸百端,月犯父子无全美,日犯自己主伤残;时伤子息多狼狈,须知富贵不周全,若是伤官居太岁,必招横祸逢斯年。合诸说观之,伤官喜忌尽矣。
.
Luận Thương Quan
Thương quan là cái mà mình sanh, chính là giáp thấy đinh, ất thấy bính các loại, giáp lấy tân làm quan, đinh hoả nhờ trộm khí của mình mà vượng, khắc chế tân kim, khiến giúp cho giáp không trở thành quý, cho nên tên là thương quan. Cách thương quan cần phải thương tẫn (diệt tận), mới xem là quý, vốn là có quan tinh thì thương tổn sẽ nặng nề.
Sách nói: thương quan kiến quan, hoạ hoạn bách đoan là vậy. Thương quan tuy là xấu nhưng chính là mình sanh ra, vốn là người trong nhà, thương tẫn thì có thể sanh tài, mà tài vượng sẽ có thể sanh quan, vận số chuyển động hữu tình. Như thương quan ở tại lệnh tháng, tứ trụ kết hợp thành cục, đều là vị trí thương tổn, không có xung không có phá, không thấy một điểm quan tinh nào gọi là thương tẫn. Lại có trường hợp thương quan ở địa chi của tháng, hay thương quan trên trụ giờ, tứ trụ không có quan tinh cũng là thương tẫn. Thêm thân vượng, tài vượng hay ấn vượng, đề tên trên bảng vàng, nhất phẩm quý nhân (bậc quan cao nhất trong triều đình thời xưa). Cách này chủ nhiều tài nghệ, kiêu ngạo, tâm hiểm mà khong e dè gì cả, nhiều mưu kế mà ít khi thành tựu, khéo quá hoá vụng, thường xem người trong thiên hạ không ai bằng mình, huống chi là người cũng sợ lầm lỗi. Thương quan vô tài chủ nghèo khốn, bởi để sanh tài khí chính là thực thần hay thương quan, kẻ trộm tài khí chính là thất sát hay quan tinh, vì thế thương quan cần thấy tài, mà không cần thấy quan. Thí dụ giáp sanh tháng ngọ, mộc không chạy về phương nam, thân thể quá nhu nhược, làm sao có thể gặp lại kim chế phục? Kim có thể trộm khí của thổ, vì thế không nên thấy quan. Đã không có quan tinh mà trụ không có một điểm tài nào có thể nương nhờ, tuy là thông minh khéo léo, chẳng qua chỉ là danh tiếng và lợi lộc hư ảo.
Sách nói rằng: "thương quan không có tài có thể nương nhờ, tuy khéo léo nhưng sẽ nghèo" đúng là vậy. Cách thương quan dụng tài, cũng có trường hợp dụng ấn.
"Thiên Huyền Phú" nói rằng: thương quan dụng ấn nên bỏ tài, dụng tài thì nên bỏ ấn, nếu có đủ cả hai tài và ấn, làm sao có thể phát phúc? Người thân vượng dụng tài, người thân nhược dụng ấn, người dụng ấn phải bỏ tài mới có khả năng phát phúc, người dụng tài không lưu ý tới ấn cũng chủ hanh thông, thương quan dụng ấn thì không kỵ quan sát, bỏ tài mới phát, vốn là phạm thương quan phải cần thấy tài sẽ phát. Thương quan rất thích đi vận tài, tiếp theo là vận ấn thụ và thân vượng, không thích đi nơi quan, tứ trụ thương quan nhiều mà thấy quan, không thích hợp đi trở lại vận thương quan, một vị trí thì không trở ngại gì.
Lại nói: cách thương quan cốt phải diệt tận, nếu trụ thấy thương quan mà quan tinh ẩn hay hiện là thương tổn không hoàn toàn, tuế vận gặp lại quan tinh, do quan vượng, lại thấy hình xung phá hại, hay nhận sát khắc thân, hay thân nhược tài vượng, sẽ chủ bị bỏ mạng trên đường đi lưu đày, ngũ hành có cứu giúp cũng bị tàn tật. Nếu tứ trụ không có quan mà gặp thương sát nhiều, vận vào đất quan, lại gặp tuế quân, nếu không bị tật bệnh về mắt, sẽ chủ về tai nạn tàn phá.
Sách nói: ngũ hành thương quan: chỉ người hoả thương quan thổ, người thổ thương quan kim là kỵ thấy quan tinh; còn người kim thương quan thuỷ, người thuỷ thương quan mộc, người mộc thương quan hoả không kỵ (thấy quan tinh). Bởi vì hoả lấy thuỷ làm quan, lấy thổ làm thương quan, thuỷ sợ thổ khắc, thổ được thuỷ không ích lợi gì; thổ lấy mộc làm quan, lấy kim làm thương quan, mộc sợ kim khắc, kim được mộc không ích lợi gì, vì thế cách hoả và thổ thương quan kỵ thấy quan tinh. Kim lấy thuỷ làm thương quan, lấy hoả làm quan, thuỷ tuy là khắc hoả, nếu mà kim hàn thuỷ lãnh, không có hoả sưởi ấm, khó mà giúp được vạn vật, huống chi thuỷ gặp hoả trở thành công lao của ký tế; thuỷ lấy mộc làm thương quan, lấy thổ làm quan, mộc tuy khắc thổ, nhưng thuỷ tràn lan mộc sẽ trôi nổi, không gặp thổ ngăn chận khó mà sống còn, huống chi mộc gặp thổ trở thành lực vun bón; mộc lấy hoả làm thương quan, lấy kim làm quan, hoả tuy khắc kim, nếu mộc nhiều hoả bị ngộp, không gặp kim đẽo gọt khó thành thông minh, huống chi kim có hoả mới thành vật dụng, vì thế cách kim hay thuỷ hay mộc thương quan không kỵ quan tinh.
Sách xưa nói rằng: thương quan hoả thổ nên diệt tận, thương quan kim thuỷ cần thấy quan, mộc hoả thấy quan quan phải vượng, thổ kim quan bỏ đi lại thành quan, chỉ có cách thuỷ mộc thương quan, thấy cả hai tài quan mới là vui vẻ
Lại nói: thương quan thương tẫn cũng có khi không phải là phúc; thương quan kiến quan cũng có khi không phải là hoạ. Như một mệnh đinh mùi đinh mùi bính ngọ
Lại nói: mệnh người vốn là có một ít thương quan, không thể tổn hại quý khí, hoặc vận vào đất quan, quan tự vượng nên cường mạnh, hoặc vào vận ấn chế phục thương sát, hoặc có tài sanh trợ, hoặc tòng hoá ở cách đặc biệt, không bị mất mệnh tốt, sợ lại đi đất thương quan, người bệnh không dậy được, không thì tranh cãi thị phi về văn thư, việc quan bị đổ nát, tai hoạ nối tiếp nhau ập đến. Trụ vốn là có tài, lại đi vận tài, cũng có thể đạt được công danh lợi lộc, một khi đi đất quan sát, hoặc đất tài suy bại tử tuyệt, tức là mất tài lộc, chẳng phải kiện cáo sẽ là gặp việc tang phục.
Lại nói: tứ trụ thương quan, chỉ can năm thương quan là quan trọng nhất, nghĩa là nền tảng phúc bị thương tổn, cả đời không thể trừ bỏ được, nếu địa chi tháng cũng có càng nghiêm trọng, hơn cả thất sát thương tổn bản thân. Như người sanh ngày giáp lấy tân làm quan, thấy năm đinh mão, sanh tháng dấn ngọ tuất, là đúng là phạm thương quan nặng nề, lại có mão là kiếp nhận, còn có tên là bối lộc trục mã, chủ là người rụt rè hối tiếc, trở lại làm thương tổn phúc trạch của tổ tiên để lại, vận đi đến đất của quan, lưu niên gặp lại lần nữa, hoặc sát vượng thân nhược nhất định có tai hoạ. Nếu lệnh tháng thật sự đúng là thương quan, lại gặp quan tinh, như các trường hợp ngày giáp sanh tháng ngọ, thấy giờ tân mùi, đinh hoả trong ngọ thương tổn tân; ngày ất sanh tháng tỵ, thấy canh hoặc giờ giáp thân, bính hoả trong tỵ thương tổn canh; ngày bính tháng ngọ thấy mậu tý giờ quý tỵ, kỷ thổ trong ngọ thương tổn quý. Nói chung nhật chủ cường vượng lại vào vận thương quan, có thể phát danh lợi; nhật chủ yếu nhược, vận trải qua nơi tài quan, hoạ không thể nói.
Lại nói: thương quan như ngày giáp thấy đinh mừng có nhâm hợp hay quý phá; ất thấy bính mừng có tân hợp hay nhâm phá; bính thấy kỷ mừng có giáp hợp hay ất phá; đinh thấy mậu mừng có quý hợp hay giáp phá; mậu thấy tân mừng có bính hợp hay đinh phá; kỷ thấy canh mừng có ất hợp hay bính phá; canh thấy quý mừng có mậu hợp hay kỷ phá; quý thấy giáp mừng có kỷ hợp hay canh phá.
"Vạn Kỳ" nói rằng: nguyên thần của thương quan không có quan tinh, lại đi vận thương quan, đó là trộm khí quá nhiều như một mộc mà gặp hoả trùng điệp, tên là tán khí chi văn (hiện tượng khí tan rã), chẳng phải nghèo thì tuổi thọ ngắn ngủi, mừng thân vượng cùng với đất quan, thương quan kiến quan sẽ là vận xấu, sẽ trì trệ, vận vào đất quan trong cách cục, trái lại là tốt, tức là thương quan thương tẫn thì mừng thấy quan tinh. Thương quan nếu đới tài thấy ấn tai hoạ không nhỏ. Thương quan nếu đới ấn, quan sát không phải là hình, người thương quan nhiều nên đi ấn, tức là thực đa dụng ấn, người thương quan ít lại đi nơi ấn, tức là kiêu thần đoạt thực. Thương quan nếu đới ấn không nên gặp phải tài, thương quan nếu đới quan, không hợp đi nơi chế phục, thương quan dụng tài không hợp đi nơi tỷ kiếp, thương quan dụng ấn không kỵ gặp quan, sát, thương quan nếu thấy quan tinh trùng điệp, chớ nên lấy quan tinh để luận. Thương quan dụng quan ở trụ năm tháng sẽ phải bãi miễn chức quan, vận ở ngày giờ không nên bị thương tổn, một khi thấy thương hoạ không thể nói, không thể vào mộ tuổi thọ khó kéo dài.
"Thiên Lý Mã" nói rằng: thương quan kiến quan, tuyệt vời khi vào nơi ấn, tài.
Lại nói: thương quan gặp phải tài nên có con.
"Tương Tâm Phú" nói rằng: thương quan thương tẫn, nhiều tài năng và bản lãnh, khiến tâm tư kiêu ngạo, thường xảo quyệt dối trá nên xúc phạm người có chí lớn. Là người có gò má cao, xương chắc khoẻ, mắt to mày thô.
"Cảnh Giám" nói rằng: thương quan không có tài mà đới dương nhận, hành động gian xảo.
"Thông Minh Phú" nói rằng: thấy nhiều thương quan, thân sẽ khó khăn, gian nan rất là cực khổ.
Lại nói: thương quan nhiều mà thân vượng không có chỗ nương nhờ, nhất định là tăng đạo, nghệ thuật hay học giả.
Bí Quyết nói rằng: thương quan quá nhiều, con sẽ hao tổn.
Lại nói: trụ năm có thương quan, cha mẹ không còn đủ, trụ tháng có thương quan anh em không còn đủ, trụ giờ tập hợp thương quan, con cái bướng bỉnh, trụ ngày có thương quan vợ và vợ bé không có đức hạnh.
Lại nói: thương quan bất tẫn (không diệt tận), phải đề phòng tai hoạ bất ngờ, thương quan phùng tài chính là ung dung hưởng phúc, thất sát cùng đến phải lo lắng bệnh tật tổn hại, thân vượng không chổ nương nhờ khó tránh khỏi cô độc, thương quan gặp kiếp của cải giống như bông liễu theo gió bay đi, thương quan vô ấn cầu lợi giống như hà tiền kình vũ (cây sen đựng tiền hứng mưa).
Bài ca xưa hát rằng: thương quan nguyên là thần sản nghiệp, diệt tận thật sự là đại quý nhân, nếu là thương quan thương bất tẫn, quan đến do vượng nên hoạ không nhỏ.
Lại thêm: lệnh tháng gặp quan ở nơi thương quan, thương quan nhẹ giảm bớt lực vẫn không sao, nếu thấy hình xung tụ hội với phá hại, nhất định biết rằng chức quan không lâu dài.
Lại thêm: thương quan thương tẫn lại sanh tài, tài vượng sanh quan trao đổi với nhau đến, tứ trụ nếu không có quan hiển lộ, liền nói giàu sang chẳng nghi ngờ.
Lại thêm: người gặp thương quan vốn chẳng nên, tài có quan không có là nền tảng của phúc, giờ ngày tháng cách cục thương quan, đi vận tài vượng thì quý không nghi ngờ.
Lại thêm: thương quan thương tẫn mới là điều kỳ lạ, lại e sợ thương quan nhiều trái lại không nên, có ngàn biến hoá trong cách cục này, phải xem xét tỉ mỉ cần dùng đến tâm khéo giỏi.
Lại thêm: thương quan không có quan rất kỵ vận xấu, vận đến nơi quan trái lại thấy điều kỳ diệu, tuế vận và mệnh gặp ấn thụ, trở thành giàu sang nhất định không nghi ngờ.
Lại thêm: thương quan không kỵ gặp tỷ kiên,thất sát" ,thiên quan cái lý cũng giống nhau, nếu đúng là không có quan nên kỵ tỷ kiên, như gặp thân vượng thì gần như nặng nề.
Lại thêm: thương quan bất tẫn lại gặp quan, chém treo, tội lưu đày, tai hoạ trăm mối, trụ tháng phạm nhằm cha con không hoàn mỹ, trụ ngày phạm tự mình có thương tổn tàn tật; trụ giờ thuong quan con cái thường chật vật khốn khổ, phải biết giàu sang không chu đáo, hoàn bị, nếu đúng là thương quan ở thái tuế, sẽ rước lấy tai hoạ bất ngờ trong năm này.
Hợp các lý thuyết lại mà nghĩ thấu thương quan hỷ, kỵ, diệt tận vậy.
论伤官
伤官者,我生彼之谓,乃甲见丁、乙见丙之类,甲用辛为官,丁火乘旺,盗我之气,克制辛金,使不辅甲为贵,故名伤官。伤官格务要伤尽,方作贵看,元有官星,伤之则重。经云:"伤官见官,祸患百端"是也。伤官虽凶,乃我所生,自家之物,伤尽则能生财,财旺则能生官,造化展转有情。如月令在伤官,四柱作合结局,皆在伤位,无冲无破,不见一点官星,谓之伤尽。又有月支伤官,时上伤官,四柱无官星,亦谓伤尽。更身旺、财旺或印旺,名标金榜,一品贵人。此格主多材艺,傲物气高,心险无忌惮,多谋少遂,弄巧成拙,常以天下之人不如己,而人亦惮之恶之。伤官无财主贫穷,盖生财气者即食神伤官,盗财气者即七煞官星,所以伤官要见财,不要见官。假如甲生午月,木不南奔,身势太柔,岂可再逢金制?金能盗土之气,所以不要见官。既无官星,而柱却无一点财可恃,虽聪明机巧,不过虚名虚利。经云"伤官无财可倚,虽巧必贫"是也。
伤官格用财,亦有用印者。《天玄赋》云:伤官用印宜去财,用财宜去印,倘使财印两全,将何发福?身旺者用财,身弱者用印,用印者须去财方能发福,用财者不论印亦主亨通,伤官用印,不忌官煞,去财方发,元犯伤官,须要见财则发。伤官最喜行财运,印绶身旺次之,不喜行官乡,四柱伤官多而见官者,不宜复行伤运,一位无妨。又曰:伤官格务要伤尽,若柱见伤官,而官星隐显,伤之不尽,岁运再见官星,官来乘旺,再见刑冲破害,刃煞克身,身弱财旺,必主徒流死亡,五行有救,亦残疾。若四柱无官而遇伤煞重者,运入官乡,岁君又遇,若不目疾,必主灾破。
经云:五行伤官,惟火人土伤官,土人金伤官忌见官星,若金人水,水人木,木人火,不忌。盖火以水为官,以土为伤,水畏土克,土得水无益;土以木为官,以金为伤,木畏金克,金得木无益,所以火土伤官格忌见官星。金以水为伤,以火为官,水虽克火,若金寒水冷,不得火温,难以济物,况水得火成既济之功;水以木为伤,以土为官,木虽克土,若水泛木浮,不得土止,难以存活,况木得土成栽培之力;木以火为伤,以金为官,火虽克金,若木繁火息,不得金削脱,难以通明,况金得火成器物之象,所以金水木伤官格不忌官星。故经云:"伤官火土宜伤尽,金水伤官要见官,木火见官官要旺,土金官去反成官,惟有水木伤官格,财官两见始为欢"是也。又曰:伤官伤尽,亦有不作福者,伤官见官,亦有不作祸者。如一命丁未、丁未、丙午、丙午,丙日坐午,日主自旺,有二午、二丁、二未,财官俱伤,虽伤官伤尽,奈四柱火气太旺,窃气又重,运行东南火旺之乡,无一点财气,身空旺无倚,至贫之人,切不可见伤官伤尽身旺,便作好命看。又如甲日生人,柱有辛为官,又有丁伤官,若生秋月官旺,虽逢丁火或居亥、子之上,或见午伏壬、癸之下,则丁不能伤官,终为有官爵之命,岁运遇煞官印绶,俱吉,忌身衰败运,切不可见伤官格有官星,便不作好命看。又曰:人命原有些小伤官,不能损贵气,或运入官乡,官自旺强健,或入印运制伏伤煞,或有财生助,或从化入于别格,不失为好命,怕再行伤地,病而不起者有之,否则文书口舌,官事破败,殃祸踵至。柱元有财,又行财运,亦可成就功名利禄,一行官煞地,或财衰败死绝地,即失财禄,非官讼则丧服重并。又曰:四柱伤官,惟年干伤官最重,谓之福基受伤,终身不可除去,若月支更有,甚于伤身七煞。如甲日人,以辛为官,见丁卯年,生寅午戌月,是伤官重犯,又有卯为劫刃,名背禄逐马,主为人退悔,反伤祖荫,运行官乡,流年再见,或煞旺身弱运,必祸。若月令真正伤官,又见官星,如甲日生午月,见辛未时,午中丁火伤辛;乙日生巳月,见庚或甲申时,巳中丙火伤庚;丙日午月,见戊子、癸巳时,午中己土伤癸之例。大要日主健旺,再临伤官运,可发名利,日主微弱,运历财官乡,祸不可言。又曰:伤官,如甲日见丁,喜壬合癸破;乙见丙,喜辛合壬破;丙见己,喜甲合乙破;丁见戊,喜癸合甲破;戊见辛,喜丙合丁破;己见庚,喜乙合丙破;庚见癸,喜戊合己破;癸见甲,喜己合庚破。
《万祺》云:伤官元辰无官星,又行伤官运,此为窃气太过,即一木叠逢火位,名为散气之文,非贫则夭,喜身旺及官乡,伤官见官,再剥再滞,运入官乡局中,反吉,即伤官伤尽却喜见官星。伤官若带财见印,祸不轻。伤官若带印,官煞不为刑,伤官多者宜行印,即食多用印。伤官少者又行印乡,即枭神夺食。伤官若带印,不宜逢财,伤官若带官,不宜行制伏,伤官用财,不宜行此劫,伤官用印,不忌见官煞,伤官若见官星重叠,莫作官星论。伤官用官,在年月必要剥官,运在日时,不宜被伤,一见被伤,祸不可言,不可临墓,住寿难延。《千里马》云:伤官见官,妙入印财之地。又云:伤官逢财而有子。
《相心赋》云:伤官伤尽,多艺多能,使心机而傲物气高,多谲诈而侮人志大,颧高骨峻,眼大眉粗。《景鉴》云:伤官无财而带刃,行奸弄巧。《通明赋》云:重见伤官,身必辛勤劳苦。又云:伤官多而身旺无依,定为僧道艺术为士。秘诀云:伤官太重,子必有亏。又云:年带伤官,父母不全,月带伤官,兄弟不完,时整伤官,子息凶顽,日带伤官,妻妾不贤。又云:伤官不尽,须防不测之灾,伤官逢财,乃享优游之福,七煞同来,疾损须忧,身旺无依,孤克难免,伤官遇劫,聚财如柳絮随风,伤官无印,求利似荷钱擎雨。古歌云:伤官原是产业神,伤尽真为大贵人,若是伤官伤不尽,官来乘旺祸非轻。又:月令逢官在伤乡,伤轻减力尚无妨,若见刑冲并破害,定知为官不久长。又:伤官伤尽复生财,财旺生官互换来,四柱若无官显露,便言富贵莫疑猜。又:伤官遇者本非宜,财有官无是福基,时日月伤官格局,运行财旺贵无疑。又:伤官伤尽始为奇,又恐伤多反不宜,此格局中千变化,详推须要用心机。又:伤官无官最忌剥,运入官乡反见奇,岁运命中逢印绶,诚为富贵定无疑。又:伤官不忌比肩逢,七煞偏官理亦同,若是无官当忌比,如逢身旺却嫌重。又:伤官不尽又逢官,斩绞徒流祸百端,月犯父子无全美,日犯自己主伤残;时伤子息多狼狈,须知富贵不周全,若是伤官居太岁,必招横祸逢斯年。合诸说观之,伤官喜忌尽矣。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Lịch thông thắng |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
||
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
12 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 12 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |