2
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
390 replies to this topic
#16
Gửi vào 25/06/2024 - 10:36
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Tân sửu thổ không sợ mộc, mậu tuất mộc không sợ kim, biện thuyết như thế nào đây? Sửu có kim trong khố, mộc không thể là quỷ được; tuất có hoả trong khố, kim trái lại bị hại ngược lại. Nếu mậu tuất mộc, hai thổ ở trên, một mộc ở dưới, vùi chôn bên trong hai thổ, nó chưa nẩy mầm, không thấy hình của nó, là thổ thịnh mộc nhược. Còn lại đều phỏng theo đó.
Canh dần mộc, đinh tỵ thổ không sợ kim, mộc quỷ. Kim đến cung dần, tuy là quỷ nhưng mà kim tuyệt ở dần, cho nên không là quỷ; mộc đến cung tỵ, vì tỵ sanh kim khắc mộc, cho nên không là quỷ. Nếu như canh dần mộc gặp nhâm thân kim thì xung với nhau lại bị khắc. Còn lại đều phỏng theo đó mà luận.
Canh ngọ thổ, lợi dụng hoả vượng ở phương nam để nuôi dưỡng hình trạng của nó, mậu thân thổ tự sanh, canh tý thổ tự vượng, không kỵ mộc quỷ. Bởi mộc chết ở ngọ, tuyệt ở thân, bại ở tý, làm thế nào thổ tự cường lại có thể thương tổn? Còn lại cứ phỏng theo đó. Bốn loại kim: nhâm thân, quý dậu, canh tuất, tân hợi khí khoẻ mạnh, không sợ quỷ. Mậu tý hoả không sợ quỷ, phích lịch hoả trong thuỷ, chỉ "thần long" mới có, bởi có thuỷ thì sấm sét sắp phát lộ, nếu gặp bính ngọ, đinh mùi thiên thượng thuỷ, thì có chỗ kỵ, kết quả chiến đấu nhau. Thông thường can chi của bổn mệnh bị thương tổn thì chủ lục căn [4] không có đủ, có khởi dầu mà không có kết thúc, như đinh tỵ gặp quý hợi, nhâm tý gặp mậu ngọ. Còn lại cứ phỏng theo đó.
Mậu ngọ, canh thân: người với ta được lợi, khác xa. Canh thân thạch lựu mộc vượng ở mùa hè, cho nên thích mậu ngọ. Bởi vì hoả quan vương, mà bản tính thạch lựu mộc gặp đúng thời gian, mậu ngọ chính là hoả cực vượng, thích thân vì gặp "thiên mã" để nương nhờ nhau. Thần đứng đầu ở lộc, tức là vị trí lộc của mười can, chính là vị trí đặc biệt của âm dương, thần của trời đất tụ họp. Liệt kê ngọn nguồn chân thật của "bát quái", suy tính thành bại của "ngũ hành", cương nhu đẩy nhau, có hay không hợp hoá. Cho nên nhâm, tý thuỷ ứng với quẻ khảm ở phương bắc, bính, ngọ hoả ứng với quẻ ly ở phương nam. Vì thế bính ngọ gặp phải nhâm tý mà không bị phá, đinh tỵ gặp phải quý hợi mà không bị xung, là nguồn gốc thuỷ hoả giúp đỡ lẫn nhau, có quy luật phối hợp của vợ chồng, khảm và ly là tinh thần nam nữ được sử dụng; nhâm tý gặp phải bính ngọ, quý hợi gặp phải đinh tỵ là hoả thuỷ nối tiếp nhau là tượng của quẻ "vị tế", không như đinh tỵ gặp phải nhâm tý hay bính ngọ gặp phải quý hợi vậy.
Canh thân, tân dậu kim ứng với quẻ đoài ở phương tây, giáp dần, ất mão mộc tượng quẻ chấn ở phương đông, vì thế giáp dần gặp phải canh thân không bị hình, ất mão gặp phải tân dậu không là quỷ, tức là bản chất thật sự của mộc là phụ nữ và kim là đàn ông, rõ ràng thần hoá của sự phù trợ nhau vậy. Mộc là hồn, kim là vía, cả hai trợ giúp nhau, khác biệt nhau mà không tụ hội, nếu như có thể tụ hội kim, thì thần hoá sanh đã không khác biệt. Như canh thân gặp phải ất mão, tân dậu gặp phải giáp dần không phải là thần đứng đầu, mà sử dụng biến thông vậy.
辛丑之土不嫌于木,戊戌之木不怕于金。何以辩之?丑中金库,木不为鬼;戌中有火,金反受其殃。若戊戌之木,二土在上,一木在下,埋在二土之内,尚未萌芽,不见其形,是土盛木弱。余皆仿此。
庚寅木、丁巳土不嫌金木之鬼。金至寅宫,虽为鬼而金绝在寅,故不为鬼;木至巳宫,而巳有生金克木,故不为鬼。若庚寅木逢壬申金,相冲受克。余皆仿此。
庚午之土,乘南方旺火以养其形,戊申之土自生,庚子之土自盈,不忌木鬼。盖木至午死,申绝子败,又自强之土何伤?余皆仿此。壬申,癸酉、庚戌、辛亥四金气壮,不嫌于鬼。戊子之火不畏其鬼,水中霹雳之火,神龙有之,盖有水则雷方鸣,若逢丙午、于未天上水、则有所忌;有相战之功。大凡本命支干受伤,则主六根不足,有始无终,如丁巳见癸亥、壬子见戊午。余皆仿此。
戊午、庚申,彼我得之,超异。庚申,石榴木,夏旺,故喜戊午。盖火官旺,而石榴木性得时,戊午乃旺极之火,喜于申,见天马相资也。其神头禄者,即十干专位禄,乃阴阳专位,天地神会也。列八卦之真源,演五行之成败,刚柔相推,有无合化。故壬子之水应北方之坎,丙午之火实南宫之离,所以丙午得壬子不为破,丁巳得癸亥不为冲,是水火相济之源,有夫妇配合之理,坎离为男女精神之用也;壬子得丙午,癸亥得丁巳,则先后火水,有未济之象,不如丁巳见壬子,丙午得癸亥也。
庚申、辛酉之金应西方之兑,甲寅、乙卯之木象东方之震,所以甲寅得庚申不为刑,乙卯得辛酉不为鬼,是木女金夫之正体,明左右之神化也。木主魂,金主魄,二者左右,相间不合,若能金合,则神之化生以无间也。若庚申得乙卯、辛酉得甲寅不为元辰,变通之用也。
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Tân sửu thổ không sợ mộc, mậu tuất mộc không sợ kim, biện thuyết như thế nào đây? Sửu có kim trong khố, mộc không thể là quỷ được; tuất có hoả trong khố, kim trái lại bị hại ngược lại. Nếu mậu tuất mộc, hai thổ ở trên, một mộc ở dưới, vùi chôn bên trong hai thổ, nó chưa nẩy mầm, không thấy hình của nó, là thổ thịnh mộc nhược. Còn lại đều phỏng theo đó.
Canh dần mộc, đinh tỵ thổ không sợ kim, mộc quỷ. Kim đến cung dần, tuy là quỷ nhưng mà kim tuyệt ở dần, cho nên không là quỷ; mộc đến cung tỵ, vì tỵ sanh kim khắc mộc, cho nên không là quỷ. Nếu như canh dần mộc gặp nhâm thân kim thì xung với nhau lại bị khắc. Còn lại đều phỏng theo đó mà luận.
Canh ngọ thổ, lợi dụng hoả vượng ở phương nam để nuôi dưỡng hình trạng của nó, mậu thân thổ tự sanh, canh tý thổ tự vượng, không kỵ mộc quỷ. Bởi mộc chết ở ngọ, tuyệt ở thân, bại ở tý, làm thế nào thổ tự cường lại có thể thương tổn? Còn lại cứ phỏng theo đó. Bốn loại kim: nhâm thân, quý dậu, canh tuất, tân hợi khí khoẻ mạnh, không sợ quỷ. Mậu tý hoả không sợ quỷ, phích lịch hoả trong thuỷ, chỉ "thần long" mới có, bởi có thuỷ thì sấm sét sắp phát lộ, nếu gặp bính ngọ, đinh mùi thiên thượng thuỷ, thì có chỗ kỵ, kết quả chiến đấu nhau. Thông thường can chi của bổn mệnh bị thương tổn thì chủ lục căn [4] không có đủ, có khởi dầu mà không có kết thúc, như đinh tỵ gặp quý hợi, nhâm tý gặp mậu ngọ. Còn lại cứ phỏng theo đó.
Mậu ngọ, canh thân: người với ta được lợi, khác xa. Canh thân thạch lựu mộc vượng ở mùa hè, cho nên thích mậu ngọ. Bởi vì hoả quan vương, mà bản tính thạch lựu mộc gặp đúng thời gian, mậu ngọ chính là hoả cực vượng, thích thân vì gặp "thiên mã" để nương nhờ nhau. Thần đứng đầu ở lộc, tức là vị trí lộc của mười can, chính là vị trí đặc biệt của âm dương, thần của trời đất tụ họp. Liệt kê ngọn nguồn chân thật của "bát quái", suy tính thành bại của "ngũ hành", cương nhu đẩy nhau, có hay không hợp hoá. Cho nên nhâm, tý thuỷ ứng với quẻ khảm ở phương bắc, bính, ngọ hoả ứng với quẻ ly ở phương nam. Vì thế bính ngọ gặp phải nhâm tý mà không bị phá, đinh tỵ gặp phải quý hợi mà không bị xung, là nguồn gốc thuỷ hoả giúp đỡ lẫn nhau, có quy luật phối hợp của vợ chồng, khảm và ly là tinh thần nam nữ được sử dụng; nhâm tý gặp phải bính ngọ, quý hợi gặp phải đinh tỵ là hoả thuỷ nối tiếp nhau là tượng của quẻ "vị tế", không như đinh tỵ gặp phải nhâm tý hay bính ngọ gặp phải quý hợi vậy.
Canh thân, tân dậu kim ứng với quẻ đoài ở phương tây, giáp dần, ất mão mộc tượng quẻ chấn ở phương đông, vì thế giáp dần gặp phải canh thân không bị hình, ất mão gặp phải tân dậu không là quỷ, tức là bản chất thật sự của mộc là phụ nữ và kim là đàn ông, rõ ràng thần hoá của sự phù trợ nhau vậy. Mộc là hồn, kim là vía, cả hai trợ giúp nhau, khác biệt nhau mà không tụ hội, nếu như có thể tụ hội kim, thì thần hoá sanh đã không khác biệt. Như canh thân gặp phải ất mão, tân dậu gặp phải giáp dần không phải là thần đứng đầu, mà sử dụng biến thông vậy.
辛丑之土不嫌于木,戊戌之木不怕于金。何以辩之?丑中金库,木不为鬼;戌中有火,金反受其殃。若戊戌之木,二土在上,一木在下,埋在二土之内,尚未萌芽,不见其形,是土盛木弱。余皆仿此。
庚寅木、丁巳土不嫌金木之鬼。金至寅宫,虽为鬼而金绝在寅,故不为鬼;木至巳宫,而巳有生金克木,故不为鬼。若庚寅木逢壬申金,相冲受克。余皆仿此。
庚午之土,乘南方旺火以养其形,戊申之土自生,庚子之土自盈,不忌木鬼。盖木至午死,申绝子败,又自强之土何伤?余皆仿此。壬申,癸酉、庚戌、辛亥四金气壮,不嫌于鬼。戊子之火不畏其鬼,水中霹雳之火,神龙有之,盖有水则雷方鸣,若逢丙午、于未天上水、则有所忌;有相战之功。大凡本命支干受伤,则主六根不足,有始无终,如丁巳见癸亥、壬子见戊午。余皆仿此。
戊午、庚申,彼我得之,超异。庚申,石榴木,夏旺,故喜戊午。盖火官旺,而石榴木性得时,戊午乃旺极之火,喜于申,见天马相资也。其神头禄者,即十干专位禄,乃阴阳专位,天地神会也。列八卦之真源,演五行之成败,刚柔相推,有无合化。故壬子之水应北方之坎,丙午之火实南宫之离,所以丙午得壬子不为破,丁巳得癸亥不为冲,是水火相济之源,有夫妇配合之理,坎离为男女精神之用也;壬子得丙午,癸亥得丁巳,则先后火水,有未济之象,不如丁巳见壬子,丙午得癸亥也。
庚申、辛酉之金应西方之兑,甲寅、乙卯之木象东方之震,所以甲寅得庚申不为刑,乙卯得辛酉不为鬼,是木女金夫之正体,明左右之神化也。木主魂,金主魄,二者左右,相间不合,若能金合,则神之化生以无间也。若庚申得乙卯、辛酉得甲寅不为元辰,变通之用也。
.
#17
Gửi vào 25/06/2024 - 10:44
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Mậu thìn, mậu tuất thổ: là "khôi cương" tụ hội, trời đất phong phú và bao trùm chứa đựng sự sống, bất đắc dĩ là phản ngâm. Mậu thìn, mậu tuất không bị xung, thổ ở đúng vị trí, can nương dựa vào nguyên hội.
Kỷ sửu, kỷ mùi: là quý thần giữ lòng trung thành, bốn loại thổ này có đạo thuỷ chung của vạn vật, chẳng phải người có tài đức xuất chúng thì ai có đầy đủ các dức tính này? Huống chi mỗi "thần đầu lộc" đều có vị thần cầm đầu, phù trợ vân động trong lục hợp, thừa thiếu những thay đổi của tốt và xấu.
Kỷ sửu thổ là "thiên ất quý nhân", kỷ mùi thổ là "thái thường phúc thần", giải trừ hung xấu của bách sát, nếu có được nên sử dụng như niềm vui được của hoạnh tài. Mậu thìn là "câu trận", mậu tuất là "thiên không", thần của trái đất thường chuyển động và thay đổi, không phải luôn luôn người chỉ huy bảo vệ bên ngoài, phải ra trấn giữ biên phòng; đinh tỵ là đằng xà, hung xấu thì hung xấu lợi dụng, tốt lành thì tốt lành thừa hưởng, thường lo lắng mơ hồ, có tính khôi hài; bính ngọ là "chu tước", ứng với bản chất anh sáng mặt trời, văn chương tươi đẹp; giáp dần là "thanh long", thi ân rộng khắp, được lợi ích của bốn phương; ất mão là thần của "lục hợp" chủ bắt đầu đời sống vinh hoa, hoà hợp với yếu đuồi và thuận hợp với nhóm; nhâm tý là "thiên hậu" chủ điều phúc đức mà không ai biết, chỉ quỷ thần biết, gọi là "thiên đức", với vẻ đẹp và sức mạnh; quý hợi là "huyền vũ" chính là chỗ tận cùng của âm dương, có ẩn táng linh khí, từ bên dưới như một giòng nước, tuy có trí tuệ lớn, chẳng phải kẻ sĩ có tinh thần phấn chấn xa xăm, thuận thì bình an, nghịch là kẻ gian tà bại hoại; canh thân là "bạch hổ" lợi ích ở võ lược mà không lợi ở tài văn, có tính chất cô độc, tử tế trong nghiêm khắc, vẻ mặt nghiêm khắc mà bên trong mềm yếu, có lòng thương người và ăn ở theo đạo phải, thích nơi hẻo lánh yên tĩnh; tân dậu là "thái âm", ôm giữ khí tiêu điều, có phong cách liêm khiết, và văn chương hoạt bát, ăn nói khôn ngoan, tài năng phi thường, nhưng mỗi người đều lấy vượng hay hưu, thân hay sơ mà xác định bản chất hoạ phúc.
戊辰、戊戌之土为魁罡相会,乾坤厚得,覆载含生,不得以为反吟。戊辰、戊戌不为冲,土得正位,干守元会也。
己丑、己未是贵神守忠贞,此四真土有万物始终之道,非大人君子,熟能备此德?况神头禄各有神主之,左右运动于六合之中,盈缩于吉凶之变也。
己丑土为天乙贵人,己未土为太常福神,解百煞之凶,若得之,当用为横财之喜。戊辰为勾陈,戊戌为天空,土之神多迁改,居帅外藩,出镇边防,有不常矣;丁巳为蛇之神,凶以凶用,吉以吉承,多荧惑之忧,有滑稽之性;丙午为朱雀之神,应阳明之体,文词藻丽;甲寅为青龙之神,博施济众,得四方之利;乙卯为六合之神,主发生荣华,和弱顺党;壬子为天后之神,主阴骘天德,容美多权;癸亥为玄武之神,乃阴阳终极,有潜伏之气,从下如流,虽有大智,非轩昂超远之士,顺则安平,逆则奸宄;庚申为白虎之神,利于武而不利于文,有抱道孤骞之性,善中严外,色厉内荏,有仁义,好幽僻;辛酉为太阴之神,怀肃杀之气,有清白之风,为文章利口,不世之才,然更各以亲疏休旺定遇者之情性祸福。
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Mậu thìn, mậu tuất thổ: là "khôi cương" tụ hội, trời đất phong phú và bao trùm chứa đựng sự sống, bất đắc dĩ là phản ngâm. Mậu thìn, mậu tuất không bị xung, thổ ở đúng vị trí, can nương dựa vào nguyên hội.
Kỷ sửu, kỷ mùi: là quý thần giữ lòng trung thành, bốn loại thổ này có đạo thuỷ chung của vạn vật, chẳng phải người có tài đức xuất chúng thì ai có đầy đủ các dức tính này? Huống chi mỗi "thần đầu lộc" đều có vị thần cầm đầu, phù trợ vân động trong lục hợp, thừa thiếu những thay đổi của tốt và xấu.
Kỷ sửu thổ là "thiên ất quý nhân", kỷ mùi thổ là "thái thường phúc thần", giải trừ hung xấu của bách sát, nếu có được nên sử dụng như niềm vui được của hoạnh tài. Mậu thìn là "câu trận", mậu tuất là "thiên không", thần của trái đất thường chuyển động và thay đổi, không phải luôn luôn người chỉ huy bảo vệ bên ngoài, phải ra trấn giữ biên phòng; đinh tỵ là đằng xà, hung xấu thì hung xấu lợi dụng, tốt lành thì tốt lành thừa hưởng, thường lo lắng mơ hồ, có tính khôi hài; bính ngọ là "chu tước", ứng với bản chất anh sáng mặt trời, văn chương tươi đẹp; giáp dần là "thanh long", thi ân rộng khắp, được lợi ích của bốn phương; ất mão là thần của "lục hợp" chủ bắt đầu đời sống vinh hoa, hoà hợp với yếu đuồi và thuận hợp với nhóm; nhâm tý là "thiên hậu" chủ điều phúc đức mà không ai biết, chỉ quỷ thần biết, gọi là "thiên đức", với vẻ đẹp và sức mạnh; quý hợi là "huyền vũ" chính là chỗ tận cùng của âm dương, có ẩn táng linh khí, từ bên dưới như một giòng nước, tuy có trí tuệ lớn, chẳng phải kẻ sĩ có tinh thần phấn chấn xa xăm, thuận thì bình an, nghịch là kẻ gian tà bại hoại; canh thân là "bạch hổ" lợi ích ở võ lược mà không lợi ở tài văn, có tính chất cô độc, tử tế trong nghiêm khắc, vẻ mặt nghiêm khắc mà bên trong mềm yếu, có lòng thương người và ăn ở theo đạo phải, thích nơi hẻo lánh yên tĩnh; tân dậu là "thái âm", ôm giữ khí tiêu điều, có phong cách liêm khiết, và văn chương hoạt bát, ăn nói khôn ngoan, tài năng phi thường, nhưng mỗi người đều lấy vượng hay hưu, thân hay sơ mà xác định bản chất hoạ phúc.
戊辰、戊戌之土为魁罡相会,乾坤厚得,覆载含生,不得以为反吟。戊辰、戊戌不为冲,土得正位,干守元会也。
己丑、己未是贵神守忠贞,此四真土有万物始终之道,非大人君子,熟能备此德?况神头禄各有神主之,左右运动于六合之中,盈缩于吉凶之变也。
己丑土为天乙贵人,己未土为太常福神,解百煞之凶,若得之,当用为横财之喜。戊辰为勾陈,戊戌为天空,土之神多迁改,居帅外藩,出镇边防,有不常矣;丁巳为蛇之神,凶以凶用,吉以吉承,多荧惑之忧,有滑稽之性;丙午为朱雀之神,应阳明之体,文词藻丽;甲寅为青龙之神,博施济众,得四方之利;乙卯为六合之神,主发生荣华,和弱顺党;壬子为天后之神,主阴骘天德,容美多权;癸亥为玄武之神,乃阴阳终极,有潜伏之气,从下如流,虽有大智,非轩昂超远之士,顺则安平,逆则奸宄;庚申为白虎之神,利于武而不利于文,有抱道孤骞之性,善中严外,色厉内荏,有仁义,好幽僻;辛酉为太阴之神,怀肃杀之气,有清白之风,为文章利口,不世之才,然更各以亲疏休旺定遇者之情性祸福。
.
#18
Gửi vào 25/06/2024 - 10:53
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Nạp Âm Kim
[Chú thích] giáp tý, ất sửu, nhâm dần, quý mão, canh thìn, tân tỵ, giáp ngọ, ất mùi, nhâm thân, quý dậu, canh tuất, tân hợi là nạp âm kim.
Giáp tý, ất sửu hải trung kim là
Người hải trung kim: kho báu của long cung, ngọc trai và báu vật của thuồng luồng, mặc dù xuất hiện trong không khí, nhưng không thể hoàn thành bằng hoả lực, cho nên Đông Phương Sóc đặt theo tên ngao sò, quả nhiên hợp lý. Có sự lựa chọn tuyệt vời của cách ngọc trai ẩn dưới biển sâu, vì giáp tý gặp quý hợi, thì không cần dùng đến hoả; gặp không vong có cách trăng chiếu ngọc trai, giáp tý gặp kỷ mùi là kỳ vọng sự hợp hoá và nâng cao giá trị lẫn nhau. Bởi vì hải kim thì vô hình, chẳng xung không thì không thể xuất hiện, mà ất sửu là kim khố, chẳng có vượng hoả thì không thể chế tạo đồ gốm hay đúc đồ vật. Như giáp tý gặp mậu dần, canh ngọ là thổ sanh kim, ất sửu gặp bính dần, đinh mão là hoả chế kim. Mà lại là thiên can gặp "tam kỳ, đây là loại cách cục mà không có gì không quý.
Nhâm dần, quý mão kim bạc kim
Người kim bạc kim, tô điểm chén mâm, tăng thêm vẻ bóng bẩy cho cung điện, để dát mỏng phải mượn vàng khác, tô màu sắc thì phải nhờ sức nước. Vàng này cực nhỏ, chẳng phải mộc thì không có chỗ nương tựa. Dùng "bình địa" là trên hết, loại này không nên gặp hoả, có hoả sẽ yểu. Gặp thái dương là ban ngày, hai hoả ngược nhau, không nên cùng gặp. "Sơn hạ", "sơn đầu" có nước trong trợ giúp, cũng tốt lành. Chỉ kỵ lô hoả khắc nhau tại chỗ.Bản chất kim này thì mỏng manh, không thể đảo ngược nhất định yểu, hạn và vận luận giống nhau. "Tỉnh tuyền", "giản hạ", "thiên hà" thuỷ thanh, thích thấy hằng ngày, cần nguyệt lệnh có mộc là điềm tốt lành; "khê", "lưu", "đại hải" thì thuỷ trọc, gặp "khê", "lưu" chủ trôi nổi bềnh bồng theo sóng, thấy"đại hải" không có mộc làm căn cứ, chủ hung dữ. Kim gặp "kiếm phong", "thoa xuyến" có thể để trang điểm, có nguyên tắc trợ giúp hạnh vận, cho nên thích thấy; "sa", "hải", "bạch lạp" không ích lợi, có hoả giup cũng tốt, không thì hung xấu. "Thành đầu", "bích thượng" hai loại thổ có chỗ nương tựa đế an thân, "thành đầu" nhiều chủ nhờ người, "bích thượng" có thêm mộc thì quý, gặp lại "đăng hoả" ánh sáng rực rỡ chiếu rọi, chủ quyền quý. Bính mậu hoả tàng trong thổ, can chi thì không nên quá nóng, cũng là quý cách, đó là chọn lựa tốt. Mệnh kim mà gặp mậu dần, cách "côn sơn phiến ngọc"; quý mão mà gặp kỷ mão, cách ngọc thố đông thăng", cùng với "hải kim" ở trên giống nhau.
Canh thìn, tân tỵ bạch lạp kim
Người bạch lạp kim, miếng ngọc côn sơn, vàng dánh rơi ở lạc phố, ánh sáng mặt trời, mặt trăng thay thế, khí âm dương kết tụ lại với nhau, hình dạng sáng sủa và cơ thể sạch sẽ, đó chính là màu thật của kim. kim này chỉ thích hoả luyện, phải là lưả nóng trong lò. Tuy nhiên canh thìn gặp vậy mà không có thuỷ trợ giúp, chủ nghèo và yểu, tân tỵ thì dùng quý để luận, vì tỵ là đất trường sanh của kim, gặp bính dần hoá thuỷ là quý ; sơn hạ hoả sanh buổi sáng, chủ giàu sang vẻ vang, cũng cần có thuỷ trợ giúp mới được.Tỉnh tuyền, đại khê đều là quý cách. Đinh là quan của canh, bính là quan của tân, cho nên can canh gặp đinh sửu, quan quý đều có đủ; còn can tân gặp bính tý, không như quý tỵ rõ ràng hơn, không sang cũng giàu. Mộc ở giữa, gặp nhiều không có lợi ích, vì kim này không thể khắc nhau.Nếu như trong trụ gặp hoả vô khí, thì cần có mộc sanh, có thêm lộc, mã, quý nhân mới tốt. Gặp thổ chỉ nên mài, và xây dựng thành đồ dùng thì tốt, các loại thổ khác đều vô dụng. Kim kỵ hải sa vì bị chìm đắm, ngày giờ gặp hoả thì vẻ vang. Nếu gặp kim xinh đẹp, có thêm thuỷ phù trợ, hoả cũng không thích, chỉ sợ xung, hình. Sự lựa cọn tuyệt vời có cách "tiêu phong mãnh hổ", vì kim nàu mà ngày giờ gặp tân tỵ hoặc ất tỵ là vậy.
Giáp ngọ, ất mùi sa trung kim
Sa trung kim, hình thể cứng rắn phân tán khắp trong đất, là chất báu giấu trong đất cát, trực tiếp truyền thụ đồ gốm sạch sẽ là vật quý, nhất định phải cần lý do người bắt đầu quý , Loại kim này chẳng có lửa của lò thì không thể chế tác, nếu giáp ngọ gặp bính dần, hoả trong dần sanh, dần ngọ lại hợp cục, trụ không có trường sanh của thổ thì khô ráo, lẽ nào gặp mộc phù trợ. Chủ tật yểu: bính ngọ nap âm tuy là thuỷ, nhưng mà can chi đều là hoả, càng gặp càng thêm hung xấu. Ba loại hoả của sơn đầu, sơn hạ, phúc đăng đều có mộc, khắc chế loại kim này, lại cần thanh thuỷ cứu giúp, nhất định chủ tuổi trẻ vinh hoa phú quý. Mậu tý, kỷ sửu là rồng với hoả gặp nhau, tý ngọ có tính cấu kết nhau kỳ diệu, giáp kỷ có sự hợp hoá hợp lý, chủ sang, còn gặp các loại hoả thông thường thì chẳng là kỳ diệu. Thuỷ chỉ hợp với tỉnh tuyền, giản hạ, thiên hà là trong suốt thì tốt; trường lưu, đại hải, động nên không trong, tụ hội thì tràn ngập kim nên không yên ổn; nước biển càng kỵ, thấy mộc thì có quan hệ gì? Hoả suy thì thích được sanh phù, có thêm lộc, mã, quý nhân chủ yếu thay đổi hướng củng, như trụ không có hoả, mà gặp một hay hai mộc thì nguy. Nếu như giáp ngọ không ở gần kỷ tỵ, gọi là khái thác vàng ròng nơi sa mạc, chính là quý cách vậy; kim sanh ở đất cát, được tạo thành vật thì tốt, nếu như gặp thêm đất cát, trái lại lo bị chôn vùi; lộ báng, đại dịch cũng là chỗ kỵ, hầu như có hoả; thành đầu mậu dần, ất mùi thích gặp, gọi là khai thác kim ở "thanh sa", chính là quý cách vậy. Chỉ thổ của bính tuất có chứa hoả trong khố, chính là thích gặp kim, là cùng loại rất thích, "thanh khí" là trên hết. "Hải trung", "bạch lạp" có hoả chế cũng được thích ý.
Nhâm thân, quý dậu kiếm phong kim
Kiếm phong kim, "bạch đế" quản lý quyền lực, cứng cỏi do rèn luyện, ánh sáng đỏ soi tận đến sao đẩu, sao ngưu, lưỡi đao trắng tụ tập ở sương tuyết. Loại kim này được tạo ra nếu không có thuỷ thì không thể sanh, "đại khê", "hải thuỷ", ngày giờ gặp được là thượng cách; "tỉnh tuyền", "giản hạ", có "phích lịch" trợ giúp hoặc được sấm của ất mão mới tốt, nếu như không có sấm sét, cũng là cách "kim bạch thuỷ thanh" vậy. Sanh vào mùa thu càng thêm tốt, ngày giờ gặp "trường lưu" ở nhâm thìn, là bảo kiếm hoá thành "thanh long", quý tỵ cũng được. Kiếm này không thể thông biến. Tuy nhiên, quý sửu là kiếm khí vọt lên trên, rất là tốt. "Tùng cách", "dương liễu" cũng tốt, nhưng thường hợp tan; "đại lâm", "bình địa" gần như có thổ cai quản, chủ lao khổ. Hoả gặp "thần long", âm dương gặp nhau, như nhâm thân gặp kỷ sửu, quý dậu gặp mậu tý, mới là thượng cách. Gặp hai hoả của "thiên thượng", "lô trung" không có thuỷ cứu giúp thì sẽ yểu. Những loại thổ gặp đều không tốt, vì nó bị chôn vùi, chỉ "bích thượng", "thành đầu" được sử dụng để mài cho sắc bén, hai loại thổ thì có thể. Kim thích đồng loại, như nhâm thân gặp nhâm thân, quý dậu gặp quý dậu, có mộc cai quản, gọi là "bàn căn thác tiết" tức là đá và rễ cây đan xen nhau, vì vậy chớ dùng binh khí sắc bén. không có mộc chủ đeo mang bệnh tật. Nói chung "kiếm phong" chính là loại kim rất sắc bén, chỉ hợp thuỷ, không nên bị hoả hình, như gặp dần tỵ tam hình, tất cả đều rất hung xấu.
Canh tuất, tân hợi thoa xuyến kim
Thoa xuyến kim, trang sức làm đẹp, làm sáng da nhờn, vật báo kề dựa ôm ấp người đẹp, vật báo của gối ngọc giấc ngũ thơm, loại kim này cất ở phòng ngủ của phụ nữ, chỉ hợp với thuỷ yên tĩnh, "tỉnh", "giản", "khê", lưu" gặp đều tốt, gặp nhiều sẽ bị trôi nổi, "hải", "thuỷ" thì bần yểu; "thiên hà" tân hợi gặp không tổn hại, bính ngọ bổn tính là hoả, canh tuất là điều cấm kỵ, vì ngọ tuất tụ thành hoả cục, sẽ làm tổn thương loại kim này. Thái dương hoả của mặt trời chiếu sáng ban ngày, "phúc đăng hoả" chiếu sáng ban đêm, cho nên đều nên gặp, nhưng giáp thìn, ất tỵ với canh tuất, tân hợi tương xung, âm dương gặp nhau thì tốt đẹp, mậu tý, kỷ sửu, bính ngọ, đinh mùi giúp đỡ nhau, hai hoả kỵ trùng điệp, gặp thế không nghèo cũng yểu. "Lô trung hoả" canh tuất rất là kỵ, tân hợi gặp thì bính tân hoá thuỷ, có một chút tốt. "Sơn hạ", "sơn đầu" đều không nên gặp. Nếu như có thuỷ giúp đỡ, cũng có thể được. Trong trụ có thuỷ, kim này nhập vào trong hộp, có phúc quý mới tốt. Thổ gặp "sa trung", cùng sanh cùng dưỡng, có thêm "giản hạ thuỷ" trợ giúp thì vinh hoa phú quý.
纳音金
[注]甲子、乙丑、壬寅、癸卯、庚辰、辛巳、甲午、乙未、壬申、癸酉、庚戍、辛亥纳音金。
甲子乙丑海中金
海中金者,宝藏龙宫,珠孕蛟宝,出现虽假于空冲,成器无借乎火力,故东方朔以蛤蚌名之,良有理也。妙选有珠藏渊海格,以甲子见癸亥,是不用火;逢空有蚌珠照月格,以甲子见己未,是欲合化互贵。盖以海金无形,非空冲则不能出现,而乙丑金库,非旺火则不能陶铸故也。如甲子见戊寅、庚午,是土生金,乙丑见丙寅、丁卯,是火制金。又天干逢三奇,此等格局,无有不贵。
壬寅癸卯金泊金
金泊金者,润色杯盘,增光宫室,打薄须借乎别金,描彩必假乎水力。此金甚微,非木则无所依。以平地为上,有此不宜见火,有火主夭。遇太阳为日间之显,二火相反,不宜同见。山下、山头,有清水助之,亦吉。惟忌炉火,就位相克。此金体薄,不能反源定夭,限运同论。井泉、涧下、天河水清,日时喜见,须月令有木,方吉;溪流、大海水浊,见溪流主漂荡,见大海无木为基,主凶残。金遇剑锋、钗钏,可以装饰,有辅成造化之理,故喜见;砂海、白蜡无益,有火济之,亦吉,无则终凶。城头、壁上二土有靠安身,城头多主寄人,壁上加木则贵,再遇灯火辉光照耀,主权贵。丙戊土中藏火,干支却不宜太炎,亦为贵格,考妙选。金命而遇戊寅,昆山片玉格也;癸卯而遇己卯,玉兔东升格也,与前海金同。
庚辰辛巳白蜡金
白蜡金者,昆山片玉,洛浦遗金,交栖日月之光,凝聚阴阳之气,形明体洁,乃金之正色也。此金惟喜火炼,须炉中炎火。然庚辰见之,若无水济,主贫夭,辛巳却以贵论,缘巳是金生之地,见丙寅化水逢贵故也;山下火生早,主荣贵,亦须水助方得。井泉、大溪俱为贵格。庚官在丁,辛官在丙,故庚见丁丑,官贵俱全;辛见丙子,不如癸巳更清,不贵即富。论中见木,逢多无益,以此金不能相克。若柱遇无气之火,却要木生,有禄马贵人方吉。见土只宜磨砌,方成器物,则吉,别土无用。金忌海砂,为汨没,日时逢火则荣。若见清金,加水相助,火亦不爱,只怕冲刑。妙选有哨风猛虎格,以此金日时遇辛巳或乙巳是也。
。
甲午乙未砂中金
砂中金者,刚形布地,宝质藏砂,直教陶洗为珍,必须因人始贵。此金非炉火则不能制,但甲午见丙寅,寅中火生,寅午合局,柱无长生之土则燥,更值木助。主疾夭;丙午纳音虽水,而支干纯火,加逢尤凶。山头、山下、覆灯三火既有木生,克制此金,又须清水济之,决主少年荣贵。戊子、己丑龙火相逢,子午有交媾之妙,甲己有合化之理,主贵,杂以凡火则不为奇。水惟宜井泉、涧下、天河,清静则吉;长流、大海,动而不静,并见则金泛不安;海水尤忌,见木有何关系?火衰却喜生扶,更有禄马贵人互换朝拱为上,如柱无火,逢一二木则危。若甲午远己巳,是谓采精金于黄碛,乃贵格也;金生于砂,得造化则吉,若更逢砂土,反有埋没之忧;路旁、大驿亦在所忌,有火庶几;城头戊寅、乙未喜见,谓之采精金于青沙,乃贵格也。唯丙戌之土中藏火库,乃喜见之金,为同类最喜,清气为上。海中,白蜡有火制亦得。
壬申癸酉剑锋金
剑锋金者,白帝司权,刚由百炼,红光射于斗牛,白刃凝于霜雪。此金造化,非水不能生,大溪、海水,日时相逢为上格;井泉、涧下,有霹雳助或得乙卯之雷方好,若无雷雳,亦金白水清格也。秋生更吉,日时遇长流在壬辰,为宝剑化为青龙,癸巳亦得。此剑不能通变。然癸丑为剑气冲头,最吉。松柏、杨柳亦吉,但多聚散;大林、平地嫌有土制,主劳苦。火见神龙,阴阳交遇,如壬申逢己丑、癸酉逢戊子,方为上格。遇天上、炉中二火,无水救则夭。诸土见皆不吉,以其埋没,只壁上、城头有磨锋淬砺之用,此二土则可。金喜同类,如壬申见壬申,癸酉见癸酉,有木制之,是谓盘根错节,所以别利器也。无木主带疾。大抵剑锋乃金之最利者,只宜水,不宜火刑,如见寅己三刑,全者大凶。
庚戌辛亥钗钏金
钗钏金者,美容首饰,增光腻肌,偎红倚翠之珍,枕玉眠香之宝,此金藏之闺阁,唯宜静水,井涧、溪流,见之皆吉,多见则泛,海水贫夭;天河辛亥见之无妨,丙午真火,庚戌所忌,以午戌凑成火局,有伤此金故也。太阳火日生显耀,覆灯火夜间显耀,故皆宜见,但甲辰乙巳与庚戌辛亥相冲,阴阳交见为妙,戊子己丑与丙午丁未相持,二火忌叠,见之非贫即夭。炉中火庚戌最忌,辛亥见之,丙辛化水,稍吉。山下、山头俱不宜见。若有水济,亦可。柱中有水,此金入于匣中,有福贵方吉。土见砂中,相生相养,更有涧下水助,荣华富贵。
.
Nạp Âm Kim
[Chú thích] giáp tý, ất sửu, nhâm dần, quý mão, canh thìn, tân tỵ, giáp ngọ, ất mùi, nhâm thân, quý dậu, canh tuất, tân hợi là nạp âm kim.
Giáp tý, ất sửu hải trung kim là
Người hải trung kim: kho báu của long cung, ngọc trai và báu vật của thuồng luồng, mặc dù xuất hiện trong không khí, nhưng không thể hoàn thành bằng hoả lực, cho nên Đông Phương Sóc đặt theo tên ngao sò, quả nhiên hợp lý. Có sự lựa chọn tuyệt vời của cách ngọc trai ẩn dưới biển sâu, vì giáp tý gặp quý hợi, thì không cần dùng đến hoả; gặp không vong có cách trăng chiếu ngọc trai, giáp tý gặp kỷ mùi là kỳ vọng sự hợp hoá và nâng cao giá trị lẫn nhau. Bởi vì hải kim thì vô hình, chẳng xung không thì không thể xuất hiện, mà ất sửu là kim khố, chẳng có vượng hoả thì không thể chế tạo đồ gốm hay đúc đồ vật. Như giáp tý gặp mậu dần, canh ngọ là thổ sanh kim, ất sửu gặp bính dần, đinh mão là hoả chế kim. Mà lại là thiên can gặp "tam kỳ, đây là loại cách cục mà không có gì không quý.
Nhâm dần, quý mão kim bạc kim
Người kim bạc kim, tô điểm chén mâm, tăng thêm vẻ bóng bẩy cho cung điện, để dát mỏng phải mượn vàng khác, tô màu sắc thì phải nhờ sức nước. Vàng này cực nhỏ, chẳng phải mộc thì không có chỗ nương tựa. Dùng "bình địa" là trên hết, loại này không nên gặp hoả, có hoả sẽ yểu. Gặp thái dương là ban ngày, hai hoả ngược nhau, không nên cùng gặp. "Sơn hạ", "sơn đầu" có nước trong trợ giúp, cũng tốt lành. Chỉ kỵ lô hoả khắc nhau tại chỗ.Bản chất kim này thì mỏng manh, không thể đảo ngược nhất định yểu, hạn và vận luận giống nhau. "Tỉnh tuyền", "giản hạ", "thiên hà" thuỷ thanh, thích thấy hằng ngày, cần nguyệt lệnh có mộc là điềm tốt lành; "khê", "lưu", "đại hải" thì thuỷ trọc, gặp "khê", "lưu" chủ trôi nổi bềnh bồng theo sóng, thấy"đại hải" không có mộc làm căn cứ, chủ hung dữ. Kim gặp "kiếm phong", "thoa xuyến" có thể để trang điểm, có nguyên tắc trợ giúp hạnh vận, cho nên thích thấy; "sa", "hải", "bạch lạp" không ích lợi, có hoả giup cũng tốt, không thì hung xấu. "Thành đầu", "bích thượng" hai loại thổ có chỗ nương tựa đế an thân, "thành đầu" nhiều chủ nhờ người, "bích thượng" có thêm mộc thì quý, gặp lại "đăng hoả" ánh sáng rực rỡ chiếu rọi, chủ quyền quý. Bính mậu hoả tàng trong thổ, can chi thì không nên quá nóng, cũng là quý cách, đó là chọn lựa tốt. Mệnh kim mà gặp mậu dần, cách "côn sơn phiến ngọc"; quý mão mà gặp kỷ mão, cách ngọc thố đông thăng", cùng với "hải kim" ở trên giống nhau.
Canh thìn, tân tỵ bạch lạp kim
Người bạch lạp kim, miếng ngọc côn sơn, vàng dánh rơi ở lạc phố, ánh sáng mặt trời, mặt trăng thay thế, khí âm dương kết tụ lại với nhau, hình dạng sáng sủa và cơ thể sạch sẽ, đó chính là màu thật của kim. kim này chỉ thích hoả luyện, phải là lưả nóng trong lò. Tuy nhiên canh thìn gặp vậy mà không có thuỷ trợ giúp, chủ nghèo và yểu, tân tỵ thì dùng quý để luận, vì tỵ là đất trường sanh của kim, gặp bính dần hoá thuỷ là quý ; sơn hạ hoả sanh buổi sáng, chủ giàu sang vẻ vang, cũng cần có thuỷ trợ giúp mới được.Tỉnh tuyền, đại khê đều là quý cách. Đinh là quan của canh, bính là quan của tân, cho nên can canh gặp đinh sửu, quan quý đều có đủ; còn can tân gặp bính tý, không như quý tỵ rõ ràng hơn, không sang cũng giàu. Mộc ở giữa, gặp nhiều không có lợi ích, vì kim này không thể khắc nhau.Nếu như trong trụ gặp hoả vô khí, thì cần có mộc sanh, có thêm lộc, mã, quý nhân mới tốt. Gặp thổ chỉ nên mài, và xây dựng thành đồ dùng thì tốt, các loại thổ khác đều vô dụng. Kim kỵ hải sa vì bị chìm đắm, ngày giờ gặp hoả thì vẻ vang. Nếu gặp kim xinh đẹp, có thêm thuỷ phù trợ, hoả cũng không thích, chỉ sợ xung, hình. Sự lựa cọn tuyệt vời có cách "tiêu phong mãnh hổ", vì kim nàu mà ngày giờ gặp tân tỵ hoặc ất tỵ là vậy.
Giáp ngọ, ất mùi sa trung kim
Sa trung kim, hình thể cứng rắn phân tán khắp trong đất, là chất báu giấu trong đất cát, trực tiếp truyền thụ đồ gốm sạch sẽ là vật quý, nhất định phải cần lý do người bắt đầu quý , Loại kim này chẳng có lửa của lò thì không thể chế tác, nếu giáp ngọ gặp bính dần, hoả trong dần sanh, dần ngọ lại hợp cục, trụ không có trường sanh của thổ thì khô ráo, lẽ nào gặp mộc phù trợ. Chủ tật yểu: bính ngọ nap âm tuy là thuỷ, nhưng mà can chi đều là hoả, càng gặp càng thêm hung xấu. Ba loại hoả của sơn đầu, sơn hạ, phúc đăng đều có mộc, khắc chế loại kim này, lại cần thanh thuỷ cứu giúp, nhất định chủ tuổi trẻ vinh hoa phú quý. Mậu tý, kỷ sửu là rồng với hoả gặp nhau, tý ngọ có tính cấu kết nhau kỳ diệu, giáp kỷ có sự hợp hoá hợp lý, chủ sang, còn gặp các loại hoả thông thường thì chẳng là kỳ diệu. Thuỷ chỉ hợp với tỉnh tuyền, giản hạ, thiên hà là trong suốt thì tốt; trường lưu, đại hải, động nên không trong, tụ hội thì tràn ngập kim nên không yên ổn; nước biển càng kỵ, thấy mộc thì có quan hệ gì? Hoả suy thì thích được sanh phù, có thêm lộc, mã, quý nhân chủ yếu thay đổi hướng củng, như trụ không có hoả, mà gặp một hay hai mộc thì nguy. Nếu như giáp ngọ không ở gần kỷ tỵ, gọi là khái thác vàng ròng nơi sa mạc, chính là quý cách vậy; kim sanh ở đất cát, được tạo thành vật thì tốt, nếu như gặp thêm đất cát, trái lại lo bị chôn vùi; lộ báng, đại dịch cũng là chỗ kỵ, hầu như có hoả; thành đầu mậu dần, ất mùi thích gặp, gọi là khai thác kim ở "thanh sa", chính là quý cách vậy. Chỉ thổ của bính tuất có chứa hoả trong khố, chính là thích gặp kim, là cùng loại rất thích, "thanh khí" là trên hết. "Hải trung", "bạch lạp" có hoả chế cũng được thích ý.
Nhâm thân, quý dậu kiếm phong kim
Kiếm phong kim, "bạch đế" quản lý quyền lực, cứng cỏi do rèn luyện, ánh sáng đỏ soi tận đến sao đẩu, sao ngưu, lưỡi đao trắng tụ tập ở sương tuyết. Loại kim này được tạo ra nếu không có thuỷ thì không thể sanh, "đại khê", "hải thuỷ", ngày giờ gặp được là thượng cách; "tỉnh tuyền", "giản hạ", có "phích lịch" trợ giúp hoặc được sấm của ất mão mới tốt, nếu như không có sấm sét, cũng là cách "kim bạch thuỷ thanh" vậy. Sanh vào mùa thu càng thêm tốt, ngày giờ gặp "trường lưu" ở nhâm thìn, là bảo kiếm hoá thành "thanh long", quý tỵ cũng được. Kiếm này không thể thông biến. Tuy nhiên, quý sửu là kiếm khí vọt lên trên, rất là tốt. "Tùng cách", "dương liễu" cũng tốt, nhưng thường hợp tan; "đại lâm", "bình địa" gần như có thổ cai quản, chủ lao khổ. Hoả gặp "thần long", âm dương gặp nhau, như nhâm thân gặp kỷ sửu, quý dậu gặp mậu tý, mới là thượng cách. Gặp hai hoả của "thiên thượng", "lô trung" không có thuỷ cứu giúp thì sẽ yểu. Những loại thổ gặp đều không tốt, vì nó bị chôn vùi, chỉ "bích thượng", "thành đầu" được sử dụng để mài cho sắc bén, hai loại thổ thì có thể. Kim thích đồng loại, như nhâm thân gặp nhâm thân, quý dậu gặp quý dậu, có mộc cai quản, gọi là "bàn căn thác tiết" tức là đá và rễ cây đan xen nhau, vì vậy chớ dùng binh khí sắc bén. không có mộc chủ đeo mang bệnh tật. Nói chung "kiếm phong" chính là loại kim rất sắc bén, chỉ hợp thuỷ, không nên bị hoả hình, như gặp dần tỵ tam hình, tất cả đều rất hung xấu.
Canh tuất, tân hợi thoa xuyến kim
Thoa xuyến kim, trang sức làm đẹp, làm sáng da nhờn, vật báo kề dựa ôm ấp người đẹp, vật báo của gối ngọc giấc ngũ thơm, loại kim này cất ở phòng ngủ của phụ nữ, chỉ hợp với thuỷ yên tĩnh, "tỉnh", "giản", "khê", lưu" gặp đều tốt, gặp nhiều sẽ bị trôi nổi, "hải", "thuỷ" thì bần yểu; "thiên hà" tân hợi gặp không tổn hại, bính ngọ bổn tính là hoả, canh tuất là điều cấm kỵ, vì ngọ tuất tụ thành hoả cục, sẽ làm tổn thương loại kim này. Thái dương hoả của mặt trời chiếu sáng ban ngày, "phúc đăng hoả" chiếu sáng ban đêm, cho nên đều nên gặp, nhưng giáp thìn, ất tỵ với canh tuất, tân hợi tương xung, âm dương gặp nhau thì tốt đẹp, mậu tý, kỷ sửu, bính ngọ, đinh mùi giúp đỡ nhau, hai hoả kỵ trùng điệp, gặp thế không nghèo cũng yểu. "Lô trung hoả" canh tuất rất là kỵ, tân hợi gặp thì bính tân hoá thuỷ, có một chút tốt. "Sơn hạ", "sơn đầu" đều không nên gặp. Nếu như có thuỷ giúp đỡ, cũng có thể được. Trong trụ có thuỷ, kim này nhập vào trong hộp, có phúc quý mới tốt. Thổ gặp "sa trung", cùng sanh cùng dưỡng, có thêm "giản hạ thuỷ" trợ giúp thì vinh hoa phú quý.
纳音金
[注]甲子、乙丑、壬寅、癸卯、庚辰、辛巳、甲午、乙未、壬申、癸酉、庚戍、辛亥纳音金。
甲子乙丑海中金
海中金者,宝藏龙宫,珠孕蛟宝,出现虽假于空冲,成器无借乎火力,故东方朔以蛤蚌名之,良有理也。妙选有珠藏渊海格,以甲子见癸亥,是不用火;逢空有蚌珠照月格,以甲子见己未,是欲合化互贵。盖以海金无形,非空冲则不能出现,而乙丑金库,非旺火则不能陶铸故也。如甲子见戊寅、庚午,是土生金,乙丑见丙寅、丁卯,是火制金。又天干逢三奇,此等格局,无有不贵。
壬寅癸卯金泊金
金泊金者,润色杯盘,增光宫室,打薄须借乎别金,描彩必假乎水力。此金甚微,非木则无所依。以平地为上,有此不宜见火,有火主夭。遇太阳为日间之显,二火相反,不宜同见。山下、山头,有清水助之,亦吉。惟忌炉火,就位相克。此金体薄,不能反源定夭,限运同论。井泉、涧下、天河水清,日时喜见,须月令有木,方吉;溪流、大海水浊,见溪流主漂荡,见大海无木为基,主凶残。金遇剑锋、钗钏,可以装饰,有辅成造化之理,故喜见;砂海、白蜡无益,有火济之,亦吉,无则终凶。城头、壁上二土有靠安身,城头多主寄人,壁上加木则贵,再遇灯火辉光照耀,主权贵。丙戊土中藏火,干支却不宜太炎,亦为贵格,考妙选。金命而遇戊寅,昆山片玉格也;癸卯而遇己卯,玉兔东升格也,与前海金同。
庚辰辛巳白蜡金
白蜡金者,昆山片玉,洛浦遗金,交栖日月之光,凝聚阴阳之气,形明体洁,乃金之正色也。此金惟喜火炼,须炉中炎火。然庚辰见之,若无水济,主贫夭,辛巳却以贵论,缘巳是金生之地,见丙寅化水逢贵故也;山下火生早,主荣贵,亦须水助方得。井泉、大溪俱为贵格。庚官在丁,辛官在丙,故庚见丁丑,官贵俱全;辛见丙子,不如癸巳更清,不贵即富。论中见木,逢多无益,以此金不能相克。若柱遇无气之火,却要木生,有禄马贵人方吉。见土只宜磨砌,方成器物,则吉,别土无用。金忌海砂,为汨没,日时逢火则荣。若见清金,加水相助,火亦不爱,只怕冲刑。妙选有哨风猛虎格,以此金日时遇辛巳或乙巳是也。
。
甲午乙未砂中金
砂中金者,刚形布地,宝质藏砂,直教陶洗为珍,必须因人始贵。此金非炉火则不能制,但甲午见丙寅,寅中火生,寅午合局,柱无长生之土则燥,更值木助。主疾夭;丙午纳音虽水,而支干纯火,加逢尤凶。山头、山下、覆灯三火既有木生,克制此金,又须清水济之,决主少年荣贵。戊子、己丑龙火相逢,子午有交媾之妙,甲己有合化之理,主贵,杂以凡火则不为奇。水惟宜井泉、涧下、天河,清静则吉;长流、大海,动而不静,并见则金泛不安;海水尤忌,见木有何关系?火衰却喜生扶,更有禄马贵人互换朝拱为上,如柱无火,逢一二木则危。若甲午远己巳,是谓采精金于黄碛,乃贵格也;金生于砂,得造化则吉,若更逢砂土,反有埋没之忧;路旁、大驿亦在所忌,有火庶几;城头戊寅、乙未喜见,谓之采精金于青沙,乃贵格也。唯丙戌之土中藏火库,乃喜见之金,为同类最喜,清气为上。海中,白蜡有火制亦得。
壬申癸酉剑锋金
剑锋金者,白帝司权,刚由百炼,红光射于斗牛,白刃凝于霜雪。此金造化,非水不能生,大溪、海水,日时相逢为上格;井泉、涧下,有霹雳助或得乙卯之雷方好,若无雷雳,亦金白水清格也。秋生更吉,日时遇长流在壬辰,为宝剑化为青龙,癸巳亦得。此剑不能通变。然癸丑为剑气冲头,最吉。松柏、杨柳亦吉,但多聚散;大林、平地嫌有土制,主劳苦。火见神龙,阴阳交遇,如壬申逢己丑、癸酉逢戊子,方为上格。遇天上、炉中二火,无水救则夭。诸土见皆不吉,以其埋没,只壁上、城头有磨锋淬砺之用,此二土则可。金喜同类,如壬申见壬申,癸酉见癸酉,有木制之,是谓盘根错节,所以别利器也。无木主带疾。大抵剑锋乃金之最利者,只宜水,不宜火刑,如见寅己三刑,全者大凶。
庚戌辛亥钗钏金
钗钏金者,美容首饰,增光腻肌,偎红倚翠之珍,枕玉眠香之宝,此金藏之闺阁,唯宜静水,井涧、溪流,见之皆吉,多见则泛,海水贫夭;天河辛亥见之无妨,丙午真火,庚戌所忌,以午戌凑成火局,有伤此金故也。太阳火日生显耀,覆灯火夜间显耀,故皆宜见,但甲辰乙巳与庚戌辛亥相冲,阴阳交见为妙,戊子己丑与丙午丁未相持,二火忌叠,见之非贫即夭。炉中火庚戌最忌,辛亥见之,丙辛化水,稍吉。山下、山头俱不宜见。若有水济,亦可。柱中有水,此金入于匣中,有福贵方吉。土见砂中,相生相养,更有涧下水助,荣华富贵。
.
#19
Gửi vào 25/06/2024 - 11:01
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Nạp Âm Hoả
[chú] mậu tý, kỉ sửu, bính dần, đinh mão, giáp thìn, ất tị, mậu ngọ, kỉ mùi, bính thân, đinh dậu, giáp tuất, ất hợi nạp âm hỏa.
Mậu tý, kỷ sửu phích lịch hoả
Phích lịch hoả, một tia sáng, hiêu lệnh trên trời cao, chớp nhoáng như hình trạng một con rắn vàng, trên trời cao thúc giục ngựa sắt phi nước đại. Hoả này cần gió, nước và sấm mới biến hoá, nếu ngũ hành gặp được một thứ, đều chủ thông suốt, thuận lợi. Như ngày giờ gặp "đại hải", quý hợi là "dẫn phàm nhập thánh", kỷ sửu là trên hết, mậu tý thì tiếp theo; gặp "đại khê", ất mão là sấm lửa biến hoá, kỷ sửu là tốt, còn mậu tý thì kỵ; thìn tỵ là gió chuyển động, gặp được càng thêm tốt; "thiên thượng thuỷ" danh là "ký tế", chủ tốt, người gặp được trời sanh bản tính hàm chứa tài năng xuất chúng, thông minh đặc biệt khác thường, "trường lưu" vô dụng, "giản hạ" tuy là chỗ tương khắc, hoả này không kỵ, có gió cũng vẻ vang. Ngũ hành thấy mộc, tân mão có sấm, "đại lâm" có gió, "bình địa" có "thiên môn", cùng với hoả này có chỗ nương nhờ nhau, còn mộc thì vô dụng. Thổ gặp "lộ bàng", thêm cung tốn thì tốt, "sa trung" đinh tỵ có gió, kỷ mão có sấm, được "tuyền" giúp đỡ, cũng chủ quý hiển. Kiếm kim thêm thuỷ, hải kim gặp "phong", lạp kim gặp "giản", đều tố, các loại kim còn lại không hiệu quả. Thấy "lô trung" đinh mão thì tốt, mậu tý gặp bính dần, bản chất khô quá nên xấu, chủ yểu. Kỷ sửu gặp bính thân sẽ được, còn mậu tý thì kỵ; "đăng hoả" ở đông nam thuộc quẻ tốn, có phong nên rất thích hợp; mậu ngọ, kỷ mùi "thiên thượng hoả", ngày giờ gặp phải coi chừng hình, khắc. Xem xét lại chọn lựa kỳ diệu, có cách "liệt phong lôi vũ" tức là "phích lịch" gặp "thiên hà", có cách "thiên địa trung phân" tức là mậu tý gặp mậu ngọ, có cách "lôi đình đắc môn" tức mậu tý, kỷ sửu mà ngày giờ gặp mão .
Bính dần, đinh mão lô trung hoả
"Lô trung hoả", trời đất là lò, âm dương là than, ánh sáng rực rỡ khắp vũ trụ, làm thành đồ gốm, rèn đúc trong trời đất. Loại lửa nóng này thích được mộc sanh cho, chỉ bình địa mộc là chủ yếu, vì bính dần gặp kỷ hợi gọi là "thiên ất quý", thấy mậu tuất gọi là "quy khố", cho nên tốt, kế là đinh mão. Tuy nhiên bính dần là "hoả tự sanh", hầu như không có mộc, còn đinh mão là "hoả tự bại", nếu không có mộc thìhung xấu, hơn nửa loại hoả này cần cho kim, càng được thêm nhiều kim, mới đáp ưng cơ hội, nhưng đinh mão không có mộc mà gặp thêm nhiều kim, chủ mệnh lao lực khổ cực. còn như dần hoả gặp nhiều mộc, nóng mà không có thuỷ kiềm chế, chủ yểu, mão gặp ba, bốn mộc thì không sao, như canh dần, tân mão tương sanh tại chỗ, nhâm ngọ, quý mùi hoá là "chân hoả", dần gặp phải thường chủ hung bạo hoặc tật yểu. Nếu như trời đất vốn dĩ có thuỷ kiềm chế, cũng được trung thọ, đinh mão không trở ngại. Hoả này tuy thích được kim là tài, kiếm kim với dần gặp nhau thì nhẹ nhàng, còn đinh mão vốn là hoả "tự bại", lại đến thân dậu thì tử tuyệt, như thế làm sao có thể khắc! Chẳng nghèo thì cũng yểu. Các kim của "hải trung", "sa lạp" đều cần nhờ mộc sanh, mới thích gặp, "thoa bạc" vô dụng. Gặp thổ trước hết cần phải có kim với mộc, không thích ở trong thổ để không quá khô. Như "thành đầu", "ốc", "bích" đều là thổ đã thánh khí, mới thích gặp thuỷ, trong mệnh trước hết thích mộc, ngoài dự liệu hoả nhiều thích gặp phải. "Thiên thượng" nước trong, mệnh dần gặp chi thì tốt, trong mão không mộc thì đáng ngờ; "đại hải", bính dần gặp nhâm tuất là khố của phúc, còn gặp quý hợi là "quan tinh", đái hợp thì nửa hung nửa tốt; "tỉnh", "giản", "khê", "lưu" đều xấu, có mộc thì không luận như vậy. Hoả gặp đồng loại, nều trên nhật nguyệt suy bại thì tốt; "phích lịch hoả" vốn là vô ích, nếu được mộc sanh, thêm nhật thời có "hải thuỷ" thì thích hợp, không có mộc mà gặp thuỷ thì xấu; "thiên thượng hoả" cần có "ốc thổ" che chở, "đăng hoả" tốn phong, lại là khích lệ, "vong thần" cần gồm cả phúc lành, đoán như bính dần, đinh dậu, kỷ dậu, bính dần hoả thì vô khì, nhưng không mất "đại quý", như bính dần, giáp ngọ, kỷ tỵ thì bính dần ắt trôi nổi không yên ổn.
Giáp thìn, ất tỵ phúc đăng hoả
Phúc đăng hoả, ánh sáng chén vàng, đài ngọc phát ra ánh sáng, nơi nhật nguyệt không chiếu sáng, lúc trời đất còn chưa sáng. Hoả này chính là hoả soi sáng ban đêm của nhân gian, lấy mộc làm tâm, lấy thuỷ làm dầu, gặp bóng tối thì tốt, gặp ánh sáng mặt trời thì bất lợi. Thông thường ngày giờ rất kỵ gặp lại thìn, tỵ, địa chi có xung nhau e sợ gió thổi mà đèn tắt, chủ yểu. Có thể lấy tuất hợi và tý sửu làm âm, hoặc lấy từ mùi đến hợi là âm. Ngũ hành gặp mộc là cốt yếu, mộc tầm thường đều tốt, có thêm quan tinh, lộc, quý nhân tương phù, can đầu hoá thuỷ càng tốt; hạn vận gặp trợ giúp nhau, chủ đại quý. Còn thuỷ thì lấy "tỉnh tuyến", "giản hạ" làm dầu thật sự, còn "trường lưu" là dầu giả, chọn lựa kỳ diệu là cách thêm dầu cho đèn mờ tối, đó là lý do tại sao; "đại hải", "hà thuỷ" thì không thể làm dầu, gặp phải chủ tầm thường. Nói chung hoả này gặp thuỷ cần nương nhờ mộc, không thích trường sanh hay vượng khí, thuỷ tràn ngập nhiều quá trái lại thành xấu. Mệnh là "bạc kim" chiếu sáng, rất là cao quý, cũng cần có thuỷ mộc nương nhờ nhau mới có thể hiển đạt; "sa trung kim", "thoa xuyến kim" đều tốt; "kiếm phong kim" gọi là "đăng hoa phất kiếm" càng tốt; "lạp kim" không thích hợp. Ngũ hành gặp thổ, cần đề phòng khắc phá. Nếu như "bích thổ" có thể để thân yên ổn, "ốc thổ" có thể che chở, ngày giờ cùng gặp, chủ phúc và quý, "sa thổ" có mộc cũng chủ cái ăn mặc, các thổ còn lại thì vô dụng. Hoả thích đồng loại, tức sợ gió thổi. "Phích lịch" là hoả của "long thần" biến hoá, sẽ có mang theo gió nên hoả này khó tồn tại; "thiên thượng hoả", "lô trung hoả"hai hoả gặp nhau, rất xấu. Lại xem xét chọn lựa kỳ diệu, có "khôi tinh cách" - sao bắc đẩu, "chỉ nam cách" - la bàn, lý do người sanh giáp thìn, mà ngày giờ gặp ngọ mùi là đúng; có "hoả thổ nhập đường cách": vì hoả này sợ gió, ngày giờ mà gặp bính tuất, đinh hợi "ốc thượng thổ" tức là đèn ở trong nhà, càng được thêm dầu, càng quý.
Mậu ngọ, kỷ mùi thiên thượng thổ
Thiên thượng hoả, ấm áp núi và biển, chiếu ánh sáng rực rỡ khắp vũ trụ, "dương đức" rọi sáng bầu trời đẹp, "âm tinh" chiếu sáng biển, mậu ngọ là thái dương nên "cương", kỷ mùi là thái âm nên "nhu", hoặc vì là ngày hè nên cương, ngày đông thì ấm, không thật vậy. Đều cần có tuất hợi là cửa trời, mão dậu là cửa ra vào, đông nam là đất của đường đi trên bộ thì tốt. Hoả này thấy mộc gọi là "chấn chiết", cần phải ngày giờ có phong với thuỷ mới đắc. "Đại lâm mộc" có thìn tỵ, "tùng bách", "thạch lựu" có mão dậu, cho nên chỉ cóba loại mộc này mới quý. Ngọ thấy mộc nhiều vẫn không sao, còn mùi thấy ba, bốn mộc thì mệnh lao khổ. Thấy kim lại có thể toả sáng, không thể trợ giúp. "Thoa kim" có tuất hợi, "bạc kim" có dần mão, chủ tốt lành; "kiếm kim" là ánh sáng kỳ diệu của nhật nguyệt, nhất định tuổi trẻ thi đậu; các loại kim còn lại là tai vạ. Thuỷ nên là "giản hạ", cần phải mậu ngọ thấy đinh sửu, kỷ mùi thấy bính tý, âm dương giao hỗ mới là phúc quý, trong trụ có thêm mộc sinh sôi nẩy nở, cả hai phú và quý có đủ; "đại khê" có ất mão, "tỉnh tuyền" có ất dậu có cửa ra vào đều tốt; "thiên hà" mưa và sương tương tế, không lấy chỗ khắc nhau mà luận, mậu ngọ thấy đinh mùi cũng tốt, bính ngọ thì không xác định. Hoả thích đèn, lại gặp hoả khác biệt ắt khô ráo; "phích lịch" mang theo mây mưa thì không ánh sáng mặt trời, mặt trăng, cho nên chủ là tăm tối mông lung; "lô trung" ngọ kỵ bính dần, vì ngọ là "cương hoả", tài thấy bính dần, thuận lợi là nơi sanh hoả, nếu hư không có nước trong để giải cứu, chủ phạm hình, hung, tử, đinh mão tốt hơn một chút; thổ thấy "sa trung" có tốn phong nương nhờ nhau; "lộ bàng", "thành", 'ốc" đểu tốt, trong trụ có thêm kim mộc tương trợ, càng tốt. Xem xét sự chọn lựa tuyệt vời, mậu ngọ gặp mão, kỷ mùi gặp dậu, là cách "nhật nguyệt phân tú" nên mão là ất mão, tân mão là chánh, còn kỷ mão, đinh mão là phụ, dậu là ất dậu, quý dậu là chánh, còn kỷ dậu, đinh dậu là phụ; có cách "nhật xuất phù tang", tức là "nhật phân tú", ngày giờ gặp lại tỵ ngọ; có cách "nhật luân đương biểu", vì mậu ngọ sanh ở ngọ, nhật gặp ngày tỵ ngọ, lại vì mậu ngọ thấy mậu tý là chánh vị của quẻ khảm và ly; có cách "nguyệt sanh thương hải" tức là "nguyệt phân tú", nên dậu được ất, quý là cách; có cách "nguyệt chiếu hàn đàm" chính là chọn nhâm, quý, hợi, tý , nạp âm thuộc thuỷ là "đàm" - vực sâu, nhưng phải sanh mùa thu mới quý; có cách "nguyệt quế phân phương", chính là người kỷ mùi, trụ có ba, bốn mộc vây quanh, so sánh rừng quế với một cành, cũng giống rừng quế lấy số ít làm quý, còn hương thơm lấy số nhiều mới quý, ý nghĩa mỗi thứ có chỗ để lựa chọn. Lại xem xét trong cách hung xấu, "thái dương tổn minh": mậu ngọ không bị giữ trong nước sung mãn, chính là không bằng lòng thuỷ thịnh; "thái âm bạc thực": kỷ mùi làm sao chịu được thổ nhiều quá? Chính là không bằng lòng thổ nhiều. Tất cả như là cùng một cách nghiên cứu, mới rõ tận hết cái lý của nó.
Bính thân, đinh hoả sơn hạ hoả
Sơn hạ hoả: đồng cỏ toả sáng, hoa lý chiếu sáng rực rỡ, ánh sáng của tán lá trong rừng lạnh lẽo, màu sắc rực rỡ của màn che, trang sức của y phục, Phương Sóc mới đặt tên huỳnh hoả, cho nên chọn lựa kỳ diệu cách "huỳnh hoả chiếu thuỷ", sanh vào mùa thu thì quý, là quan giám sát, vì thế hoả này thích thuỷ, địa chi gặp hợi, tý hoặc nạp âm thuỷ lại gặp thêm tháng thân, dậu. Hoặc vì hoả của sơn hạ rất thích mộc với núi, được thêm ngọn gió làm tăng thêm ánh sáng thì tốt, lại không dùng huỳnh hoả để luận. "Đại lâm mộc" có thìn tỵ là gió, "tang chá mộc" có quý sửu là núi, "tùng bách", bình địa" rất tốt, thêm được gió trợ giúp, chủ quý, nếu như gió nhiều thổi tan, chủ yểu. Thuỷ thích "tỉnh tuyền", "giản hạ", có mộc nương nhờ giúp đỡ nhau chủ chức tước tôn quý vẻ vang, "đại hải thuỷ" không thích hợp, nhưng có núi cũng ứng với quý cách. Dần mão là phương đông là nơi mộc vượng hoả sanh, chỉ có giáp dần nạp âm thuỷ thì tốt, còn ất mão là sét đánh, có gió, gặp phải không tốt đẹp. Nếu như không có lửa, không có núi, mà thêm "phích lịch hoả" chủ yểu. "Thiên thượng thuỷ" là mưa dữ dội, hoả này không thích hợp gặp nhau, nếu trước tiên được sơn, thuỷ nương nhờ trợ giúp, cũng không có gì là hại. Mệnh lý có kim xinh đẹp nên tốt, không gặp mộc nhiều, lấy tiết khí để bàn luận. Ất sửu là núi, chủ quý; các kim còn lại nếu không bị khắc, phá, gặp quý nhân, lộc, mã chỉ luận tài. Thổ thấy "sa trung", ở thìn tỵ có gió, nếu như có mộc, có núi trợ giúp, chủ đại quý, không có chỉ là hư danh. Hoả kỵ thái dương, "phích lịch", "đăng đầu" là quẻ tốn, chủ ánh sáng rực rỡ ởdai95 đô. Ngũ hành có hoả đều nương nhờ mộc thì tốt, vận mệnh hỷ kỵ đều dựa theo đó mà đoán.
Giáp tuất, ất hợi sơn đầu hoả
Sơn đầu hoả: cánh đồng khô cháy, lan toả đến tận tầm mắt, mơ hồ như ánh sáng chiều ngã về tây, phảng phấtmat85 trời lạn đầu núi, đây chính là cảnh đốt đồng tháng chín, hoả của tro tàn của cỏ khô. Đại khái thích hợp với sơn mộc cùng với phong mộc, thích "đại lâm", "tùng bách", vì thìn tỵ là phong, dần mão là "quy lộc", được thêm quý sửu là cây trên núi, chủ quý. Không có núi thì mộc không có chỗ nương tựa, hoả không có chỗ thấy, cho dù có phong cũng không có danh vọng vẻ vang, mộc còn lại thì không ích lợi, chỉ lấy lộc mã mà xem. Thuỷ thích hợp "giản hạ" thường là cùng nhau hạnh thông, "tỉnh tuyền" nước trong, có mộc trợ giúp, cũng tốt; "đại khê": giáp tuất thấy giáp dần, ất hợi thấy ất mão, tức là "chân lộc" đều tốt; "thiên thượng" đều có mưa, sương, mà hoả tới ngọ mùi là đắc địa, lại được nước trong giúp đỡ, không đến đổi khô ráo, chủ phúc, không phải vậy thì yểu; "đại hải" là khắc nhau tại chỗ, rất xấu, có gặp được sơn, cũng được mọt chút ít. Ngày giờ gặp kim là tài, đều có sơn, mộc trợ giúp thì tốt, không có thì hung xấu. Thấy thổ chỉ có "sa trung" có quẻ tốn, lửa này có thể lan ra, còn các loại thổ khác thì vô ích. Đại phàm hoả này không có mộc thì chỉ thấy hại, thường là mệnh hèn mọn thấp kém. Thấy hoả của "lô trung" quá nóng, "phích lịch hoả" hung xấu có hại, mặt trời mờ tối, "sơn hạ" chiến tranh, hình phạt đều là không thích hợp, mệnh mang hai, ba hoả, như mệnh vận gặp mộc chủ bất ngờ sanh hoạ, hoặc là yểu, thông thường các hoả này đều sợ hình xung.
纳音火
[注]戊子、己丑、丙寅丁卯、甲辰、乙巳、戊午、己未、丙申、丁酉、甲戍、乙亥纳音火。
戊子己丑霹雳火
霹雳火者,一缕毫光,九天号令,电掣金蛇之势,云驱铁马之奔。此火须资风水雷方为变化,若五行得值一件,皆主亨通。如日时见大海,癸亥为引凡入圣,己丑为上,戊子次之;见大溪,乙卯为雷火变化,己丑为吉,戊子忌之;辰巳为风运中,遇之尤佳;天上水名为既济,主吉,遇之者禀性含灵,聪明特异,长流无用,涧下虽就位相克,此神火也,不忌,有风亦显。五行见木,辛卯有雷,大林有风,平地有天门,与此火相资,余木无用。土见路旁,加巽则吉,砂中,丁巳有风,己卯有雷,得泉助之,亦主贵显。剑金加水,海金遇风,蜡金逢涧,皆吉,余金无用。见炉中丁卯为吉,戊子逢丙寅,太燥性凶,主夭。己丑见丙申却得,戊子忌之;灯火,东南巽地,有风最宜;戊午己未天上火,日时遇之,防刑克。再考妙选,有烈风雷雨格,即霹雳见天河是也,有天地中分格,即戊子见戊午是也,有雷霆得门格,即戊子己丑日时遇卯是也。
在您已经对页面进行了布置,下面将添加图形内容,如徽标和鼠标经过图象。
丙寅丁卯炉中火
炉中火者,天地为炉,阴阳为炭,腾光辉于宇宙,成陶冶于乾坤。此火炎上,喜得木生,惟平地之木为上,以丙寅见已亥,谓之天乙贵,见戊戌,谓之归库,故吉,丁卯次之。然丙寅火自生,无木庶几,丁卯火自败,若无木则凶,且此火以金为用,更得金来,方应化机,但丁卯无木而更遇金,主劳苦之命。夫寅见木多火,炎而无水制,主夭,卯见三、四木不妨,如庚寅辛卯就位相生,壬午癸未化为真火,寅见之多主凶暴或疾夭。若天地原有水制,亦主中寿,丁卯无妨。此火虽喜得金为财,内剑金寅见之稍可,丁卯火既自败,又到申酉而死绝,如何能克!非贫即夭。海中、砂蜡诸金,须资木生,方喜见之,钗泊无用。见土须先有金与木,却喜土以宿之,不至太燥。如城头、屋壁皆成器之土,方好见水,命中先爱木,不然火多喜逢之。天上清水,寅命遇之为吉,卯中无木则嫌;大海,丙寅见壬戌为福库,见癸亥为官星,带合半凶半吉;井涧、溪流皆凶,有木不在此论。火见同类,若日月上衰败则吉;霹雳火本自无益,若得木生,更日时有海水则宜,无木遇水,凶;天上火须有屋土遮之,灯火巽风,又为鼓舞,亡神须兼造化,断如丙寅、丁酉、已酉、丙寅火为无气,不失大贵,如丙寅、甲午、己已、丙寅则漂泛不安。
甲辰乙已覆灯火
覆灯火者,金盏光,玉台吐艳,照日月不照之处,明天地未明之时。此火乃人间夜明之火,以木为心,以水为油,遇阴则吉,遇阳则不利。凡日时最忌再见辰已,地支有冲,恐风吹灯灭,主夭。或以戌亥,子丑为阴,或以自未至亥为阴。五行见木为根本,凡木皆好,更得官星、禄贵相扶,干头化水,尤吉;限运遇相助,主大贵。水以井泉、涧下为真油,长流假油,妙选有暗灯添油格,即此理也;大海、河水则不可以为油,遇者主寻常。大凡此火,见水须资木,不喜长生旺气,水太泛,反凶。命值泊金照耀,最为清贵,亦须水木相资,方能显达;砂中、钗钏二金皆吉;剑锋一金,谓之灯花拂剑,尤吉;蜡金不宜。五行见土,须防克破。若壁土可以安身,屋土可以覆庇,日时并见,主福贵,砂土有木,亦主衣食,余土无用。火爱同类,却怕风吹。霹雳为龙神变化之火,必带风来,此火难存;天上、炉中二火相见,最凶。再考妙选,有魁星格、指南格,以甲辰生人,日时遇午未为是;有火土入堂格,以此火怕风,日时遇丙戌丁亥屋上土,则灯在屋中,更得添油,尤贵。
戊午己未天上火
天上火者,温暖山海,辉光宇宙,阳德丽天之照,阴精离海之明,戊午为太阳则刚,己未为太阴则柔,或以为夏日则刚,冬日则温,诬也。俱要戌亥为天门,卯酉为出入之门,东南为行陆之地则吉。此火见木谓之震折,要日时有风与水方得。大林木有辰已,松柏、石榴有卯酉,故惟此三木主贵。午见木多犹可,未三、四木,劳苦之命也。见金且能照耀,不能克济。钗金有戌亥,泊金有寅卯,主吉;剑金为耀日月之光,必主少年登第;余金则殃。水宜涧下,须戊午见丁丑,已未见丙子,阴阳交互,方为福贵,柱中更有木滋生,富贵双金;大溪有乙卯,井泉有已酉,出入得门,皆吉;天河雨露相济,不以就位克论,戌午见丁未,亦吉,丙午则不明。火爱灯头,再有别火则燥;霹雳带云雨则日月无光,故主昏蒙;炉中午忌丙寅,以午为刚火,才见丙寅,便为火生之地,若无清水解救,主犯刑凶死,丁卯稍可;土见砂中,有巽风相假;路旁、城屋皆吉,柱中更有金木相助,尤吉。考妙选,戊午遇卯,已未遇酉,为日月分秀格,而卯以乙卯、辛卯为正,已卯、丁卯次之,酉以乙酉、癸酉为正,已酉、丁酉次之;有日出扶桑格,即日分秀,再见已午日时;有日轮当表格,以戊午生于午,日逢已午日,又以戊午见戊子为坎离正位;有月生沧海格,即月分秀,而酉得乙癸是也;有月照寒潭格,是取壬癸亥子,纳音属水为潭,然必秋生为贵;有月桂芬芳格,是已未生人,柱有三、四木拱集,与桂林一枝,同桂林以少为贵,芬芳以多为贵,义各有所取也。再考凶格中,太阳损明,戊午不禁于水溢,是嫌水盛;太阴薄食,已未岂堪于土多?是嫌土重也。须如是并参,方尽其理。
丙申丁酉山下火
山下火者,草间熠耀,花理荧煌,寒林缀叶之光,隔幔点衣之彩,方朔以荧火名之,故妙选有荧火照水格,遇秋生则贵,为卿监,是以此火喜水,地支逢亥子,或纳音水更逢申酉月是也。或以山下之火最喜木与山,更得风来增辉为贵,又不以荧火论矣。大林木有辰已为风,桑柘木有癸丑为山,松柏平地最吉,更得风助,主贵,若风多吹散,主夭。水爱井泉、涧下,有木相资,主爵位崇显,大海水不宜,然有山亦应贵格。寅卯为东方木旺火生之地,只甲寅水吉,乙卯为震,有风,见之不佳。若无火无山,更加霹火,主夭。天上水为骤雨,此火不宜相见,若先得山水滋助,亦无大害。命里有金,以清秀为吉,无木多逢,以窃气论之。乙丑为山,主贵;余金若无克破,遇贵人禄马,只以财论。土见砂中,辰已有风,若有木有山加助,主大贵,无则虚名。火忌太阳,霹雳、灯头,是巽主光显大都。五行有火,须资木则吉,限数喜忌,俱依此断。
甲戌乙亥山头火
山头火者,野焚燎原,延烧极目,依稀天际斜晖,仿佛山头落日,此乃九月烧荒,衰草尽烬之火也。大概宜山木与风木,喜大林、松柏,以辰已有风,寅卯归禄,更得癸丑为山上木,主贵。无山则木无所依,火无所见,纵有风亦不光显,余木无用,只以禄马看。水宜涧下,多为交泰,主吉,井泉清水,有木助之,亦吉;大溪,甲戌见甲寅,乙亥见乙卯,却真禄俱吉;天上须有雨露,而火到午未得地,再得清水济之,不至于燥,主福,不然则夭;大海就位相克,最凶,有山逢之,稍得。日时见金为财,须有山木助之则吉,无则凶。见土惟砂中有巽,能扬此火,别土无益。大凡此火无木见害,多是下贱之命。见火炉中太炎,霹火凶害,太阳昏蒙,山下战刑,皆所不宜,命带二、三火,如限数逢木,主祸生不测,或夭,大都此火大怕刑冲。
.
Nạp Âm Hoả
[chú] mậu tý, kỉ sửu, bính dần, đinh mão, giáp thìn, ất tị, mậu ngọ, kỉ mùi, bính thân, đinh dậu, giáp tuất, ất hợi nạp âm hỏa.
Mậu tý, kỷ sửu phích lịch hoả
Phích lịch hoả, một tia sáng, hiêu lệnh trên trời cao, chớp nhoáng như hình trạng một con rắn vàng, trên trời cao thúc giục ngựa sắt phi nước đại. Hoả này cần gió, nước và sấm mới biến hoá, nếu ngũ hành gặp được một thứ, đều chủ thông suốt, thuận lợi. Như ngày giờ gặp "đại hải", quý hợi là "dẫn phàm nhập thánh", kỷ sửu là trên hết, mậu tý thì tiếp theo; gặp "đại khê", ất mão là sấm lửa biến hoá, kỷ sửu là tốt, còn mậu tý thì kỵ; thìn tỵ là gió chuyển động, gặp được càng thêm tốt; "thiên thượng thuỷ" danh là "ký tế", chủ tốt, người gặp được trời sanh bản tính hàm chứa tài năng xuất chúng, thông minh đặc biệt khác thường, "trường lưu" vô dụng, "giản hạ" tuy là chỗ tương khắc, hoả này không kỵ, có gió cũng vẻ vang. Ngũ hành thấy mộc, tân mão có sấm, "đại lâm" có gió, "bình địa" có "thiên môn", cùng với hoả này có chỗ nương nhờ nhau, còn mộc thì vô dụng. Thổ gặp "lộ bàng", thêm cung tốn thì tốt, "sa trung" đinh tỵ có gió, kỷ mão có sấm, được "tuyền" giúp đỡ, cũng chủ quý hiển. Kiếm kim thêm thuỷ, hải kim gặp "phong", lạp kim gặp "giản", đều tố, các loại kim còn lại không hiệu quả. Thấy "lô trung" đinh mão thì tốt, mậu tý gặp bính dần, bản chất khô quá nên xấu, chủ yểu. Kỷ sửu gặp bính thân sẽ được, còn mậu tý thì kỵ; "đăng hoả" ở đông nam thuộc quẻ tốn, có phong nên rất thích hợp; mậu ngọ, kỷ mùi "thiên thượng hoả", ngày giờ gặp phải coi chừng hình, khắc. Xem xét lại chọn lựa kỳ diệu, có cách "liệt phong lôi vũ" tức là "phích lịch" gặp "thiên hà", có cách "thiên địa trung phân" tức là mậu tý gặp mậu ngọ, có cách "lôi đình đắc môn" tức mậu tý, kỷ sửu mà ngày giờ gặp mão .
Bính dần, đinh mão lô trung hoả
"Lô trung hoả", trời đất là lò, âm dương là than, ánh sáng rực rỡ khắp vũ trụ, làm thành đồ gốm, rèn đúc trong trời đất. Loại lửa nóng này thích được mộc sanh cho, chỉ bình địa mộc là chủ yếu, vì bính dần gặp kỷ hợi gọi là "thiên ất quý", thấy mậu tuất gọi là "quy khố", cho nên tốt, kế là đinh mão. Tuy nhiên bính dần là "hoả tự sanh", hầu như không có mộc, còn đinh mão là "hoả tự bại", nếu không có mộc thìhung xấu, hơn nửa loại hoả này cần cho kim, càng được thêm nhiều kim, mới đáp ưng cơ hội, nhưng đinh mão không có mộc mà gặp thêm nhiều kim, chủ mệnh lao lực khổ cực. còn như dần hoả gặp nhiều mộc, nóng mà không có thuỷ kiềm chế, chủ yểu, mão gặp ba, bốn mộc thì không sao, như canh dần, tân mão tương sanh tại chỗ, nhâm ngọ, quý mùi hoá là "chân hoả", dần gặp phải thường chủ hung bạo hoặc tật yểu. Nếu như trời đất vốn dĩ có thuỷ kiềm chế, cũng được trung thọ, đinh mão không trở ngại. Hoả này tuy thích được kim là tài, kiếm kim với dần gặp nhau thì nhẹ nhàng, còn đinh mão vốn là hoả "tự bại", lại đến thân dậu thì tử tuyệt, như thế làm sao có thể khắc! Chẳng nghèo thì cũng yểu. Các kim của "hải trung", "sa lạp" đều cần nhờ mộc sanh, mới thích gặp, "thoa bạc" vô dụng. Gặp thổ trước hết cần phải có kim với mộc, không thích ở trong thổ để không quá khô. Như "thành đầu", "ốc", "bích" đều là thổ đã thánh khí, mới thích gặp thuỷ, trong mệnh trước hết thích mộc, ngoài dự liệu hoả nhiều thích gặp phải. "Thiên thượng" nước trong, mệnh dần gặp chi thì tốt, trong mão không mộc thì đáng ngờ; "đại hải", bính dần gặp nhâm tuất là khố của phúc, còn gặp quý hợi là "quan tinh", đái hợp thì nửa hung nửa tốt; "tỉnh", "giản", "khê", "lưu" đều xấu, có mộc thì không luận như vậy. Hoả gặp đồng loại, nều trên nhật nguyệt suy bại thì tốt; "phích lịch hoả" vốn là vô ích, nếu được mộc sanh, thêm nhật thời có "hải thuỷ" thì thích hợp, không có mộc mà gặp thuỷ thì xấu; "thiên thượng hoả" cần có "ốc thổ" che chở, "đăng hoả" tốn phong, lại là khích lệ, "vong thần" cần gồm cả phúc lành, đoán như bính dần, đinh dậu, kỷ dậu, bính dần hoả thì vô khì, nhưng không mất "đại quý", như bính dần, giáp ngọ, kỷ tỵ thì bính dần ắt trôi nổi không yên ổn.
Giáp thìn, ất tỵ phúc đăng hoả
Phúc đăng hoả, ánh sáng chén vàng, đài ngọc phát ra ánh sáng, nơi nhật nguyệt không chiếu sáng, lúc trời đất còn chưa sáng. Hoả này chính là hoả soi sáng ban đêm của nhân gian, lấy mộc làm tâm, lấy thuỷ làm dầu, gặp bóng tối thì tốt, gặp ánh sáng mặt trời thì bất lợi. Thông thường ngày giờ rất kỵ gặp lại thìn, tỵ, địa chi có xung nhau e sợ gió thổi mà đèn tắt, chủ yểu. Có thể lấy tuất hợi và tý sửu làm âm, hoặc lấy từ mùi đến hợi là âm. Ngũ hành gặp mộc là cốt yếu, mộc tầm thường đều tốt, có thêm quan tinh, lộc, quý nhân tương phù, can đầu hoá thuỷ càng tốt; hạn vận gặp trợ giúp nhau, chủ đại quý. Còn thuỷ thì lấy "tỉnh tuyến", "giản hạ" làm dầu thật sự, còn "trường lưu" là dầu giả, chọn lựa kỳ diệu là cách thêm dầu cho đèn mờ tối, đó là lý do tại sao; "đại hải", "hà thuỷ" thì không thể làm dầu, gặp phải chủ tầm thường. Nói chung hoả này gặp thuỷ cần nương nhờ mộc, không thích trường sanh hay vượng khí, thuỷ tràn ngập nhiều quá trái lại thành xấu. Mệnh là "bạc kim" chiếu sáng, rất là cao quý, cũng cần có thuỷ mộc nương nhờ nhau mới có thể hiển đạt; "sa trung kim", "thoa xuyến kim" đều tốt; "kiếm phong kim" gọi là "đăng hoa phất kiếm" càng tốt; "lạp kim" không thích hợp. Ngũ hành gặp thổ, cần đề phòng khắc phá. Nếu như "bích thổ" có thể để thân yên ổn, "ốc thổ" có thể che chở, ngày giờ cùng gặp, chủ phúc và quý, "sa thổ" có mộc cũng chủ cái ăn mặc, các thổ còn lại thì vô dụng. Hoả thích đồng loại, tức sợ gió thổi. "Phích lịch" là hoả của "long thần" biến hoá, sẽ có mang theo gió nên hoả này khó tồn tại; "thiên thượng hoả", "lô trung hoả"hai hoả gặp nhau, rất xấu. Lại xem xét chọn lựa kỳ diệu, có "khôi tinh cách" - sao bắc đẩu, "chỉ nam cách" - la bàn, lý do người sanh giáp thìn, mà ngày giờ gặp ngọ mùi là đúng; có "hoả thổ nhập đường cách": vì hoả này sợ gió, ngày giờ mà gặp bính tuất, đinh hợi "ốc thượng thổ" tức là đèn ở trong nhà, càng được thêm dầu, càng quý.
Mậu ngọ, kỷ mùi thiên thượng thổ
Thiên thượng hoả, ấm áp núi và biển, chiếu ánh sáng rực rỡ khắp vũ trụ, "dương đức" rọi sáng bầu trời đẹp, "âm tinh" chiếu sáng biển, mậu ngọ là thái dương nên "cương", kỷ mùi là thái âm nên "nhu", hoặc vì là ngày hè nên cương, ngày đông thì ấm, không thật vậy. Đều cần có tuất hợi là cửa trời, mão dậu là cửa ra vào, đông nam là đất của đường đi trên bộ thì tốt. Hoả này thấy mộc gọi là "chấn chiết", cần phải ngày giờ có phong với thuỷ mới đắc. "Đại lâm mộc" có thìn tỵ, "tùng bách", "thạch lựu" có mão dậu, cho nên chỉ cóba loại mộc này mới quý. Ngọ thấy mộc nhiều vẫn không sao, còn mùi thấy ba, bốn mộc thì mệnh lao khổ. Thấy kim lại có thể toả sáng, không thể trợ giúp. "Thoa kim" có tuất hợi, "bạc kim" có dần mão, chủ tốt lành; "kiếm kim" là ánh sáng kỳ diệu của nhật nguyệt, nhất định tuổi trẻ thi đậu; các loại kim còn lại là tai vạ. Thuỷ nên là "giản hạ", cần phải mậu ngọ thấy đinh sửu, kỷ mùi thấy bính tý, âm dương giao hỗ mới là phúc quý, trong trụ có thêm mộc sinh sôi nẩy nở, cả hai phú và quý có đủ; "đại khê" có ất mão, "tỉnh tuyền" có ất dậu có cửa ra vào đều tốt; "thiên hà" mưa và sương tương tế, không lấy chỗ khắc nhau mà luận, mậu ngọ thấy đinh mùi cũng tốt, bính ngọ thì không xác định. Hoả thích đèn, lại gặp hoả khác biệt ắt khô ráo; "phích lịch" mang theo mây mưa thì không ánh sáng mặt trời, mặt trăng, cho nên chủ là tăm tối mông lung; "lô trung" ngọ kỵ bính dần, vì ngọ là "cương hoả", tài thấy bính dần, thuận lợi là nơi sanh hoả, nếu hư không có nước trong để giải cứu, chủ phạm hình, hung, tử, đinh mão tốt hơn một chút; thổ thấy "sa trung" có tốn phong nương nhờ nhau; "lộ bàng", "thành", 'ốc" đểu tốt, trong trụ có thêm kim mộc tương trợ, càng tốt. Xem xét sự chọn lựa tuyệt vời, mậu ngọ gặp mão, kỷ mùi gặp dậu, là cách "nhật nguyệt phân tú" nên mão là ất mão, tân mão là chánh, còn kỷ mão, đinh mão là phụ, dậu là ất dậu, quý dậu là chánh, còn kỷ dậu, đinh dậu là phụ; có cách "nhật xuất phù tang", tức là "nhật phân tú", ngày giờ gặp lại tỵ ngọ; có cách "nhật luân đương biểu", vì mậu ngọ sanh ở ngọ, nhật gặp ngày tỵ ngọ, lại vì mậu ngọ thấy mậu tý là chánh vị của quẻ khảm và ly; có cách "nguyệt sanh thương hải" tức là "nguyệt phân tú", nên dậu được ất, quý là cách; có cách "nguyệt chiếu hàn đàm" chính là chọn nhâm, quý, hợi, tý , nạp âm thuộc thuỷ là "đàm" - vực sâu, nhưng phải sanh mùa thu mới quý; có cách "nguyệt quế phân phương", chính là người kỷ mùi, trụ có ba, bốn mộc vây quanh, so sánh rừng quế với một cành, cũng giống rừng quế lấy số ít làm quý, còn hương thơm lấy số nhiều mới quý, ý nghĩa mỗi thứ có chỗ để lựa chọn. Lại xem xét trong cách hung xấu, "thái dương tổn minh": mậu ngọ không bị giữ trong nước sung mãn, chính là không bằng lòng thuỷ thịnh; "thái âm bạc thực": kỷ mùi làm sao chịu được thổ nhiều quá? Chính là không bằng lòng thổ nhiều. Tất cả như là cùng một cách nghiên cứu, mới rõ tận hết cái lý của nó.
Bính thân, đinh hoả sơn hạ hoả
Sơn hạ hoả: đồng cỏ toả sáng, hoa lý chiếu sáng rực rỡ, ánh sáng của tán lá trong rừng lạnh lẽo, màu sắc rực rỡ của màn che, trang sức của y phục, Phương Sóc mới đặt tên huỳnh hoả, cho nên chọn lựa kỳ diệu cách "huỳnh hoả chiếu thuỷ", sanh vào mùa thu thì quý, là quan giám sát, vì thế hoả này thích thuỷ, địa chi gặp hợi, tý hoặc nạp âm thuỷ lại gặp thêm tháng thân, dậu. Hoặc vì hoả của sơn hạ rất thích mộc với núi, được thêm ngọn gió làm tăng thêm ánh sáng thì tốt, lại không dùng huỳnh hoả để luận. "Đại lâm mộc" có thìn tỵ là gió, "tang chá mộc" có quý sửu là núi, "tùng bách", bình địa" rất tốt, thêm được gió trợ giúp, chủ quý, nếu như gió nhiều thổi tan, chủ yểu. Thuỷ thích "tỉnh tuyền", "giản hạ", có mộc nương nhờ giúp đỡ nhau chủ chức tước tôn quý vẻ vang, "đại hải thuỷ" không thích hợp, nhưng có núi cũng ứng với quý cách. Dần mão là phương đông là nơi mộc vượng hoả sanh, chỉ có giáp dần nạp âm thuỷ thì tốt, còn ất mão là sét đánh, có gió, gặp phải không tốt đẹp. Nếu như không có lửa, không có núi, mà thêm "phích lịch hoả" chủ yểu. "Thiên thượng thuỷ" là mưa dữ dội, hoả này không thích hợp gặp nhau, nếu trước tiên được sơn, thuỷ nương nhờ trợ giúp, cũng không có gì là hại. Mệnh lý có kim xinh đẹp nên tốt, không gặp mộc nhiều, lấy tiết khí để bàn luận. Ất sửu là núi, chủ quý; các kim còn lại nếu không bị khắc, phá, gặp quý nhân, lộc, mã chỉ luận tài. Thổ thấy "sa trung", ở thìn tỵ có gió, nếu như có mộc, có núi trợ giúp, chủ đại quý, không có chỉ là hư danh. Hoả kỵ thái dương, "phích lịch", "đăng đầu" là quẻ tốn, chủ ánh sáng rực rỡ ởdai95 đô. Ngũ hành có hoả đều nương nhờ mộc thì tốt, vận mệnh hỷ kỵ đều dựa theo đó mà đoán.
Giáp tuất, ất hợi sơn đầu hoả
Sơn đầu hoả: cánh đồng khô cháy, lan toả đến tận tầm mắt, mơ hồ như ánh sáng chiều ngã về tây, phảng phấtmat85 trời lạn đầu núi, đây chính là cảnh đốt đồng tháng chín, hoả của tro tàn của cỏ khô. Đại khái thích hợp với sơn mộc cùng với phong mộc, thích "đại lâm", "tùng bách", vì thìn tỵ là phong, dần mão là "quy lộc", được thêm quý sửu là cây trên núi, chủ quý. Không có núi thì mộc không có chỗ nương tựa, hoả không có chỗ thấy, cho dù có phong cũng không có danh vọng vẻ vang, mộc còn lại thì không ích lợi, chỉ lấy lộc mã mà xem. Thuỷ thích hợp "giản hạ" thường là cùng nhau hạnh thông, "tỉnh tuyền" nước trong, có mộc trợ giúp, cũng tốt; "đại khê": giáp tuất thấy giáp dần, ất hợi thấy ất mão, tức là "chân lộc" đều tốt; "thiên thượng" đều có mưa, sương, mà hoả tới ngọ mùi là đắc địa, lại được nước trong giúp đỡ, không đến đổi khô ráo, chủ phúc, không phải vậy thì yểu; "đại hải" là khắc nhau tại chỗ, rất xấu, có gặp được sơn, cũng được mọt chút ít. Ngày giờ gặp kim là tài, đều có sơn, mộc trợ giúp thì tốt, không có thì hung xấu. Thấy thổ chỉ có "sa trung" có quẻ tốn, lửa này có thể lan ra, còn các loại thổ khác thì vô ích. Đại phàm hoả này không có mộc thì chỉ thấy hại, thường là mệnh hèn mọn thấp kém. Thấy hoả của "lô trung" quá nóng, "phích lịch hoả" hung xấu có hại, mặt trời mờ tối, "sơn hạ" chiến tranh, hình phạt đều là không thích hợp, mệnh mang hai, ba hoả, như mệnh vận gặp mộc chủ bất ngờ sanh hoạ, hoặc là yểu, thông thường các hoả này đều sợ hình xung.
纳音火
[注]戊子、己丑、丙寅丁卯、甲辰、乙巳、戊午、己未、丙申、丁酉、甲戍、乙亥纳音火。
戊子己丑霹雳火
霹雳火者,一缕毫光,九天号令,电掣金蛇之势,云驱铁马之奔。此火须资风水雷方为变化,若五行得值一件,皆主亨通。如日时见大海,癸亥为引凡入圣,己丑为上,戊子次之;见大溪,乙卯为雷火变化,己丑为吉,戊子忌之;辰巳为风运中,遇之尤佳;天上水名为既济,主吉,遇之者禀性含灵,聪明特异,长流无用,涧下虽就位相克,此神火也,不忌,有风亦显。五行见木,辛卯有雷,大林有风,平地有天门,与此火相资,余木无用。土见路旁,加巽则吉,砂中,丁巳有风,己卯有雷,得泉助之,亦主贵显。剑金加水,海金遇风,蜡金逢涧,皆吉,余金无用。见炉中丁卯为吉,戊子逢丙寅,太燥性凶,主夭。己丑见丙申却得,戊子忌之;灯火,东南巽地,有风最宜;戊午己未天上火,日时遇之,防刑克。再考妙选,有烈风雷雨格,即霹雳见天河是也,有天地中分格,即戊子见戊午是也,有雷霆得门格,即戊子己丑日时遇卯是也。
在您已经对页面进行了布置,下面将添加图形内容,如徽标和鼠标经过图象。
丙寅丁卯炉中火
炉中火者,天地为炉,阴阳为炭,腾光辉于宇宙,成陶冶于乾坤。此火炎上,喜得木生,惟平地之木为上,以丙寅见已亥,谓之天乙贵,见戊戌,谓之归库,故吉,丁卯次之。然丙寅火自生,无木庶几,丁卯火自败,若无木则凶,且此火以金为用,更得金来,方应化机,但丁卯无木而更遇金,主劳苦之命。夫寅见木多火,炎而无水制,主夭,卯见三、四木不妨,如庚寅辛卯就位相生,壬午癸未化为真火,寅见之多主凶暴或疾夭。若天地原有水制,亦主中寿,丁卯无妨。此火虽喜得金为财,内剑金寅见之稍可,丁卯火既自败,又到申酉而死绝,如何能克!非贫即夭。海中、砂蜡诸金,须资木生,方喜见之,钗泊无用。见土须先有金与木,却喜土以宿之,不至太燥。如城头、屋壁皆成器之土,方好见水,命中先爱木,不然火多喜逢之。天上清水,寅命遇之为吉,卯中无木则嫌;大海,丙寅见壬戌为福库,见癸亥为官星,带合半凶半吉;井涧、溪流皆凶,有木不在此论。火见同类,若日月上衰败则吉;霹雳火本自无益,若得木生,更日时有海水则宜,无木遇水,凶;天上火须有屋土遮之,灯火巽风,又为鼓舞,亡神须兼造化,断如丙寅、丁酉、已酉、丙寅火为无气,不失大贵,如丙寅、甲午、己已、丙寅则漂泛不安。
甲辰乙已覆灯火
覆灯火者,金盏光,玉台吐艳,照日月不照之处,明天地未明之时。此火乃人间夜明之火,以木为心,以水为油,遇阴则吉,遇阳则不利。凡日时最忌再见辰已,地支有冲,恐风吹灯灭,主夭。或以戌亥,子丑为阴,或以自未至亥为阴。五行见木为根本,凡木皆好,更得官星、禄贵相扶,干头化水,尤吉;限运遇相助,主大贵。水以井泉、涧下为真油,长流假油,妙选有暗灯添油格,即此理也;大海、河水则不可以为油,遇者主寻常。大凡此火,见水须资木,不喜长生旺气,水太泛,反凶。命值泊金照耀,最为清贵,亦须水木相资,方能显达;砂中、钗钏二金皆吉;剑锋一金,谓之灯花拂剑,尤吉;蜡金不宜。五行见土,须防克破。若壁土可以安身,屋土可以覆庇,日时并见,主福贵,砂土有木,亦主衣食,余土无用。火爱同类,却怕风吹。霹雳为龙神变化之火,必带风来,此火难存;天上、炉中二火相见,最凶。再考妙选,有魁星格、指南格,以甲辰生人,日时遇午未为是;有火土入堂格,以此火怕风,日时遇丙戌丁亥屋上土,则灯在屋中,更得添油,尤贵。
戊午己未天上火
天上火者,温暖山海,辉光宇宙,阳德丽天之照,阴精离海之明,戊午为太阳则刚,己未为太阴则柔,或以为夏日则刚,冬日则温,诬也。俱要戌亥为天门,卯酉为出入之门,东南为行陆之地则吉。此火见木谓之震折,要日时有风与水方得。大林木有辰已,松柏、石榴有卯酉,故惟此三木主贵。午见木多犹可,未三、四木,劳苦之命也。见金且能照耀,不能克济。钗金有戌亥,泊金有寅卯,主吉;剑金为耀日月之光,必主少年登第;余金则殃。水宜涧下,须戊午见丁丑,已未见丙子,阴阳交互,方为福贵,柱中更有木滋生,富贵双金;大溪有乙卯,井泉有已酉,出入得门,皆吉;天河雨露相济,不以就位克论,戌午见丁未,亦吉,丙午则不明。火爱灯头,再有别火则燥;霹雳带云雨则日月无光,故主昏蒙;炉中午忌丙寅,以午为刚火,才见丙寅,便为火生之地,若无清水解救,主犯刑凶死,丁卯稍可;土见砂中,有巽风相假;路旁、城屋皆吉,柱中更有金木相助,尤吉。考妙选,戊午遇卯,已未遇酉,为日月分秀格,而卯以乙卯、辛卯为正,已卯、丁卯次之,酉以乙酉、癸酉为正,已酉、丁酉次之;有日出扶桑格,即日分秀,再见已午日时;有日轮当表格,以戊午生于午,日逢已午日,又以戊午见戊子为坎离正位;有月生沧海格,即月分秀,而酉得乙癸是也;有月照寒潭格,是取壬癸亥子,纳音属水为潭,然必秋生为贵;有月桂芬芳格,是已未生人,柱有三、四木拱集,与桂林一枝,同桂林以少为贵,芬芳以多为贵,义各有所取也。再考凶格中,太阳损明,戊午不禁于水溢,是嫌水盛;太阴薄食,已未岂堪于土多?是嫌土重也。须如是并参,方尽其理。
丙申丁酉山下火
山下火者,草间熠耀,花理荧煌,寒林缀叶之光,隔幔点衣之彩,方朔以荧火名之,故妙选有荧火照水格,遇秋生则贵,为卿监,是以此火喜水,地支逢亥子,或纳音水更逢申酉月是也。或以山下之火最喜木与山,更得风来增辉为贵,又不以荧火论矣。大林木有辰已为风,桑柘木有癸丑为山,松柏平地最吉,更得风助,主贵,若风多吹散,主夭。水爱井泉、涧下,有木相资,主爵位崇显,大海水不宜,然有山亦应贵格。寅卯为东方木旺火生之地,只甲寅水吉,乙卯为震,有风,见之不佳。若无火无山,更加霹火,主夭。天上水为骤雨,此火不宜相见,若先得山水滋助,亦无大害。命里有金,以清秀为吉,无木多逢,以窃气论之。乙丑为山,主贵;余金若无克破,遇贵人禄马,只以财论。土见砂中,辰已有风,若有木有山加助,主大贵,无则虚名。火忌太阳,霹雳、灯头,是巽主光显大都。五行有火,须资木则吉,限数喜忌,俱依此断。
甲戌乙亥山头火
山头火者,野焚燎原,延烧极目,依稀天际斜晖,仿佛山头落日,此乃九月烧荒,衰草尽烬之火也。大概宜山木与风木,喜大林、松柏,以辰已有风,寅卯归禄,更得癸丑为山上木,主贵。无山则木无所依,火无所见,纵有风亦不光显,余木无用,只以禄马看。水宜涧下,多为交泰,主吉,井泉清水,有木助之,亦吉;大溪,甲戌见甲寅,乙亥见乙卯,却真禄俱吉;天上须有雨露,而火到午未得地,再得清水济之,不至于燥,主福,不然则夭;大海就位相克,最凶,有山逢之,稍得。日时见金为财,须有山木助之则吉,无则凶。见土惟砂中有巽,能扬此火,别土无益。大凡此火无木见害,多是下贱之命。见火炉中太炎,霹火凶害,太阳昏蒙,山下战刑,皆所不宜,命带二、三火,如限数逢木,主祸生不测,或夭,大都此火大怕刑冲。
.
#20
Gửi vào 25/06/2024 - 11:09
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Nạp âm mộc
[Chú] Nhâm tý, quý sửu, canh dần, tân mão, mậu thìn, kỷ tỵ, nhâm gọ, quý mùi, canh thân, tân dậu, mậu tuất, kỷ hợi nạp âm thuộc mộc.
Nhâm tý, quý sửu tang chá mộc
Tang chá mộc: nền tảng của lụa sặc sở, căn bản của lụa là, tay áo người dân bay bay, áo quần tươi đẹp của thánh hiền, chính mộc này để nuôi tằm, công dụng của nó rất lớn. Rất thích "sa thổ", vì đó là căn cơ, lại vì thìn tỵ là nơi để nuôi tằm, không nên bị hình, xung, phá lẫn nhau, "lộ bàng thổ", đại dịch thổ" thì tốt tiếp theo, các loại thổ còn lại thì vô ích. Thuỷ thích "thiên hà", là nương nhờ mưa và sương, các loại thuỷ "trường lưu", "khê giản", "tỉnh tuyền" đều có thể nương nhờ, tuy nhiên đầu tiên cần được thổ là cơ bản, có thêm lộc, quý nhân càng tuyệt diệu, nước của biển cả thì trôi nổi vô định, không có thổ chủ yểu. Thấy "đăng hoả", cũng vì trong thìn tỵ là vị trí gốc của tằm; "lô trung" ở dần mão, vượng địa của mộc; "thiên thượng hoả", phích lịch hoả" cùng với can chi mộc này có sự hợp hoá, có sự kỳ diệu của khảm ly giao cấu, đều tốt, nhưng mà các loại hoả này không nên gặp lại nhiều lần. Vế kim mà nói thì "sa trung" là đệ nhất, "kiếm phong" có thể cắt tỉa mộc này, là phụ, "thoa xuyến kim", "kim bạc kim" thật là thổ có nền tảng, như gặp xung phá, lại hung xấu. Mộc thích canh dần, tân mão, là điểm yếu trở nên mạnh mẽ, là nhỏ trở thành lớn, coi như cách quý để luận, cho dù không có "sa thổ", cũng tốt; "bình địa", "thạch lựu" không có thổ sẽ hung xấu; "đại lâm" chính là nợi nuôi tằm ở đông nam, có thổ là chỗ giúp đỡ về sanh trưỡng, chủ đại quý; gặp "dương liễu" là "tang liễu thành lâm" - dâu liễu thành rừng, cũng là quý cách, cần sanh vào mùa xuân, hay mùa hạ mới tốt.
Canh dần, tân mão tùng bách mộc
Tùng bách mộc: tuyết sương bắn tung tóe, cao ngất trời che trùm mặt đất, gió lay động khúc nhạc của sênh, hoàng, còn lại tinh kỳ căng to sau mưa. Mộc này ẩn dưới chữ kim, vị trí ở chánh đông chính là nơi cực vượng, rất thích sơn làm nền tảng, thuỷ để dưỡng ẩm. "Thiên hà": nước của mưa và sương có thể để dưỡng ẩm, "giản hạ" đinh sửu thuộc sơn, có thể làm nền tảng, bính tý không như "đại khê" có ất mão là sấm, có thể được vinh hoa, tức không ưa "phong" "phích", sẽ hung xấu làm tổn thương; "đại hải thuỷ" có sơn thì tốt, quý hợi là nước trong không có sơn, vẫn tốt. Nếu như trong trụ có "bình địa", có được "ốc thổ", sẽ làm thành rường cột, không cần sơn, thuỷ. Không có hai món này, chính là mộc vượng trên núi, đều cần có sơn, thuỷ. Trong mệnh có hoả, rất kỵ "lô trung", tương sanh ngay tại chỗ, lại có thêm "phong mộc", tro bay khói tuyệt, ngũ hành không có thuỷ, chủ yểu chiết; "sơn đầu", "sơn hạ", "thái dương", "phúc đăng" đều không thể xâm phạm; người tuổi dần càng kỵ mậu ngọ, bính dần, lý do mộc không nên có vận đi về phương nam, nguyên vì dần ngọ tam hợp hoả cục, còn tân mão thì không sao; "phích hoả" tuy có thể sanh sôi nẩy nở, vận có thêm hoả thường, chủ hung xấu. Thổ: gặp "lộ bàng", có vẻ không đủ quý, nếu không có "tử mộc", phúc lành của nó lại là thật; "dịch thổ" không có sơn thì nghèo và yểu, có thêm "hải thuỷ" thì cáng xấu. Kim: gặp ất sửu là ấn là sơn; "bạc kim" tự vượng ở ngay chỗ, chủ tốt; "kiếm phong" có thể đẽo gọt, chặt đốn, được thêm "bích thổ" bổ sung cho nhau, "tùng bách" nương dựa lẫn nhau, chủ quý. "Đại lâm" có phong, "dương liễu" sẽ thành hoả, hai loại mộc này rất kỵ; "tang chá" quý sửu là sơn, có thể trợ giúp nhau; "thạch lựu" thì tân dậu kim chuyến biến "tử mộc", có phúc lành, hạnh vận, tức là tốt lành. Chọn lựa kỳ diệu có cách "thương tùng đông tú" - tùng xanh tươi tốt mùa đông, vì thế người sanh mộc này mà nguyệt, nhật, thời thuộc ba tháng mùa đông là quý; có hai cách nhật hợp tân mão, hay nhật là canh dần, cho dù thủ mậu ngọ, kỷ tỵ sanh vào mùa hạ, mùa thu, nhưng vẫn chuyên luận mộc này là quý.
Mậu thìn, kỷ tỵ đại lâm mộc
Đại lâm mộc: cành cây có can hệ vào lay động gió, cành cây chống đỡ mặt trăng, công đức của rãnh cao chót vót ngang trời, công lao của mây cao vút che khuất mặt trời. Mộc này sanh ở phương đông nam, khoảng mùa xuân và mùa hè giao tiếp, nuôi lớn lên thành rừng, kim nương tựa cấn thổ làm nguồn, quý sửu là sơn, tam mệnh không bị phá hãm, là phúc dày, quyền quý nhất, mậu thìn là trên hết, kế đến mới là kỷ tỵ. Thổ: gặp "lộ bàng", đảm nhiệm nâng đỡ, nên mậu thìn gặp tân mùi thì quý, kỷ tỵ gặp canh ngọ là lộc, chủ giàu; "bích", "ốc" hai thổ lại được "kiếm kim", thì mộc của "đại lâm" chọn trở thành rường cột, thành cách rất tốt, không có vậy là cây của rừng tươi tốt trên núi. Mộc này không luận sống chết, đều muốn gặp thổ, như người kỷ gặp giáp tuy nói rằng hoá thổ, nhưng không như thìn, tuất, sửu, mùi, thổ cục bao bọc kim thì kỳ diệu. Nếu như mộc này đã chết tại dưới chân núi; bị giáp tuất, ất hợi đốt cháy, chủ hung xấu và yểu; "đăng hoả" tương sanh tại chỗ, ất tỵ không bằng giáp thìn càng tốt; "phích lịch", "thái dương" hai loại hoả đều có thể nuôi lớn trong vận, gặp được vậy cũng tốt, nhưng hai hoả gần như không gặp cùng lúc, giữ gìn ưu thế đều cần có thổ làm nên tảng mới tốt. Thuỷ: gặp "thiên hà", mậu thìn gặp đinh mùi hiện ra vẻ quý, cho dù không có thổ với sơn cũng chủ được ăn mặc sung túc, tức là cách "linh tra nhập thiên hà", sanh mùa thu, mùa động tử tuyệt mới đúng; "khê", "hải" hai thuỷ gặp nhiều lần, chủ nghèo và yểu, có sơn được lợi ích một chút. Chọn lựa thần kỳ có cách "thương long giá hải", là mậu thìn thấy quý hợithi2 quý, "giản hạ" đinh sửu rất tốt, bính tý thì không bằng. Các loại kim đều không nên gặp, "hải trung" có ất sửu là sơn, "kiếm phong" được "ốc", "bích" làm gốc, các loại kim còn lại thì vô dụng, gặp phải chủ thấp hèm và yểu. Mộc: thích "tang chá", chỉ có quý sửu rất là kỳ diệu; "bình địa" cần được "lộ bàng thổ", gọi là "bình lâm tại dã"; "tùng bách" phương đông là nơi sanh vượng, trụ có quý sửu nên được mà được "tùng bách" là bóng cây rậm rạp, rất là tốt đẹp.
Nhâm ngọ, quý mùi dương liễu mộc
Dương liễu mộc: rơi xuống bờ đê xinh xắn yểu điệu, hán viên nhẹ nhàng thướt tha, vạn sợi gai không phải tơ tằm, ngàn cành nhỏ dài mà không phải kim châm, mộc tử và mộ ở ngọ, mùi, nhâm quý mộc tự dưỡng ẩm. Mộc này căn bản chỉ thích "sa thổ", thấy cấn sơn thì dựa vào kim lay động, gặp dần mão phương đông là đắc địa; tân sửu có sơn, canh tý thì không bằng; mậu dần tuy là tốt, kỷ mão càng ưu thế hơn; bính thìn, đinh tỵ thì không thíchtuat61 hợi đối xung; nếu gặp "đại dịch", có sửu là trạm bên ven núi, cũng được một chút tốt đẹp, không có sửu chỉ thấy thổ này, chủ thấp hèn và yểu; "lộ bàng" cùng chỗ, lại là "tử", "mộ", ngày giờ gặp phải hèn hạ, yếu kém; "ốc thổ" nhâm ngọ gặp đinh hợi, đinh nhâm hợp hoá thì tốt, bính tuất không bằng. Thuỷ: thấy "tỉnh tuyền", "trường lưu", "đại khê", "giản hạ" tất cả đều tốt, ở giữa lại chia thành vị trí kết hợp, càng tốt. Bính ngọ, đinh mùi, bính đinh là hoả thật sự, ngọ mùi cũng là hoả, mộc này đến ngọ mùi là "tử", "mộ", nhâm ngọ gặp phải rất là hung xấu, quý có một vài khác biệt, thuỷ cứu giúp nên không hại gì; mộc này ngọ mùi đã tự có hoả, gặp thêm hoả khác, e dẫn tới tổn thương tuổi thọ, "đăng đầu" ất tỵ có gió làm gãy mộc, chủ yểu; "lô trung" ngồi ở dần mão, mộc vượng trái lại tốt đẹp; "phích hoả" như nhâm ngọ gặp kỷ sửu, quý mùi gặp mậu tý, âm dương giao ngộ, có thêm "sa thổ" làm nên tảng, chủ quý, nếu tý ngọ sửu mùi đối xung thì không tốt. Kim: thấy mộc không có phúc lành, "kim bạc" thì thích thành công, "hải", "chá", "kiếm", "sa" tuy là kỵ gặp phải, tuỳ nặng nhẹ của nó mà là lộc, quý, đức, sát, nghiên cứu tốt đẹp của "tùng bách mộc" là cách "thoát thể hoá thần", chủ quý. "Tang chá" quý sửu là sơn, coi là chỗ dựa bên cạnh thành rừng, chủ tốt; canh thân, tân dậu mộc đã tử, tuyệt, lại gặp kim khắc, vì yếu kém mà gặp nhỏ, người đó chắc chắn thấp hèn. Tuyển chọn kỳ diệu có cách "hoa hồng liễu lộc", là vì mộc này gặp "thạch lựu", sanh vào mùa xuân, mùa hè, không luận thấp hèn; có cách "dương liễu tha kim" là vì mộc này sanh ở ba tháng mùa xuân mà giờ được toàn kim, tân hợi, giáp tý, quý mão, tân tỵ rất là tốt đẹp, chính là nơi lộc, quý của nhâm quý.
Canh thân, tân dậu thạch lựu mộc
Thạch lựu mộc: vị cay như gừng, hoa đỏ như lửa, ngọn có nhiều nhánh, nhiều hạt, tích luỹ nhiều con, đá đẹp trong phòng, can chi toàn là kim mà nạp âm lại thuộc mộc, chính là biến hoá của mộc. Có thể chuyển vào trong một cái chậu để tạo thành một ngọn núi, cho nên thích thổ của đồ gốm, vì là nền tảng, "thành đầu" là tốt nhất, "ốc" thì tốt tiếp theo, tuy nhiên phải có âm dương giao kiến chính là bính tân đinh canh hỗ quan, mậu tân tỵ dần hỗ ấn, chủ tốt; bốn thổ "lộ", "bích", "dịch", "sa" có sơn trợ giúp, cũng tốt, hỏi làm sao mà vô ích? Gặp kim "sa trung" rất tốt, "bạc kim" can chi là thuỷ mộc mà nạp âm là kim, "lựu mộc" can chi là kim mà nạp âm là mộc, đều thoát bỏ bản chất mà thay đổi lẫn nhau nương về thịnh vượng, vì mộc vượng ở dần mão, kim vượng ở thân dậu, mỗi thứ được ở vị trí của mình, gọi là cách "công mâu tạo hoá", chủ đại quý; "hải trung" ất sửu là sơn, gặp thêm thuỷ trợ giúp sẽ tốt, hoặc "bích thượng", "thành đầu", dù cho gặp "kiếm phong" là khắc nhau ngay tại chỗ, rất hung xấu, nếu trước tiên có "sa kim", có thể chế được hoạ hại của nó, cũng không là tai hoạ. Thuỷ: thấy "thiên hà", mưa và sương nuôi dưỡng nhau, "tỉnh tuyền", "khê giản" nước trong tưới vào, "đại hải" tràn ngập thái quá, chẳng phải nghèo thì cũng yểu, có cấn thổ được một chút lợi lạc. "Thái dương", "phích lịch" hai hoả tuy thích, không nên gặp cùng lúc; "lô trung" dần mão ở vị trí vượng, vốn là tốt, lại gặp hoả khác sẽ là hung xấu. Nếu như mộc này sanh vào tháng năm, ngày giờ chỉ có một hoả, gọi là "thạch lựu" phún lửa, chủ quý. "Tang chá", "đại lâm", dương liễu" ba loại mộc đều thích gặp được, gặp "đại lâm" mậu thìn thoát thân, gặp "dương liễu" hoa đỏ liễu xanh, đều chủ công danh; gặp "tng chá" quý sửu là sơn, thấy "tùng bách thì kiên nghị, thấy "bình địa" thì lớn lao, nếu không có vật khác kề bên hay lẫn lộn, thì lộc sẽ bao quanh vòng tròn đỏ, cũng chủ được phú quý, như được "thành thổ" làm nền tảng, vận thuỷ trợ giúp, được phúc nhàn rỗi, ung dung, rất là lâu bền.
Mậu tuất, kỷ hợi bình địa mộc
"Bình địa mộc": đầu tiên nẩy mầm, bắt đầu lộ cành nhánh, chỉ nương nhờ công lao của mưa móc, không thích tuyết sương chồng chất lâu ngày, đây chính là tài giỏi của thổ ở trên, nhà gỗ của nhân gian. Mậu tuất là cột trụ chính trong nhà, kỷ hợi là xà nhà, rất thích hợp nhìn thấy trao đổi với nhau, đều lấy thổ làm nền tảng, thổ ưa "lộ bàng" là cách thích hợp, gặp thêm tý ngọ, càng quý, vì tý ngọ là trụ chánh của trời đất; "ốc", "bích", "thành đầu" ba loại thổ lấy mộc này nương nhờ nhau, làm môi giới để thăng hoá, càng tốt; "sa", "dịch" không hiệu quả, nhật thời gặp phải, chủ tai hoạ; "thái dương", "phích lịch" rất là hiển diệu, "lô trung" gặp thuỷ sẽ là phúc, "đăng đầu" không có phong thì vững vàng, các hoả còn lại không có thuỷ sẽ hung; đấy là mộc đã thành, không thích hợp "kiếm phong", có mộc nương nhờ nhau sẽ tốt đẹp; "bạc kim" tô điểm thêm rực rỡ, lại thêm thiên can hợp, địa chi vượng, có thêm "bàng thổ" làm nền tảng, chủ đị quý. Các kim còn lại không ích lợi. Thuỷ: thấy "thiên hà", là thấm nhuần, chủ tốt lành; "khê", "hải" không có sơn đều hung xấu; "tỉnh tuyền", "giản hạ" tuy rằng tốt lành, chấp nhận giáp thân hợp đinh sửu làm sơn, gặp vậy thì cáng tốt lành. Mộc: thấy "đại lâm", có phong dao động chủ thọ xúc; "tang chá" quý sửu rất tốt, người nhâm tý, kỷ hợi gặp được thì quý, người mậu tuất không đảm đương nổi; "tùng bách mộc" dựa vào "bình địa" giúp đỡ làm rường cột, càng thêm thổ trợ giúp, chủ quý. Đại khái, mộc này ghét kim mà thích thuỷ, thổ, nếu sanh lúc ba tháng mùa đông, có được dần mão là "hàn cốc hồi xuân", cũng luận là quý.
纳音木
[注]壬子、癸丑、庚寅、辛卯、戊辰、己巳、壬午、癸未、庚申、辛酉、戊戍、己亥纳音属木。
壬子癸丑桑柘木
桑柘木者,缯彩镒基,绮罗根本,士民飘飘之袂,圣贤楚楚之衣,此木供蚕为弧,其用甚大。最爱砂土,以为根基,又以辰已为蚕食之地,不宜刑冲互破,路旁、大驿二土次吉,余土无益。水喜天河,为雨露之滋,长流、溪涧、井泉诸水皆可相依,亦须先得土为基,更加禄贵为妙,沧海水漂泛无定,无土主夭。见火灯头最吉,亦以辰已之中为蚕位故也;炉中位居寅卯,木之旺地;天上、霹雳二火与此木干支有合化之情,有坎离交媾之妙,俱吉,但诸火不宜叠见。以金言之,砂中第一,剑锋能修整此木,为次,钗泊二金须得土为基,如逢冲破,又凶。木喜庚寅辛卯,为以弱就强,以小变大,作贵格论,纵无砂土,亦吉;平地、石榴,无土则凶;大林乃东南蚕食之位,有土资生,主大贵;遇杨柳为桑柳成林,亦是贵格,须生春夏方吉。
庚寅辛卯松柏木
松柏木者,泼雪凑霜,参天覆地,风撼笙篁之奏,雨余旌旆之张。此木藏居金下,位列正东,乃为极旺,最喜山为根基,水为滋润。天河雨露之水可以滋润,涧下丁丑属山,可为根基,丙子不如大溪有乙卯为雷,可以发荣,却嫌风霹,有损折之凶;大海水有山则吉,癸亥清静无山,亦吉。若柱有平地,得屋土,则为已成栋梁,无用山水。无此二件,乃山间之茂木也,须要山水。命中有火,最忌炉中,就位相生,再加风木,灰飞烟灭,五行无水,主夭折;山头、山下、太阳、覆灯皆不可犯;寅人尤忌戊午、丙寅,以木不南奔,寅午三合火局故也,辛卯无害;霹火虽可滋生,运加凡火,主凶。土见路旁,似无足贵,若无死木,其福还真;驿土无山贫夭,更加海水,尤凶。金逢乙丑,为印为山;泊金就位自旺,主吉;剑锋能削能斫,更得壁土相成,松柏相资,主贵。大林有风,杨柳会火,二木最忌;桑柘癸丑为山,可以相助;石榴是辛酉金反化死木,有造化,却吉。妙选有苍松冬秀格,是以此木生人月日时属三冬为贵;有日合辛卯、日值庚寅二格,虽取戊午已未,生居夏秋,然专论此木为贵。
戊辰己巳大林木
大林木者,枝干撼风,柯条撑月,耸壑昂霄之德,凌云蔽日之功。此木生居东南,春夏之交,长养成林,金假艮土为源,癸丑为山,三命无破陷,最为福厚权贵,戊辰为上,己巳次之。土遇路旁,为负载,戊辰见辛未为贵,己巳见庚午为禄,主富;壁、屋二土,再得剑金,则大林之木取为栋梁,成格最吉,无此乃山间茂林之木也。此木无论死活,皆欲见土,如己人见甲,虽云化土,然不如辰戌丑未,土局纯金为妙。若此木已死在山之下;见甲戌乙亥烧之,主凶夭;灯火就位相生,乙巳不如甲辰更吉;霹雳、太阳二火皆能长育运中,遇之亦吉,然二火嫌并见,持胜须有土为根基方可。水见天河,戊辰见丁未带贵,虽无土与山,亦主有衣食,即灵槎入天河格也,生秋冬死绝方是;溪、海二水重见,主贫夭,有山稍得。妙选有苍龙驾海格,是戊辰见癸亥为贵,涧下丁丑最吉,丙子不如。诸金俱不宜见,海中有乙丑为山,剑锋得屋壁为本,余金无用,逢之主夭贱。木喜桑柘,唯癸丑最妙;平地还须得路旁土,谓之平林在野;松柏,东方生旺之地,柱有癸丑而得松柏为密荫,最佳。
壬午癸未杨柳木
杨柳木者,隋堤袅娜,汉苑轻盈,万缕不蚕之丝,千条不针之带,午未木之死墓,壬癸木之滋润。此木根基唯喜砂土,见艮山则依倚摇金,遇寅卯东方得地;辛丑有山,庚子不如;戊寅虽吉,已卯尤胜;丙辰丁已却嫌戌亥对冲;若见大驿,有丑为山边之驿,稍可,无丑独见此土,主夭贱;路旁就位,复值死墓,日时遇之,主人卑弱;屋土壬午见丁亥,丁壬合化则吉,丙戌不如。水见井泉、长流、大溪、涧下皆吉,中间又分合化之位,尤吉。丙午丁未,丙丁真火,午未亦火,此木至午未死墓,壬午见之,大凶,癸庶几有别,水济之无害;此木午未已自有火,更见别火,恐引起伤寿,灯头乙已有风木折,主夭;炉中寅卯本位,木旺反吉;霹火如壬午见己丑,癸未见戊子,阴阳交遇,更有砂土为基,主贵,若子午丑未对冲则不为吉。金见木无造化,钗钏、金泊却喜成功,海、蜡、剑、砂虽忌见之,其间轻重当以禄贵德煞,参祥见松柏木,为脱体化神之格也,主贵。桑柘癸丑为山,作倚傍成林,主吉;庚申辛酉木既死绝,又逢金克,以弱遇小,其人必贱。妙选有花红柳禄格,是以此木遇石榴,生于春夏,不以贱论;有杨柳拖金格,是以此木生于三春而时得一金,辛亥、甲子、癸卯、辛已最妙,乃壬癸禄贵之地故也。
庚申辛酉石榴木
石榴木者,性辛如姜,花红似火,数颗枝头,累累多子,房内莹莹,干支纯金而纳音属木,乃木之变者也。可以移盆内而妆做山,故喜成器之土,以为根基,城头为上,屋上次之,然必阴阳交见,则丙辛丁庚互官,戊辛已寅互印,主吉;路、壁、驿、砂四土有山助之,亦吉,若无何用?见金砂中最吉,泊金干支水木而纳音金,榴木干支金而纳音木,皆脱去本性而互换归旺,以木旺寅卯,金旺申酉,各得其位,谓之功侔造化格,主大贵;海中乙丑为山,更逢水助则吉,或壁上,城头,亦得剑锋,就位相克,最凶,若先有砂金,能制其毒,亦不为害。水见天河,雨露相滋,井泉、溪涧,清水浇灌,大海太泛滥,非贫则夭,有艮土稍得。太阳、霹雳二火虽喜,不宜并见;炉中寅卯旺位,本吉,再加别火则凶。若此木生于五月,日时止带一火,谓之石榴喷火,主贵。桑柘、大林、杨柳三木皆喜见之,见大林戊辰脱体,见杨柳花红柳绿,皆主功名;见桑柘癸丑为山,见松柏则强,见平地则大,若无别物夹杂,则禄绕红围,亦主富贵,如得城土为基,水运为助,享福优游,最为长久。
戊戌己亥平地木
平地木者,初生萌蘖,始发枝条,唯资雨露之功,不喜雪霜之积,此乃地上之茂材,人间之屋木。戊戌为栋,已亥为梁,最宜互换见之,须以土为基,土爱路旁,为正格,更逢子午,尤贵,以子午为天地正柱故也;屋、壁、城头三土以此木相资,中间有升化,尤吉;砂、驿无用,日时见之,主灾;太阳、霹雳,最为显耀,炉中遇水则福,灯头无风则固,余火无水则凶;此已成之木,不宜剑金,有木相资则可;泊金增饰光辉,又天干合,地支旺,更有旁土为基,主大贵。余金无用。水见天河,为润泽,主吉;溪、海无山俱凶;井泉、涧下虽吉,内甲申合丁丑为山,遇之尤吉。木见大林,有风摇动,主寿促;桑柘癸丑最吉,壬子己亥人见之为贵,戊戌人不堪;松柏木倚辅平地为栋梁,更有土助,主贵。大抵此木恶金而喜水、土,若生三冬时,得寅卯为寒谷回春,亦贵论也。
.
Nạp âm mộc
[Chú] Nhâm tý, quý sửu, canh dần, tân mão, mậu thìn, kỷ tỵ, nhâm gọ, quý mùi, canh thân, tân dậu, mậu tuất, kỷ hợi nạp âm thuộc mộc.
Nhâm tý, quý sửu tang chá mộc
Tang chá mộc: nền tảng của lụa sặc sở, căn bản của lụa là, tay áo người dân bay bay, áo quần tươi đẹp của thánh hiền, chính mộc này để nuôi tằm, công dụng của nó rất lớn. Rất thích "sa thổ", vì đó là căn cơ, lại vì thìn tỵ là nơi để nuôi tằm, không nên bị hình, xung, phá lẫn nhau, "lộ bàng thổ", đại dịch thổ" thì tốt tiếp theo, các loại thổ còn lại thì vô ích. Thuỷ thích "thiên hà", là nương nhờ mưa và sương, các loại thuỷ "trường lưu", "khê giản", "tỉnh tuyền" đều có thể nương nhờ, tuy nhiên đầu tiên cần được thổ là cơ bản, có thêm lộc, quý nhân càng tuyệt diệu, nước của biển cả thì trôi nổi vô định, không có thổ chủ yểu. Thấy "đăng hoả", cũng vì trong thìn tỵ là vị trí gốc của tằm; "lô trung" ở dần mão, vượng địa của mộc; "thiên thượng hoả", phích lịch hoả" cùng với can chi mộc này có sự hợp hoá, có sự kỳ diệu của khảm ly giao cấu, đều tốt, nhưng mà các loại hoả này không nên gặp lại nhiều lần. Vế kim mà nói thì "sa trung" là đệ nhất, "kiếm phong" có thể cắt tỉa mộc này, là phụ, "thoa xuyến kim", "kim bạc kim" thật là thổ có nền tảng, như gặp xung phá, lại hung xấu. Mộc thích canh dần, tân mão, là điểm yếu trở nên mạnh mẽ, là nhỏ trở thành lớn, coi như cách quý để luận, cho dù không có "sa thổ", cũng tốt; "bình địa", "thạch lựu" không có thổ sẽ hung xấu; "đại lâm" chính là nợi nuôi tằm ở đông nam, có thổ là chỗ giúp đỡ về sanh trưỡng, chủ đại quý; gặp "dương liễu" là "tang liễu thành lâm" - dâu liễu thành rừng, cũng là quý cách, cần sanh vào mùa xuân, hay mùa hạ mới tốt.
Canh dần, tân mão tùng bách mộc
Tùng bách mộc: tuyết sương bắn tung tóe, cao ngất trời che trùm mặt đất, gió lay động khúc nhạc của sênh, hoàng, còn lại tinh kỳ căng to sau mưa. Mộc này ẩn dưới chữ kim, vị trí ở chánh đông chính là nơi cực vượng, rất thích sơn làm nền tảng, thuỷ để dưỡng ẩm. "Thiên hà": nước của mưa và sương có thể để dưỡng ẩm, "giản hạ" đinh sửu thuộc sơn, có thể làm nền tảng, bính tý không như "đại khê" có ất mão là sấm, có thể được vinh hoa, tức không ưa "phong" "phích", sẽ hung xấu làm tổn thương; "đại hải thuỷ" có sơn thì tốt, quý hợi là nước trong không có sơn, vẫn tốt. Nếu như trong trụ có "bình địa", có được "ốc thổ", sẽ làm thành rường cột, không cần sơn, thuỷ. Không có hai món này, chính là mộc vượng trên núi, đều cần có sơn, thuỷ. Trong mệnh có hoả, rất kỵ "lô trung", tương sanh ngay tại chỗ, lại có thêm "phong mộc", tro bay khói tuyệt, ngũ hành không có thuỷ, chủ yểu chiết; "sơn đầu", "sơn hạ", "thái dương", "phúc đăng" đều không thể xâm phạm; người tuổi dần càng kỵ mậu ngọ, bính dần, lý do mộc không nên có vận đi về phương nam, nguyên vì dần ngọ tam hợp hoả cục, còn tân mão thì không sao; "phích hoả" tuy có thể sanh sôi nẩy nở, vận có thêm hoả thường, chủ hung xấu. Thổ: gặp "lộ bàng", có vẻ không đủ quý, nếu không có "tử mộc", phúc lành của nó lại là thật; "dịch thổ" không có sơn thì nghèo và yểu, có thêm "hải thuỷ" thì cáng xấu. Kim: gặp ất sửu là ấn là sơn; "bạc kim" tự vượng ở ngay chỗ, chủ tốt; "kiếm phong" có thể đẽo gọt, chặt đốn, được thêm "bích thổ" bổ sung cho nhau, "tùng bách" nương dựa lẫn nhau, chủ quý. "Đại lâm" có phong, "dương liễu" sẽ thành hoả, hai loại mộc này rất kỵ; "tang chá" quý sửu là sơn, có thể trợ giúp nhau; "thạch lựu" thì tân dậu kim chuyến biến "tử mộc", có phúc lành, hạnh vận, tức là tốt lành. Chọn lựa kỳ diệu có cách "thương tùng đông tú" - tùng xanh tươi tốt mùa đông, vì thế người sanh mộc này mà nguyệt, nhật, thời thuộc ba tháng mùa đông là quý; có hai cách nhật hợp tân mão, hay nhật là canh dần, cho dù thủ mậu ngọ, kỷ tỵ sanh vào mùa hạ, mùa thu, nhưng vẫn chuyên luận mộc này là quý.
Mậu thìn, kỷ tỵ đại lâm mộc
Đại lâm mộc: cành cây có can hệ vào lay động gió, cành cây chống đỡ mặt trăng, công đức của rãnh cao chót vót ngang trời, công lao của mây cao vút che khuất mặt trời. Mộc này sanh ở phương đông nam, khoảng mùa xuân và mùa hè giao tiếp, nuôi lớn lên thành rừng, kim nương tựa cấn thổ làm nguồn, quý sửu là sơn, tam mệnh không bị phá hãm, là phúc dày, quyền quý nhất, mậu thìn là trên hết, kế đến mới là kỷ tỵ. Thổ: gặp "lộ bàng", đảm nhiệm nâng đỡ, nên mậu thìn gặp tân mùi thì quý, kỷ tỵ gặp canh ngọ là lộc, chủ giàu; "bích", "ốc" hai thổ lại được "kiếm kim", thì mộc của "đại lâm" chọn trở thành rường cột, thành cách rất tốt, không có vậy là cây của rừng tươi tốt trên núi. Mộc này không luận sống chết, đều muốn gặp thổ, như người kỷ gặp giáp tuy nói rằng hoá thổ, nhưng không như thìn, tuất, sửu, mùi, thổ cục bao bọc kim thì kỳ diệu. Nếu như mộc này đã chết tại dưới chân núi; bị giáp tuất, ất hợi đốt cháy, chủ hung xấu và yểu; "đăng hoả" tương sanh tại chỗ, ất tỵ không bằng giáp thìn càng tốt; "phích lịch", "thái dương" hai loại hoả đều có thể nuôi lớn trong vận, gặp được vậy cũng tốt, nhưng hai hoả gần như không gặp cùng lúc, giữ gìn ưu thế đều cần có thổ làm nên tảng mới tốt. Thuỷ: gặp "thiên hà", mậu thìn gặp đinh mùi hiện ra vẻ quý, cho dù không có thổ với sơn cũng chủ được ăn mặc sung túc, tức là cách "linh tra nhập thiên hà", sanh mùa thu, mùa động tử tuyệt mới đúng; "khê", "hải" hai thuỷ gặp nhiều lần, chủ nghèo và yểu, có sơn được lợi ích một chút. Chọn lựa thần kỳ có cách "thương long giá hải", là mậu thìn thấy quý hợithi2 quý, "giản hạ" đinh sửu rất tốt, bính tý thì không bằng. Các loại kim đều không nên gặp, "hải trung" có ất sửu là sơn, "kiếm phong" được "ốc", "bích" làm gốc, các loại kim còn lại thì vô dụng, gặp phải chủ thấp hèm và yểu. Mộc: thích "tang chá", chỉ có quý sửu rất là kỳ diệu; "bình địa" cần được "lộ bàng thổ", gọi là "bình lâm tại dã"; "tùng bách" phương đông là nơi sanh vượng, trụ có quý sửu nên được mà được "tùng bách" là bóng cây rậm rạp, rất là tốt đẹp.
Nhâm ngọ, quý mùi dương liễu mộc
Dương liễu mộc: rơi xuống bờ đê xinh xắn yểu điệu, hán viên nhẹ nhàng thướt tha, vạn sợi gai không phải tơ tằm, ngàn cành nhỏ dài mà không phải kim châm, mộc tử và mộ ở ngọ, mùi, nhâm quý mộc tự dưỡng ẩm. Mộc này căn bản chỉ thích "sa thổ", thấy cấn sơn thì dựa vào kim lay động, gặp dần mão phương đông là đắc địa; tân sửu có sơn, canh tý thì không bằng; mậu dần tuy là tốt, kỷ mão càng ưu thế hơn; bính thìn, đinh tỵ thì không thíchtuat61 hợi đối xung; nếu gặp "đại dịch", có sửu là trạm bên ven núi, cũng được một chút tốt đẹp, không có sửu chỉ thấy thổ này, chủ thấp hèn và yểu; "lộ bàng" cùng chỗ, lại là "tử", "mộ", ngày giờ gặp phải hèn hạ, yếu kém; "ốc thổ" nhâm ngọ gặp đinh hợi, đinh nhâm hợp hoá thì tốt, bính tuất không bằng. Thuỷ: thấy "tỉnh tuyền", "trường lưu", "đại khê", "giản hạ" tất cả đều tốt, ở giữa lại chia thành vị trí kết hợp, càng tốt. Bính ngọ, đinh mùi, bính đinh là hoả thật sự, ngọ mùi cũng là hoả, mộc này đến ngọ mùi là "tử", "mộ", nhâm ngọ gặp phải rất là hung xấu, quý có một vài khác biệt, thuỷ cứu giúp nên không hại gì; mộc này ngọ mùi đã tự có hoả, gặp thêm hoả khác, e dẫn tới tổn thương tuổi thọ, "đăng đầu" ất tỵ có gió làm gãy mộc, chủ yểu; "lô trung" ngồi ở dần mão, mộc vượng trái lại tốt đẹp; "phích hoả" như nhâm ngọ gặp kỷ sửu, quý mùi gặp mậu tý, âm dương giao ngộ, có thêm "sa thổ" làm nên tảng, chủ quý, nếu tý ngọ sửu mùi đối xung thì không tốt. Kim: thấy mộc không có phúc lành, "kim bạc" thì thích thành công, "hải", "chá", "kiếm", "sa" tuy là kỵ gặp phải, tuỳ nặng nhẹ của nó mà là lộc, quý, đức, sát, nghiên cứu tốt đẹp của "tùng bách mộc" là cách "thoát thể hoá thần", chủ quý. "Tang chá" quý sửu là sơn, coi là chỗ dựa bên cạnh thành rừng, chủ tốt; canh thân, tân dậu mộc đã tử, tuyệt, lại gặp kim khắc, vì yếu kém mà gặp nhỏ, người đó chắc chắn thấp hèn. Tuyển chọn kỳ diệu có cách "hoa hồng liễu lộc", là vì mộc này gặp "thạch lựu", sanh vào mùa xuân, mùa hè, không luận thấp hèn; có cách "dương liễu tha kim" là vì mộc này sanh ở ba tháng mùa xuân mà giờ được toàn kim, tân hợi, giáp tý, quý mão, tân tỵ rất là tốt đẹp, chính là nơi lộc, quý của nhâm quý.
Canh thân, tân dậu thạch lựu mộc
Thạch lựu mộc: vị cay như gừng, hoa đỏ như lửa, ngọn có nhiều nhánh, nhiều hạt, tích luỹ nhiều con, đá đẹp trong phòng, can chi toàn là kim mà nạp âm lại thuộc mộc, chính là biến hoá của mộc. Có thể chuyển vào trong một cái chậu để tạo thành một ngọn núi, cho nên thích thổ của đồ gốm, vì là nền tảng, "thành đầu" là tốt nhất, "ốc" thì tốt tiếp theo, tuy nhiên phải có âm dương giao kiến chính là bính tân đinh canh hỗ quan, mậu tân tỵ dần hỗ ấn, chủ tốt; bốn thổ "lộ", "bích", "dịch", "sa" có sơn trợ giúp, cũng tốt, hỏi làm sao mà vô ích? Gặp kim "sa trung" rất tốt, "bạc kim" can chi là thuỷ mộc mà nạp âm là kim, "lựu mộc" can chi là kim mà nạp âm là mộc, đều thoát bỏ bản chất mà thay đổi lẫn nhau nương về thịnh vượng, vì mộc vượng ở dần mão, kim vượng ở thân dậu, mỗi thứ được ở vị trí của mình, gọi là cách "công mâu tạo hoá", chủ đại quý; "hải trung" ất sửu là sơn, gặp thêm thuỷ trợ giúp sẽ tốt, hoặc "bích thượng", "thành đầu", dù cho gặp "kiếm phong" là khắc nhau ngay tại chỗ, rất hung xấu, nếu trước tiên có "sa kim", có thể chế được hoạ hại của nó, cũng không là tai hoạ. Thuỷ: thấy "thiên hà", mưa và sương nuôi dưỡng nhau, "tỉnh tuyền", "khê giản" nước trong tưới vào, "đại hải" tràn ngập thái quá, chẳng phải nghèo thì cũng yểu, có cấn thổ được một chút lợi lạc. "Thái dương", "phích lịch" hai hoả tuy thích, không nên gặp cùng lúc; "lô trung" dần mão ở vị trí vượng, vốn là tốt, lại gặp hoả khác sẽ là hung xấu. Nếu như mộc này sanh vào tháng năm, ngày giờ chỉ có một hoả, gọi là "thạch lựu" phún lửa, chủ quý. "Tang chá", "đại lâm", dương liễu" ba loại mộc đều thích gặp được, gặp "đại lâm" mậu thìn thoát thân, gặp "dương liễu" hoa đỏ liễu xanh, đều chủ công danh; gặp "tng chá" quý sửu là sơn, thấy "tùng bách thì kiên nghị, thấy "bình địa" thì lớn lao, nếu không có vật khác kề bên hay lẫn lộn, thì lộc sẽ bao quanh vòng tròn đỏ, cũng chủ được phú quý, như được "thành thổ" làm nền tảng, vận thuỷ trợ giúp, được phúc nhàn rỗi, ung dung, rất là lâu bền.
Mậu tuất, kỷ hợi bình địa mộc
"Bình địa mộc": đầu tiên nẩy mầm, bắt đầu lộ cành nhánh, chỉ nương nhờ công lao của mưa móc, không thích tuyết sương chồng chất lâu ngày, đây chính là tài giỏi của thổ ở trên, nhà gỗ của nhân gian. Mậu tuất là cột trụ chính trong nhà, kỷ hợi là xà nhà, rất thích hợp nhìn thấy trao đổi với nhau, đều lấy thổ làm nền tảng, thổ ưa "lộ bàng" là cách thích hợp, gặp thêm tý ngọ, càng quý, vì tý ngọ là trụ chánh của trời đất; "ốc", "bích", "thành đầu" ba loại thổ lấy mộc này nương nhờ nhau, làm môi giới để thăng hoá, càng tốt; "sa", "dịch" không hiệu quả, nhật thời gặp phải, chủ tai hoạ; "thái dương", "phích lịch" rất là hiển diệu, "lô trung" gặp thuỷ sẽ là phúc, "đăng đầu" không có phong thì vững vàng, các hoả còn lại không có thuỷ sẽ hung; đấy là mộc đã thành, không thích hợp "kiếm phong", có mộc nương nhờ nhau sẽ tốt đẹp; "bạc kim" tô điểm thêm rực rỡ, lại thêm thiên can hợp, địa chi vượng, có thêm "bàng thổ" làm nền tảng, chủ đị quý. Các kim còn lại không ích lợi. Thuỷ: thấy "thiên hà", là thấm nhuần, chủ tốt lành; "khê", "hải" không có sơn đều hung xấu; "tỉnh tuyền", "giản hạ" tuy rằng tốt lành, chấp nhận giáp thân hợp đinh sửu làm sơn, gặp vậy thì cáng tốt lành. Mộc: thấy "đại lâm", có phong dao động chủ thọ xúc; "tang chá" quý sửu rất tốt, người nhâm tý, kỷ hợi gặp được thì quý, người mậu tuất không đảm đương nổi; "tùng bách mộc" dựa vào "bình địa" giúp đỡ làm rường cột, càng thêm thổ trợ giúp, chủ quý. Đại khái, mộc này ghét kim mà thích thuỷ, thổ, nếu sanh lúc ba tháng mùa đông, có được dần mão là "hàn cốc hồi xuân", cũng luận là quý.
纳音木
[注]壬子、癸丑、庚寅、辛卯、戊辰、己巳、壬午、癸未、庚申、辛酉、戊戍、己亥纳音属木。
壬子癸丑桑柘木
桑柘木者,缯彩镒基,绮罗根本,士民飘飘之袂,圣贤楚楚之衣,此木供蚕为弧,其用甚大。最爱砂土,以为根基,又以辰已为蚕食之地,不宜刑冲互破,路旁、大驿二土次吉,余土无益。水喜天河,为雨露之滋,长流、溪涧、井泉诸水皆可相依,亦须先得土为基,更加禄贵为妙,沧海水漂泛无定,无土主夭。见火灯头最吉,亦以辰已之中为蚕位故也;炉中位居寅卯,木之旺地;天上、霹雳二火与此木干支有合化之情,有坎离交媾之妙,俱吉,但诸火不宜叠见。以金言之,砂中第一,剑锋能修整此木,为次,钗泊二金须得土为基,如逢冲破,又凶。木喜庚寅辛卯,为以弱就强,以小变大,作贵格论,纵无砂土,亦吉;平地、石榴,无土则凶;大林乃东南蚕食之位,有土资生,主大贵;遇杨柳为桑柳成林,亦是贵格,须生春夏方吉。
庚寅辛卯松柏木
松柏木者,泼雪凑霜,参天覆地,风撼笙篁之奏,雨余旌旆之张。此木藏居金下,位列正东,乃为极旺,最喜山为根基,水为滋润。天河雨露之水可以滋润,涧下丁丑属山,可为根基,丙子不如大溪有乙卯为雷,可以发荣,却嫌风霹,有损折之凶;大海水有山则吉,癸亥清静无山,亦吉。若柱有平地,得屋土,则为已成栋梁,无用山水。无此二件,乃山间之茂木也,须要山水。命中有火,最忌炉中,就位相生,再加风木,灰飞烟灭,五行无水,主夭折;山头、山下、太阳、覆灯皆不可犯;寅人尤忌戊午、丙寅,以木不南奔,寅午三合火局故也,辛卯无害;霹火虽可滋生,运加凡火,主凶。土见路旁,似无足贵,若无死木,其福还真;驿土无山贫夭,更加海水,尤凶。金逢乙丑,为印为山;泊金就位自旺,主吉;剑锋能削能斫,更得壁土相成,松柏相资,主贵。大林有风,杨柳会火,二木最忌;桑柘癸丑为山,可以相助;石榴是辛酉金反化死木,有造化,却吉。妙选有苍松冬秀格,是以此木生人月日时属三冬为贵;有日合辛卯、日值庚寅二格,虽取戊午已未,生居夏秋,然专论此木为贵。
戊辰己巳大林木
大林木者,枝干撼风,柯条撑月,耸壑昂霄之德,凌云蔽日之功。此木生居东南,春夏之交,长养成林,金假艮土为源,癸丑为山,三命无破陷,最为福厚权贵,戊辰为上,己巳次之。土遇路旁,为负载,戊辰见辛未为贵,己巳见庚午为禄,主富;壁、屋二土,再得剑金,则大林之木取为栋梁,成格最吉,无此乃山间茂林之木也。此木无论死活,皆欲见土,如己人见甲,虽云化土,然不如辰戌丑未,土局纯金为妙。若此木已死在山之下;见甲戌乙亥烧之,主凶夭;灯火就位相生,乙巳不如甲辰更吉;霹雳、太阳二火皆能长育运中,遇之亦吉,然二火嫌并见,持胜须有土为根基方可。水见天河,戊辰见丁未带贵,虽无土与山,亦主有衣食,即灵槎入天河格也,生秋冬死绝方是;溪、海二水重见,主贫夭,有山稍得。妙选有苍龙驾海格,是戊辰见癸亥为贵,涧下丁丑最吉,丙子不如。诸金俱不宜见,海中有乙丑为山,剑锋得屋壁为本,余金无用,逢之主夭贱。木喜桑柘,唯癸丑最妙;平地还须得路旁土,谓之平林在野;松柏,东方生旺之地,柱有癸丑而得松柏为密荫,最佳。
壬午癸未杨柳木
杨柳木者,隋堤袅娜,汉苑轻盈,万缕不蚕之丝,千条不针之带,午未木之死墓,壬癸木之滋润。此木根基唯喜砂土,见艮山则依倚摇金,遇寅卯东方得地;辛丑有山,庚子不如;戊寅虽吉,已卯尤胜;丙辰丁已却嫌戌亥对冲;若见大驿,有丑为山边之驿,稍可,无丑独见此土,主夭贱;路旁就位,复值死墓,日时遇之,主人卑弱;屋土壬午见丁亥,丁壬合化则吉,丙戌不如。水见井泉、长流、大溪、涧下皆吉,中间又分合化之位,尤吉。丙午丁未,丙丁真火,午未亦火,此木至午未死墓,壬午见之,大凶,癸庶几有别,水济之无害;此木午未已自有火,更见别火,恐引起伤寿,灯头乙已有风木折,主夭;炉中寅卯本位,木旺反吉;霹火如壬午见己丑,癸未见戊子,阴阳交遇,更有砂土为基,主贵,若子午丑未对冲则不为吉。金见木无造化,钗钏、金泊却喜成功,海、蜡、剑、砂虽忌见之,其间轻重当以禄贵德煞,参祥见松柏木,为脱体化神之格也,主贵。桑柘癸丑为山,作倚傍成林,主吉;庚申辛酉木既死绝,又逢金克,以弱遇小,其人必贱。妙选有花红柳禄格,是以此木遇石榴,生于春夏,不以贱论;有杨柳拖金格,是以此木生于三春而时得一金,辛亥、甲子、癸卯、辛已最妙,乃壬癸禄贵之地故也。
庚申辛酉石榴木
石榴木者,性辛如姜,花红似火,数颗枝头,累累多子,房内莹莹,干支纯金而纳音属木,乃木之变者也。可以移盆内而妆做山,故喜成器之土,以为根基,城头为上,屋上次之,然必阴阳交见,则丙辛丁庚互官,戊辛已寅互印,主吉;路、壁、驿、砂四土有山助之,亦吉,若无何用?见金砂中最吉,泊金干支水木而纳音金,榴木干支金而纳音木,皆脱去本性而互换归旺,以木旺寅卯,金旺申酉,各得其位,谓之功侔造化格,主大贵;海中乙丑为山,更逢水助则吉,或壁上,城头,亦得剑锋,就位相克,最凶,若先有砂金,能制其毒,亦不为害。水见天河,雨露相滋,井泉、溪涧,清水浇灌,大海太泛滥,非贫则夭,有艮土稍得。太阳、霹雳二火虽喜,不宜并见;炉中寅卯旺位,本吉,再加别火则凶。若此木生于五月,日时止带一火,谓之石榴喷火,主贵。桑柘、大林、杨柳三木皆喜见之,见大林戊辰脱体,见杨柳花红柳绿,皆主功名;见桑柘癸丑为山,见松柏则强,见平地则大,若无别物夹杂,则禄绕红围,亦主富贵,如得城土为基,水运为助,享福优游,最为长久。
戊戌己亥平地木
平地木者,初生萌蘖,始发枝条,唯资雨露之功,不喜雪霜之积,此乃地上之茂材,人间之屋木。戊戌为栋,已亥为梁,最宜互换见之,须以土为基,土爱路旁,为正格,更逢子午,尤贵,以子午为天地正柱故也;屋、壁、城头三土以此木相资,中间有升化,尤吉;砂、驿无用,日时见之,主灾;太阳、霹雳,最为显耀,炉中遇水则福,灯头无风则固,余火无水则凶;此已成之木,不宜剑金,有木相资则可;泊金增饰光辉,又天干合,地支旺,更有旁土为基,主大贵。余金无用。水见天河,为润泽,主吉;溪、海无山俱凶;井泉、涧下虽吉,内甲申合丁丑为山,遇之尤吉。木见大林,有风摇动,主寿促;桑柘癸丑最吉,壬子己亥人见之为贵,戊戌人不堪;松柏木倚辅平地为栋梁,更有土助,主贵。大抵此木恶金而喜水、土,若生三冬时,得寅卯为寒谷回春,亦贵论也。
.
#21
Gửi vào 25/06/2024 - 11:17
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Nạp âm thổ
[Chú]: Canh tý, tân sửu, mậu dần, kỷ mão, bính thìn, đinh tỵ, canh ngọ, tân mùi, mậu thân, kỷ dậu, bính tuất, đinh hợi nạp âm thổ.
Canh tý, tân sửu bích thượng thổ
"Bích thượng thổ": nương nhờ cột và xà nhà, thành lập cử nhà, công đức của ngăn nóng chống lạnh, che chở sương tuyết. Đây chính là đất trên tường của nhân gian, chẳng có "bình địa" làm sao có thể nương tựa cho vững chắc? Tý ngọ trụ cột chánh của trời đất, gặp được càng là việc tốt lành. Nói chung thấy mộc đều có thể làm chủ. Canh dần, tân mão cũng là rường cột, chỉ có thân dậu xung phá, tý mão hình nhau; "đại lâm" có phong, nếu không có thổ nâng đỡ, thêm hoả tầm thường, chủ làm việc khó thành công, nghèo hèn mà lại yểu. Thổ ưa "lộ bàng" gọi là nâng đỡ, "ốc thượng:, "thành đầu" có thể hộ thân, tất cả đều tốt lành. Thấy hoả hoàn toàn không có phúc lành, "thái dương", "phích lịch" tuy nói rằng chiếu sáng, nhưng cuối cùng sẽ nguy hiểm, khó khăn, nếu như mệnh trước đã gặp mộc, gặp hoả trợ giúp, gặp vận khắc của quỷ thiêu đốt, gặp lại chủ hoạ hoạn yểu chiết, trụ có thuỷ cứu giúp, cũng đạt được chút lợi ích. Thuỷ: thấy giáp thân thì rất là tốt, ất dậu kém hơn; "thiên thượng" mưa móc, cũng tốt; "đại hải" trôi nổi thổ này làm sao yên ổn? Cho dù có nền tảng, vẫn hung xấu. Kim: chỉ ưa "bạc kim", trong mệnh lý trước có mộc thần sẽ quý, vì nó thành cung điện nên chói lọi , rực rỡ, chẳng phải triều đình làm sao dám sử dụng; "kiếm kim" thì làm hại, các kim còn lại vô ích.
Mậu dần, kỷ mão thành đầu thổ
"Thành đầu thổ": bờ luỹ cao đẹp tự nhiên, chỗ ở của vua là kim thành, hình dáng như rồng cuộn ngàn dặm, cọp chiếm giữ bốn hướng. Thổ này có hai cách bàn luận: thổ đã thành và thổ chưa thành. Thường gặp "lộ bàng" là thổ đã thành, không cần phải nhờ hoả, nếu không có "lộ bàng" gọi là thổ chưa thành, cần phải có hoả; thổ của thành phố lớn đều cần nhờ cậy mộc, "dương liễu" quý mùi rất là tốt đẹp, còn nhâm ngọ thì kiêng kỵ, khai thác "tang" thì quý sửu là trên hết, kế mới là nhâm tý; canh dần, tân mão thì tương khắc ngay tại chỗ nên tường thành sẽ sụp đỗ không an toàn, làm sao người dân được yên ổn? Như thấy mộc kề bên trợ giúp, chỉ lấy quý nhân, lộc, mã mà luận. Thấy thuỷ có sơn thì quý hiển, giáp thân, đinh sửu đều tốt, "thiên hà" nuôi dưỡng cũng tốt, chỉ kỵ "phích lịch", "đại hải", riêng nhâm tuất không kỵ, hợp hoá đều là tốt. Nghiên cứu chỉ ra thổ ưa "lộ bàng", đề phòng thấy các loại hoả, "đị dịch" gặp sơn đều coi là cảnh quang quý, nếu như chỉ thấy một là không căn bản, thì chủ nghèo hèn, cô độc và yểu. Ngũ hành thấy kim, chỉ có "bạch lạp", sợ tốn, hai cái này làm hại, các kim còn lại vô dụng, cũng đều dùng quý nhân, lộc, mã mà xem xét.
Bính thìn, đinh tỵ sa trung thổ
"Sa trung thổ": do sóng tích tụ, sóng ở bãi nhỏ mà thành, là nơi rồng rắn ẩn giấu, nơi thung lũng lăng mộ thay đổi. Thổ này tinh tế và đẹp, chỉ thích vàng ròng nuôi dưỡng, càng được thổ thuần khiết, chủ sớm đã quý; bốn loại kim "sai", "sa", "kiếm", "bạc" tinh tế và đẹp trợ giúp nhau, như người bính gặp tân hợi là vính đinh nhập vào nhà của càn, danh hiệu gọi là "giá hải trường hồng" - "cầu vồng trên biển", lại có giả thuyết các vì sao vây quanh phương bắc đều là quý cách, càng được thêm thuỷ thấm nhuận, càng là cách tốt nhứt, nếu không có thuỷ mà ngày giờ được "thiên thượng hoả" chiếu, cũng lợi ích, như bính thìn, ất mùi quý dậu mậu ngọ, mệnh này nhờ có hai kim nuôi dưỡng, dù hoàn toàn không có thuỷ, được "thái dương hoả" chiếu, cho nên quý; như đinh tỵ quý mão kỷ mùi nhâm thân, mệnh này được nhờ hai kim nuôi dưỡng, được "thiên thượng hoả" chiếu, cũng quý. Tuy nhiên mậu ngọ quá hanh khô, kỷ mùi có một chút thong thả, tuổi thọ không giống nhau. Thuỷ: lấy "tỉnh", "giản" trong suốt thì tốt, nếu có kim để nuôi dưỡng, quý; như thổ này vì được kim nuôi dưỡng mà ngày giờ có "hải", "thuỷ" liền lập tức làm hỏng phúc lành, quý hợi thì khinh thanh, hạn vận của người tuổi bính thấy gặp cũng chủ hiển vinh, các thuỷ cònlai5 vô dụng. Hoả thích "thái dương", quan sát cách gọi là "chu tước đằng không", chủ quý; "sơn đầu", "sơn hạ", "lô trung", "phúc đăng các loại hoả như không có thuỷ cứu giúp, chủ tuổi thọ ngắn. Mộc "tang chá", "dương liễu" vì thổ có khả năng nâng đỡ hai mộc này, các mộc còn lại lấy lộc, mã, quý nhân mà nghiên cứu, như nhật đang hình, phá, xung, khắc mộc, cho dù gặp được làm sao có phúc lành? Không bằng không có thì tốt hơn. Ngũ hành rất kỵ thổ hình nhau, "lộ bàng" là chỗ đất để yên thân, có kim, mộc cậy nhờ sanh trưởng, cũng chủ phúc khánh; "đại dịch" qua lại rất là không nên thấy, cho dù có kim, thuỷ cũng vẫn hung xấu, các thổ còn lại đặc biệt không là tốt.
Canh ngọ, tân mùi lộ bàng thổ
"Lộ bàng thổ": khắp mặt đất nối liền với đường, ruộng bằng phẳng vạn mẫu, hoa màu nương nhờ để sanh trưởng, cỏ cây tươi tốt, um tùm. Đây chính là hoả sưởi ấm thổ, thổ nuôi dưỡng vạn vật, cho nên cần nương tựa thuỷ là điều tiên quyết, chính là lý thuyết tưới nước để dưỡng ẩm, kế là nên hoá thuỷ là thành diệu vật, thêm được kim đến trợ giúp thì mùa màng sẽ bội thu. Như canh ngọ thấy giáp thân, tân mùi thấy ất dậu là lộc, nếu như không bị xung, phá, chủ sớm đã quý; "thiên thượng thuỷ" mưa móc thấm nhuần, canh ngọ thích thấy đinh mùi, tân mùi thích thấy bính ngọ, là quan, quý, lộc, hợp khéo léo; "giản hạ" canh ngọ thấy đinh sửu: "quý lộc giao trì", tân mùi thấy bính tý: "hoá thuỷ phùng sanh"; "đại khê" ất mão là "lôi", có thể xãy ra, thổ này lại được ất canh hợp hoá, cho nên đều là chủ tốt lành;"trường lưu thuỷ", "đại hải thuỷ" vì nó không thể tưới, cho nên thổ này rất kỵ, chủ hung yểu. Hoả gặp "phích lịch", canh ngọ thấy kỷ sửu: "quý lộc giao xuyên", tân mùi thấy mậu tý: "ấn quý triều dương", tất cả đều tốt, "thiên thượng hoả" tương sanh ngay tại chỗ, khô quá làm cho thổ không thể nuôi vật, phải có thuỷ thấm nhuần mới được, nếu chỉ thấy một thì chủ yểu; "lô trung hoả" cũng khô, cũng chủ tổn hại tuổi thọ; "đăng đầu" phải có "ốc thổ" mới ứng với phúc lành, danh gọi là: "siêu phàm nhập thánh", không phải vậy thì hung xấu. Thấy mộc có thể xãy ra, nhưng có quý nhân, lộc, mã sẽ tốt, còn hình, sát, xung, phá sẽ hung xấu. Chỉ có canh dần mộc, thổ này gặp được là tốt lắm, "đại lâm" không thể thắng, như vị trí thổ thấy bính thìn, bính tuất, tân sửu, tân mùi tất cả đều tốt; nếu như canh ngọ thấy tân mùi, tân mùi thấy canh ngọ là "nhị nghi quý ngẫu", không có thì không quý. "Thoa xuyến kim", "sa trung kim" có thể để nuôi dưỡng và trợ giúp, nước trong suốt của kim và thuỷ cùng gặp, rất tốt, nếu mệnh đã gặp thuỷ, không gặp vận kim, gặp được kim này cũng là phúc lành; ất sửu "hải trung kim" có thể luận là sơn, nếu được "thiên hà thuỷ" trợ giúp, người tuổi canh rất là tốt đẹp. Xét cách diệu kỳ có: "kim mã tê phong", là người tuổi canh ngọ, hay giáp ngọ được giờ tân tỵ; có cách "mã hoá long câu", lại là người sanh tuổi ngọ gặp giờ thìn; có cách "tiêu phong mãnh hổ", là người tuổi canh, tân gặp được tân tỵ, ất tỵ. Tất cà đều lấy quý để luận, nhưng thuỷ, hoả, thổ, kim không gò bó nhau.
Mậu thân, kỷ dậu đại dịch thổ
"Đại dịch thổ": đường lớn trang nghiêm, đường bằng phẳng, chín châu không nơi nào mà không thông suốt, khắp các miền không nơi nào mà không đến, đấy chính là vị trí của phương tây nam tức là quẻ "khôn", có phẩm chất là hậu tải, lần lượt từng ngày, làm đất vác biển cưởi núi vậy. Tạo ra mọi vật, lấy mộc làm nền tảng. Mậu thân: là trường sanh của thổ, đức dày không biên giới, thấy ba, bốn mộc đều có thể sinh sôi nẩy nở, kỷ dậu: thổ tự bại, mộc nhiều bị trộm khí; "đại lâm" trong hợp gặp xung, chủ yểu, các mộc khác thì tốt, nghiên cứu thêm lộc, quý. "Tỉnh tuyền", "giản hạ" hai loại thuỷ này cao quý và không khô, như mậu thân thấy đinh sửu hoặc ất dậu, hay kỷ dậu thấy bính tý hoặc giáp thân, gọi là "quan quý", chủ tốt lành; "thiên hà" bính ngọ mà kỷ dậu gặp được, hay đinh mùi mà mậu thân gặp được, cũng là "quý lộc", chủ phúc lành; "trường lưu": mậu thân thấy quý tỵ, kỷ dậu thấy nhâm thìn, cũng tốt lành, gặp nhiều sẽ không được yên ổn; "dại khê" ất mão là nghĩa là phương đông, quẻ chấn, chỉ thấy duy nhất cũng tốt; "hải thuỷ" đào khoét trước mặt, thổ không thể tốt đẹp, ngày giờ gặp phải chủ yểu, có sơn được một chút lợi ích, mậu thân thấy quý hợi: mậu quý hợp, thân hợi là đất trời giao hoà, trái lại được tốt lành. Hoả: thấy "thái dương", "phích lịch" gọi là "thánh hoả", rất có thể xảy ra, thổ này như được thuỷ trợ giúp, chủ hiển đạt, còn các loại hoả tầm thường, lại gặp mộc sanh cho nó càng khô táo, chủ hung xấu và yểu. Ngũ hành thấy thổ, chỉ có "lộ bàng thổ" rất thích hợp, "ốc thượng", "bích thượng", "sa trung" cho dù có được mộc cũng là tiêu diệt, "thành đầu" có thuỷ, được một chút tốt lành. Mệnh như có kim, thì đẹp đẽ và tốt lành; "thoa xuyến" có tân hợi, "kim bạc" có nhâm dần, mậu thân gặp được, trong trụ có thêm thuỷ trợ giúp, chính là đất trời giao hoà, là đại cách "thuỷ nhiễu sơn hoàn" - nước chảy vòng quanh núi, chủ quý, kỷ dậu thấy canh tuất, quý mão kém hơn một chút; "sa kim", "kiếm kim" phúc lành cũng giống nhau, "kiếm kim" cần mộc thịnh vượng mới dùng được, không phải vậy thì uổng công.
Bính tuất, đinh hợi ốc thượng thổ
"Ốc thượng thổ": đất sét trộn với nước biến thành rừng, thuỷ hoả ký tế, che chở sự tích tụ của sương tuyệt, công lao của phấn chấn vượt qua gió mưa, thổ này làm bằng đất nung vậy. Không có mộc thì không có giàn chống đỡ, cho nên lấy mộc làm nền móng, "bình địa mộc" là trên hết kế mới là "dại lâm mộc", còn lại chọn thiên can hoá mộc, cũng tốt, chỉ sợ xung phá. Đây là thổ đã thành, không thích hợp thấy hoả, "lô trung hoả" bính dần rất là hung xấu, đinh mão thì có một chút chấp nhận; "thái dương", "phích lịch" có thể dùng để giúp đỡ nhau; "sơn hạ", "sơn đầu" có mộc sanh sẽ gây hoạ; "đăng đầu" bính tuất thấy ất tỵ là trên hết, kế là đinh hợi thấy giáp thìn , gọi là cách "hoả thổ nhập đường", nếu trong trụ có nhiều mộc, cũng không là tốt. Thuỷ: thích hợp "thiên hà", "tỉnh tuyền", "giản hạ" tất cả đều tốt, như trước được bình địa mộc thành cách đại quý; "khê", "lưu" không có mộc thường là yểu, nếu như bính tuất mà được quý tỵ, hay đinh hợi mà được giáp dần thì phải luận khác biệt, lại xem trụ ngày, giờ chỗ thành vận hạnh như thế nào; "đại hải" không có sơn sẽ không nên thấy thổ. Thổ: thấy "lộ bàng", như bính tuất được tân mùi, hay đinh hợi được canh ngọ, âm dương nhìn thấy nhau, thay thế mộc để làm nên tảng, chủ quý; "bích thổ" cũng thích hợp; các thổ còn lại sẽ không bằng. Nếu như thiếu mộc mà tam hình tụ hợp, cho dù là hai thổ cũng hung, "sa thổ" chỉ một chữ đinh thì không tổn hại. Kim: chỉ "kiếm phong", "thoa xuyến" rất là tốt, đinh hợi thấy nhâm thân, thiên can hoá mộc, địa chi: đạo thường trong sáng của trời đất, còn bính tuất thấy tân hợi, thiên can hoá thuỷ, địa chi: bính vào cửa càn, tất cả đều là cách đại quý, nếu như đinh hợi thấy canh tuất, hay bính tuất thấy quý dậu, s4 không là tốt; "bạc kim" có công dụng trang điểm, cũng tốt; các kim còn lại thì vô dụng, nên dùng quý lôc để xem cho rõ.
纳音土
「注」庚子、辛丑、戊寅、己卯、丙辰、丁巳、庚午、辛未、戊申、己酉、丙戍、丁亥纳音土。
庚子辛丑壁上土
壁上土者,恃栋依梁,兴门立户,却暑御寒之德,遮霜护雪之功。此乃人间壁土,非平地何以为靠?子午,天地正柱,逢之尤为吉庆。凡见木皆可为主。庚寅辛卯亦是栋梁,只申酉冲破,子卯相刑;大林有风,若无承载之土,加凡火,主作事难成,贫贱而夭。土爱路旁,谓之负载,屋上、城头可以护身,皆吉。见火全无造化,太阳、霹雳虽云照耀,到底蹇危,若命先已见木,遇火助,鬼焚克运,再逢之,主祸患夭折,柱有水救济,稍得。水见甲申为最吉,乙酉次之;天上雨露,亦吉;大海漂泛,此土何安?纵有根基,亦凶。金唯爱泊金,命里先有木神则贵,以其成宫室而金碧辉煌,非朝廷不敢用也;剑金伤害,余金无用。
戊寅已卯城头土
城头土者,天京玉垒,帝里金城,龙盘千里之形,虎踞四维之势。此土有成有未成,作两般论。凡遇见路旁,为已成之土,不必用火,若无路旁,为未成之土,必须用火;大都城土皆须资木,杨柳癸未最佳,壬午则忌;桑拓癸丑为上,壬子次之;庚寅辛卯就位相克则城崩不宁,何以安人也耶?如见木无夹辅,只以贵人禄马论之。见水有山为显贵,甲申、丁丑俱吉,天河滋助,亦吉,唯忌霹雳、大海,壬戌不忌,合化俱以吉。推土爱路旁,防见诸火,大驿逢山,须作贵观,若独见无根本,贫夭孤寒。五行见金,只有白蜡,怕巽,二者相妨,余金无用,亦须以贵人禄马看之。
丙辰丁巳砂中土
砂中土者,浪回所积,波渚而成,龙蛇盘隐之宫,陵谷变迁之地。此土清秀,唯喜清金养之,更得犯净之土,主早贵;钗、砂、剑、泊此四金清秀相助,如丙人见辛亥为丙丁入于乾户,号曰驾海长虹,又有星拱北之论,皆贵格也,更得水相涵,尤为上吉,若无水而时日得天上火照,亦可,如丙辰乙未癸酉戊午,此命有二金资养,却全无水,得太阳火照,故贵;如丁巳癸卯己未壬申,此命二金资养,得天上火照,亦贵。然戊午太燥,己未稍缓,寿夭不同。水以井涧清洁为吉,若有金以养之,贵;如此土已得金养而日时有海水便坏造化,癸亥轻清,丙人见之限运,逢亦主显荣,余水无用。火喜太阳,在格号为朱雀腾空,主贵;山头、山下、炉中,覆灯诸火若无水济,主寿夭。木爰桑拓、杨柳,以此土能载二木故也,余木却以禄马贵人参之,如日中刑破冲克之木,虽见之有何造化?不如无为吉。五行最忌土相刑,路旁安身,有金木资生,亦主福庆;大驿往来,最不宜见,纵有金水亦凶,余土尤不为吉。
庚午辛未路旁土
路旁土者,大地连途,平田万顷,禾稼赖以资生,草木由之畅茂。此乃火暖土温,长养万物之土也,故须假水为先,乃灌溉滋润之论,次第尤宜水化为妙,更得金来相助,则禾稼成实。如庚午见甲申,辛未见乙酉为禄,若无冲破,主早贵;天上水雨露相滋,庚午喜见丁未,辛未喜见丙午,为官贵禄合之妙;涧下庚午见丁丑,贵禄交驰,辛未见丙子,化水逢生;大溪乙卯为雷,能发生,此土又乙庚合化,故皆主吉;长流、大海二水以其不能浇灌,此土故最忌之,主凶夭。火逢霹雳,庚午见己丑,贵禄交穿,辛未见戊子,印贵朝阳,皆吉,天上火就位相生,太燥则土反不能生物,有水润之始得,若独见,主夭;炉中火亦燥,亦主妨寿;灯头有屋土,方应造化,名超凡入圣,不然亦凶。见木可以发生,然有贵人禄马则吉,刑煞冲破则凶。只有庚寅木,此土逢之大好,大林不能胜载,如土位见丙辰、丙戊、辛丑、辛未,皆吉;若庚午见辛未,辛未见庚午,为二仪贵偶,无有不贵。钗钏、砂中二金可以滋助,清水金水并见,大吉,若命已见水,无金运,遇此金亦福;乙丑海金可为山论,若得天河清水助之,庚人大好。妙选有金马嘶风格,以庚午、甲午生人得辛巳时;有马化龙驹格,又以午生人见辰时;有哨风猛虎格,以庚辛生人得辛巳、乙巳。俱以贵论,而水、火、土、金似不相拘。
戊申己酉大驿土
大驿土者,堂堂大道,坦坦平途,九州无所不通,万国无所不至,此乃位属坤方,德乃厚载,轮天转日,负海乘山之土也。发生万物,以木为基。戊申,长生之土,德厚无疆,见三、四木皆能滋生,己酉,自败之土,木多则窃气;大林合中逢冲,主夭,别木则吉,更以禄贵参之。井泉、涧下二水清贵不燥,如戊申见丁丑或乙酉,己酉见丙子或甲申,谓之官贵,主吉;天河丙午而己酉得之,丁未而戊申得之,亦为贵禄,主福;长流戊申见癸巳,己酉见壬辰,亦吉,多逢则不宁静;大溪乙卯为东震发生之义,单见亦吉;海水对穿,土不能胜,日时遇主夭,得山稍轻,内戊申见癸亥,戊癸合申亥,为地天交泰,反吉。火见太阳、霹雳,谓之圣火,最能发生,此土如逢水助,主显达,其于凡火,再逢木生之,更燥,主凶夭。五行见土,唯路旁最宜,屋上、壁上、砂中纵先得木,亦为泯绝,城头有水,稍吉。命若有金,清秀,吉;钗钏得辛亥,金泊得壬寅,戊申遇之,柱中更加水助,乃地天交泰,水绕山环大格,主贵,己酉见庚戌、癸卯稍次;砂金造化亦同,剑金须候木得用,不然无益。
丙戌丁亥屋上土
屋上土者,埏埴为林,水火既济,盖蔽雪霜之积,震凌风雨之功,此土瓦也。非木无以架之,故以木为根基,平地为上,大林次之,余取天干化木,亦吉,只怕冲破。此巳城之土,不宜见火,炉中丙寅最凶,丁卯稍可;太阳、霹雳可取相资;山下、山头,有木生之则祸;灯头丙戌见乙巳为上,丁亥见甲辰次之,谓之火土入堂格,若柱中木多,亦不为吉。水宜天河、井泉、涧下,皆吉,如先得平地木成格,大贵;溪流无木多夭,若丙戌而得癸巳,丁亥而得甲寅,则又别论,再看日时所成造化何如;大海无山则不宜见土。土见路旁,如丙戌得辛未,丁亥得庚午,阴阳互见,更假木为基,主贵;壁土亦宜;余则汨没。若缺木而三刑聚,纵是二土亦凶,砂土独丁已不妨。金唯剑锋、钗钏最吉,丁见壬申,天干化木,地支乾坤清夷,丙见辛亥,天干化水,地支丙入乾户,皆大贵格,若丁亥见庚戌,丙戌见癸酉,则不为吉;泊金有粉饰之用,亦吉;余金无用,当以贵禄参详。
.
Nạp âm thổ
[Chú]: Canh tý, tân sửu, mậu dần, kỷ mão, bính thìn, đinh tỵ, canh ngọ, tân mùi, mậu thân, kỷ dậu, bính tuất, đinh hợi nạp âm thổ.
Canh tý, tân sửu bích thượng thổ
"Bích thượng thổ": nương nhờ cột và xà nhà, thành lập cử nhà, công đức của ngăn nóng chống lạnh, che chở sương tuyết. Đây chính là đất trên tường của nhân gian, chẳng có "bình địa" làm sao có thể nương tựa cho vững chắc? Tý ngọ trụ cột chánh của trời đất, gặp được càng là việc tốt lành. Nói chung thấy mộc đều có thể làm chủ. Canh dần, tân mão cũng là rường cột, chỉ có thân dậu xung phá, tý mão hình nhau; "đại lâm" có phong, nếu không có thổ nâng đỡ, thêm hoả tầm thường, chủ làm việc khó thành công, nghèo hèn mà lại yểu. Thổ ưa "lộ bàng" gọi là nâng đỡ, "ốc thượng:, "thành đầu" có thể hộ thân, tất cả đều tốt lành. Thấy hoả hoàn toàn không có phúc lành, "thái dương", "phích lịch" tuy nói rằng chiếu sáng, nhưng cuối cùng sẽ nguy hiểm, khó khăn, nếu như mệnh trước đã gặp mộc, gặp hoả trợ giúp, gặp vận khắc của quỷ thiêu đốt, gặp lại chủ hoạ hoạn yểu chiết, trụ có thuỷ cứu giúp, cũng đạt được chút lợi ích. Thuỷ: thấy giáp thân thì rất là tốt, ất dậu kém hơn; "thiên thượng" mưa móc, cũng tốt; "đại hải" trôi nổi thổ này làm sao yên ổn? Cho dù có nền tảng, vẫn hung xấu. Kim: chỉ ưa "bạc kim", trong mệnh lý trước có mộc thần sẽ quý, vì nó thành cung điện nên chói lọi , rực rỡ, chẳng phải triều đình làm sao dám sử dụng; "kiếm kim" thì làm hại, các kim còn lại vô ích.
Mậu dần, kỷ mão thành đầu thổ
"Thành đầu thổ": bờ luỹ cao đẹp tự nhiên, chỗ ở của vua là kim thành, hình dáng như rồng cuộn ngàn dặm, cọp chiếm giữ bốn hướng. Thổ này có hai cách bàn luận: thổ đã thành và thổ chưa thành. Thường gặp "lộ bàng" là thổ đã thành, không cần phải nhờ hoả, nếu không có "lộ bàng" gọi là thổ chưa thành, cần phải có hoả; thổ của thành phố lớn đều cần nhờ cậy mộc, "dương liễu" quý mùi rất là tốt đẹp, còn nhâm ngọ thì kiêng kỵ, khai thác "tang" thì quý sửu là trên hết, kế mới là nhâm tý; canh dần, tân mão thì tương khắc ngay tại chỗ nên tường thành sẽ sụp đỗ không an toàn, làm sao người dân được yên ổn? Như thấy mộc kề bên trợ giúp, chỉ lấy quý nhân, lộc, mã mà luận. Thấy thuỷ có sơn thì quý hiển, giáp thân, đinh sửu đều tốt, "thiên hà" nuôi dưỡng cũng tốt, chỉ kỵ "phích lịch", "đại hải", riêng nhâm tuất không kỵ, hợp hoá đều là tốt. Nghiên cứu chỉ ra thổ ưa "lộ bàng", đề phòng thấy các loại hoả, "đị dịch" gặp sơn đều coi là cảnh quang quý, nếu như chỉ thấy một là không căn bản, thì chủ nghèo hèn, cô độc và yểu. Ngũ hành thấy kim, chỉ có "bạch lạp", sợ tốn, hai cái này làm hại, các kim còn lại vô dụng, cũng đều dùng quý nhân, lộc, mã mà xem xét.
Bính thìn, đinh tỵ sa trung thổ
"Sa trung thổ": do sóng tích tụ, sóng ở bãi nhỏ mà thành, là nơi rồng rắn ẩn giấu, nơi thung lũng lăng mộ thay đổi. Thổ này tinh tế và đẹp, chỉ thích vàng ròng nuôi dưỡng, càng được thổ thuần khiết, chủ sớm đã quý; bốn loại kim "sai", "sa", "kiếm", "bạc" tinh tế và đẹp trợ giúp nhau, như người bính gặp tân hợi là vính đinh nhập vào nhà của càn, danh hiệu gọi là "giá hải trường hồng" - "cầu vồng trên biển", lại có giả thuyết các vì sao vây quanh phương bắc đều là quý cách, càng được thêm thuỷ thấm nhuận, càng là cách tốt nhứt, nếu không có thuỷ mà ngày giờ được "thiên thượng hoả" chiếu, cũng lợi ích, như bính thìn, ất mùi quý dậu mậu ngọ, mệnh này nhờ có hai kim nuôi dưỡng, dù hoàn toàn không có thuỷ, được "thái dương hoả" chiếu, cho nên quý; như đinh tỵ quý mão kỷ mùi nhâm thân, mệnh này được nhờ hai kim nuôi dưỡng, được "thiên thượng hoả" chiếu, cũng quý. Tuy nhiên mậu ngọ quá hanh khô, kỷ mùi có một chút thong thả, tuổi thọ không giống nhau. Thuỷ: lấy "tỉnh", "giản" trong suốt thì tốt, nếu có kim để nuôi dưỡng, quý; như thổ này vì được kim nuôi dưỡng mà ngày giờ có "hải", "thuỷ" liền lập tức làm hỏng phúc lành, quý hợi thì khinh thanh, hạn vận của người tuổi bính thấy gặp cũng chủ hiển vinh, các thuỷ cònlai5 vô dụng. Hoả thích "thái dương", quan sát cách gọi là "chu tước đằng không", chủ quý; "sơn đầu", "sơn hạ", "lô trung", "phúc đăng các loại hoả như không có thuỷ cứu giúp, chủ tuổi thọ ngắn. Mộc "tang chá", "dương liễu" vì thổ có khả năng nâng đỡ hai mộc này, các mộc còn lại lấy lộc, mã, quý nhân mà nghiên cứu, như nhật đang hình, phá, xung, khắc mộc, cho dù gặp được làm sao có phúc lành? Không bằng không có thì tốt hơn. Ngũ hành rất kỵ thổ hình nhau, "lộ bàng" là chỗ đất để yên thân, có kim, mộc cậy nhờ sanh trưởng, cũng chủ phúc khánh; "đại dịch" qua lại rất là không nên thấy, cho dù có kim, thuỷ cũng vẫn hung xấu, các thổ còn lại đặc biệt không là tốt.
Canh ngọ, tân mùi lộ bàng thổ
"Lộ bàng thổ": khắp mặt đất nối liền với đường, ruộng bằng phẳng vạn mẫu, hoa màu nương nhờ để sanh trưởng, cỏ cây tươi tốt, um tùm. Đây chính là hoả sưởi ấm thổ, thổ nuôi dưỡng vạn vật, cho nên cần nương tựa thuỷ là điều tiên quyết, chính là lý thuyết tưới nước để dưỡng ẩm, kế là nên hoá thuỷ là thành diệu vật, thêm được kim đến trợ giúp thì mùa màng sẽ bội thu. Như canh ngọ thấy giáp thân, tân mùi thấy ất dậu là lộc, nếu như không bị xung, phá, chủ sớm đã quý; "thiên thượng thuỷ" mưa móc thấm nhuần, canh ngọ thích thấy đinh mùi, tân mùi thích thấy bính ngọ, là quan, quý, lộc, hợp khéo léo; "giản hạ" canh ngọ thấy đinh sửu: "quý lộc giao trì", tân mùi thấy bính tý: "hoá thuỷ phùng sanh"; "đại khê" ất mão là "lôi", có thể xãy ra, thổ này lại được ất canh hợp hoá, cho nên đều là chủ tốt lành;"trường lưu thuỷ", "đại hải thuỷ" vì nó không thể tưới, cho nên thổ này rất kỵ, chủ hung yểu. Hoả gặp "phích lịch", canh ngọ thấy kỷ sửu: "quý lộc giao xuyên", tân mùi thấy mậu tý: "ấn quý triều dương", tất cả đều tốt, "thiên thượng hoả" tương sanh ngay tại chỗ, khô quá làm cho thổ không thể nuôi vật, phải có thuỷ thấm nhuần mới được, nếu chỉ thấy một thì chủ yểu; "lô trung hoả" cũng khô, cũng chủ tổn hại tuổi thọ; "đăng đầu" phải có "ốc thổ" mới ứng với phúc lành, danh gọi là: "siêu phàm nhập thánh", không phải vậy thì hung xấu. Thấy mộc có thể xãy ra, nhưng có quý nhân, lộc, mã sẽ tốt, còn hình, sát, xung, phá sẽ hung xấu. Chỉ có canh dần mộc, thổ này gặp được là tốt lắm, "đại lâm" không thể thắng, như vị trí thổ thấy bính thìn, bính tuất, tân sửu, tân mùi tất cả đều tốt; nếu như canh ngọ thấy tân mùi, tân mùi thấy canh ngọ là "nhị nghi quý ngẫu", không có thì không quý. "Thoa xuyến kim", "sa trung kim" có thể để nuôi dưỡng và trợ giúp, nước trong suốt của kim và thuỷ cùng gặp, rất tốt, nếu mệnh đã gặp thuỷ, không gặp vận kim, gặp được kim này cũng là phúc lành; ất sửu "hải trung kim" có thể luận là sơn, nếu được "thiên hà thuỷ" trợ giúp, người tuổi canh rất là tốt đẹp. Xét cách diệu kỳ có: "kim mã tê phong", là người tuổi canh ngọ, hay giáp ngọ được giờ tân tỵ; có cách "mã hoá long câu", lại là người sanh tuổi ngọ gặp giờ thìn; có cách "tiêu phong mãnh hổ", là người tuổi canh, tân gặp được tân tỵ, ất tỵ. Tất cà đều lấy quý để luận, nhưng thuỷ, hoả, thổ, kim không gò bó nhau.
Mậu thân, kỷ dậu đại dịch thổ
"Đại dịch thổ": đường lớn trang nghiêm, đường bằng phẳng, chín châu không nơi nào mà không thông suốt, khắp các miền không nơi nào mà không đến, đấy chính là vị trí của phương tây nam tức là quẻ "khôn", có phẩm chất là hậu tải, lần lượt từng ngày, làm đất vác biển cưởi núi vậy. Tạo ra mọi vật, lấy mộc làm nền tảng. Mậu thân: là trường sanh của thổ, đức dày không biên giới, thấy ba, bốn mộc đều có thể sinh sôi nẩy nở, kỷ dậu: thổ tự bại, mộc nhiều bị trộm khí; "đại lâm" trong hợp gặp xung, chủ yểu, các mộc khác thì tốt, nghiên cứu thêm lộc, quý. "Tỉnh tuyền", "giản hạ" hai loại thuỷ này cao quý và không khô, như mậu thân thấy đinh sửu hoặc ất dậu, hay kỷ dậu thấy bính tý hoặc giáp thân, gọi là "quan quý", chủ tốt lành; "thiên hà" bính ngọ mà kỷ dậu gặp được, hay đinh mùi mà mậu thân gặp được, cũng là "quý lộc", chủ phúc lành; "trường lưu": mậu thân thấy quý tỵ, kỷ dậu thấy nhâm thìn, cũng tốt lành, gặp nhiều sẽ không được yên ổn; "dại khê" ất mão là nghĩa là phương đông, quẻ chấn, chỉ thấy duy nhất cũng tốt; "hải thuỷ" đào khoét trước mặt, thổ không thể tốt đẹp, ngày giờ gặp phải chủ yểu, có sơn được một chút lợi ích, mậu thân thấy quý hợi: mậu quý hợp, thân hợi là đất trời giao hoà, trái lại được tốt lành. Hoả: thấy "thái dương", "phích lịch" gọi là "thánh hoả", rất có thể xảy ra, thổ này như được thuỷ trợ giúp, chủ hiển đạt, còn các loại hoả tầm thường, lại gặp mộc sanh cho nó càng khô táo, chủ hung xấu và yểu. Ngũ hành thấy thổ, chỉ có "lộ bàng thổ" rất thích hợp, "ốc thượng", "bích thượng", "sa trung" cho dù có được mộc cũng là tiêu diệt, "thành đầu" có thuỷ, được một chút tốt lành. Mệnh như có kim, thì đẹp đẽ và tốt lành; "thoa xuyến" có tân hợi, "kim bạc" có nhâm dần, mậu thân gặp được, trong trụ có thêm thuỷ trợ giúp, chính là đất trời giao hoà, là đại cách "thuỷ nhiễu sơn hoàn" - nước chảy vòng quanh núi, chủ quý, kỷ dậu thấy canh tuất, quý mão kém hơn một chút; "sa kim", "kiếm kim" phúc lành cũng giống nhau, "kiếm kim" cần mộc thịnh vượng mới dùng được, không phải vậy thì uổng công.
Bính tuất, đinh hợi ốc thượng thổ
"Ốc thượng thổ": đất sét trộn với nước biến thành rừng, thuỷ hoả ký tế, che chở sự tích tụ của sương tuyệt, công lao của phấn chấn vượt qua gió mưa, thổ này làm bằng đất nung vậy. Không có mộc thì không có giàn chống đỡ, cho nên lấy mộc làm nền móng, "bình địa mộc" là trên hết kế mới là "dại lâm mộc", còn lại chọn thiên can hoá mộc, cũng tốt, chỉ sợ xung phá. Đây là thổ đã thành, không thích hợp thấy hoả, "lô trung hoả" bính dần rất là hung xấu, đinh mão thì có một chút chấp nhận; "thái dương", "phích lịch" có thể dùng để giúp đỡ nhau; "sơn hạ", "sơn đầu" có mộc sanh sẽ gây hoạ; "đăng đầu" bính tuất thấy ất tỵ là trên hết, kế là đinh hợi thấy giáp thìn , gọi là cách "hoả thổ nhập đường", nếu trong trụ có nhiều mộc, cũng không là tốt. Thuỷ: thích hợp "thiên hà", "tỉnh tuyền", "giản hạ" tất cả đều tốt, như trước được bình địa mộc thành cách đại quý; "khê", "lưu" không có mộc thường là yểu, nếu như bính tuất mà được quý tỵ, hay đinh hợi mà được giáp dần thì phải luận khác biệt, lại xem trụ ngày, giờ chỗ thành vận hạnh như thế nào; "đại hải" không có sơn sẽ không nên thấy thổ. Thổ: thấy "lộ bàng", như bính tuất được tân mùi, hay đinh hợi được canh ngọ, âm dương nhìn thấy nhau, thay thế mộc để làm nên tảng, chủ quý; "bích thổ" cũng thích hợp; các thổ còn lại sẽ không bằng. Nếu như thiếu mộc mà tam hình tụ hợp, cho dù là hai thổ cũng hung, "sa thổ" chỉ một chữ đinh thì không tổn hại. Kim: chỉ "kiếm phong", "thoa xuyến" rất là tốt, đinh hợi thấy nhâm thân, thiên can hoá mộc, địa chi: đạo thường trong sáng của trời đất, còn bính tuất thấy tân hợi, thiên can hoá thuỷ, địa chi: bính vào cửa càn, tất cả đều là cách đại quý, nếu như đinh hợi thấy canh tuất, hay bính tuất thấy quý dậu, s4 không là tốt; "bạc kim" có công dụng trang điểm, cũng tốt; các kim còn lại thì vô dụng, nên dùng quý lôc để xem cho rõ.
纳音土
「注」庚子、辛丑、戊寅、己卯、丙辰、丁巳、庚午、辛未、戊申、己酉、丙戍、丁亥纳音土。
庚子辛丑壁上土
壁上土者,恃栋依梁,兴门立户,却暑御寒之德,遮霜护雪之功。此乃人间壁土,非平地何以为靠?子午,天地正柱,逢之尤为吉庆。凡见木皆可为主。庚寅辛卯亦是栋梁,只申酉冲破,子卯相刑;大林有风,若无承载之土,加凡火,主作事难成,贫贱而夭。土爱路旁,谓之负载,屋上、城头可以护身,皆吉。见火全无造化,太阳、霹雳虽云照耀,到底蹇危,若命先已见木,遇火助,鬼焚克运,再逢之,主祸患夭折,柱有水救济,稍得。水见甲申为最吉,乙酉次之;天上雨露,亦吉;大海漂泛,此土何安?纵有根基,亦凶。金唯爱泊金,命里先有木神则贵,以其成宫室而金碧辉煌,非朝廷不敢用也;剑金伤害,余金无用。
戊寅已卯城头土
城头土者,天京玉垒,帝里金城,龙盘千里之形,虎踞四维之势。此土有成有未成,作两般论。凡遇见路旁,为已成之土,不必用火,若无路旁,为未成之土,必须用火;大都城土皆须资木,杨柳癸未最佳,壬午则忌;桑拓癸丑为上,壬子次之;庚寅辛卯就位相克则城崩不宁,何以安人也耶?如见木无夹辅,只以贵人禄马论之。见水有山为显贵,甲申、丁丑俱吉,天河滋助,亦吉,唯忌霹雳、大海,壬戌不忌,合化俱以吉。推土爱路旁,防见诸火,大驿逢山,须作贵观,若独见无根本,贫夭孤寒。五行见金,只有白蜡,怕巽,二者相妨,余金无用,亦须以贵人禄马看之。
丙辰丁巳砂中土
砂中土者,浪回所积,波渚而成,龙蛇盘隐之宫,陵谷变迁之地。此土清秀,唯喜清金养之,更得犯净之土,主早贵;钗、砂、剑、泊此四金清秀相助,如丙人见辛亥为丙丁入于乾户,号曰驾海长虹,又有星拱北之论,皆贵格也,更得水相涵,尤为上吉,若无水而时日得天上火照,亦可,如丙辰乙未癸酉戊午,此命有二金资养,却全无水,得太阳火照,故贵;如丁巳癸卯己未壬申,此命二金资养,得天上火照,亦贵。然戊午太燥,己未稍缓,寿夭不同。水以井涧清洁为吉,若有金以养之,贵;如此土已得金养而日时有海水便坏造化,癸亥轻清,丙人见之限运,逢亦主显荣,余水无用。火喜太阳,在格号为朱雀腾空,主贵;山头、山下、炉中,覆灯诸火若无水济,主寿夭。木爰桑拓、杨柳,以此土能载二木故也,余木却以禄马贵人参之,如日中刑破冲克之木,虽见之有何造化?不如无为吉。五行最忌土相刑,路旁安身,有金木资生,亦主福庆;大驿往来,最不宜见,纵有金水亦凶,余土尤不为吉。
庚午辛未路旁土
路旁土者,大地连途,平田万顷,禾稼赖以资生,草木由之畅茂。此乃火暖土温,长养万物之土也,故须假水为先,乃灌溉滋润之论,次第尤宜水化为妙,更得金来相助,则禾稼成实。如庚午见甲申,辛未见乙酉为禄,若无冲破,主早贵;天上水雨露相滋,庚午喜见丁未,辛未喜见丙午,为官贵禄合之妙;涧下庚午见丁丑,贵禄交驰,辛未见丙子,化水逢生;大溪乙卯为雷,能发生,此土又乙庚合化,故皆主吉;长流、大海二水以其不能浇灌,此土故最忌之,主凶夭。火逢霹雳,庚午见己丑,贵禄交穿,辛未见戊子,印贵朝阳,皆吉,天上火就位相生,太燥则土反不能生物,有水润之始得,若独见,主夭;炉中火亦燥,亦主妨寿;灯头有屋土,方应造化,名超凡入圣,不然亦凶。见木可以发生,然有贵人禄马则吉,刑煞冲破则凶。只有庚寅木,此土逢之大好,大林不能胜载,如土位见丙辰、丙戊、辛丑、辛未,皆吉;若庚午见辛未,辛未见庚午,为二仪贵偶,无有不贵。钗钏、砂中二金可以滋助,清水金水并见,大吉,若命已见水,无金运,遇此金亦福;乙丑海金可为山论,若得天河清水助之,庚人大好。妙选有金马嘶风格,以庚午、甲午生人得辛巳时;有马化龙驹格,又以午生人见辰时;有哨风猛虎格,以庚辛生人得辛巳、乙巳。俱以贵论,而水、火、土、金似不相拘。
戊申己酉大驿土
大驿土者,堂堂大道,坦坦平途,九州无所不通,万国无所不至,此乃位属坤方,德乃厚载,轮天转日,负海乘山之土也。发生万物,以木为基。戊申,长生之土,德厚无疆,见三、四木皆能滋生,己酉,自败之土,木多则窃气;大林合中逢冲,主夭,别木则吉,更以禄贵参之。井泉、涧下二水清贵不燥,如戊申见丁丑或乙酉,己酉见丙子或甲申,谓之官贵,主吉;天河丙午而己酉得之,丁未而戊申得之,亦为贵禄,主福;长流戊申见癸巳,己酉见壬辰,亦吉,多逢则不宁静;大溪乙卯为东震发生之义,单见亦吉;海水对穿,土不能胜,日时遇主夭,得山稍轻,内戊申见癸亥,戊癸合申亥,为地天交泰,反吉。火见太阳、霹雳,谓之圣火,最能发生,此土如逢水助,主显达,其于凡火,再逢木生之,更燥,主凶夭。五行见土,唯路旁最宜,屋上、壁上、砂中纵先得木,亦为泯绝,城头有水,稍吉。命若有金,清秀,吉;钗钏得辛亥,金泊得壬寅,戊申遇之,柱中更加水助,乃地天交泰,水绕山环大格,主贵,己酉见庚戌、癸卯稍次;砂金造化亦同,剑金须候木得用,不然无益。
丙戌丁亥屋上土
屋上土者,埏埴为林,水火既济,盖蔽雪霜之积,震凌风雨之功,此土瓦也。非木无以架之,故以木为根基,平地为上,大林次之,余取天干化木,亦吉,只怕冲破。此巳城之土,不宜见火,炉中丙寅最凶,丁卯稍可;太阳、霹雳可取相资;山下、山头,有木生之则祸;灯头丙戌见乙巳为上,丁亥见甲辰次之,谓之火土入堂格,若柱中木多,亦不为吉。水宜天河、井泉、涧下,皆吉,如先得平地木成格,大贵;溪流无木多夭,若丙戌而得癸巳,丁亥而得甲寅,则又别论,再看日时所成造化何如;大海无山则不宜见土。土见路旁,如丙戌得辛未,丁亥得庚午,阴阳互见,更假木为基,主贵;壁土亦宜;余则汨没。若缺木而三刑聚,纵是二土亦凶,砂土独丁已不妨。金唯剑锋、钗钏最吉,丁见壬申,天干化木,地支乾坤清夷,丙见辛亥,天干化水,地支丙入乾户,皆大贵格,若丁亥见庚戌,丙戌见癸酉,则不为吉;泊金有粉饰之用,亦吉;余金无用,当以贵禄参详。
.
#22
Gửi vào 25/06/2024 - 11:26
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Nạp âm thuỷ
[Chú] bính tý, đinh sửu, giáp dần, ất mão, nhâm thìn, quý tỵ, bính ngọ, đinh mùi, giáp thân, ất dậu, nhâm tuất quý hợi nạp âm thuỷ.
Bính tý, đinh sửu giản hạ thuỷ
"Giản hạ thuỷ": sóng mịn bao quanh ngọn núi, tuyết bay đầy trên đỉnh, nối liền dòng chảy nam bắc, mạch khảm ly đứng đối lập nhau. Thuỷ này trong suốt, thích gặp kim nuôi dưỡng, "sa trung", "kiếm phong" rất thích hợp. "Thoa xuyến" canh tuất đinh sửu không thích hợp, vì sửu tuất hình nhau, tân hợi gặp bính tý thì bính tân hoá thuỷ, càng thêm quý; các kim còn lại thì lấy lộc, quý mà xem xét, chọn lấy cái mà nó được sanh trưởng, ghét cái mà nó bị xung phá. Mộc thấy một vị thì không hại gì, còn thấy hai ba sẽ chủ lao khổ, cũng lấy quý nhân, lộc, mã mà xem xét. Trong mệnh thấy thổ, chủ người thường thiên nguyên trọng trọc, nếu như mộc hoặc hoá thuỷ sẽ chủ tốt đẹp; "sa trung thổ", "ốc thượng thổ" khí của nó một chút trong trẻo, "lộ bàng thổ", "đại dịch thổ" thì rất thô nặng, chủ tiền của không tụ mà lại sanh hoạ, như thìn, tuất, sửu, mùi thổ cục, nó càng rất hung xấu, vì thuỷ trọc, thổ vẩn vậy. Hoả: thấy "thái dương", tuy là nóng, trong đó có lý thuyết của ký tế, vị tế; "phích lịch hoả" là tranh nhau ngay tại chỗ, rất là không thích hợp. Nếu như hai hoả cùng xét định, không có kim trợ giúp , chủ bỏ bê công việc, đam mê tửu sắc, còn có kim thì luận khác; "sơn hạ hoả", "sơn đầu hoả" cũng tốt, nếu như cùng gặp, ngày giờ thì không bằng lòng. Trong mệnh thấy thuỷ, trái lại trở thành trôi nổi, thấy "thiên hà thuỷ" là "dẫn phàm nhập thánh", thấy "đại hải thuỷ" là "phúc quý triều tông", tất cả đều tốt, chỉ đinh sửu thấy nhâm tuất, thì sửu tuất hình nhau, đinh nhâm dâm hợp, chủ "phong thanh bất nhã" - tiếng tăm không đẹp; bản chất "đại khê thuỷ" vội vàng, "trường lưu thuỷ" không lặng lẽ, yên định, tất cả đều không tốt, đại khái thuỷ này cần thuỷ dồi dào, mà không bao gồm hoả thổ, lại được thuỷ của giáp dần, ất mão, sẽ là nguồn trong suốt chảy xa dài, là người quân tử thật sự.
Giáp dần, ất mão đại khê thuỷ
"Đại khê thuỷ": sóng lớn mà bờ đê mỏng, sóng chấn động chân trời, ánh sáng dung nạp rộng lớn vạn dặm, hình ảnh ngàn ngọn núi xanh, rất thích có chỗ trổ về có chỗ nuôi dưỡng, gặp khảm tức là có chỗ trở về, có kim tức là có chỗ nuôi dưỡng, lý do người nghi ngờ, trong trụ ngày tháng giờ có thân dậu xung động, hoặc thìn tỵ gió thổi, chủ trôi nổi; "tỉnh tuyền thuỷ" thanh khiết mà yên lặng, "giản hạ thuỷ" có sửu là cấn - ý nói là sơn, "thiên hà thuỷ" thấm ướt, "đại hải thuỷ" triều tông, bốn thuỷ này đều tốt; "trường lưu thuỷ" có phong - quẻ tốn, độc nhất không nên thấy. Thuỷ này vì có thanh kim trợ dưỡng, chỉ có "thoa", "sa" rất thích hợp, "lạp kim" cũng trong sạch, nếu có "thoa xuyến kim" đối xung thì không nên; "hải trung kim"tuy rằng không có hạnh vận, giáp tý thuộc khảm, ất sửu là cấn, chính là nơi để quay về, cũng tốt; "kim bạc kim" rất nhỏ yếu, không thể sanh cho , làm sao có lý nào mà vượt trội được? "Kiếm phong kim" tuy rằng biến đổi ở "đại khê thuỷ", tức là kỵ mão lôi và tốn phong, chủ bản chất không cố định. Ngũ hành có thổ, tất cả đều là vô ích, "ốc thượng", "thành đầu" cản trở thuỷ này, "lộ bàng" có một chút thích nghi, cũng không có gì lạ; "bích thượng" độc nhất tân sửu là sơn, "đại dịch" chỉ có kỷ dậu có hợp, mậu thân thì xung, canh tý thì hình, tất cả đều không phải là tốt. Hoả: thấy "thái dương", tuy rằng chiếu sáng, "phích lịch" càng kỵ cùng gặp nhau, nếu hai hoả gặp nhau, chủ nghèo, còn chỉ thấy một thì luận khác. Mộc: thấy thuỷ này, trôi nổi vô ích, chỉ "tang chá mộc" nhâm tý có khảm, quý sửu là sơn, là cách quý "thuỷ nhiễu sơn hoàn" - nước chảy quanh núi, người giáp dần thấy nhâm tý tốt lành, ất mão thấy quý sửu cát; các mộc còn lại thì lấy lộc, quý mà xem xét, càng kỵ xung phá.
Nhâm thìn, quý tỵ trường lưu thuỷ
"Trường lưu thuỷ": cuồn cuộn không ngừng, nước chảy thao thao không cạn kiệt, tụ hợp ở nơi thấp tức là dẫn vào phương đông nam, chảy thuận tự trở về ở thìn tỵ. Thuỷ này thích được kim sanh dưỡng, kim phải là "bạch lạp", "thoa xuyến", vì thiên can có canh tân là kim thật sự, địa chi thìn tỵ là sanh nhau ngay tại chỗ, tuất hợi là nơi trở về nguồn; "kiếm phong" là kim thuỷ nguyên chất, "bạc kim" là thuỷ mộc ở hướng đông, tất cả đều luận là tốt; "hải trung", "sa trung" không được chọn lấy. Không ưa thổ khô cạn, mà thổ có công dụng làm đê điều, trong sáu loại thổ chọn thổ có can canh, tân, bính, đinh mới tốt, còn mậu kỷ vô dụng. Gặp hoả sẽ hình nhau, nhưng có sự diệu kỳ của quẻ ký tế, trong nhâm thìn thích gặp đinh mão, đinh dậu, còn quý tỵ thích gặp mậu tý, mậu ngọ, vì thiên can hợp hoá có chủ ý vậy; "đăng đầu" quý tỵ càng thích gặp giáp thìn, "sơn đầu": nhâm thìn càng thích gặp ất hợi vì "hoá long quy lộc", chọn ý nghĩa càng thêm tốt. Gặp mộc tuy rằng trôi nổi, nhưng "tang chá" quý sửu là sơn, còn "dương liễu" quý mùi là viên - vườn, trụ năm và giờ được thuỷ này bao quanh, là cách "thuỷ nhiễu hoa đê" - nước chảy quanh bờ đê hoa, là cách đại quý; "tùng bách", "thạch lựu", thiên can có kim tương sanh; "đại lâm", "bình địa" tuy rằng không ưa có thổ, nhưng quý tỵ gặp mậu thìn, nhâm thìn gặp kỷ hợi, đều là tốt. Thuỷ: là đồng loại, "giản hạ" thì có đinh nhâm hợp hoá, "thiên thượng" thì mưa móc nương nhờ nhau; "tỉnh tuyền", "đại khê" thì vô ích; "hải" chính là nơi cho các thuỷ trở về, nên long của nhâm thìn gặp quý hợi là "long dược thiên môn" - rồng háo hức về cổng trời, sanh mùa xuân, mùa hạ, mùa thu thì tốt, hoặc là cách "long tiềm đại hải" - rồng lặn dưới biển lớn, tức là sanh mùa đông cũng thích hợp, trong trụ cần phải có kim đầu tiên mới diệu kỳ. Lại thêm nhâm thìn là thuỷ của tự ấn, gặp lại nhâm thìn sẽ hình, hình thì tự gây hại, gặp mậu tuất sẽ xung, xung thì tràn ngập quá độ, chủ hung xấu; quý tỵ là thuỷ tự tuyệt, tên là giòng chảy khô cạn, nếu gặp thổ của bính tuất, đinh hợi, canh tý, tân sửu thì cái khô cằn của nó có kỳ vọng, trong trụ nếu như được tam hợp kim sanh vượng sanh cho sẽ tốt lành.
Bính ngọ, đinh mùi thiên hà thuỷ
"Thiên hà thuỷ": nước rơi khắp sáu cánh đồng, dầy đặc lấp đầy ngàn ngoại ô, sông ngân hà chảy xuống ướt dầm, bay phủ kín đến trời xanh, đây chính là mưa móc trên trời, tạo ra vạn vật, không có vật gì mà không nương nhờ. Thuỷ của ngân hà thổ không thể khắc được, cho nên thấy thổ không kiêng kỵ, mà lại có ích lợi dưỡng ẩm; thuỷ của trời cao nên kim ở dưới đất không thể sanh, cho nên thấy kim cũng không có ích lợi, mà cũng có thầm nhuần cây cỏ tốt tươi rõ rệt; sanh vượng nhiều quá sẽ tràn ngập quá độ, trái lại làm tổn hại vạn vật, tử tuyệt quá thường sẽ làm khô hạn, lại không thể sanh vật, cần phải sanh đúng vào ba tháng mùa thu mới quý. Thuỷ: thích "trường lưu", "đại hải", chấp nhận bính ngọ thích hợp với quý tỵ, quý hợi, còn đinh mùi thích hợp với nhâm thìn, nhâm tuất, âm dương thấy nhau càng tốt lành; "đại khê" ất mão là lôi, "tỉnh tuyền" ất dậu là quý, đều lấy tốt lành mà luận. Hoả: thích "phích lịch", là hoả của rồng thần, cùng với thuỷ này giúp đỡ lẫn nhau, nên bất chợt biến hoá, mây bay mưa kéo dài làm sao mà không quý? "Lô trung hoả" vợng, "đại hải thuỷ" vượng, như trong trụ được hai hoả, hai thuỷ, trên dưới bổ xung nhau, gọi là "tinh thần câu túc" - khí lực dồi dào, là cách đại quý vậy; "đăng đầu" có phong, "sơn đầu" có quý, đều luận tốt lành, lại cần phải lấy thuỷ khác giúp đỡ mới tốt; "thiên thượng hoả" khắc ngay tại chỗ, tức là kỵ gặp phải. Mộc: "thạch lựu", "dương liễu" đều tốt, "đại lâm" có tốn, "bình địa" có hợi, cũng tốt; "tùng bách", "thạch lựu" gặp bính tân hợp hoá cũng lấy tốt lành mà luận. Lựa chọn tuyệt vời có cách "linh tra nhập thiên hà" - bè thần vào sông thiên hà, là chọn mộc của tử tuyệt không có gốc rễ, trụ không có thổ bồi đắp sẽ trôi nổi trên sông thiên hà cũng đúng vậy. Thổ: tuy rằng không thể khắc, mà trụ gặp phải canh ngọ, tân mùi là khắc nhau tại chỗ, thổ làm bế tắc thuỷ, hoặc thuỷ sanh vào mùa đông, thì thuỷ sẽ kết thành ao hồ, ắt sẽ chủ bẩn đục quá độ; còn lại các thổ "sa trung", "ốc thượng" đều tốt, "thành đầu", "đại dịch" không có ích, "bích thượng" đối xung, cũng làm hư hạnh vận, phúc lành. Thuỷ: kim tuy rằng không thể sanh, độc nhất tân hợi "thoa xuyến kim" tức thuộc càn là trời, thuỷ ở trên trời cao, chỉ cái này rất là tốt; còn lại kim cũng chọn thiên can có canh tân, nhâm quý là hiệu quả, giáp ất vô ích, lại dùng lộc, mã, quý nhân xem xét. Chọn lựa cách tuyệt vời lại lấy người thuỷ sanh được canh tý, nhâm tý là "vân đằng vũ thi" - mây cuồn cuộn mưa rơi, sanh mùa xuân thì khô hạn, mùa hạ thì ngập lụt, mùa đông thì lạnh, độc nhất ba tháng mùa thu là tốt nhất; gặp giáp thìn, ất tỵ, canh thìn, tân tỵ, trong trụ có chữ nhâm là vân, có thìn là long, là "phong vũ tác lâm" - gió mưa tạo thành mưa dầm; nếu sanh các tháng mùa đông, gọi là "sương ngưng bạc lộ" - sương đọng hơi móc mỏng, ngày giờ thích gặp khí ấm áp của dần mão, có thể giải được băng đóng, lạnh cóng, tất cả đều là quý cách vậy.
Giáp thân, ất dậu tỉnh tuyền thuỷ
"Tỉnh tuyền thuỷ": suối lạnh trong mát, dùng để nuôi dưỡng không cùng tận, tám nhà đào khoét để cùng uống, vạn người dân đều nhờ nó cho đời sống hằng ngày. Thuỷ này sanh ở kim mà xuất ra ở mộc, vì thế thích thấy kim là puc1 lành, "sa trung" có thổ, rất thích hợp cho tính chất trợ giúp, kế là "thoa xuyến kim" thanh tú, "bạch lạp kim" với "thoa xuyến kim" xung nhau vì thế không nên gặp lại nhau; "kiếm phong kim" thân dậu quá vượng, e là có tai hoạ lũ lụt; "hải trung kim" không được chọn, ất sửu là quẻ cấn, suối chảy ra dưới núi, cũng tốt. Đây chẳng phải là mộc không thể xuất hiện như lý thuyết của thùng gỗ, vì thế thấy mộc đều tốt, như thấy "bình địa mộc", "đại lâm mộc" cần phải nhờ "kiếm phong kim" đẽo gọt mới có thể dùng được; "tang chá mộc", "dương liễu mộc" thì vô dụng; "tùng bách mộc sẽ làm cho quy lộc thay đổi với nhau, đây là cách rất tốt. Các loại hoả âm dương thấy nhau thì tốt, "phích lịch hoả" tên là nhập thánh, "thái dương" hiệu là chiếu sáng, hai hoả này thấy được thì rất tốt, nhưng không nên cùng tụ hội sẽ là rất hung xấu. Các thổ: "lô bàng", "sa trung" rất tốt, "ốc thượng có nguồn thuỷ sanh từ cổng trời, cũng tốt; "thành đầu thổ", "bích thượng thổ" cùng với thuỷ này không có dinh líu gì nhau; "đại dịch thổ" thì khắc nhau ngay tại chỗ, thuỷ bị thổ che lấp sẽ làm giếng không thể dùng cho ăn uống, cần phải có mộc để trừ bỏ mới có thể dùng. Thuỷ: thích "đại hải thuỷ", là "dẫn phàm nhập thánh" - dẫn dắt kẻ tầm thường vào cỏi thánh; "thiên thượng thuỷ", "giản hạ thuỷ", "trường lưu thuỷ cũng không phải là tai hoạ; "đại khê thuỷ" giáp dần, ất mão thì tốt, như giáp thân thấy ất dậu, ất dậu thấy giáp thân là quan tinh thay đổi nhau rất là tốt; như hai thuỷ ở trụ năm và giờ, mà hai mộc ở trụ tháng và ngày, là cách "thuỷ nhiễu hoa đê" - nước chảy quanh hoa trên đê, chính là cách quý vậy.
Nhâm tuất, quý hợi đại hải thuỷ
"Đại hải thuỷ": thu nhận trăm con sông, rộng lớn mênh mông không bờ bến, bao gồm trời đất rộng lớn, ánh sáng mặt trời, mặt trăng mọc và lặn. Thuỷ này vốn dĩ có thanh có trọc, phân hai loại mà luận: nhâm tuất có thổ khí nên trọc, còn quý hợi can chi thuần thuỷ mà nạp âm lịa là thuỷ, cho nên là thanh. Nhâm tuất thì không ưa sơn, vì thổ khí quá thịnh, có kim thanh thì mới được tốt, còn quý hợi rất thích thấy sơn, rồi sau bản chất nước biển mới yên ổn; "giản hạ" đinh sửu là sơn, "thiên hà" cùng với hải trên dười thông nhau, trong trụ có mộc là bè thì sẽ ngồi bè vào sông thiên hà, rất là thượng cách; "trường lưu thuỷ", "đại khê thuỷ" cuối cùng cũng đều chảy về biển, vì nước biển không chọn dòng chảy nhỏ, cho nên có khả năng trở thành lớn vậy; nhâm thìn là cách "long quy đại hải", càng tốt, trong đó lại phân biệt âm dương hỗ kiến, can chi hợp hoá mới có thể được; "tỉnh tuyền thuỷ" thì có chỗ hạn chế, cùng với biển không thông suốt, cho nên không thích thấy. Kim: chỉ "hải trung kim" là đệ nhất, vì nhâm tuất, quý hợi thích gặp giáp tý, ất sửu; "sa trung kim" cũng được, các kim còn lại thì lấy quý nhân, lộc, mã mà xem xét. Hoả: thích "thiên thượng" với nước biển cùng nhau rực rỡ chói lọi, rất là tốt; "phích lịch" kỷ sửu là sơn, mậu quý hợp hoá, trụ được hoả mộc vượng địa, cũng tốt; "sơn hạ", "sơn đầu", "phúc đăng" các hoả này không nên gặp. Mộc: chỉ nhâm tý, quý sửu, nhâm ngọ, quý mùi tất cả đều tốt; "đại lâm mộc" có phong xung động, làm tính chất thuỷ không yên ổn; "bình địa mộc" nâng đỡ dày, chính là tương đắc ngay tại chỗ; "tùng bách mộc", "thạch lựu mộc" nếu không có thổ chế sẽ bị trôi nổi vô định. Thổ: thích "lộ bàng", "đại dịch", chỉ hai loại thổ này đủ chắc chắn để không bị thoát chảy ra ngoài, huống chi quý hợi gặp mậu thân là đại cách "thiên quan địa trục" - trục trời đất, ngày giờ gặp được đất dày này, cho dù có phong lôi, cũng không bị tai hại gì; "thành đầu thổ" kỷ mão cần phải nhờ cấn sẽ tốt lành, như gặp được "phích lịch hoả", thì lôi hoả biến hoá, nước biển sôi sục, cũng chủ nghèo hèn.
纳音水
[注]丙子、丁丑、甲寅、乙卯、壬辰、癸巳、丙午、丁未、甲申、乙酉、壬戍、癸亥纳音水。
丙子丁丑涧下水
涧下水者,山环细浪,雪涌飞端,相连南北之流,对峙坎离之脉。此水清澄,喜见金养,砂中、剑锋二金最宜。钗钏庚戌丁丑不宜,以丑戌相刑,辛亥见丙子则丙辛化水,尤贵;余金以禄贵参之,取其资生,恶其冲破。见木一位不妨,二三则主劳苦,亦以贵人禄马参之。命中见土,主人多浊天元,若木或化水,则主清吉;砂中、屋上二土,其气稍清,路旁、大驿则浊甚矣,主财散祸生,如辰、戌、丑、未土局,其凶尤甚,以水浊土浑故也。火见太阳,虽炎,中间有既济未济之论;霹雳就位相争,最所不宜。若二火并论,无金资助,主荒淫,有金别论;山下、山头亦吉,若并临,时日则嫌。命中遇水,反成漂荡,见天河为引凡入圣,见大海为福贵朝宗,皆吉,独丁丑见壬戌,则丑戌相刑,丁壬淫合,主风声不雅;大溪性急,长流不静,皆不为吉,大抵此水须以多为主,而无火土夹杂,再得甲寅乙卯之水,则源远流清,真君子人也。
甲寅乙卯大溪水
大溪水者,惊涛薄岸,骇浪浮天,光涵万里之宽,碧倒千山之影,最喜有归有养,遇坎则为有归,得金则为有养,所嫌者,日月时中,有申酉冲动,或辰已风吹,主飘流;井泉水净而止,涧下有丑为艮,天河沾润,大海朝宗,此四水皆吉;长流有风,独不宜见。此水以清金为助养,唯钗、砂最宜,蜡金亦清,若有钗金对冲则不宜;海中虽无造化,甲子属坎,乙丑为艮,乃归源之地,亦吉;泊金最微,不能相生,岂有超显之理?剑金虽化于大溪,却忌卯雷巽风,主性不定。五行有土,皆为无益,屋上、城头壅阻此水,路旁稍可,亦不为奇;壁上独辛丑为山,大驿唯己酉有合,戊申则冲,庚子则刑,皆不为吉。火见太阳,虽假照耀,霹雳尤忌相逢,若二火互见,主贫,单见别论。木见此水,徒被漂荡,唯桑拓木壬子有坎,癸丑为山,为水绕山环之贵,内甲寅人见壬子吉,乙卯人见癸丑吉;余木以禄贵参之,尤忌冲破。
壬辰癸巳长流水
长流水者,混混无穷,滔滔不竭,就下必纳于东南,顺流自归于辰巳。此水喜金生养,金要白蜡、钗钏,以天干有庚辛真金,地支辰巳就位相生,戌亥为归源之地;剑锋纯是金水,泊金水木居东,皆以吉论;海中,砂中无取。嫌土蹇涸,而土有堤防之用,六土之中,取庚辛丙丁为吉,戊己无用。遇火则相刑,而有既济之妙,内壬辰喜见丁卯、丁酉,癸巳喜见戊子、戊午,以天干合化故也;灯头癸巳尤喜见甲辰,山头壬辰尤喜遇乙亥,化龙归禄,取义更佳。逢木虽漂泛,而桑拓癸丑为山,杨柳癸未为园,年时得此水围之,为水绕花堤,大贵格也;松柏、石榴,天干有金相生;大林、平地,虽嫌有土,而癸巳见戊辰,壬辰见己亥,俱吉。水为同类,涧下则丁壬合化,天上则雨露相资;井泉、大溪无益;海乃众流所归,而壬辰之龙得癸亥则龙跃天门,春夏秋生为吉,或龙潜大海,则冬生乃宜,柱中须先得金为妙。又壬辰为自印之水,再见壬辰则刑,刑则自害,见戊戌则冲,冲则泛滥,主凶;癸巳,自绝之水,名为涸流,若遇丙戌、丁亥、庚子、辛丑之土,其涸可待,柱中如得三合生旺之金生之则吉。
丙午丁未天河水
天河水者,乱洒六野,密沛千郊,淋淋泻下银河,细细飞来碧落,此乃天上雨露,发生万物,无不赖之。银河之水,土不能克,故见土不忌,而且有滋润之益;天上之水,地金难生,故见金难益,而亦有涵秀之情;生旺太过则为淫潦,反伤于物,死绝太多则为旱干,又不能生物,要生三秋得时为贵也。水喜长流、大海,内丙午宜癸巳、癸亥,丁未宜壬辰、壬戌,阴阳互见,尤吉;大溪乙卯为雷,井泉己酉为贵,俱以吉论。火喜霹雳,为神龙之火,与此水相济。而倏忽变化,云行雨施,岂有不贵?炉中火旺,大海水旺,如柱中得二火二水,上下上相济,谓之精神俱足,大贵格也;灯头有风,山头有贵,皆以吉论,又须以别水济之方吉;天上就位相克,则忌见之。木石榴、杨柳俱吉,大林有巽,平地有亥,亦吉;松柏、石榴遇丙辛合化,亦以吉论。妙选有灵槎入天河格,是取死绝无根之木,柱无土培则漂流天河是也。土虽不能克,而柱逢庚午辛未,就位相克,土壅水滞,或水又冬生,则水结池塘,必主浊滥;余土如砂中、屋上皆吉,城头,大驿无用,壁上对冲,亦坏造化。水、金虽不能生,独辛亥钗金却属乾天,水在天上,只此最吉;余金亦取天干有庚辛、壬癸者为用,甲乙无益,再以禄马贵人参之始得。妙选又以水生人得庚子、壬子为云腾雨施,生春则旱,夏则潦,冬则寒,独三秋最吉;遇甲辰乙巳、庚辰辛巳,柱中有壬为云,有辰为龙,为风雨作霖;若生冬月,是为霜凝薄露,日时喜遇寅卯温和之气,可解斯冻,俱贵格也。
甲申乙酉井泉水
井泉水者,寒泉清冽,取养不穷,八家凿之以同饮,万民资之以生活。此水生于金而出于木,故喜见金为福,砂中有土,性与之最宜,钗钏清秀次之,蜡金与钗金相冲,故不宜再见;剑锋申酉太旺,恐有泛滥之灾;海金无取,乙丑为艮,山下出泉,亦吉。此非木不能出,譬之桶论,故见木皆吉,如见平地、大林,须假剑金削之,方可取用;桑拓、杨柳无用;松柏则互换归禄,此其最吉。诸火阴阳互见则吉,霹雳名为入圣,太阳号为显照,二火相见最吉,但不宜并有则凶。诸土路旁、砂中最吉,屋上有天门生水之源,亦吉;城头,壁上与此水则无干涉;大驿就位相克,水为土掩则井不食,须有木去之方可。水喜大海,为引凡入圣;天上、涧下、长流亦不为在灾;大溪甲寅乙卯为吉,如甲申见乙酉,乙酉见甲申,官星互换,最吉;如二水在年时,二木在月日,谓之水绕花堤,乃贵格也。
壬戌癸亥大海水
大海水者,总纳百川,汪洋无际,包括乾坤之大,升沉日月之光。此水原有清浊,以两般分论:壬戌有土气为浊,癸亥干支纯水而纳音又水,故清。壬戌人嫌山,以土气太盛,有金清之方吉,癸亥最喜见山,然后海水之性始安;涧下丁丑为山,天河与海上下相通,柱中有木为槎则乘槎入于天河,极为上格;长流、大溪等水毕竟皆归于海,以海水不择细流,故能成其大也;壬辰为龙归大海,尤吉,中间又分阴阳互见,干支合化方可;井泉则有所制,与海不通,故不喜见之。诸金独海中第一,以壬戌癸亥喜见甲子乙丑;砂中亦得,余金又当以贵人禄马参之。火喜天上,与海水相为照耀,最吉;霹雳己丑为山,戊癸合化,柱得木火旺地,亦吉;山下、山头、覆灯诸火不宜见。木唯壬子癸丑、壬午癸未俱吉;大林有风冲动,水性不安;平地厚载,则就位相得;松柏、石榴若无土制则漂泊无定。土爱路旁、大驿,唯此二土足以振之不泄,况癸亥见戊申为天关地轴大格,日时遇此厚土,纵有风雷,亦不为害;城头己卯须资艮则吉,如逢霹雳,则雷火变化,海水汹涌,亦主贫寒。
.
Nạp âm thuỷ
[Chú] bính tý, đinh sửu, giáp dần, ất mão, nhâm thìn, quý tỵ, bính ngọ, đinh mùi, giáp thân, ất dậu, nhâm tuất quý hợi nạp âm thuỷ.
Bính tý, đinh sửu giản hạ thuỷ
"Giản hạ thuỷ": sóng mịn bao quanh ngọn núi, tuyết bay đầy trên đỉnh, nối liền dòng chảy nam bắc, mạch khảm ly đứng đối lập nhau. Thuỷ này trong suốt, thích gặp kim nuôi dưỡng, "sa trung", "kiếm phong" rất thích hợp. "Thoa xuyến" canh tuất đinh sửu không thích hợp, vì sửu tuất hình nhau, tân hợi gặp bính tý thì bính tân hoá thuỷ, càng thêm quý; các kim còn lại thì lấy lộc, quý mà xem xét, chọn lấy cái mà nó được sanh trưởng, ghét cái mà nó bị xung phá. Mộc thấy một vị thì không hại gì, còn thấy hai ba sẽ chủ lao khổ, cũng lấy quý nhân, lộc, mã mà xem xét. Trong mệnh thấy thổ, chủ người thường thiên nguyên trọng trọc, nếu như mộc hoặc hoá thuỷ sẽ chủ tốt đẹp; "sa trung thổ", "ốc thượng thổ" khí của nó một chút trong trẻo, "lộ bàng thổ", "đại dịch thổ" thì rất thô nặng, chủ tiền của không tụ mà lại sanh hoạ, như thìn, tuất, sửu, mùi thổ cục, nó càng rất hung xấu, vì thuỷ trọc, thổ vẩn vậy. Hoả: thấy "thái dương", tuy là nóng, trong đó có lý thuyết của ký tế, vị tế; "phích lịch hoả" là tranh nhau ngay tại chỗ, rất là không thích hợp. Nếu như hai hoả cùng xét định, không có kim trợ giúp , chủ bỏ bê công việc, đam mê tửu sắc, còn có kim thì luận khác; "sơn hạ hoả", "sơn đầu hoả" cũng tốt, nếu như cùng gặp, ngày giờ thì không bằng lòng. Trong mệnh thấy thuỷ, trái lại trở thành trôi nổi, thấy "thiên hà thuỷ" là "dẫn phàm nhập thánh", thấy "đại hải thuỷ" là "phúc quý triều tông", tất cả đều tốt, chỉ đinh sửu thấy nhâm tuất, thì sửu tuất hình nhau, đinh nhâm dâm hợp, chủ "phong thanh bất nhã" - tiếng tăm không đẹp; bản chất "đại khê thuỷ" vội vàng, "trường lưu thuỷ" không lặng lẽ, yên định, tất cả đều không tốt, đại khái thuỷ này cần thuỷ dồi dào, mà không bao gồm hoả thổ, lại được thuỷ của giáp dần, ất mão, sẽ là nguồn trong suốt chảy xa dài, là người quân tử thật sự.
Giáp dần, ất mão đại khê thuỷ
"Đại khê thuỷ": sóng lớn mà bờ đê mỏng, sóng chấn động chân trời, ánh sáng dung nạp rộng lớn vạn dặm, hình ảnh ngàn ngọn núi xanh, rất thích có chỗ trổ về có chỗ nuôi dưỡng, gặp khảm tức là có chỗ trở về, có kim tức là có chỗ nuôi dưỡng, lý do người nghi ngờ, trong trụ ngày tháng giờ có thân dậu xung động, hoặc thìn tỵ gió thổi, chủ trôi nổi; "tỉnh tuyền thuỷ" thanh khiết mà yên lặng, "giản hạ thuỷ" có sửu là cấn - ý nói là sơn, "thiên hà thuỷ" thấm ướt, "đại hải thuỷ" triều tông, bốn thuỷ này đều tốt; "trường lưu thuỷ" có phong - quẻ tốn, độc nhất không nên thấy. Thuỷ này vì có thanh kim trợ dưỡng, chỉ có "thoa", "sa" rất thích hợp, "lạp kim" cũng trong sạch, nếu có "thoa xuyến kim" đối xung thì không nên; "hải trung kim"tuy rằng không có hạnh vận, giáp tý thuộc khảm, ất sửu là cấn, chính là nơi để quay về, cũng tốt; "kim bạc kim" rất nhỏ yếu, không thể sanh cho , làm sao có lý nào mà vượt trội được? "Kiếm phong kim" tuy rằng biến đổi ở "đại khê thuỷ", tức là kỵ mão lôi và tốn phong, chủ bản chất không cố định. Ngũ hành có thổ, tất cả đều là vô ích, "ốc thượng", "thành đầu" cản trở thuỷ này, "lộ bàng" có một chút thích nghi, cũng không có gì lạ; "bích thượng" độc nhất tân sửu là sơn, "đại dịch" chỉ có kỷ dậu có hợp, mậu thân thì xung, canh tý thì hình, tất cả đều không phải là tốt. Hoả: thấy "thái dương", tuy rằng chiếu sáng, "phích lịch" càng kỵ cùng gặp nhau, nếu hai hoả gặp nhau, chủ nghèo, còn chỉ thấy một thì luận khác. Mộc: thấy thuỷ này, trôi nổi vô ích, chỉ "tang chá mộc" nhâm tý có khảm, quý sửu là sơn, là cách quý "thuỷ nhiễu sơn hoàn" - nước chảy quanh núi, người giáp dần thấy nhâm tý tốt lành, ất mão thấy quý sửu cát; các mộc còn lại thì lấy lộc, quý mà xem xét, càng kỵ xung phá.
Nhâm thìn, quý tỵ trường lưu thuỷ
"Trường lưu thuỷ": cuồn cuộn không ngừng, nước chảy thao thao không cạn kiệt, tụ hợp ở nơi thấp tức là dẫn vào phương đông nam, chảy thuận tự trở về ở thìn tỵ. Thuỷ này thích được kim sanh dưỡng, kim phải là "bạch lạp", "thoa xuyến", vì thiên can có canh tân là kim thật sự, địa chi thìn tỵ là sanh nhau ngay tại chỗ, tuất hợi là nơi trở về nguồn; "kiếm phong" là kim thuỷ nguyên chất, "bạc kim" là thuỷ mộc ở hướng đông, tất cả đều luận là tốt; "hải trung", "sa trung" không được chọn lấy. Không ưa thổ khô cạn, mà thổ có công dụng làm đê điều, trong sáu loại thổ chọn thổ có can canh, tân, bính, đinh mới tốt, còn mậu kỷ vô dụng. Gặp hoả sẽ hình nhau, nhưng có sự diệu kỳ của quẻ ký tế, trong nhâm thìn thích gặp đinh mão, đinh dậu, còn quý tỵ thích gặp mậu tý, mậu ngọ, vì thiên can hợp hoá có chủ ý vậy; "đăng đầu" quý tỵ càng thích gặp giáp thìn, "sơn đầu": nhâm thìn càng thích gặp ất hợi vì "hoá long quy lộc", chọn ý nghĩa càng thêm tốt. Gặp mộc tuy rằng trôi nổi, nhưng "tang chá" quý sửu là sơn, còn "dương liễu" quý mùi là viên - vườn, trụ năm và giờ được thuỷ này bao quanh, là cách "thuỷ nhiễu hoa đê" - nước chảy quanh bờ đê hoa, là cách đại quý; "tùng bách", "thạch lựu", thiên can có kim tương sanh; "đại lâm", "bình địa" tuy rằng không ưa có thổ, nhưng quý tỵ gặp mậu thìn, nhâm thìn gặp kỷ hợi, đều là tốt. Thuỷ: là đồng loại, "giản hạ" thì có đinh nhâm hợp hoá, "thiên thượng" thì mưa móc nương nhờ nhau; "tỉnh tuyền", "đại khê" thì vô ích; "hải" chính là nơi cho các thuỷ trở về, nên long của nhâm thìn gặp quý hợi là "long dược thiên môn" - rồng háo hức về cổng trời, sanh mùa xuân, mùa hạ, mùa thu thì tốt, hoặc là cách "long tiềm đại hải" - rồng lặn dưới biển lớn, tức là sanh mùa đông cũng thích hợp, trong trụ cần phải có kim đầu tiên mới diệu kỳ. Lại thêm nhâm thìn là thuỷ của tự ấn, gặp lại nhâm thìn sẽ hình, hình thì tự gây hại, gặp mậu tuất sẽ xung, xung thì tràn ngập quá độ, chủ hung xấu; quý tỵ là thuỷ tự tuyệt, tên là giòng chảy khô cạn, nếu gặp thổ của bính tuất, đinh hợi, canh tý, tân sửu thì cái khô cằn của nó có kỳ vọng, trong trụ nếu như được tam hợp kim sanh vượng sanh cho sẽ tốt lành.
Bính ngọ, đinh mùi thiên hà thuỷ
"Thiên hà thuỷ": nước rơi khắp sáu cánh đồng, dầy đặc lấp đầy ngàn ngoại ô, sông ngân hà chảy xuống ướt dầm, bay phủ kín đến trời xanh, đây chính là mưa móc trên trời, tạo ra vạn vật, không có vật gì mà không nương nhờ. Thuỷ của ngân hà thổ không thể khắc được, cho nên thấy thổ không kiêng kỵ, mà lại có ích lợi dưỡng ẩm; thuỷ của trời cao nên kim ở dưới đất không thể sanh, cho nên thấy kim cũng không có ích lợi, mà cũng có thầm nhuần cây cỏ tốt tươi rõ rệt; sanh vượng nhiều quá sẽ tràn ngập quá độ, trái lại làm tổn hại vạn vật, tử tuyệt quá thường sẽ làm khô hạn, lại không thể sanh vật, cần phải sanh đúng vào ba tháng mùa thu mới quý. Thuỷ: thích "trường lưu", "đại hải", chấp nhận bính ngọ thích hợp với quý tỵ, quý hợi, còn đinh mùi thích hợp với nhâm thìn, nhâm tuất, âm dương thấy nhau càng tốt lành; "đại khê" ất mão là lôi, "tỉnh tuyền" ất dậu là quý, đều lấy tốt lành mà luận. Hoả: thích "phích lịch", là hoả của rồng thần, cùng với thuỷ này giúp đỡ lẫn nhau, nên bất chợt biến hoá, mây bay mưa kéo dài làm sao mà không quý? "Lô trung hoả" vợng, "đại hải thuỷ" vượng, như trong trụ được hai hoả, hai thuỷ, trên dưới bổ xung nhau, gọi là "tinh thần câu túc" - khí lực dồi dào, là cách đại quý vậy; "đăng đầu" có phong, "sơn đầu" có quý, đều luận tốt lành, lại cần phải lấy thuỷ khác giúp đỡ mới tốt; "thiên thượng hoả" khắc ngay tại chỗ, tức là kỵ gặp phải. Mộc: "thạch lựu", "dương liễu" đều tốt, "đại lâm" có tốn, "bình địa" có hợi, cũng tốt; "tùng bách", "thạch lựu" gặp bính tân hợp hoá cũng lấy tốt lành mà luận. Lựa chọn tuyệt vời có cách "linh tra nhập thiên hà" - bè thần vào sông thiên hà, là chọn mộc của tử tuyệt không có gốc rễ, trụ không có thổ bồi đắp sẽ trôi nổi trên sông thiên hà cũng đúng vậy. Thổ: tuy rằng không thể khắc, mà trụ gặp phải canh ngọ, tân mùi là khắc nhau tại chỗ, thổ làm bế tắc thuỷ, hoặc thuỷ sanh vào mùa đông, thì thuỷ sẽ kết thành ao hồ, ắt sẽ chủ bẩn đục quá độ; còn lại các thổ "sa trung", "ốc thượng" đều tốt, "thành đầu", "đại dịch" không có ích, "bích thượng" đối xung, cũng làm hư hạnh vận, phúc lành. Thuỷ: kim tuy rằng không thể sanh, độc nhất tân hợi "thoa xuyến kim" tức thuộc càn là trời, thuỷ ở trên trời cao, chỉ cái này rất là tốt; còn lại kim cũng chọn thiên can có canh tân, nhâm quý là hiệu quả, giáp ất vô ích, lại dùng lộc, mã, quý nhân xem xét. Chọn lựa cách tuyệt vời lại lấy người thuỷ sanh được canh tý, nhâm tý là "vân đằng vũ thi" - mây cuồn cuộn mưa rơi, sanh mùa xuân thì khô hạn, mùa hạ thì ngập lụt, mùa đông thì lạnh, độc nhất ba tháng mùa thu là tốt nhất; gặp giáp thìn, ất tỵ, canh thìn, tân tỵ, trong trụ có chữ nhâm là vân, có thìn là long, là "phong vũ tác lâm" - gió mưa tạo thành mưa dầm; nếu sanh các tháng mùa đông, gọi là "sương ngưng bạc lộ" - sương đọng hơi móc mỏng, ngày giờ thích gặp khí ấm áp của dần mão, có thể giải được băng đóng, lạnh cóng, tất cả đều là quý cách vậy.
Giáp thân, ất dậu tỉnh tuyền thuỷ
"Tỉnh tuyền thuỷ": suối lạnh trong mát, dùng để nuôi dưỡng không cùng tận, tám nhà đào khoét để cùng uống, vạn người dân đều nhờ nó cho đời sống hằng ngày. Thuỷ này sanh ở kim mà xuất ra ở mộc, vì thế thích thấy kim là puc1 lành, "sa trung" có thổ, rất thích hợp cho tính chất trợ giúp, kế là "thoa xuyến kim" thanh tú, "bạch lạp kim" với "thoa xuyến kim" xung nhau vì thế không nên gặp lại nhau; "kiếm phong kim" thân dậu quá vượng, e là có tai hoạ lũ lụt; "hải trung kim" không được chọn, ất sửu là quẻ cấn, suối chảy ra dưới núi, cũng tốt. Đây chẳng phải là mộc không thể xuất hiện như lý thuyết của thùng gỗ, vì thế thấy mộc đều tốt, như thấy "bình địa mộc", "đại lâm mộc" cần phải nhờ "kiếm phong kim" đẽo gọt mới có thể dùng được; "tang chá mộc", "dương liễu mộc" thì vô dụng; "tùng bách mộc sẽ làm cho quy lộc thay đổi với nhau, đây là cách rất tốt. Các loại hoả âm dương thấy nhau thì tốt, "phích lịch hoả" tên là nhập thánh, "thái dương" hiệu là chiếu sáng, hai hoả này thấy được thì rất tốt, nhưng không nên cùng tụ hội sẽ là rất hung xấu. Các thổ: "lô bàng", "sa trung" rất tốt, "ốc thượng có nguồn thuỷ sanh từ cổng trời, cũng tốt; "thành đầu thổ", "bích thượng thổ" cùng với thuỷ này không có dinh líu gì nhau; "đại dịch thổ" thì khắc nhau ngay tại chỗ, thuỷ bị thổ che lấp sẽ làm giếng không thể dùng cho ăn uống, cần phải có mộc để trừ bỏ mới có thể dùng. Thuỷ: thích "đại hải thuỷ", là "dẫn phàm nhập thánh" - dẫn dắt kẻ tầm thường vào cỏi thánh; "thiên thượng thuỷ", "giản hạ thuỷ", "trường lưu thuỷ cũng không phải là tai hoạ; "đại khê thuỷ" giáp dần, ất mão thì tốt, như giáp thân thấy ất dậu, ất dậu thấy giáp thân là quan tinh thay đổi nhau rất là tốt; như hai thuỷ ở trụ năm và giờ, mà hai mộc ở trụ tháng và ngày, là cách "thuỷ nhiễu hoa đê" - nước chảy quanh hoa trên đê, chính là cách quý vậy.
Nhâm tuất, quý hợi đại hải thuỷ
"Đại hải thuỷ": thu nhận trăm con sông, rộng lớn mênh mông không bờ bến, bao gồm trời đất rộng lớn, ánh sáng mặt trời, mặt trăng mọc và lặn. Thuỷ này vốn dĩ có thanh có trọc, phân hai loại mà luận: nhâm tuất có thổ khí nên trọc, còn quý hợi can chi thuần thuỷ mà nạp âm lịa là thuỷ, cho nên là thanh. Nhâm tuất thì không ưa sơn, vì thổ khí quá thịnh, có kim thanh thì mới được tốt, còn quý hợi rất thích thấy sơn, rồi sau bản chất nước biển mới yên ổn; "giản hạ" đinh sửu là sơn, "thiên hà" cùng với hải trên dười thông nhau, trong trụ có mộc là bè thì sẽ ngồi bè vào sông thiên hà, rất là thượng cách; "trường lưu thuỷ", "đại khê thuỷ" cuối cùng cũng đều chảy về biển, vì nước biển không chọn dòng chảy nhỏ, cho nên có khả năng trở thành lớn vậy; nhâm thìn là cách "long quy đại hải", càng tốt, trong đó lại phân biệt âm dương hỗ kiến, can chi hợp hoá mới có thể được; "tỉnh tuyền thuỷ" thì có chỗ hạn chế, cùng với biển không thông suốt, cho nên không thích thấy. Kim: chỉ "hải trung kim" là đệ nhất, vì nhâm tuất, quý hợi thích gặp giáp tý, ất sửu; "sa trung kim" cũng được, các kim còn lại thì lấy quý nhân, lộc, mã mà xem xét. Hoả: thích "thiên thượng" với nước biển cùng nhau rực rỡ chói lọi, rất là tốt; "phích lịch" kỷ sửu là sơn, mậu quý hợp hoá, trụ được hoả mộc vượng địa, cũng tốt; "sơn hạ", "sơn đầu", "phúc đăng" các hoả này không nên gặp. Mộc: chỉ nhâm tý, quý sửu, nhâm ngọ, quý mùi tất cả đều tốt; "đại lâm mộc" có phong xung động, làm tính chất thuỷ không yên ổn; "bình địa mộc" nâng đỡ dày, chính là tương đắc ngay tại chỗ; "tùng bách mộc", "thạch lựu mộc" nếu không có thổ chế sẽ bị trôi nổi vô định. Thổ: thích "lộ bàng", "đại dịch", chỉ hai loại thổ này đủ chắc chắn để không bị thoát chảy ra ngoài, huống chi quý hợi gặp mậu thân là đại cách "thiên quan địa trục" - trục trời đất, ngày giờ gặp được đất dày này, cho dù có phong lôi, cũng không bị tai hại gì; "thành đầu thổ" kỷ mão cần phải nhờ cấn sẽ tốt lành, như gặp được "phích lịch hoả", thì lôi hoả biến hoá, nước biển sôi sục, cũng chủ nghèo hèn.
纳音水
[注]丙子、丁丑、甲寅、乙卯、壬辰、癸巳、丙午、丁未、甲申、乙酉、壬戍、癸亥纳音水。
丙子丁丑涧下水
涧下水者,山环细浪,雪涌飞端,相连南北之流,对峙坎离之脉。此水清澄,喜见金养,砂中、剑锋二金最宜。钗钏庚戌丁丑不宜,以丑戌相刑,辛亥见丙子则丙辛化水,尤贵;余金以禄贵参之,取其资生,恶其冲破。见木一位不妨,二三则主劳苦,亦以贵人禄马参之。命中见土,主人多浊天元,若木或化水,则主清吉;砂中、屋上二土,其气稍清,路旁、大驿则浊甚矣,主财散祸生,如辰、戌、丑、未土局,其凶尤甚,以水浊土浑故也。火见太阳,虽炎,中间有既济未济之论;霹雳就位相争,最所不宜。若二火并论,无金资助,主荒淫,有金别论;山下、山头亦吉,若并临,时日则嫌。命中遇水,反成漂荡,见天河为引凡入圣,见大海为福贵朝宗,皆吉,独丁丑见壬戌,则丑戌相刑,丁壬淫合,主风声不雅;大溪性急,长流不静,皆不为吉,大抵此水须以多为主,而无火土夹杂,再得甲寅乙卯之水,则源远流清,真君子人也。
甲寅乙卯大溪水
大溪水者,惊涛薄岸,骇浪浮天,光涵万里之宽,碧倒千山之影,最喜有归有养,遇坎则为有归,得金则为有养,所嫌者,日月时中,有申酉冲动,或辰已风吹,主飘流;井泉水净而止,涧下有丑为艮,天河沾润,大海朝宗,此四水皆吉;长流有风,独不宜见。此水以清金为助养,唯钗、砂最宜,蜡金亦清,若有钗金对冲则不宜;海中虽无造化,甲子属坎,乙丑为艮,乃归源之地,亦吉;泊金最微,不能相生,岂有超显之理?剑金虽化于大溪,却忌卯雷巽风,主性不定。五行有土,皆为无益,屋上、城头壅阻此水,路旁稍可,亦不为奇;壁上独辛丑为山,大驿唯己酉有合,戊申则冲,庚子则刑,皆不为吉。火见太阳,虽假照耀,霹雳尤忌相逢,若二火互见,主贫,单见别论。木见此水,徒被漂荡,唯桑拓木壬子有坎,癸丑为山,为水绕山环之贵,内甲寅人见壬子吉,乙卯人见癸丑吉;余木以禄贵参之,尤忌冲破。
壬辰癸巳长流水
长流水者,混混无穷,滔滔不竭,就下必纳于东南,顺流自归于辰巳。此水喜金生养,金要白蜡、钗钏,以天干有庚辛真金,地支辰巳就位相生,戌亥为归源之地;剑锋纯是金水,泊金水木居东,皆以吉论;海中,砂中无取。嫌土蹇涸,而土有堤防之用,六土之中,取庚辛丙丁为吉,戊己无用。遇火则相刑,而有既济之妙,内壬辰喜见丁卯、丁酉,癸巳喜见戊子、戊午,以天干合化故也;灯头癸巳尤喜见甲辰,山头壬辰尤喜遇乙亥,化龙归禄,取义更佳。逢木虽漂泛,而桑拓癸丑为山,杨柳癸未为园,年时得此水围之,为水绕花堤,大贵格也;松柏、石榴,天干有金相生;大林、平地,虽嫌有土,而癸巳见戊辰,壬辰见己亥,俱吉。水为同类,涧下则丁壬合化,天上则雨露相资;井泉、大溪无益;海乃众流所归,而壬辰之龙得癸亥则龙跃天门,春夏秋生为吉,或龙潜大海,则冬生乃宜,柱中须先得金为妙。又壬辰为自印之水,再见壬辰则刑,刑则自害,见戊戌则冲,冲则泛滥,主凶;癸巳,自绝之水,名为涸流,若遇丙戌、丁亥、庚子、辛丑之土,其涸可待,柱中如得三合生旺之金生之则吉。
丙午丁未天河水
天河水者,乱洒六野,密沛千郊,淋淋泻下银河,细细飞来碧落,此乃天上雨露,发生万物,无不赖之。银河之水,土不能克,故见土不忌,而且有滋润之益;天上之水,地金难生,故见金难益,而亦有涵秀之情;生旺太过则为淫潦,反伤于物,死绝太多则为旱干,又不能生物,要生三秋得时为贵也。水喜长流、大海,内丙午宜癸巳、癸亥,丁未宜壬辰、壬戌,阴阳互见,尤吉;大溪乙卯为雷,井泉己酉为贵,俱以吉论。火喜霹雳,为神龙之火,与此水相济。而倏忽变化,云行雨施,岂有不贵?炉中火旺,大海水旺,如柱中得二火二水,上下上相济,谓之精神俱足,大贵格也;灯头有风,山头有贵,皆以吉论,又须以别水济之方吉;天上就位相克,则忌见之。木石榴、杨柳俱吉,大林有巽,平地有亥,亦吉;松柏、石榴遇丙辛合化,亦以吉论。妙选有灵槎入天河格,是取死绝无根之木,柱无土培则漂流天河是也。土虽不能克,而柱逢庚午辛未,就位相克,土壅水滞,或水又冬生,则水结池塘,必主浊滥;余土如砂中、屋上皆吉,城头,大驿无用,壁上对冲,亦坏造化。水、金虽不能生,独辛亥钗金却属乾天,水在天上,只此最吉;余金亦取天干有庚辛、壬癸者为用,甲乙无益,再以禄马贵人参之始得。妙选又以水生人得庚子、壬子为云腾雨施,生春则旱,夏则潦,冬则寒,独三秋最吉;遇甲辰乙巳、庚辰辛巳,柱中有壬为云,有辰为龙,为风雨作霖;若生冬月,是为霜凝薄露,日时喜遇寅卯温和之气,可解斯冻,俱贵格也。
甲申乙酉井泉水
井泉水者,寒泉清冽,取养不穷,八家凿之以同饮,万民资之以生活。此水生于金而出于木,故喜见金为福,砂中有土,性与之最宜,钗钏清秀次之,蜡金与钗金相冲,故不宜再见;剑锋申酉太旺,恐有泛滥之灾;海金无取,乙丑为艮,山下出泉,亦吉。此非木不能出,譬之桶论,故见木皆吉,如见平地、大林,须假剑金削之,方可取用;桑拓、杨柳无用;松柏则互换归禄,此其最吉。诸火阴阳互见则吉,霹雳名为入圣,太阳号为显照,二火相见最吉,但不宜并有则凶。诸土路旁、砂中最吉,屋上有天门生水之源,亦吉;城头,壁上与此水则无干涉;大驿就位相克,水为土掩则井不食,须有木去之方可。水喜大海,为引凡入圣;天上、涧下、长流亦不为在灾;大溪甲寅乙卯为吉,如甲申见乙酉,乙酉见甲申,官星互换,最吉;如二水在年时,二木在月日,谓之水绕花堤,乃贵格也。
壬戌癸亥大海水
大海水者,总纳百川,汪洋无际,包括乾坤之大,升沉日月之光。此水原有清浊,以两般分论:壬戌有土气为浊,癸亥干支纯水而纳音又水,故清。壬戌人嫌山,以土气太盛,有金清之方吉,癸亥最喜见山,然后海水之性始安;涧下丁丑为山,天河与海上下相通,柱中有木为槎则乘槎入于天河,极为上格;长流、大溪等水毕竟皆归于海,以海水不择细流,故能成其大也;壬辰为龙归大海,尤吉,中间又分阴阳互见,干支合化方可;井泉则有所制,与海不通,故不喜见之。诸金独海中第一,以壬戌癸亥喜见甲子乙丑;砂中亦得,余金又当以贵人禄马参之。火喜天上,与海水相为照耀,最吉;霹雳己丑为山,戊癸合化,柱得木火旺地,亦吉;山下、山头、覆灯诸火不宜见。木唯壬子癸丑、壬午癸未俱吉;大林有风冲动,水性不安;平地厚载,则就位相得;松柏、石榴若无土制则漂泊无定。土爱路旁、大驿,唯此二土足以振之不泄,况癸亥见戊申为天关地轴大格,日时遇此厚土,纵有风雷,亦不为害;城头己卯须资艮则吉,如逢霹雳,则雷火变化,海水汹涌,亦主贫寒。
.
#23
Gửi vào 25/06/2024 - 11:34
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất (tiếp theo)
Lục thập giáp tý chọn tượng nạp kim, mười can có thể là kim, cũng không thể là kim, tuy rằng nguyên nhân quy luật không giống nhau nhưng sự lý ngũ hành biến đổi theo nguyên tắc diệu kỳ, sự lý của nó không thể không hiểu biết. Như giáp ất, canh tân, nhâm quý, đây là ba hành có thể trở thành kim, còn bính đinh, mậu kỷ thì không thể; canh tân vốn dĩ hành kim, cho nên vốn là vật của nhà mình, còn nhâm quý chẳng phải hành kim, sao lại là kim được? Đấy là cái lý của kim thuỷ sanh nhau, nên hành thuỷ cũng có thể là kim, sự tình trên đời có nước trong xanh và vàng trong sáng; mộc của giáp ất bản chất của nó cứng chắc, nhiều đời có mộc hoá thạch, có thể nhìn thấy , cho nên hai can này có thể được chọn làm kim, cùng với vật của nhà mình giống nhau vậy. Bính đinh thuộc hành hoả, khô và cứng không giống nhau, mậu kỷ thuộc hành thổ, mềm cúng không giống nhau, cùng với hành kim trái ngược nhau, tự nó không thể dùng hành kim để luận àn. Mậu kỷ, canh tân, nhâm quý sáu can này có thể trở thành mộc, mà giáp ất, bính đinh không tham dự vào. Vì bính đinh vốn dĩ hành hoả, có thể đốt cháy mộc, vốn là không thể được chọn; giáp ất vốn dĩ hành mộc, sao lại không được chọn? Họ không biết rằng trong ngũ hành thì kim trở về với kim, thuỷ trở lại với thuỷ, hoả trở lại với hoả, thổ trở lại với thổ, chỉ riêng mộc sẽ biến đổi, dùng mộc hỗ trợ tính chất của hoả, thuỷ, thổ, nhờ hợp mà sanh, mạch cạn kiệt nên khô héo thì trở lại với thuỷ vậy, đốt nó thành lửa thì hoả sẽ trở lại vậy, mục nát thành đất thì sẽ trở lại với thổ vậy. Vậy là không có mộc, lý do thoát khỏi cơ thể để hoá thành thần khác vậy. Lục giáp lần lượt trở lại, nắm giử khí vận, ngũ hành phức tạp, đạt được lý của nó thì có thể ngầm hiểu được vậy. Nói chung mộc đều do thuỷ sanh, chất dịch trong mộc chính là thuỷ, cho nên nhâm quý có thể trở thành mộc, bản chất của canh tân thì cứng rắn gống với giáp ất, cho nên giáp ất có thể thành kim, mà canh tân có thể trở thành mộc, cảm ứng giao hoà với nhau, lý do là như nhau. Bính đinh, giáp ất, nhâm quý chọn tượng thuỷ, vì nhâm quý vốn dĩ là hành thuỷ, bính đinh đốt cháy nó, chất lỏng trong giáp ất tức là thuỷ vậy; mậu kỷ hành thổ nhân vì khắc thuỷ, canh tân hành kim làm cho thuỷ khô, tính chất khác nhau vốn không thể dùng thuỷ để luận. Giáp ất, bính đinh, mậu kỷ chọn làm tượng hoả, vì bính đinh vốn dĩ hành hoả, mậu kỷ là sự biến đổi của nó, giáp ất đốt cháy tức là hoả, nhâm quý hành hoả vốn khắc hoả, canh tân hành kim vốn làm hoả khô, đại khái không giống nhau, vốn không thể lấy hoả để luận. Bính đinh, mậu kỷ, canh tân nạp âm thuộc thổ, mậu kỷ vốn dĩ hành thổ, bính đinh hành hoả hoá thành tro, tro tức là thổ, canh tân hành kim lẫn lộn trong thổ, chính là tinh khí của thổ kết tụ, cho nên đều có thể trở thành thổ. Nếu như nhâm quý hành thuỳ thấm xuống mà không ngưng đọng lại, giáp ất hành mộc vươn cao lên không ngừng, vốn không thể dùng thổ để luận. Nghiên cứu cách chọn tượng của nó, có nặng nhẹ, ó lớn nhỏ, có cứng mềm, có mùi vị, có thể chất, có công dụng, mỗi thứ đều không giống nhau, đây lại bao gồm cả vị trí của vùng miền, vượng tướng hay hưu tù không giống nau, mà thiên can nắm giữ hay theo bổn tượng, hay là biến đổi theo tượng, hay là theo tượng khác biệt, trời và người hoà quyện vào nhau, lý sanh khắc của nó giúp thành ý nghĩa, kim này mới có sự khác nhau của "hải trung", "sa trung", "kim bạc", "bạch lạp", "kiếm phong", "thoa xuyến" không còn gì bỏ sót, còn lại mộc, hoả, thuỷ, thổ có thể so sánh theo thí dụ. Đây là cách chọn tượng nạp âm sở dĩ làm thành sự diệu kỳ của vận hạnh, phúc lành vậy.
六十甲子纳金取象,其十干有可以为金,有不可以为金者,虽因所值之数不同而五行类化类从之妙,其理亦不可不知。如甲乙、庚辛、壬癸,此三行者可以为金,而丙丁、戊己不与焉;庚辛原金,固为本家之物,壬癸非金也,又胡为金?此金水相生之理,而水亦可以为金,故世有水碧金明之物;甲乙之木,其质坚强,世有木化为石者,可以例见,故此二者可以取象为金,与本家之物同也。丙丁属火,燥刚不同,戊己属土,柔刚不同,与金相反,自不可以金论。戊己庚辛壬癸此六干者可以为木,而甲乙丙丁不预焉。以丙丁原火,所以焚木,自不可取;甲乙原木,胡不取之?殊不知五行中金还金,水还水,火还火,土还土,独木则变,以木资火、水、土之性,假合而生,脉绝而枯槁则还水也,灼之为火则还火也,腐之为土则还土也。故不用木,所以脱体而化神也。六甲轮环,所值之数,五行错综,所得之理,自可以默识矣。凡木皆水所生,其津液即水也,故壬癸可以为木,庚辛之质,其坚与甲乙同,故甲乙可以为金,而庚辛可以为木,互换交通,其理亦无二也。丙丁、甲乙、壬癸取象为水,以壬癸原水也,丙丁其化也,甲乙之津液即为水也;戊己之土所以克水,庚辛之金所以燥水,气有异也,自不可以水论。甲乙、丙丁、戊己取象为火,以丙丁原火也,戊己其化也,甲乙之生燃即火也,壬癸之水所以克火,庚辛之金所以燥火,类不同也,自不可以火论。丙丁、戊己、庚辛纳音属土,戊己原土也,丙丁之火化而为灰,灰即土也,庚辛之金混于土中,乃土之精气所结,故皆可以为土。若壬癸之水润下不凝,甲乙之木散上不止,自不可以土论。究其取象,有轻重,有大小,有刚柔,有气味,有体质,有功用,各各不同,此又兼地支方隅之位,旺相休囚不同,而干天之所值或从本象,或从化象,或从别象,天人交尽,其理生克,互成其义,此金所以有海中、砂中、金泊、白蜡、剑锋、钗钏之别,而金之象无余蕴矣,余木、火、水、土可以例见。此纳音取象所以为造化之妙也与!
.
Lục thập giáp tý chọn tượng nạp kim, mười can có thể là kim, cũng không thể là kim, tuy rằng nguyên nhân quy luật không giống nhau nhưng sự lý ngũ hành biến đổi theo nguyên tắc diệu kỳ, sự lý của nó không thể không hiểu biết. Như giáp ất, canh tân, nhâm quý, đây là ba hành có thể trở thành kim, còn bính đinh, mậu kỷ thì không thể; canh tân vốn dĩ hành kim, cho nên vốn là vật của nhà mình, còn nhâm quý chẳng phải hành kim, sao lại là kim được? Đấy là cái lý của kim thuỷ sanh nhau, nên hành thuỷ cũng có thể là kim, sự tình trên đời có nước trong xanh và vàng trong sáng; mộc của giáp ất bản chất của nó cứng chắc, nhiều đời có mộc hoá thạch, có thể nhìn thấy , cho nên hai can này có thể được chọn làm kim, cùng với vật của nhà mình giống nhau vậy. Bính đinh thuộc hành hoả, khô và cứng không giống nhau, mậu kỷ thuộc hành thổ, mềm cúng không giống nhau, cùng với hành kim trái ngược nhau, tự nó không thể dùng hành kim để luận àn. Mậu kỷ, canh tân, nhâm quý sáu can này có thể trở thành mộc, mà giáp ất, bính đinh không tham dự vào. Vì bính đinh vốn dĩ hành hoả, có thể đốt cháy mộc, vốn là không thể được chọn; giáp ất vốn dĩ hành mộc, sao lại không được chọn? Họ không biết rằng trong ngũ hành thì kim trở về với kim, thuỷ trở lại với thuỷ, hoả trở lại với hoả, thổ trở lại với thổ, chỉ riêng mộc sẽ biến đổi, dùng mộc hỗ trợ tính chất của hoả, thuỷ, thổ, nhờ hợp mà sanh, mạch cạn kiệt nên khô héo thì trở lại với thuỷ vậy, đốt nó thành lửa thì hoả sẽ trở lại vậy, mục nát thành đất thì sẽ trở lại với thổ vậy. Vậy là không có mộc, lý do thoát khỏi cơ thể để hoá thành thần khác vậy. Lục giáp lần lượt trở lại, nắm giử khí vận, ngũ hành phức tạp, đạt được lý của nó thì có thể ngầm hiểu được vậy. Nói chung mộc đều do thuỷ sanh, chất dịch trong mộc chính là thuỷ, cho nên nhâm quý có thể trở thành mộc, bản chất của canh tân thì cứng rắn gống với giáp ất, cho nên giáp ất có thể thành kim, mà canh tân có thể trở thành mộc, cảm ứng giao hoà với nhau, lý do là như nhau. Bính đinh, giáp ất, nhâm quý chọn tượng thuỷ, vì nhâm quý vốn dĩ là hành thuỷ, bính đinh đốt cháy nó, chất lỏng trong giáp ất tức là thuỷ vậy; mậu kỷ hành thổ nhân vì khắc thuỷ, canh tân hành kim làm cho thuỷ khô, tính chất khác nhau vốn không thể dùng thuỷ để luận. Giáp ất, bính đinh, mậu kỷ chọn làm tượng hoả, vì bính đinh vốn dĩ hành hoả, mậu kỷ là sự biến đổi của nó, giáp ất đốt cháy tức là hoả, nhâm quý hành hoả vốn khắc hoả, canh tân hành kim vốn làm hoả khô, đại khái không giống nhau, vốn không thể lấy hoả để luận. Bính đinh, mậu kỷ, canh tân nạp âm thuộc thổ, mậu kỷ vốn dĩ hành thổ, bính đinh hành hoả hoá thành tro, tro tức là thổ, canh tân hành kim lẫn lộn trong thổ, chính là tinh khí của thổ kết tụ, cho nên đều có thể trở thành thổ. Nếu như nhâm quý hành thuỳ thấm xuống mà không ngưng đọng lại, giáp ất hành mộc vươn cao lên không ngừng, vốn không thể dùng thổ để luận. Nghiên cứu cách chọn tượng của nó, có nặng nhẹ, ó lớn nhỏ, có cứng mềm, có mùi vị, có thể chất, có công dụng, mỗi thứ đều không giống nhau, đây lại bao gồm cả vị trí của vùng miền, vượng tướng hay hưu tù không giống nau, mà thiên can nắm giữ hay theo bổn tượng, hay là biến đổi theo tượng, hay là theo tượng khác biệt, trời và người hoà quyện vào nhau, lý sanh khắc của nó giúp thành ý nghĩa, kim này mới có sự khác nhau của "hải trung", "sa trung", "kim bạc", "bạch lạp", "kiếm phong", "thoa xuyến" không còn gì bỏ sót, còn lại mộc, hoả, thuỷ, thổ có thể so sánh theo thí dụ. Đây là cách chọn tượng nạp âm sở dĩ làm thành sự diệu kỳ của vận hạnh, phúc lành vậy.
六十甲子纳金取象,其十干有可以为金,有不可以为金者,虽因所值之数不同而五行类化类从之妙,其理亦不可不知。如甲乙、庚辛、壬癸,此三行者可以为金,而丙丁、戊己不与焉;庚辛原金,固为本家之物,壬癸非金也,又胡为金?此金水相生之理,而水亦可以为金,故世有水碧金明之物;甲乙之木,其质坚强,世有木化为石者,可以例见,故此二者可以取象为金,与本家之物同也。丙丁属火,燥刚不同,戊己属土,柔刚不同,与金相反,自不可以金论。戊己庚辛壬癸此六干者可以为木,而甲乙丙丁不预焉。以丙丁原火,所以焚木,自不可取;甲乙原木,胡不取之?殊不知五行中金还金,水还水,火还火,土还土,独木则变,以木资火、水、土之性,假合而生,脉绝而枯槁则还水也,灼之为火则还火也,腐之为土则还土也。故不用木,所以脱体而化神也。六甲轮环,所值之数,五行错综,所得之理,自可以默识矣。凡木皆水所生,其津液即水也,故壬癸可以为木,庚辛之质,其坚与甲乙同,故甲乙可以为金,而庚辛可以为木,互换交通,其理亦无二也。丙丁、甲乙、壬癸取象为水,以壬癸原水也,丙丁其化也,甲乙之津液即为水也;戊己之土所以克水,庚辛之金所以燥水,气有异也,自不可以水论。甲乙、丙丁、戊己取象为火,以丙丁原火也,戊己其化也,甲乙之生燃即火也,壬癸之水所以克火,庚辛之金所以燥火,类不同也,自不可以火论。丙丁、戊己、庚辛纳音属土,戊己原土也,丙丁之火化而为灰,灰即土也,庚辛之金混于土中,乃土之精气所结,故皆可以为土。若壬癸之水润下不凝,甲乙之木散上不止,自不可以土论。究其取象,有轻重,有大小,有刚柔,有气味,有体质,有功用,各各不同,此又兼地支方隅之位,旺相休囚不同,而干天之所值或从本象,或从化象,或从别象,天人交尽,其理生克,互成其义,此金所以有海中、砂中、金泊、白蜡、剑锋、钗钏之别,而金之象无余蕴矣,余木、火、水、土可以例见。此纳音取象所以为造化之妙也与!
.
#24
Gửi vào 25/06/2024 - 11:42
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Luận Thiên Can Dương Âm Sanh Tử
Có người hỏi: mười can có phân chia âm dương, cương nhu, sanh tử, thuyết đó đúng không?
Trả lời: mười can có năm dương năm âm, can dương là cương, can âm là nhu, sự phân chia sanh tử giống như mẹ sanh con, con trưởng thành thì mẹ già chết, lý đó tự nhiên.
Phú nói: dương sanh âm tử, dương tử âm sanh, tuần hoàn thuận nghịch, biến hoá có thể thấy được.
Giáp mộc chính là đứng đầu mười can, cai quản bốn mùa, nuôi dưỡng vạn vật, tại trời là sấm là rồng, tại đất là xà lương là đống - rường cột, gọi là dương mộc. Lộc của nó ở dần. Dần là mộc của ly thượng, rễ của nó đã đứt, cành của nó bị chặt, gọi là "tử mộc". Tử mộc: là "cương mộc" - gỗ cứng, cần búa rìu đẽo gọt mới thành khí cụ. Trường sanh ở hợi, hợi là nước của sông đầm, ao hồ, danh gọ là "tử thuỷ" - nước tù đọng, vì thế "tử mộc bỏ trong "tử thuỷ", tuy rằng ngâm nhiều năm mà không thể hư mục, giống như mộc của ngọn cây xuân, ở trong nước sẽ thêm bền vững. Nếu như rời nước lên bờ nên gặp được quý thuỷ, quý thuỷ là "hoạt thuỷ" - nước chảy, là mưa móc trong trời đất, phơi nắng dầm mưa, khô ướt không đều, trở thành khô mục, sẽ có thể sanh ra hoả, hoả vượng nên đốt cháy mộc, cho nên có lo lắng tro bay khói tắt. Vả chăng thuộc ly hoả, hoả nhờ mộc sanh, mộc là mẹ của hoả, hoả là con của mộc, con vượng thì mẹ suy, làm sao có lý do không kết thúc? Cho nên giáp mộc "tử" ở ngọ. Kinh sách nói: mộc không thể chạy về hướng nam. Đó là lý do tại sao vậy.
Ất mộc tiếp sau giáp, phát triển vạn vật, nuôi sống không ngừng; ở trên trời là gió, ở dưới đất là cây, gọi là "âm mộc". Lộc của nó ở mão, mão là mộc của cây to có rễ sâu lá xum xuê, gọi là "hoạt mộc" - gỗ sống. "Hoạt mộc": là gỗ mềm, sợ dương kim đẽo chặt là nổi lo lắng, sợ mùa thu đến mộc tàn tạ, điêu linh, muốn thổ thấm nhuận để bồi bổ gốc rễ, lợi dụng "hoạt thuỷ" để nuôi cành lá. "Hoạt thuỷ": là quý thuỷ, tức là mưa móc của trời, nguồn suối của đất; thổ thấm nhuần: là kỷ thổ, như đất ruộng cày bừa, trở nên việc thu hoạch mùa màng. Kỷ lộc ở ngọ, ngọ chính là lục dương cạn kiệt, một âm sanh trở lại, nên hoa lúa trỗ ở ngọ thời, ất mộc sanh ở đất ngọ. Tháng mười là hợi kiến, hợi chính là thuần âm nắm lệnh, nhâm lộc ở hợi đang nắm quyền, "tử thuỷ" tràn ngập, thổ mỏng rễ yếu, kém phát triển. Cho nên ất mộc "tử" - chết ở hợi. Kinh sách nói: "thuỷ phiếm mộc phù" - nước tràn ngập mộc trôi nổi. Đó là lý do tại sao vậy.
Bính: hoả đẹp ở giữa trời, chiếu sáng khắp thiên hạ; ở trên trời là mặt trời là điện chớp, ở dưới đất là lò bếp, là lò rèn, gọi là "dương hoả". Lộc của nó ở tỵ, tỵ là hoả của lò bếp, lò rèn, gọi là "tử hoả" - lửa chết. "Tử hoả" là "cương hoả" - lửa mạnh, thích "tử mộc" - gỗ khô để tạo ra ngọn lửa, ghét kim, thổ che lấp ánh sáng của nó. "Tử môc" là giáp mộc, giáp lộc ở dần, dần chính là tường thành của dương mộc, mộc thịnh sanh ra hoả, ẩn trong mộc không dùng được, không ai dùng nó không thể sinh trưởng, vì thế "ngũ dương" đều xuất hiện ở tự nhiên là tiên thiên, "ngũ âm" đều liên hệ ở người là hậu thiên, bính hoả sanh ở dần, cái lý của nó rất rõ ràng. Như hoả của thái dương bắt đầu mọc lên từ phương đông, đến phương tây thì lặn, vả chăng dậu thuộc đoài, đoài là "trạch" - ao đầm; kỷ thổ sanh kim, kim khí thịnh, che lấp ánh sáng của bính hoả, không thể chiếu soi ánh sáng rực rỡ, làm sao không tối tăm được? Cho nên bính hoả sanh ở dần mà tử ở dậu. Kinh sách nói: hoả không nên hướng về phía tây. Đó là lý do tại sao vậy.
Đinh: hoả tiếp sau bính, là linh hồn của vạn vật, tượng của sự văn minh, ở trên trời là các sao, ở dưới đất là hoả của đèn, gọi là "âm hoả". Lộc của nó ở ngọ, chính là đứng đầu lục âm, trong có ất mộc, có khả năng sanh đinh hoả. Ất là "hoạt mộc", đinh là "hoạt hoả" - lửa sống. "hoạt hoả" là "nhu hoả" - lửa mềm, đinh thich ất mộc sanh cho, chính là âm sanh âm vậy, giống như người đời dùng dầu thực vật, dầu mè làm đèn làm nến, dầu chính là chất béo (dầu, mỡ) của ất mộc. Đến với thời gian của dậu thì tứ âm nắm quyền, hoả của đèn sẽ có khả năng chiếu sáng, các sao sẽ có khả năng rực rỡ, cho nên đinh sanh ở dậu; đến đất của dần tam dương hội hợp nên dương hoả sanh ra và âm hoả rút lui, giống như khi mặt trời mọc ở hướng đông thì các ngôi sao không còn chiếu sáng, đèn tuy có ngọn lửa, nhưng không thể biểu lộ ánh sáng của nó. Cho nên đinh sanh ở dậu mà tử ở dần. Kinh cách nói: lửa sáng thì tắt. Đó là lý do tại sao vậy.
Mậu thổ hồng ? (không rõ chữ gì mà chấm dấu hỏi) chưa rõ rệt, giữ chặt trung tâm, trời đất đã phân chia, sau mới chuyển tải vạn vật, tụ họp ở trung ương, rời rạc ở bốn hướng. Ở trên trời là sương mù, ở dưới đất là núi, gọi là "dương thổ". Lộc của nó ở tỵ, tỵ là hoả của bếp, lò rèn, đúc thành dụng cụ, gõ vào có âm thanh, bản tính của nó rất cương mãnh, không thể xúc phạm. Thích "dương hoả" cùng tăng trưởng, sợ "âm kim" trộm khí. "Dương hoả": là bính hoả, bính sanh ở dần, dần thuộc quẻ cấn, cấn là núi, núi là đất cứng tức là mậu thổ vậy, nhờ bính hoả được sanh ra. Cho tới đất của dậu, dậu thuộc quẻ đoài, kim tiêu thụ khí trộm của mậu thổ, chính là kim thịnh thì thổ hư, mẹ suy mà con vượng, lại thêm kim đập vào đá thì vỡ vụn, làm sao có thể kéo dài tuổi thọ? Cho nên mậu thổ sanh ở dần mà tử ở dậu. Kinh sách nói: thổ trống rỗng sẽ sụp đỗ. Đó là lý do tại sao vậy.
Kỷ thổ tiếp sau mậu, chính là sức sống của trời, là chân thổ ở đất. Thanh khí bay lên xung hoà trời đất, trọc khí giáng xuống, tụ họp sanh vạn vật, gọi là âm thổ. Tam tài gồm trời đất và người đều không thể thiếu sót thổ này, giống như người mai mối trong trời đất, âm dương bỏ lỡ điều này, làm sao có thể thành vợ chồng? Cho nên hiện diện ở bốn hành, gửi ở bốn mùa mà vượng, chính là chân thổ vậy. Thích đinh hoả sanh, sợ dương hoả làm khô táo. Lộc của nó ở ngọ, đinh hoả trong ngọ có khả năng sanh kỷ thổ, bị ất mộc trộm khí vun trồng của nó. Đến đất của dậu, đinh hoả được sanh, đinh hoả đã sanh rồi thì kỷ thổ cũng có khả năng được sanh vậy; đến dần sử dụng đồ vật, mộc hoả nắm quyền, rèn luyện kỷ thổ, rốt cuộc trở thành đá nam châm, trái lại mất đi khí trung hoà, có lý do gì mà không thương tổn? Cho nên kỷ thổ sanh ở dậu mà tử ở dần. Kinh sách nói: hoả táo thổ liệt - lửa khô nên đất nứt. Đó là lý do tại sao vậy.
Canh kim nắm quyền túc sát của trời đất, chủ thay đổi chiến tranh trong thế gian, ở trên trời là gió sương, ở dưới đất là kim và sắt, gọi là "dương kim". Lộc của nó ở thân, thân chính là "cương kim", thích mậu thổ sanh, sợ quý thuỷ chìm đắm; trường sanh ở tỵ, mậu thổ trong tỵ có khả năng sanh canh kim, chính là dương sanh dương vậy; tỵ là hoả của lò rèn, đúc luyện canh kim, trở thành chuông vạc, gõ vào có âm thanh, nếu như gặp thuỷ thổ che lấp sẽ không có âm thanh, gọi là vàng thật đầy không có âm thanh. Đến đất của tý nơi thuỷ vượng, kim hàn thuỷ lãnh - kim nghèo hèn mà thuỷ thì nhạt nhẽo, con vượng mà mẹ suy, cũng vì tai hoạ chìm đắm, làm sao có thể được phục sanh? Cho nên canh kim sanh ở tỵ mà tử ở tý. Kinh sách nói: kim trầm thuỷ để - vàng chìm dưới đáy nước. Đấy là lý do tại sao vậy.
Tân kim tiếp sau canh, là đứng đầu của năm loại kim - vàng, bạc, đồng, sắt và thiếc (hoặc chì), đứng đầu "bát thạch" - tám loại đá, ở trên trời là mặt trời, mặt trăng, chính là tinh hoa của "thái âm", ở dưới đất là kim, kim chính là quặng mỏ của "sơn thạch" - núi đá, gọi là "âm kim". Lộc của nó ở dậu, kỷ thổ trong dậu có khả năng sanh cho tân kim, chính là âm sanh cho âm vậy, tức là "nhu kim", là tinh hoa của "thái âm". Trường sanh ở tý, tý chính là tường thành của khảm thuỷ, nhất dương trong khảm thuộc kim, ngoài ra còn có hai âm thuộc thổ, thổ có khả năng sanh kim, con ẩn trong thai mẹ, chưa xuất hiện thân thể, được khi tý thuỷ gợn sóng lăn tăn, gạn bỏ phù sa, mới có thể trở thành xuất sắc, đây chính là thuỷ trợ giúp kim chiếu rọi rực rỡ, màu sắc rõ ràng trong suốt. Đến dất tỵ là hoả của lò rèn, tinh chế tân kim thành vũ khí chết chóc, cũng bị mậu thổ trong tỵ chôn vùi, hình thể của nó không có khả năng biến hoá, làm sao có thể phục sanh? Cho nên tân kim sanh ở tý mà tử ở tỵ vậy. Kinh sách nói rằng: thổ nhiều kim bị chôn vùi. Đấy là lý do tại sao vậy.
Nhâm thuỷ thích "dương thổ" trợ giúp làm đê phòng nước lụt, nhưng lo sợ "âm mộc" trộm khí. Ở trên trời là mây, ở dưới đất là ao hồ. gọi là "dương thuỷ". Lộc của nó ở hợi, hợi là nước tồn trữ trong ao hồ, đầm lầy, gọi là "tử thuỷ" - nước tù đọng. "Tử thuỷ" là "dương thuỷ", nhờ canh kim sanh cho, canh lộc ở thân có khả năng sanh nhâm thuỷ, chính là ngũ hành chuyển hoá dưỡng khí. Đến đất của mão, mão chính là hoa lá và cây, mộc vượng ở mão sẽ có khả năng khắc thổ, thổ trống rỗng sẽ sụp đỗ, vì thế đê phòng lũ lụt sẽ sụp đỗ, và nhâm thuỷ sẽ chảy ra ngoài, tràn ngập khắp nơi, và dòng chảy không quay trở lại, lại bị "âm mộc" trộm khí, làm sao có thể sống còn được? Cho nên nhâm thuỷ sanh ở thân mà tử ở mão vậy. Kinh sách nói: "tử thuỷ" chảy lung tung, loạn tạp. Đấy chính là lý do tại sao vậy.
Quý thuỷ tiếp sau nhâm, chính là đúng một vòng của khí âm dương thiên can, trở thành cuối cùng và ngược lại dần khởi đầu, cho nên nó được phân chia thành thuỷ thanh hay trọc, tản mác khắp bốn phương, có công trợ giúp thổ được giữ ẩm, đức hạnh nuôi sống vạn vật. Ở trên trời là mưa móc, ở dưới đất là mạch suối, gọi là "âm thuỷ". Lộc của nó ở tý, tý chính là nơi mà âm cực sanh dương, nơi sanh ra tân và canh bị chết; quý là "hoạt thuỷ" - nước chảy, "hoạt thuỷ là "nhu thuỷ", thích âm kim sanh cho, sợ dương kim làm đình trệ, muốn âm mộc di động rễ của nó sẽ có khả năng khai thông âm thổ, âm thổ thông với mạch đất rồi sẽ có khả năng chảy thông suốt. Tháng hai là kiến mão, là hoa quả và cây, mộc vượng, thổ ốc, quý thuỷ mới được thông suốt. Đến đất của thân, tam âm dụng sự quẻ phủ nắm quyền, trời đất không tiếp nhau, vạn vật không thông suốt, khôn thổ trong thân, canh kim trở thành đê ngăn chặn, khiến quý thuỷ không có khả năng chảy thuận lợi, bị vây hãm ở hồ ao, không có chỗ để thi triễn tài năng, làm sao có thể tái sanh vật chất? Vì thế quý thuỷ sanh ở mão mà tử ở thân. Kinh sách nói: thuỷ không nên chảy về phía tây. Đấy là lý do tại sao vậy.
Luận thuyết cho rằng: nguyên lý trường sanh của ngũ hành với vạn vật cũng giống nhau. Giông như mặt trời lúc mới mọc, ánh sáng có thể ngắm nhìn, đến buổi trưa ánh sáng càng trở nên sáng hơn, mặt trăng lúc mới mọc tươi đẹp như mày ngài, đến ngày rằm thì tròn và trong sáng; giống như đời sống con người: bé rồi trưởng thành, già rồin chết đều là thường lý vậy. Con người mới sanh, em bé kêu khóc trước khi cười, đến tuổi trưởng thành mới phân biệt được khôn ngoan hay ng* d*t, tất cả vạn vật đều giống nhau. Giáp mộc sanh ở hợi, hợi lệnh thuộc thuỷ, giáp mộc ở đó, mộc vượng ở mùa xuân, đến dần là lâm quan quy lộc, giáp mộc được tường thành bao bọc, đến ngọ sẽ chết; bính hoả sanh ở dần, dần lệnh thuộc mộc, bính hoả ở đó, hoả vượng ở mùa hạ, đến tỵ là lâm quan quy lộc, bính hoả được tường thành bao bọc, đến dậu sẽ chết; canh kim sanh ở tỵ thân mậu thổ, canh kim ở đó, kim vượng ở mùa thu, đến thân là lâm quan quy lộc, canh kim được tường thành bao bọc, đến tý sẽ chết; nhâm thuỷ sanh ở thân, thân lệnh thuộc kim, nhâm thuỷ ở đó, thuỷ vượng mùa đông, đến hợi là lâm quan quy lộc, nhâm thuỷ được tường thành bao bọc, đến mão sẽ chết; mậu thổ sanh ở dần, trong dần có hoả, mậu thổ ở đó, là thời gian của tam dương, đất mầu mỡ chuyển động, vạn vật xảy ra, là do mậu sanh ở dần vậy. Thổ vượng ở bốn tháng cuối mùa, hoả thổ giống như mẹ và con cho nên mậu theo bính mà lâm quan quy lộc ở tỵ.
论天干阴阳生死
或问:十干有阴阳、刚柔、生死之分,其说然否?
答曰:十干五阳五阴,阳者为刚,阴者为柔,其生死之分如母生子,子成而母老死,理之自然。
赋曰:阳生阴死,阳死阴生,循环逆顺,变化见矣。
甲木乃十干之首,主宰四时,生育万物;在天为雷为龙,在地为梁为栋,谓之阳木。其禄到寅。寅为离上之木,其根已断,其枝已绝,谓之死木。死木者,刚木也,须仗斧斤斫削方成其器。长生于亥,亥为河潭池沼之水,名曰死水,故死木放死水中,虽浸年久,不能朽坏,譬如杪椿之木,在于水中则能坚固。若离水至岸而遇癸水,癸水者,活水也,为天地间雨露,日晒雨淋,干湿不调,遂成枯朽,则能生火,火旺而木必焚矣,故有灰飞烟灭之患耳。且午属离火,火赖木生,木为火母,火为木子,子旺母衰,焉有不终之理?故甲木死于午。经云:木不南奔。正谓此也。
乙木继甲之后,发育万物,生生不已;在天为风,在地为树,谓之阴木。其禄到卯,卯为树木,根深叶茂,谓之活木。活木者,柔木也,惧阳金斫伐为患,畏秋至木落凋零,欲润土而培其根,利活水而滋其枝叶。活水者,癸水也,即天之雨露,地之泉源;润土者,己土也,如耕耨之土,成稼穑之功。己禄在午,午乃六阳消尽,一阴复生,故稻花开于午时,乙木生于午地。十月建亥,亥乃纯阴司令,壬禄到亥当权,死水泛滥,土薄根虚,有失培养。故乙木死于亥。经云:水泛木浮。正此谓也。
丙火丽乎中天,普照六合;在天为日为电,在地为炉为冶,谓之阳火。其禄在巳,巳为炉冶之火,谓之死火。死火者,刚火也,喜死木发生其焰,恶金、土掩其光。死木者,甲木也,甲禄在寅,寅乃阳木之垣,木盛火生,隐于木石之间,非人用之,不能生发,故五阳皆出乎自然而为先天,五阴皆系乎人事而为后天,丙火生于寅,其理甚明。如太阳之火自东而升,至西而没,且酉属兑,兑为泽;己土生金,金气盛,掩息丙火之光,不能显辉,岂无晦乎?故丙火生于寅而死于酉。经云:火无西向。正此谓也。
丁火继丙之后,为万物之精,文明之象;在天为列星,在地为灯火,谓之阴火。其禄到午,乃六阴之首,内有乙木,能生丁火。乙为活木,丁为活火。活火者,柔火也,丁喜乙木而生,乃阴生阴也,如世人用菜油麻油为灯烛之义,夫油乃乙木之膏也。至于酉时,四阴司权,灯火则能辉煌,列星则能灿烂,故丁生于酉;至于寅地,三阳当合,阳火而生,阴火而退,如日东升,列星隐耀,灯虽有焰,不显其光。故丁生于酉而死于寅也。经云:火明则灭。正谓此也。
戊土洪??未判,抱一守中,天地既分,厚载万物,聚于中央,散于四维。在天为雾,在地为山,谓之阳土。其禄在巳,巳为炉冶之火,锻炼成器,叩之有声,其性刚猛,难以触犯。喜阳火相生,畏阴金盗气。阳火者,丙火也,丙生于寅,寅属艮,艮为山,山为刚土,即戊土也,赖丙火而生焉。至于酉地,酉属兑,金耗盗戊土之气,乃金盛土虚,母衰子旺,又金击石碎,岂能延寿?故戊土生于寅而死于酉。经云:土虚则崩。正此谓也。
己土继戊之后,乃天之元气,地之真土。清气上升,冲和天地,浊气下降,聚生万物,谓之阴土。天地人三才皆不可缺此土,如乾坤中一媒妁,阴阳失此,岂能配偶?故于四行无不在,于四时则寄旺焉,乃真土也。喜丁火而生,畏阳火而燥。其禄到午,午中丁火能生己土,被乙木盗其栽培之气。至于酉地,丁火而生,丁火既生,己土亦能生也;至寅用事,木火司权,锻炼己土,遂成磁石,反失中和之气,岂有不损之理?故己土生于酉而死于寅。经云:火燥土裂。正此谓也。
庚金掌天地肃杀之权,主人间兵革之变。在天为风霜,在地为金铁,谓之阳金。其禄到申,申乃刚金,喜戊土而生,畏癸水而溺;长生于巳,巳中戊土能生庚金,乃阳生阳也;巳为炉冶之火,锻炼庚金,遂成钟鼎之器,叩之有声,若遇水土沉埋则无声也,所谓金实无声。至于子地,水旺之乡,金寒水冷,子旺母衰,亦遭沉溺之患,岂能复生?故庚金生于巳而死于子。经云:金沉水底。正此谓也。
辛金继庚之后,为五金之首,八石之元。在天为日月,乃太阴之精,在地为金,金乃山石之矿,谓之阴金。其禄到酉,酉中己土能生辛金,乃阴生阴也,谓之柔金,为太阴之精。长生于子,子乃坎水之垣,坎中一阳属金,另有二阴属土,土能生金,子隐母胎,未显其体,得子水荡漾,淘去浮砂,方能出色,此乃水济金辉,色光明莹。至于巳地,巳为炉冶之火,将辛金炼成死器,亦被巳中戊土埋没,其形不能变化,岂能复生?故辛金生于子而死于巳也。经云;土重金埋。正谓此也。
壬水喜阳土而为堤岸之助,畏阴木而为盗气之忧。在天为云,在地为泽,谓之阳水。其禄在亥,亥为池沼存留之水,谓之死水。死水者,刚水也,赖庚金而生,庚禄到申,能生壬水,乃五行转养之气。至于卯地,卯乃花叶树木,木旺于卯则能克土,土虚则崩,故堤岸崩颓,而壬水走泄,散漫四野,流而不返,又被阴木盗气,岂得存活?故壬水生于申而死于卯也。经云:死水横流。正谓此也。
癸水继壬之后,乃天干一周阴阳之气,成于终而反于始之渐,故其为水清浊以分,散诸四方,有润下助土之功,滋生万物之德。在天为雨露,在地为泉脉,谓之阴水。其禄在子,子乃阴极阳生之地,辛生庚死之垣;癸为活水,活水者,柔水也,喜阴金而生,畏阳金而滞,欲阴木行其根则能疏通阴土,阴土既通于地脉则能流畅。二月建卯,为花果树木,木旺土屋,癸水方得通达。至于申地,三阴用事,否卦司权,天地不交,万物不通,申中坤土、庚金遂成围堰,使癸水不能流畅,困于池沼,无所施设,岂再生物?故癸水生于卯而死于申。经云:水不西流。正谓此也。
论曰:五行长生之理与万物亦同。且如日之初出时,光明可观,至午离宫,光明愈甚,月之初出,巧若蛾眉,至望光明圆洁;若人之生,自少至壮,自老至死,常理也。人之初生也,婴孩啼笑而已,至壮贤愚方辨,万物皆一同。甲木生亥,亥令属水,甲木居焉,木旺于春,至寅临官归禄,甲木得垣,至午则死;丙火生寅,寅令属木,丙火居焉,火旺于夏,至已临官归禄,丙火得垣,至酉则死;庚金生巳,巳申戊土,庚金居焉,金旺于秋,至申临官归禄,庚金得垣,至子则死;壬水生申,申令属金,壬水居焉,水旺于冬,至亥临官归禄,壬水得垣,至卯则死;戊土生于寅,寅中有火,戊土生焉,三阳之时,土膏以动,万物发生,是戊生于寅也。土旺于四季,火土有如母子相生,所以戊随丙临官归禄巳。
.
Luận Thiên Can Dương Âm Sanh Tử
Có người hỏi: mười can có phân chia âm dương, cương nhu, sanh tử, thuyết đó đúng không?
Trả lời: mười can có năm dương năm âm, can dương là cương, can âm là nhu, sự phân chia sanh tử giống như mẹ sanh con, con trưởng thành thì mẹ già chết, lý đó tự nhiên.
Phú nói: dương sanh âm tử, dương tử âm sanh, tuần hoàn thuận nghịch, biến hoá có thể thấy được.
Giáp mộc chính là đứng đầu mười can, cai quản bốn mùa, nuôi dưỡng vạn vật, tại trời là sấm là rồng, tại đất là xà lương là đống - rường cột, gọi là dương mộc. Lộc của nó ở dần. Dần là mộc của ly thượng, rễ của nó đã đứt, cành của nó bị chặt, gọi là "tử mộc". Tử mộc: là "cương mộc" - gỗ cứng, cần búa rìu đẽo gọt mới thành khí cụ. Trường sanh ở hợi, hợi là nước của sông đầm, ao hồ, danh gọ là "tử thuỷ" - nước tù đọng, vì thế "tử mộc bỏ trong "tử thuỷ", tuy rằng ngâm nhiều năm mà không thể hư mục, giống như mộc của ngọn cây xuân, ở trong nước sẽ thêm bền vững. Nếu như rời nước lên bờ nên gặp được quý thuỷ, quý thuỷ là "hoạt thuỷ" - nước chảy, là mưa móc trong trời đất, phơi nắng dầm mưa, khô ướt không đều, trở thành khô mục, sẽ có thể sanh ra hoả, hoả vượng nên đốt cháy mộc, cho nên có lo lắng tro bay khói tắt. Vả chăng thuộc ly hoả, hoả nhờ mộc sanh, mộc là mẹ của hoả, hoả là con của mộc, con vượng thì mẹ suy, làm sao có lý do không kết thúc? Cho nên giáp mộc "tử" ở ngọ. Kinh sách nói: mộc không thể chạy về hướng nam. Đó là lý do tại sao vậy.
Ất mộc tiếp sau giáp, phát triển vạn vật, nuôi sống không ngừng; ở trên trời là gió, ở dưới đất là cây, gọi là "âm mộc". Lộc của nó ở mão, mão là mộc của cây to có rễ sâu lá xum xuê, gọi là "hoạt mộc" - gỗ sống. "Hoạt mộc": là gỗ mềm, sợ dương kim đẽo chặt là nổi lo lắng, sợ mùa thu đến mộc tàn tạ, điêu linh, muốn thổ thấm nhuận để bồi bổ gốc rễ, lợi dụng "hoạt thuỷ" để nuôi cành lá. "Hoạt thuỷ": là quý thuỷ, tức là mưa móc của trời, nguồn suối của đất; thổ thấm nhuần: là kỷ thổ, như đất ruộng cày bừa, trở nên việc thu hoạch mùa màng. Kỷ lộc ở ngọ, ngọ chính là lục dương cạn kiệt, một âm sanh trở lại, nên hoa lúa trỗ ở ngọ thời, ất mộc sanh ở đất ngọ. Tháng mười là hợi kiến, hợi chính là thuần âm nắm lệnh, nhâm lộc ở hợi đang nắm quyền, "tử thuỷ" tràn ngập, thổ mỏng rễ yếu, kém phát triển. Cho nên ất mộc "tử" - chết ở hợi. Kinh sách nói: "thuỷ phiếm mộc phù" - nước tràn ngập mộc trôi nổi. Đó là lý do tại sao vậy.
Bính: hoả đẹp ở giữa trời, chiếu sáng khắp thiên hạ; ở trên trời là mặt trời là điện chớp, ở dưới đất là lò bếp, là lò rèn, gọi là "dương hoả". Lộc của nó ở tỵ, tỵ là hoả của lò bếp, lò rèn, gọi là "tử hoả" - lửa chết. "Tử hoả" là "cương hoả" - lửa mạnh, thích "tử mộc" - gỗ khô để tạo ra ngọn lửa, ghét kim, thổ che lấp ánh sáng của nó. "Tử môc" là giáp mộc, giáp lộc ở dần, dần chính là tường thành của dương mộc, mộc thịnh sanh ra hoả, ẩn trong mộc không dùng được, không ai dùng nó không thể sinh trưởng, vì thế "ngũ dương" đều xuất hiện ở tự nhiên là tiên thiên, "ngũ âm" đều liên hệ ở người là hậu thiên, bính hoả sanh ở dần, cái lý của nó rất rõ ràng. Như hoả của thái dương bắt đầu mọc lên từ phương đông, đến phương tây thì lặn, vả chăng dậu thuộc đoài, đoài là "trạch" - ao đầm; kỷ thổ sanh kim, kim khí thịnh, che lấp ánh sáng của bính hoả, không thể chiếu soi ánh sáng rực rỡ, làm sao không tối tăm được? Cho nên bính hoả sanh ở dần mà tử ở dậu. Kinh sách nói: hoả không nên hướng về phía tây. Đó là lý do tại sao vậy.
Đinh: hoả tiếp sau bính, là linh hồn của vạn vật, tượng của sự văn minh, ở trên trời là các sao, ở dưới đất là hoả của đèn, gọi là "âm hoả". Lộc của nó ở ngọ, chính là đứng đầu lục âm, trong có ất mộc, có khả năng sanh đinh hoả. Ất là "hoạt mộc", đinh là "hoạt hoả" - lửa sống. "hoạt hoả" là "nhu hoả" - lửa mềm, đinh thich ất mộc sanh cho, chính là âm sanh âm vậy, giống như người đời dùng dầu thực vật, dầu mè làm đèn làm nến, dầu chính là chất béo (dầu, mỡ) của ất mộc. Đến với thời gian của dậu thì tứ âm nắm quyền, hoả của đèn sẽ có khả năng chiếu sáng, các sao sẽ có khả năng rực rỡ, cho nên đinh sanh ở dậu; đến đất của dần tam dương hội hợp nên dương hoả sanh ra và âm hoả rút lui, giống như khi mặt trời mọc ở hướng đông thì các ngôi sao không còn chiếu sáng, đèn tuy có ngọn lửa, nhưng không thể biểu lộ ánh sáng của nó. Cho nên đinh sanh ở dậu mà tử ở dần. Kinh cách nói: lửa sáng thì tắt. Đó là lý do tại sao vậy.
Mậu thổ hồng ? (không rõ chữ gì mà chấm dấu hỏi) chưa rõ rệt, giữ chặt trung tâm, trời đất đã phân chia, sau mới chuyển tải vạn vật, tụ họp ở trung ương, rời rạc ở bốn hướng. Ở trên trời là sương mù, ở dưới đất là núi, gọi là "dương thổ". Lộc của nó ở tỵ, tỵ là hoả của bếp, lò rèn, đúc thành dụng cụ, gõ vào có âm thanh, bản tính của nó rất cương mãnh, không thể xúc phạm. Thích "dương hoả" cùng tăng trưởng, sợ "âm kim" trộm khí. "Dương hoả": là bính hoả, bính sanh ở dần, dần thuộc quẻ cấn, cấn là núi, núi là đất cứng tức là mậu thổ vậy, nhờ bính hoả được sanh ra. Cho tới đất của dậu, dậu thuộc quẻ đoài, kim tiêu thụ khí trộm của mậu thổ, chính là kim thịnh thì thổ hư, mẹ suy mà con vượng, lại thêm kim đập vào đá thì vỡ vụn, làm sao có thể kéo dài tuổi thọ? Cho nên mậu thổ sanh ở dần mà tử ở dậu. Kinh sách nói: thổ trống rỗng sẽ sụp đỗ. Đó là lý do tại sao vậy.
Kỷ thổ tiếp sau mậu, chính là sức sống của trời, là chân thổ ở đất. Thanh khí bay lên xung hoà trời đất, trọc khí giáng xuống, tụ họp sanh vạn vật, gọi là âm thổ. Tam tài gồm trời đất và người đều không thể thiếu sót thổ này, giống như người mai mối trong trời đất, âm dương bỏ lỡ điều này, làm sao có thể thành vợ chồng? Cho nên hiện diện ở bốn hành, gửi ở bốn mùa mà vượng, chính là chân thổ vậy. Thích đinh hoả sanh, sợ dương hoả làm khô táo. Lộc của nó ở ngọ, đinh hoả trong ngọ có khả năng sanh kỷ thổ, bị ất mộc trộm khí vun trồng của nó. Đến đất của dậu, đinh hoả được sanh, đinh hoả đã sanh rồi thì kỷ thổ cũng có khả năng được sanh vậy; đến dần sử dụng đồ vật, mộc hoả nắm quyền, rèn luyện kỷ thổ, rốt cuộc trở thành đá nam châm, trái lại mất đi khí trung hoà, có lý do gì mà không thương tổn? Cho nên kỷ thổ sanh ở dậu mà tử ở dần. Kinh sách nói: hoả táo thổ liệt - lửa khô nên đất nứt. Đó là lý do tại sao vậy.
Canh kim nắm quyền túc sát của trời đất, chủ thay đổi chiến tranh trong thế gian, ở trên trời là gió sương, ở dưới đất là kim và sắt, gọi là "dương kim". Lộc của nó ở thân, thân chính là "cương kim", thích mậu thổ sanh, sợ quý thuỷ chìm đắm; trường sanh ở tỵ, mậu thổ trong tỵ có khả năng sanh canh kim, chính là dương sanh dương vậy; tỵ là hoả của lò rèn, đúc luyện canh kim, trở thành chuông vạc, gõ vào có âm thanh, nếu như gặp thuỷ thổ che lấp sẽ không có âm thanh, gọi là vàng thật đầy không có âm thanh. Đến đất của tý nơi thuỷ vượng, kim hàn thuỷ lãnh - kim nghèo hèn mà thuỷ thì nhạt nhẽo, con vượng mà mẹ suy, cũng vì tai hoạ chìm đắm, làm sao có thể được phục sanh? Cho nên canh kim sanh ở tỵ mà tử ở tý. Kinh sách nói: kim trầm thuỷ để - vàng chìm dưới đáy nước. Đấy là lý do tại sao vậy.
Tân kim tiếp sau canh, là đứng đầu của năm loại kim - vàng, bạc, đồng, sắt và thiếc (hoặc chì), đứng đầu "bát thạch" - tám loại đá, ở trên trời là mặt trời, mặt trăng, chính là tinh hoa của "thái âm", ở dưới đất là kim, kim chính là quặng mỏ của "sơn thạch" - núi đá, gọi là "âm kim". Lộc của nó ở dậu, kỷ thổ trong dậu có khả năng sanh cho tân kim, chính là âm sanh cho âm vậy, tức là "nhu kim", là tinh hoa của "thái âm". Trường sanh ở tý, tý chính là tường thành của khảm thuỷ, nhất dương trong khảm thuộc kim, ngoài ra còn có hai âm thuộc thổ, thổ có khả năng sanh kim, con ẩn trong thai mẹ, chưa xuất hiện thân thể, được khi tý thuỷ gợn sóng lăn tăn, gạn bỏ phù sa, mới có thể trở thành xuất sắc, đây chính là thuỷ trợ giúp kim chiếu rọi rực rỡ, màu sắc rõ ràng trong suốt. Đến dất tỵ là hoả của lò rèn, tinh chế tân kim thành vũ khí chết chóc, cũng bị mậu thổ trong tỵ chôn vùi, hình thể của nó không có khả năng biến hoá, làm sao có thể phục sanh? Cho nên tân kim sanh ở tý mà tử ở tỵ vậy. Kinh sách nói rằng: thổ nhiều kim bị chôn vùi. Đấy là lý do tại sao vậy.
Nhâm thuỷ thích "dương thổ" trợ giúp làm đê phòng nước lụt, nhưng lo sợ "âm mộc" trộm khí. Ở trên trời là mây, ở dưới đất là ao hồ. gọi là "dương thuỷ". Lộc của nó ở hợi, hợi là nước tồn trữ trong ao hồ, đầm lầy, gọi là "tử thuỷ" - nước tù đọng. "Tử thuỷ" là "dương thuỷ", nhờ canh kim sanh cho, canh lộc ở thân có khả năng sanh nhâm thuỷ, chính là ngũ hành chuyển hoá dưỡng khí. Đến đất của mão, mão chính là hoa lá và cây, mộc vượng ở mão sẽ có khả năng khắc thổ, thổ trống rỗng sẽ sụp đỗ, vì thế đê phòng lũ lụt sẽ sụp đỗ, và nhâm thuỷ sẽ chảy ra ngoài, tràn ngập khắp nơi, và dòng chảy không quay trở lại, lại bị "âm mộc" trộm khí, làm sao có thể sống còn được? Cho nên nhâm thuỷ sanh ở thân mà tử ở mão vậy. Kinh sách nói: "tử thuỷ" chảy lung tung, loạn tạp. Đấy chính là lý do tại sao vậy.
Quý thuỷ tiếp sau nhâm, chính là đúng một vòng của khí âm dương thiên can, trở thành cuối cùng và ngược lại dần khởi đầu, cho nên nó được phân chia thành thuỷ thanh hay trọc, tản mác khắp bốn phương, có công trợ giúp thổ được giữ ẩm, đức hạnh nuôi sống vạn vật. Ở trên trời là mưa móc, ở dưới đất là mạch suối, gọi là "âm thuỷ". Lộc của nó ở tý, tý chính là nơi mà âm cực sanh dương, nơi sanh ra tân và canh bị chết; quý là "hoạt thuỷ" - nước chảy, "hoạt thuỷ là "nhu thuỷ", thích âm kim sanh cho, sợ dương kim làm đình trệ, muốn âm mộc di động rễ của nó sẽ có khả năng khai thông âm thổ, âm thổ thông với mạch đất rồi sẽ có khả năng chảy thông suốt. Tháng hai là kiến mão, là hoa quả và cây, mộc vượng, thổ ốc, quý thuỷ mới được thông suốt. Đến đất của thân, tam âm dụng sự quẻ phủ nắm quyền, trời đất không tiếp nhau, vạn vật không thông suốt, khôn thổ trong thân, canh kim trở thành đê ngăn chặn, khiến quý thuỷ không có khả năng chảy thuận lợi, bị vây hãm ở hồ ao, không có chỗ để thi triễn tài năng, làm sao có thể tái sanh vật chất? Vì thế quý thuỷ sanh ở mão mà tử ở thân. Kinh sách nói: thuỷ không nên chảy về phía tây. Đấy là lý do tại sao vậy.
Luận thuyết cho rằng: nguyên lý trường sanh của ngũ hành với vạn vật cũng giống nhau. Giông như mặt trời lúc mới mọc, ánh sáng có thể ngắm nhìn, đến buổi trưa ánh sáng càng trở nên sáng hơn, mặt trăng lúc mới mọc tươi đẹp như mày ngài, đến ngày rằm thì tròn và trong sáng; giống như đời sống con người: bé rồi trưởng thành, già rồin chết đều là thường lý vậy. Con người mới sanh, em bé kêu khóc trước khi cười, đến tuổi trưởng thành mới phân biệt được khôn ngoan hay ng* d*t, tất cả vạn vật đều giống nhau. Giáp mộc sanh ở hợi, hợi lệnh thuộc thuỷ, giáp mộc ở đó, mộc vượng ở mùa xuân, đến dần là lâm quan quy lộc, giáp mộc được tường thành bao bọc, đến ngọ sẽ chết; bính hoả sanh ở dần, dần lệnh thuộc mộc, bính hoả ở đó, hoả vượng ở mùa hạ, đến tỵ là lâm quan quy lộc, bính hoả được tường thành bao bọc, đến dậu sẽ chết; canh kim sanh ở tỵ thân mậu thổ, canh kim ở đó, kim vượng ở mùa thu, đến thân là lâm quan quy lộc, canh kim được tường thành bao bọc, đến tý sẽ chết; nhâm thuỷ sanh ở thân, thân lệnh thuộc kim, nhâm thuỷ ở đó, thuỷ vượng mùa đông, đến hợi là lâm quan quy lộc, nhâm thuỷ được tường thành bao bọc, đến mão sẽ chết; mậu thổ sanh ở dần, trong dần có hoả, mậu thổ ở đó, là thời gian của tam dương, đất mầu mỡ chuyển động, vạn vật xảy ra, là do mậu sanh ở dần vậy. Thổ vượng ở bốn tháng cuối mùa, hoả thổ giống như mẹ và con cho nên mậu theo bính mà lâm quan quy lộc ở tỵ.
论天干阴阳生死
或问:十干有阴阳、刚柔、生死之分,其说然否?
答曰:十干五阳五阴,阳者为刚,阴者为柔,其生死之分如母生子,子成而母老死,理之自然。
赋曰:阳生阴死,阳死阴生,循环逆顺,变化见矣。
甲木乃十干之首,主宰四时,生育万物;在天为雷为龙,在地为梁为栋,谓之阳木。其禄到寅。寅为离上之木,其根已断,其枝已绝,谓之死木。死木者,刚木也,须仗斧斤斫削方成其器。长生于亥,亥为河潭池沼之水,名曰死水,故死木放死水中,虽浸年久,不能朽坏,譬如杪椿之木,在于水中则能坚固。若离水至岸而遇癸水,癸水者,活水也,为天地间雨露,日晒雨淋,干湿不调,遂成枯朽,则能生火,火旺而木必焚矣,故有灰飞烟灭之患耳。且午属离火,火赖木生,木为火母,火为木子,子旺母衰,焉有不终之理?故甲木死于午。经云:木不南奔。正谓此也。
乙木继甲之后,发育万物,生生不已;在天为风,在地为树,谓之阴木。其禄到卯,卯为树木,根深叶茂,谓之活木。活木者,柔木也,惧阳金斫伐为患,畏秋至木落凋零,欲润土而培其根,利活水而滋其枝叶。活水者,癸水也,即天之雨露,地之泉源;润土者,己土也,如耕耨之土,成稼穑之功。己禄在午,午乃六阳消尽,一阴复生,故稻花开于午时,乙木生于午地。十月建亥,亥乃纯阴司令,壬禄到亥当权,死水泛滥,土薄根虚,有失培养。故乙木死于亥。经云:水泛木浮。正此谓也。
丙火丽乎中天,普照六合;在天为日为电,在地为炉为冶,谓之阳火。其禄在巳,巳为炉冶之火,谓之死火。死火者,刚火也,喜死木发生其焰,恶金、土掩其光。死木者,甲木也,甲禄在寅,寅乃阳木之垣,木盛火生,隐于木石之间,非人用之,不能生发,故五阳皆出乎自然而为先天,五阴皆系乎人事而为后天,丙火生于寅,其理甚明。如太阳之火自东而升,至西而没,且酉属兑,兑为泽;己土生金,金气盛,掩息丙火之光,不能显辉,岂无晦乎?故丙火生于寅而死于酉。经云:火无西向。正此谓也。
丁火继丙之后,为万物之精,文明之象;在天为列星,在地为灯火,谓之阴火。其禄到午,乃六阴之首,内有乙木,能生丁火。乙为活木,丁为活火。活火者,柔火也,丁喜乙木而生,乃阴生阴也,如世人用菜油麻油为灯烛之义,夫油乃乙木之膏也。至于酉时,四阴司权,灯火则能辉煌,列星则能灿烂,故丁生于酉;至于寅地,三阳当合,阳火而生,阴火而退,如日东升,列星隐耀,灯虽有焰,不显其光。故丁生于酉而死于寅也。经云:火明则灭。正谓此也。
戊土洪??未判,抱一守中,天地既分,厚载万物,聚于中央,散于四维。在天为雾,在地为山,谓之阳土。其禄在巳,巳为炉冶之火,锻炼成器,叩之有声,其性刚猛,难以触犯。喜阳火相生,畏阴金盗气。阳火者,丙火也,丙生于寅,寅属艮,艮为山,山为刚土,即戊土也,赖丙火而生焉。至于酉地,酉属兑,金耗盗戊土之气,乃金盛土虚,母衰子旺,又金击石碎,岂能延寿?故戊土生于寅而死于酉。经云:土虚则崩。正此谓也。
己土继戊之后,乃天之元气,地之真土。清气上升,冲和天地,浊气下降,聚生万物,谓之阴土。天地人三才皆不可缺此土,如乾坤中一媒妁,阴阳失此,岂能配偶?故于四行无不在,于四时则寄旺焉,乃真土也。喜丁火而生,畏阳火而燥。其禄到午,午中丁火能生己土,被乙木盗其栽培之气。至于酉地,丁火而生,丁火既生,己土亦能生也;至寅用事,木火司权,锻炼己土,遂成磁石,反失中和之气,岂有不损之理?故己土生于酉而死于寅。经云:火燥土裂。正此谓也。
庚金掌天地肃杀之权,主人间兵革之变。在天为风霜,在地为金铁,谓之阳金。其禄到申,申乃刚金,喜戊土而生,畏癸水而溺;长生于巳,巳中戊土能生庚金,乃阳生阳也;巳为炉冶之火,锻炼庚金,遂成钟鼎之器,叩之有声,若遇水土沉埋则无声也,所谓金实无声。至于子地,水旺之乡,金寒水冷,子旺母衰,亦遭沉溺之患,岂能复生?故庚金生于巳而死于子。经云:金沉水底。正此谓也。
辛金继庚之后,为五金之首,八石之元。在天为日月,乃太阴之精,在地为金,金乃山石之矿,谓之阴金。其禄到酉,酉中己土能生辛金,乃阴生阴也,谓之柔金,为太阴之精。长生于子,子乃坎水之垣,坎中一阳属金,另有二阴属土,土能生金,子隐母胎,未显其体,得子水荡漾,淘去浮砂,方能出色,此乃水济金辉,色光明莹。至于巳地,巳为炉冶之火,将辛金炼成死器,亦被巳中戊土埋没,其形不能变化,岂能复生?故辛金生于子而死于巳也。经云;土重金埋。正谓此也。
壬水喜阳土而为堤岸之助,畏阴木而为盗气之忧。在天为云,在地为泽,谓之阳水。其禄在亥,亥为池沼存留之水,谓之死水。死水者,刚水也,赖庚金而生,庚禄到申,能生壬水,乃五行转养之气。至于卯地,卯乃花叶树木,木旺于卯则能克土,土虚则崩,故堤岸崩颓,而壬水走泄,散漫四野,流而不返,又被阴木盗气,岂得存活?故壬水生于申而死于卯也。经云:死水横流。正谓此也。
癸水继壬之后,乃天干一周阴阳之气,成于终而反于始之渐,故其为水清浊以分,散诸四方,有润下助土之功,滋生万物之德。在天为雨露,在地为泉脉,谓之阴水。其禄在子,子乃阴极阳生之地,辛生庚死之垣;癸为活水,活水者,柔水也,喜阴金而生,畏阳金而滞,欲阴木行其根则能疏通阴土,阴土既通于地脉则能流畅。二月建卯,为花果树木,木旺土屋,癸水方得通达。至于申地,三阴用事,否卦司权,天地不交,万物不通,申中坤土、庚金遂成围堰,使癸水不能流畅,困于池沼,无所施设,岂再生物?故癸水生于卯而死于申。经云:水不西流。正谓此也。
论曰:五行长生之理与万物亦同。且如日之初出时,光明可观,至午离宫,光明愈甚,月之初出,巧若蛾眉,至望光明圆洁;若人之生,自少至壮,自老至死,常理也。人之初生也,婴孩啼笑而已,至壮贤愚方辨,万物皆一同。甲木生亥,亥令属水,甲木居焉,木旺于春,至寅临官归禄,甲木得垣,至午则死;丙火生寅,寅令属木,丙火居焉,火旺于夏,至已临官归禄,丙火得垣,至酉则死;庚金生巳,巳申戊土,庚金居焉,金旺于秋,至申临官归禄,庚金得垣,至子则死;壬水生申,申令属金,壬水居焉,水旺于冬,至亥临官归禄,壬水得垣,至卯则死;戊土生于寅,寅中有火,戊土生焉,三阳之时,土膏以动,万物发生,是戊生于寅也。土旺于四季,火土有如母子相生,所以戊随丙临官归禄巳。
.
#25
Gửi vào 26/06/2024 - 00:17
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Luận Địa Chi
Công dụng của địa chi không bằng thiên can, động tĩnh không giống nhau, vuông tròn khác hẳn nhau. Tuy nhiên ngũ hành sở thuộc thì tương đồng mà nơi ở khác nhau. Như ở trụ năm thì có cách luận theo năm, ở trụ tháng thì có cách luận theo tháng, ở ngày giờ thì có cách luận theo ngày giờ, âm dương của no, nhẹ nặng, cương nhu làm sao mà hỗn loạn trong một thể? Ngày nay lấy "nguyệt đề" làm chủ, chỗ ẫn là chỗ sử dụng cần thấy thần nào, chỗ hoạ loạn là chỗ hiềm kỵ, cần dính líu vật gì. Nói chung thần của tứ trụ, đo lường nông sâu mà sử dụng.
Tý đứng đầu mười hai chi, là nước của khe suối, sông, biển, chính là mậu thổ vượng địa, nhưng phải qua tiết đại tuyết sau khi nhất dương phục mới có khả năng trở thành vượng, là chỗ sanh tân kim, cũng phải sau khi dương trở lại và thuỷ âm lên. Cùng với ngọ thì tương xung, cùng với mão thì tương hình, cùng với thân và thìn thành tam hợp. Nếu như thân, tý, thìn có đủ hội thành "thuỷ cục" tức là thành sông, biển, phát ra tiếng sóng lớn.
Sửu tuy ở giữa mùa đông, có băng giá đáng sợ, nhưng thời tiết đã chuyển sang nhị dương - quẻ lâm, do đó lấy cái ấm áp của kỷ thổ trong sửu có khả năng nuôi sống vạn vật, là nơi "dưỡng" của tân kim, chẳng phải nó chỉ ẩn tàng thâm sâu sao? Thấy tuất sẽ hình, thấy mùi sẽ xung, nơi khố rất nên, hình xung không phải là vô dụng, thấy tỵ, dậu tam hợp, hội thành kim cục. Nếu như người mệnh sanh ở tháng sửu mà ngày giờ thường thấy thuỷ, mộc phải đi về nơi tốn, ly thì thổ mới không bị suy.
Dần kiến - tháng dần ở mùa xuân, dương khí hội tụ có bính hoả sanh ra ở đó. Dần hình tỵ, tỵ hợp thân chiếm sự thịnh vượng nên là khách quý; vượng ở mão, khố ở mùi, cùng một loại sẽ là một nhà. Đến ngọ hoả sẽ chiếu sáng rực rỡ, nên có cái đẹp "siêu phàm nhập thánh" - vượt qua tần thường vào cõi thánh. Thấy thân nên dần bị xung, nên có nỗi lo lộc bị phá, sự nâng đõ bị trở ngại. Nếu như tứ trụ hoả nhiều thì chớ nên vào vận hướng nam là nơi của hoả. Kinh sách nói: mộc không chạy về hướng nam.
Mão mộc giữa mùa xuân, khí được phồn thịnh, nên dùng kim thuỷ nhưng không được nhiều quá. Nếu như can đầu canh tân trùng lập nhiều lần, địa chi không nên thấy thân dậu, e là có tai hoạ chặt chém làm hư hỏng; địa chi hợi tý gặp nhiều lần, thì can đầu không nên gặp quý nhâm chủ có thương tổn về trôi nổi. Thấy dậu sẽ xung, mộc bị rụng lá, gặp hợi mùi sẽ hợp, mộc sẽ thành rừng. Nếu như ngày giờ hướng về quá nhiều kim, đại vận lại đi về hướng tây, không tránh khỏi tai hoạ vậy.
Thìn kiến - tháng thìn cuối mùa xuân là ẩm ướt của nươc và bùn, gốc rễ của vạn vật đều nhờ cậy nó để làm điều kiện thích nghi, thúc đẩy làm cho sinh sôi lớn mạnh. Giáp đến đây tuy rằng suy, nhưng có ất còn dư khí, nhâm đến đây tuy rằng mộ, nhưng có quý hoàn hồn sống lại, thấy tuất là chìa khoá có khả năng khai mở vật trong khố, nếu như ba tuất trọng xung phá cửa, thì chẳng tốt. Ngày giờ thướng gặp thuỷ mộc, mà vận lại đi về hướng tây bắc thì thìn thổ không có khả năng sống còn.
Tỵ đang đầu mùa hạ, hoả của nó thêm sáng, là điểm cực của lục dương. Canh kim sống nương tựa, khốn khổ mẹ mậu. Mậu thổ quy lộc, chính là theo mẹ hoả. Thấy thân sẽ hình, trong hình có hợp, có nghĩa la vô hại; thấy hợi sẽ xung, xug thì phá liền có tổn thương. Nếu như vận lại đi đông nam nơi nó xuất phát, liền trở thành ngọn lửa thiêu rụi bầu trời.
Ngọ đúng tháng hoả nóng nực, lên cao vào trong khí thì nhất âm sanh. Canh đến đây thì vô dụng, kỷ đến đây là trở về nhà; thấy thân tý sẽ chiến đấu, thấy dần tuất sẽ sn1 sủa hơn. Vận hành đông nam, đúng là nơi thân cường, còn như vào tây bắc, sẽ hưu tù bị tang hình vậy. Mùi là cuối hạ, thì âm khí sâu đậm hơn nên hoả dần sút kém.
Mùi chứa ất mộc bên trong, có đinh hoả, là tàng ẩn quan, tàng ẩn ấn, mà không tàng tài vậy. Không có hợi mão hội hợp thì hình trạng khó mà biến đổi, chỉ dùng hoả thổ mà luận bàn, không có sửu tuất để hình xung thì khố không thể mở, khó được kim ấn. Sức mạnh trong trụ không có hoả, sợ vận đi về kim thuỷ, ngày giờ lạnh nhiều đặc biệt thích nơi của bính đinh. Bởi hỷ kỵ của dụng thần rất cần hiểu biết rõ ràng, không thể mảy may sai lầm được.
Thân cung là nơi trường sanh của thuỷ, thổ, vào tỵ, ngọ được gặp hoả rèn đúc, sẽ trở thành kếm và kích, thấy tý, thìn sẽ gặp nước dập tắt, lợi ích được ánh sáng mạnh mẽ; giả sử mộc nhiều không có hoả, kim sẽ luôn thắng, nếu như thổ chồng chất chôn kim tức bị hung xấu. Bởi thân chính là kim của "ngoan độn" - ngu xuẩn, cùng với châu ngọc dịu dàng không giống nhau.
Dậu kiến: tháng tám sắc vàng, nước trắng trong suốt. Nếu như gặp ngày giờ hoả nhiều, vận thêm buồn đi về hướng đông; nếu như gặp ngày giờ thuỷ vượng, vận cũng sợ đi về hướng nam. Trụ thấy thuỷ với bùn ứng thành hữu dụng, vận đi về tây bắc, làm sao la vô tình được? Tuy nhiên gặp tỵ sửu thành tam hợp, cũng kha năng sắc bén, làm sao có thể lấy âm kim làm châu ngọc dịu dàng mà bàn luận một cách câu nệ?
Tuất chính là khố của bếp lò lớn, sắt cùn và vàng cứng nhờ đó mà luyện thành, thấy thìn long sẽ xung xuất nhâm thuỷ, nên mưa móc sanh ra ở đó; thấy dần hổ thì bính hoả sẽ trổi dậy, nên văn chương xuất ra ở đó. Tuy nhiên mệnh hoả gặp phải sẽ là nhập mộ, làm sao có khả năng tránh khỏi không bị thương tổn được?
Hợi chỗ của lục âm, mưa tuyết trên đường, thổ đến đây thì không còn ấm, kim đên dây thì trở thành lạnh. Tượng nó như sự tụ họp của năm hồ, có ý sử dụng tam hợp. Vì thế muốn biết nơi nào hài hoà, âm áp trong vũ trụ, chỉ cần tìm đến nơi của cấn, chấn, tốn, ly vậy.
Nói chung sử dụng nguyên tắc ngũ hành, thế nào cũng không chân thật: sanh, tử, suy, vượng cũng chỉ là tên giả. Hỹ đi thẳng vào cội nguồn và hiểu rõ xuất xứ của nó, như ngũ dương" là cương, còn "ngũ âm" là nhu. Nếu như "thất lệnh" thân thể suy yéu, không gặp hỗ trợ nên vận khí thường trễ tràng, tức là cương thì mất bản chất cương của nó; nếu như "đắc lệnh" thân cường mạnh, dụng sự có trợ giúp, thì nhu không mất bản chất nhu. Trong đó lại phân chia mộc hoả là dương, kim thuỷ là âm, tất cả thích được sanh phù trợ giúp, cần phải trung hoà mới quý.
论地支
地支之用,不比天干,动静不同,圆方迥异。然五行所属则一,而所处之地不一。且如在年则有在年之论,在月则有在月之论,在日时则有日时之论,其阴阳、轻重、刚柔岂混于一体?今当以月提为主,所藏所用,要见何神,所耗所嫌,要系何物。凡四柱之神,较量深浅而用。
子十二支之魁,溪涧江洋之水,乃戊土旺地,然必过大雪之期,一阳来复之后,方能成旺。辛金所生,亦必于阳回水暖而后能生也。与午相冲,与卯相刑,与申辰三合。若申、子、辰全,会起水局,即成江海,发波涛之声也。
丑虽隆冬,有冰霜之可怯,但天时已转二阳,是以丑中己土之暖能生万物,辛金养地,岂只深藏?见戌则刑,见未则冲,库地最宜,刑冲不为无用。见巳、酉三合,会起金局。若人命生于丑月,而日时多见水木,必侧行巽离之地,而土方不衰耳。
寅建于春,气聚之阳,有丙火生焉。寅刑巳,巳合申并旺而为贵客;旺于卯,库于未,同类则为一家。至午则火光辉,而有超凡入圣之美。见申则寅受冲,而有破禄伤提之忧。若四柱火多,则又不可入南方火地。经云:木不南奔。
卯木仲春,气禀繁华,唱用金水,不可太过。若干头庚辛叠见,地支不可见申酉,恐有破伐之害;地支亥子重逢,干头不可见癸壬,主有漂流之伤。见酉则冲,木必落叶,见亥未则合,木必成林。若时日归于金重,大运更向西行,患不禁也。
辰建季春,为水泥之湿,而万物之根皆赖此培养。甲至此虽衰,而有乙之余气;壬至此虽墓,而有癸之还魂;见戌为钥,能开库中之物,若三戍重冲破门,非吉。日时多见水木,其运更向西北,则辰土不能存矣。
巳当初夏,其火增光,是六阳之极也。庚金寄生,困顿戊母。戊土归禄,乃随火娘。见申则刑,刑中有合,翻为无害;见亥则冲,冲而必破便为有伤。若运再行东南生发之地,便成烧天烈焰之势矣。
午月炎火正,升入中气则一阴生也。庚至此为无用,己至此为归垣;见申子则必战克,见寅戌则越光明。运行东南,正是身强之地,若入西北,则休囚丧形矣。未当季夏,则阴深而火渐衰。
未中有乙木,有丁火,是藏官,藏印,不藏财也。无亥卯以会之,则形难变,只作火土论;无丑戌以刑冲之,则库不开,难得金印。力柱中无火,怕行金水之运,日时多寒,偏爱丙丁之乡。盖用神之喜忌最当分晓,不可毫发误也。
申宫水土长生之地,入巳、午则逢火炼,遂成剑戟,见子、辰则逢水淬,益得光锋;使木多无火,金终能胜,若土重堆埋,金却有凶。盖申乃顽钝之金,与温柔珠玉不同故也。
酉建八月金色,白水流清。若遇日时火多,运更愁东去;若遇日时水旺,运亦怕南行。柱见水泥,应为有用,运行西北,岂是无情?然逢巳丑三合,亦能坚锐,岂可以阴金为温柔珠玉而泥论哉?
戌乃洪炉之库,钝铁顽金,赖以炼成。见辰龙则冲出壬水,而雨露生焉;见寅虎则会起丙火,而文章出焉。然火命逢之则为入墓,宁能免于不伤哉?
亥地六阴,雨雪载途,土至此而不暖,金至此而生寒。其象若五湖之归聚,其用在三合之有心。是故欲识乾坤和暖之处,即从艮、震、巽、离之地而寻之也。
大抵五行用法,总无真实,生死衰旺,亦假名耳。直向源头,明其出处,如五阳为刚,五阴为柔。若失令身衰,不遇资扶而频泄气,则刚者失其为刚;若得令身强,用事有助,则柔者不失之柔。中间又分木火为阳,金水为阴,皆喜生扶资助,要以中和为贵。
.
Luận Địa Chi
Công dụng của địa chi không bằng thiên can, động tĩnh không giống nhau, vuông tròn khác hẳn nhau. Tuy nhiên ngũ hành sở thuộc thì tương đồng mà nơi ở khác nhau. Như ở trụ năm thì có cách luận theo năm, ở trụ tháng thì có cách luận theo tháng, ở ngày giờ thì có cách luận theo ngày giờ, âm dương của no, nhẹ nặng, cương nhu làm sao mà hỗn loạn trong một thể? Ngày nay lấy "nguyệt đề" làm chủ, chỗ ẫn là chỗ sử dụng cần thấy thần nào, chỗ hoạ loạn là chỗ hiềm kỵ, cần dính líu vật gì. Nói chung thần của tứ trụ, đo lường nông sâu mà sử dụng.
Tý đứng đầu mười hai chi, là nước của khe suối, sông, biển, chính là mậu thổ vượng địa, nhưng phải qua tiết đại tuyết sau khi nhất dương phục mới có khả năng trở thành vượng, là chỗ sanh tân kim, cũng phải sau khi dương trở lại và thuỷ âm lên. Cùng với ngọ thì tương xung, cùng với mão thì tương hình, cùng với thân và thìn thành tam hợp. Nếu như thân, tý, thìn có đủ hội thành "thuỷ cục" tức là thành sông, biển, phát ra tiếng sóng lớn.
Sửu tuy ở giữa mùa đông, có băng giá đáng sợ, nhưng thời tiết đã chuyển sang nhị dương - quẻ lâm, do đó lấy cái ấm áp của kỷ thổ trong sửu có khả năng nuôi sống vạn vật, là nơi "dưỡng" của tân kim, chẳng phải nó chỉ ẩn tàng thâm sâu sao? Thấy tuất sẽ hình, thấy mùi sẽ xung, nơi khố rất nên, hình xung không phải là vô dụng, thấy tỵ, dậu tam hợp, hội thành kim cục. Nếu như người mệnh sanh ở tháng sửu mà ngày giờ thường thấy thuỷ, mộc phải đi về nơi tốn, ly thì thổ mới không bị suy.
Dần kiến - tháng dần ở mùa xuân, dương khí hội tụ có bính hoả sanh ra ở đó. Dần hình tỵ, tỵ hợp thân chiếm sự thịnh vượng nên là khách quý; vượng ở mão, khố ở mùi, cùng một loại sẽ là một nhà. Đến ngọ hoả sẽ chiếu sáng rực rỡ, nên có cái đẹp "siêu phàm nhập thánh" - vượt qua tần thường vào cõi thánh. Thấy thân nên dần bị xung, nên có nỗi lo lộc bị phá, sự nâng đõ bị trở ngại. Nếu như tứ trụ hoả nhiều thì chớ nên vào vận hướng nam là nơi của hoả. Kinh sách nói: mộc không chạy về hướng nam.
Mão mộc giữa mùa xuân, khí được phồn thịnh, nên dùng kim thuỷ nhưng không được nhiều quá. Nếu như can đầu canh tân trùng lập nhiều lần, địa chi không nên thấy thân dậu, e là có tai hoạ chặt chém làm hư hỏng; địa chi hợi tý gặp nhiều lần, thì can đầu không nên gặp quý nhâm chủ có thương tổn về trôi nổi. Thấy dậu sẽ xung, mộc bị rụng lá, gặp hợi mùi sẽ hợp, mộc sẽ thành rừng. Nếu như ngày giờ hướng về quá nhiều kim, đại vận lại đi về hướng tây, không tránh khỏi tai hoạ vậy.
Thìn kiến - tháng thìn cuối mùa xuân là ẩm ướt của nươc và bùn, gốc rễ của vạn vật đều nhờ cậy nó để làm điều kiện thích nghi, thúc đẩy làm cho sinh sôi lớn mạnh. Giáp đến đây tuy rằng suy, nhưng có ất còn dư khí, nhâm đến đây tuy rằng mộ, nhưng có quý hoàn hồn sống lại, thấy tuất là chìa khoá có khả năng khai mở vật trong khố, nếu như ba tuất trọng xung phá cửa, thì chẳng tốt. Ngày giờ thướng gặp thuỷ mộc, mà vận lại đi về hướng tây bắc thì thìn thổ không có khả năng sống còn.
Tỵ đang đầu mùa hạ, hoả của nó thêm sáng, là điểm cực của lục dương. Canh kim sống nương tựa, khốn khổ mẹ mậu. Mậu thổ quy lộc, chính là theo mẹ hoả. Thấy thân sẽ hình, trong hình có hợp, có nghĩa la vô hại; thấy hợi sẽ xung, xug thì phá liền có tổn thương. Nếu như vận lại đi đông nam nơi nó xuất phát, liền trở thành ngọn lửa thiêu rụi bầu trời.
Ngọ đúng tháng hoả nóng nực, lên cao vào trong khí thì nhất âm sanh. Canh đến đây thì vô dụng, kỷ đến đây là trở về nhà; thấy thân tý sẽ chiến đấu, thấy dần tuất sẽ sn1 sủa hơn. Vận hành đông nam, đúng là nơi thân cường, còn như vào tây bắc, sẽ hưu tù bị tang hình vậy. Mùi là cuối hạ, thì âm khí sâu đậm hơn nên hoả dần sút kém.
Mùi chứa ất mộc bên trong, có đinh hoả, là tàng ẩn quan, tàng ẩn ấn, mà không tàng tài vậy. Không có hợi mão hội hợp thì hình trạng khó mà biến đổi, chỉ dùng hoả thổ mà luận bàn, không có sửu tuất để hình xung thì khố không thể mở, khó được kim ấn. Sức mạnh trong trụ không có hoả, sợ vận đi về kim thuỷ, ngày giờ lạnh nhiều đặc biệt thích nơi của bính đinh. Bởi hỷ kỵ của dụng thần rất cần hiểu biết rõ ràng, không thể mảy may sai lầm được.
Thân cung là nơi trường sanh của thuỷ, thổ, vào tỵ, ngọ được gặp hoả rèn đúc, sẽ trở thành kếm và kích, thấy tý, thìn sẽ gặp nước dập tắt, lợi ích được ánh sáng mạnh mẽ; giả sử mộc nhiều không có hoả, kim sẽ luôn thắng, nếu như thổ chồng chất chôn kim tức bị hung xấu. Bởi thân chính là kim của "ngoan độn" - ngu xuẩn, cùng với châu ngọc dịu dàng không giống nhau.
Dậu kiến: tháng tám sắc vàng, nước trắng trong suốt. Nếu như gặp ngày giờ hoả nhiều, vận thêm buồn đi về hướng đông; nếu như gặp ngày giờ thuỷ vượng, vận cũng sợ đi về hướng nam. Trụ thấy thuỷ với bùn ứng thành hữu dụng, vận đi về tây bắc, làm sao la vô tình được? Tuy nhiên gặp tỵ sửu thành tam hợp, cũng kha năng sắc bén, làm sao có thể lấy âm kim làm châu ngọc dịu dàng mà bàn luận một cách câu nệ?
Tuất chính là khố của bếp lò lớn, sắt cùn và vàng cứng nhờ đó mà luyện thành, thấy thìn long sẽ xung xuất nhâm thuỷ, nên mưa móc sanh ra ở đó; thấy dần hổ thì bính hoả sẽ trổi dậy, nên văn chương xuất ra ở đó. Tuy nhiên mệnh hoả gặp phải sẽ là nhập mộ, làm sao có khả năng tránh khỏi không bị thương tổn được?
Hợi chỗ của lục âm, mưa tuyết trên đường, thổ đến đây thì không còn ấm, kim đên dây thì trở thành lạnh. Tượng nó như sự tụ họp của năm hồ, có ý sử dụng tam hợp. Vì thế muốn biết nơi nào hài hoà, âm áp trong vũ trụ, chỉ cần tìm đến nơi của cấn, chấn, tốn, ly vậy.
Nói chung sử dụng nguyên tắc ngũ hành, thế nào cũng không chân thật: sanh, tử, suy, vượng cũng chỉ là tên giả. Hỹ đi thẳng vào cội nguồn và hiểu rõ xuất xứ của nó, như ngũ dương" là cương, còn "ngũ âm" là nhu. Nếu như "thất lệnh" thân thể suy yéu, không gặp hỗ trợ nên vận khí thường trễ tràng, tức là cương thì mất bản chất cương của nó; nếu như "đắc lệnh" thân cường mạnh, dụng sự có trợ giúp, thì nhu không mất bản chất nhu. Trong đó lại phân chia mộc hoả là dương, kim thuỷ là âm, tất cả thích được sanh phù trợ giúp, cần phải trung hoà mới quý.
论地支
地支之用,不比天干,动静不同,圆方迥异。然五行所属则一,而所处之地不一。且如在年则有在年之论,在月则有在月之论,在日时则有日时之论,其阴阳、轻重、刚柔岂混于一体?今当以月提为主,所藏所用,要见何神,所耗所嫌,要系何物。凡四柱之神,较量深浅而用。
子十二支之魁,溪涧江洋之水,乃戊土旺地,然必过大雪之期,一阳来复之后,方能成旺。辛金所生,亦必于阳回水暖而后能生也。与午相冲,与卯相刑,与申辰三合。若申、子、辰全,会起水局,即成江海,发波涛之声也。
丑虽隆冬,有冰霜之可怯,但天时已转二阳,是以丑中己土之暖能生万物,辛金养地,岂只深藏?见戌则刑,见未则冲,库地最宜,刑冲不为无用。见巳、酉三合,会起金局。若人命生于丑月,而日时多见水木,必侧行巽离之地,而土方不衰耳。
寅建于春,气聚之阳,有丙火生焉。寅刑巳,巳合申并旺而为贵客;旺于卯,库于未,同类则为一家。至午则火光辉,而有超凡入圣之美。见申则寅受冲,而有破禄伤提之忧。若四柱火多,则又不可入南方火地。经云:木不南奔。
卯木仲春,气禀繁华,唱用金水,不可太过。若干头庚辛叠见,地支不可见申酉,恐有破伐之害;地支亥子重逢,干头不可见癸壬,主有漂流之伤。见酉则冲,木必落叶,见亥未则合,木必成林。若时日归于金重,大运更向西行,患不禁也。
辰建季春,为水泥之湿,而万物之根皆赖此培养。甲至此虽衰,而有乙之余气;壬至此虽墓,而有癸之还魂;见戌为钥,能开库中之物,若三戍重冲破门,非吉。日时多见水木,其运更向西北,则辰土不能存矣。
巳当初夏,其火增光,是六阳之极也。庚金寄生,困顿戊母。戊土归禄,乃随火娘。见申则刑,刑中有合,翻为无害;见亥则冲,冲而必破便为有伤。若运再行东南生发之地,便成烧天烈焰之势矣。
午月炎火正,升入中气则一阴生也。庚至此为无用,己至此为归垣;见申子则必战克,见寅戌则越光明。运行东南,正是身强之地,若入西北,则休囚丧形矣。未当季夏,则阴深而火渐衰。
未中有乙木,有丁火,是藏官,藏印,不藏财也。无亥卯以会之,则形难变,只作火土论;无丑戌以刑冲之,则库不开,难得金印。力柱中无火,怕行金水之运,日时多寒,偏爱丙丁之乡。盖用神之喜忌最当分晓,不可毫发误也。
申宫水土长生之地,入巳、午则逢火炼,遂成剑戟,见子、辰则逢水淬,益得光锋;使木多无火,金终能胜,若土重堆埋,金却有凶。盖申乃顽钝之金,与温柔珠玉不同故也。
酉建八月金色,白水流清。若遇日时火多,运更愁东去;若遇日时水旺,运亦怕南行。柱见水泥,应为有用,运行西北,岂是无情?然逢巳丑三合,亦能坚锐,岂可以阴金为温柔珠玉而泥论哉?
戌乃洪炉之库,钝铁顽金,赖以炼成。见辰龙则冲出壬水,而雨露生焉;见寅虎则会起丙火,而文章出焉。然火命逢之则为入墓,宁能免于不伤哉?
亥地六阴,雨雪载途,土至此而不暖,金至此而生寒。其象若五湖之归聚,其用在三合之有心。是故欲识乾坤和暖之处,即从艮、震、巽、离之地而寻之也。
大抵五行用法,总无真实,生死衰旺,亦假名耳。直向源头,明其出处,如五阳为刚,五阴为柔。若失令身衰,不遇资扶而频泄气,则刚者失其为刚;若得令身强,用事有助,则柔者不失之柔。中间又分木火为阳,金水为阴,皆喜生扶资助,要以中和为贵。
.
#26
Gửi vào 26/06/2024 - 00:26
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Thập Can Phân Phối Thiên Văn
Giáp mộc là sấm. Sấm là sự im lặng của dương khí, giáp mộc thuộc dương, cho nên tượng sấm được chọn ở đó. Xét theo lệnh tháng, là tháng giữa mùa xuân, sấm mới phát ra tiếng, giáp mộc vượng nên nó ứng nghiệm vậy, huống chi sấm đành xuống đất, cây cối mọc trên mặt đất, nguyên lý của nó không khác nhau. Giáp mộc đến thân thì tuyệt, vì tiếng sấm đến thân dần dần chấm dứt. Thông thường mệnh thuộc ngày giáp, chủ thích gặp mùa xuân, hoặc là sự giống nhau, hoặc "xu can", hoặc "diêu tỵ , hoặc "củng quý" tất cả đều là rất tốt; vận không thích đi về hướng tây. Kinh sách nói: mộc sanh mùa xuân, sống đời bình an vô sự chắc chắn được tuổi thọ.
Ất mộc là gió. Ất mộc trường sanh ở ngọ, bại ở tỵ. Ở ngọ thì được sanh, bởi ất là "hoạt mộc" của rừng núi, khi mùa hạ đến thì tốt tươi, xum xuê, thi thơ ca tụng cây xanh mùa hạ có hàng ngàn chương; còn tại sao nó bại ở tỵ? Tỵ chính là đất của quẻ tốn, tốn là gió, mộc vượng sanh ra gió, gió sanh ra ở mộc lại bẻ gãy mộc, giống như hoả sanh từ mộc lại đốt cháy mộc, cho nên mới chọn làm nơi bại của nó vậy, cái gọi ất mộc là gió, bảo rằng chỗ mộc tự nó sanh ra. Như người sanh ngày tháng ất, mùa thu nên kim vượng, ất mộc có khả năng biến hoá, có khả năng thuận theo nên rễ cây đan xen vào nhau, chẳng phải là dụng cụ sắc bén thì không thể cắt được; gặp hợi thì "tử", lúc lá rụng về cội?
Bính là mặt trời. "Thuyết Quái Truyện" nói: ly là hoả - lửa, là nhật - mặt trời, nhật với hoả đều là tượng của sự văn minh, vì vậy tên gọi không thay đổi của bính hoả là nhật. Mặt trời sớm mọc mà chiều lặn, dương hoả sanh ở dần mà tử ở dậu, hưng có gì khác biệt đâu? Thông thường sáu bính sanh ở mùa đông và mùa hạ không như sanh ở mùa xuân và mùa thu, ngày uân thì có công làm ấm áp vạn vật, mùa thu khí dương có công dụng làm khô ráo vạn vật, mùa đông thì tối tăm, tiêu điều, mùa hạ thì bốc hơi nóng, nên phải chồng xếp một cách cẩn thận.
Đinh hoả là tinh - ngôi sao. Bính hoả tử nên đinh hoả đươc sanh ra ở đó, khi mặt trời bị che lấp thì sao trở lại. Những ngôi sao này chỉ sáng vào đêm tối, âm hoả chỉ gần tối tăm mới chiếu sáng, đinh không gọi là "tinh" thì gọi là gì? Thông thường người sanh ngày đinh thích gặp ban đêm, thích gặp mùa thu, như sao sáng đúng lúc vậy; lại thích đi về nơi nhược địa của thân, như đinh hoả ẩn tàng trong đá, đá tuy rằng ở trong nước, nếu đập vào cũng sẽ có lửa ngay lập tức; ngày đinh tỵ thường khắc phụ, huynh, thê, tử bởi tài thì kỵ tỷ kiếp, anh miễn cưỡng em, trong tỵ có mậu thổ à thương quan vậy.
Mậu thổ là "hà" - ráng. Thổ không có khí riêng biệt, nhờ hoả mà sống còn, ráng không có hình thể nhất định, nhờ án sáng mặt trời mà lộ ra, biết rằng bính hoả chính là mặt trời, tức phải biết mậu thổ là ráng vậy. Ráng là đám mây theo sau mặt trời, mặt rời lặn nên ráng cũng không òn, hoả ngưng thì thổ không còn sức sống, cho nên gọi là ráng vậy. Giống như ngày mậu thổ chủ ưa thích tứ trụ có mang theo thuỷ sẽ là thượng cách, "hà thuỷ" - ráng và nước chiếu rọi nhau thành hiện tượng nhiều màu sắc; cũng thích can năm, can tháng là quý, quý là mưa, sau mưa ráng hiện nên thấy sáng sủa, rực rỡ.
Kỷ thổ là mây. Kỷ thổ sanh ở dậu, dậu là phương đòi, tượng của nó là "trạch" - đầm, chằm, chỗ nước đọng lớn. Tiên Chánh nói: "Lúc trời mưa xuống, mây xuất hiện ở núi, ở sông". Tuy nhiên mây là khí của núi sông vậy, kỷ tuy rằng thuộc thổ, luận theo cách này thì gọi nó là mây cũng thích hợp. Cho nên giáp kỷ hợp hoá thổ, khí của nó bay lên tạo thành mây; mây với sấm giao nhau nên tạo thành mưa, chảy xuống đầm mà giúp cho thổ ẩm ướt, đây là sự can thiệp mầu nhiệm của tạo hoá vậy! Thông thường thân thuộc kỷ thổ, quý trọng ở dậu, quý trọng sanh vào mùa xuân, quý trọng thấy ấn, ngồi ở hợi thì không nên thấy ất mộc, mây bay lên trời, gặp gió sẽ bừa bãi không dùng được.
Canh kim là mặt trăng. Canh chính là phương dậu, là dương kim, sao lại biết nó thích hợp với mặt trăng? Đáp: ngũ hành có can canh giống như bốn mùa có mặt trăng; canh không đợi thu mà trường sanh, nhưng mùa thu thì bắt đầu thịnh; mặt trăng không đợi mùa thu mà trăng sau này, nhưng mùa thu thì sáng hơn. Nói theo màu sắc mặt trăng vốn màu trắng: màu sắc của nó giống nhau; nói theo khí: kim sanh thuỷ, con nước ứng với mặt trăng vậy, nên khí của nó giống nhau vậy. Kinh sách nói rằng: kim chìm ở tý. thấy nó cùng với trăng chìm trong sóng nước, ba ngày trong tháng thấy canh mới có thể thấy, trăng đầu ở ngày canh là vị trí, vì thế nói canh kim là mặt trăng. Như người sanh ngày canh, tứ trụ có chữ ất tỵ lộ ra, gọi là "nguyệt bạch phong thanh" - dân gian nói là trăng thanh gió mát, mùa thu là thượng cách, kế đến là mùa đông, mùa xuân và mùa hạ không chọn.
Tân kim là sương. Tháng tám, là nơi "kiến lộc" của tân kim, là tháng mà khí trời tàn tạ, tiêu điều, hơi móc mùa thu trở thành sương lạnh, cây cỏ rơi lá vàng nên suy kiệt, cho nên ngũ hành âm mộc kiệt tận ở nơi này, giống như mộc sợ búa, rìu đốn chặt, mùi có chỗ để sống ở đó vậy. Búa rìu đúng lúc vào núi rừng, sương giá tàn ác đúng lúc giết chết cây cỏ, chức việc của đạo trời mà, người đời nghiên cứu và tin tưởng tân kim là sương vậy. Như người tân toạ ở mão, mùi thấu ất, sẽ rất là giàu, toạ hợi, thấu bính sẽ quý. Thích sanh mùa đông.
Nhâm thuỷ là "thu lộ" - sương của mùa thu. Mùa xuân cũng có sương, sao lại chỉ đọ với mùa thu? Bởi sương mùa xuân: mưa móc đều là sương ẩm, còn sương mùa thu: mưa móc đều là sương rơi, cùng là sương nhưng mà mùa xuân thì chủ sanh trưởng, còn mùa thu thì chủ giết chết, công dụng không giống nhau như thế này, nhưng ta lấy nhâm làm "thu lộ" - sương thu vậy, bởi sương thuộc thuỷ, mà nhâm thuỷ sanh ở thân, thuỷ vốn có khả năng sanh mộc, như vậy thuỷ ở đây nên sanh làm sao mộc lại tuyệt ở đây? Cho nên biết rằng nhâm là sương, của mùa thu vậy. Như ngày nhâm sanh ở mùa thu, thấy đinh hoả rất là vẻ vang rạng rỡ, đinh là "tinh hà" - dải sao, nhâm là sương mùa thu, mỗi khi tẩy rửa hơi nóng, hình ảnh sẽ rõ ràng hơn.
Quý thuỷ là "xuân lâm" - mưa dầm mùa xuân. Quý thuỷ sanh ra ở tháng mão, danh hiệu là "xuân lâm". Bởi âm mộc nhờ mưa nên sanh trưởng, nhưng đến thân sẽ chết, tháng bảy, tháng tám thường hạn hán. Lại thêm trước mão một vị trí là thìn, thìn là long cung, mão ở gần long cung nên thuỷ sanh, một khi rồng động hoá thành mưa ở đó; mão là "lôi môn" - nơi của sấm sét, sấm một khi chấn động thì rồng sẽ trổi dậy, quan sát điều này nên quý là "xuân lâm". Như ngày quý mão thấu xuất chữ kỷ, có tượng của "vân hành vũ thi" - tượng của mây và mưa, người này chắc chắn sẽ có tài cán trị nước. Mùa xuân và mùa hạ tốt, còn mùa thu và mùa đông thì không tốt.
十干分配天文
甲木为雷。雷者,阳气之嘘也,甲木属阳,故取象于雷焉。稽诸月令,仲春之月,雷乃发声,甲木旺,即其验也,况雷奋于地,木生于地,其理又无不同者。甲木至申而遂绝,以雷声至申而渐收也。凡命属甲日,主喜值春天,或类象,或趋乾,或遥巳,或拱贵,俱大吉;运不喜西方。经云:木在春生,处世安然,必寿。
乙木为风。乙木长生在午,败在巳。在午而生者,盖乙为山林活木,至夏来而畅茂,诗所谓千章夏木青是也;其败巳云何?巳乃巽地,巽为风,木盛风生也,风生于木而反摧木,犹之火生于木而反焚木,其取败也固宜,所谓乙木为风者,木其所自生云尔。如人乙日建生者,在秋令大吉,秋令金旺,乙木能化能从而盘根错节,非利器无所裁成;逢亥必死,其落叶归根之时耶?
丙为日。《说卦传》曰:离为火为日,日与火皆文明之象,是以丙火为日之名不易焉。太阳朝出而夕入,阳火寅生而酉死,而又何异乎?凡六丙生冬夏,不如春秋,春日有暄万物之功,秋阳有燥万物之用,冬则阴晦,夏则炎蒸,宜细堆之。
丁火为星。丙火死而丁火遂从生焉,在天之日薄而星回也。类如此星象唯入夜故灿烂,阴火唯近晦故辉煌,丁不谓之星而何?凡丁日生人喜遇夜,喜遇秋,如星光之得时也;又喜行身弱地,如石里所藏属丁火,石虽在水,即时取击,亦自有火;其丁巳一日,多克父兄妻子,盖财忌比劫,兄屈弟下,巳中有戊土,伤官也。
戊土为霞。土无专气,依火而生,霞无定体,借日以现,知丙火之为日,则知戊土之为霞矣。是霞者,日之余也,日尽而霞将灭没,火熄则土无生意,故谓之霞也。如戊土日主爱四柱带水则为上格,霞水相辉而成文彩也;更喜年月干见癸,癸则为雨,雨后霞现而睹文明也。
己土为云。己土生居酉,酉,兑方也,其象为泽。先正曰:"天降时雨,山川出云。"然则云者,山泽之气也,己虽属土,以此论之,则其谓之云也亦宜。故甲己合而化土,其气上升而云施;云雷交而作雨,其泽下究而土润。此造化之至妙者与!凡身主属己土,贵坐酉,贵春生,贵见印,坐亥者不可见乙木,云升天,遇风则狼籍而不禁也。
庚金为月。庚乃酉方阳金,何以知其配月乎?曰:五行之有庚,犹四时之有月也;庚不待秋而长生,然必秋而始盛;月不待秋而后月,然必秋而益明。以色言,月固白也,其色同矣;以气言,金生水也,潮应月也,其气同矣。经云:金沉在子。见其与月沉波也,三日月见庚方见,月初生与庚为位也,故曰庚金为月。如人庚日生者,四柱有乙巳字出,谓之月白风清,秋为上,冬次之,春夏无取。
辛金为霜。八月,辛金建禄之地,是月也天气肃杀,白露为霜,草木黄落而衰,故五行阴木绝在此地,若木经斧斤之斩伐,未有所生焉者也。斧斤以时入山林,严霜以时杀草木,揆之天道,参之人事,信乎辛金之为霜矣。如辛人坐卯,未透乙,大富,坐亥透丙则贵。爱冬生。
壬水为秋露。春亦有露,何独拟之以秋?盖春露、雨露既濡之露,秋露、霜露既降之露也,露一也,春主生,秋主杀,功用不同有如此,然吾以壬为秋露也,盖露属水,而壬水生于申,水本能生木者,水既然在此而生,木何由于此而绝?故知壬之为露,秋露也。如壬日生秋,见丁火最显,丁为星河,壬为秋露,一洗炎蒸,象纬昭然矣。
癸水为春霖。癸水生卯月,号曰春霖。盖阴木得雨而发生也,然至申则死,七、八月多干旱也。且卯前一位是辰,辰,龙宫也,卯近龙宫而水生,龙一奋遂化为雨焉;卯为雷门,雷一震而龙必兴焉,观此则癸水其春霖矣。如癸卯日透出己字者,有云行雨施之象,其人必有经济才也。春夏吉,秋冬不吉。
.
Thập Can Phân Phối Thiên Văn
Giáp mộc là sấm. Sấm là sự im lặng của dương khí, giáp mộc thuộc dương, cho nên tượng sấm được chọn ở đó. Xét theo lệnh tháng, là tháng giữa mùa xuân, sấm mới phát ra tiếng, giáp mộc vượng nên nó ứng nghiệm vậy, huống chi sấm đành xuống đất, cây cối mọc trên mặt đất, nguyên lý của nó không khác nhau. Giáp mộc đến thân thì tuyệt, vì tiếng sấm đến thân dần dần chấm dứt. Thông thường mệnh thuộc ngày giáp, chủ thích gặp mùa xuân, hoặc là sự giống nhau, hoặc "xu can", hoặc "diêu tỵ , hoặc "củng quý" tất cả đều là rất tốt; vận không thích đi về hướng tây. Kinh sách nói: mộc sanh mùa xuân, sống đời bình an vô sự chắc chắn được tuổi thọ.
Ất mộc là gió. Ất mộc trường sanh ở ngọ, bại ở tỵ. Ở ngọ thì được sanh, bởi ất là "hoạt mộc" của rừng núi, khi mùa hạ đến thì tốt tươi, xum xuê, thi thơ ca tụng cây xanh mùa hạ có hàng ngàn chương; còn tại sao nó bại ở tỵ? Tỵ chính là đất của quẻ tốn, tốn là gió, mộc vượng sanh ra gió, gió sanh ra ở mộc lại bẻ gãy mộc, giống như hoả sanh từ mộc lại đốt cháy mộc, cho nên mới chọn làm nơi bại của nó vậy, cái gọi ất mộc là gió, bảo rằng chỗ mộc tự nó sanh ra. Như người sanh ngày tháng ất, mùa thu nên kim vượng, ất mộc có khả năng biến hoá, có khả năng thuận theo nên rễ cây đan xen vào nhau, chẳng phải là dụng cụ sắc bén thì không thể cắt được; gặp hợi thì "tử", lúc lá rụng về cội?
Bính là mặt trời. "Thuyết Quái Truyện" nói: ly là hoả - lửa, là nhật - mặt trời, nhật với hoả đều là tượng của sự văn minh, vì vậy tên gọi không thay đổi của bính hoả là nhật. Mặt trời sớm mọc mà chiều lặn, dương hoả sanh ở dần mà tử ở dậu, hưng có gì khác biệt đâu? Thông thường sáu bính sanh ở mùa đông và mùa hạ không như sanh ở mùa xuân và mùa thu, ngày uân thì có công làm ấm áp vạn vật, mùa thu khí dương có công dụng làm khô ráo vạn vật, mùa đông thì tối tăm, tiêu điều, mùa hạ thì bốc hơi nóng, nên phải chồng xếp một cách cẩn thận.
Đinh hoả là tinh - ngôi sao. Bính hoả tử nên đinh hoả đươc sanh ra ở đó, khi mặt trời bị che lấp thì sao trở lại. Những ngôi sao này chỉ sáng vào đêm tối, âm hoả chỉ gần tối tăm mới chiếu sáng, đinh không gọi là "tinh" thì gọi là gì? Thông thường người sanh ngày đinh thích gặp ban đêm, thích gặp mùa thu, như sao sáng đúng lúc vậy; lại thích đi về nơi nhược địa của thân, như đinh hoả ẩn tàng trong đá, đá tuy rằng ở trong nước, nếu đập vào cũng sẽ có lửa ngay lập tức; ngày đinh tỵ thường khắc phụ, huynh, thê, tử bởi tài thì kỵ tỷ kiếp, anh miễn cưỡng em, trong tỵ có mậu thổ à thương quan vậy.
Mậu thổ là "hà" - ráng. Thổ không có khí riêng biệt, nhờ hoả mà sống còn, ráng không có hình thể nhất định, nhờ án sáng mặt trời mà lộ ra, biết rằng bính hoả chính là mặt trời, tức phải biết mậu thổ là ráng vậy. Ráng là đám mây theo sau mặt trời, mặt rời lặn nên ráng cũng không òn, hoả ngưng thì thổ không còn sức sống, cho nên gọi là ráng vậy. Giống như ngày mậu thổ chủ ưa thích tứ trụ có mang theo thuỷ sẽ là thượng cách, "hà thuỷ" - ráng và nước chiếu rọi nhau thành hiện tượng nhiều màu sắc; cũng thích can năm, can tháng là quý, quý là mưa, sau mưa ráng hiện nên thấy sáng sủa, rực rỡ.
Kỷ thổ là mây. Kỷ thổ sanh ở dậu, dậu là phương đòi, tượng của nó là "trạch" - đầm, chằm, chỗ nước đọng lớn. Tiên Chánh nói: "Lúc trời mưa xuống, mây xuất hiện ở núi, ở sông". Tuy nhiên mây là khí của núi sông vậy, kỷ tuy rằng thuộc thổ, luận theo cách này thì gọi nó là mây cũng thích hợp. Cho nên giáp kỷ hợp hoá thổ, khí của nó bay lên tạo thành mây; mây với sấm giao nhau nên tạo thành mưa, chảy xuống đầm mà giúp cho thổ ẩm ướt, đây là sự can thiệp mầu nhiệm của tạo hoá vậy! Thông thường thân thuộc kỷ thổ, quý trọng ở dậu, quý trọng sanh vào mùa xuân, quý trọng thấy ấn, ngồi ở hợi thì không nên thấy ất mộc, mây bay lên trời, gặp gió sẽ bừa bãi không dùng được.
Canh kim là mặt trăng. Canh chính là phương dậu, là dương kim, sao lại biết nó thích hợp với mặt trăng? Đáp: ngũ hành có can canh giống như bốn mùa có mặt trăng; canh không đợi thu mà trường sanh, nhưng mùa thu thì bắt đầu thịnh; mặt trăng không đợi mùa thu mà trăng sau này, nhưng mùa thu thì sáng hơn. Nói theo màu sắc mặt trăng vốn màu trắng: màu sắc của nó giống nhau; nói theo khí: kim sanh thuỷ, con nước ứng với mặt trăng vậy, nên khí của nó giống nhau vậy. Kinh sách nói rằng: kim chìm ở tý. thấy nó cùng với trăng chìm trong sóng nước, ba ngày trong tháng thấy canh mới có thể thấy, trăng đầu ở ngày canh là vị trí, vì thế nói canh kim là mặt trăng. Như người sanh ngày canh, tứ trụ có chữ ất tỵ lộ ra, gọi là "nguyệt bạch phong thanh" - dân gian nói là trăng thanh gió mát, mùa thu là thượng cách, kế đến là mùa đông, mùa xuân và mùa hạ không chọn.
Tân kim là sương. Tháng tám, là nơi "kiến lộc" của tân kim, là tháng mà khí trời tàn tạ, tiêu điều, hơi móc mùa thu trở thành sương lạnh, cây cỏ rơi lá vàng nên suy kiệt, cho nên ngũ hành âm mộc kiệt tận ở nơi này, giống như mộc sợ búa, rìu đốn chặt, mùi có chỗ để sống ở đó vậy. Búa rìu đúng lúc vào núi rừng, sương giá tàn ác đúng lúc giết chết cây cỏ, chức việc của đạo trời mà, người đời nghiên cứu và tin tưởng tân kim là sương vậy. Như người tân toạ ở mão, mùi thấu ất, sẽ rất là giàu, toạ hợi, thấu bính sẽ quý. Thích sanh mùa đông.
Nhâm thuỷ là "thu lộ" - sương của mùa thu. Mùa xuân cũng có sương, sao lại chỉ đọ với mùa thu? Bởi sương mùa xuân: mưa móc đều là sương ẩm, còn sương mùa thu: mưa móc đều là sương rơi, cùng là sương nhưng mà mùa xuân thì chủ sanh trưởng, còn mùa thu thì chủ giết chết, công dụng không giống nhau như thế này, nhưng ta lấy nhâm làm "thu lộ" - sương thu vậy, bởi sương thuộc thuỷ, mà nhâm thuỷ sanh ở thân, thuỷ vốn có khả năng sanh mộc, như vậy thuỷ ở đây nên sanh làm sao mộc lại tuyệt ở đây? Cho nên biết rằng nhâm là sương, của mùa thu vậy. Như ngày nhâm sanh ở mùa thu, thấy đinh hoả rất là vẻ vang rạng rỡ, đinh là "tinh hà" - dải sao, nhâm là sương mùa thu, mỗi khi tẩy rửa hơi nóng, hình ảnh sẽ rõ ràng hơn.
Quý thuỷ là "xuân lâm" - mưa dầm mùa xuân. Quý thuỷ sanh ra ở tháng mão, danh hiệu là "xuân lâm". Bởi âm mộc nhờ mưa nên sanh trưởng, nhưng đến thân sẽ chết, tháng bảy, tháng tám thường hạn hán. Lại thêm trước mão một vị trí là thìn, thìn là long cung, mão ở gần long cung nên thuỷ sanh, một khi rồng động hoá thành mưa ở đó; mão là "lôi môn" - nơi của sấm sét, sấm một khi chấn động thì rồng sẽ trổi dậy, quan sát điều này nên quý là "xuân lâm". Như ngày quý mão thấu xuất chữ kỷ, có tượng của "vân hành vũ thi" - tượng của mây và mưa, người này chắc chắn sẽ có tài cán trị nước. Mùa xuân và mùa hạ tốt, còn mùa thu và mùa đông thì không tốt.
十干分配天文
甲木为雷。雷者,阳气之嘘也,甲木属阳,故取象于雷焉。稽诸月令,仲春之月,雷乃发声,甲木旺,即其验也,况雷奋于地,木生于地,其理又无不同者。甲木至申而遂绝,以雷声至申而渐收也。凡命属甲日,主喜值春天,或类象,或趋乾,或遥巳,或拱贵,俱大吉;运不喜西方。经云:木在春生,处世安然,必寿。
乙木为风。乙木长生在午,败在巳。在午而生者,盖乙为山林活木,至夏来而畅茂,诗所谓千章夏木青是也;其败巳云何?巳乃巽地,巽为风,木盛风生也,风生于木而反摧木,犹之火生于木而反焚木,其取败也固宜,所谓乙木为风者,木其所自生云尔。如人乙日建生者,在秋令大吉,秋令金旺,乙木能化能从而盘根错节,非利器无所裁成;逢亥必死,其落叶归根之时耶?
丙为日。《说卦传》曰:离为火为日,日与火皆文明之象,是以丙火为日之名不易焉。太阳朝出而夕入,阳火寅生而酉死,而又何异乎?凡六丙生冬夏,不如春秋,春日有暄万物之功,秋阳有燥万物之用,冬则阴晦,夏则炎蒸,宜细堆之。
丁火为星。丙火死而丁火遂从生焉,在天之日薄而星回也。类如此星象唯入夜故灿烂,阴火唯近晦故辉煌,丁不谓之星而何?凡丁日生人喜遇夜,喜遇秋,如星光之得时也;又喜行身弱地,如石里所藏属丁火,石虽在水,即时取击,亦自有火;其丁巳一日,多克父兄妻子,盖财忌比劫,兄屈弟下,巳中有戊土,伤官也。
戊土为霞。土无专气,依火而生,霞无定体,借日以现,知丙火之为日,则知戊土之为霞矣。是霞者,日之余也,日尽而霞将灭没,火熄则土无生意,故谓之霞也。如戊土日主爱四柱带水则为上格,霞水相辉而成文彩也;更喜年月干见癸,癸则为雨,雨后霞现而睹文明也。
己土为云。己土生居酉,酉,兑方也,其象为泽。先正曰:"天降时雨,山川出云。"然则云者,山泽之气也,己虽属土,以此论之,则其谓之云也亦宜。故甲己合而化土,其气上升而云施;云雷交而作雨,其泽下究而土润。此造化之至妙者与!凡身主属己土,贵坐酉,贵春生,贵见印,坐亥者不可见乙木,云升天,遇风则狼籍而不禁也。
庚金为月。庚乃酉方阳金,何以知其配月乎?曰:五行之有庚,犹四时之有月也;庚不待秋而长生,然必秋而始盛;月不待秋而后月,然必秋而益明。以色言,月固白也,其色同矣;以气言,金生水也,潮应月也,其气同矣。经云:金沉在子。见其与月沉波也,三日月见庚方见,月初生与庚为位也,故曰庚金为月。如人庚日生者,四柱有乙巳字出,谓之月白风清,秋为上,冬次之,春夏无取。
辛金为霜。八月,辛金建禄之地,是月也天气肃杀,白露为霜,草木黄落而衰,故五行阴木绝在此地,若木经斧斤之斩伐,未有所生焉者也。斧斤以时入山林,严霜以时杀草木,揆之天道,参之人事,信乎辛金之为霜矣。如辛人坐卯,未透乙,大富,坐亥透丙则贵。爱冬生。
壬水为秋露。春亦有露,何独拟之以秋?盖春露、雨露既濡之露,秋露、霜露既降之露也,露一也,春主生,秋主杀,功用不同有如此,然吾以壬为秋露也,盖露属水,而壬水生于申,水本能生木者,水既然在此而生,木何由于此而绝?故知壬之为露,秋露也。如壬日生秋,见丁火最显,丁为星河,壬为秋露,一洗炎蒸,象纬昭然矣。
癸水为春霖。癸水生卯月,号曰春霖。盖阴木得雨而发生也,然至申则死,七、八月多干旱也。且卯前一位是辰,辰,龙宫也,卯近龙宫而水生,龙一奋遂化为雨焉;卯为雷门,雷一震而龙必兴焉,观此则癸水其春霖矣。如癸卯日透出己字者,有云行雨施之象,其人必有经济才也。春夏吉,秋冬不吉。
.
#27
Gửi vào 26/06/2024 - 00:35
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Thập Nhị Địa Chi Phân Phối Địa Lý
Tý là "mặc trì" - hồ đen. Tý ở hướng chánh bắc, thuộc thuỷ, màu sắc đen, cho nên có tượng là hồ đen. Thông thường mệnh gặp người sanh năm tý, giờ thích thấy quý hợi, gọi là "thuỷ quy đại hải" - nước chảy về biển lớn, lại gọi là "song ngư du mặc" - bức tranh vẽ mực đen hai cá bơi, sẽ là nhà nghiên cứu văn chương.
Ngọ là "phong hậu" - đốt lửa trên ụ đồn bằng đất để canh gác quân giặc. Ngọ ở hướng chánh nam, thuộc hoả, thổ, màu sắc của nó là đỏ và vàng, tên của nó là "phong hậu", đấy là lý do tại sao; lại thêm ngọ là ngựa, "phong hậu" chính là xứ sở của kỵ binh sử dụng hoả. Người sanh năm ngọ lợi gặp giờ thìn, rồng thật sự xuất hiện thì ngựa bình thường cũng thành cao lớn, gọi là "mã hoá long câu" - ngựa hoá thành tuấn mã.
Mão là "quỳnh lâm". Mão liên hệ đến ất mộc, vị trí ở hướng chánh đông, thời gian là ở giữa mùa xuân, vạn vật được sanh trưởng ở đó, màu sắc "nhược lang chi thanh" - màu xanh của của một loài cỏ thơm khiết bạch, cho nên gọi là "quỳnh lâm", năm mão gặp được giờ tỵ, mùi gọi là tượng của "thố nhập nguyệt cung" - thỏ vào cung trăng, chủ đại quý.
Dậu là "tự chung" - chuông chùa. Dậu thuộc kim, vị trí ở gần tuất hợi mà tuất hợi chính là "thiên môn" - nhà trời, chuông, thuộc kim, chuông chùa gõ vào thì thinh âm vang đến tận trời, lại thêm dậu ở hướng chánh tây, chùa là thế giới phật giáo ở phương tây. Dậu thấy dần thì tốt, gọi là "chung minh cốc ứng" - tiếng chuông ứng với hang núi.
Dần là "quảng cốc" - dòng suối rộng lớn. Dần chính là phương cấn, cấn là sơn, mậu thổ trường sanh ở đó nên ý nghĩa rõ ràng của "quảng cốc". Nhưng cung dần có cọp, người tuổi dần mà giờ là mậu thìn gọi là "hổ khiếu nhi cốc phong sanh" - cọp gầm nên gió sanh ra trong cốc, uy quyền vang dội ngàn dặm.
Thân là "danh đô" - thành phố nổi tiếng. Khôn là đất đai, bản chất của nó không có biên giới, chẳng gọi "danh đô" thì không đủ để diễn tả nó. Thân là khôn, là thành phố, là chỗ ở của vua chúa; nhâm thuỷ sanh ra ở cung thân, lại cùng với cấn sơn đối nhau là "thuỷ nhiễu sơn hoàn" - nước chảy quanh núi vậy. Mệnh thường thích năm thân giờ hợi chính là "địa thiên giao thái" - đất trời giao nhau nên hanh thông, thuận lợi.
Tỵ là "đại dịch". Đại dịch là nơi người tụ tập sinh sống, đường lộ thông suốt khắp nơi. Trong tỵ có bính hoả, mậu thổ, chính là tượng của nó, lại thêm trước tỵ có ngọ là ngựa, cho nên gọi là "đại dịch" - chữ dịch nghĩa là ngựa dùng để đưa thư từ, công văn ngày xưa. Tuổi tỵ thích gặp giờ thìn, "xà hoá khinh long" - rắn hoá rồng, cách gọi là "thiên lý long câu" - tuấn mã phi ngàn dặm.
Hợi là "huyền hà" - sông lơ lửng trên cao. Thuỷ của "thiên hà" chảy xiết mà không trở lại nên gọi là "huyền hà", hợi tức là "thiên môn" - nhà trời, lại thuộc thuỷ, chẳng phải "huyền hà" thì là tượng gì đây? Sanh năm, tháng hợi, ngày giờ thấy hai chữ dần, thìn chính là cách "thuỷ củng lôi môn" - nước nhiễu quanh cửa nhà sấm.
Thìn là "thảo trạch" - thôn dã. Trạch là nơi thuỷ tích tụ, thìn ở kế phương đông, là "thuỷ khố", cho nên là cỏ, là ao hồ; thìn gặp nhâm tuất, quý hợi tức là cách "long quy đại hải" - rồng trở về biển lớn.
Tuất là "thiêu nguyên" - cánh đồng đốt cháy. Tháng tuất là tháng chín, mùa thu, cây cỏ đều khô héo, đồng ruộng được đốt cháy để canh tác, lại thêm tuất thuộc thổ, vì thế tên gọi là "thiêu nguyên", cho nên tuất với thìn đều là nơi quý nhân không tới vậy. Tuổi tuất gặp mão danh hiệu gọi là "xuân nhập thiêu ngân" - vết bỏng mùa xuân.
Sửu là "liễu ngạn" - bờ liễu. Trong sửu có thuỷ, có kim, "ngạn" - bờ đê, là thổ, có thể ngăn nước, cho nên gọi là "liễu ngạn". Người tuổi sửu mà giờ gặp kỷ mùi, chính là "nguyệt chiếu liễu sao" - trăng soi cành liễu, cách rất là cao quý.
Mùi là "hoa viên" - vườn hoa. "Hoa viên" thuộc mùi, không thuộc mão là sao? Mão là mộc vượng, tự trở thành rừng ở chân núi; còn mùi chính là "mộc khố", như là người ta xây tường vách để bảo vệ trăm hoa vậy, nói theo trăm hoa trong mùi có lẫn lộn nhiều khí mà thôi; người tuổi mùi cách "song phi" - bay cùng nhau, rất là tuyệt diệu, như tân mùi gặp mậu tuất, cả hai can không lẫn lộn đúng là vậy.
十二支分配地理
子为墨池。子在正北方,属水,色象墨,故有墨池之象。凡命逢子年生者,时喜见癸亥,谓之水归大海,又谓之双鱼游墨,必为文章士矣。
午为烽堠。午正位于南,属火、土,其色赤黄,名其曰烽堠者,此也;又午为马,烽堠乃戎马兵火之处所也。午生人时利见辰,真龙出则凡马空矣,谓之马化龙驹。
卯为琼林。卯系乙木,居位正东,于时为仲春,万物生焉,色若琅之青,故曰琼林。卯年遇巳未时者,是为兔入月宫之象,主大贵。
酉为寺钟。酉属金,位近戍亥,戍亥者,天门也,钟,金属也,寺钟敲则响彻天门;又酉居正西,寺则西方佛界也。酉见寅吉,谓之钟鸣谷应。
寅为广谷。寅乃艮方,艮为山,戊土长生于是而广谷之义著矣。然寅宫有虎,寅生人而时戊辰者,谓之虎啸而谷风生,威震万里。
申为名都。坤为地,其体无疆,非名都不足以喻之。申,坤也,都者;帝王所居;申宫壬水生,又与艮山对,是水绕山环也。凡命爱申年亥时,乃地天交泰。
巳为大驿。大驿者,人烟凑集,道路通达之地。巳中有丙火戊土,是其象也,又巳前有午马,故曰大驿。巳生喜得辰时,蛇化轻龙,于格为千里龙驹。
亥为悬河。天河之水,奔流不回,故曰悬河,亥即天门,又属水,非悬河之象乎?亥年建生,日时见寅、辰二字,是乃水拱雷门。
辰为草泽。夫泽,水所钟也,辰在东方之次,为水库,故为草为泽;辰逢壬戍、癸亥即龙归大海格。
戌为烧原。戌月在九秋,草木尽萎,田家焚烧而耕,又戌属土,是以称名烧原,故戌与辰地皆贵人所不临也。戌生逢卯,号曰春入烧痕。
丑为柳岸。丑中有水有金,岸者,土也,所以止水也,故谓柳岸。丑人时见己未,乃月照柳梢,极为上格。
未为花园。花园属之未,不属之卯,何也?卯乃木旺,自成林麓;未乃木库,如人筑墙垣以护百花也,以百花言未中有杂气耳;未年人双飞格,最妙,如辛未见戊戍,两干不杂是也。
.
Thập Nhị Địa Chi Phân Phối Địa Lý
Tý là "mặc trì" - hồ đen. Tý ở hướng chánh bắc, thuộc thuỷ, màu sắc đen, cho nên có tượng là hồ đen. Thông thường mệnh gặp người sanh năm tý, giờ thích thấy quý hợi, gọi là "thuỷ quy đại hải" - nước chảy về biển lớn, lại gọi là "song ngư du mặc" - bức tranh vẽ mực đen hai cá bơi, sẽ là nhà nghiên cứu văn chương.
Ngọ là "phong hậu" - đốt lửa trên ụ đồn bằng đất để canh gác quân giặc. Ngọ ở hướng chánh nam, thuộc hoả, thổ, màu sắc của nó là đỏ và vàng, tên của nó là "phong hậu", đấy là lý do tại sao; lại thêm ngọ là ngựa, "phong hậu" chính là xứ sở của kỵ binh sử dụng hoả. Người sanh năm ngọ lợi gặp giờ thìn, rồng thật sự xuất hiện thì ngựa bình thường cũng thành cao lớn, gọi là "mã hoá long câu" - ngựa hoá thành tuấn mã.
Mão là "quỳnh lâm". Mão liên hệ đến ất mộc, vị trí ở hướng chánh đông, thời gian là ở giữa mùa xuân, vạn vật được sanh trưởng ở đó, màu sắc "nhược lang chi thanh" - màu xanh của của một loài cỏ thơm khiết bạch, cho nên gọi là "quỳnh lâm", năm mão gặp được giờ tỵ, mùi gọi là tượng của "thố nhập nguyệt cung" - thỏ vào cung trăng, chủ đại quý.
Dậu là "tự chung" - chuông chùa. Dậu thuộc kim, vị trí ở gần tuất hợi mà tuất hợi chính là "thiên môn" - nhà trời, chuông, thuộc kim, chuông chùa gõ vào thì thinh âm vang đến tận trời, lại thêm dậu ở hướng chánh tây, chùa là thế giới phật giáo ở phương tây. Dậu thấy dần thì tốt, gọi là "chung minh cốc ứng" - tiếng chuông ứng với hang núi.
Dần là "quảng cốc" - dòng suối rộng lớn. Dần chính là phương cấn, cấn là sơn, mậu thổ trường sanh ở đó nên ý nghĩa rõ ràng của "quảng cốc". Nhưng cung dần có cọp, người tuổi dần mà giờ là mậu thìn gọi là "hổ khiếu nhi cốc phong sanh" - cọp gầm nên gió sanh ra trong cốc, uy quyền vang dội ngàn dặm.
Thân là "danh đô" - thành phố nổi tiếng. Khôn là đất đai, bản chất của nó không có biên giới, chẳng gọi "danh đô" thì không đủ để diễn tả nó. Thân là khôn, là thành phố, là chỗ ở của vua chúa; nhâm thuỷ sanh ra ở cung thân, lại cùng với cấn sơn đối nhau là "thuỷ nhiễu sơn hoàn" - nước chảy quanh núi vậy. Mệnh thường thích năm thân giờ hợi chính là "địa thiên giao thái" - đất trời giao nhau nên hanh thông, thuận lợi.
Tỵ là "đại dịch". Đại dịch là nơi người tụ tập sinh sống, đường lộ thông suốt khắp nơi. Trong tỵ có bính hoả, mậu thổ, chính là tượng của nó, lại thêm trước tỵ có ngọ là ngựa, cho nên gọi là "đại dịch" - chữ dịch nghĩa là ngựa dùng để đưa thư từ, công văn ngày xưa. Tuổi tỵ thích gặp giờ thìn, "xà hoá khinh long" - rắn hoá rồng, cách gọi là "thiên lý long câu" - tuấn mã phi ngàn dặm.
Hợi là "huyền hà" - sông lơ lửng trên cao. Thuỷ của "thiên hà" chảy xiết mà không trở lại nên gọi là "huyền hà", hợi tức là "thiên môn" - nhà trời, lại thuộc thuỷ, chẳng phải "huyền hà" thì là tượng gì đây? Sanh năm, tháng hợi, ngày giờ thấy hai chữ dần, thìn chính là cách "thuỷ củng lôi môn" - nước nhiễu quanh cửa nhà sấm.
Thìn là "thảo trạch" - thôn dã. Trạch là nơi thuỷ tích tụ, thìn ở kế phương đông, là "thuỷ khố", cho nên là cỏ, là ao hồ; thìn gặp nhâm tuất, quý hợi tức là cách "long quy đại hải" - rồng trở về biển lớn.
Tuất là "thiêu nguyên" - cánh đồng đốt cháy. Tháng tuất là tháng chín, mùa thu, cây cỏ đều khô héo, đồng ruộng được đốt cháy để canh tác, lại thêm tuất thuộc thổ, vì thế tên gọi là "thiêu nguyên", cho nên tuất với thìn đều là nơi quý nhân không tới vậy. Tuổi tuất gặp mão danh hiệu gọi là "xuân nhập thiêu ngân" - vết bỏng mùa xuân.
Sửu là "liễu ngạn" - bờ liễu. Trong sửu có thuỷ, có kim, "ngạn" - bờ đê, là thổ, có thể ngăn nước, cho nên gọi là "liễu ngạn". Người tuổi sửu mà giờ gặp kỷ mùi, chính là "nguyệt chiếu liễu sao" - trăng soi cành liễu, cách rất là cao quý.
Mùi là "hoa viên" - vườn hoa. "Hoa viên" thuộc mùi, không thuộc mão là sao? Mão là mộc vượng, tự trở thành rừng ở chân núi; còn mùi chính là "mộc khố", như là người ta xây tường vách để bảo vệ trăm hoa vậy, nói theo trăm hoa trong mùi có lẫn lộn nhiều khí mà thôi; người tuổi mùi cách "song phi" - bay cùng nhau, rất là tuyệt diệu, như tân mùi gặp mậu tuất, cả hai can không lẫn lộn đúng là vậy.
十二支分配地理
子为墨池。子在正北方,属水,色象墨,故有墨池之象。凡命逢子年生者,时喜见癸亥,谓之水归大海,又谓之双鱼游墨,必为文章士矣。
午为烽堠。午正位于南,属火、土,其色赤黄,名其曰烽堠者,此也;又午为马,烽堠乃戎马兵火之处所也。午生人时利见辰,真龙出则凡马空矣,谓之马化龙驹。
卯为琼林。卯系乙木,居位正东,于时为仲春,万物生焉,色若琅之青,故曰琼林。卯年遇巳未时者,是为兔入月宫之象,主大贵。
酉为寺钟。酉属金,位近戍亥,戍亥者,天门也,钟,金属也,寺钟敲则响彻天门;又酉居正西,寺则西方佛界也。酉见寅吉,谓之钟鸣谷应。
寅为广谷。寅乃艮方,艮为山,戊土长生于是而广谷之义著矣。然寅宫有虎,寅生人而时戊辰者,谓之虎啸而谷风生,威震万里。
申为名都。坤为地,其体无疆,非名都不足以喻之。申,坤也,都者;帝王所居;申宫壬水生,又与艮山对,是水绕山环也。凡命爱申年亥时,乃地天交泰。
巳为大驿。大驿者,人烟凑集,道路通达之地。巳中有丙火戊土,是其象也,又巳前有午马,故曰大驿。巳生喜得辰时,蛇化轻龙,于格为千里龙驹。
亥为悬河。天河之水,奔流不回,故曰悬河,亥即天门,又属水,非悬河之象乎?亥年建生,日时见寅、辰二字,是乃水拱雷门。
辰为草泽。夫泽,水所钟也,辰在东方之次,为水库,故为草为泽;辰逢壬戍、癸亥即龙归大海格。
戌为烧原。戌月在九秋,草木尽萎,田家焚烧而耕,又戌属土,是以称名烧原,故戌与辰地皆贵人所不临也。戌生逢卯,号曰春入烧痕。
丑为柳岸。丑中有水有金,岸者,土也,所以止水也,故谓柳岸。丑人时见己未,乃月照柳梢,极为上格。
未为花园。花园属之未,不属之卯,何也?卯乃木旺,自成林麓;未乃木库,如人筑墙垣以护百花也,以百花言未中有杂气耳;未年人双飞格,最妙,如辛未见戊戍,两干不杂是也。
.
#28
Gửi vào 26/06/2024 - 00:43
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Luận Địa Chi Thuộc Tướng
Có người hỏi: địa chi có "thuộc tướng" - dấu hiệu của cung hoàng đạo, còn thiên can thì không có, sao lại như vậy?
Trả lời rằng: thiên can động nên "vô tướng" - không có đặc tính, còn địa chi tĩnh nên "hữu tướng" - có đặc tính. Bởi cái nhẹ và trong suốt là "thiên" - trời, còn cái đục nặng là "địa" - đất, trong độ đục nặng, chính là có vạn vật ở đó. Cho nên tý thuộc "thử" - con chuột, sửu thuộc "ngưu" - con trâu, dần thuộc "hổ" - con cọp, mão thuộc "thố" - con thỏ, thìn thuộc "long" - con rồng, tỵ thuộc "xà" - con rắn, ngọ thuộc "mã" - con ngựa, mùi thuộc "dương" - con dê, thân thuộc "hầu" - con khỉ, dậu thuộc "kê" - con gà, tuất thuộc "khuyển" - con chó, hợi thuộc "trư" - con heo. Đây chính là mười hai "thuộc tướng" cũng có phân biệt cơ ngẫu, sử dụng của thịnh suy. "Cơ" - số lẻ, gồm chuột, cọp, rồng, ngựa, khỉ, chó, tất cả đều thuộc dương, sáu loại thú đều có chân là số lẻ; "ngẫu" - số chẵn gồm trâu, thỏ, rắn, dê, gà, heo, số hai thuộc âm, sáu loại thú vật có chân đều là số chẵn. Chỉ rắn không có chân sao lại chọn nghĩa này? Bởi tỵ ở tháng chính là tháng của "thuần dương", ở thời tiết chính là lúc "xuân dương" - trời xuân ấm áp, số thì chẵn mà đang lúc dương thời, cho nên dùng rắn làm tượng, rắn cũng là "âm vật", không dùng chân của nó nên tượng tỵ nêu lên nghi ngờ, cũng kiêng dè không nói tới kiến giải của chữ "âm" vậy, huống chi cũng có rắn hai đầu. Có thể xem xét mười hai tướng trong biên chép "tam thập lục cầm trung thủ kỳ thủ", vốn có phân biệt âm dương, chẵn lẻ rõ ràng, đây chính là chỗ tạo thành tuyệt vời. Dần hành mộc, cầm tinh cọp, tuất hành thổ cầm tinh chó, sửu, mùi cũng hành thổ mà sửu cầm tinh trâu, mùi thì cầm tinh dê, mộc thắng được thổ, cho nên chó với trâu, dê bị cọp khuất phục; hợi hành thuỷ cầm tinh heo, tỵ hành hoả cầm tinh rắn, tý cũng hành thuỷ cầm tinh chuột, ngọ cũng hành hoả cầm tinh ngựa, thuỷ thắng hoả, cho nên heo ăn rắn, hoả bị thuỷ hại, cho nên ngựa ăn chuột nên bụng phình ra. Tuy nhiên cũng có cái không thể thắng nhau. Ngọ là ngựa, tý là chuột, dậu là gà, mão là thỏ, thuỷ thắng hoả sao chuột không đuổi ngựa? Kim thắng mộc sao gà không mổ thỏ? Hợi là heo, mùi là dê, sửu là trâu, thổ thắng thuỷ trâu, dê sao không giết heo? Tỵ là rắn, thân là khỉ, hoả thắng kim sao rắn không ăn khỉ? Loài khỉ thì sợ chuột cắn cổ khỉ, sợ cả chó. Chuột hành thuỷ khỉ hành kim thuỷ không thắng kim sao khỉ lại sợ chuột? Chó hành thổ, thân là khỉ, thổ không thắng kim sao khỉ lại sợ chó? Mười hai cầm tinh của thần có khí và bản chất khắc lẫn nhau thì càng không thích hợp. Nói chung, loài vật có máu phục tòng lẫn nhau, ngay cả loài vật ăn thịt lẫn nhau, sẽ khuất phục lẫn nhau vì sức mạnh và răng sắc bén.
论地支属相
或问:地支有属相,而天干则无者,何也?
答曰:天干动而无相,地支静而有相。盖轻清者天也,重浊者地也,重浊之中,乃有物焉。故子属鼠,丑属牛,寅属虎,卯属兔,辰属龙,巳属蛇,午属马,未属羊,申属猴,酉属鸡,戍属犬,亥属猪。此十二属相亦有奇偶之分,盛衰之用。奇者鼠、虎、龙、马、猴、犬,一则属阳,六兽之足皆单;偶者牛、兔、蛇、羊、鸡、猪,二则属阴,六兽之足皆双。唯蛇无足又何取义?盖巳在月乃纯阳之月,在时乃春阳之时,数则偶而时则阳,故用蛇以象之,蛇乃阴物,不用其足而象巳著疑,亦讳言乎阴之意尔,况亦有双头者。可验十二相即三十六禽中取其首者拟之,自有阴阳之别,单双之分,此造化之所以为妙也。寅,木也,其禽虎,戌,土也,其禽犬,丑、未亦土也,丑禽牛,未禽羊,木胜土,故犬与牛羊为虎所服;亥,水也,其禽豕,巳,火也,其禽蛇,子亦水也,其禽鼠,午亦火也,其禽马,水胜火,故豕食蛇,火为水所害,故马食鼠屎而腹胀。然亦有不相胜者。午,马也,子,鼠也,酉,鸡也,卯,兔也,水胜火,鼠何不逐马?金胜木,鸡何不啄兔?亥,豕也,未,羊也,丑,牛也,土胜水,牛羊何不杀豕?巳,蛇也,申,猴也,火胜金,蛇何不食猕猴?猕猴,畏鼠者也,啮猕猴者,犬也。鼠,水,猕猴,金也,水不胜金,猕猴何故畏鼠?戌,土也,申,猴也,土不胜金,猴何故畏犬?十二辰之禽以气性相克则尤不相应。大凡含血之虫相服,至于相啖食者,以齿牙钝利、筋力优劣自相胜服也。
.
Luận Địa Chi Thuộc Tướng
Có người hỏi: địa chi có "thuộc tướng" - dấu hiệu của cung hoàng đạo, còn thiên can thì không có, sao lại như vậy?
Trả lời rằng: thiên can động nên "vô tướng" - không có đặc tính, còn địa chi tĩnh nên "hữu tướng" - có đặc tính. Bởi cái nhẹ và trong suốt là "thiên" - trời, còn cái đục nặng là "địa" - đất, trong độ đục nặng, chính là có vạn vật ở đó. Cho nên tý thuộc "thử" - con chuột, sửu thuộc "ngưu" - con trâu, dần thuộc "hổ" - con cọp, mão thuộc "thố" - con thỏ, thìn thuộc "long" - con rồng, tỵ thuộc "xà" - con rắn, ngọ thuộc "mã" - con ngựa, mùi thuộc "dương" - con dê, thân thuộc "hầu" - con khỉ, dậu thuộc "kê" - con gà, tuất thuộc "khuyển" - con chó, hợi thuộc "trư" - con heo. Đây chính là mười hai "thuộc tướng" cũng có phân biệt cơ ngẫu, sử dụng của thịnh suy. "Cơ" - số lẻ, gồm chuột, cọp, rồng, ngựa, khỉ, chó, tất cả đều thuộc dương, sáu loại thú đều có chân là số lẻ; "ngẫu" - số chẵn gồm trâu, thỏ, rắn, dê, gà, heo, số hai thuộc âm, sáu loại thú vật có chân đều là số chẵn. Chỉ rắn không có chân sao lại chọn nghĩa này? Bởi tỵ ở tháng chính là tháng của "thuần dương", ở thời tiết chính là lúc "xuân dương" - trời xuân ấm áp, số thì chẵn mà đang lúc dương thời, cho nên dùng rắn làm tượng, rắn cũng là "âm vật", không dùng chân của nó nên tượng tỵ nêu lên nghi ngờ, cũng kiêng dè không nói tới kiến giải của chữ "âm" vậy, huống chi cũng có rắn hai đầu. Có thể xem xét mười hai tướng trong biên chép "tam thập lục cầm trung thủ kỳ thủ", vốn có phân biệt âm dương, chẵn lẻ rõ ràng, đây chính là chỗ tạo thành tuyệt vời. Dần hành mộc, cầm tinh cọp, tuất hành thổ cầm tinh chó, sửu, mùi cũng hành thổ mà sửu cầm tinh trâu, mùi thì cầm tinh dê, mộc thắng được thổ, cho nên chó với trâu, dê bị cọp khuất phục; hợi hành thuỷ cầm tinh heo, tỵ hành hoả cầm tinh rắn, tý cũng hành thuỷ cầm tinh chuột, ngọ cũng hành hoả cầm tinh ngựa, thuỷ thắng hoả, cho nên heo ăn rắn, hoả bị thuỷ hại, cho nên ngựa ăn chuột nên bụng phình ra. Tuy nhiên cũng có cái không thể thắng nhau. Ngọ là ngựa, tý là chuột, dậu là gà, mão là thỏ, thuỷ thắng hoả sao chuột không đuổi ngựa? Kim thắng mộc sao gà không mổ thỏ? Hợi là heo, mùi là dê, sửu là trâu, thổ thắng thuỷ trâu, dê sao không giết heo? Tỵ là rắn, thân là khỉ, hoả thắng kim sao rắn không ăn khỉ? Loài khỉ thì sợ chuột cắn cổ khỉ, sợ cả chó. Chuột hành thuỷ khỉ hành kim thuỷ không thắng kim sao khỉ lại sợ chuột? Chó hành thổ, thân là khỉ, thổ không thắng kim sao khỉ lại sợ chó? Mười hai cầm tinh của thần có khí và bản chất khắc lẫn nhau thì càng không thích hợp. Nói chung, loài vật có máu phục tòng lẫn nhau, ngay cả loài vật ăn thịt lẫn nhau, sẽ khuất phục lẫn nhau vì sức mạnh và răng sắc bén.
论地支属相
或问:地支有属相,而天干则无者,何也?
答曰:天干动而无相,地支静而有相。盖轻清者天也,重浊者地也,重浊之中,乃有物焉。故子属鼠,丑属牛,寅属虎,卯属兔,辰属龙,巳属蛇,午属马,未属羊,申属猴,酉属鸡,戍属犬,亥属猪。此十二属相亦有奇偶之分,盛衰之用。奇者鼠、虎、龙、马、猴、犬,一则属阳,六兽之足皆单;偶者牛、兔、蛇、羊、鸡、猪,二则属阴,六兽之足皆双。唯蛇无足又何取义?盖巳在月乃纯阳之月,在时乃春阳之时,数则偶而时则阳,故用蛇以象之,蛇乃阴物,不用其足而象巳著疑,亦讳言乎阴之意尔,况亦有双头者。可验十二相即三十六禽中取其首者拟之,自有阴阳之别,单双之分,此造化之所以为妙也。寅,木也,其禽虎,戌,土也,其禽犬,丑、未亦土也,丑禽牛,未禽羊,木胜土,故犬与牛羊为虎所服;亥,水也,其禽豕,巳,火也,其禽蛇,子亦水也,其禽鼠,午亦火也,其禽马,水胜火,故豕食蛇,火为水所害,故马食鼠屎而腹胀。然亦有不相胜者。午,马也,子,鼠也,酉,鸡也,卯,兔也,水胜火,鼠何不逐马?金胜木,鸡何不啄兔?亥,豕也,未,羊也,丑,牛也,土胜水,牛羊何不杀豕?巳,蛇也,申,猴也,火胜金,蛇何不食猕猴?猕猴,畏鼠者也,啮猕猴者,犬也。鼠,水,猕猴,金也,水不胜金,猕猴何故畏鼠?戌,土也,申,猴也,土不胜金,猴何故畏犬?十二辰之禽以气性相克则尤不相应。大凡含血之虫相服,至于相啖食者,以齿牙钝利、筋力优劣自相胜服也。
.
#29
Gửi vào 26/06/2024 - 00:51
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Luận Nhân Nguyên Ty Sự
Khí hỗn độn do trời đất vạn vật cấu thành, hình chất không phân ly, trở thành âm dương?
Lúc mới đầu đã phát sinh, phân một thành ba, hơi thở bị phân chia, bầu trời được khí nhẹ, trong làm dương, đất được chất đục, nặng làm âm, con người nằm ở giữa trời và đất, chịu nhận khí trung hoà của âm dương. Cho nên cái mà nhẹ và trong là thập can, chủ về lộc, gọi là "thiên nguyên" - yếu tố trời, cái mà đục nặng là mười hai địa chi, chủ về thân, gọi là "địa nguyên" - yếu tố đất, trời đất thường ở đúng vị trí của nó, những thành tài trong cả hai được gọi là người vậy. Cho nên nguyên lý ẩn tàng của địa chi thì chủ về mệnh, gọi là "nhân nguyên", danh hiệu là thần quản về sự việc, dùng để nói theo mệnh thuật là "nguyệt lệnh" - lệnh tháng.
Như tháng giêng là "kiến dần", trong dần có cấn thổ dùng được năm ngày, bính hoả trường sanh năm ngày, giáp mộc hai mươi ngày;
Tháng hai là "kiến mão", trong mão có giáp mộc dùng được bảy ngày, ất mộc hai mươi ba ngày;
Tháng ba là "kiến thìn", trong thìn có ất mộc dùng được bảy ngày, nhâm thuỷ mộ khố năm ngày, mậu thổ mười tám ngày;
Tháng tư là "kiến tỵ", trong tỵ có mậu thổ bảy ngày, canh kim trường sanh năm ngày, bính hoả mười tám ngày;
Tháng năm là "kiến ngọ", trong ngọ có bính hoả dùng được bảy ngày, đinh hoả hai mươi ba ngày;
Tháng sáu là "kiến mùi", trong mùi có đinh hoả dùng được bảy ngày, giáp mộc mộ khố năm ngày, kỷ thổ mười tám ngày.
Tháng bảy là "kiến thân", trong thân có khôn thổ dùng được năm ngày, nhâm thuỷ trường sanh năm ngày, canh kim hai mươi ngày;
Tháng tám là "kiến dậu", trong dậu có canh kim dùng được bảy ngày, tân kim hai mươi ba ngày;
Tháng chín là "kiến tuất", trong tuất có tân kim dùng được bảy ngày, bính hoả mộ khố năm ngày, mậu thổ mười tám ngày;
Tháng mười là "kiến hợi", trong hợi có mậu thổ năm ngày, giáp mộc trường sanh năm ngày, nhâm thuỷ dùng được hai mươi ngày;
Tháng mười một là "kiến tý", trong tý có nhâm thuỷ dùng được bảy ngày, quý thuỷ hai mươi ba ngày;
Tháng mười hai là "kiến sửu", trong sửu có quý thuỷ dùng được bảy ngày, canh kim mộ khố năm ngày, kỷ thổ mười hai ngày.
Mười hai địa chi này nắm giữ mười hai tháng mà mỗi tháng đều có ẩn tàng ngũ hành là "nhân nguyên", vì phối hợp bốn mùa nên mùa xuân ấm áp, mùa thu mát mẻ, mùa đông lạnh giá, mùa hạ nóng nực, như một vòng tròn không thấy đầu mối, kết thúc và lại bắt đầu, công việc mỗi năm hoàn tất nên thành một năm.
论人元司事
夫一气浑沦,形质未离,熟为阴阳?
太始既肇,裂一为三,倏息乃分,天得之而轻清为阳,地得之而重浊为阴,人位乎天地之中,禀阳阴冲和之气。故此轻清者为十干,主禄,谓之天元,重浊者为十二支,主身,谓之地元,天地多正其位,成才于两间者,乃所谓人也。故支里所藏者主命,谓之人元,名为司事之神,以命术言之为月令。
如正月建寅,寅中有艮土用事五日,丙火长生五日,甲木二十日;
二月建卯,卯中有甲木用事七日,乙木二十三日;
三月建辰,辰中有乙木用事七日,壬水墓库五日,戊土一十八日;
四月建巳,巳中有戊土七日,庚金长生五日,丙火一十八日;
五月建午,午中丙火用事七日,丁火二十三日;
六月建未,未中有丁火用事七日,甲木墓库五日,已土一十八日;
七月建申,申中有坤土用事五日,壬水长生五日,庚金二十日;
八月建酉,酉中有庚金用事七日,辛金二十三日;
九月建戌,戌中有辛金用事七日,丙火墓库五日,戊土一十八日;
十月建亥,亥中有戊土五日,甲木长生五日,壬水用事二十日;
十一月建子,子中有壬水用事七日,癸水二十三日;
十二月建丑,丑中有癸水用事七日,庚金墓库五日,已土一十八日。
此十二支按十二月各藏五行为人元,以配四时则春暖秋凉冬寒夏热,如环无端,终而复始,岁功毕而成一年。
.
Luận Nhân Nguyên Ty Sự
Khí hỗn độn do trời đất vạn vật cấu thành, hình chất không phân ly, trở thành âm dương?
Lúc mới đầu đã phát sinh, phân một thành ba, hơi thở bị phân chia, bầu trời được khí nhẹ, trong làm dương, đất được chất đục, nặng làm âm, con người nằm ở giữa trời và đất, chịu nhận khí trung hoà của âm dương. Cho nên cái mà nhẹ và trong là thập can, chủ về lộc, gọi là "thiên nguyên" - yếu tố trời, cái mà đục nặng là mười hai địa chi, chủ về thân, gọi là "địa nguyên" - yếu tố đất, trời đất thường ở đúng vị trí của nó, những thành tài trong cả hai được gọi là người vậy. Cho nên nguyên lý ẩn tàng của địa chi thì chủ về mệnh, gọi là "nhân nguyên", danh hiệu là thần quản về sự việc, dùng để nói theo mệnh thuật là "nguyệt lệnh" - lệnh tháng.
Như tháng giêng là "kiến dần", trong dần có cấn thổ dùng được năm ngày, bính hoả trường sanh năm ngày, giáp mộc hai mươi ngày;
Tháng hai là "kiến mão", trong mão có giáp mộc dùng được bảy ngày, ất mộc hai mươi ba ngày;
Tháng ba là "kiến thìn", trong thìn có ất mộc dùng được bảy ngày, nhâm thuỷ mộ khố năm ngày, mậu thổ mười tám ngày;
Tháng tư là "kiến tỵ", trong tỵ có mậu thổ bảy ngày, canh kim trường sanh năm ngày, bính hoả mười tám ngày;
Tháng năm là "kiến ngọ", trong ngọ có bính hoả dùng được bảy ngày, đinh hoả hai mươi ba ngày;
Tháng sáu là "kiến mùi", trong mùi có đinh hoả dùng được bảy ngày, giáp mộc mộ khố năm ngày, kỷ thổ mười tám ngày.
Tháng bảy là "kiến thân", trong thân có khôn thổ dùng được năm ngày, nhâm thuỷ trường sanh năm ngày, canh kim hai mươi ngày;
Tháng tám là "kiến dậu", trong dậu có canh kim dùng được bảy ngày, tân kim hai mươi ba ngày;
Tháng chín là "kiến tuất", trong tuất có tân kim dùng được bảy ngày, bính hoả mộ khố năm ngày, mậu thổ mười tám ngày;
Tháng mười là "kiến hợi", trong hợi có mậu thổ năm ngày, giáp mộc trường sanh năm ngày, nhâm thuỷ dùng được hai mươi ngày;
Tháng mười một là "kiến tý", trong tý có nhâm thuỷ dùng được bảy ngày, quý thuỷ hai mươi ba ngày;
Tháng mười hai là "kiến sửu", trong sửu có quý thuỷ dùng được bảy ngày, canh kim mộ khố năm ngày, kỷ thổ mười hai ngày.
Mười hai địa chi này nắm giữ mười hai tháng mà mỗi tháng đều có ẩn tàng ngũ hành là "nhân nguyên", vì phối hợp bốn mùa nên mùa xuân ấm áp, mùa thu mát mẻ, mùa đông lạnh giá, mùa hạ nóng nực, như một vòng tròn không thấy đầu mối, kết thúc và lại bắt đầu, công việc mỗi năm hoàn tất nên thành một năm.
论人元司事
夫一气浑沦,形质未离,熟为阴阳?
太始既肇,裂一为三,倏息乃分,天得之而轻清为阳,地得之而重浊为阴,人位乎天地之中,禀阳阴冲和之气。故此轻清者为十干,主禄,谓之天元,重浊者为十二支,主身,谓之地元,天地多正其位,成才于两间者,乃所谓人也。故支里所藏者主命,谓之人元,名为司事之神,以命术言之为月令。
如正月建寅,寅中有艮土用事五日,丙火长生五日,甲木二十日;
二月建卯,卯中有甲木用事七日,乙木二十三日;
三月建辰,辰中有乙木用事七日,壬水墓库五日,戊土一十八日;
四月建巳,巳中有戊土七日,庚金长生五日,丙火一十八日;
五月建午,午中丙火用事七日,丁火二十三日;
六月建未,未中有丁火用事七日,甲木墓库五日,已土一十八日;
七月建申,申中有坤土用事五日,壬水长生五日,庚金二十日;
八月建酉,酉中有庚金用事七日,辛金二十三日;
九月建戌,戌中有辛金用事七日,丙火墓库五日,戊土一十八日;
十月建亥,亥中有戊土五日,甲木长生五日,壬水用事二十日;
十一月建子,子中有壬水用事七日,癸水二十三日;
十二月建丑,丑中有癸水用事七日,庚金墓库五日,已土一十八日。
此十二支按十二月各藏五行为人元,以配四时则春暖秋凉冬寒夏热,如环无端,终而复始,岁功毕而成一年。
.
#30
Gửi vào 26/06/2024 - 00:59
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhị
Luận Tứ Thời Tiết Khí
Quái khí của tháng giêng là "thái", khí trời rơi xuống nên gọi là vũ thuỷ;
Tháng hai là 'đại tráng", sấm ở trên bầu trời, nên là "kinh trập", trước là "vũ thuỷ" mà sau là "kinh trập", cũng thích hợp vậy, "kinh trập": vạn vật xuất hiện ở quẻ "chấn", "chấn" là sấm vậy;
"Thanh minh": vạn vật hoàn bị ở quẻ tốn, tốn là gió, tốn làm cho sạch như nhau nên gọi là "thanh minh", "thanh minh" chính là nghĩa của trong sạch;
"Cốc vũ" trong tháng ba, bắt đầu sau "vũ thuỷ" đất mầu mỡ, mạch nước chuyển động, đến đây lại mưa, nên mạch nước trong đất nuôi sống vạn vật, vì thế chủng loại ngũ cốc được sinh sôi, nẩy nở;
"Tiểu mãn" trong tháng tư, học giả xưa nói rằng: sau "tiểu tuyết" dương khí mỗi ngày sanh một phân, chất chứa ba mươi ngày sanh ba mươi phân nên thành một ngày là "đông chí", sau "tiểu mãn" âm khí sanh ra cũng vậy. Cho đến "cốc vũ" trong tháng ba.
"Mang chủng" trong tháng năm, hai khí này chỉ nói về ngũ cốc và lúa mì: - ngũ cốc phải bắt nguồn từ lúc nẩy mầm, ngũ cốc trồng ở mùa xuân đạt được khí của mộc, tàn ở mùa thu vì kim khắc mộc; lúa mì cuối cùng cũng được hoàn thành, lúa mì trồng vào mùa thu, đạt được khí của kim, thành ở mùa hạ, hoả khắc kim;
Tiết "tiểu thử" tháng sáu, "đại thử" trong tháng sáu, trong tháng sáu rất là nóng, cho nên nói là "đại", nhưng chưa đến "đại" thì giống như còn "tiểu" vậy;
"Xử thử" trong tháng bảy, tháng bảy kết thúc cái nóng nực, cái lạnh bắt đầu, hoả chảy về tây, sau đó khí nóng cư trú ở đây, "xử" là ở ẩn vậy, nghĩa là tàng phục;
Tiết "bạch lộ" tháng tám, tiết "hàn lộ tháng chín, mộc mùa thu thuộc kim, kim màu trắng, khí của kim thì lạnh lúc trời sáng, màu sương, lạnh khí của sương, trước thì trắng rồi mới bắt đầu lạnh, vốn là từ từ, "sương giáng" giữa tháng chín hơi móc lạnh, bắt đầu kết thành sương;
Sau "lập đông" gọi là "tiểu tuyết", "đại tuyết", khí lạnh bắt đầu ở hơi móc, kế đến là sương và cuối cùng là tuyết, trước sương là hơi móc, sương bắt đầu trắng rồi mới bắt đầu lạnh, sau sương là tuyết, tuyết bắt đầu mỏng rồi mới dày, đều là quá trình tiệm tiến;
Đến "tiểu hàn", "đại hàn", "U Phong" nói: "ngày thứ nhứt bắt đầu gió lạnh, ngày thứ hai gió lạnh mạnh lên", cho nên tháng mười một về sau là "tiểu hàn", gió lạnh mạnh lên, cho nên tháng mười hai cuối cùng là "đại hàn".
Nói chung tất cả mà nói, nửa năm đầu chủ về sanh ra, gọi là "vũ' - mưa, gọi là "lôi" - sấm, gọi là "phong" - gió, tất cả đều là sanh khí, nửa năm sau chủ về sanh thành, gọi là "lộ" - hơi móc, gọi là "sương" , gọi là tuyết, tất cả đều là khí đã thành. Nửa năm sau nói là "thiên thời", mà không nói là "nông thời" - lúc trồng trọt, "nông thời" tuyệt chẳng vội vàng ở mùa xuân, mùa hạ vậy.
论四时节气
卦气正月为泰,天气下降,当为雨水;
二月大壮,雷在天上,当为惊蛰,先雨水而后惊蛰,亦宜也,惊蛰者,万物出乎震,震为雷也;
清明者,万物齐乎巽,巽为风也,巽洁齐而曰清明,清明乃洁齐之义;
谷雨三月中,自雨水后土膏脉动,至此又雨,则土脉生物,所以滋五谷之种也;
小满四月中,先儒云:小雪后阳一日生一分,积三十日,生三十分而成一昼,为冬至,小满后阴生亦然。至若三月中谷雨.
五月中芒种,此二气独指谷麦言,谷必原其生之始,谷种于春,得木之气,残于秋,金克木也;麦必要其成之终,麦种于秋,得金之气,成于夏,火克金也;
六月节小暑,六月中大暑,六月中暑之极,故谓大,然未至于大则犹为小也;
七月中处暑,七月暑之终,寒之始,大火西流,暑气于是乎处矣,处者,隐也,藏伏之义也;
白露八月节,寒露九月节,秋木属金,金色白,金气寒白者,露色,寒者,露之气,先白而气始寒,固有渐也,九月中霜降露寒,始结为霜也;
立冬后曰小雪、大雪,寒气始于露,中于霜,终于雪,霜之前为露,霜由白而始寒,霜之后为雪,雪由小而至大,皆有渐也;
至小寒大寒,《幽风》云:"一之日徉发,二之日栗烈",徉发风寒,故十一月之余为小寒,栗烈气寒,故十二月之终为大寒也。
大抵合而言之,上半年主长生,曰雨曰雷曰风,皆生之气,下半年主生成,曰露曰霜曰雪,皆成之气。下半年言天时,不言农时,农时莫急于春夏也。
.
Luận Tứ Thời Tiết Khí
Quái khí của tháng giêng là "thái", khí trời rơi xuống nên gọi là vũ thuỷ;
Tháng hai là 'đại tráng", sấm ở trên bầu trời, nên là "kinh trập", trước là "vũ thuỷ" mà sau là "kinh trập", cũng thích hợp vậy, "kinh trập": vạn vật xuất hiện ở quẻ "chấn", "chấn" là sấm vậy;
"Thanh minh": vạn vật hoàn bị ở quẻ tốn, tốn là gió, tốn làm cho sạch như nhau nên gọi là "thanh minh", "thanh minh" chính là nghĩa của trong sạch;
"Cốc vũ" trong tháng ba, bắt đầu sau "vũ thuỷ" đất mầu mỡ, mạch nước chuyển động, đến đây lại mưa, nên mạch nước trong đất nuôi sống vạn vật, vì thế chủng loại ngũ cốc được sinh sôi, nẩy nở;
"Tiểu mãn" trong tháng tư, học giả xưa nói rằng: sau "tiểu tuyết" dương khí mỗi ngày sanh một phân, chất chứa ba mươi ngày sanh ba mươi phân nên thành một ngày là "đông chí", sau "tiểu mãn" âm khí sanh ra cũng vậy. Cho đến "cốc vũ" trong tháng ba.
"Mang chủng" trong tháng năm, hai khí này chỉ nói về ngũ cốc và lúa mì: - ngũ cốc phải bắt nguồn từ lúc nẩy mầm, ngũ cốc trồng ở mùa xuân đạt được khí của mộc, tàn ở mùa thu vì kim khắc mộc; lúa mì cuối cùng cũng được hoàn thành, lúa mì trồng vào mùa thu, đạt được khí của kim, thành ở mùa hạ, hoả khắc kim;
Tiết "tiểu thử" tháng sáu, "đại thử" trong tháng sáu, trong tháng sáu rất là nóng, cho nên nói là "đại", nhưng chưa đến "đại" thì giống như còn "tiểu" vậy;
"Xử thử" trong tháng bảy, tháng bảy kết thúc cái nóng nực, cái lạnh bắt đầu, hoả chảy về tây, sau đó khí nóng cư trú ở đây, "xử" là ở ẩn vậy, nghĩa là tàng phục;
Tiết "bạch lộ" tháng tám, tiết "hàn lộ tháng chín, mộc mùa thu thuộc kim, kim màu trắng, khí của kim thì lạnh lúc trời sáng, màu sương, lạnh khí của sương, trước thì trắng rồi mới bắt đầu lạnh, vốn là từ từ, "sương giáng" giữa tháng chín hơi móc lạnh, bắt đầu kết thành sương;
Sau "lập đông" gọi là "tiểu tuyết", "đại tuyết", khí lạnh bắt đầu ở hơi móc, kế đến là sương và cuối cùng là tuyết, trước sương là hơi móc, sương bắt đầu trắng rồi mới bắt đầu lạnh, sau sương là tuyết, tuyết bắt đầu mỏng rồi mới dày, đều là quá trình tiệm tiến;
Đến "tiểu hàn", "đại hàn", "U Phong" nói: "ngày thứ nhứt bắt đầu gió lạnh, ngày thứ hai gió lạnh mạnh lên", cho nên tháng mười một về sau là "tiểu hàn", gió lạnh mạnh lên, cho nên tháng mười hai cuối cùng là "đại hàn".
Nói chung tất cả mà nói, nửa năm đầu chủ về sanh ra, gọi là "vũ' - mưa, gọi là "lôi" - sấm, gọi là "phong" - gió, tất cả đều là sanh khí, nửa năm sau chủ về sanh thành, gọi là "lộ" - hơi móc, gọi là "sương" , gọi là tuyết, tất cả đều là khí đã thành. Nửa năm sau nói là "thiên thời", mà không nói là "nông thời" - lúc trồng trọt, "nông thời" tuyệt chẳng vội vàng ở mùa xuân, mùa hạ vậy.
论四时节气
卦气正月为泰,天气下降,当为雨水;
二月大壮,雷在天上,当为惊蛰,先雨水而后惊蛰,亦宜也,惊蛰者,万物出乎震,震为雷也;
清明者,万物齐乎巽,巽为风也,巽洁齐而曰清明,清明乃洁齐之义;
谷雨三月中,自雨水后土膏脉动,至此又雨,则土脉生物,所以滋五谷之种也;
小满四月中,先儒云:小雪后阳一日生一分,积三十日,生三十分而成一昼,为冬至,小满后阴生亦然。至若三月中谷雨.
五月中芒种,此二气独指谷麦言,谷必原其生之始,谷种于春,得木之气,残于秋,金克木也;麦必要其成之终,麦种于秋,得金之气,成于夏,火克金也;
六月节小暑,六月中大暑,六月中暑之极,故谓大,然未至于大则犹为小也;
七月中处暑,七月暑之终,寒之始,大火西流,暑气于是乎处矣,处者,隐也,藏伏之义也;
白露八月节,寒露九月节,秋木属金,金色白,金气寒白者,露色,寒者,露之气,先白而气始寒,固有渐也,九月中霜降露寒,始结为霜也;
立冬后曰小雪、大雪,寒气始于露,中于霜,终于雪,霜之前为露,霜由白而始寒,霜之后为雪,雪由小而至大,皆有渐也;
至小寒大寒,《幽风》云:"一之日徉发,二之日栗烈",徉发风寒,故十一月之余为小寒,栗烈气寒,故十二月之终为大寒也。
大抵合而言之,上半年主长生,曰雨曰雷曰风,皆生之气,下半年主生成,曰露曰霜曰雪,皆成之气。下半年言天时,不言农时,农时莫急于春夏也。
.
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Lịch thông thắng |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
|
|
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
3 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |