2
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
384 replies to this topic
#1
Gửi vào 25/06/2024 - 05:20
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Khai Thiên Đạo Độc
chu dịch thiên địa võng trạm nhất trực tại nỗ lực vi các vị dịch học ái hảo giả đề cung ưu tú đích tư tấn. ngã môn tinh tuyển các cá học khoa đích ưu tú điển tịch, chế tác thành điện tử thư, cung các vị độc giả duyệt độc, hi vọng thử cử năng cú thôi động trung hoa văn hóa đích phát triển, hoành dương dịch học!
"tam mệnh thông hội" thị nhất bổn mệnh lí điển tịch, thị nhất cá mệnh lí học tham tác tất độc đích hảo thư, trị đắc phản phục tế độc. chúc nguyện đại gia học tập du khoái!
Giản Giới
"tam mệnh thông hội"· cộng thập nhị quyển
bất trứ soạn nhân danh thị. quyển thủ đãn đề viết dục ngô san nhân. "minh sử· nghệ văn chí" hữu vạn dân dục "tam mệnh hội thông" thập nhị quyển, dữ thử bổn quyển sổ tương hợp, duy dĩ thông hội tác hội thông, vi sảo dị, khảo thế sở truyện "tinh học đại thành" nhất thư, vi vạn dân anh sở soạn. anh tự dục ngô, dữ thử bổn sở đề hợp, đương diệc xuất dân anh chi thủ. "nghệ văn chí" cái ngộ dĩ dân anh vi dân dục, hựu thông hội nhị tự truyện tả hỗ đảo nhĩ. tự minh dĩ lai đàm tinh mệnh giả, giai dĩ thử bổn vi tổng hối, kỉ vu gia hữu kì thư. trung gian sở tái sĩ hoạn bát tự, vãng vãng cập minh quý chi nhân, cái hậu lai phường khắc sở sam nhập, dĩ phi kì cựu. nhiên kì xiển phát tử bình chi di pháp, vu quan ấn tài lộc thực thương chi danh nghĩa, dụng thần chi khinh trọng, chư thần sát sở hệ chi cát hung, giai năng thải toát quần ngôn, đắc kì tinh yếu, cố vi thuật gia sở hằng dụng, yếu hữu vị khả cự phế giả. chí kì lập luận đa thủ chánh quan chánh ấn chánh tài, nhi bất tri thiên quan thiên ấn thiên tài diệc năng đắc lực. tri thực thần chi năng thổ tú, nhi bất tri thương quan chi diệc khả xuất kì, thị tắc kì thiên chấp chi kiến, vị vi viên triệt. thả thai nguyên đẳng luận, thi chi kim nhật, diệc đa hữu bất nghiệm. ngôn mệnh học giả đãn đương đắc kì đại ý, nhi biến thông chi khả hĩ.nhược sở dẫn "lạc琭 tử" dữ kim "vĩnh nhạc đại điển" trung sở tập hoàn bổn, kì văn huýnh thù. tắc kì thời bí sách cận tồn, ngoại gian vị do khuy kiến, toại ngộ tín y thác chi bổn, cố vị túc dĩ vi bệnh dã.
"tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu"
开篇导读
周易天地网站一直在努力为各位易学爱好者提供优秀的资讯。我们精选各个学科的优秀典籍,制作成电子书,供各位读者阅读,希望此举能够推动中华文化的发展,宏扬易学!
《三命通会》是一本命理典籍,是一个命理学探索必读的好书,值得反复细读。祝愿大家学习愉快!
简介
《三命通会》·共十二卷
不著撰人名氏。卷首但题曰育吾山人。《明史·艺文志》有万民育《三命会通》十二卷,与此本卷数相合,惟以通会作会通,为稍异,考世所传《星学大成》一书,为万民英所撰。英字育吾,与此本所题合,当亦出民英之手。《艺文志》盖误以民英为民育,又通会二字传写互倒耳。自明以来谈星命者,皆以此本为总汇,几于家有其书。中间所载仕宦八字,往往及明季之人,盖后来坊刻所搀入,已非其旧。然其阐发子平之遗法,于官印财禄食伤之名义,用神之轻重,诸神煞所系之吉凶,皆能采撮群言,得其精要,故为术家所恒用,要有未可遽废者。至其立论多取正官正印正财,而不知偏官偏印偏财亦能得力。知食神之能吐秀,而不知伤官之亦可出奇,是则其偏执之见,未为圆彻。且胎元等论,施之今日,亦多有不验。言命学者但当得其大意,而变通之可矣。若所引《珞琭子》与今《永乐大典》中所辑完本,其文迥殊。则其时秘册仅存,外间未由窥见,遂误信依托之本,固未足以为病也。
《四库全书总目提要》
Nguồn: trang web này không còn tồn tại. Nay tìm được một trang khác thì phần mở đầu có khác chút ít. Phần này không dịch nhưng cũng đưa lên đây phần nguyên bản và Hán Việt
Tam Mệnh Thông hHội
đệ nhất hiệt
tam mệnh thông hội quyển nhất· nguyên tạo hóa chi thủy
lão tử viết: vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu, hữu vật hỗn thành tiên thiên địa sanh liệt。 ngự khấu viết: hữu hình sanh ư vô hình, thiên địa chi sơ, hữu thái dịch, hữu thái sơ, hữu thái thủy, hữu thái tố, thái dịch giả vị kiến khí, thái sơ giả khí chi thủy, thái thủy giả hình chi thủy, thái tố giả chất chi thủy khí, dữ hình chất hợp nhi vị li。
viết hồn luân lịch kỉ vân, vị hữu thiên địa chi thì, hỗn độn như kê tử, minh chỉ thủy nha hồng mông tư manh luật, vân: thái cực nguyên khí hàm tam vi nhất。 dịch viết: dịch hữu thái cực thị sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh tứ tượng, tứ tượng sanh bát quái, bát quái định cát hung。 dịch sơ vân: thái cực vị thiên địa vị phân chi tiền, nguyên khí hỗn nhi vi nhất。 mông tuyền tử viết: thái sơ giả lí chi thủy dã, thái hư giả khí chi thủy dã, thái tố giả tượng chi thủy dã, thái ất giả sổ chi thủy dã, thái cực giả kiêm lí khí tượng sổ chi thủy dã。 do sổ luận ngôn chi, khả kiến hồn luân vị phán chi tiên, chỉ nhất khí hỗn hợp, yểu minh hôn muội nhi lí vị thường bất tại kì trung, dữ đạo vi nhất thị vị thái cực。
trang tử dĩ đạo tại thái cực chi tiên, sở vị thái cực nãi thị chỉ thiên địa nhân tam giả, khí hình kỉ cụ nhi vị phán giả chi danh。 nhi đạo hựu biệt thị nhất huyền không để vật, tại thái cực chi tiên, bất tri đạo tức thái cực, thái cực tức đạo dĩ kì lí chi。 thông hành giả ngôn tắc viết: đạo dĩ kì lí chi cực chí giả ngôn, tắc viết thái cực hựu hà thường hữu nhị tà? hướng phi chu tử khải kì bí, chu tử xiển nhi minh chi, thục tri thái cực chi vi lí nhi dữ khí tự bất tương li dã tai。 sở vị thái cực giả, nãi âm dương động tĩnh chi bổn thể, bất li ư hình khí nhi thật, vô thanh xú bất cùng ư biến hóa nhi thật hữu凖, tắc cố nhất động nhất tĩnh, hỗ vi kì căn, phân âm phân dương lưỡng nghi lập yên。
nghi giả vật dã, phàm vật vị thủy vô đối nhi diệc vị thường độc lập, thiên dĩ khí phúc nhi y hồ địa, địa dĩ hình tái nhi phụ hồ thiên hữu lí tư。 hữu khí âm dương chi vị dã, hữu khí tư hữu hình thiên địa chi vị dã, thiên địa bất sanh ư thiên địa, nhi sanh ư âm dương, âm dương bất sanh ư âm dương nhi sanh ư động tĩnh, động tĩnh bất sanh ư động tĩnh nhi sanh ư thái cực。 cái thái cực giả bổn nhiên chi diệu dã, động tĩnh giả sở thừa chi cơ dã, âm dương giả sở sanh chi bổn dã。 thái cực hình nhi thượng, đạo dã âm dương hình nhi hạ khí dã。 động tĩnh vô đoan、 âm dương vô thủy, thử tạo hóa sở do lập yên。
bách trai hà tử viết: thiên dương chi động giả dã, quả hà thì động cực nhi tĩnh hồ? địa âm chi tĩnh giả dã, quả hà thì tĩnh cực nhi động hồ? thiên bất năng sanh địa, thủy bất năng sanh hỏa, vô trí ngu giai tri chi。 nãi vị âm dương tương sanh bất diệc ngộ hồ! cái thiên địa thủy hỏa tuy hồn nhiên bất khả li, thật xán nhiên bất khả loạn, cố âm chi dữ dương vị chi tương y tắc khả, vị chi tương sanh tắc bất khả。 vị chi hỗ tàng kì trạch tắc khả, vị chi hỗ tàng tương sanh tắc bất khả。 thử ngôn đích hữu kiến dã!
phu thiên địa vị lập, đạo bổn thiên địa, thiên địa kí lập, tắc thái cực chi lí tán tại vạn sự。 do thị nhi ngũ hành sanh yên, ngũ hành nhất、 âm dương ngũ, thù nhị thật vô dư phân dã。 âm dương nhất thái cực, tinh thô bổn mạt vô bỉ thử dã, ngũ hành chất cụ ư địa nhi khí hành ư thiên, dĩ chất nhi ngữ kì sanh chi tự, tắc thủy、 hỏa、 mộc、 kim、 thổ。 nhi thủy mộc dương dã, hỏa kim âm dã。 hựu thống nhi ngôn chi, tắc khí dương nhi chất âm dã, hựu thác nhi ngôn chi, tắc động dương nhi tĩnh âm dã, cái ngũ hành chi biến chí bất khả cùng, nhiên vô quát nhi phi, thái cực chi bổn nhiên dã。
bách tề hà tử viết: ngũ hành nhất âm dương, âm dương nhất thái cực。 chu tử cố vị thái cực bất ngoại hồ âm dương, âm dương bất ngoại hồ ngũ hành hĩ! tự kim luận chi thủy thủy dã, hỏa hỏa dã, kim mộc thủy hỏa thổ chi giao biến dã。 thổ địa dã, thiên an tại hồ? hữu địa nhi vô thiên vị tạo hóa toàn khả hồ? nhược dĩ vị thiên tức thái cực, cố chu tử dĩ thượng thiên chi tái thích thái cực, thiên đạo lưu hành thích âm dương quan。 dịch viết: dịch hữu thái cực, thị sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh tứ tượng, tứ tượng sanh bát quái, bát quái chi trung hữu can hữu khôn, tắc thiên địa giai thái cực chi phân thể minh hĩ。 dĩ thiên vi thái cực chi toàn thể, nhi địa vi thiên chi phân thể, khởi bất ngộ thậm dã tai! kì thuyết tự hữu lí dã。
phu ngũ hành chi sanh, các nhất kì tính, tứ thì chi hành, diệc hữu kì tự。 xuân dĩ sanh chi, hạ dĩ trường chi, thu dĩ túc chi, đông dĩ tàng chi, xuân nhi hạ, hạ nhi thu, thu nhi đông, đông nhi phục xuân, nhi tương tuần vô cùng。
cái ngũ hành dị chất tứ thì dị khí nhi giai bất ngoại hồ âm dương, âm dương dị vị、 động tĩnh dị thì nhi giai bất li hồ thái cực。 chí ư sở dĩ vi thái cực giả, hựu vô thanh xú chi khả ngôn, thị tính chi bổn thể nhiên dã。 cố ngũ hành các nhất kì tính, sở vị các cụ nhất thái cực dã。 tứ thì tự hữu kì tự, sở vị vận dụng nhất thái cực dã。 ngũ hành tứ thì chu nhi phục thủy, sở vị thống thể nhất thái cực dã。 nhi tính chi vô sở bất tại, hựu khả kiến hĩ, phu thiên hạ vô tính ngoại chi vật, nhi tính vô bất tại thử vô cực、 nhị ngũ。 sở dĩ hỗn dung nhi vô nhàn, sở vị diệu hợp giả dã。 vô cực thị lí, nhị ngũ thị khí, chân dĩ lí ngôn, thái cực vô vọng chi vị dã。
tinh dĩ khí ngôn âm dương ngũ hành bất nhị chi vị dã, ngưng giả tụ dã, khí tụ nhi thành hình dã, cái tính vi chi chủ, nhi âm dương ngũ hành vi chi kinh vĩ thác tống, hựu các dĩ loại ngưng tụ nhi thành hình yên。 dương nhi kiện giả thành nam, tắc phụ chi đạo dã。 âm nhi thuận giả thành nữ, tắc mẫu chi đạo dã。 thị nhân vật chi thủy, dĩ khí hóa nhi sanh giả dã, khí tụ thành hình, tắc hình giao khí cảm, toại dĩ hình hóa nhi vạn vật, sanh sanh biến hóa vô cùng hĩ。
bào lỗ trai viết: thiên địa dĩ khí giao nhi sanh nhân vật, quan kì sở giao, tắc khí chi sở chí, khả dĩ tri kì loại chi sở tòng xuất hĩ。 thiên khí giao hồ địa, ư nhân vi nam, ư vật vi mẫu, địa khí giao hồ thiên, ư nhân vi nữ, ư vật vi tẫn, nam nữ tẫn mẫu, hựu tự giao nhi sanh sanh hóa hóa bất cùng。 nhân vật kí sanh khí, tùy thiên địa chi khí thăng hàng giao cảm, nhân đắc thiên địa chi trung khí, tứ phương chi khí vô bất cảm vật, đắc thiên địa chi thiên khí, nhi diệc các tùy sở cảm, cố quan thiên địa chi khí giao, khả dĩ tri nhân vật chi sơ sanh hĩ。 quan thiên địa chi khí cảm, khả dĩ tri nhân vật chi tương sanh hĩ。
chu tử viết: can đạo thành nam, khôn đạo thành nữ, ngưng thể ư tạo hóa chi sơ, nhị khí giao cảm hóa sanh vạn vật, lưu hành ư tạo hóa chi hậu, thử lí chi thường dã。 nhược khương nguyên、 giản địch chi sanh tắc khế, tắc hựu bất khả dĩ tiên hậu ngôn hĩ, thử lí chi biến dã。 trương cửu thiều viết: luận nhân vật thủy sanh, ư thiên địa triệu phán chi sơ, tắc do khí hóa nhi hậu hữu hình hóa, trương tử sở vị thiên địa chi khí sanh chi thị dã, luận nhân vật thủy sanh, ư kết thai thụ hình chi sơ, tắc do tinh khí chi tụ, nhi hậu hữu thị vật。 chu tử sở vị âm tinh dương khí tụ nhi thành vật thị dã。 do thị ngôn chi, tắc nhân dã vật dã, khí dã hình dã, thục hữu xuất ư âm dương chi ngoại tai。
phu mệnh bẩm ư âm dương hữu sanh chi sơ, phi nhân sở năng di, mạc chi vi nhi vi phi ngã sở năng, tất ư thị hữu sanh nhi phú、 sanh nhi quý giả, hữu sanh nhi thọ、 sanh nhi yêu giả。 hữu sanh nhi bần、 sanh nhi tiện giả。 hữu sanh nhi phú quý song toàn nguy nguy nhân thượng giả。 hữu sanh nhi bần tiện kiêm hữu lạc lạc nhân hạ giả。 hữu sanh nhi nghi thọ nhi phản yêu át, hữu sanh nhi nghi yêu nhi phản trường niên chi sổ giả。 vị do ư sở tích nhi nhiên dữ, diệc do ư sở tính nhi nhiên dữ, vị do ư sở tích tắc bần, khả dĩ trí phú tiện, khả dĩ trí quý yêu, khả dĩ trí thọ。
cổ chi sở vị nhân năng thắng thiên giả dã, vị do ư sở tính dĩ đắc hồ phú quý giả chung ư phú quý, bần tiện giả chung ư bần tiện, thọ yêu giả chung ư thọ yêu, cổ chi sở vị mệnh bất khả di dã。 phu vị chi tích tắc bất khả chuyên dĩ vi mệnh, phu vị chi tính tắc bất khả chuyên, dĩ vi nhân tương dĩ phó chi ư sở tích, dữ vị tri mệnh chi sở bẩm。 phú quý thọ yêu bần tiện hà như dã, tương dĩ phó chi ư sở tính, dữ vị hữu phú quý thọ yêu bần tiện khả tọa đãi giả, nhi nhân vi tự bất khả khuyết dã。 hoặc viết mệnh bẩm hữu sanh chi sơ, thành tai thị ngôn dã。
hà nhân sanh thiên địa chi trung, hữu ngũ hành bát tự tương đồng, nhi phú quý bần tiện thọ yêu chi bất nhất, kì cố hà dã? đáp viết: âm dương nhị khí giao cảm chi thì, thụ chân tinh diệu hợp chi khí, ngưng kết vi thai, thành nam thành nữ đắc thiên địa phụ mẫu nhất thì khí hậu, thị dĩ bẩm kì thanh giả vi trí vi hiền, bẩm kì trọc giả vi ngu vi bất tiếu。 trí giả hiền giả do thị hoặc phú hoặc quý, hoặc thọ tất hữu sở đắc, sở vị đức túc dĩ hoạch phúc dã。 ngu giả bất tiếu giả, bất năng tự phấn nhật ích hôn tế, tắc bần tiện dữ yêu hữu bất năng miễn, sở vị hạ ngu bất di thị dã。
kì phú quý lưỡng toàn giả, nguyên bẩm thanh khinh chi khí, sanh phùng đắc lệnh chi thì, kiêm dĩ tài quan hanh thông, lộc mã vượng tương, kì vận dữ hạn thậm cát thậm tường, túng hữu thiểu hối, bất hệ bác tạp。 kì bần tiện kiêm hữu giả, nguyên bẩm trọng trọc chi khí, sanh phùng thất lệnh chi thì, hình trùng bác tạp vô ta thuận mĩ, tuy vô họa hoạn xâm nhiễu, vị miễn kiển trệ bất tiền。 hựu hữu phú nhi bần、 bần nhi phú、 quý nhi tiện、 tiện nhi quý、 thọ nhi yêu、 yêu nhi thọ giả, hựu hữu vi hiền vi trí nhi phản bần tiện, vi ngu bất tiếu nhi phản phú quý giả。 thiên địa gian chi nhân vạn hữu bất tề, thử diệc tứ thì ngũ hành thiên chánh、 đắc thất、 hướng bối、 thiển thâm chi khí chi sở trí dã。
cố đương thì nguyên khí tuy bẩm khinh thanh, nhiên nhi sanh ư suy bại chi thì, hành hưu tù chi vận, phú giả tổn thất tài nguyên, quý giả bác quan thối vị, thọ giả yêu át bất lộc。 kì nguyên khí tuy bẩm trọng trọc, kì nhân sanh trung hòa chi lệnh, hành vượng tương chi vận, bần bất chung bần nhi vi phú, tiện bất chung tiện nhi vi quý, yêu bất chung yêu nhi vi thọ。
tuy nhiên tu vi tại nhân, nhân định thắng thiên, mệnh bẩm trung hòa tính gia tích thiện, khởi đãn nhất thân hưởng phúc dĩ tai! nhi tử tử tôn tôn vinh xương lợi đạt lí nghi nhiên dã。 mệnh trị thiên khô, tính gia tích ác, phi duy tự thân trị họa dĩ dã, nhi tử tử tôn tôn lạc lạc nhân hạ đắc phi báo。 dữ do tiền ngôn chi, tuy hệ ư mệnh, diệc tại ư nhân chi tích dữ bất tích nhĩ。 dịch viết:“ tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương。” đãi thử chi vị dữ。 canh dã tử viết: thiên nhất khí nhĩ, khí hóa sanh thủy, thủy trung chỉ trọc tích nhi thành thổ, thủy lạc thổ xuất, toại thành san xuyên。 thổ chi cương giả thành thạch nhi kim sanh yên, thổ chi nhu giả sanh mộc nhi hỏa sanh yên, ngũ hành cụ vạn vật sanh nhi biến hóa vô cùng hĩ。
tuấn xuyên tử viết: thiên địa chi sơ duy hữu âm dương nhị khí nhi kỉ, dương tắc hóa hỏa, âm tắc hóa thủy, thủy chi tra chỉ tiện kết thành địa, tra chỉ thành địa tức thổ dã。 hà chí thiên ngũ phương ngôn: sanh thổ thủy hỏa thổ thiên địa chi đại, hóa kim mộc giả, tam vật chi sở tự xuất。 kim thạch chi chất tất tích cửu nhi hậu kết sanh chi tất đồng, ư nhân vật vị, kim chi khí sanh nhân đắc hồ, thả thiên địa chi gian vô phi nguyên khí chi sở vi kì tính, kì chủng tị các cụ thái thủy chi tiên, kim hữu kim chi chủng, mộc hữu mộc chi chủng, nhân hữu nhân chi chủng, vật hữu vật chi chủng, các các hoàn cụ bất tương giả tá bất tương lăng phạm, nhi vị ngũ hành đệ hỗ tương sanh khả hồ。
kim ngũ hành gia dĩ kim sanh thủy, quyết loại huyền tuyệt bất mâu quyết lí điên đảo thất thứ, bất tri mộc dĩ hỏa vi khí, dĩ thủy vi tư, dĩ thổ vi trạch, thử thiên nhiên chí đạo。 nhi viết thủy sanh mộc vô, thổ tương phụ mộc ư hà sở, thủy đa hỏa diệt thổ tuyệt mộc thả tử hĩ, phu an năng sanh? chu tử hoặc ư ngũ hành gia chi thuyết nhi vị: ngũ khí thuận bố tứ thì hành yên, bất tri nhật hữu tiến thối, nãi thành hàn thử, hàn thử phân bình nãi thành tứ thì, ư ngũ khí chi bố hà dữ yên? kì viết: xuân mộc hạ hỏa thu kim đông thủy giai giả hợp chi, luận thổ vô sở quy phối ư tứ quý, bất tri thổ chi khí tại thiên địa nội, hà nhật bất nhiên, hà xử bất hữu, hà chỉ lưu hành ư quý nguyệt chi hối? quý nguyệt chi hối, thượng hữu nhi mạnh nguyệt chi sóc tức diệt kì diệt dã, quy ư hà sở kì lai dã。 thục vi mệnh chi thiên nhất sanh thủy, nãi vĩ thư chi từ, nhi nho giả viên dĩ nhập kinh, thủy hỏa giả âm dương thủy sanh chi, diệu vật dã cố nhất, hóa nhi vi hỏa nhật thị dã, tái hóa nhi vi thủy vũ lộ thị dã。
kim viết: thiên nhất sanh thủy, địa nhị sanh hỏa, lệ ư tạo hóa bổn nhiên chi diệu khả hồ kì chiết, chu tử dĩ tứ thì lưu hành chi khí, luận ngũ hành thiên địa kì ngẫu chi sổ, luận ngũ hành thái cực đồ dương biến âm hợp nhi sanh。 thủy、 hỏa、 mộc、 kim、 thổ luận ngũ hành, kì chiết ngũ hành phối tứ thì, như ngũ hành gia tứ thì các chủ kì nhất, xuân chỉ vi mộc, tắc thủy hỏa thổ kim chi khí thục tuyệt diệt chi, thu chỉ vi kim, tắc thủy hỏa thổ mộc chi khí thục lưu đình chi, thổ duy vượng ư tứ quý, tắc dư nguyệt chi khí thục bả trì nhi bất sử chi vận, hựu an hữu kim nhật vi mộc, minh nhật vi hỏa, hựu minh nhật vi thổ vi kim vi thủy hồ, án vương thị chi thuyết hữu lí nhi phi đạt quan chi kiến。
lạc琭 tử viết: dĩ vi hữu dã thị tòng vô nhi lập hữu dĩ vi vô dã, thiên thùy tượng dĩ thị văn, phu thiên thùy nhật nguyệt、 ngũ tinh、 tam viên、 nhị thập bát túc chi tượng, quan thiên vương hội thông kì lập danh phân dã, thị diệc nhân vi chi nhĩ nhi nghĩa tượng phù hợp。 chí tai tường chiêm bốc hoặc chúc loại mỗ sự, hoặc chỉ kiến mỗ phương ứng ư mỗ niên nguyệt nhật, như tham tả khế tuy thiên đạo huyền viễn diệc bất ngoại nhân sự dữ ngũ hành。
âm dương gia dĩ thập can thập nhị chi phân vi ngũ hành, nhân nhật dữ thiên hội nhi vi, tuế nguyệt dữ nhật hội nhi vi, nguyệt nhật hữu tam thập thì hữu thập nhị, dĩ nhân sanh niên nguyệt nhật thì sở đắc can chi, lập vi tứ trụ dĩ thôi nhất sanh cát hung, diệc lí chi tự nhiên giả dã。 vương thị dĩ xuân chúc mộc nhi thổ hà tại, bất tri ngũ hành vượng tương tử hưu tù các chủ, kì đương thì bất đương thì dụng sự bất dụng sự nhi ngôn, phi vi xuân mộc vượng nhi thổ tắc vô。 thập can thập nhị chi thác tống, vi lục thập giáp tử chu nhi phục thủy bất giả an bài, tức tạo hóa chi sở tại dã。 phi vi kim nhật chúc mộc, minh nhật chúc hỏa, tiện phi thiên đạo chi tự nhiên。 bất tư nhân lập nhi thiên tòng chi, nhân cảm nhi thiên ứng chi, tức thiên tượng lập danh phân dã chi nghĩa, thiên nhân hợp nhất chi đạo dã。 quan nhất nhật hữu tảo ngọ yến vãn, tự hữu ôn lương hàn nhiệt khí hậu, thị kim mộc thủy hỏa thổ bị ư nhất nhật ngũ hành chi bất tương li, như thử vị kim nhật mộc minh nhật hỏa hựu hà, mạc nhi phi thiên đạo chi tự nhiên dã da。
thả triêu đình tạo lịch ban chi thiên hạ, kì tái nhất niên tam bách lục thập ngũ nhật trung gian, nhất niên chi thần sát phương vị mỗi nguyệt chi thiên hành đức vượng。 nhi nhất nhật chi trung, hựu hữu hắc hoàng cát hung sự chi nghi dữ bất nghi, nhân tuân chi tắc phúc, vi chi tắc họa, thị quả vô lí cường tạo nhi suất thiên hạ dĩ tất tòng tai, hựu tương nhân thuật quan khí sắc chi thanh hoàng xích bạch hắc nhi quyết họa phúc, ứng ư mỗ niên nguyệt nhật thì, thanh tắc giáp ất, hoàng tắc mậu tị, xích tắc bính đinh, bạch tắc canh tân, hắc tắc nhâm quý, nhất hào bất sảng sát bệnh diệc nhiên quan tố vấn khả kiến。
thị can chi tuy sở dĩ kỉ nhật, nhi tạo hóa bất ngoại thị dã, hựu nhân chi tinh thần mộng mị dự triệu cát hung chiêm chi giả, hoặc dĩ ý đoạn hoặc dĩ vật tượng hoặc dĩ tự giải hoặc dĩ âm hiệp, giai nhân vi chi dã nhi cát hung bất năng ngoại yên。 thị hữu thị nhân nhi hậu hữu thị mộng, nhân thị mộng nhi cầu thị nhân tạo hóa, thả bất ngoại nhi huống can chi ngũ hành, tự hữu thiên địa tiện hữu thử lí, nhân hữu thử lí tiện sanh thị nhân nhân dữ thiên nhất dã。
ngoại nhân dĩ ngôn thiên ngoại thiên dĩ ngôn nhân giai vu hĩ, nhược phục hi họa quái ngưỡng quan phủ sát viễn kê cận, thủ thị đắc thiên địa nhân vật chi lí, nhi bát quái sở do tác dã。 kim chi đàm âm dương giả, tuy cùng cực thiên địa chi biến tham tác, nhân vật chi vi chương, vãng sát lai nhân trứ tri vi, dữ thiên địa hợp kì đức, dữ nhật nguyệt hợp kì minh, dữ tứ thì hợp kì tự, dữ quỷ thần hợp kì cát hung, diệc khởi năng ngoại can chi ngũ hành nhi biệt hữu tạo hóa, dĩ tẫn thiên địa nhân vật chi đại tai。 kim vương thị tri tôn dịch, nhi bất tín âm dương gia thuyết, thị tri hữu lí nhi bất tri hữu sổ dã, lí sổ hợp nhất, thiên nhân nhất lí, thần nhi minh chi, tồn hồ kì nhân yên nhĩ。
Nguồn:
.
Khai Thiên Đạo Độc
chu dịch thiên địa võng trạm nhất trực tại nỗ lực vi các vị dịch học ái hảo giả đề cung ưu tú đích tư tấn. ngã môn tinh tuyển các cá học khoa đích ưu tú điển tịch, chế tác thành điện tử thư, cung các vị độc giả duyệt độc, hi vọng thử cử năng cú thôi động trung hoa văn hóa đích phát triển, hoành dương dịch học!
"tam mệnh thông hội" thị nhất bổn mệnh lí điển tịch, thị nhất cá mệnh lí học tham tác tất độc đích hảo thư, trị đắc phản phục tế độc. chúc nguyện đại gia học tập du khoái!
Giản Giới
"tam mệnh thông hội"· cộng thập nhị quyển
bất trứ soạn nhân danh thị. quyển thủ đãn đề viết dục ngô san nhân. "minh sử· nghệ văn chí" hữu vạn dân dục "tam mệnh hội thông" thập nhị quyển, dữ thử bổn quyển sổ tương hợp, duy dĩ thông hội tác hội thông, vi sảo dị, khảo thế sở truyện "tinh học đại thành" nhất thư, vi vạn dân anh sở soạn. anh tự dục ngô, dữ thử bổn sở đề hợp, đương diệc xuất dân anh chi thủ. "nghệ văn chí" cái ngộ dĩ dân anh vi dân dục, hựu thông hội nhị tự truyện tả hỗ đảo nhĩ. tự minh dĩ lai đàm tinh mệnh giả, giai dĩ thử bổn vi tổng hối, kỉ vu gia hữu kì thư. trung gian sở tái sĩ hoạn bát tự, vãng vãng cập minh quý chi nhân, cái hậu lai phường khắc sở sam nhập, dĩ phi kì cựu. nhiên kì xiển phát tử bình chi di pháp, vu quan ấn tài lộc thực thương chi danh nghĩa, dụng thần chi khinh trọng, chư thần sát sở hệ chi cát hung, giai năng thải toát quần ngôn, đắc kì tinh yếu, cố vi thuật gia sở hằng dụng, yếu hữu vị khả cự phế giả. chí kì lập luận đa thủ chánh quan chánh ấn chánh tài, nhi bất tri thiên quan thiên ấn thiên tài diệc năng đắc lực. tri thực thần chi năng thổ tú, nhi bất tri thương quan chi diệc khả xuất kì, thị tắc kì thiên chấp chi kiến, vị vi viên triệt. thả thai nguyên đẳng luận, thi chi kim nhật, diệc đa hữu bất nghiệm. ngôn mệnh học giả đãn đương đắc kì đại ý, nhi biến thông chi khả hĩ.nhược sở dẫn "lạc琭 tử" dữ kim "vĩnh nhạc đại điển" trung sở tập hoàn bổn, kì văn huýnh thù. tắc kì thời bí sách cận tồn, ngoại gian vị do khuy kiến, toại ngộ tín y thác chi bổn, cố vị túc dĩ vi bệnh dã.
"tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu"
开篇导读
周易天地网站一直在努力为各位易学爱好者提供优秀的资讯。我们精选各个学科的优秀典籍,制作成电子书,供各位读者阅读,希望此举能够推动中华文化的发展,宏扬易学!
《三命通会》是一本命理典籍,是一个命理学探索必读的好书,值得反复细读。祝愿大家学习愉快!
简介
《三命通会》·共十二卷
不著撰人名氏。卷首但题曰育吾山人。《明史·艺文志》有万民育《三命会通》十二卷,与此本卷数相合,惟以通会作会通,为稍异,考世所传《星学大成》一书,为万民英所撰。英字育吾,与此本所题合,当亦出民英之手。《艺文志》盖误以民英为民育,又通会二字传写互倒耳。自明以来谈星命者,皆以此本为总汇,几于家有其书。中间所载仕宦八字,往往及明季之人,盖后来坊刻所搀入,已非其旧。然其阐发子平之遗法,于官印财禄食伤之名义,用神之轻重,诸神煞所系之吉凶,皆能采撮群言,得其精要,故为术家所恒用,要有未可遽废者。至其立论多取正官正印正财,而不知偏官偏印偏财亦能得力。知食神之能吐秀,而不知伤官之亦可出奇,是则其偏执之见,未为圆彻。且胎元等论,施之今日,亦多有不验。言命学者但当得其大意,而变通之可矣。若所引《珞琭子》与今《永乐大典》中所辑完本,其文迥殊。则其时秘册仅存,外间未由窥见,遂误信依托之本,固未足以为病也。
《四库全书总目提要》
Nguồn: trang web này không còn tồn tại. Nay tìm được một trang khác thì phần mở đầu có khác chút ít. Phần này không dịch nhưng cũng đưa lên đây phần nguyên bản và Hán Việt
Tam Mệnh Thông hHội
đệ nhất hiệt
tam mệnh thông hội quyển nhất· nguyên tạo hóa chi thủy
lão tử viết: vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu, hữu vật hỗn thành tiên thiên địa sanh liệt。 ngự khấu viết: hữu hình sanh ư vô hình, thiên địa chi sơ, hữu thái dịch, hữu thái sơ, hữu thái thủy, hữu thái tố, thái dịch giả vị kiến khí, thái sơ giả khí chi thủy, thái thủy giả hình chi thủy, thái tố giả chất chi thủy khí, dữ hình chất hợp nhi vị li。
viết hồn luân lịch kỉ vân, vị hữu thiên địa chi thì, hỗn độn như kê tử, minh chỉ thủy nha hồng mông tư manh luật, vân: thái cực nguyên khí hàm tam vi nhất。 dịch viết: dịch hữu thái cực thị sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh tứ tượng, tứ tượng sanh bát quái, bát quái định cát hung。 dịch sơ vân: thái cực vị thiên địa vị phân chi tiền, nguyên khí hỗn nhi vi nhất。 mông tuyền tử viết: thái sơ giả lí chi thủy dã, thái hư giả khí chi thủy dã, thái tố giả tượng chi thủy dã, thái ất giả sổ chi thủy dã, thái cực giả kiêm lí khí tượng sổ chi thủy dã。 do sổ luận ngôn chi, khả kiến hồn luân vị phán chi tiên, chỉ nhất khí hỗn hợp, yểu minh hôn muội nhi lí vị thường bất tại kì trung, dữ đạo vi nhất thị vị thái cực。
trang tử dĩ đạo tại thái cực chi tiên, sở vị thái cực nãi thị chỉ thiên địa nhân tam giả, khí hình kỉ cụ nhi vị phán giả chi danh。 nhi đạo hựu biệt thị nhất huyền không để vật, tại thái cực chi tiên, bất tri đạo tức thái cực, thái cực tức đạo dĩ kì lí chi。 thông hành giả ngôn tắc viết: đạo dĩ kì lí chi cực chí giả ngôn, tắc viết thái cực hựu hà thường hữu nhị tà? hướng phi chu tử khải kì bí, chu tử xiển nhi minh chi, thục tri thái cực chi vi lí nhi dữ khí tự bất tương li dã tai。 sở vị thái cực giả, nãi âm dương động tĩnh chi bổn thể, bất li ư hình khí nhi thật, vô thanh xú bất cùng ư biến hóa nhi thật hữu凖, tắc cố nhất động nhất tĩnh, hỗ vi kì căn, phân âm phân dương lưỡng nghi lập yên。
nghi giả vật dã, phàm vật vị thủy vô đối nhi diệc vị thường độc lập, thiên dĩ khí phúc nhi y hồ địa, địa dĩ hình tái nhi phụ hồ thiên hữu lí tư。 hữu khí âm dương chi vị dã, hữu khí tư hữu hình thiên địa chi vị dã, thiên địa bất sanh ư thiên địa, nhi sanh ư âm dương, âm dương bất sanh ư âm dương nhi sanh ư động tĩnh, động tĩnh bất sanh ư động tĩnh nhi sanh ư thái cực。 cái thái cực giả bổn nhiên chi diệu dã, động tĩnh giả sở thừa chi cơ dã, âm dương giả sở sanh chi bổn dã。 thái cực hình nhi thượng, đạo dã âm dương hình nhi hạ khí dã。 động tĩnh vô đoan、 âm dương vô thủy, thử tạo hóa sở do lập yên。
bách trai hà tử viết: thiên dương chi động giả dã, quả hà thì động cực nhi tĩnh hồ? địa âm chi tĩnh giả dã, quả hà thì tĩnh cực nhi động hồ? thiên bất năng sanh địa, thủy bất năng sanh hỏa, vô trí ngu giai tri chi。 nãi vị âm dương tương sanh bất diệc ngộ hồ! cái thiên địa thủy hỏa tuy hồn nhiên bất khả li, thật xán nhiên bất khả loạn, cố âm chi dữ dương vị chi tương y tắc khả, vị chi tương sanh tắc bất khả。 vị chi hỗ tàng kì trạch tắc khả, vị chi hỗ tàng tương sanh tắc bất khả。 thử ngôn đích hữu kiến dã!
phu thiên địa vị lập, đạo bổn thiên địa, thiên địa kí lập, tắc thái cực chi lí tán tại vạn sự。 do thị nhi ngũ hành sanh yên, ngũ hành nhất、 âm dương ngũ, thù nhị thật vô dư phân dã。 âm dương nhất thái cực, tinh thô bổn mạt vô bỉ thử dã, ngũ hành chất cụ ư địa nhi khí hành ư thiên, dĩ chất nhi ngữ kì sanh chi tự, tắc thủy、 hỏa、 mộc、 kim、 thổ。 nhi thủy mộc dương dã, hỏa kim âm dã。 hựu thống nhi ngôn chi, tắc khí dương nhi chất âm dã, hựu thác nhi ngôn chi, tắc động dương nhi tĩnh âm dã, cái ngũ hành chi biến chí bất khả cùng, nhiên vô quát nhi phi, thái cực chi bổn nhiên dã。
bách tề hà tử viết: ngũ hành nhất âm dương, âm dương nhất thái cực。 chu tử cố vị thái cực bất ngoại hồ âm dương, âm dương bất ngoại hồ ngũ hành hĩ! tự kim luận chi thủy thủy dã, hỏa hỏa dã, kim mộc thủy hỏa thổ chi giao biến dã。 thổ địa dã, thiên an tại hồ? hữu địa nhi vô thiên vị tạo hóa toàn khả hồ? nhược dĩ vị thiên tức thái cực, cố chu tử dĩ thượng thiên chi tái thích thái cực, thiên đạo lưu hành thích âm dương quan。 dịch viết: dịch hữu thái cực, thị sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh tứ tượng, tứ tượng sanh bát quái, bát quái chi trung hữu can hữu khôn, tắc thiên địa giai thái cực chi phân thể minh hĩ。 dĩ thiên vi thái cực chi toàn thể, nhi địa vi thiên chi phân thể, khởi bất ngộ thậm dã tai! kì thuyết tự hữu lí dã。
phu ngũ hành chi sanh, các nhất kì tính, tứ thì chi hành, diệc hữu kì tự。 xuân dĩ sanh chi, hạ dĩ trường chi, thu dĩ túc chi, đông dĩ tàng chi, xuân nhi hạ, hạ nhi thu, thu nhi đông, đông nhi phục xuân, nhi tương tuần vô cùng。
cái ngũ hành dị chất tứ thì dị khí nhi giai bất ngoại hồ âm dương, âm dương dị vị、 động tĩnh dị thì nhi giai bất li hồ thái cực。 chí ư sở dĩ vi thái cực giả, hựu vô thanh xú chi khả ngôn, thị tính chi bổn thể nhiên dã。 cố ngũ hành các nhất kì tính, sở vị các cụ nhất thái cực dã。 tứ thì tự hữu kì tự, sở vị vận dụng nhất thái cực dã。 ngũ hành tứ thì chu nhi phục thủy, sở vị thống thể nhất thái cực dã。 nhi tính chi vô sở bất tại, hựu khả kiến hĩ, phu thiên hạ vô tính ngoại chi vật, nhi tính vô bất tại thử vô cực、 nhị ngũ。 sở dĩ hỗn dung nhi vô nhàn, sở vị diệu hợp giả dã。 vô cực thị lí, nhị ngũ thị khí, chân dĩ lí ngôn, thái cực vô vọng chi vị dã。
tinh dĩ khí ngôn âm dương ngũ hành bất nhị chi vị dã, ngưng giả tụ dã, khí tụ nhi thành hình dã, cái tính vi chi chủ, nhi âm dương ngũ hành vi chi kinh vĩ thác tống, hựu các dĩ loại ngưng tụ nhi thành hình yên。 dương nhi kiện giả thành nam, tắc phụ chi đạo dã。 âm nhi thuận giả thành nữ, tắc mẫu chi đạo dã。 thị nhân vật chi thủy, dĩ khí hóa nhi sanh giả dã, khí tụ thành hình, tắc hình giao khí cảm, toại dĩ hình hóa nhi vạn vật, sanh sanh biến hóa vô cùng hĩ。
bào lỗ trai viết: thiên địa dĩ khí giao nhi sanh nhân vật, quan kì sở giao, tắc khí chi sở chí, khả dĩ tri kì loại chi sở tòng xuất hĩ。 thiên khí giao hồ địa, ư nhân vi nam, ư vật vi mẫu, địa khí giao hồ thiên, ư nhân vi nữ, ư vật vi tẫn, nam nữ tẫn mẫu, hựu tự giao nhi sanh sanh hóa hóa bất cùng。 nhân vật kí sanh khí, tùy thiên địa chi khí thăng hàng giao cảm, nhân đắc thiên địa chi trung khí, tứ phương chi khí vô bất cảm vật, đắc thiên địa chi thiên khí, nhi diệc các tùy sở cảm, cố quan thiên địa chi khí giao, khả dĩ tri nhân vật chi sơ sanh hĩ。 quan thiên địa chi khí cảm, khả dĩ tri nhân vật chi tương sanh hĩ。
chu tử viết: can đạo thành nam, khôn đạo thành nữ, ngưng thể ư tạo hóa chi sơ, nhị khí giao cảm hóa sanh vạn vật, lưu hành ư tạo hóa chi hậu, thử lí chi thường dã。 nhược khương nguyên、 giản địch chi sanh tắc khế, tắc hựu bất khả dĩ tiên hậu ngôn hĩ, thử lí chi biến dã。 trương cửu thiều viết: luận nhân vật thủy sanh, ư thiên địa triệu phán chi sơ, tắc do khí hóa nhi hậu hữu hình hóa, trương tử sở vị thiên địa chi khí sanh chi thị dã, luận nhân vật thủy sanh, ư kết thai thụ hình chi sơ, tắc do tinh khí chi tụ, nhi hậu hữu thị vật。 chu tử sở vị âm tinh dương khí tụ nhi thành vật thị dã。 do thị ngôn chi, tắc nhân dã vật dã, khí dã hình dã, thục hữu xuất ư âm dương chi ngoại tai。
phu mệnh bẩm ư âm dương hữu sanh chi sơ, phi nhân sở năng di, mạc chi vi nhi vi phi ngã sở năng, tất ư thị hữu sanh nhi phú、 sanh nhi quý giả, hữu sanh nhi thọ、 sanh nhi yêu giả。 hữu sanh nhi bần、 sanh nhi tiện giả。 hữu sanh nhi phú quý song toàn nguy nguy nhân thượng giả。 hữu sanh nhi bần tiện kiêm hữu lạc lạc nhân hạ giả。 hữu sanh nhi nghi thọ nhi phản yêu át, hữu sanh nhi nghi yêu nhi phản trường niên chi sổ giả。 vị do ư sở tích nhi nhiên dữ, diệc do ư sở tính nhi nhiên dữ, vị do ư sở tích tắc bần, khả dĩ trí phú tiện, khả dĩ trí quý yêu, khả dĩ trí thọ。
cổ chi sở vị nhân năng thắng thiên giả dã, vị do ư sở tính dĩ đắc hồ phú quý giả chung ư phú quý, bần tiện giả chung ư bần tiện, thọ yêu giả chung ư thọ yêu, cổ chi sở vị mệnh bất khả di dã。 phu vị chi tích tắc bất khả chuyên dĩ vi mệnh, phu vị chi tính tắc bất khả chuyên, dĩ vi nhân tương dĩ phó chi ư sở tích, dữ vị tri mệnh chi sở bẩm。 phú quý thọ yêu bần tiện hà như dã, tương dĩ phó chi ư sở tính, dữ vị hữu phú quý thọ yêu bần tiện khả tọa đãi giả, nhi nhân vi tự bất khả khuyết dã。 hoặc viết mệnh bẩm hữu sanh chi sơ, thành tai thị ngôn dã。
hà nhân sanh thiên địa chi trung, hữu ngũ hành bát tự tương đồng, nhi phú quý bần tiện thọ yêu chi bất nhất, kì cố hà dã? đáp viết: âm dương nhị khí giao cảm chi thì, thụ chân tinh diệu hợp chi khí, ngưng kết vi thai, thành nam thành nữ đắc thiên địa phụ mẫu nhất thì khí hậu, thị dĩ bẩm kì thanh giả vi trí vi hiền, bẩm kì trọc giả vi ngu vi bất tiếu。 trí giả hiền giả do thị hoặc phú hoặc quý, hoặc thọ tất hữu sở đắc, sở vị đức túc dĩ hoạch phúc dã。 ngu giả bất tiếu giả, bất năng tự phấn nhật ích hôn tế, tắc bần tiện dữ yêu hữu bất năng miễn, sở vị hạ ngu bất di thị dã。
kì phú quý lưỡng toàn giả, nguyên bẩm thanh khinh chi khí, sanh phùng đắc lệnh chi thì, kiêm dĩ tài quan hanh thông, lộc mã vượng tương, kì vận dữ hạn thậm cát thậm tường, túng hữu thiểu hối, bất hệ bác tạp。 kì bần tiện kiêm hữu giả, nguyên bẩm trọng trọc chi khí, sanh phùng thất lệnh chi thì, hình trùng bác tạp vô ta thuận mĩ, tuy vô họa hoạn xâm nhiễu, vị miễn kiển trệ bất tiền。 hựu hữu phú nhi bần、 bần nhi phú、 quý nhi tiện、 tiện nhi quý、 thọ nhi yêu、 yêu nhi thọ giả, hựu hữu vi hiền vi trí nhi phản bần tiện, vi ngu bất tiếu nhi phản phú quý giả。 thiên địa gian chi nhân vạn hữu bất tề, thử diệc tứ thì ngũ hành thiên chánh、 đắc thất、 hướng bối、 thiển thâm chi khí chi sở trí dã。
cố đương thì nguyên khí tuy bẩm khinh thanh, nhiên nhi sanh ư suy bại chi thì, hành hưu tù chi vận, phú giả tổn thất tài nguyên, quý giả bác quan thối vị, thọ giả yêu át bất lộc。 kì nguyên khí tuy bẩm trọng trọc, kì nhân sanh trung hòa chi lệnh, hành vượng tương chi vận, bần bất chung bần nhi vi phú, tiện bất chung tiện nhi vi quý, yêu bất chung yêu nhi vi thọ。
tuy nhiên tu vi tại nhân, nhân định thắng thiên, mệnh bẩm trung hòa tính gia tích thiện, khởi đãn nhất thân hưởng phúc dĩ tai! nhi tử tử tôn tôn vinh xương lợi đạt lí nghi nhiên dã。 mệnh trị thiên khô, tính gia tích ác, phi duy tự thân trị họa dĩ dã, nhi tử tử tôn tôn lạc lạc nhân hạ đắc phi báo。 dữ do tiền ngôn chi, tuy hệ ư mệnh, diệc tại ư nhân chi tích dữ bất tích nhĩ。 dịch viết:“ tích thiện chi gia tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương。” đãi thử chi vị dữ。 canh dã tử viết: thiên nhất khí nhĩ, khí hóa sanh thủy, thủy trung chỉ trọc tích nhi thành thổ, thủy lạc thổ xuất, toại thành san xuyên。 thổ chi cương giả thành thạch nhi kim sanh yên, thổ chi nhu giả sanh mộc nhi hỏa sanh yên, ngũ hành cụ vạn vật sanh nhi biến hóa vô cùng hĩ。
tuấn xuyên tử viết: thiên địa chi sơ duy hữu âm dương nhị khí nhi kỉ, dương tắc hóa hỏa, âm tắc hóa thủy, thủy chi tra chỉ tiện kết thành địa, tra chỉ thành địa tức thổ dã。 hà chí thiên ngũ phương ngôn: sanh thổ thủy hỏa thổ thiên địa chi đại, hóa kim mộc giả, tam vật chi sở tự xuất。 kim thạch chi chất tất tích cửu nhi hậu kết sanh chi tất đồng, ư nhân vật vị, kim chi khí sanh nhân đắc hồ, thả thiên địa chi gian vô phi nguyên khí chi sở vi kì tính, kì chủng tị các cụ thái thủy chi tiên, kim hữu kim chi chủng, mộc hữu mộc chi chủng, nhân hữu nhân chi chủng, vật hữu vật chi chủng, các các hoàn cụ bất tương giả tá bất tương lăng phạm, nhi vị ngũ hành đệ hỗ tương sanh khả hồ。
kim ngũ hành gia dĩ kim sanh thủy, quyết loại huyền tuyệt bất mâu quyết lí điên đảo thất thứ, bất tri mộc dĩ hỏa vi khí, dĩ thủy vi tư, dĩ thổ vi trạch, thử thiên nhiên chí đạo。 nhi viết thủy sanh mộc vô, thổ tương phụ mộc ư hà sở, thủy đa hỏa diệt thổ tuyệt mộc thả tử hĩ, phu an năng sanh? chu tử hoặc ư ngũ hành gia chi thuyết nhi vị: ngũ khí thuận bố tứ thì hành yên, bất tri nhật hữu tiến thối, nãi thành hàn thử, hàn thử phân bình nãi thành tứ thì, ư ngũ khí chi bố hà dữ yên? kì viết: xuân mộc hạ hỏa thu kim đông thủy giai giả hợp chi, luận thổ vô sở quy phối ư tứ quý, bất tri thổ chi khí tại thiên địa nội, hà nhật bất nhiên, hà xử bất hữu, hà chỉ lưu hành ư quý nguyệt chi hối? quý nguyệt chi hối, thượng hữu nhi mạnh nguyệt chi sóc tức diệt kì diệt dã, quy ư hà sở kì lai dã。 thục vi mệnh chi thiên nhất sanh thủy, nãi vĩ thư chi từ, nhi nho giả viên dĩ nhập kinh, thủy hỏa giả âm dương thủy sanh chi, diệu vật dã cố nhất, hóa nhi vi hỏa nhật thị dã, tái hóa nhi vi thủy vũ lộ thị dã。
kim viết: thiên nhất sanh thủy, địa nhị sanh hỏa, lệ ư tạo hóa bổn nhiên chi diệu khả hồ kì chiết, chu tử dĩ tứ thì lưu hành chi khí, luận ngũ hành thiên địa kì ngẫu chi sổ, luận ngũ hành thái cực đồ dương biến âm hợp nhi sanh。 thủy、 hỏa、 mộc、 kim、 thổ luận ngũ hành, kì chiết ngũ hành phối tứ thì, như ngũ hành gia tứ thì các chủ kì nhất, xuân chỉ vi mộc, tắc thủy hỏa thổ kim chi khí thục tuyệt diệt chi, thu chỉ vi kim, tắc thủy hỏa thổ mộc chi khí thục lưu đình chi, thổ duy vượng ư tứ quý, tắc dư nguyệt chi khí thục bả trì nhi bất sử chi vận, hựu an hữu kim nhật vi mộc, minh nhật vi hỏa, hựu minh nhật vi thổ vi kim vi thủy hồ, án vương thị chi thuyết hữu lí nhi phi đạt quan chi kiến。
lạc琭 tử viết: dĩ vi hữu dã thị tòng vô nhi lập hữu dĩ vi vô dã, thiên thùy tượng dĩ thị văn, phu thiên thùy nhật nguyệt、 ngũ tinh、 tam viên、 nhị thập bát túc chi tượng, quan thiên vương hội thông kì lập danh phân dã, thị diệc nhân vi chi nhĩ nhi nghĩa tượng phù hợp。 chí tai tường chiêm bốc hoặc chúc loại mỗ sự, hoặc chỉ kiến mỗ phương ứng ư mỗ niên nguyệt nhật, như tham tả khế tuy thiên đạo huyền viễn diệc bất ngoại nhân sự dữ ngũ hành。
âm dương gia dĩ thập can thập nhị chi phân vi ngũ hành, nhân nhật dữ thiên hội nhi vi, tuế nguyệt dữ nhật hội nhi vi, nguyệt nhật hữu tam thập thì hữu thập nhị, dĩ nhân sanh niên nguyệt nhật thì sở đắc can chi, lập vi tứ trụ dĩ thôi nhất sanh cát hung, diệc lí chi tự nhiên giả dã。 vương thị dĩ xuân chúc mộc nhi thổ hà tại, bất tri ngũ hành vượng tương tử hưu tù các chủ, kì đương thì bất đương thì dụng sự bất dụng sự nhi ngôn, phi vi xuân mộc vượng nhi thổ tắc vô。 thập can thập nhị chi thác tống, vi lục thập giáp tử chu nhi phục thủy bất giả an bài, tức tạo hóa chi sở tại dã。 phi vi kim nhật chúc mộc, minh nhật chúc hỏa, tiện phi thiên đạo chi tự nhiên。 bất tư nhân lập nhi thiên tòng chi, nhân cảm nhi thiên ứng chi, tức thiên tượng lập danh phân dã chi nghĩa, thiên nhân hợp nhất chi đạo dã。 quan nhất nhật hữu tảo ngọ yến vãn, tự hữu ôn lương hàn nhiệt khí hậu, thị kim mộc thủy hỏa thổ bị ư nhất nhật ngũ hành chi bất tương li, như thử vị kim nhật mộc minh nhật hỏa hựu hà, mạc nhi phi thiên đạo chi tự nhiên dã da。
thả triêu đình tạo lịch ban chi thiên hạ, kì tái nhất niên tam bách lục thập ngũ nhật trung gian, nhất niên chi thần sát phương vị mỗi nguyệt chi thiên hành đức vượng。 nhi nhất nhật chi trung, hựu hữu hắc hoàng cát hung sự chi nghi dữ bất nghi, nhân tuân chi tắc phúc, vi chi tắc họa, thị quả vô lí cường tạo nhi suất thiên hạ dĩ tất tòng tai, hựu tương nhân thuật quan khí sắc chi thanh hoàng xích bạch hắc nhi quyết họa phúc, ứng ư mỗ niên nguyệt nhật thì, thanh tắc giáp ất, hoàng tắc mậu tị, xích tắc bính đinh, bạch tắc canh tân, hắc tắc nhâm quý, nhất hào bất sảng sát bệnh diệc nhiên quan tố vấn khả kiến。
thị can chi tuy sở dĩ kỉ nhật, nhi tạo hóa bất ngoại thị dã, hựu nhân chi tinh thần mộng mị dự triệu cát hung chiêm chi giả, hoặc dĩ ý đoạn hoặc dĩ vật tượng hoặc dĩ tự giải hoặc dĩ âm hiệp, giai nhân vi chi dã nhi cát hung bất năng ngoại yên。 thị hữu thị nhân nhi hậu hữu thị mộng, nhân thị mộng nhi cầu thị nhân tạo hóa, thả bất ngoại nhi huống can chi ngũ hành, tự hữu thiên địa tiện hữu thử lí, nhân hữu thử lí tiện sanh thị nhân nhân dữ thiên nhất dã。
ngoại nhân dĩ ngôn thiên ngoại thiên dĩ ngôn nhân giai vu hĩ, nhược phục hi họa quái ngưỡng quan phủ sát viễn kê cận, thủ thị đắc thiên địa nhân vật chi lí, nhi bát quái sở do tác dã。 kim chi đàm âm dương giả, tuy cùng cực thiên địa chi biến tham tác, nhân vật chi vi chương, vãng sát lai nhân trứ tri vi, dữ thiên địa hợp kì đức, dữ nhật nguyệt hợp kì minh, dữ tứ thì hợp kì tự, dữ quỷ thần hợp kì cát hung, diệc khởi năng ngoại can chi ngũ hành nhi biệt hữu tạo hóa, dĩ tẫn thiên địa nhân vật chi đại tai。 kim vương thị tri tôn dịch, nhi bất tín âm dương gia thuyết, thị tri hữu lí nhi bất tri hữu sổ dã, lí sổ hợp nhất, thiên nhân nhất lí, thần nhi minh chi, tồn hồ kì nhân yên nhĩ。
Nguồn:
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#2
Gửi vào 25/06/2024 - 05:28
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Luận Ngũ Hành Sanh Thành
Trời cao rộng lớn, lục khí xoay vòng mà thành bốn mùa; đất dày sâu, ngũ hành biến hoá mà thành vạn vật. Nó có thể được mô tả là vô hạn và không thể đoán trước. Thánh nhân đã lập ra phương pháp để suy tính thiên văn, bởi vì không thể tránh được vận mệnh. Quan sát lý do lập số đều đến từ tự nhiên. Vì thế được ghi chép trong kinh điển, tương đồng mà có khác biệt, nghiên cứu để thông suốt điềm triệu của nó, nghiên cứu để thông suốt sự biến hoá của nó, đều không thể tách rời bên trong con số. Số một gọi là thuỷ, số hai gọi là hoả, số ba gọi là mộc,số bốn gọi là kim, và số năm gọi là thổ, đều có nguồn gốc: thuỷ: là phương bắc vị trí của tý, và tý là số một đầu tiên của dương, là số dương cho nên thuỷ được gọi là số một; hoả: là phương nam, vị trí của ngọ, và ngọ là số hai dầu tiên của âm, là số âm cho nên hoả được gọi là số hai; mộc : ở phương đông, và đông thuộc dương, số ba, số của nó cũng thuộc dương, cho nên mộc được là số ba; kim: ở phương tây, và tây thuộc âm, số bốn là số chẵn, cũng là âm cho nên kim được gọi là số bốn; thổ: ứng với mùa hè dài ở phía tây nam, số năm là số của nó, cũng là số dương cho nên thổ được gọi là số năm. Từ quan điểm này, thì những con số được kết hợp âm dương. Nếu xem xét ý nghĩa thâm sâu của nó, thì thuỷ được sanh ra ở một, trời đất chưa phân chia, vạn vật mới bắt đầu sáng tạo, vạn vật đều thấy ở trong nước, cho nên "Linh Xu Kinh" nói: "Số một là danh hiệu cực kỳ kính trọng thuỷ, trước hết là mẹ của trời đất, sau là nguồn gốc của vạn vật". Dựa theo khảo nghiệm ngày nay, các loại hạt giống cây cỏ đều không thành tựu, người côn trùng, thai trứng, bào thai đều là nước hỏi sao không là số một? Cùng với sự tích tụ nước của nó mà biến thành bản thể của sự vật, khí âm dương ở giữa được chuẩn bị mà thành sau này, cho nên vật còn nhỏ có hương vị đắng là dấu hiệu của "hoả"; đến khi vật chín thì ngọt là hương vị của 'thổ". Ngọt đến cùng cực thì sau đó nhạt, và nhạt là gốc vậy. Tuy nhiên người nhận khí âm dương của cha mẹ sanh thành mà biến đổi, cho nên đầu tiên sanh hai quả thận: thận trái thuộc thuỷ, thận phải thuộc hoả. Hoả gọi là "mệnh môn" [3] do hoả thấy sau thuỷ cho nên hoả được gọi là số hai. Do tuy lớn nhỏ khác nhau cây cỏ hoa quả, bên trong nó đều có hai thứ tương hợp nhau, giống với thận của người, cũng là dấu hiệu của âm dương. Vì thế mà vạn vật chẳng có âm dương kết hợp thì không thể chuyển hoá. Vì âm dương đã hợp thể, sau đó mới sanh ở mùa xuân và hình thành ở mùa thu, cho nên kế đó số ba gọi là "mộc", tiếp theo số bốn gọi là "kim". Bởi "thuỷ có chỗ thuộc về nó, "hoả" có chỗ để ẩn táng, "mộc" có chỗ sinh trưởng, "kim có chỗ khác biệt, mà tất cả đều từ "thổ" mà thành. Cho nên kim, mộc, thuỷ, hoả đều nương tựa thổ mà thành hình, bao gồm cả số của thổ, số năm là số thành thì thuỷ là sáu, hoả là bảy, mộc là tám, và kim là chín; riêng thổ luôn lấy số sanh là số năm mà không thể đến số mười, thổ không nương nhờ số mười mới thành vì số sanh thành đều hợp với số năm. Số đại diễn rõ ràng thành lập giống như vậy thử hỏi vạn vật làm sao tránh khỏi vận số được?
论五行生成
天高寥廓,六气回旋以成四时;地厚幽深,五行化生以成万物。可谓无穷而莫测者也。圣人立法以推步者,盖不能逃其数。观其立数之因,亦皆出乎自然。故载于经典,同而不异,推以达其机,穷以通其变,皆不离于数内。一曰水,二曰火,三曰木,四曰金,五曰土者,咸有所自也。水,北方子之位也,子者,阳之初一,阳数也,故水曰一;火,南方午之位也,午者,阴之初二,阴数也,故火曰二;木居东方,东,阳也,三者,奇之数,亦阳也,故木曰三;金居西方,西,阴也,四者,偶之数,亦阴也,故金曰四;土应西南长夏,五者,奇之数,亦阳也,故土曰五。
由是论之,则数以阴阳而配者也。若考其深义,则水生于一。天地未分,万物未成之初,莫不先见于水,故《灵枢经》曰:"太一者,水之尊号。先天地之母,后万物之源。"以今验之,草木子实未就,人虫、胎卵、胎胚皆水也,岂不以为一?及其水之聚而形质化,莫不备阴阳之气在中而后成。故物之小而味苦者,火之兆也;物熟则甘,土之味也。甘极而后淡,淡,本也。然人禀父母阴阳生成之化,故先生二肾,左肾属水,右肾属火。火曰命门,则火之因水而后见。故火曰次二。盖草木子实,大小虽异,其中皆有两以相合者,与人肾同,亦阴阳之兆。是以万物非阴阳合体则不能化生也。既阴阳合体,然后而春生而秋成,故次三曰木,次四曰金。盖水有所属,火有所藏,木有所发,金有所别,莫不皆因土而后成也。故金木水火皆待土而后成。兼其土数,五以成之,则水六,火七,木八,金九;土常以五之生数不可至十者,土不待十以成,是生成之数皆五以合之。明大衍之数,由是以立,则万物岂能逃其数哉?
.
Luận Ngũ Hành Sanh Thành
Trời cao rộng lớn, lục khí xoay vòng mà thành bốn mùa; đất dày sâu, ngũ hành biến hoá mà thành vạn vật. Nó có thể được mô tả là vô hạn và không thể đoán trước. Thánh nhân đã lập ra phương pháp để suy tính thiên văn, bởi vì không thể tránh được vận mệnh. Quan sát lý do lập số đều đến từ tự nhiên. Vì thế được ghi chép trong kinh điển, tương đồng mà có khác biệt, nghiên cứu để thông suốt điềm triệu của nó, nghiên cứu để thông suốt sự biến hoá của nó, đều không thể tách rời bên trong con số. Số một gọi là thuỷ, số hai gọi là hoả, số ba gọi là mộc,số bốn gọi là kim, và số năm gọi là thổ, đều có nguồn gốc: thuỷ: là phương bắc vị trí của tý, và tý là số một đầu tiên của dương, là số dương cho nên thuỷ được gọi là số một; hoả: là phương nam, vị trí của ngọ, và ngọ là số hai dầu tiên của âm, là số âm cho nên hoả được gọi là số hai; mộc : ở phương đông, và đông thuộc dương, số ba, số của nó cũng thuộc dương, cho nên mộc được là số ba; kim: ở phương tây, và tây thuộc âm, số bốn là số chẵn, cũng là âm cho nên kim được gọi là số bốn; thổ: ứng với mùa hè dài ở phía tây nam, số năm là số của nó, cũng là số dương cho nên thổ được gọi là số năm. Từ quan điểm này, thì những con số được kết hợp âm dương. Nếu xem xét ý nghĩa thâm sâu của nó, thì thuỷ được sanh ra ở một, trời đất chưa phân chia, vạn vật mới bắt đầu sáng tạo, vạn vật đều thấy ở trong nước, cho nên "Linh Xu Kinh" nói: "Số một là danh hiệu cực kỳ kính trọng thuỷ, trước hết là mẹ của trời đất, sau là nguồn gốc của vạn vật". Dựa theo khảo nghiệm ngày nay, các loại hạt giống cây cỏ đều không thành tựu, người côn trùng, thai trứng, bào thai đều là nước hỏi sao không là số một? Cùng với sự tích tụ nước của nó mà biến thành bản thể của sự vật, khí âm dương ở giữa được chuẩn bị mà thành sau này, cho nên vật còn nhỏ có hương vị đắng là dấu hiệu của "hoả"; đến khi vật chín thì ngọt là hương vị của 'thổ". Ngọt đến cùng cực thì sau đó nhạt, và nhạt là gốc vậy. Tuy nhiên người nhận khí âm dương của cha mẹ sanh thành mà biến đổi, cho nên đầu tiên sanh hai quả thận: thận trái thuộc thuỷ, thận phải thuộc hoả. Hoả gọi là "mệnh môn" [3] do hoả thấy sau thuỷ cho nên hoả được gọi là số hai. Do tuy lớn nhỏ khác nhau cây cỏ hoa quả, bên trong nó đều có hai thứ tương hợp nhau, giống với thận của người, cũng là dấu hiệu của âm dương. Vì thế mà vạn vật chẳng có âm dương kết hợp thì không thể chuyển hoá. Vì âm dương đã hợp thể, sau đó mới sanh ở mùa xuân và hình thành ở mùa thu, cho nên kế đó số ba gọi là "mộc", tiếp theo số bốn gọi là "kim". Bởi "thuỷ có chỗ thuộc về nó, "hoả" có chỗ để ẩn táng, "mộc" có chỗ sinh trưởng, "kim có chỗ khác biệt, mà tất cả đều từ "thổ" mà thành. Cho nên kim, mộc, thuỷ, hoả đều nương tựa thổ mà thành hình, bao gồm cả số của thổ, số năm là số thành thì thuỷ là sáu, hoả là bảy, mộc là tám, và kim là chín; riêng thổ luôn lấy số sanh là số năm mà không thể đến số mười, thổ không nương nhờ số mười mới thành vì số sanh thành đều hợp với số năm. Số đại diễn rõ ràng thành lập giống như vậy thử hỏi vạn vật làm sao tránh khỏi vận số được?
论五行生成
天高寥廓,六气回旋以成四时;地厚幽深,五行化生以成万物。可谓无穷而莫测者也。圣人立法以推步者,盖不能逃其数。观其立数之因,亦皆出乎自然。故载于经典,同而不异,推以达其机,穷以通其变,皆不离于数内。一曰水,二曰火,三曰木,四曰金,五曰土者,咸有所自也。水,北方子之位也,子者,阳之初一,阳数也,故水曰一;火,南方午之位也,午者,阴之初二,阴数也,故火曰二;木居东方,东,阳也,三者,奇之数,亦阳也,故木曰三;金居西方,西,阴也,四者,偶之数,亦阴也,故金曰四;土应西南长夏,五者,奇之数,亦阳也,故土曰五。
由是论之,则数以阴阳而配者也。若考其深义,则水生于一。天地未分,万物未成之初,莫不先见于水,故《灵枢经》曰:"太一者,水之尊号。先天地之母,后万物之源。"以今验之,草木子实未就,人虫、胎卵、胎胚皆水也,岂不以为一?及其水之聚而形质化,莫不备阴阳之气在中而后成。故物之小而味苦者,火之兆也;物熟则甘,土之味也。甘极而后淡,淡,本也。然人禀父母阴阳生成之化,故先生二肾,左肾属水,右肾属火。火曰命门,则火之因水而后见。故火曰次二。盖草木子实,大小虽异,其中皆有两以相合者,与人肾同,亦阴阳之兆。是以万物非阴阳合体则不能化生也。既阴阳合体,然后而春生而秋成,故次三曰木,次四曰金。盖水有所属,火有所藏,木有所发,金有所别,莫不皆因土而后成也。故金木水火皆待土而后成。兼其土数,五以成之,则水六,火七,木八,金九;土常以五之生数不可至十者,土不待十以成,是生成之数皆五以合之。明大衍之数,由是以立,则万物岂能逃其数哉?
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#3
Gửi vào 25/06/2024 - 05:36
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Luận Ngũ Hành Sanh Khắc
Ngũ hành sanh khắc lẫn nhau theo quy luật tự nhiên. Mười thiên can, mười hai địa chi, ngũ vận, lục khí, tuế, nguyệt, nhật, thời đều gây dựng từ chỗ này, liên tục ảnh hưởng nhau, ở trên trời là khí: lạnh, nóng, khô, ẩm, gió; ở đất thì kết thành hình: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Hình khí ảnh hưởng lẫn nhau mà chuyển hoá vạn vật, đây là kỷ nguyên của sự sáng tạo. Hiệu ứng kỳ diệu của nó có thể nói là vô cùng tận.
Mộc chủ ở phương đông, ứng với mùa xuân. Mộc là nói về xúc chạm, dương khí chạm vào mà sanh ra khỏi mặt đất. Nước chảy theo hướng đông mà nuôi cây, phần trên của cây sanh trưởng mà che trùm bên dưới, đó là bản chất tự nhiên vậy.
Hoả chủ ở phương nam, ứng với mùa hạ. Hoả là nói về chuyển hoá và huỷ diệt, dương ở trên và âm ở dưới; huỷ diệt sinh sôi mà biến hoá vạn vật. Dùi gỗ để tạo ra lửa, nên mộc là chỗ sanh ra. Tuy nhiên hoả thì không có thực thể mà cơ thể vốn là mộc. Đó là bản chất tự nhiên đi ra để đáp ứng với vật và quay trở về khi tận diệt.
Kim chủ ở phương tây, ứng với mùa thu. Kim là nói về ngăn cấm, khí âm bắt đầu ngăn cấm vạn vật mà thu góp, nhặt vàng từ trong cát, nên thổ là chỗ sanh. Sanh ra từ đất mà khác với đất chình là hình thể tự nhiên.
Thuỷ chủ ở phương bắc, ứng với mùa đông. Thuỷ là nói về ẩm ướt. Khí âm ẩm ướt, trách nhiệm nuôi dưỡng vạn vật. Nước chảy từ tây sang đông nên kim là chỗ sanh. Nước chảy theo từng ngõ ngách, men theo bên dưới mà đến chính là bản tính tự nhiên vậy.
Thổ chủ ở trung ương gồm cả vị trí tây nam, ứng với mùa hè kéo dài. Thổ là nói về thổ [1], là nơi hàm chứa vạn vật, là nơi sanh thì hiện ra, là nơi chết thì trở về, là nhà của vạn vật. Cho nên phát triễn ở cuối hạ, sinh ra từ lửa. Đất nếu thắng nước chính là nước quay về với đất, đó là ý nghĩa tự nhiên.
Ngũ hành khắc nhau: con cái đều có khả năng vì mẹ mà phục thù. Mộc khắc thổ, con của thổ là kim ngược lại khắc mộc; kim khắc mộc con của mộc là hoả ngược lại khắc kim; hoả khắc kim, con của kim là thuỷ ngược lại khắc hoả; thuỷ khắc hoả, con của hoả là thổ ngược lại khắc thuỷ; thổ khắc thuỷ, con của thuỷ là mộc ngược lại khắc thổ. Tương sanh chính là sự khởi đầu, tương khắc lại là sự kết thúc. Tất cả đều là bản chất tự nhiên. "Tố Vấn" nói: thuỷ sanh mộc, mộc lại sanh hoả, chính là mộc bị ăn cắp khí, cho nên thuỷ phẩn nộ mà khắc hoả. Nói cách khác con bị ăn cắp khí mẹ mới liều sức tranh đấu, cũng như mẹ bị quỷ thương tổn, con ra sức cứu, nghĩa của nó giống nhau. Mạnh có thể tấn công yếu, thổ nhờ mộc mà thành đạt; thật có thể thắng hư, thuỷ gặp thổ nên tuyệt; âm có thể trừ dương hoả bị thuỷ dập tắt; mãnh liệt có thể chống với cứng bền kim bị hoả làm cho suy nhược; cương quyết có thể thắng nhu nhược mộc bị kim chặt đốn. Vì thế ngũ hành lưu chuyển mà biến chuyển, thuận thì sanh lẫn nhau, nghịch thì khắc lẫn nhau, như vậy mỗi hànhdeu962 có chỗ dùng để hoàn thành đạo lý của nó.
论五行生克,
五行相生相克,其理昭然。十干十二支、五运六气、岁月日时皆自此立,更相为用,在天则为气:寒、暑、燥、湿、风;在地则成形:金、木、水、火、土。形气相感而化生万物,此造化生成之大纪也。原其妙用,可谓无穷矣。
木主于东;应春。木之为言触也,阳气触动,冒地而生也。水流趋东以生木也;木上发而覆下,乃自然之质也。
火主于南,应夏。火之为言化也,毁也,阳在上,阴在下;毁然盛而变化万物也。钻木取火,木所生也。然火无正体,体本木焉。出以应物,尽而复入,乃自然之气也。
金主于西,应秋。金之为言禁也,阴气始禁止万物而收敛,披沙拣金,土所生也。生于土而别于土,乃自然之形也。
水主于北,应冬。水之为言润也。阴气濡润,任养万物也。水西而东,金所生也。水流曲折,顺下而达,乃自然之性也。
土主于中央,兼位西南,应于长夏。土之为言吐也,含吐万物,将生者出,将死者归,为万物家。故长于夏末,火所生也。土或胜水,水乃反土,自然之义也。
五行相克,子皆能为母,复雠也。木克土,土之子金反克木;金克木,木之子火反克金;火克金,金之子水反克火;水克火,火之子土反克水;土克水,水之子木反克土。互能相生,乃其始也;互能相克,乃其终也。皆出乎天之性也。《素问》所谓水生木,木复生火,是木受窃气,故水怒而克火。即子逢窃气,母乃力争,与母被鬼伤,子来力救,其义一也。强可攻弱,土得木而达;实可胜虚,水得土而绝;阴可消阳,火得水而灭;烈可敌刚,金得火而缺;坚可制柔,木得金而伐。故五者流行而更转,顺则相生,逆则相克,如是则各各为用,以成其道而已。
.
Luận Ngũ Hành Sanh Khắc
Ngũ hành sanh khắc lẫn nhau theo quy luật tự nhiên. Mười thiên can, mười hai địa chi, ngũ vận, lục khí, tuế, nguyệt, nhật, thời đều gây dựng từ chỗ này, liên tục ảnh hưởng nhau, ở trên trời là khí: lạnh, nóng, khô, ẩm, gió; ở đất thì kết thành hình: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Hình khí ảnh hưởng lẫn nhau mà chuyển hoá vạn vật, đây là kỷ nguyên của sự sáng tạo. Hiệu ứng kỳ diệu của nó có thể nói là vô cùng tận.
Mộc chủ ở phương đông, ứng với mùa xuân. Mộc là nói về xúc chạm, dương khí chạm vào mà sanh ra khỏi mặt đất. Nước chảy theo hướng đông mà nuôi cây, phần trên của cây sanh trưởng mà che trùm bên dưới, đó là bản chất tự nhiên vậy.
Hoả chủ ở phương nam, ứng với mùa hạ. Hoả là nói về chuyển hoá và huỷ diệt, dương ở trên và âm ở dưới; huỷ diệt sinh sôi mà biến hoá vạn vật. Dùi gỗ để tạo ra lửa, nên mộc là chỗ sanh ra. Tuy nhiên hoả thì không có thực thể mà cơ thể vốn là mộc. Đó là bản chất tự nhiên đi ra để đáp ứng với vật và quay trở về khi tận diệt.
Kim chủ ở phương tây, ứng với mùa thu. Kim là nói về ngăn cấm, khí âm bắt đầu ngăn cấm vạn vật mà thu góp, nhặt vàng từ trong cát, nên thổ là chỗ sanh. Sanh ra từ đất mà khác với đất chình là hình thể tự nhiên.
Thuỷ chủ ở phương bắc, ứng với mùa đông. Thuỷ là nói về ẩm ướt. Khí âm ẩm ướt, trách nhiệm nuôi dưỡng vạn vật. Nước chảy từ tây sang đông nên kim là chỗ sanh. Nước chảy theo từng ngõ ngách, men theo bên dưới mà đến chính là bản tính tự nhiên vậy.
Thổ chủ ở trung ương gồm cả vị trí tây nam, ứng với mùa hè kéo dài. Thổ là nói về thổ [1], là nơi hàm chứa vạn vật, là nơi sanh thì hiện ra, là nơi chết thì trở về, là nhà của vạn vật. Cho nên phát triễn ở cuối hạ, sinh ra từ lửa. Đất nếu thắng nước chính là nước quay về với đất, đó là ý nghĩa tự nhiên.
Ngũ hành khắc nhau: con cái đều có khả năng vì mẹ mà phục thù. Mộc khắc thổ, con của thổ là kim ngược lại khắc mộc; kim khắc mộc con của mộc là hoả ngược lại khắc kim; hoả khắc kim, con của kim là thuỷ ngược lại khắc hoả; thuỷ khắc hoả, con của hoả là thổ ngược lại khắc thuỷ; thổ khắc thuỷ, con của thuỷ là mộc ngược lại khắc thổ. Tương sanh chính là sự khởi đầu, tương khắc lại là sự kết thúc. Tất cả đều là bản chất tự nhiên. "Tố Vấn" nói: thuỷ sanh mộc, mộc lại sanh hoả, chính là mộc bị ăn cắp khí, cho nên thuỷ phẩn nộ mà khắc hoả. Nói cách khác con bị ăn cắp khí mẹ mới liều sức tranh đấu, cũng như mẹ bị quỷ thương tổn, con ra sức cứu, nghĩa của nó giống nhau. Mạnh có thể tấn công yếu, thổ nhờ mộc mà thành đạt; thật có thể thắng hư, thuỷ gặp thổ nên tuyệt; âm có thể trừ dương hoả bị thuỷ dập tắt; mãnh liệt có thể chống với cứng bền kim bị hoả làm cho suy nhược; cương quyết có thể thắng nhu nhược mộc bị kim chặt đốn. Vì thế ngũ hành lưu chuyển mà biến chuyển, thuận thì sanh lẫn nhau, nghịch thì khắc lẫn nhau, như vậy mỗi hànhdeu962 có chỗ dùng để hoàn thành đạo lý của nó.
论五行生克,
五行相生相克,其理昭然。十干十二支、五运六气、岁月日时皆自此立,更相为用,在天则为气:寒、暑、燥、湿、风;在地则成形:金、木、水、火、土。形气相感而化生万物,此造化生成之大纪也。原其妙用,可谓无穷矣。
木主于东;应春。木之为言触也,阳气触动,冒地而生也。水流趋东以生木也;木上发而覆下,乃自然之质也。
火主于南,应夏。火之为言化也,毁也,阳在上,阴在下;毁然盛而变化万物也。钻木取火,木所生也。然火无正体,体本木焉。出以应物,尽而复入,乃自然之气也。
金主于西,应秋。金之为言禁也,阴气始禁止万物而收敛,披沙拣金,土所生也。生于土而别于土,乃自然之形也。
水主于北,应冬。水之为言润也。阴气濡润,任养万物也。水西而东,金所生也。水流曲折,顺下而达,乃自然之性也。
土主于中央,兼位西南,应于长夏。土之为言吐也,含吐万物,将生者出,将死者归,为万物家。故长于夏末,火所生也。土或胜水,水乃反土,自然之义也。
五行相克,子皆能为母,复雠也。木克土,土之子金反克木;金克木,木之子火反克金;火克金,金之子水反克火;水克火,火之子土反克水;土克水,水之子木反克土。互能相生,乃其始也;互能相克,乃其终也。皆出乎天之性也。《素问》所谓水生木,木复生火,是木受窃气,故水怒而克火。即子逢窃气,母乃力争,与母被鬼伤,子来力救,其义一也。强可攻弱,土得木而达;实可胜虚,水得土而绝;阴可消阳,火得水而灭;烈可敌刚,金得火而缺;坚可制柔,木得金而伐。故五者流行而更转,顺则相生,逆则相克,如是则各各为用,以成其道而已。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#4
Gửi vào 25/06/2024 - 05:44
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Luận Chi Can Nguyên Lưu
"Can" giống như thân cây, mạnh khoẻ nên là dương; "chi" giống như cành cây, yếu kém nên là âm. Theo tích xưa,Bàn Cổ hiểu biết đạo trời đất, thông hiểu sự biến đổi của âm dương thành tam tài. Sau khi đã phân chia trời đất, trước có trời sau mới có đất, sau khi khí hoá mới sanh ra sự sống, cho nên vị vua đầu tiên là Hoàng Đế có mười ba người tiếp tục Bàn Cổ mà cai trị, do đó nói rằng tinh thần của trời đạm bạc, không giữ nguyên tập quán mà tự thay đổi, bắt đầu chế ra tên gọi can chi để mà xác định đầu một năm.
Mười can được viết là: "vu phùng", "chiên mông", "nhu triệu", "cương ngữ", "trứ ung", "đồ duy", ""thượng chương", "trọng quang", "huyền", chiêu dương".
Mười hai chi được viết là: "khốn dôn", "xích phấn nhược", "nhiếp phấn nhược", "nhiếp đề cách", "đan vu", "chấp từ", "đại hoang lạc", "đôn dương", "hiệp hiệp", "than", "tác ngạc", "yêm mậu", "đại uyên hiến"..
Thái Ung Độc Đoạn viết: "can cũng là cán. Tên của nó có mười, cũng gọi là mười mẹ, tức là giáp, ất, bính, dinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý của ngày nay; chi cũng là cành nhánh, tên của nó có mười hai, cũng gọi là mười hai con, tức là tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi của ngày nay". Nói là ngài Thiên Hoàng chọn theo nghĩa "trời mở ra ở tý"; nói là ngài Địa Hoàng chọn theo nghĩa đất mở mang ở sửu; nói là ngài Nhân Hoàng chọn theo nghĩa con người sanh ra ở dần.
Vì thế tên gọi can chi bắt đầu đặt ra từ thời Thiên Hoàng, mà ngài địa hoàng thì định ra tam thần: phân chia ngày đêm, lấy ba mươi ngày làm một tháng, và can chi bắt đầu được phối hợp. Ngài nhân hoàng chúa phải là vua thật, thần phải là cao quý thật sự, chính trị và giáo hoá bắt đầu từ vua và bề tôi, khởi đầu ăn uống nam nữ, khởi đầu tiếp nhận khi trời đất mà có phân biệt mẹ và con, vì vậy can chi bắt đầu có chỗ thuộc về. Cho đến thời Phục Hy ngưỡng nhìn bầu trời, cúi xuống nhìn đất, ở giữa thì nhìn vạn vật với con người, bắt đầu vẽ ra bát quái để hiểu rõ đức tính của các vị thần, để phân loại trạng huống vạn vật, để làm lịch mà văn tự được tạo ra. Đến khi Hoàng Đế được trao cho Hà Đồ, xem các hiện tượng mặt trời, mặt trăng và các vì sao bắt đầu có quyển sánh về các vị quan tinh tú. Kêu gọi Đại Nghiêu tìm tòi thêm về tình trạng ngũ hành, xây dưng nên phần chủ yếu của môn bói toán, vì thế bắt đầu tạo ra giáp tý phối hợp với ngũ hành nạp âm.
论支干源流
夫干犹木之干,强而为阳;支犹木之枝,弱而为阴。昔盘古氏明天地之道,达阴阳之变为三才。首君以天地既分之后,先有天而后有地,由是气化而人生焉,故天皇氏一姓十三人,继盘古氏以治,是曰天灵淡泊,无为而俗自化,始制干支之名,以定岁之所在。
其十干曰:于逢、旃蒙、柔兆、疆圉、著雍、屠维、上章、重光、玄、昭阳;
十二支曰:困敦、赤奋若、摄提格、单于、执徐、大荒落、敦洋、协洽、滩、作噩、阉茂、大渊献。
蔡邕独断曰:"干,干也。其名有十,亦曰十母,即今甲乙丙丁戊己庚辛壬癸是也;支,枝也。其名十有二,亦曰十二子,即今子丑寅卯辰已午未申酉戍亥是也。"谓之天皇氏者,取其天开于子之义也;谓之地皇氏者,取其地辟于丑之义也;谓之人皇氏者,取其人生于寅之义也。
故干支之名在天皇时始制,而地皇氏则定三辰,道分昼夜,以三十日为一月,而干支始各有所配。人皇氏者,主不虚王,臣不虚贵,政教君臣所自起,饮食男女所自始,始得天地之气而有子母之分,于是干支始有所属焉。至于伏羲仰观象于天,俯观法于地,中观万物与人,始画八卦以通神明之德,以类万物之情,以作甲历而文字生焉。逮及黄帝授河图,见日月星辰之象,于是始有星官之书。命大尧探五行之情,占斗纲所建,于是始作甲子配五行纳音之属
.
Luận Chi Can Nguyên Lưu
"Can" giống như thân cây, mạnh khoẻ nên là dương; "chi" giống như cành cây, yếu kém nên là âm. Theo tích xưa,Bàn Cổ hiểu biết đạo trời đất, thông hiểu sự biến đổi của âm dương thành tam tài. Sau khi đã phân chia trời đất, trước có trời sau mới có đất, sau khi khí hoá mới sanh ra sự sống, cho nên vị vua đầu tiên là Hoàng Đế có mười ba người tiếp tục Bàn Cổ mà cai trị, do đó nói rằng tinh thần của trời đạm bạc, không giữ nguyên tập quán mà tự thay đổi, bắt đầu chế ra tên gọi can chi để mà xác định đầu một năm.
Mười can được viết là: "vu phùng", "chiên mông", "nhu triệu", "cương ngữ", "trứ ung", "đồ duy", ""thượng chương", "trọng quang", "huyền", chiêu dương".
Mười hai chi được viết là: "khốn dôn", "xích phấn nhược", "nhiếp phấn nhược", "nhiếp đề cách", "đan vu", "chấp từ", "đại hoang lạc", "đôn dương", "hiệp hiệp", "than", "tác ngạc", "yêm mậu", "đại uyên hiến"..
Thái Ung Độc Đoạn viết: "can cũng là cán. Tên của nó có mười, cũng gọi là mười mẹ, tức là giáp, ất, bính, dinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý của ngày nay; chi cũng là cành nhánh, tên của nó có mười hai, cũng gọi là mười hai con, tức là tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi của ngày nay". Nói là ngài Thiên Hoàng chọn theo nghĩa "trời mở ra ở tý"; nói là ngài Địa Hoàng chọn theo nghĩa đất mở mang ở sửu; nói là ngài Nhân Hoàng chọn theo nghĩa con người sanh ra ở dần.
Vì thế tên gọi can chi bắt đầu đặt ra từ thời Thiên Hoàng, mà ngài địa hoàng thì định ra tam thần: phân chia ngày đêm, lấy ba mươi ngày làm một tháng, và can chi bắt đầu được phối hợp. Ngài nhân hoàng chúa phải là vua thật, thần phải là cao quý thật sự, chính trị và giáo hoá bắt đầu từ vua và bề tôi, khởi đầu ăn uống nam nữ, khởi đầu tiếp nhận khi trời đất mà có phân biệt mẹ và con, vì vậy can chi bắt đầu có chỗ thuộc về. Cho đến thời Phục Hy ngưỡng nhìn bầu trời, cúi xuống nhìn đất, ở giữa thì nhìn vạn vật với con người, bắt đầu vẽ ra bát quái để hiểu rõ đức tính của các vị thần, để phân loại trạng huống vạn vật, để làm lịch mà văn tự được tạo ra. Đến khi Hoàng Đế được trao cho Hà Đồ, xem các hiện tượng mặt trời, mặt trăng và các vì sao bắt đầu có quyển sánh về các vị quan tinh tú. Kêu gọi Đại Nghiêu tìm tòi thêm về tình trạng ngũ hành, xây dưng nên phần chủ yếu của môn bói toán, vì thế bắt đầu tạo ra giáp tý phối hợp với ngũ hành nạp âm.
论支干源流
夫干犹木之干,强而为阳;支犹木之枝,弱而为阴。昔盘古氏明天地之道,达阴阳之变为三才。首君以天地既分之后,先有天而后有地,由是气化而人生焉,故天皇氏一姓十三人,继盘古氏以治,是曰天灵淡泊,无为而俗自化,始制干支之名,以定岁之所在。
其十干曰:于逢、旃蒙、柔兆、疆圉、著雍、屠维、上章、重光、玄、昭阳;
十二支曰:困敦、赤奋若、摄提格、单于、执徐、大荒落、敦洋、协洽、滩、作噩、阉茂、大渊献。
蔡邕独断曰:"干,干也。其名有十,亦曰十母,即今甲乙丙丁戊己庚辛壬癸是也;支,枝也。其名十有二,亦曰十二子,即今子丑寅卯辰已午未申酉戍亥是也。"谓之天皇氏者,取其天开于子之义也;谓之地皇氏者,取其地辟于丑之义也;谓之人皇氏者,取其人生于寅之义也。
故干支之名在天皇时始制,而地皇氏则定三辰,道分昼夜,以三十日为一月,而干支始各有所配。人皇氏者,主不虚王,臣不虚贵,政教君臣所自起,饮食男女所自始,始得天地之气而有子母之分,于是干支始有所属焉。至于伏羲仰观象于天,俯观法于地,中观万物与人,始画八卦以通神明之德,以类万物之情,以作甲历而文字生焉。逮及黄帝授河图,见日月星辰之象,于是始有星官之书。命大尧探五行之情,占斗纲所建,于是始作甲子配五行纳音之属
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#5
Gửi vào 25/06/2024 - 05:52
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Tổng Luận Nạp Âm
Từng xem "Bút Đàm" luận về nạp âm của lục thập giáp tý, gốc của sáu mươi quy tắc, trở lại bản chất của cung là quy tắc vậy. Nạp âm cùng với nạp giáp của "dịch" cùng một quy tắc: quẻ càn nạp giáp, quẻ khôn nạp quý, bắt đầu ở quẻ càn mà kết thúc ở quẻ khôn.
Nạp âm bắt đầu là kim, kim là quẻ càn, kết thúc ở thổ, thổ là quẻ khôn. Trong ngũ hành chỉ có kim loại mới đúc được thành vật hữu dụng, âm thanh thì nổi bật, vì thế nạp âm kim là đầu tiên.
Phương pháp nạp âm: đồng loại cưới vợ, cách tám sanh con, là xương sống của luật tương sanh. Giáp tý là trọng kim, cưới vợ ở cùng vị trí là ất sửu, cách tám sanh ra nhâm thân; là mạnh kim, cưới quý dậu cùng vị trí, cách tám sanh thêm canh thìn; là quý kim, cưới tân tỵ ở cùng vị trí, cách bát sanh con là mậu tý. Trọng hoả là mậu tý, cưới kỷ sửu, sanh bính thân; là mạnh hoả, cưới đinh dậu, sanh giáp thìn; là quý hoả, cưới ất tỵ, sanh nhâm tý. Trọng mộc đi về phía bên trái đến đinh tỵ là cung trọng yếu ở giữa. Như khúc nhạc ngũ âm lại trở về từ giáp ngọ kim ở giữa, cưới ất mùi, cách tám sanh nhâm dần, cũng như quy luật của giáp tý và kết thúc ở quý hợi.
Từ tý đến tỵ là dương, cho nên từ "hoàng chung" cho đến "trọng lữ" đều là "hạ sanh"; còn từ ngọ đến hợi là âm cho nên từ "lâm chung" đến "ứng chung" đều là "thượng sanh". Thượng sanh, hạ sanh là nói theo khí trời thì giáng xuống, khí đất thì thăng lên. Sự kết hợp của các con số là nguồn gốc của sự thay đổi. Càn là trời, khôn là đất, càn khôn kết hợp nên gọi là thái; đức là cha, hồng là mẹ, đức và hồng kết hợp thành phương đông; can là vua, chi là bề tôi, can chi kết hợp nên sanh ra nạp âm. Vì thế giáp ất là vua, tý sửu là bề tôi, tý sửu giáp ất kết hợp thành kim. Ngũ hành bao trùm khắp thiên hạ, mỗi thứ đều có khí chất và tài năng riêng, hoặc là giúp nhau hoặc là khắc nhau, giống như đồ vật còn chưa thành đồ vật, đang vượng gặp tuyệt, đang tuyệt gặp tài năng, chỉ phù hợp nhưng coi như khác nhau. Sở dĩ mấy loại kim này khó giống nhau cũng vì khác biệt giữa hải trung và sa trung.
总论纳音
尝观《笔谈》论六十甲子纳音,本六十律,旋相为宫,法也。纳音与《易》纳甲同法:乾纳甲、坤纳癸,始于乾而终于坤。
纳音始于金,金,乾也,终于土,土,坤也。五行之中,惟有金铸而为器,则音响彰,纳音所以先金。
纳音之法,同类娶妻,隔八生子,律吕相生之法也。甲子,金之仲,同位娶乙丑,隔八下生壬申;金之孟壬申,同位娶癸酉,隔八上生庚辰;金之季庚辰,同位娶辛巳,隔八下生戊子。火之仲戊子,娶乙丑,生丙申;火之孟丙申,娶丁酉,生甲辰;火之季甲辰,娶乙已,生壬子。木之仲如是左行,至于丁已,中吕之宫。五音一终,复自甲午金之仲,娶乙未,隔八生壬寅,一如甲子之法,终于癸亥。
自子至于巳为阳,故自黄钟至于仲吕皆下生;自午至于亥为阴,故自林钟至于应钟皆上生。夫上下生者,正谓天气下降,地气上升。数之所合,变之所由出也。乾为天,坤为地,乾坤合而为泰;德为父,红为母,德红合而为东;干为君,支为臣,干支合而纳音生。是故甲乙为君,子丑为臣,子丑甲乙合而为金。盖五行之在天下,各有气性,有材位,或相济或相克,若成器未成器,旺中受绝,绝中受气,惟相配而取之为不同耳。此金之数之所以难同而又有海中沙中之异。
.
Tổng Luận Nạp Âm
Từng xem "Bút Đàm" luận về nạp âm của lục thập giáp tý, gốc của sáu mươi quy tắc, trở lại bản chất của cung là quy tắc vậy. Nạp âm cùng với nạp giáp của "dịch" cùng một quy tắc: quẻ càn nạp giáp, quẻ khôn nạp quý, bắt đầu ở quẻ càn mà kết thúc ở quẻ khôn.
Nạp âm bắt đầu là kim, kim là quẻ càn, kết thúc ở thổ, thổ là quẻ khôn. Trong ngũ hành chỉ có kim loại mới đúc được thành vật hữu dụng, âm thanh thì nổi bật, vì thế nạp âm kim là đầu tiên.
Phương pháp nạp âm: đồng loại cưới vợ, cách tám sanh con, là xương sống của luật tương sanh. Giáp tý là trọng kim, cưới vợ ở cùng vị trí là ất sửu, cách tám sanh ra nhâm thân; là mạnh kim, cưới quý dậu cùng vị trí, cách tám sanh thêm canh thìn; là quý kim, cưới tân tỵ ở cùng vị trí, cách bát sanh con là mậu tý. Trọng hoả là mậu tý, cưới kỷ sửu, sanh bính thân; là mạnh hoả, cưới đinh dậu, sanh giáp thìn; là quý hoả, cưới ất tỵ, sanh nhâm tý. Trọng mộc đi về phía bên trái đến đinh tỵ là cung trọng yếu ở giữa. Như khúc nhạc ngũ âm lại trở về từ giáp ngọ kim ở giữa, cưới ất mùi, cách tám sanh nhâm dần, cũng như quy luật của giáp tý và kết thúc ở quý hợi.
Từ tý đến tỵ là dương, cho nên từ "hoàng chung" cho đến "trọng lữ" đều là "hạ sanh"; còn từ ngọ đến hợi là âm cho nên từ "lâm chung" đến "ứng chung" đều là "thượng sanh". Thượng sanh, hạ sanh là nói theo khí trời thì giáng xuống, khí đất thì thăng lên. Sự kết hợp của các con số là nguồn gốc của sự thay đổi. Càn là trời, khôn là đất, càn khôn kết hợp nên gọi là thái; đức là cha, hồng là mẹ, đức và hồng kết hợp thành phương đông; can là vua, chi là bề tôi, can chi kết hợp nên sanh ra nạp âm. Vì thế giáp ất là vua, tý sửu là bề tôi, tý sửu giáp ất kết hợp thành kim. Ngũ hành bao trùm khắp thiên hạ, mỗi thứ đều có khí chất và tài năng riêng, hoặc là giúp nhau hoặc là khắc nhau, giống như đồ vật còn chưa thành đồ vật, đang vượng gặp tuyệt, đang tuyệt gặp tài năng, chỉ phù hợp nhưng coi như khác nhau. Sở dĩ mấy loại kim này khó giống nhau cũng vì khác biệt giữa hải trung và sa trung.
总论纳音
尝观《笔谈》论六十甲子纳音,本六十律,旋相为宫,法也。纳音与《易》纳甲同法:乾纳甲、坤纳癸,始于乾而终于坤。
纳音始于金,金,乾也,终于土,土,坤也。五行之中,惟有金铸而为器,则音响彰,纳音所以先金。
纳音之法,同类娶妻,隔八生子,律吕相生之法也。甲子,金之仲,同位娶乙丑,隔八下生壬申;金之孟壬申,同位娶癸酉,隔八上生庚辰;金之季庚辰,同位娶辛巳,隔八下生戊子。火之仲戊子,娶乙丑,生丙申;火之孟丙申,娶丁酉,生甲辰;火之季甲辰,娶乙已,生壬子。木之仲如是左行,至于丁已,中吕之宫。五音一终,复自甲午金之仲,娶乙未,隔八生壬寅,一如甲子之法,终于癸亥。
自子至于巳为阳,故自黄钟至于仲吕皆下生;自午至于亥为阴,故自林钟至于应钟皆上生。夫上下生者,正谓天气下降,地气上升。数之所合,变之所由出也。乾为天,坤为地,乾坤合而为泰;德为父,红为母,德红合而为东;干为君,支为臣,干支合而纳音生。是故甲乙为君,子丑为臣,子丑甲乙合而为金。盖五行之在天下,各有气性,有材位,或相济或相克,若成器未成器,旺中受绝,绝中受气,惟相配而取之为不同耳。此金之数之所以难同而又有海中沙中之异。
.
#6
Gửi vào 25/06/2024 - 06:02
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Luận Nạp Âm Thủ Tượng
Tích xưa, Hoàng Đế đã chia giáp tý thành sáu mươi theo mức độ nặng nhẹ, tên gọi là Hoa Giáp Tý, nó thật là sâu xa, huyền diệu, thánh nhân dùng quan điểm để mà ẩn dụ, chớ nên chấp nê vào ý. Từ tý đến hợi mười hai cung đều có kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ, bắt đầu ở tý là nhất dương, kết thúc ở hợi là lục âm, ngũ hành của nó thuộc kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ, ở trên trời là ngũ tinh, ở dưới đất là ngũ nhạc [1], ở đức hạnh là ngũ thường [2], ở người là ngũ tạng [3], nó ở mệnh là ngũ hành. Cho nên chuyên ý của giáp tý chính là đáp ứng cho số mệnh, mà số mệnh là vấn đề của cả cuộc đời. Cho nên qua hình tượng nạp âm của giáp tý, thánh nhân mô tả cũng giống như sự việc của một đời người. Nói gì đây?
Tý sửu hai vị trí bắt đầu thai nghén âm dương, người ở bào thai, nguồn gốc chứa vạn vật, không có hạn chế; hai vị trí dần mão khí khí âm dương dần dần khai mở, người dần dần lớn lên, vạn vật nứt lớp vỏ bọc, các hoa dần dần mở ra, như người sắp lập thân vậy; hai vị trí thìn tỵ, khí âm dương thịnh vượng, vạn vật đang xinh đẹp tươi tốt, như người tuổi ba mươi, bốn mươi nên có chỗ lập thân, bắt đầu có dấu hiệu có sự tiến bộ; hai vị trí ngọ mùi, khí âm dương biểu lộ, mọi thứ đã thành nề nếp, người đến tuổi năm mươi, sáu mươi, giàu sang hay nghèo hèn có thể biết rõ, nói chung các sư thịnh suy có thể nhận thấy; hai vị trí thân dậu, khí âm dương tiêu điều, vạn vật đã được gặy hái, người đã thu nhỏ lại, mọi người trở nên yên lặng; hai vị trí tuất hợi, khí âm dương bế tắc, vạn vật trở về gốc, người nên nghĩ ngơi, mọi người có nơi quay về.
Hiểu rõ mười hai vị trì trước sau, có thể am hiểu thứ tự của lục thập giáp tý.
Tại sao giáp tý, ất sửu lấy tượng là "hải trung kim"? Bởi khí còn ẩn tàng, có tên mà không có hình, giống như người còn ở trong bụng mẹ;
Nhâm dần, quý mão là kim còn tồn tại ở nơi tuyệt địa, khí vẫn còn mềm yếu mỏng như tơ lụa, cho nên gọi là "kim bạc kim";
Canh thìn, tân tỵ vì kim ở đất của hoả và thổ, khí đã bắt đầu sanh, kim vẫn còn ở quặng mỏ, là nơi nhờ nuôi dưỡng thân hình, nhận được màu sắc không pha tạp của tây phương, chính là gọi "bạch lạp kim";
Giáp ngọ, ất mùi thì khí đã thành, bản chất của vật tự cứng chắc, lẫn lộn trong cát mà khác với cát, sống trong lửa mà rèn luyện trong lửa, nên gọi là "sa trung kim";
Nhâm thân, quý dậu khí thịnh đến tận cùng, đang lúc thu góp công lao, luỡi đao bén nhọn, bổithan6 dậu là vị trì chánh của kim, can nắm giữ nhâm, quý, vàng được tôi luyện bằng nước, cho nên được chọn tượng "kiếm phong" là kim có công dụng cực điểm;
Cho đến tuất hợi kim khí tàng phục, hình thể đã tàn, đuợ rèn đúc làm vật trang sức, nó đã thành hình, được cất giữ trong khuê các, không có công dụng gì, nhưng công dụng của vàng đã hoàn tất, cho nên gọi canh tuất, tân hợi là "thoa xuyến kim".
Tại sao nhâm tý, quý sửu được chọn tượng "tang chá mộc"? Bởi vì khí ở chỗ co rút, hình trạng không duỗi thẳng, ở nơi có nước, hằng tháng con tằm suy tàn, "tang chá" nhận được khí, chọn lúc nó được sanh trưởng vậy;
Canh dần, tân mão thì khí hướng về mặt trời, được vun bồi thế lực mà thành hình dạng, có thể ở dưới kim, nói chung kim cùng vật sắc bén tính chất cương quyết, gỗ ở dưới nó đều được thịnh vượng, héo úa sau mùa lạnh, chọn tính chất kiên cường cho nên gọi là "tùng bách mộc";
Mậu thìn, kỷ tỵ thì khí không thể đong đo, vật đã đúng thời, cành lá cực kỳ tươi tốt, rậm rạp thành rừng, chọn cây tươi tốt cho nên gọi là "đại lâm mộc";
Nhâm ngọ, quý mùi: mộc đến ngọ là tử, đến mùi là mộ, cho nên "dương liễu" giữa hè thì lá khô héo, cành cây thì yếu ớt, chọn bản chất mềm yếu của nó cho nên gọi là "dương liễu mộc";
Canh thân, tân dậu: ngũ hành thuộc kim mà nạp âm thuộc mộc, lý do chọn sự kiềm chế nhau. Bởi gỗ có bản chất nhọc nhằn, chì có "thạch lựu mộc"; thân dậu: khí trở về yên lặng, vật dần dần trở nên rắn chắc, mộc ở đất của kim, vị của nó cay nồng cho nên gọi là "thạch lựu mộc";
Quan sát các loại mộc khác hễ đến ngọ thì tử, chỉ có loại mộc đến ngọ lại vượng, chọn lấy bản chất riêng biệt của nó vậy. Mậu tuất, kỷ hợi: khí trở về tàng phục, âm dương bế tắc, khí của mộc trở về gốc rễ, nằm ở trong đất, cho nên gọi là "bình địa mộc".
Tại sao bính ý, đinh sửu được chọn tượng "giản hạ thuỷ"? Bởi vì khí không thông, phần trên cao chẳng phải là nơi của nước chảy, chỗ thấp mới là chỗ tựu lại của nước, giống như đi trong đất, cho nên viết "giản hạ thuỷ";
Giáp dần, ất mão khí đã xuất ra ánh sáng mặt trời, tình trạng nước nương nhờ nguồn, chảy mênh mông về phía đông, động lượng của nó mạnh mẽ, cho nên gọi là "đại khê thuỷ";
Nhâm thìn, quý tỵ,uy lực ở cực đông nam, khí ở bên cạnh cung ly, lửa sáng uy thế thịnh vượng, nước trở vế khô, đầy hố rồi sau mới chảy đi, nên gọi là "trướng lưu thuỷ";
Bính ngọ, đinh mùi, khí đang thăng giáng, chỗ cao và sáng của lửa, có nước thịnh lớn tạo thành mưa, để có nước cứu lửa, chỉ có trên trời mới có, cho nên gọi là "thiên hà thuỷ";
Giáp thân, ất dậu, khí ngưng yên lặng, mẹ con cùng một chỗ, chảy ra không dứt, múc hoài không hết, cho nên gọi là "tỉnh tuyền thuỷ";
Nhâm tuất, quý hợi là nơi của thiên môn, khí trở về bế tắc, nước khắp nơi mà không theo hướng, sức mạnh trở về vị trí yên ổn, đến không cùng tận, thâu nạp mà không tràn đầy, cho nên gọi là "đại hải thuỷ".
Tại sao mậu tý, kỷ sửu được chọn tượng "phích lịch hoả"? Bởi vì khí dương đầu tiên, hình ở chỗ của thuỷ, lửa trong nước chẳng phải thần long thì không thể, cho nên gọi là "phích lịch hoả";
Bính dần, đinh mão: khí dần bắt đầu toả sáng, nhờ củi mà hiển lộ, âm dương cai trị, trời đất là lò, nên gọi là "lô trung hoả";
Giáp thìn, ất tỵ: nơi thịnh vượng của khí và hình, tiềm năng củ những ngọn núi cao, truyền ánh sáng rồi tối, mẹ và con kế tục nhau, nên gọi là "phúc đăng hoả";
Mậu ngọ, kỷ mùi: khí đã qua khỏi cung dương, gặp nhau với quẻ ly nhiều lần, ánh sáng giao nhau cho thanh uy rực rỡ, ánh lửa bốc lên thêm rực rỡ, nên gọi là "thiên thượng hoả";
Bính thân, đinh dậu: khí đã ngưng, hình thì ẩn tàng, thế lực ẩn tàng, thu nhỏ lại ở vị trí phương tây, lực nhỏ thể mềm yếu, ánh sáng không chiếu xa, cho nên gọi là "sơn hạ hoả";
Giáp tuất, ất hợi: gọi là "sơn đầu hoả", "sơn" chính là nơi ẩn hình, "đầu" chính là lơi chiếu ánh sáng, trong sáng mà ngoài tối, ẩn tàng mà không hiển lộ, phát tán ánh sáng chiếu bầu trời, trở về nơi nghĩ gơi, cho nên gọi là "sơn đầu hoả".
Tại sao canh tý, tân sửu được chọn tượng "bích thượng thổ"? Khí ở chỗ bế tắc, vật còn ẩn giấu, che lấp hình thể, trong ngoài không giao nhau cho nên gọi là "bích thượng thổ";
Mậu dần, kỷ mão: khí có khả năng thành vật, công lao để dưỡng nuôi vật, rễ tăng trưởng, đài hoa mạnh mẽ, cho nên gọi là "thành đầu thổ";
Bính thìn, đinh tỵ: khí dương còn kế tục, sự việc đã qua và tương lai khí hình thành, cho nên gọi là "sa trung thổ";
Canh ngọ, tân mùi: khí đang chịu nhận hình thể, vật biểu hiện bằng con đường, có hình thể có thể là bản chất, có vật có thể biểu hiện, nên gọi là "lộ bàng thổ";
Mậu thân, kỷ dậu: khí đã trở về nghĩ ngơi, vật đang co rút lại, thối lui mà nhàn rỗi, đẹp mà không có sự việc gì, cho nên gọi là "đại dịch thổ";
Bính tuất, đinh hợi: khí đã thành dinh thự, sự việc đều đẹp đẽ, âm dương trải khắp nơi, sức mạnh ở trong đó, nên gọi là "ốc thượng thổ".
Ta thấy rằng "lộ bàng thổ" trồng trọt trăm loại hạt, đất của ngọ mùi, có phải thời gian canh tác lâu dài giữa mùa hè chăng? "Đại dịch thổ" thông suốt cả bốn phương, đất của thân dậu, có phải đó là lý do nó thụ hưởng được lợi ích của bạn bè? "Thành đầu thổ" có công lao đắp đê ngăn phòng lũ lụt, ngũ hoàng nhờ đó mà dựng nước yên dân; "bích thượng thổ" rõ ràng dùng để tô điểm bề ngoài, thứ dân đều có chỗ dựa, là nơi để sống; "sa trung thổ" là đất ẩm ướt nhất, đất ẩm ướt thì cây sẽ mọc, cho nên sẽ có lợi ích sau này; "ốc thượng thổ" là chỗ thành công của đất, thành công thì yên tĩnh, cho nên nó dừng lại ở một chỗ nhất định mà không di chuyển. Bởi sống trong ngũ hành, thực hiện trật tự gánh vác, chủ quyền nuôi dưỡng, ngũ hành của tam tài đều không được thất thoát; ở nơi cao thấp là địa vị, qua bốn mùa nên có công; kim được sắc bén uy nghiêm, hoả được ánh sáng rực rỡ, mộc được hoa của cây cỏ rực rỡ, thuỷ gặp khi sóng quá mức mà không trôi nỗi, thổ gặp khi thu hoạch dồi dào. Tích trữ mà không tán thì có thể như núi, núi tức là cao quý; rời rạc mà không tích trữ thì khả năng là đất, đất là cánh đồng. Việc sử dụng là vô tận, đời sống thì không hạn chế, công dụng của đất rất là lớn vậy!
Hình tượng ngũ hành đều được dùng phép đối đãi để phân ra âm dương, tức là trước sau biến hoá rõ ràng. Như giáp tý, ất sửu đối với giáp ngọ, ất mùi, hải trung kim đối với sa trung kim, phân biệt thuỷ thổ, phân chia âm dương; nhâm dần, quý mão đối với nhâm thân, quý dậu, kim bạc kim đối với kiếm phong kim, là phân biệt kim với mộc, khác biệt giữa cứng và mềm; canh thìn, tân tỵ đối với canh tuất, tân hợi, bạch lạp kim đối với thoa xuyến kim, phương càn và tốn khác nhau, hình thể màu sắc khác nhau; nhâm tý, quý sửu đối với nhâm ngọ, quý mùi, tang chá mộc đối với dương liễu mộc, một thì cong một thì mềm mại, hình thể và tính chất thường khác nhau; canh dần, tân mão đối với canh thân, tân dậu, tùng bách mộc đối với thạch lựu mộc, một thì cứng cỏi một thì vị cay, tính chất mùi vị khác hẳn; mậu thìn, kỷ tỵ đối với mậu tuất, kỷ hợi, đại lâm mộc đối với bình địa mộc, một thì tươi tốt một thì suy tàn, phương tốn với phương càn khác biệt; mậu tý, kỷ sửu đối với mậu ngọ, kỷ mùi, phích lịch hoả đối với thiên thượng hoả, sấm sét với vung roi, nhật nguyệt cùng chiếu; bính dần, đinh mão đối với bính thân, đinh dậu, lô trung hoả đối với sơn hạ hoả, hoả thịnh đốt mộc, kim vượng nên hoả diệt; giáp thìn, ất tỵ đối với giáp tuất, ất hợi, phúc đăng hoả đối với sơn đầu hoả, chứa ánh sáng sợ gió, chiếu sáng ngừng lại; canh tý, tân sửu đối với canh ngọ, tân mùi, bích thượng thổ đối với lộ bàng thổ, hình thể phân chia tụ tán, phân biệt sanh tử; mậu dần, kỷ mão đối với mậu thân, kỷ dậu, thành đầu thổ đối với đại dịch thổ, đông bắc với tây nam, vị trí của khôn và cấn; bính thìn, đinh tỵ đối với bính tuất, đinh hợi, sa trung thổ đối với ốc thượng thổ, khô ráo và ẩm ướt cần nhau, luôn luôn thay đổi. Nhìn chung không ngoài vượng, tướng, tử, hưu; bởi gần mà chọn xa, chẳng tránh khỏi kim mộc thuỷ hoả thổ. Dùng can chi mà an bài ngũ hành, luận bàn âm dương vô cùng rõ ràng không thay đổi. Bao gồm cả tự nhiên và sức người, sanh vượng tử tuyệt đều có quy tắc, tuyệt diệu thay! Thánh nhân chẳn qua mượn hình tượng sáu mươi giáp tý để mà hiểu đạo lý của nó, khí chất, vật chất, hình dáng, công dụng của ngũ hành đều cạn kiệt mà tạo hoá không còn tích chứa.
论纳音取象
昔者,黄帝将甲子分轻重而配成六十,号曰花甲子,其花字诚为奥妙,圣人借意而喻之,不可著意执泥。夫自子至亥十二宫,各有金、木、水、火、土之属,始起于子为一阳,终于亥为六阴,其五行所属金、木、水、火、土,在天为五星,于地为五岳,于德为五常,于人为五脏,其于命也为五行。是故甲子之属乃应之于命,命则一世之事。故甲子纳音象,圣人喻之,亦如人一世之事也。何言乎?
子丑二位,阴阳始孕,人在胞胎,物藏根,未有涯际;寅卯二位,阴阳渐开,人渐生长,物以拆甲,群葩渐剖,如人将有立身也;辰巳二位,阴阳气盛,物当华秀,如人三十、四十而有立身之地,始有进取之象;午未二位,阴阳彰露,物已成齐,人至五十、六十,富贵贫贱可知,凡百兴衰可见;申酉二位,阴阳肃杀,物已收成,人已龟缩,各得其静矣;戌亥二位,阴阳闭塞,物气归根,人当休息,各有归着。
详此十有二位先后,六十甲子可以次第而晓。
甲子乙丑何以取象为海中之金?盖气在包藏,有名无形,犹人之在母腹也;
壬寅癸卯绝地存金,气尚柔弱,薄若缯缟,故曰金泊金;
庚辰辛巳以金居火土之地,气已发生,金尚在矿,寄形生养之乡,受西方之正色,乃曰白蜡金;
甲午乙未则气已成,物质自坚实,混于沙而别于沙,居于火而炼于火,乃曰沙中金也;
壬申癸酉气盛物极,当施收敛之功,颖脱锋锐之刃。盖申酉金之正位,干值壬癸,金水淬砺,故取象剑锋而金之功用极矣;
至戌亥则金气藏伏,形体已残,锻炼首饰,已成其状,藏之闺阁,无所施为,而金之功用毕,故曰庚戌辛亥钗钏金。
壬子癸丑何以取象桑柘木?盖气居盘屈,形状未伸,居于水地,蚕衰之月,桑柘受气,取其时之生也;
庚寅辛卯则气已乘阳,得栽培之势力其为状也,奈居金下,凡金与霜素坚,木居下得其旺,岁寒后凋,取其性之坚也,故曰松柏木;
戊辰己巳则气不成量,物已及时,枝叶茂盛,郁然成林,取其木之盛也,故曰大林木;
壬午癸未,木至午而死,至未而墓,故杨柳盛夏叶凋,枝干微弱,取其性之柔也,故曰杨柳木;
庚申辛酉,五行属金而纳音属木,以相克取之。盖木性辛者,唯石榴木;申酉气归静肃,物渐成实,木居金地,其味成辛,故曰石榴木;
观他木至午而死,惟此木至午而旺,取其性之偏也。戊戌己亥,气归藏伏,阴阳闭塞,木气归根,伏乎土中,故曰平地木也。
丙子丁丑何以取象涧下水?盖气未通济,高段非水流之所,卑湿乃水就之乡,由地中行,故曰涧下水;
甲寅乙卯,气出阳明,水势恃源,东流滔注,其势浸大,故曰大溪水;
壬辰癸巳,势极东南,气傍离宫,火明势盛,水得归库,盈科后进,乃曰长流水也;
丙午丁未,气当升降,在高明火位,有水沛然作霖,以济火中之水,惟天上乃有,故曰天河水;
甲申乙酉,气息安静,子母同位,出而不穷,汲而不竭,乃曰井泉水;
壬戌癸亥,天门之地,气归闭塞,水历遍而不趋,势归乎宁谧之位,来之不穷,纳之不溢,乃曰大海水也。
戊子己丑何以取象霹雳火?盖气在一阳,形居水位,水中之火,非神龙则无,故曰霹雳火;
丙寅丁卯,气渐发辉,因薪而显,阴阳为治,天地为炉,乃曰炉中火也;
甲辰乙巳,气形盛地,势定高冈,传明继晦,子母相承,乃曰覆灯火也;
戊午己未,气过阳宫,重离相会,炳灵交光,发辉炎上,乃曰天上火也;
丙申丁酉,气息形藏,势力韬光,龟缩兑位,力微体弱,明不及远,乃曰山下火也;
甲戌乙亥谓之山头火者,山乃藏形,头乃投光,内明外暗,隐而不显,飞光投乾,归于休息之中,故曰山头火也。
庚子辛丑何以取象壁上土?气居闭塞,物尚包藏,掩形遮体,内外不交,故曰壁上土;
戊寅己卯,气能成物,功以育物,发乎根,壮乎萼蕊,乃曰城头土也;
丙辰丁巳,气以承阳,发生已过,成齐未来,乃曰沙中土也;
庚午辛未,气当承形,物以路彰,有形可质,有物可彰,乃曰路傍土也;
戊申己酉,气以归息,物当收敛,龟缩退闲,美而无事,乃曰大驿土也;
丙戌丁亥,气成物府,事以美圆,阴阳历遍,势得其间,乃曰屋上土也。
余见路旁之土播殖百谷,午未之地,其盛夏长养之时乎?大驿之土通达四方,申酉之地,其得朋利亨之理乎?城头之土取堤防之功,五公恃之,立国而卫民也;壁上之土明粉饰之用,臣庶资之,爰居而爰处也;沙中之土,土之最润者也,土润则生,故成齐未来而有用;屋上之土,土之成功者也,成功者静,故止于一定而不迁。盖居五行之中,行负载之令,主养育之权,三才五行皆不可失;处高下而得位,居四季而有功;金得之锋锐雄刚,火得之光明照耀,木得之英华越秀,水得之滥波不泛,土得之稼穑愈丰。聚之不散,必能为山,山者,高也;散之不聚,必能为地,地者,原也。用之无穷,生之罔极,土之功用大矣哉!
五行取象,皆以对待而分阴阳,即始终而明变化。如甲子乙丑对甲午乙未,海中沙中,水土之辨,阴阳之分也;壬寅癸卯对壬申癸酉,金泊剑锋,金木之辨,刚柔之别也;庚辰辛已对庚戌辛亥,白蜡钗钏,乾巽异方,形色各尽也;壬子癸丑对壬午癸未,桑柘杨柳,一曲一柔,形质多别也;庚寅辛卯对庚申辛酉,松柏石榴,一坚一辛,性味迥异也;戊辰己巳对戊戌己亥,大林平地,一盛一衰,巽乾殊方也;戊子己丑对戊午己未,霹雳天上,雷霆挥鞭,日月同照也;丙寅丁卯对丙申丁酉,炉中山下,火盛木焚,金旺火灭也;甲辰乙巳对甲戌乙亥,覆灯山头,含光畏风,投光止艮也;庚子辛丑对庚午辛未,壁上路旁,形分聚散,类别死生也;戊寅己卯对戊申己酉,城头大驿,东南西北,坤艮正位也;丙辰丁巳对丙戌丁亥,沙中屋上,干湿互用,变化始终也。圆看方看,不外旺相死休;因近取远,莫逃金木水火土。以干支而分配五行,论阴阳而大明终始。天成人力相兼,生旺死绝并类。呜呼!六十甲子圣人不过借其象以明其理,而五行性情、材质、形色、功用无不曲尽而造化无余蕴矣。
.
Luận Nạp Âm Thủ Tượng
Tích xưa, Hoàng Đế đã chia giáp tý thành sáu mươi theo mức độ nặng nhẹ, tên gọi là Hoa Giáp Tý, nó thật là sâu xa, huyền diệu, thánh nhân dùng quan điểm để mà ẩn dụ, chớ nên chấp nê vào ý. Từ tý đến hợi mười hai cung đều có kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ, bắt đầu ở tý là nhất dương, kết thúc ở hợi là lục âm, ngũ hành của nó thuộc kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ, ở trên trời là ngũ tinh, ở dưới đất là ngũ nhạc [1], ở đức hạnh là ngũ thường [2], ở người là ngũ tạng [3], nó ở mệnh là ngũ hành. Cho nên chuyên ý của giáp tý chính là đáp ứng cho số mệnh, mà số mệnh là vấn đề của cả cuộc đời. Cho nên qua hình tượng nạp âm của giáp tý, thánh nhân mô tả cũng giống như sự việc của một đời người. Nói gì đây?
Tý sửu hai vị trí bắt đầu thai nghén âm dương, người ở bào thai, nguồn gốc chứa vạn vật, không có hạn chế; hai vị trí dần mão khí khí âm dương dần dần khai mở, người dần dần lớn lên, vạn vật nứt lớp vỏ bọc, các hoa dần dần mở ra, như người sắp lập thân vậy; hai vị trí thìn tỵ, khí âm dương thịnh vượng, vạn vật đang xinh đẹp tươi tốt, như người tuổi ba mươi, bốn mươi nên có chỗ lập thân, bắt đầu có dấu hiệu có sự tiến bộ; hai vị trí ngọ mùi, khí âm dương biểu lộ, mọi thứ đã thành nề nếp, người đến tuổi năm mươi, sáu mươi, giàu sang hay nghèo hèn có thể biết rõ, nói chung các sư thịnh suy có thể nhận thấy; hai vị trí thân dậu, khí âm dương tiêu điều, vạn vật đã được gặy hái, người đã thu nhỏ lại, mọi người trở nên yên lặng; hai vị trí tuất hợi, khí âm dương bế tắc, vạn vật trở về gốc, người nên nghĩ ngơi, mọi người có nơi quay về.
Hiểu rõ mười hai vị trì trước sau, có thể am hiểu thứ tự của lục thập giáp tý.
Tại sao giáp tý, ất sửu lấy tượng là "hải trung kim"? Bởi khí còn ẩn tàng, có tên mà không có hình, giống như người còn ở trong bụng mẹ;
Nhâm dần, quý mão là kim còn tồn tại ở nơi tuyệt địa, khí vẫn còn mềm yếu mỏng như tơ lụa, cho nên gọi là "kim bạc kim";
Canh thìn, tân tỵ vì kim ở đất của hoả và thổ, khí đã bắt đầu sanh, kim vẫn còn ở quặng mỏ, là nơi nhờ nuôi dưỡng thân hình, nhận được màu sắc không pha tạp của tây phương, chính là gọi "bạch lạp kim";
Giáp ngọ, ất mùi thì khí đã thành, bản chất của vật tự cứng chắc, lẫn lộn trong cát mà khác với cát, sống trong lửa mà rèn luyện trong lửa, nên gọi là "sa trung kim";
Nhâm thân, quý dậu khí thịnh đến tận cùng, đang lúc thu góp công lao, luỡi đao bén nhọn, bổithan6 dậu là vị trì chánh của kim, can nắm giữ nhâm, quý, vàng được tôi luyện bằng nước, cho nên được chọn tượng "kiếm phong" là kim có công dụng cực điểm;
Cho đến tuất hợi kim khí tàng phục, hình thể đã tàn, đuợ rèn đúc làm vật trang sức, nó đã thành hình, được cất giữ trong khuê các, không có công dụng gì, nhưng công dụng của vàng đã hoàn tất, cho nên gọi canh tuất, tân hợi là "thoa xuyến kim".
Tại sao nhâm tý, quý sửu được chọn tượng "tang chá mộc"? Bởi vì khí ở chỗ co rút, hình trạng không duỗi thẳng, ở nơi có nước, hằng tháng con tằm suy tàn, "tang chá" nhận được khí, chọn lúc nó được sanh trưởng vậy;
Canh dần, tân mão thì khí hướng về mặt trời, được vun bồi thế lực mà thành hình dạng, có thể ở dưới kim, nói chung kim cùng vật sắc bén tính chất cương quyết, gỗ ở dưới nó đều được thịnh vượng, héo úa sau mùa lạnh, chọn tính chất kiên cường cho nên gọi là "tùng bách mộc";
Mậu thìn, kỷ tỵ thì khí không thể đong đo, vật đã đúng thời, cành lá cực kỳ tươi tốt, rậm rạp thành rừng, chọn cây tươi tốt cho nên gọi là "đại lâm mộc";
Nhâm ngọ, quý mùi: mộc đến ngọ là tử, đến mùi là mộ, cho nên "dương liễu" giữa hè thì lá khô héo, cành cây thì yếu ớt, chọn bản chất mềm yếu của nó cho nên gọi là "dương liễu mộc";
Canh thân, tân dậu: ngũ hành thuộc kim mà nạp âm thuộc mộc, lý do chọn sự kiềm chế nhau. Bởi gỗ có bản chất nhọc nhằn, chì có "thạch lựu mộc"; thân dậu: khí trở về yên lặng, vật dần dần trở nên rắn chắc, mộc ở đất của kim, vị của nó cay nồng cho nên gọi là "thạch lựu mộc";
Quan sát các loại mộc khác hễ đến ngọ thì tử, chỉ có loại mộc đến ngọ lại vượng, chọn lấy bản chất riêng biệt của nó vậy. Mậu tuất, kỷ hợi: khí trở về tàng phục, âm dương bế tắc, khí của mộc trở về gốc rễ, nằm ở trong đất, cho nên gọi là "bình địa mộc".
Tại sao bính ý, đinh sửu được chọn tượng "giản hạ thuỷ"? Bởi vì khí không thông, phần trên cao chẳng phải là nơi của nước chảy, chỗ thấp mới là chỗ tựu lại của nước, giống như đi trong đất, cho nên viết "giản hạ thuỷ";
Giáp dần, ất mão khí đã xuất ra ánh sáng mặt trời, tình trạng nước nương nhờ nguồn, chảy mênh mông về phía đông, động lượng của nó mạnh mẽ, cho nên gọi là "đại khê thuỷ";
Nhâm thìn, quý tỵ,uy lực ở cực đông nam, khí ở bên cạnh cung ly, lửa sáng uy thế thịnh vượng, nước trở vế khô, đầy hố rồi sau mới chảy đi, nên gọi là "trướng lưu thuỷ";
Bính ngọ, đinh mùi, khí đang thăng giáng, chỗ cao và sáng của lửa, có nước thịnh lớn tạo thành mưa, để có nước cứu lửa, chỉ có trên trời mới có, cho nên gọi là "thiên hà thuỷ";
Giáp thân, ất dậu, khí ngưng yên lặng, mẹ con cùng một chỗ, chảy ra không dứt, múc hoài không hết, cho nên gọi là "tỉnh tuyền thuỷ";
Nhâm tuất, quý hợi là nơi của thiên môn, khí trở về bế tắc, nước khắp nơi mà không theo hướng, sức mạnh trở về vị trí yên ổn, đến không cùng tận, thâu nạp mà không tràn đầy, cho nên gọi là "đại hải thuỷ".
Tại sao mậu tý, kỷ sửu được chọn tượng "phích lịch hoả"? Bởi vì khí dương đầu tiên, hình ở chỗ của thuỷ, lửa trong nước chẳng phải thần long thì không thể, cho nên gọi là "phích lịch hoả";
Bính dần, đinh mão: khí dần bắt đầu toả sáng, nhờ củi mà hiển lộ, âm dương cai trị, trời đất là lò, nên gọi là "lô trung hoả";
Giáp thìn, ất tỵ: nơi thịnh vượng của khí và hình, tiềm năng củ những ngọn núi cao, truyền ánh sáng rồi tối, mẹ và con kế tục nhau, nên gọi là "phúc đăng hoả";
Mậu ngọ, kỷ mùi: khí đã qua khỏi cung dương, gặp nhau với quẻ ly nhiều lần, ánh sáng giao nhau cho thanh uy rực rỡ, ánh lửa bốc lên thêm rực rỡ, nên gọi là "thiên thượng hoả";
Bính thân, đinh dậu: khí đã ngưng, hình thì ẩn tàng, thế lực ẩn tàng, thu nhỏ lại ở vị trí phương tây, lực nhỏ thể mềm yếu, ánh sáng không chiếu xa, cho nên gọi là "sơn hạ hoả";
Giáp tuất, ất hợi: gọi là "sơn đầu hoả", "sơn" chính là nơi ẩn hình, "đầu" chính là lơi chiếu ánh sáng, trong sáng mà ngoài tối, ẩn tàng mà không hiển lộ, phát tán ánh sáng chiếu bầu trời, trở về nơi nghĩ gơi, cho nên gọi là "sơn đầu hoả".
Tại sao canh tý, tân sửu được chọn tượng "bích thượng thổ"? Khí ở chỗ bế tắc, vật còn ẩn giấu, che lấp hình thể, trong ngoài không giao nhau cho nên gọi là "bích thượng thổ";
Mậu dần, kỷ mão: khí có khả năng thành vật, công lao để dưỡng nuôi vật, rễ tăng trưởng, đài hoa mạnh mẽ, cho nên gọi là "thành đầu thổ";
Bính thìn, đinh tỵ: khí dương còn kế tục, sự việc đã qua và tương lai khí hình thành, cho nên gọi là "sa trung thổ";
Canh ngọ, tân mùi: khí đang chịu nhận hình thể, vật biểu hiện bằng con đường, có hình thể có thể là bản chất, có vật có thể biểu hiện, nên gọi là "lộ bàng thổ";
Mậu thân, kỷ dậu: khí đã trở về nghĩ ngơi, vật đang co rút lại, thối lui mà nhàn rỗi, đẹp mà không có sự việc gì, cho nên gọi là "đại dịch thổ";
Bính tuất, đinh hợi: khí đã thành dinh thự, sự việc đều đẹp đẽ, âm dương trải khắp nơi, sức mạnh ở trong đó, nên gọi là "ốc thượng thổ".
Ta thấy rằng "lộ bàng thổ" trồng trọt trăm loại hạt, đất của ngọ mùi, có phải thời gian canh tác lâu dài giữa mùa hè chăng? "Đại dịch thổ" thông suốt cả bốn phương, đất của thân dậu, có phải đó là lý do nó thụ hưởng được lợi ích của bạn bè? "Thành đầu thổ" có công lao đắp đê ngăn phòng lũ lụt, ngũ hoàng nhờ đó mà dựng nước yên dân; "bích thượng thổ" rõ ràng dùng để tô điểm bề ngoài, thứ dân đều có chỗ dựa, là nơi để sống; "sa trung thổ" là đất ẩm ướt nhất, đất ẩm ướt thì cây sẽ mọc, cho nên sẽ có lợi ích sau này; "ốc thượng thổ" là chỗ thành công của đất, thành công thì yên tĩnh, cho nên nó dừng lại ở một chỗ nhất định mà không di chuyển. Bởi sống trong ngũ hành, thực hiện trật tự gánh vác, chủ quyền nuôi dưỡng, ngũ hành của tam tài đều không được thất thoát; ở nơi cao thấp là địa vị, qua bốn mùa nên có công; kim được sắc bén uy nghiêm, hoả được ánh sáng rực rỡ, mộc được hoa của cây cỏ rực rỡ, thuỷ gặp khi sóng quá mức mà không trôi nỗi, thổ gặp khi thu hoạch dồi dào. Tích trữ mà không tán thì có thể như núi, núi tức là cao quý; rời rạc mà không tích trữ thì khả năng là đất, đất là cánh đồng. Việc sử dụng là vô tận, đời sống thì không hạn chế, công dụng của đất rất là lớn vậy!
Hình tượng ngũ hành đều được dùng phép đối đãi để phân ra âm dương, tức là trước sau biến hoá rõ ràng. Như giáp tý, ất sửu đối với giáp ngọ, ất mùi, hải trung kim đối với sa trung kim, phân biệt thuỷ thổ, phân chia âm dương; nhâm dần, quý mão đối với nhâm thân, quý dậu, kim bạc kim đối với kiếm phong kim, là phân biệt kim với mộc, khác biệt giữa cứng và mềm; canh thìn, tân tỵ đối với canh tuất, tân hợi, bạch lạp kim đối với thoa xuyến kim, phương càn và tốn khác nhau, hình thể màu sắc khác nhau; nhâm tý, quý sửu đối với nhâm ngọ, quý mùi, tang chá mộc đối với dương liễu mộc, một thì cong một thì mềm mại, hình thể và tính chất thường khác nhau; canh dần, tân mão đối với canh thân, tân dậu, tùng bách mộc đối với thạch lựu mộc, một thì cứng cỏi một thì vị cay, tính chất mùi vị khác hẳn; mậu thìn, kỷ tỵ đối với mậu tuất, kỷ hợi, đại lâm mộc đối với bình địa mộc, một thì tươi tốt một thì suy tàn, phương tốn với phương càn khác biệt; mậu tý, kỷ sửu đối với mậu ngọ, kỷ mùi, phích lịch hoả đối với thiên thượng hoả, sấm sét với vung roi, nhật nguyệt cùng chiếu; bính dần, đinh mão đối với bính thân, đinh dậu, lô trung hoả đối với sơn hạ hoả, hoả thịnh đốt mộc, kim vượng nên hoả diệt; giáp thìn, ất tỵ đối với giáp tuất, ất hợi, phúc đăng hoả đối với sơn đầu hoả, chứa ánh sáng sợ gió, chiếu sáng ngừng lại; canh tý, tân sửu đối với canh ngọ, tân mùi, bích thượng thổ đối với lộ bàng thổ, hình thể phân chia tụ tán, phân biệt sanh tử; mậu dần, kỷ mão đối với mậu thân, kỷ dậu, thành đầu thổ đối với đại dịch thổ, đông bắc với tây nam, vị trí của khôn và cấn; bính thìn, đinh tỵ đối với bính tuất, đinh hợi, sa trung thổ đối với ốc thượng thổ, khô ráo và ẩm ướt cần nhau, luôn luôn thay đổi. Nhìn chung không ngoài vượng, tướng, tử, hưu; bởi gần mà chọn xa, chẳng tránh khỏi kim mộc thuỷ hoả thổ. Dùng can chi mà an bài ngũ hành, luận bàn âm dương vô cùng rõ ràng không thay đổi. Bao gồm cả tự nhiên và sức người, sanh vượng tử tuyệt đều có quy tắc, tuyệt diệu thay! Thánh nhân chẳn qua mượn hình tượng sáu mươi giáp tý để mà hiểu đạo lý của nó, khí chất, vật chất, hình dáng, công dụng của ngũ hành đều cạn kiệt mà tạo hoá không còn tích chứa.
论纳音取象
昔者,黄帝将甲子分轻重而配成六十,号曰花甲子,其花字诚为奥妙,圣人借意而喻之,不可著意执泥。夫自子至亥十二宫,各有金、木、水、火、土之属,始起于子为一阳,终于亥为六阴,其五行所属金、木、水、火、土,在天为五星,于地为五岳,于德为五常,于人为五脏,其于命也为五行。是故甲子之属乃应之于命,命则一世之事。故甲子纳音象,圣人喻之,亦如人一世之事也。何言乎?
子丑二位,阴阳始孕,人在胞胎,物藏根,未有涯际;寅卯二位,阴阳渐开,人渐生长,物以拆甲,群葩渐剖,如人将有立身也;辰巳二位,阴阳气盛,物当华秀,如人三十、四十而有立身之地,始有进取之象;午未二位,阴阳彰露,物已成齐,人至五十、六十,富贵贫贱可知,凡百兴衰可见;申酉二位,阴阳肃杀,物已收成,人已龟缩,各得其静矣;戌亥二位,阴阳闭塞,物气归根,人当休息,各有归着。
详此十有二位先后,六十甲子可以次第而晓。
甲子乙丑何以取象为海中之金?盖气在包藏,有名无形,犹人之在母腹也;
壬寅癸卯绝地存金,气尚柔弱,薄若缯缟,故曰金泊金;
庚辰辛巳以金居火土之地,气已发生,金尚在矿,寄形生养之乡,受西方之正色,乃曰白蜡金;
甲午乙未则气已成,物质自坚实,混于沙而别于沙,居于火而炼于火,乃曰沙中金也;
壬申癸酉气盛物极,当施收敛之功,颖脱锋锐之刃。盖申酉金之正位,干值壬癸,金水淬砺,故取象剑锋而金之功用极矣;
至戌亥则金气藏伏,形体已残,锻炼首饰,已成其状,藏之闺阁,无所施为,而金之功用毕,故曰庚戌辛亥钗钏金。
壬子癸丑何以取象桑柘木?盖气居盘屈,形状未伸,居于水地,蚕衰之月,桑柘受气,取其时之生也;
庚寅辛卯则气已乘阳,得栽培之势力其为状也,奈居金下,凡金与霜素坚,木居下得其旺,岁寒后凋,取其性之坚也,故曰松柏木;
戊辰己巳则气不成量,物已及时,枝叶茂盛,郁然成林,取其木之盛也,故曰大林木;
壬午癸未,木至午而死,至未而墓,故杨柳盛夏叶凋,枝干微弱,取其性之柔也,故曰杨柳木;
庚申辛酉,五行属金而纳音属木,以相克取之。盖木性辛者,唯石榴木;申酉气归静肃,物渐成实,木居金地,其味成辛,故曰石榴木;
观他木至午而死,惟此木至午而旺,取其性之偏也。戊戌己亥,气归藏伏,阴阳闭塞,木气归根,伏乎土中,故曰平地木也。
丙子丁丑何以取象涧下水?盖气未通济,高段非水流之所,卑湿乃水就之乡,由地中行,故曰涧下水;
甲寅乙卯,气出阳明,水势恃源,东流滔注,其势浸大,故曰大溪水;
壬辰癸巳,势极东南,气傍离宫,火明势盛,水得归库,盈科后进,乃曰长流水也;
丙午丁未,气当升降,在高明火位,有水沛然作霖,以济火中之水,惟天上乃有,故曰天河水;
甲申乙酉,气息安静,子母同位,出而不穷,汲而不竭,乃曰井泉水;
壬戌癸亥,天门之地,气归闭塞,水历遍而不趋,势归乎宁谧之位,来之不穷,纳之不溢,乃曰大海水也。
戊子己丑何以取象霹雳火?盖气在一阳,形居水位,水中之火,非神龙则无,故曰霹雳火;
丙寅丁卯,气渐发辉,因薪而显,阴阳为治,天地为炉,乃曰炉中火也;
甲辰乙巳,气形盛地,势定高冈,传明继晦,子母相承,乃曰覆灯火也;
戊午己未,气过阳宫,重离相会,炳灵交光,发辉炎上,乃曰天上火也;
丙申丁酉,气息形藏,势力韬光,龟缩兑位,力微体弱,明不及远,乃曰山下火也;
甲戌乙亥谓之山头火者,山乃藏形,头乃投光,内明外暗,隐而不显,飞光投乾,归于休息之中,故曰山头火也。
庚子辛丑何以取象壁上土?气居闭塞,物尚包藏,掩形遮体,内外不交,故曰壁上土;
戊寅己卯,气能成物,功以育物,发乎根,壮乎萼蕊,乃曰城头土也;
丙辰丁巳,气以承阳,发生已过,成齐未来,乃曰沙中土也;
庚午辛未,气当承形,物以路彰,有形可质,有物可彰,乃曰路傍土也;
戊申己酉,气以归息,物当收敛,龟缩退闲,美而无事,乃曰大驿土也;
丙戌丁亥,气成物府,事以美圆,阴阳历遍,势得其间,乃曰屋上土也。
余见路旁之土播殖百谷,午未之地,其盛夏长养之时乎?大驿之土通达四方,申酉之地,其得朋利亨之理乎?城头之土取堤防之功,五公恃之,立国而卫民也;壁上之土明粉饰之用,臣庶资之,爰居而爰处也;沙中之土,土之最润者也,土润则生,故成齐未来而有用;屋上之土,土之成功者也,成功者静,故止于一定而不迁。盖居五行之中,行负载之令,主养育之权,三才五行皆不可失;处高下而得位,居四季而有功;金得之锋锐雄刚,火得之光明照耀,木得之英华越秀,水得之滥波不泛,土得之稼穑愈丰。聚之不散,必能为山,山者,高也;散之不聚,必能为地,地者,原也。用之无穷,生之罔极,土之功用大矣哉!
五行取象,皆以对待而分阴阳,即始终而明变化。如甲子乙丑对甲午乙未,海中沙中,水土之辨,阴阳之分也;壬寅癸卯对壬申癸酉,金泊剑锋,金木之辨,刚柔之别也;庚辰辛已对庚戌辛亥,白蜡钗钏,乾巽异方,形色各尽也;壬子癸丑对壬午癸未,桑柘杨柳,一曲一柔,形质多别也;庚寅辛卯对庚申辛酉,松柏石榴,一坚一辛,性味迥异也;戊辰己巳对戊戌己亥,大林平地,一盛一衰,巽乾殊方也;戊子己丑对戊午己未,霹雳天上,雷霆挥鞭,日月同照也;丙寅丁卯对丙申丁酉,炉中山下,火盛木焚,金旺火灭也;甲辰乙巳对甲戌乙亥,覆灯山头,含光畏风,投光止艮也;庚子辛丑对庚午辛未,壁上路旁,形分聚散,类别死生也;戊寅己卯对戊申己酉,城头大驿,东南西北,坤艮正位也;丙辰丁巳对丙戌丁亥,沙中屋上,干湿互用,变化始终也。圆看方看,不外旺相死休;因近取远,莫逃金木水火土。以干支而分配五行,论阴阳而大明终始。天成人力相兼,生旺死绝并类。呜呼!六十甲子圣人不过借其象以明其理,而五行性情、材质、形色、功用无不曲尽而造化无余蕴矣。
.
Thanked by 2 Members:
|
|
#7
Gửi vào 25/06/2024 - 09:16
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý
1- Giáp tý: nạp âm kim là vật trân quý, thích kim mộc vượng địa. "Tiến thần hỷ", "phúc tinh", "bình dầu", "huyền châm", "phá tự".
2- Ất sửu nạp âm kim là quặng cứng, thích hoả cùng với phương nam và ngày giờ. "Phúc tinh", "hoa cái", "chánh ấn".
3- Bính dần nạp âm hoả là lò than. Thích mùa đông cùng với mộc. "Phúc tinh", "lộc hình", "bình đầu", "lung ách".
4- Đinh mão nạp âm kim là khói lò, thích đông nam cùng với mùa thu và đông. "Bình dầu", "tiệt lộ", "huyền châm".
5- Mậu thìn nạp âm mộc là loại gỗ không xứng đáng ở vùng nùi và cánh đồng, thích thuỷ. "Lộc khố", "hoa cái", "thuỷ lộc mã khố", "bỗng trượng", "phục thần", "bình đầu".
6- Kỷ tỵ nạp âm mộc là hoa cỏ trên đỉnh đồi, thích mùa xuân cùng với mùa thu. "Lộc khố", "bát cát", "khuyết tự", "khúc cước".
7- Canh ngọ nạp âm thổ là đất khô bên đường, thích thuỷ và mùa xuân. "phúc tinh", "quan quý", "tiệt lộ", "bỗng trượng", "huyền châm",
8- Tân mùi nạp âm thổ chứa các loại vật trân quý, chờ mùa thu, thích mùa thu cùng với hoả. "Hoa cái", "huyền châm", "phá tự".
9- Nhâm thân nạp âm kim là cái mác, cái kích, rất thích tý, ngọ, mão, dậu. "Bình đầu", "đại bại", "phương hại", "lung ách", "phá tự", "huyền châm".
10- Quý dậu nạp âm kim là cái vồ, cái đục bằng kim loại, thích mộc cùng với dần mão. "Phục thần", "phá tự", "lung ách".
11- Giáp tuất nạp âm hoả, là nơi ngừng nghỉ của hoả, thích mùa xuân cùng mùa hè. "Chánh ấn", "hoa cái", "bình đầu", "huyền trâm", "phá tự", "bỗng trượng".
12- Ất hợi nạp âm hoả, là hơi nóng của lửa, thích thổ cùng với mùa hè. "Thiên đức", "khúc cước".
13- Bính tý nạp âm thuỷ, là sông hồ, thích mộc với thổ. "Phúc tinh", "quan quý", "bình đầu", "lung ách", "giao thần", "phi nhận".
14- Đinh sửu nạp âm thuỷ, là nơi nước trong vắt mà không chảy, thích kim với mùa hè. "Hoa cái", "tiến thần", "bình đầu", "phi nhận", "khuyết tự".
15- Mậu dần nạp âm thổ, là đê lớn, thành quách, thích mộc và hoả. "Phục thần", "bỗng trượng", "lung ách".
16- Kỷ mão nạp âm thổ, là đê bị phá hỏng, thành bị huỷ hoại, thích thân dậu với hoả. "Tiến thần", "đoản yêu", "cửu sửu", "khuyết tự", "khúc cước", "huyền châm".
17- Canh thìn nạp âm kim, là thiếc và sáp, thích mùa thu với mộc. "Hoa cái", "đại bại", "bỗng trượng", "bình đầu".
18- Tân tỵ nạp âm kim, là vàng cõi âm, lẫn lộn cát đá, thích hoả với mùa thu. "Thiên đức", "phúc tinh", "quan quý", "tiệt lộ", "đại bại", "huyền châm", "khúc cước".
19- Nhâm ngọ nạp âm mộc, là khúc dương liễu khô, thích mùa xuân và hè. "Quan quý", "cửu sửu", "phi nhận", "bình dầu", "lung ách", "huyền châm".
20- Quý mùi nạp âm mộc là gốc rễ của dương liễu, thích mùa đông với nước, cũng hợp mùa xuân. "Chánh ấn", "hoa cái", "đoản yêu", "phục thần", "phi nhận", "phá tự".
21- Giáp thân nạp âm thuỷ, là giếng nước ngọt, thích mùa xuân và hè. "Phá lộc", "mã", "tiệt lộ", " bình đầu", phá tự, "huyền châm.
22- Ất dậu nạp âm thuỷ là nước ở hỏm hốc âm u, thích hướng đông nam và nam. "phá lộc", "đoản yêu", "cửu sửu", "khúc cước", "phá tự", "lung ách".
23- Bính tuất nạp âm thổ là đống to lớn, thích mùa xuân, hè và thuỷ. "Thiên đức", "hoa cái", "bình đầu", "lung ách".
24- Đinh hợi nạp âm thổ là đồng bằng, thích hoả với mộc. "Thiên ất", "phúc tinh", "quan quý", "đức hợp", "bình đầu".
25- Mậu tý nạp âm hoả, là sấm, thích thuỷ với mùa xuân, mùa hè, được thổ và thần tự nhiên. "Phục thần", "đoản yêu", "cửu sửu", "trượng hình", "phi nhận".
26- Kỷ sửu nạp âm hoả là điện, là chớp, thích thuỷ với mùa xuân, và hè, gặp đất nên tối tăm. "Hoa cái", "đại bại", "phi nhận", "khúc cước", "khuyết tự".
27- Canh dần nạp âm mộc là cây thông cây bách khô ráo cao ngất, thích mùa thu và đông. "Phá lộc", "mã", "tương hình", "trượng hình", "lung ách".
28- Tân mão nạp âm mộc gốc rễ của cây tùng, cây bách, thích thuỷ, thổ và hợp với mùa xuân. "Phá lộc", "giao thần", "cửu sửu", "huyền châm".
29- Nhâm thìn nạp âm thuỷ là vòi rống, thích sấm chớp với mùa xuân và mùa hè. "Chánh ấn", "thiên đức", "thuỷ lộc mã khố", "thối thần", "bình đầu", "lung ách".
30- Quý tỵ nạp âm thuỷ là nước không ngừng nghỉ, chảy vào biển, thích hợi, tý, là sự biến hoá. "Thiên ất", "quan quý", "đức hợp", "phục mã", "phá tự", "khúc cước".
释六十甲子性质吉凶
1 甲子金 为宝物,喜金木旺地。进神喜,福星,平头,悬针,破字。
2 乙丑金 为顽矿,喜火及南方日时。福星,华盖,正印。
3 丙寅火 为炉炭,喜冬及木。福星,禄刑,平头,聋哑。
4 丁卯火 为炉烟,喜巽地及秋冬。平头,截路,悬针。
5 戊辰木 山林山野处不材之木,喜水。禄库,华盖,水禄马库,棒杖,伏神,平头。
6 己巳木 山头花草,喜春及秋。禄库,八吉,阙字,曲脚。
7 庚午土 路旁干土,喜水及春。福星,官贵,截路,棒杖,悬针。
8 辛未土 含万宝,待秋成,喜秋及火。华盖,悬针,破字。
9 壬申金 戈戟,大喜子午卯酉。平头,大败,妨害,聋哑,破字,悬针。
10 癸酉金 金之椎凿,喜木及寅卯。伏神,破字,聋哑。
11 甲戌火 火所宿处,喜春及夏。正印,华盖,平头,悬针,破字,棒杖。
12 乙亥火 火之热气,喜土及夏。天德,曲脚。
13 丙子水 江湖,喜木及土。福星,官贵,平头,聋哑,交神,飞刃。
14 丁丑水 水之不流清澈处,喜金及夏。华盖,进神,平头,飞刃,阙字。
15 戊寅土 堤阜城郭,喜木及火。伏神,俸杖。聋哑。
16 己卯土 破堤败城,喜申酉及火。进神,短夭,九丑,阙字,曲脚,悬针。
17 庚辰金 锡蜡,喜秋及微木。华盖,大败,棒杖,平头。
18 辛巳金 金之幽者,杂沙石,喜火及秋。天德,福星,官贵,截路,大败,悬针,曲脚。
19 壬午木 杨柳干节,喜春夏。官贵,九丑,飞刃、平头、聋哑,悬针。
20 癸未木 杨柳根,喜冬及水,亦宜春。正印,华盖,短夭,伏神,飞刃,破字。
21 甲申水 甘井,喜春及夏。破禄马,截路,平头,破字,悬针。
22 乙酉水 阴壑水,喜东方及南。破禄,短夭,九丑,曲脚,破字,聋哑。
23 丙戌土 堆阜,喜春夏及水。天德,华盖,平头,聋哑。
24 丁亥土 平原,喜火及木。天乙,福星,官贵,德合,平头。
25 戊子火 雷也。喜水及春夏,得土而神天。伏神,短夭,九丑,杖刑,飞刃。
26 己丑火 电也,喜水及春夏,得地而晦。华盖,大败,飞刃,曲脚,阙字。
27 庚寅木 松柏干节,喜秋冬。破禄马,相刑,杖刑,聋哑。
28 辛卯木 松柏之根,喜水土及宜春。破禄,交神,九丑,悬针。
29 壬辰水 龙水,喜雷电及春夏。正印,天德,水禄马库,退神,平头,聋哑。
30 癸巳水 水之不息,流入海,喜亥子,乃变化。天乙,官贵,德合,伏马,破字,曲脚。
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý
1- Giáp tý: nạp âm kim là vật trân quý, thích kim mộc vượng địa. "Tiến thần hỷ", "phúc tinh", "bình dầu", "huyền châm", "phá tự".
2- Ất sửu nạp âm kim là quặng cứng, thích hoả cùng với phương nam và ngày giờ. "Phúc tinh", "hoa cái", "chánh ấn".
3- Bính dần nạp âm hoả là lò than. Thích mùa đông cùng với mộc. "Phúc tinh", "lộc hình", "bình đầu", "lung ách".
4- Đinh mão nạp âm kim là khói lò, thích đông nam cùng với mùa thu và đông. "Bình dầu", "tiệt lộ", "huyền châm".
5- Mậu thìn nạp âm mộc là loại gỗ không xứng đáng ở vùng nùi và cánh đồng, thích thuỷ. "Lộc khố", "hoa cái", "thuỷ lộc mã khố", "bỗng trượng", "phục thần", "bình đầu".
6- Kỷ tỵ nạp âm mộc là hoa cỏ trên đỉnh đồi, thích mùa xuân cùng với mùa thu. "Lộc khố", "bát cát", "khuyết tự", "khúc cước".
7- Canh ngọ nạp âm thổ là đất khô bên đường, thích thuỷ và mùa xuân. "phúc tinh", "quan quý", "tiệt lộ", "bỗng trượng", "huyền châm",
8- Tân mùi nạp âm thổ chứa các loại vật trân quý, chờ mùa thu, thích mùa thu cùng với hoả. "Hoa cái", "huyền châm", "phá tự".
9- Nhâm thân nạp âm kim là cái mác, cái kích, rất thích tý, ngọ, mão, dậu. "Bình đầu", "đại bại", "phương hại", "lung ách", "phá tự", "huyền châm".
10- Quý dậu nạp âm kim là cái vồ, cái đục bằng kim loại, thích mộc cùng với dần mão. "Phục thần", "phá tự", "lung ách".
11- Giáp tuất nạp âm hoả, là nơi ngừng nghỉ của hoả, thích mùa xuân cùng mùa hè. "Chánh ấn", "hoa cái", "bình đầu", "huyền trâm", "phá tự", "bỗng trượng".
12- Ất hợi nạp âm hoả, là hơi nóng của lửa, thích thổ cùng với mùa hè. "Thiên đức", "khúc cước".
13- Bính tý nạp âm thuỷ, là sông hồ, thích mộc với thổ. "Phúc tinh", "quan quý", "bình đầu", "lung ách", "giao thần", "phi nhận".
14- Đinh sửu nạp âm thuỷ, là nơi nước trong vắt mà không chảy, thích kim với mùa hè. "Hoa cái", "tiến thần", "bình đầu", "phi nhận", "khuyết tự".
15- Mậu dần nạp âm thổ, là đê lớn, thành quách, thích mộc và hoả. "Phục thần", "bỗng trượng", "lung ách".
16- Kỷ mão nạp âm thổ, là đê bị phá hỏng, thành bị huỷ hoại, thích thân dậu với hoả. "Tiến thần", "đoản yêu", "cửu sửu", "khuyết tự", "khúc cước", "huyền châm".
17- Canh thìn nạp âm kim, là thiếc và sáp, thích mùa thu với mộc. "Hoa cái", "đại bại", "bỗng trượng", "bình đầu".
18- Tân tỵ nạp âm kim, là vàng cõi âm, lẫn lộn cát đá, thích hoả với mùa thu. "Thiên đức", "phúc tinh", "quan quý", "tiệt lộ", "đại bại", "huyền châm", "khúc cước".
19- Nhâm ngọ nạp âm mộc, là khúc dương liễu khô, thích mùa xuân và hè. "Quan quý", "cửu sửu", "phi nhận", "bình dầu", "lung ách", "huyền châm".
20- Quý mùi nạp âm mộc là gốc rễ của dương liễu, thích mùa đông với nước, cũng hợp mùa xuân. "Chánh ấn", "hoa cái", "đoản yêu", "phục thần", "phi nhận", "phá tự".
21- Giáp thân nạp âm thuỷ, là giếng nước ngọt, thích mùa xuân và hè. "Phá lộc", "mã", "tiệt lộ", " bình đầu", phá tự, "huyền châm.
22- Ất dậu nạp âm thuỷ là nước ở hỏm hốc âm u, thích hướng đông nam và nam. "phá lộc", "đoản yêu", "cửu sửu", "khúc cước", "phá tự", "lung ách".
23- Bính tuất nạp âm thổ là đống to lớn, thích mùa xuân, hè và thuỷ. "Thiên đức", "hoa cái", "bình đầu", "lung ách".
24- Đinh hợi nạp âm thổ là đồng bằng, thích hoả với mộc. "Thiên ất", "phúc tinh", "quan quý", "đức hợp", "bình đầu".
25- Mậu tý nạp âm hoả, là sấm, thích thuỷ với mùa xuân, mùa hè, được thổ và thần tự nhiên. "Phục thần", "đoản yêu", "cửu sửu", "trượng hình", "phi nhận".
26- Kỷ sửu nạp âm hoả là điện, là chớp, thích thuỷ với mùa xuân, và hè, gặp đất nên tối tăm. "Hoa cái", "đại bại", "phi nhận", "khúc cước", "khuyết tự".
27- Canh dần nạp âm mộc là cây thông cây bách khô ráo cao ngất, thích mùa thu và đông. "Phá lộc", "mã", "tương hình", "trượng hình", "lung ách".
28- Tân mão nạp âm mộc gốc rễ của cây tùng, cây bách, thích thuỷ, thổ và hợp với mùa xuân. "Phá lộc", "giao thần", "cửu sửu", "huyền châm".
29- Nhâm thìn nạp âm thuỷ là vòi rống, thích sấm chớp với mùa xuân và mùa hè. "Chánh ấn", "thiên đức", "thuỷ lộc mã khố", "thối thần", "bình đầu", "lung ách".
30- Quý tỵ nạp âm thuỷ là nước không ngừng nghỉ, chảy vào biển, thích hợi, tý, là sự biến hoá. "Thiên ất", "quan quý", "đức hợp", "phục mã", "phá tự", "khúc cước".
释六十甲子性质吉凶
1 甲子金 为宝物,喜金木旺地。进神喜,福星,平头,悬针,破字。
2 乙丑金 为顽矿,喜火及南方日时。福星,华盖,正印。
3 丙寅火 为炉炭,喜冬及木。福星,禄刑,平头,聋哑。
4 丁卯火 为炉烟,喜巽地及秋冬。平头,截路,悬针。
5 戊辰木 山林山野处不材之木,喜水。禄库,华盖,水禄马库,棒杖,伏神,平头。
6 己巳木 山头花草,喜春及秋。禄库,八吉,阙字,曲脚。
7 庚午土 路旁干土,喜水及春。福星,官贵,截路,棒杖,悬针。
8 辛未土 含万宝,待秋成,喜秋及火。华盖,悬针,破字。
9 壬申金 戈戟,大喜子午卯酉。平头,大败,妨害,聋哑,破字,悬针。
10 癸酉金 金之椎凿,喜木及寅卯。伏神,破字,聋哑。
11 甲戌火 火所宿处,喜春及夏。正印,华盖,平头,悬针,破字,棒杖。
12 乙亥火 火之热气,喜土及夏。天德,曲脚。
13 丙子水 江湖,喜木及土。福星,官贵,平头,聋哑,交神,飞刃。
14 丁丑水 水之不流清澈处,喜金及夏。华盖,进神,平头,飞刃,阙字。
15 戊寅土 堤阜城郭,喜木及火。伏神,俸杖。聋哑。
16 己卯土 破堤败城,喜申酉及火。进神,短夭,九丑,阙字,曲脚,悬针。
17 庚辰金 锡蜡,喜秋及微木。华盖,大败,棒杖,平头。
18 辛巳金 金之幽者,杂沙石,喜火及秋。天德,福星,官贵,截路,大败,悬针,曲脚。
19 壬午木 杨柳干节,喜春夏。官贵,九丑,飞刃、平头、聋哑,悬针。
20 癸未木 杨柳根,喜冬及水,亦宜春。正印,华盖,短夭,伏神,飞刃,破字。
21 甲申水 甘井,喜春及夏。破禄马,截路,平头,破字,悬针。
22 乙酉水 阴壑水,喜东方及南。破禄,短夭,九丑,曲脚,破字,聋哑。
23 丙戌土 堆阜,喜春夏及水。天德,华盖,平头,聋哑。
24 丁亥土 平原,喜火及木。天乙,福星,官贵,德合,平头。
25 戊子火 雷也。喜水及春夏,得土而神天。伏神,短夭,九丑,杖刑,飞刃。
26 己丑火 电也,喜水及春夏,得地而晦。华盖,大败,飞刃,曲脚,阙字。
27 庚寅木 松柏干节,喜秋冬。破禄马,相刑,杖刑,聋哑。
28 辛卯木 松柏之根,喜水土及宜春。破禄,交神,九丑,悬针。
29 壬辰水 龙水,喜雷电及春夏。正印,天德,水禄马库,退神,平头,聋哑。
30 癸巳水 水之不息,流入海,喜亥子,乃变化。天乙,官贵,德合,伏马,破字,曲脚。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#8
Gửi vào 25/06/2024 - 09:25
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
31- Giáp ngọ nạp âm kim là các kim loại luyện tinh, thích thuỷ, mộc, thổ. "Tiến thần", "đức hợp", "bình đầu", "phá tự", "huyền châm".
32- Ất mùi nạp âm kim là lò than còn lại kim loại, thích đại hoả với thổ. "Hoa cái", "tiệt lộ", "khúc cước", "phá tự".
33- Bính thân nạp âm hoả là cánh đồng bạch mao cháy, thích mùa thu và đông với mộc. "Bình đầu", "lung ách", "đại bại", "phá tự", "huyền châm".
34- Đinh dậu nạp âm hoả, ảnh hưởng kỳ dị của quỷ thần, hoả không có hình thể, thích thìn, tuất, sửu, mùi. "Thiên ất", "hỷ thần", "bình đầu", "phá tự", "lung ách".
35- Mậu tuất nạp âm mộc là ngãi cứu khô, thích hoả với mùa xuân và hè. "Hoa cái", "đại bại", "bát chuyên", "trượng hình", "tiệt lộ".
36- Kỷ hợi nạp âm mộc, là ngải cứu, cỏ tranh, thích thuỷ với mùa xuân và hè. "Khuyết tự", "khúc cước".
37- Canh tý nạp âm thổ là đất trên không trung, nhà cửa phòng ốc, thích mộc với kim. "Mộc đức hợp", "trượng hình".
38- Tân sửu nạp âm thổ, là mồ mả, thích mộc với hoả và mùa xuân. "Hoa cái", "huyền châm", "khuyết tự".
39- Nhâm dần nạp âm kim là trang sức xinh đẹp bằng vàng, thích mộc với ngọn lửa nhỏ. "Tiệt lộ", "bình dầu", "lung ách".
40- Quý mão nạp âm kim là nút, vòng, khoá, chuông, thích lửa lớn mạnh với mùa thu. "Quý nhân", "phá tự", "huyền châm".
41- Giáp thìn nạp âm hoả là đèn, thích ban đêm với thuỷ, ghét ban ngày. "Hoa cái", "đại bại", "bình đầu", "phá tự", "huyền châm".
42- Ất tỵ nạp âm hoả là ánh sáng của đèn, giống như giáp thìn thêm thích thân dậu với mùa thu. "Chánh lộc mã", "đại bại", "khúc cước", "khuyết tự".
43- Bính ngọ nạp âm thuỷ là vầng trăng, thích ban đêm với mùa thu, thuỷ vượng. "Hỷ thần", "dương nhận", "giao thần", "bình đầu", "lung ách", "huyền châm".
44- Đinh mùi nạp âm thuỷ là thuỷ quang, giống bính ngọ ở trên. "Hoa cái", "dương nhận", "thối thần", "bát chuyên", "bình đầu", "phá tự".
45- Mậu thân nạp âm thổ là cánh đồng mùa thu, thích thân dậu với hoả. "Phúc tinh", "phục mã", "trượng hình", "phá tự", "huyền châm".
46- Kỷ dậu nạp âm thổ là cấy lúa mùa thu, thích thân dậu với mùa đông. "Thối thần", "tiệt lộ", "cửu sửu", "khuyết tự", "khúc cước", "pha1 tự", "lung ách".
47- Canh tuất nạp âm kim là phần dư ra của lưỡi kiếm, thích lửa nhỏ yếu với mộc. "Hoa cái", "trượng hình".
48- Tân hợi nạp âm kim là hiện vật đỉnh chung, thích mộc hoả với thổ. "Chánh lộc mã", "huyền châm".
49- Nhâm tý nạp âm mộc là cây ưa nước, thích hoả, thổ với mùa hè. "Dương nhận", "cửu sửu", "bình đầu", "lung ách".
50- Quý sửu nạp âm mộc là cây ít ưa nước, thích kim thuỷ với mùa thu. "Hoa cái", "phúc tinh", "bat1 chuyên", "phá tự", "khuyết tự", "dương nhận".
51- Giáp dần nạp âm thuỷ là mưa, thích mùa hè với hoả. "Chánh lộc mã", "phúc thần", "bát chuyên", "bình đầu", "phá tự", "huyền châm", "lung ách".
52- Ất mão nạp âm thuỷ là hơi nước gần mặt đất còn gọi là "móc" của "sương móc", thích thuỷ với hoả. "Kiến lộc", "hỷ thần", "bát chuyên", "cửu nhận", "khúc cước", "huyền châm".
53- Bính thìn nạp âm thổ là đê phòng nước lụt, thích kim với mộc. "Lộc khố", "chánh ấn", "hoa cái", "tiệt lộ", "bình đầu", "lung ách".
54- Đinh tỵ nạp âm thổ là đất trũng ẩm ướt, thích hoả với phương tây bắc. "Lộc khố", "bình dầu", "khuyết tự", "khúc cước".
55- Mậu ngọ nạp âm hoả là vầng mặt trời, mùa hè thì người sợ, mùa đông thì người ưa thích, kỵ mậu tý, kỷ sửu, giáp dần, ất mão. "Phục thần", "dương nhận", "cửu sửu", "bổng trượng", "huyền châm".
56- Kỷ mùi nạp âm hoả là ánh sáng mặt trời, ghét ban đêm, cũng sợ bốn phương. "Phúc tinh", "hoa cái", "dương nhận", "khuyết tự", "khúc cước", "phá tự.
57- Canh thân nạp âm mộc là hoa lựu, thích mùa hè, không hợp mùa thu và mùa đông. "Kiến lộc mã", "bát chuyên", "trượng hình", "phá tự", "huyền châm".
58- Tân dậu nạp âm mộc là giống lựu, thích mùa thu với mùa hè. "Kiến lộc", "giao thần", "cửu sửu", "bát chuyên", "huyền châm", "lung ách".
59- Nhâm tuất nạp âm thuỷ là biển, thích mùa xuân, mùa hè với mộc. "Hoa cái", "thối thần", "bình đầu", "lung ách", "trượng hình".
60- Quý hợi nạp âm thuỷ là trăm sông, thích kim thổ hoả. "Phục mã", "đại bại", "phá tự", tiệt lộ".
Lục thập giáp tý trên đây, cái nào lớn mạnh ghét trở thành nhỏ yếu, còn cái nhỏ yếu thì muốn trở thành lớn mạnh. Trước nghèo hèn mà sau giàu sang thì vinh hoa, còn trước giàu sang mà sau nghèo hèn thì hèn mọn; không nên lấy trước bần tiện mà không luận phú quý, cũng như không nên lấy trước phú quý mà không luận bần tiện. Lại như năm sanh thuộc nạp âm mộc, thì dụ là canh dần hay tân mão, thì biết rằng đây là loại mộc lớn mạnh, nếu nguyệt, nhật, thời và thai không gặp mộc khác, thì lấy tùng bách mộc mà luận, trường hợp thấy dương liễu mộc hoặc chá, lựu mộc, thì phải bỏ lớn mà theo nhỏ, không lấy tùng bách để luận. Thí dụ người sanh năm nhâm ngọ hay quý mùi thì có thể biết rằng đây là loại mộc nhỏ yếu, nếu như nguyệt, nhật, thời và thai không thấy loại mộc khác, thì lấy dương liễu mộc mà luận, trường hợp thấy tùng bách mộc hoặc đại lâm mộc tức là phải bỏ cái nhỏ mà luận theo cái lớn, không nên dùng dương liễu mộc để luận. Cho đến người sanh thiên thượng hoả, kiếm phong kim, đại hải thuỷ, đại dịch thổ mà nguyệt, nhật, thời và thai lại gặp ở vị trí khác, nạp âm thì giống nhau nhưng mà nhỏ yếu hơn, lại như người sanh phúc đăng hoả, kim bạc kim, tỉnh tuyền thuỷ, sa trung thổ mà nguyệt, nhật, thời và thai lại gặp ở vị trí khác, nạp âm tuy đồng nhưng mà lớn mạnh hơn, có thể là người bình thường trở thành người có đức hạnh, hoặc là trước thì quý trọng mà sau thì khinh rẻ, coi thường, tất cả đều thuận theo sự biến đổi của nó mà bàn luận, không nên giới hạn ở một khía cạnh.
31 甲午金 百炼精金,喜水木土。进神,德合,平头,破字,悬针。
32 乙未金 炉炭余金,喜大火及土。华盖,截路,曲脚,破字。
33 丙申火 白茅野烧,喜秋冬及木。平头,聋哑,大败,破字,悬针。
34 丁酉火 鬼神之灵响,火无形者,喜辰戌丑未。天乙,喜神,平头,破字,聋哑,大败。
35 戊戌木 蒿艾之枯者,喜火及春夏。华盖,大败,八专,杖刑,截路。
36 己亥木 蒿艾之茅,喜水及春夏。阙字,曲脚。
37 庚子土 土中空者,屋宇也,喜木及金。木德合,杖刑。
38 辛丑土 坟墓,喜木及火与春。华盖,悬针,阙字。
39 壬寅金 金之华饰者,喜木及微火。截路,平头,聋哑。
40 癸卯金 环钮钤铎,喜盛火及秋。贵人,破字,悬针。
41 甲辰火 灯也,喜夜及水,恶昼。华盖,大败,平头,破字,悬针。
42 乙巳火 灯光也,同上,尤喜申酉及秋。正禄马,大败,曲脚,阙字。
43 丙午火 月轮,喜夜及秋,水旺也。喜神,羊刃,交神,平头,聋哑,悬针。
44 丁未水 火光也,同上。华盖,羊刃,退神,八专,平头,破字。
45 戊申土 秋间田地,喜申酉及火。福星,伏马,杖刑,破字,悬针。
46 己酉土 秋间禾稼,喜申酉及冬。退神,截路,九丑,阙字,曲脚,破字,聋哑。
47 庚戌金 刃剑之余,喜微火及木。华盖,杖刑。
48 辛亥金 钟鼎实物,喜木火及土。正禄马,悬针。
49 壬子木 伤水多之木,喜火土及夏。羊刃,九丑,平头,聋哑。
50 癸丑木 伤水少之木,喜金水及秋。华盖,福星,八专,破字,阙字,羊刃。
51 甲寅水 雨也,喜夏及火。正禄马,福神,八专,平头,破字,悬针,聋哑。
52 乙卯水 露也,喜水及火。建禄,喜神,八专,九刃,曲脚,悬针。
53 丙辰土 堤岸,喜金及木。禄库,正印,华盖,截路,平头,聋哑。
54 丁巳土 土之沮,喜火及西北。禄库,平头,阙字,曲脚。
55 戊午火 日轮,夏则人畏,冬则人爱,忌戊子、己丑、甲寅、乙卯。伏神,羊刃,九丑,棒杖,悬针。
56 已未火 日光,忌夜,亦畏四者。福星,华盖,羊刃,阙字,曲脚,破字。
57 庚申木 榴花,喜夏,不宜秋冬。建禄马,八专,杖刑,破字,悬针。
58 辛酉木 榴子,喜秋及夏。建禄,交神,九丑,八专,悬针,聋哑。
59 壬戌水 海也,喜春夏及木。华盖,退神,平头,聋哑,杖刑。
60 癸亥水 百川,喜金土火。伏马,大败,破字。截路。
以上六十甲子,盛大者忌变为小弱,小弱者欲变盛大也耶。先贫贱而后富贵则荣华,先富贵而后贫贱则卑辱;不可以其先贫贱而不论其富贵,亦不可以其先富贵而不论其贫贱也。且生年属木,假令是庚寅、辛卯,则木之盛大可知;若月日时胎不见他木,则以松柏论,万一上见杨柳木或柘榴木,则舍大就小,不以松柏论也。假令是壬午癸未生人,则木之小弱可知,若月日时胎不见他木,则以杨柳论,万一见松柏木或大林木,则弃小论大,不可以杨柳论也。以至天上火、剑锋金、大海水、大驿土生人,月日时胎别见他位,纳音同而小弱者,又如覆灯火,金泊金、井泉水、沙中土生人,月日时胎别见他位,纳音同而盛大者,或引凡而入圣,或先重而后轻,皆当从其变者而论之,不可拘于一端。
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
31- Giáp ngọ nạp âm kim là các kim loại luyện tinh, thích thuỷ, mộc, thổ. "Tiến thần", "đức hợp", "bình đầu", "phá tự", "huyền châm".
32- Ất mùi nạp âm kim là lò than còn lại kim loại, thích đại hoả với thổ. "Hoa cái", "tiệt lộ", "khúc cước", "phá tự".
33- Bính thân nạp âm hoả là cánh đồng bạch mao cháy, thích mùa thu và đông với mộc. "Bình đầu", "lung ách", "đại bại", "phá tự", "huyền châm".
34- Đinh dậu nạp âm hoả, ảnh hưởng kỳ dị của quỷ thần, hoả không có hình thể, thích thìn, tuất, sửu, mùi. "Thiên ất", "hỷ thần", "bình đầu", "phá tự", "lung ách".
35- Mậu tuất nạp âm mộc là ngãi cứu khô, thích hoả với mùa xuân và hè. "Hoa cái", "đại bại", "bát chuyên", "trượng hình", "tiệt lộ".
36- Kỷ hợi nạp âm mộc, là ngải cứu, cỏ tranh, thích thuỷ với mùa xuân và hè. "Khuyết tự", "khúc cước".
37- Canh tý nạp âm thổ là đất trên không trung, nhà cửa phòng ốc, thích mộc với kim. "Mộc đức hợp", "trượng hình".
38- Tân sửu nạp âm thổ, là mồ mả, thích mộc với hoả và mùa xuân. "Hoa cái", "huyền châm", "khuyết tự".
39- Nhâm dần nạp âm kim là trang sức xinh đẹp bằng vàng, thích mộc với ngọn lửa nhỏ. "Tiệt lộ", "bình dầu", "lung ách".
40- Quý mão nạp âm kim là nút, vòng, khoá, chuông, thích lửa lớn mạnh với mùa thu. "Quý nhân", "phá tự", "huyền châm".
41- Giáp thìn nạp âm hoả là đèn, thích ban đêm với thuỷ, ghét ban ngày. "Hoa cái", "đại bại", "bình đầu", "phá tự", "huyền châm".
42- Ất tỵ nạp âm hoả là ánh sáng của đèn, giống như giáp thìn thêm thích thân dậu với mùa thu. "Chánh lộc mã", "đại bại", "khúc cước", "khuyết tự".
43- Bính ngọ nạp âm thuỷ là vầng trăng, thích ban đêm với mùa thu, thuỷ vượng. "Hỷ thần", "dương nhận", "giao thần", "bình đầu", "lung ách", "huyền châm".
44- Đinh mùi nạp âm thuỷ là thuỷ quang, giống bính ngọ ở trên. "Hoa cái", "dương nhận", "thối thần", "bát chuyên", "bình đầu", "phá tự".
45- Mậu thân nạp âm thổ là cánh đồng mùa thu, thích thân dậu với hoả. "Phúc tinh", "phục mã", "trượng hình", "phá tự", "huyền châm".
46- Kỷ dậu nạp âm thổ là cấy lúa mùa thu, thích thân dậu với mùa đông. "Thối thần", "tiệt lộ", "cửu sửu", "khuyết tự", "khúc cước", "pha1 tự", "lung ách".
47- Canh tuất nạp âm kim là phần dư ra của lưỡi kiếm, thích lửa nhỏ yếu với mộc. "Hoa cái", "trượng hình".
48- Tân hợi nạp âm kim là hiện vật đỉnh chung, thích mộc hoả với thổ. "Chánh lộc mã", "huyền châm".
49- Nhâm tý nạp âm mộc là cây ưa nước, thích hoả, thổ với mùa hè. "Dương nhận", "cửu sửu", "bình đầu", "lung ách".
50- Quý sửu nạp âm mộc là cây ít ưa nước, thích kim thuỷ với mùa thu. "Hoa cái", "phúc tinh", "bat1 chuyên", "phá tự", "khuyết tự", "dương nhận".
51- Giáp dần nạp âm thuỷ là mưa, thích mùa hè với hoả. "Chánh lộc mã", "phúc thần", "bát chuyên", "bình đầu", "phá tự", "huyền châm", "lung ách".
52- Ất mão nạp âm thuỷ là hơi nước gần mặt đất còn gọi là "móc" của "sương móc", thích thuỷ với hoả. "Kiến lộc", "hỷ thần", "bát chuyên", "cửu nhận", "khúc cước", "huyền châm".
53- Bính thìn nạp âm thổ là đê phòng nước lụt, thích kim với mộc. "Lộc khố", "chánh ấn", "hoa cái", "tiệt lộ", "bình đầu", "lung ách".
54- Đinh tỵ nạp âm thổ là đất trũng ẩm ướt, thích hoả với phương tây bắc. "Lộc khố", "bình dầu", "khuyết tự", "khúc cước".
55- Mậu ngọ nạp âm hoả là vầng mặt trời, mùa hè thì người sợ, mùa đông thì người ưa thích, kỵ mậu tý, kỷ sửu, giáp dần, ất mão. "Phục thần", "dương nhận", "cửu sửu", "bổng trượng", "huyền châm".
56- Kỷ mùi nạp âm hoả là ánh sáng mặt trời, ghét ban đêm, cũng sợ bốn phương. "Phúc tinh", "hoa cái", "dương nhận", "khuyết tự", "khúc cước", "phá tự.
57- Canh thân nạp âm mộc là hoa lựu, thích mùa hè, không hợp mùa thu và mùa đông. "Kiến lộc mã", "bát chuyên", "trượng hình", "phá tự", "huyền châm".
58- Tân dậu nạp âm mộc là giống lựu, thích mùa thu với mùa hè. "Kiến lộc", "giao thần", "cửu sửu", "bát chuyên", "huyền châm", "lung ách".
59- Nhâm tuất nạp âm thuỷ là biển, thích mùa xuân, mùa hè với mộc. "Hoa cái", "thối thần", "bình đầu", "lung ách", "trượng hình".
60- Quý hợi nạp âm thuỷ là trăm sông, thích kim thổ hoả. "Phục mã", "đại bại", "phá tự", tiệt lộ".
Lục thập giáp tý trên đây, cái nào lớn mạnh ghét trở thành nhỏ yếu, còn cái nhỏ yếu thì muốn trở thành lớn mạnh. Trước nghèo hèn mà sau giàu sang thì vinh hoa, còn trước giàu sang mà sau nghèo hèn thì hèn mọn; không nên lấy trước bần tiện mà không luận phú quý, cũng như không nên lấy trước phú quý mà không luận bần tiện. Lại như năm sanh thuộc nạp âm mộc, thì dụ là canh dần hay tân mão, thì biết rằng đây là loại mộc lớn mạnh, nếu nguyệt, nhật, thời và thai không gặp mộc khác, thì lấy tùng bách mộc mà luận, trường hợp thấy dương liễu mộc hoặc chá, lựu mộc, thì phải bỏ lớn mà theo nhỏ, không lấy tùng bách để luận. Thí dụ người sanh năm nhâm ngọ hay quý mùi thì có thể biết rằng đây là loại mộc nhỏ yếu, nếu như nguyệt, nhật, thời và thai không thấy loại mộc khác, thì lấy dương liễu mộc mà luận, trường hợp thấy tùng bách mộc hoặc đại lâm mộc tức là phải bỏ cái nhỏ mà luận theo cái lớn, không nên dùng dương liễu mộc để luận. Cho đến người sanh thiên thượng hoả, kiếm phong kim, đại hải thuỷ, đại dịch thổ mà nguyệt, nhật, thời và thai lại gặp ở vị trí khác, nạp âm thì giống nhau nhưng mà nhỏ yếu hơn, lại như người sanh phúc đăng hoả, kim bạc kim, tỉnh tuyền thuỷ, sa trung thổ mà nguyệt, nhật, thời và thai lại gặp ở vị trí khác, nạp âm tuy đồng nhưng mà lớn mạnh hơn, có thể là người bình thường trở thành người có đức hạnh, hoặc là trước thì quý trọng mà sau thì khinh rẻ, coi thường, tất cả đều thuận theo sự biến đổi của nó mà bàn luận, không nên giới hạn ở một khía cạnh.
31 甲午金 百炼精金,喜水木土。进神,德合,平头,破字,悬针。
32 乙未金 炉炭余金,喜大火及土。华盖,截路,曲脚,破字。
33 丙申火 白茅野烧,喜秋冬及木。平头,聋哑,大败,破字,悬针。
34 丁酉火 鬼神之灵响,火无形者,喜辰戌丑未。天乙,喜神,平头,破字,聋哑,大败。
35 戊戌木 蒿艾之枯者,喜火及春夏。华盖,大败,八专,杖刑,截路。
36 己亥木 蒿艾之茅,喜水及春夏。阙字,曲脚。
37 庚子土 土中空者,屋宇也,喜木及金。木德合,杖刑。
38 辛丑土 坟墓,喜木及火与春。华盖,悬针,阙字。
39 壬寅金 金之华饰者,喜木及微火。截路,平头,聋哑。
40 癸卯金 环钮钤铎,喜盛火及秋。贵人,破字,悬针。
41 甲辰火 灯也,喜夜及水,恶昼。华盖,大败,平头,破字,悬针。
42 乙巳火 灯光也,同上,尤喜申酉及秋。正禄马,大败,曲脚,阙字。
43 丙午火 月轮,喜夜及秋,水旺也。喜神,羊刃,交神,平头,聋哑,悬针。
44 丁未水 火光也,同上。华盖,羊刃,退神,八专,平头,破字。
45 戊申土 秋间田地,喜申酉及火。福星,伏马,杖刑,破字,悬针。
46 己酉土 秋间禾稼,喜申酉及冬。退神,截路,九丑,阙字,曲脚,破字,聋哑。
47 庚戌金 刃剑之余,喜微火及木。华盖,杖刑。
48 辛亥金 钟鼎实物,喜木火及土。正禄马,悬针。
49 壬子木 伤水多之木,喜火土及夏。羊刃,九丑,平头,聋哑。
50 癸丑木 伤水少之木,喜金水及秋。华盖,福星,八专,破字,阙字,羊刃。
51 甲寅水 雨也,喜夏及火。正禄马,福神,八专,平头,破字,悬针,聋哑。
52 乙卯水 露也,喜水及火。建禄,喜神,八专,九刃,曲脚,悬针。
53 丙辰土 堤岸,喜金及木。禄库,正印,华盖,截路,平头,聋哑。
54 丁巳土 土之沮,喜火及西北。禄库,平头,阙字,曲脚。
55 戊午火 日轮,夏则人畏,冬则人爱,忌戊子、己丑、甲寅、乙卯。伏神,羊刃,九丑,棒杖,悬针。
56 已未火 日光,忌夜,亦畏四者。福星,华盖,羊刃,阙字,曲脚,破字。
57 庚申木 榴花,喜夏,不宜秋冬。建禄马,八专,杖刑,破字,悬针。
58 辛酉木 榴子,喜秋及夏。建禄,交神,九丑,八专,悬针,聋哑。
59 壬戌水 海也,喜春夏及木。华盖,退神,平头,聋哑,杖刑。
60 癸亥水 百川,喜金土火。伏马,大败,破字。截路。
以上六十甲子,盛大者忌变为小弱,小弱者欲变盛大也耶。先贫贱而后富贵则荣华,先富贵而后贫贱则卑辱;不可以其先贫贱而不论其富贵,亦不可以其先富贵而不论其贫贱也。且生年属木,假令是庚寅、辛卯,则木之盛大可知;若月日时胎不见他木,则以松柏论,万一上见杨柳木或柘榴木,则舍大就小,不以松柏论也。假令是壬午癸未生人,则木之小弱可知,若月日时胎不见他木,则以杨柳论,万一见松柏木或大林木,则弃小论大,不可以杨柳论也。以至天上火、剑锋金、大海水、大驿土生人,月日时胎别见他位,纳音同而小弱者,又如覆灯火,金泊金、井泉水、沙中土生人,月日时胎别见他位,纳音同而盛大者,或引凡而入圣,或先重而后轻,皆当从其变者而论之,不可拘于一端。
.
#9
Gửi vào 25/06/2024 - 09:33
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp tý: tòng cách của kim, khí của nó tán, gặp mậu thân thổ, hay quý tỵ thuỷ thì tốt lành, mậu thân chính là đất lâm quan của kim, còn thổ thì vượng ở tý ắt có thể sanh thành; quý tỵ liên quan đến kim sanh ở tỵ, mà thuỷ vượng ở tý, mỗi nạp âm đều có chỗ thuộc về. Lại là "triều nguyên lộc", kỵ hoả của đinh mão, đinh dậu, mậu ngọ
Ất sửu: vốn là kim khố, hoả không thể khắc. Bởi kim đã cất giấu mà không có xung, khắc, phá thì không thể hiển vinh, chỉ kỵ hoả của kỷ sửu, kỷ mùi. Diêm Đông Tẩu nói: "ất sửu là chánh ấn, có phúc đức lớn, mùa thu, mùa đông được giàu sang đến già, mùa xuân, mùa hè trong tốt có xấu; hợp với cách thức thì tạo công hưởng phúc, có mang theo hung sát là gặp xấu". "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "giáp tý, ất sửu chưa thành khí, kim gặp hoả sẽ thành khí, gặp nhiều thì tốt".
Bính dần: ánh sáng đỏ của hoả. không có thuỷ để kiềm chế sẽ có bị nóng nực đốt cháy, thuỷ không nên quá nhiều, chỉ thích thuỷ của giáp dần, tụ về một chỗ cứu trợ. Lại là "triều nguyên lộc". "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "bính dần hoả ẩn chứa linh khí sáng chói, phẩm chất tốt đẹp của bốn mùa, hợp với quý cách sẽ có tài văn chương, chủ đỗ đầu khoa cử".
Đinh mão: lức bốc khói. Khí yếu nhược, hợp với mộc sanh, gặp thuỷ thì hung xấu, thuỷ của ất mão, ất dậu thì rất độc.
Mậu thìn: mộc bên trong hai chữ thổ. Các loại kim không thể khắc, bởi thổ sanh kim tức là có đạo lý của mẹ con. Gặp thuỷ sanh thì tốt đẹp. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "ba thần mậu thìn, canh dần, quý sửu, vận khí khá mạnh mẽ và khoẻ mạnh, sanh ở mùa xuân hay mùa hè, có khả năng phấn đấu độc lập, biết tuỳ sự ứng biến mà thành công; càng gặp vượng khí sẽ có chí cao vượt trời, chỉ kỵ sanh mùa thu, tuy rằng ôm chí khí tiết tháo, gặp khuất tất mà không thể tỏ bày.
Kỷ tỵ: mộc gần hoả. Vốn là chỗ kim trường sanh, nên không bị thương tổn; kỵ gặp kim sanh vượng. Diêm Đông Tẩu nói: "Kỷ tỵ ở tại tốn, là cây bị gió động, rễ cây không an toàn dễ bị trốc, kết hợp với kim, thổ, vận trình đi về hướng đông nam mới thành vật hữu dụng, tuy ngoại dương nội âm, mà không có cái khác trợ giúp, thì khí nó sẽ hư tán, càng bị kim quỷ khắc chế chính là loại mộc không xứng đáng".
Canh ngọ, tân mùi: là chỗ thổ bắt đầu sanh. Mộc không thể khắc, chỉ kỵ thuỷ nhiều làm thương tổn khí của nó. Mộc nhiều tức là có chỗ nương về, bởi mộc mộ ở mùi vậy. Diêm Đông Tẩu nói: "canh ngọ, tân mùi, mậu thân, kỷ dậu đều là thổ có đức dày, nhẫn nại chứa đựng yên định, hoà khí điều hợp, phúc lộc dồi dào, hợp cách sẽ thường trải qua các chức vị nơi núi cao lớn, có công hiệu của ơn huệ thương yêu rộng khắp".
Nhâm thân: là chỗ lâm quan của kim, lợi ích gặp thuỷ thổ, nếu như lửa của bính thân, bính dần, mậu ngọ sẽ là tai hại. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "Nhâm thân, quý dậu, vị trí kim vượng, không nên lại vượng thêm, vượng quá sẽ làm tổn hại vật; không nên gặp hoả, thấy hoả sẽ tự làm thương tổn".
甲子,从革之金。其气散,得戊申土、癸巳水相之则吉,戊申乃金临官之地,土者更旺于子,必能生成;癸巳系金生于巳,水旺于子,纳音各有所归。又为朝元禄,忌丁卯、丁酉、戊午之火。
乙丑,自库之金。火不能克。盖已藏之金自无克害冲破,未有不显荣者,独忌己丑、己未之火。阎东叟云:“乙丑为正印,具大福德,秋冬富贵寿考,春夏吉中有凶;入格则建功享福,带煞类为凶会。”《玉霄宝鉴》云:“甲子乙丑未成器,金见火则成,多见则吉。”
丙寅,赫曦之火。无水制之则有燔灼炎热之患,水不可过,独爱甲寅之水,就位济之。又名朝元禄。《五行要论》云:“丙寅火含灵明冲粹之气,四时生生之德,入贵格则文采发应,主魁甲之贵。”
丁卯,伏明之火。气弱,宜木生之,遇水则凶,乙卯、乙酉水最毒。
戊辰,两土下木。众金不能克,盖土生金,有子母之道。得水生之为佳。《五行要论》云:“戊辰、庚寅、癸丑三辰,挺刚德清健之数,生于春夏,能特立独奋,随变成功;更逢旺气,则有凌霄耸壑之志。惟忌秋生,虽怀志节,屈而不伸。”
己巳,为近火之木。金自此生,于我无伤;忌见生旺之金。阎东叟云:“己巳在巽,为风动之木,根危易拔,和之以金、土,运规东南,方成材用,虽外阳内阴,别无辅助,则其气虚散,更为金鬼所克,乃不材之木也。”
庚午、辛未,始生之土。木不能克,惟忌水多,反伤其气。木多却有归,盖木归未也。阎东叟云:“庚午、辛未、戊申、己酉皆厚德之土,含容镇静,和气融洽,福禄优裕,入格则多历方岳之任,有普惠博爱之功。”
壬申,临官之金,利见水土,若丙申、丙寅、戊午之火则为灾害。《玉宵宝鉴》云:“壬申、癸酉,金旺之位,不可复旺,旺则伤物;不可见火,见火则自伤。”
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp tý: tòng cách của kim, khí của nó tán, gặp mậu thân thổ, hay quý tỵ thuỷ thì tốt lành, mậu thân chính là đất lâm quan của kim, còn thổ thì vượng ở tý ắt có thể sanh thành; quý tỵ liên quan đến kim sanh ở tỵ, mà thuỷ vượng ở tý, mỗi nạp âm đều có chỗ thuộc về. Lại là "triều nguyên lộc", kỵ hoả của đinh mão, đinh dậu, mậu ngọ
Ất sửu: vốn là kim khố, hoả không thể khắc. Bởi kim đã cất giấu mà không có xung, khắc, phá thì không thể hiển vinh, chỉ kỵ hoả của kỷ sửu, kỷ mùi. Diêm Đông Tẩu nói: "ất sửu là chánh ấn, có phúc đức lớn, mùa thu, mùa đông được giàu sang đến già, mùa xuân, mùa hè trong tốt có xấu; hợp với cách thức thì tạo công hưởng phúc, có mang theo hung sát là gặp xấu". "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "giáp tý, ất sửu chưa thành khí, kim gặp hoả sẽ thành khí, gặp nhiều thì tốt".
Bính dần: ánh sáng đỏ của hoả. không có thuỷ để kiềm chế sẽ có bị nóng nực đốt cháy, thuỷ không nên quá nhiều, chỉ thích thuỷ của giáp dần, tụ về một chỗ cứu trợ. Lại là "triều nguyên lộc". "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "bính dần hoả ẩn chứa linh khí sáng chói, phẩm chất tốt đẹp của bốn mùa, hợp với quý cách sẽ có tài văn chương, chủ đỗ đầu khoa cử".
Đinh mão: lức bốc khói. Khí yếu nhược, hợp với mộc sanh, gặp thuỷ thì hung xấu, thuỷ của ất mão, ất dậu thì rất độc.
Mậu thìn: mộc bên trong hai chữ thổ. Các loại kim không thể khắc, bởi thổ sanh kim tức là có đạo lý của mẹ con. Gặp thuỷ sanh thì tốt đẹp. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "ba thần mậu thìn, canh dần, quý sửu, vận khí khá mạnh mẽ và khoẻ mạnh, sanh ở mùa xuân hay mùa hè, có khả năng phấn đấu độc lập, biết tuỳ sự ứng biến mà thành công; càng gặp vượng khí sẽ có chí cao vượt trời, chỉ kỵ sanh mùa thu, tuy rằng ôm chí khí tiết tháo, gặp khuất tất mà không thể tỏ bày.
Kỷ tỵ: mộc gần hoả. Vốn là chỗ kim trường sanh, nên không bị thương tổn; kỵ gặp kim sanh vượng. Diêm Đông Tẩu nói: "Kỷ tỵ ở tại tốn, là cây bị gió động, rễ cây không an toàn dễ bị trốc, kết hợp với kim, thổ, vận trình đi về hướng đông nam mới thành vật hữu dụng, tuy ngoại dương nội âm, mà không có cái khác trợ giúp, thì khí nó sẽ hư tán, càng bị kim quỷ khắc chế chính là loại mộc không xứng đáng".
Canh ngọ, tân mùi: là chỗ thổ bắt đầu sanh. Mộc không thể khắc, chỉ kỵ thuỷ nhiều làm thương tổn khí của nó. Mộc nhiều tức là có chỗ nương về, bởi mộc mộ ở mùi vậy. Diêm Đông Tẩu nói: "canh ngọ, tân mùi, mậu thân, kỷ dậu đều là thổ có đức dày, nhẫn nại chứa đựng yên định, hoà khí điều hợp, phúc lộc dồi dào, hợp cách sẽ thường trải qua các chức vị nơi núi cao lớn, có công hiệu của ơn huệ thương yêu rộng khắp".
Nhâm thân: là chỗ lâm quan của kim, lợi ích gặp thuỷ thổ, nếu như lửa của bính thân, bính dần, mậu ngọ sẽ là tai hại. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "Nhâm thân, quý dậu, vị trí kim vượng, không nên lại vượng thêm, vượng quá sẽ làm tổn hại vật; không nên gặp hoả, thấy hoả sẽ tự làm thương tổn".
甲子,从革之金。其气散,得戊申土、癸巳水相之则吉,戊申乃金临官之地,土者更旺于子,必能生成;癸巳系金生于巳,水旺于子,纳音各有所归。又为朝元禄,忌丁卯、丁酉、戊午之火。
乙丑,自库之金。火不能克。盖已藏之金自无克害冲破,未有不显荣者,独忌己丑、己未之火。阎东叟云:“乙丑为正印,具大福德,秋冬富贵寿考,春夏吉中有凶;入格则建功享福,带煞类为凶会。”《玉霄宝鉴》云:“甲子乙丑未成器,金见火则成,多见则吉。”
丙寅,赫曦之火。无水制之则有燔灼炎热之患,水不可过,独爱甲寅之水,就位济之。又名朝元禄。《五行要论》云:“丙寅火含灵明冲粹之气,四时生生之德,入贵格则文采发应,主魁甲之贵。”
丁卯,伏明之火。气弱,宜木生之,遇水则凶,乙卯、乙酉水最毒。
戊辰,两土下木。众金不能克,盖土生金,有子母之道。得水生之为佳。《五行要论》云:“戊辰、庚寅、癸丑三辰,挺刚德清健之数,生于春夏,能特立独奋,随变成功;更逢旺气,则有凌霄耸壑之志。惟忌秋生,虽怀志节,屈而不伸。”
己巳,为近火之木。金自此生,于我无伤;忌见生旺之金。阎东叟云:“己巳在巽,为风动之木,根危易拔,和之以金、土,运规东南,方成材用,虽外阳内阴,别无辅助,则其气虚散,更为金鬼所克,乃不材之木也。”
庚午、辛未,始生之土。木不能克,惟忌水多,反伤其气。木多却有归,盖木归未也。阎东叟云:“庚午、辛未、戊申、己酉皆厚德之土,含容镇静,和气融洽,福禄优裕,入格则多历方岳之任,有普惠博爱之功。”
壬申,临官之金,利见水土,若丙申、丙寅、戊午之火则为灾害。《玉宵宝鉴》云:“壬申、癸酉,金旺之位,不可复旺,旺则伤物;不可见火,见火则自伤。”
.
#10
Gửi vào 25/06/2024 - 09:41
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp tuất: vốn là hoả khố, không ghét các loại thuỷ chỉ kỵ nhâm tuất gọi là trong mộ thụ khắc, tai hoạ của nó khó tránh khỏi. "Nhũ Hành Yếu Luận" nói: "giáp tuất là ấn là khố, chứ đựng khí dương tàng phục, quý cách gặp thì giàu sang quảng đại. Chỉ kỵ sanh trở lại, đề phòng trong tốt có xấu".
Ất hợi: lửa bốc khói. Khí của nó bị che lấp ánh sáng nên không lộ ra, nhờ kỷ hợi, tân mão, kỷ tỵ, nhâm ngọ mà lộ ra, nếu mộc lộ ra thì tinh lực vượng tướng, thuỷ của quý hợi, bính ngọ thì không tốt.
Bính tý: đằm nước chảy. Không ghét các loại thổ, chỉ không thích thổ của canh tý, chính là trong vượng gặp quỷ, xấu xa chẳng lớn lắm. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "bính tý vốn là thuỷ vượng, dương ở trên âm ở dưới, khí lực hoàn bị, trời sanh ra là người tài năng, kiến thức sâu rộng, mùa xuân mùa hè là phong cách cứu giúp vạn vật, thường xây dựng lợi ích ân huệ".
Đinh sửu: nước của phúc hội tụ. Rất thích được kim sanh, kỵ tân mùi, bính thìn, bính tuất vì hình, phá lẫn nhau. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "đinh sửu, ất dậu, quan sát khí vận là nước của phân tán, yếu đuối, âm thịnh mà dương nhược, người sinh ra năng lực hiểu biết rõ ràng, nhiều trí tuệ ít phước, nếu khí của thuỷ mộc vượng thì âm dương sẽ hài hoà, đó là phong cách của sự tôn quý và ngưỡng mộ".
Mậu dần: đất bị tổn thương. Rất là vô lực, cần hoả sanh vượng, để giúp đỡ khí của nó. Kỵ các loại mộc của kỷ hợi, canh dần, tân mão khắc, chủ hung xấu ngắn hạn. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "mậu dần, bính tuất là hai nơi lợi dụng đức tính sâu dày của đất, một cái là được hoả sanh, một cái là nơi hoả trú ngụ, vì thế gọi là dương linh tập trung, thần của điều lành, đức hạnh, quý cách gặp được thì đạo đức bao trùm thiên hạ, bề tôi cức quý, chỉ hoàng tử, quý công tử thường sanh vào ngày này; thường cách gặp được cũng chủ phúc thọ kéo dài, suốt đời yên vui, an nhàn".
Kỷ mão: vốn là đất chết. Vậy thì sao? Quý trọng hoả của đinh mão, giáp tuất, ất hợi, kỷ mùi, do kết hợp mà đến, để đạt được phước lành của nó. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "kỷ mão vốn là đất chết, xây dựng ở nơi quẻ chấn, gió thổi sấm sét, tản mác thành hoà khí, đức hạnh từ hư không. người vốn sanh ra giống như đạo hành, thích nghi với sự thay đổi, có phúc thọ của dưỡng sanh tự nhiên, chỉ bất lợi tử, tuyệt sẽ là người mượn danh nghĩa làm việc bất chánh".
Canh thìn: vàng của khí tụ hợp. Không cần dùng hoả để chế tác, khí của nó tự thành, hoả thịnh quá trái lại huỷ diệt khí của nó, hoả bệnh, tuyệt thì không hại gì. Nếu như hoả của giáp thìn, ất tỵ thì ác không thể nói được; cũng không thể khắc các loại mộc, bởi khí của mình cũng là tụ hội mà thôi. Diêm Đông Tẩu nói: "kim của canh thìn có đủ đức hạnh mạnh mẽ và sâu xa, bản tính thông minh. Mùa xuân, mùa hè thì phúc hoạ phụ thuộc vào nhau, mùa thu và mùa đông thì cây cỏ tươi tốt sung túc; hợp cách thức sẽ bao gồm cả tài văn và võ lược, đới sát thì thích binh quyền".
Tân tỵ: vốn là nơi kim trường sanh. Tinh thần đầy đủ, cơ thể hoàn chỉnh, gặp lửa mạnh hừng hực mà không chết. Kỵ lửa của ất tỵ, mậu ngọ. Bởi vì kim trường sanh ở tỵ, nên không thể sanh hay bại ở ngọ, tuyệt ở dần nên khí tán, lại gặp hoả được sanh vượng, vậy có thể làm gì? "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "tân tỵ kim là chỗ khởi đầu học đường, có đầy đủ đức tính xuất chúng lạ thường, mùa thu và mùa đông có được quyền lực hoàn toàn, mùa xuân mùa hè bảy phần xấu của điềm lành; hợp cách quý sẽ chủ học hành kiệt xuất hơn người, đạt tới địa vị cao quý, luôn có tấm lòng bác ái".
Nhâm ngọ: mộc mềm mại. Cành cây nhỏ yếu, mộc này có thể tạo ra hoả, tức là kỵ thấy hoả nhiều, nhiều thì bị thiêu huỷ. Cho dù kim sanh vượng cũng không thể thương tổn. Bởi kim là thất bại của mình, có được kim lại quý. Thuỷ thổ thịnh vượng cũng quý. Chỉ ghét có kim của giáp ngọ làm thương tổn. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "nhâm ngọ vốn là mộc chết. Mộc tử, tuyệt thì linh hồn di động mà thần khí kiệt xuất, người sinh ra có phẩm chất hiên ngang, trầm tĩnh rõ ràng, lòng dũng cảm của người nhân từ, tạo lập công đức, có thể nói là trầm tĩnh nên có lòng dũng cảm, kéo dài tuổi thọ".
Quý mùi: vốn là kho của mộc. Sanh vượng thì tốt đẹp, cho dù kim của ất sửu không thể xung, phá, mỗi thứ có nguồn cội để trở về nên không xâm phạm lẫn nhau. Kỵ kim của canh tuất, ất mùi. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: " nhâm ngọ, quý mùi gọi là dương liễu mộc, bởi mộc đến ngọ là tử, đến mùi là mộ, cho nên lá dày đặc giữa mùa hè, gặp thời thì giàu sang và thọ, không gặp thời thì nghèo nàn mà yểu".
甲戌,自库之火。不嫌众水,只忌壬戌。所谓墓中受克,其患难逃。《五行要论》云:“甲戌火为印为库,含至阳藏伏之气,贵格逢之,富贵光大。惟忌复生,防吉中有凶。”
乙亥,伏明之火。其气湮郁而不发,借己亥、辛卯、己巳、壬午发,未木生之则精神旺相,癸亥、丙午水有之则不吉。
丙子,流衍之水。不忌众土,惟嫌庚子,乃旺中逢鬼,不祥莫大焉。《五行要论》云:“丙子自旺之水,阳上阴下,精神俱全,禀之者天资旷达,识量渊深;春夏为济物之气,多建利泽之功。”
丁丑,福聚之水。最爱金生,忌辛未、丙辰、丙戌,相刑破也。《五行要论》云:“丁丑、乙酉,在数为涣弱之水,阴盛阳弱,禀之者器识清明,多慧少福,橐以水木旺气,则阴阳均协,为贵达崇显之气。”
戊寅,受伤之土。最为无力,要生旺火,以资其气。忌己亥、庚寅、辛卯诸色木克,主短折之凶。《五行要论》云:“戊寅、丙戌此二位乘土德厚气,一含生火,一含宿火,是谓阳灵袭中,福庆之辰;贵格得之,道德盖世,贵极人臣,惟亲王、贵公子多于此日生;常格得之,亦主福寿遐远,始终安逸。”
己卯,自死之土。抑又甚焉。贵得丁卯、甲戌、乙亥、己未之火,由合而来,以致其福。《五行要论》云:“己卯,自死土,建于震位,风行雷动,散为和气,德自冲虚。禀之者类有道行,随变而适,有养生自在之福寿,惟不利死绝,则为久假不归之徒。”
庚辰,气聚之金。不用火制,其器自成,火盛反丧其器,病绝火无害。若甲辰、乙巳火,恶不可言;亦不能克众木,盖我气亦聚耳。阎东叟云:“庚辰之金具刚健沈厚之德,禀聪明疏通之性。春夏福祸倚伏,秋冬秀颖充实;入格则兼资文武,带煞则好弄兵权。”
辛巳,自生之金。精神具足,体气完备,炎烈炽化而不亡。忌丙辰、乙巳、戊午之火。盖金生于巳,而不能生败于午,绝于寅而气散,复见生旺之火,乌可当之?《五行要论》云:“辛巳金为自生学堂,具英明瑰奇之德,秋冬得力十全,春夏七凶之吉;入贵格则主学行英伟,致身清贵,常怀济物之心。”
壬午,柔和之木。枝干微弱,木能生火,却忌见火多,多则烬矣。虽生旺之金,亦不能伤。盖金就我败,得金反贵。水土盛者亦贵。惟忌甲午金伤之。《五行要论》云:“壬午,自死之木。木死绝则魂游而神气灵秀,禀之者挺静明之德,抱仁者之勇,建立功行,可谓静而有勇,延年益寿。”
癸未,自库之木。生旺则佳,虽乙丑金不能冲破,各归其根而不相犯。忌庚戌、乙未金。《玉宵宝鉴》云:“壬午、癸未谓之杨柳木者,盖木至午而死,至未而墓,故盛夏叶稠,得其时则富寿,非其时则贫夭。”
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp tuất: vốn là hoả khố, không ghét các loại thuỷ chỉ kỵ nhâm tuất gọi là trong mộ thụ khắc, tai hoạ của nó khó tránh khỏi. "Nhũ Hành Yếu Luận" nói: "giáp tuất là ấn là khố, chứ đựng khí dương tàng phục, quý cách gặp thì giàu sang quảng đại. Chỉ kỵ sanh trở lại, đề phòng trong tốt có xấu".
Ất hợi: lửa bốc khói. Khí của nó bị che lấp ánh sáng nên không lộ ra, nhờ kỷ hợi, tân mão, kỷ tỵ, nhâm ngọ mà lộ ra, nếu mộc lộ ra thì tinh lực vượng tướng, thuỷ của quý hợi, bính ngọ thì không tốt.
Bính tý: đằm nước chảy. Không ghét các loại thổ, chỉ không thích thổ của canh tý, chính là trong vượng gặp quỷ, xấu xa chẳng lớn lắm. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "bính tý vốn là thuỷ vượng, dương ở trên âm ở dưới, khí lực hoàn bị, trời sanh ra là người tài năng, kiến thức sâu rộng, mùa xuân mùa hè là phong cách cứu giúp vạn vật, thường xây dựng lợi ích ân huệ".
Đinh sửu: nước của phúc hội tụ. Rất thích được kim sanh, kỵ tân mùi, bính thìn, bính tuất vì hình, phá lẫn nhau. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "đinh sửu, ất dậu, quan sát khí vận là nước của phân tán, yếu đuối, âm thịnh mà dương nhược, người sinh ra năng lực hiểu biết rõ ràng, nhiều trí tuệ ít phước, nếu khí của thuỷ mộc vượng thì âm dương sẽ hài hoà, đó là phong cách của sự tôn quý và ngưỡng mộ".
Mậu dần: đất bị tổn thương. Rất là vô lực, cần hoả sanh vượng, để giúp đỡ khí của nó. Kỵ các loại mộc của kỷ hợi, canh dần, tân mão khắc, chủ hung xấu ngắn hạn. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "mậu dần, bính tuất là hai nơi lợi dụng đức tính sâu dày của đất, một cái là được hoả sanh, một cái là nơi hoả trú ngụ, vì thế gọi là dương linh tập trung, thần của điều lành, đức hạnh, quý cách gặp được thì đạo đức bao trùm thiên hạ, bề tôi cức quý, chỉ hoàng tử, quý công tử thường sanh vào ngày này; thường cách gặp được cũng chủ phúc thọ kéo dài, suốt đời yên vui, an nhàn".
Kỷ mão: vốn là đất chết. Vậy thì sao? Quý trọng hoả của đinh mão, giáp tuất, ất hợi, kỷ mùi, do kết hợp mà đến, để đạt được phước lành của nó. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "kỷ mão vốn là đất chết, xây dựng ở nơi quẻ chấn, gió thổi sấm sét, tản mác thành hoà khí, đức hạnh từ hư không. người vốn sanh ra giống như đạo hành, thích nghi với sự thay đổi, có phúc thọ của dưỡng sanh tự nhiên, chỉ bất lợi tử, tuyệt sẽ là người mượn danh nghĩa làm việc bất chánh".
Canh thìn: vàng của khí tụ hợp. Không cần dùng hoả để chế tác, khí của nó tự thành, hoả thịnh quá trái lại huỷ diệt khí của nó, hoả bệnh, tuyệt thì không hại gì. Nếu như hoả của giáp thìn, ất tỵ thì ác không thể nói được; cũng không thể khắc các loại mộc, bởi khí của mình cũng là tụ hội mà thôi. Diêm Đông Tẩu nói: "kim của canh thìn có đủ đức hạnh mạnh mẽ và sâu xa, bản tính thông minh. Mùa xuân, mùa hè thì phúc hoạ phụ thuộc vào nhau, mùa thu và mùa đông thì cây cỏ tươi tốt sung túc; hợp cách thức sẽ bao gồm cả tài văn và võ lược, đới sát thì thích binh quyền".
Tân tỵ: vốn là nơi kim trường sanh. Tinh thần đầy đủ, cơ thể hoàn chỉnh, gặp lửa mạnh hừng hực mà không chết. Kỵ lửa của ất tỵ, mậu ngọ. Bởi vì kim trường sanh ở tỵ, nên không thể sanh hay bại ở ngọ, tuyệt ở dần nên khí tán, lại gặp hoả được sanh vượng, vậy có thể làm gì? "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "tân tỵ kim là chỗ khởi đầu học đường, có đầy đủ đức tính xuất chúng lạ thường, mùa thu và mùa đông có được quyền lực hoàn toàn, mùa xuân mùa hè bảy phần xấu của điềm lành; hợp cách quý sẽ chủ học hành kiệt xuất hơn người, đạt tới địa vị cao quý, luôn có tấm lòng bác ái".
Nhâm ngọ: mộc mềm mại. Cành cây nhỏ yếu, mộc này có thể tạo ra hoả, tức là kỵ thấy hoả nhiều, nhiều thì bị thiêu huỷ. Cho dù kim sanh vượng cũng không thể thương tổn. Bởi kim là thất bại của mình, có được kim lại quý. Thuỷ thổ thịnh vượng cũng quý. Chỉ ghét có kim của giáp ngọ làm thương tổn. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "nhâm ngọ vốn là mộc chết. Mộc tử, tuyệt thì linh hồn di động mà thần khí kiệt xuất, người sinh ra có phẩm chất hiên ngang, trầm tĩnh rõ ràng, lòng dũng cảm của người nhân từ, tạo lập công đức, có thể nói là trầm tĩnh nên có lòng dũng cảm, kéo dài tuổi thọ".
Quý mùi: vốn là kho của mộc. Sanh vượng thì tốt đẹp, cho dù kim của ất sửu không thể xung, phá, mỗi thứ có nguồn cội để trở về nên không xâm phạm lẫn nhau. Kỵ kim của canh tuất, ất mùi. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: " nhâm ngọ, quý mùi gọi là dương liễu mộc, bởi mộc đến ngọ là tử, đến mùi là mộ, cho nên lá dày đặc giữa mùa hè, gặp thời thì giàu sang và thọ, không gặp thời thì nghèo nàn mà yểu".
甲戌,自库之火。不嫌众水,只忌壬戌。所谓墓中受克,其患难逃。《五行要论》云:“甲戌火为印为库,含至阳藏伏之气,贵格逢之,富贵光大。惟忌复生,防吉中有凶。”
乙亥,伏明之火。其气湮郁而不发,借己亥、辛卯、己巳、壬午发,未木生之则精神旺相,癸亥、丙午水有之则不吉。
丙子,流衍之水。不忌众土,惟嫌庚子,乃旺中逢鬼,不祥莫大焉。《五行要论》云:“丙子自旺之水,阳上阴下,精神俱全,禀之者天资旷达,识量渊深;春夏为济物之气,多建利泽之功。”
丁丑,福聚之水。最爱金生,忌辛未、丙辰、丙戌,相刑破也。《五行要论》云:“丁丑、乙酉,在数为涣弱之水,阴盛阳弱,禀之者器识清明,多慧少福,橐以水木旺气,则阴阳均协,为贵达崇显之气。”
戊寅,受伤之土。最为无力,要生旺火,以资其气。忌己亥、庚寅、辛卯诸色木克,主短折之凶。《五行要论》云:“戊寅、丙戌此二位乘土德厚气,一含生火,一含宿火,是谓阳灵袭中,福庆之辰;贵格得之,道德盖世,贵极人臣,惟亲王、贵公子多于此日生;常格得之,亦主福寿遐远,始终安逸。”
己卯,自死之土。抑又甚焉。贵得丁卯、甲戌、乙亥、己未之火,由合而来,以致其福。《五行要论》云:“己卯,自死土,建于震位,风行雷动,散为和气,德自冲虚。禀之者类有道行,随变而适,有养生自在之福寿,惟不利死绝,则为久假不归之徒。”
庚辰,气聚之金。不用火制,其器自成,火盛反丧其器,病绝火无害。若甲辰、乙巳火,恶不可言;亦不能克众木,盖我气亦聚耳。阎东叟云:“庚辰之金具刚健沈厚之德,禀聪明疏通之性。春夏福祸倚伏,秋冬秀颖充实;入格则兼资文武,带煞则好弄兵权。”
辛巳,自生之金。精神具足,体气完备,炎烈炽化而不亡。忌丙辰、乙巳、戊午之火。盖金生于巳,而不能生败于午,绝于寅而气散,复见生旺之火,乌可当之?《五行要论》云:“辛巳金为自生学堂,具英明瑰奇之德,秋冬得力十全,春夏七凶之吉;入贵格则主学行英伟,致身清贵,常怀济物之心。”
壬午,柔和之木。枝干微弱,木能生火,却忌见火多,多则烬矣。虽生旺之金,亦不能伤。盖金就我败,得金反贵。水土盛者亦贵。惟忌甲午金伤之。《五行要论》云:“壬午,自死之木。木死绝则魂游而神气灵秀,禀之者挺静明之德,抱仁者之勇,建立功行,可谓静而有勇,延年益寿。”
癸未,自库之木。生旺则佳,虽乙丑金不能冲破,各归其根而不相犯。忌庚戌、乙未金。《玉宵宝鉴》云:“壬午、癸未谓之杨柳木者,盖木至午而死,至未而墓,故盛夏叶稠,得其时则富寿,非其时则贫夭。”
.
#11
Gửi vào 25/06/2024 - 09:49
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp thân: thuỷ tự sanh. Khí của nó chảy khắp nơi, nên có quy tắc. Cũng nhờ kim sanh, không thích các loại thổ, nhất là thổ của mậu thân, canh tý. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "giáp thân thuỷ sẵn có, bao gồm tính tự nhiên học đường, hợp cách thì chủ là người trí thức thông minh tài trí, công dụng vô cùng".
Ất dậu: thuỷ tự bại. Nếu mà các loại kim phụ trợ, bởi khí của mình đã yếu nhược, nhờ mẹ để nuôi dưỡng. Kỵ thổ của kỷ dậu, kỷ mão, mậu thân, canh tý, tân sửu chính là nghèo hèn, chết yểu.
Bính tuất: thổ của phúc lớn lộc dày. Mộc không thể khắc. Kỵ gặp kim sanh vượng. Nếu mà gặp hoả vượng thì quý không thể nói.
Đinh hợi: thổ ở đất lâm quan. Mộc không thể khắc. Không thích kim nhiều, phải được hoả cứu giúp, lại là tốt. Kỵ mộc của kỷ hợi, tân mão. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "hai loại thổ của đinh hợi, canh tý có chứa kim ở bên trong, bên trong thì cứng cỏi mà bên ngoài thì êm thuận. Người sinh ra có định lực tự nhiên, dưới đất nước và lửa thúc đẩy vượng khí, có khả năng lập công, dám làm việc lớn".
Mậu tý: hoả trong thuỷ, lại nói là hoả của "thần long". Gặp nơi thuỷ thì quý trọng, vì hoả là vua của "lục khí". "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: mậu tý hàm chứa khí của tinh thần rạng rỡ viên mãn, phúc bảo tồn đời sống bốn mùa, hợp quý cách sẽ là người tài kiệt xuất chúng, phong độ lớn, phú quý luôn tốt lành".
Kỷ sửu: là hoả của "thiên tướng", lại là "thiên ất" của nhà mình. Chứa đựng khí chất uy nghiêm, ngày càng lớn mạnh, nhân cách cục quý này nên là "tướng đức", là người cầm đầu nôi tiếng tạo công lao. "Chúc Thần Kinh" nói: "sửu là thai, dưỡng của hoả, khí của nó dần dần lớn lên. Nếu như gặp hoả của bính dần, mậu ngọ phụ trợ, có thể trở thành vật có công hoàn chỉnh".
Canh dần, tân mão: mộc của mùa lạnh, tuyết sương không thể thay đổi phẩm hạnh của nó, kim có thể khắc nó không? Trên có chữ canh, tân, không đợi chế trị, tự nhiên mà thành tài. Diêm Đông Tẩu nói: "tân mão mộc tự vượng, mùa xuân, mùa hè chí khí cao siêu xuất chúng, tạo công gầy dựng sự nghiệp, sanh vào mùa thu sẽ nhanh chóng gặp trắc trở, sinh lực không kéo dài".
Nhâm thìn: thuỷ của tự khố. Nếu như nơi chứa nước là ao hồ, kỵ kim đến phá vỡ đê. Nếu gặp lại nhâm thìn gọi là tự hình, còn thìn khác thì không sao; gặp nhiều thuỷ, thổ đều tốt. Chỉ sợ gặp thuỷ của nhâm tuất, quý hợi, bính tý sanh vượng quá nhiều, mênh mông không bờ bến. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "nhâm thìn thuỷ là chánh ấn, chứa đựng đức tính tưới thấm trong sáng. Là người được phú cho đầy vẽ cao quý, tâm trí như gương. Mùa xuân, mùa hè thì khúc lớn, trí huệ; mùa thu, mùa đông là loại gian trá vô đức".
Quý tỵ: là thuỷ tự tuyệt, tên gọi là dòng chảy khô. Nếu thổ chắc và dày của bính tuất, đinh hợi, canh tý, có thể đợi khô cạn; nếu như được tam hợp kim sanh vượng sanh trợ thì suối nguồn cuồn cuộn, đầy hố rồi chảy đi. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "quý tỵ, ất mão thuỷ của tử, tuyệt, cho đến âm thầm thối lui, ẩn giấu tinh sắc, nuôi dưỡng, ngưng tụ thành quý khí, giống như là chân lý xảo diệu, người quân tử luôn có đức xưa cũ của bản thân, có công lao dính líu với vạn vật".
甲申,自生之水。其气流衍,宜有所规。亦借金生,不忌众土,特嫌戊申,庚子之土。《五行要论》云:“甲申水自生,含天真学堂,得之入局主智识聪慧,妙用无穷。”
乙酉,自败之水。假众金以相之,盖我气既弱,借母以育。忌己酉、己卯、戊申、庚子、辛丑之土,则夭折穷贱。
丙戌,福壮禄厚之土。木不能克。忌见生旺之金。若遇火盛则贵不可言。
丁亥,临官之土。木不能克。嫌金多,须得火生救之,乃吉。忌己亥、辛卯之木。《五行要论》云:“丁亥、庚子二土中含金数,内刚外和。禀之者得有定力,土下济之以水火旺气,能建功立事,敢为威果之行。”
戊子、己丑,水中之火,又曰神龙之火。遇水方贵,为六气之君火也。《五行要论》云:“戊子含精神辉光全实之气,作四时保生之福,入贵格则为大人君子,器宇含弘,富贵终吉。”
己丑,为天将之火,又为天乙本家。含威福光厚之气,发越峻猛,贵局乘之,为将德,为魁名而建功。《烛神经》云:“丑,胎养之火,其气渐隆。若遇丙寅、戊午之火助之,可成济物之功。”
庚寅、辛卯,岁寒之木。雪霜无以改其操,况金能克之乎?上有庚辛,不假制治,自然成材。阎东叟云:“辛卯木自旺,春夏则气节挺拔,建功立事;生于秋则狂狷折挫,劲气不伸。”
壬辰,自库之水。若池沼水积之地,忌金来决破。若再见壬辰,是谓自刑,别辰无咎;遇多水、土皆喜。惟畏壬戌、癸亥、丙子之水,生旺太过,汗漫无归。《五行要论》云:“壬辰水为正印,含清明润沃之德。禀之者含容弘大,心识如镜。春夏得之,作大福慧;秋冬得之,类奸诈无德。”
癸巳,为自绝之水,名曰涸流。若丙戌、丁亥、庚子壮厚之土,其涸可待;若得三合生旺之金生之,则源泉混混,盈科而进也。《五行要论》云:“癸巳、乙卯,自绝自死之水,乃至阴退,藏真精啬,养凝成贵气。贵局乘之,类是妙道,君之夙体常德,有功及物。”
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp thân: thuỷ tự sanh. Khí của nó chảy khắp nơi, nên có quy tắc. Cũng nhờ kim sanh, không thích các loại thổ, nhất là thổ của mậu thân, canh tý. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "giáp thân thuỷ sẵn có, bao gồm tính tự nhiên học đường, hợp cách thì chủ là người trí thức thông minh tài trí, công dụng vô cùng".
Ất dậu: thuỷ tự bại. Nếu mà các loại kim phụ trợ, bởi khí của mình đã yếu nhược, nhờ mẹ để nuôi dưỡng. Kỵ thổ của kỷ dậu, kỷ mão, mậu thân, canh tý, tân sửu chính là nghèo hèn, chết yểu.
Bính tuất: thổ của phúc lớn lộc dày. Mộc không thể khắc. Kỵ gặp kim sanh vượng. Nếu mà gặp hoả vượng thì quý không thể nói.
Đinh hợi: thổ ở đất lâm quan. Mộc không thể khắc. Không thích kim nhiều, phải được hoả cứu giúp, lại là tốt. Kỵ mộc của kỷ hợi, tân mão. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "hai loại thổ của đinh hợi, canh tý có chứa kim ở bên trong, bên trong thì cứng cỏi mà bên ngoài thì êm thuận. Người sinh ra có định lực tự nhiên, dưới đất nước và lửa thúc đẩy vượng khí, có khả năng lập công, dám làm việc lớn".
Mậu tý: hoả trong thuỷ, lại nói là hoả của "thần long". Gặp nơi thuỷ thì quý trọng, vì hoả là vua của "lục khí". "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: mậu tý hàm chứa khí của tinh thần rạng rỡ viên mãn, phúc bảo tồn đời sống bốn mùa, hợp quý cách sẽ là người tài kiệt xuất chúng, phong độ lớn, phú quý luôn tốt lành".
Kỷ sửu: là hoả của "thiên tướng", lại là "thiên ất" của nhà mình. Chứa đựng khí chất uy nghiêm, ngày càng lớn mạnh, nhân cách cục quý này nên là "tướng đức", là người cầm đầu nôi tiếng tạo công lao. "Chúc Thần Kinh" nói: "sửu là thai, dưỡng của hoả, khí của nó dần dần lớn lên. Nếu như gặp hoả của bính dần, mậu ngọ phụ trợ, có thể trở thành vật có công hoàn chỉnh".
Canh dần, tân mão: mộc của mùa lạnh, tuyết sương không thể thay đổi phẩm hạnh của nó, kim có thể khắc nó không? Trên có chữ canh, tân, không đợi chế trị, tự nhiên mà thành tài. Diêm Đông Tẩu nói: "tân mão mộc tự vượng, mùa xuân, mùa hè chí khí cao siêu xuất chúng, tạo công gầy dựng sự nghiệp, sanh vào mùa thu sẽ nhanh chóng gặp trắc trở, sinh lực không kéo dài".
Nhâm thìn: thuỷ của tự khố. Nếu như nơi chứa nước là ao hồ, kỵ kim đến phá vỡ đê. Nếu gặp lại nhâm thìn gọi là tự hình, còn thìn khác thì không sao; gặp nhiều thuỷ, thổ đều tốt. Chỉ sợ gặp thuỷ của nhâm tuất, quý hợi, bính tý sanh vượng quá nhiều, mênh mông không bờ bến. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "nhâm thìn thuỷ là chánh ấn, chứa đựng đức tính tưới thấm trong sáng. Là người được phú cho đầy vẽ cao quý, tâm trí như gương. Mùa xuân, mùa hè thì khúc lớn, trí huệ; mùa thu, mùa đông là loại gian trá vô đức".
Quý tỵ: là thuỷ tự tuyệt, tên gọi là dòng chảy khô. Nếu thổ chắc và dày của bính tuất, đinh hợi, canh tý, có thể đợi khô cạn; nếu như được tam hợp kim sanh vượng sanh trợ thì suối nguồn cuồn cuộn, đầy hố rồi chảy đi. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "quý tỵ, ất mão thuỷ của tử, tuyệt, cho đến âm thầm thối lui, ẩn giấu tinh sắc, nuôi dưỡng, ngưng tụ thành quý khí, giống như là chân lý xảo diệu, người quân tử luôn có đức xưa cũ của bản thân, có công lao dính líu với vạn vật".
甲申,自生之水。其气流衍,宜有所规。亦借金生,不忌众土,特嫌戊申,庚子之土。《五行要论》云:“甲申水自生,含天真学堂,得之入局主智识聪慧,妙用无穷。”
乙酉,自败之水。假众金以相之,盖我气既弱,借母以育。忌己酉、己卯、戊申、庚子、辛丑之土,则夭折穷贱。
丙戌,福壮禄厚之土。木不能克。忌见生旺之金。若遇火盛则贵不可言。
丁亥,临官之土。木不能克。嫌金多,须得火生救之,乃吉。忌己亥、辛卯之木。《五行要论》云:“丁亥、庚子二土中含金数,内刚外和。禀之者得有定力,土下济之以水火旺气,能建功立事,敢为威果之行。”
戊子、己丑,水中之火,又曰神龙之火。遇水方贵,为六气之君火也。《五行要论》云:“戊子含精神辉光全实之气,作四时保生之福,入贵格则为大人君子,器宇含弘,富贵终吉。”
己丑,为天将之火,又为天乙本家。含威福光厚之气,发越峻猛,贵局乘之,为将德,为魁名而建功。《烛神经》云:“丑,胎养之火,其气渐隆。若遇丙寅、戊午之火助之,可成济物之功。”
庚寅、辛卯,岁寒之木。雪霜无以改其操,况金能克之乎?上有庚辛,不假制治,自然成材。阎东叟云:“辛卯木自旺,春夏则气节挺拔,建功立事;生于秋则狂狷折挫,劲气不伸。”
壬辰,自库之水。若池沼水积之地,忌金来决破。若再见壬辰,是谓自刑,别辰无咎;遇多水、土皆喜。惟畏壬戌、癸亥、丙子之水,生旺太过,汗漫无归。《五行要论》云:“壬辰水为正印,含清明润沃之德。禀之者含容弘大,心识如镜。春夏得之,作大福慧;秋冬得之,类奸诈无德。”
癸巳,为自绝之水,名曰涸流。若丙戌、丁亥、庚子壮厚之土,其涸可待;若得三合生旺之金生之,则源泉混混,盈科而进也。《五行要论》云:“癸巳、乙卯,自绝自死之水,乃至阴退,藏真精啬,养凝成贵气。贵局乘之,类是妙道,君之夙体常德,有功及物。”
.
#12
Gửi vào 25/06/2024 - 09:57
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp ngọ: kim tự bại, cũng nói là kim của sức mạnh. Gặp hoả sanh vượng, thì khí nó sẽ thành tựu. Kỵ hoả của đinh mão, đinh dậu, mậu tý thì xấu. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "giáp ngọ kim là tiến thần khôi khí, có đầy đủ đức hạnh ngay thẳng công khai. Mùa thu, mùa đông thì tốt, mùa xuân, mùa hè có thể xấu; hợp quý cách chủ có công lãnh đạo quần chung xây dựng phòng thi, nếu sai thời đeo mang hung thần sẽ ngang ngược hung bạo, ít ân tình thiếu phép tắc".
Ất mùi: Kim của thiên khố. Chỉ có hoả chế mà thổ sanh thì phúc lớn khí tụ.Kỵ hoả của kỷ mùi, bính thân, đinh dậu. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "ất mùi kim theo vận số là mộc khố, lại là "thiên tướng". Có đầy đủ đức tính thành thật, nhân từ, trung hậu, mọi việc sẽ tốt lành. Được quý cách, là anh hùng hào kiệt phi thường, người lãnh đạo quần chúng; được thường cách, đeo mang hung thần xung phạm, cũng là quân tử trong bọn tiểu nhân, là người sống lâu, trường thọ".
Bính thân: hoả tự bại, đinh dậu: hoả tự tử. Khí của nó rất yếu, cần được mộc phụ trợ thì khí của nó sẽ phát sanh. Kỵ thuỷ của giáp thân, ất dậu, giáp dần, ất mão. Diêm Đông Tẩu nói: "bính thân hoả bệnh. dùng mộc làm văn đức chói lọi, dùng thuỷ làm tính chất cởi mở, dùng thổ làm nền tảng của phước lành và trí tuệ; chỉ kim là hành vi hung ác tàn khốc, cho dù được thời gian tốt lành, cũng đổi thay thành tinh thần bất hoà".
Mậu tuất: mộc trong thổ. Kỵ gặp quá nhiều thổ, nếu như nạp âm thổ nhiều thì một đời truân chiên, khó khăn. Kim không thể khắc, bởi khí của kim đến tuất thì tán, gâp kim lại có thể là phúc lành; lợi ích gặp thuỷ nhiều mộc thịnh vượng nên sẽ là cách quý. Diêm Đông Tẩu nói: "mộc của mậu tuất, rễ lẻ loi không có nơi nương tựa, hưởng ứng với thuỷ, hoả vượng sẽ có đức hạnh của trí tuệ và đẹp đẽ, hợp cách thì văn chương khoáng đạt, phúc lộc cả đời, Tuy nhiên nhân vì khí thịnh vượng tự nhiên, chủ chuẩn bị trải qua nguy hiểm, giữ lòng dạ không thay đổi, sẽ được phúc muộn".
Kỷ hợi: mộc tư sanh. Gốc rễ nhiều, không sợ các loại kim, chỉ ngại kim của tân hợi, tân tỵ, quý dậu; nếu gặp thuỷ của ất mão, đinh mùi hay mộc của quý mùi, không có quý trọng lắm. Diêm Đông Tẩu nói: "mộc của kỷ hợi, gặp thời thì thanh quý, sai thời thì khó khăn".
Canh tý: thổ của đức sâu dày. Có thể khắc các loại thuỷ, không kỵ các loại mộc khác, bởi vì mộc vô khí ở tý; nếu gặp kim của nhâm thân là lộc vị rõ ràng, nó quý trọng phải biết. Tân sửu: thổ của phúc lành hội tụ. Các loại mộc không thể khắc, bởi sửu là khố của kim, có kim trong sửu, gặp mộc làm sao có thể bị thương tổn được? "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "canh tý, tân sửu là thổ ưa thích mộc mà ghét thuỷ, gặp mộc là quan, gặp thuỷ thì không thích hợp".
Nhâm dần: kim ở chỗ tuyệt, quý mão: kim ở chỗ khí tán. Nếu gặp các loại hoả sẽ mất khí của nó, chỉ có thuỷ, thổ hướng về nó thì tốt. " "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: " nhâm dần, quý mão là vàng của hư bạc, mỏng manh, co đầy đủ đức hạnh của lòng nhân từ và ngay thẳng hợp với lẽ phải. Cứng chắc của mùa động vẫn không hung xấu, hung xấu là điềm tốt lành; mùa xuân, mùa hè thì trong xấu mà ngoài tốt, nếu như trước xấu thì tốt. Hợp cách quý thì chí khí kiệt xuất hơn người, đới sát thì hung bạo không thể kết thúc".
甲午,自败之金,亦曰强悍之金。遇火生旺,其器乃成。忌丁卯、丁酉、戊子之火凶。《五行要论》云:“甲午金为进神魁气,具刚明之德。秋冬则吉,春夏或凶;入贵格主科场建统众之功,非时带煞,则暴戾克忍,寡恩少义。”
乙未,偏库之金。亦火制,而土生之则福壮气聚。忌己未、丙申、丁酉之火。《五行要论》云:“乙未金在数为木库,又为天将。具纯仁厚义之德,无往不吉。贵格得之,是不世之英杰,魁镇士伦;常格得之,带煞冲犯,亦作小人中之君子,眉寿人也。”
丙申,自病之火,丁酉,自死之火。其气极微,假木相助,其气方生。忌甲申、乙酉、甲寅、乙卯之水。阎东叟云:“丙申,病火。以木为文明之德,以水为旷达之性,以土为福慧之基;惟金为暴疟,纵有吉辰,革为不和之气。”
戊戌,土中之木。忌重见土,若纳音土多,一生屯蹇。金不能克,盖金气至戌而散,遇金乃能致福;利见水多木盛而为贵格。阎东叟云:“戊戌之木,孤根独立,和之以水火旺气则有英明秀实之德,入格则文章进达,福禄始终,然乘天将之气,主备历艰险,节操不移,方见晚福。”
己亥,自生之木。根本繁盛,不忌众金,惟嫌辛亥、辛巳、癸酉之金;若见乙卯、丁未水、癸未木,未有不大贵。阎东叟云:“己亥之木,得时则清贵,非时则辛苦。”
庚子,厚德之士。能克众水,不忌他木,盖木至子无气;若遇壬申之金,谓之明位禄,其贵必矣。
辛丑,福聚之土。众木不能克,盖丑为金库,丑中有金,见木何伤?《玉宵宝鉴》云:“庚子、辛丑土爱木而恶水,见木为官,见水不相宜。”
壬寅,自绝之金,癸卯,气散之金。若见众火则丧气,惟水、土朝之则吉。《五行要论》云:“壬寅、癸卯为虚薄之金,具仁柔义刚之德。科冬刚健无凶,凶为吉兆;春夏则内凶外吉,吉乃先凶。入贵格则志节英明,带煞则凶暴不能终也。”
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp ngọ: kim tự bại, cũng nói là kim của sức mạnh. Gặp hoả sanh vượng, thì khí nó sẽ thành tựu. Kỵ hoả của đinh mão, đinh dậu, mậu tý thì xấu. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "giáp ngọ kim là tiến thần khôi khí, có đầy đủ đức hạnh ngay thẳng công khai. Mùa thu, mùa đông thì tốt, mùa xuân, mùa hè có thể xấu; hợp quý cách chủ có công lãnh đạo quần chung xây dựng phòng thi, nếu sai thời đeo mang hung thần sẽ ngang ngược hung bạo, ít ân tình thiếu phép tắc".
Ất mùi: Kim của thiên khố. Chỉ có hoả chế mà thổ sanh thì phúc lớn khí tụ.Kỵ hoả của kỷ mùi, bính thân, đinh dậu. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "ất mùi kim theo vận số là mộc khố, lại là "thiên tướng". Có đầy đủ đức tính thành thật, nhân từ, trung hậu, mọi việc sẽ tốt lành. Được quý cách, là anh hùng hào kiệt phi thường, người lãnh đạo quần chúng; được thường cách, đeo mang hung thần xung phạm, cũng là quân tử trong bọn tiểu nhân, là người sống lâu, trường thọ".
Bính thân: hoả tự bại, đinh dậu: hoả tự tử. Khí của nó rất yếu, cần được mộc phụ trợ thì khí của nó sẽ phát sanh. Kỵ thuỷ của giáp thân, ất dậu, giáp dần, ất mão. Diêm Đông Tẩu nói: "bính thân hoả bệnh. dùng mộc làm văn đức chói lọi, dùng thuỷ làm tính chất cởi mở, dùng thổ làm nền tảng của phước lành và trí tuệ; chỉ kim là hành vi hung ác tàn khốc, cho dù được thời gian tốt lành, cũng đổi thay thành tinh thần bất hoà".
Mậu tuất: mộc trong thổ. Kỵ gặp quá nhiều thổ, nếu như nạp âm thổ nhiều thì một đời truân chiên, khó khăn. Kim không thể khắc, bởi khí của kim đến tuất thì tán, gâp kim lại có thể là phúc lành; lợi ích gặp thuỷ nhiều mộc thịnh vượng nên sẽ là cách quý. Diêm Đông Tẩu nói: "mộc của mậu tuất, rễ lẻ loi không có nơi nương tựa, hưởng ứng với thuỷ, hoả vượng sẽ có đức hạnh của trí tuệ và đẹp đẽ, hợp cách thì văn chương khoáng đạt, phúc lộc cả đời, Tuy nhiên nhân vì khí thịnh vượng tự nhiên, chủ chuẩn bị trải qua nguy hiểm, giữ lòng dạ không thay đổi, sẽ được phúc muộn".
Kỷ hợi: mộc tư sanh. Gốc rễ nhiều, không sợ các loại kim, chỉ ngại kim của tân hợi, tân tỵ, quý dậu; nếu gặp thuỷ của ất mão, đinh mùi hay mộc của quý mùi, không có quý trọng lắm. Diêm Đông Tẩu nói: "mộc của kỷ hợi, gặp thời thì thanh quý, sai thời thì khó khăn".
Canh tý: thổ của đức sâu dày. Có thể khắc các loại thuỷ, không kỵ các loại mộc khác, bởi vì mộc vô khí ở tý; nếu gặp kim của nhâm thân là lộc vị rõ ràng, nó quý trọng phải biết. Tân sửu: thổ của phúc lành hội tụ. Các loại mộc không thể khắc, bởi sửu là khố của kim, có kim trong sửu, gặp mộc làm sao có thể bị thương tổn được? "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "canh tý, tân sửu là thổ ưa thích mộc mà ghét thuỷ, gặp mộc là quan, gặp thuỷ thì không thích hợp".
Nhâm dần: kim ở chỗ tuyệt, quý mão: kim ở chỗ khí tán. Nếu gặp các loại hoả sẽ mất khí của nó, chỉ có thuỷ, thổ hướng về nó thì tốt. " "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: " nhâm dần, quý mão là vàng của hư bạc, mỏng manh, co đầy đủ đức hạnh của lòng nhân từ và ngay thẳng hợp với lẽ phải. Cứng chắc của mùa động vẫn không hung xấu, hung xấu là điềm tốt lành; mùa xuân, mùa hè thì trong xấu mà ngoài tốt, nếu như trước xấu thì tốt. Hợp cách quý thì chí khí kiệt xuất hơn người, đới sát thì hung bạo không thể kết thúc".
甲午,自败之金,亦曰强悍之金。遇火生旺,其器乃成。忌丁卯、丁酉、戊子之火凶。《五行要论》云:“甲午金为进神魁气,具刚明之德。秋冬则吉,春夏或凶;入贵格主科场建统众之功,非时带煞,则暴戾克忍,寡恩少义。”
乙未,偏库之金。亦火制,而土生之则福壮气聚。忌己未、丙申、丁酉之火。《五行要论》云:“乙未金在数为木库,又为天将。具纯仁厚义之德,无往不吉。贵格得之,是不世之英杰,魁镇士伦;常格得之,带煞冲犯,亦作小人中之君子,眉寿人也。”
丙申,自病之火,丁酉,自死之火。其气极微,假木相助,其气方生。忌甲申、乙酉、甲寅、乙卯之水。阎东叟云:“丙申,病火。以木为文明之德,以水为旷达之性,以土为福慧之基;惟金为暴疟,纵有吉辰,革为不和之气。”
戊戌,土中之木。忌重见土,若纳音土多,一生屯蹇。金不能克,盖金气至戌而散,遇金乃能致福;利见水多木盛而为贵格。阎东叟云:“戊戌之木,孤根独立,和之以水火旺气则有英明秀实之德,入格则文章进达,福禄始终,然乘天将之气,主备历艰险,节操不移,方见晚福。”
己亥,自生之木。根本繁盛,不忌众金,惟嫌辛亥、辛巳、癸酉之金;若见乙卯、丁未水、癸未木,未有不大贵。阎东叟云:“己亥之木,得时则清贵,非时则辛苦。”
庚子,厚德之士。能克众水,不忌他木,盖木至子无气;若遇壬申之金,谓之明位禄,其贵必矣。
辛丑,福聚之土。众木不能克,盖丑为金库,丑中有金,见木何伤?《玉宵宝鉴》云:“庚子、辛丑土爱木而恶水,见木为官,见水不相宜。”
壬寅,自绝之金,癸卯,气散之金。若见众火则丧气,惟水、土朝之则吉。《五行要论》云:“壬寅、癸卯为虚薄之金,具仁柔义刚之德。科冬刚健无凶,凶为吉兆;春夏则内凶外吉,吉乃先凶。入贵格则志节英明,带煞则凶暴不能终也。”
.
#13
Gửi vào 25/06/2024 - 10:12
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp thìn: hoả của khố lệch.Được nhiều hoả phụ trợ thì tốt, gọi là tìm kiếm khí giống nhau để bổ túc thiếu sót của nó. Nếu gặp mộc của mậu thìn, mậu tuất sanh cho thì đó là cách quý; kỵ thuỷ của nhâm thìn, nhâm tuất, bính ngọ, đinh mùi thì rất độc. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "giáp thìn, là hoả của thiên tướng, chứa đựng tinh thần nhanh nhẹn và quyết liệt, hợp cách quý sẽ là hiển quý khác thường, đứng đầu về văn chương, lợi ở mùa thu và mùa dông, không lợi ở mùa hè".
Ất tỵ: hoả ở vị trí lâm quan, thuỷ không thể khắc, bởi thuỷ tuyệt ở tỵ; được thuỷ cứu giúp sẽ là thuần tuý. Nếu được hai hay ba hoả phụ trợ càng tốt. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "ất tỵ hoả chứa đựng khí thuần dương của tốn phát ra, ánh sáng rực rỡ, mùa xuân và mùa đông thì tốt, mùa hè và mùa thu thì xấu".
Bính ngọ, đinh mùi: thuỷ của sông ngân hà. Thổ không thể khắc, nước ở trên trời nên kim ở dưới đất không thể sanh. Sanh vượng thái quá trái lại làm thương tổn vạn vật; tử tuyệt quá nhiều, lại không thể sanh cho vạn vật. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "bính ngọ thuỷ được tôn trọng nhất, bản chất là khí ôn hậu của phương nam. Người được trời phú cho đạo và khí thì trống rỗng và hay biến đổi, thông minh khác thường, là người cầm đầu trong đám đôn,. đinh mùi có đầy đủ kim số của thiên địa nhân, có tinh thần cải chính. Người được trời phú thì chủ có tinh thần đầy năng lượng, rất khéo tìm ra phương cách để thay đổi thần kỳ".
Mậu thân: thổ của gò đất to lớn. Mộc tuyệt ở thân, nên không thể khắc. Nếu gặp nhiều kim và thuỷ phụ trợ sẽ là cách giàu sang vẻ vang.
Kỷ dậu: thổ ở nơi tự bại. Khí của nó không đủ, phải nhờ hoả giúp đỡ. Gặp lửa của đinh mão, đinh dậu sẽ tốt, rất kỵ tử, tuyệt. Sợ mộc của tân mão, tân dậu, tai nạn khốn khó và dễ chết yểu.
Canh tuất, tân hợi: kim dần thành hình. Không nên gặp hoả, e sợ có chỗ bị thương tổn. Nếu được thuỷ, thổ giúp đỡ là cách quý. Diêm Đông Tẩu nói: "canh tuất kim ở hoả mộ, bộc lộ sự tự chủ cương trực trinh liệt. Mùa thu chuyển động hàu như chìm đắm và dày đặc, mùa xuân mùa hè động sanh hối tiếc; quân tử thì nắm quyền binh hình, tiểu nhân thì tính chất hầu như bạo ngược. Tân hợi kim khí của nó vốn là khoẻ mạnh, trong sáng và trung chánh, mùa xuân, mùa thu, mùa đông là ba mùa tốt lành, mùa hè thì bảy phần tốt ba phần hung. Nhân được cách quý, nên nhân từ và giữ lẻ phải; nếu đới hình, sát thì buông thả, bạo ngược, giánh lấy công lao".
Nhâm tý: mộc của chuyên vị, quý sửu: mộc của khố lệch. Gặp tử, tuyệt thì giàu sang, sanh vượng thì nghèo hèn; thuỷ nhiều thì chết non; kim nhiều thổ vượng là tốt. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "nhâm tý, mộc của tối tăm, dương thì yếu nhược mà âm thì thịnh vượng, mềm mà không thẳng, tương tự như đức tính thương yêu của thuỷ. Dụng sự chỉ đối với bính ngọ thuỷ tức là đức của thuỷ mộc xung tuý, tương tự hợp với tiêu chuẩn của thần tiên dị sĩ, không như trường phái tầm thường".
甲辰,偏库之火。多火助之,吉,所谓同气之求,以资其不足。若见戊辰、戊戌木生之,为贵格;忌壬辰、壬戌、丙午、丁未水最毒。《五行要论》云:“甲辰为天将之火,含敏速峻烈之气,入贵格则为特达,为文魁,利秋冬,不利于夏。”
乙巳,临官之火。水不能克,盖水绝于巳;得水济之,则为纯粹。若得二三火助之,亦佳。《五行要论》云:“乙巳火含纯阳巽发之气,光辉充实,春冬向吉,夏秋向凶。”
丙午、丁未,银汉之水。土不能克,天上之水,地金不能生也。生旺太过,反伤于万物;死绝太多,又不能生万物。《五行要论》云:“丙午,至崇之水,体南方温厚之气。禀之者类有道气虚变,颖异有为,魁众出伦;丁未具足三才金数,得冲正之气。禀之者主精神气全,性根高妙尽变之道。”
戊申,重阜之土。木绝于申,不能克。若见金水多助,则富贵尊荣之格也。
己酉,自败之土。其气不足,借火以相助之。见丁卯、丁酉火则吉,切忌死绝。畏辛卯、辛酉木,灾蹇夭折。
庚戌、辛亥,渐成之金。不可见火,恐有所伤。若得水、土相之为贵。阎东叟云:“庚戌,火墓之金,有刚烈自恃之暴。秋动庶几沈厚,春夏动生悔吝;君子执兵刑之权,小人恣犷悍之性。辛亥金禀乾健、纯明、中正之气,春、秋、冬三时吉,夏七吉三凶。贵格乘之,体仁守义;若带刑杀,肆暴贪功。”
壬子,专位之木,癸丑,偏库之木。遇死绝则富贵、生旺则贫贱;水多则夭折;金多土盛为佳。《五行要论》云:“壬子,幽阴之木,阳弱阴盛,柔而无立,类仁水德。用事惟对以丙午水,则为水、木冲粹之德,类入神仙异士标格,非常流也。”
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp thìn: hoả của khố lệch.Được nhiều hoả phụ trợ thì tốt, gọi là tìm kiếm khí giống nhau để bổ túc thiếu sót của nó. Nếu gặp mộc của mậu thìn, mậu tuất sanh cho thì đó là cách quý; kỵ thuỷ của nhâm thìn, nhâm tuất, bính ngọ, đinh mùi thì rất độc. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "giáp thìn, là hoả của thiên tướng, chứa đựng tinh thần nhanh nhẹn và quyết liệt, hợp cách quý sẽ là hiển quý khác thường, đứng đầu về văn chương, lợi ở mùa thu và mùa dông, không lợi ở mùa hè".
Ất tỵ: hoả ở vị trí lâm quan, thuỷ không thể khắc, bởi thuỷ tuyệt ở tỵ; được thuỷ cứu giúp sẽ là thuần tuý. Nếu được hai hay ba hoả phụ trợ càng tốt. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "ất tỵ hoả chứa đựng khí thuần dương của tốn phát ra, ánh sáng rực rỡ, mùa xuân và mùa đông thì tốt, mùa hè và mùa thu thì xấu".
Bính ngọ, đinh mùi: thuỷ của sông ngân hà. Thổ không thể khắc, nước ở trên trời nên kim ở dưới đất không thể sanh. Sanh vượng thái quá trái lại làm thương tổn vạn vật; tử tuyệt quá nhiều, lại không thể sanh cho vạn vật. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "bính ngọ thuỷ được tôn trọng nhất, bản chất là khí ôn hậu của phương nam. Người được trời phú cho đạo và khí thì trống rỗng và hay biến đổi, thông minh khác thường, là người cầm đầu trong đám đôn,. đinh mùi có đầy đủ kim số của thiên địa nhân, có tinh thần cải chính. Người được trời phú thì chủ có tinh thần đầy năng lượng, rất khéo tìm ra phương cách để thay đổi thần kỳ".
Mậu thân: thổ của gò đất to lớn. Mộc tuyệt ở thân, nên không thể khắc. Nếu gặp nhiều kim và thuỷ phụ trợ sẽ là cách giàu sang vẻ vang.
Kỷ dậu: thổ ở nơi tự bại. Khí của nó không đủ, phải nhờ hoả giúp đỡ. Gặp lửa của đinh mão, đinh dậu sẽ tốt, rất kỵ tử, tuyệt. Sợ mộc của tân mão, tân dậu, tai nạn khốn khó và dễ chết yểu.
Canh tuất, tân hợi: kim dần thành hình. Không nên gặp hoả, e sợ có chỗ bị thương tổn. Nếu được thuỷ, thổ giúp đỡ là cách quý. Diêm Đông Tẩu nói: "canh tuất kim ở hoả mộ, bộc lộ sự tự chủ cương trực trinh liệt. Mùa thu chuyển động hàu như chìm đắm và dày đặc, mùa xuân mùa hè động sanh hối tiếc; quân tử thì nắm quyền binh hình, tiểu nhân thì tính chất hầu như bạo ngược. Tân hợi kim khí của nó vốn là khoẻ mạnh, trong sáng và trung chánh, mùa xuân, mùa thu, mùa đông là ba mùa tốt lành, mùa hè thì bảy phần tốt ba phần hung. Nhân được cách quý, nên nhân từ và giữ lẻ phải; nếu đới hình, sát thì buông thả, bạo ngược, giánh lấy công lao".
Nhâm tý: mộc của chuyên vị, quý sửu: mộc của khố lệch. Gặp tử, tuyệt thì giàu sang, sanh vượng thì nghèo hèn; thuỷ nhiều thì chết non; kim nhiều thổ vượng là tốt. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "nhâm tý, mộc của tối tăm, dương thì yếu nhược mà âm thì thịnh vượng, mềm mà không thẳng, tương tự như đức tính thương yêu của thuỷ. Dụng sự chỉ đối với bính ngọ thuỷ tức là đức của thuỷ mộc xung tuý, tương tự hợp với tiêu chuẩn của thần tiên dị sĩ, không như trường phái tầm thường".
甲辰,偏库之火。多火助之,吉,所谓同气之求,以资其不足。若见戊辰、戊戌木生之,为贵格;忌壬辰、壬戌、丙午、丁未水最毒。《五行要论》云:“甲辰为天将之火,含敏速峻烈之气,入贵格则为特达,为文魁,利秋冬,不利于夏。”
乙巳,临官之火。水不能克,盖水绝于巳;得水济之,则为纯粹。若得二三火助之,亦佳。《五行要论》云:“乙巳火含纯阳巽发之气,光辉充实,春冬向吉,夏秋向凶。”
丙午、丁未,银汉之水。土不能克,天上之水,地金不能生也。生旺太过,反伤于万物;死绝太多,又不能生万物。《五行要论》云:“丙午,至崇之水,体南方温厚之气。禀之者类有道气虚变,颖异有为,魁众出伦;丁未具足三才金数,得冲正之气。禀之者主精神气全,性根高妙尽变之道。”
戊申,重阜之土。木绝于申,不能克。若见金水多助,则富贵尊荣之格也。
己酉,自败之土。其气不足,借火以相助之。见丁卯、丁酉火则吉,切忌死绝。畏辛卯、辛酉木,灾蹇夭折。
庚戌、辛亥,渐成之金。不可见火,恐有所伤。若得水、土相之为贵。阎东叟云:“庚戌,火墓之金,有刚烈自恃之暴。秋动庶几沈厚,春夏动生悔吝;君子执兵刑之权,小人恣犷悍之性。辛亥金禀乾健、纯明、中正之气,春、秋、冬三时吉,夏七吉三凶。贵格乘之,体仁守义;若带刑杀,肆暴贪功。”
壬子,专位之木,癸丑,偏库之木。遇死绝则富贵、生旺则贫贱;水多则夭折;金多土盛为佳。《五行要论》云:“壬子,幽阴之木,阳弱阴盛,柔而无立,类仁水德。用事惟对以丙午水,则为水、木冲粹之德,类入神仙异士标格,非常流也。”
.
#14
Gửi vào 25/06/2024 - 10:20
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp dần: thuỷ bệnh, ất mão: thuỷ tử. Tuy nhiên tử bệnh mà thổ không thể khắc. Bởi hai mộc của can chi có thể chế thổ. Nếu gặp kim của nhâm dần, quý mão, sẽ là dồi dào. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "thuỷ của giáp dần, nhâm tuất ngầm chống đối nhau, âm thắng ở dương, chủ gian tà làm hại vật, chỉ dùng hoả, thổ cứu giúp tổn ích, mới thành tài năng".
Bính thìn: thổ củ tự khố. Dày lại mạnh khoẻ, thích lửa của giáp thìn, ghét mộc của mậu thìn. Thổ này thường mộc không thể làm thương tổn, bởi vì có bính hoả vậy. Thìn là hoả của khố lệch, thổ đã trở thành khí cụ. Chỉ hiềm mộc của mậu tuất, kỷ hợi, tân mão, mậu thìn. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "bính thìn thổ là chánh ấn, đức hội kiến của ngũ phúc. Trời phú cho tất cả đều được thịnh vượng, không giàu cũng sang, chỉ người phạm xung nhiều dễ thành tăng đạo".
Đinh tỵ: thổ của tự tuyệt. Lại không bị tuyệt, bởi thổ ở dưới của hai chữ hoả, chỗ quê nhà của cha mẹ, tận dụng ân huệ của trời, cho nên không bị tuyệt. Mộc không thể khắc, hoả thường thêm tốt đẹp. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "đinh tỵ chứa đựng đức hoả vượng của đông nam, người được vận số này sẽ được phúc thọ".
Mậu ngọ: hoả tự vượng, kỷ mùi: hoả của khố lệch. Ở nơi sáng của cung ly, đất vượng tướng, khí của nó rất thịnh, các loại thuỷ không thương tổn được. Kỵ thiên thượng thuỷ của bính ngọ, đinh mùi. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "kỷ mùi, hoả suy, chứa đựng kho báu còn thừa lại, tháng xuân và tháng hè, vận vào đất chìm ngập, sẽ thông minh sáng suốt, phúc lành sẽ lan rộng, nhận được vào mùa hè thì chẳng ôn hoà thân thiện, nhận được vào mùa thu sẽ trước tốt sau xấu".
Canh thân, tân dậu: hai mộc. Kim ở trên mộc, bởi vì kim đã thành khí, nên kỵ gặp lại kim, sẽ làm huỷ hoại tài năng của nó. Nếu gặp thuỷ của giáp thân, ất dậu sẽ hợp cách. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "canh thân, mộc tự tuyệt, là linh hồn lang thang và biến đổi, người sanh gặp ngày này, giống như tài năng phi phàm, thường cách chủ trời cho tính thông minh lạ kỳ, gia tộc không trói buộc, hợp cách quý là tài năng xuất chúng, lập công lao phi thường; tân dậu, mộc sai vị trí, mộc khốn ở đất của kim, người này thường phải trải qua nhiều khó khăn, chỉ điều chỉnh bằng kim của quý mão sẽ là cương nhu giúp đỡ lẫn nhau, cao siêu xuất chúng, nhất định cao chót vót".
Nhâm tuất: thuỷ của khố lệch, quý hợi: thuỷ ở lâm quan, tên gọi là "đại hải thuỷ". Bởi can, chi, nạp âm đều là thuỷ, kỵ thấy các loại thuỷ, cho dù nhâm thuỷ là kho thuỷ cũng không thể thoả đáng. Không kỵ các loại thổ khác, tử tuyệt thì tốt lành, còn sanh vượng thì trôi nỗi không có chỗ quay về. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "hợi, tý là thuỷ ở chánh vị, khí của nhâm tuất thì bị thu phục mà không thuận theo, chỉ có thuỷ này cần tổn thổ mà được lợi ích sẽ thành tài năng".
甲寅,自病之水,乙卯,自死之水。虽然死病,土不能克,盖支干二木可以制土。若见壬寅、癸卯之金,则为优裕。《五行要论》云:“甲寅、壬戌二水为伏逆,阴胜于阳,主奸邪害物,惟济之以火土损益,方成大器。”
丙辰,自库之土。厚且壮,喜甲辰火,恶戊辰木。此土凡木不能伤,盖丙,火也,辰为火偏库,土已成器。惟嫌戊戌、己亥、辛卯、戊辰之木。《五行要论》云:“丙辰土为正印,建五福吉会之德。禀之者类皆亨大有为,不富即贵,惟犯冲者多为僧道。”
丁巳,自绝之土。又不为绝,盖一土居二火之下,在父母之乡,乘天属之恩,故不为绝。木不能克,火多益佳。《玉宵宝鉴》云:“丁巳含东南火德旺,数得之者,含容福寿。”
戊午,自旺之火,己未,偏库之火。居离明之方,旺相之地,其气极盛,他水无伤。忌丙午、丁未天上之水。《五行要论》云:“己未,衰火,含余藏宝之气,春夏之月,运入沈潜之乡,则明达峻敏,福庆深远,夏得之,非和气也,秋得之,则先吉后凶。”
庚申、辛酉二木,金居木上,因金以成器,忌再见金,致毁其器。若见甲申、乙酉水则入格。《玉宵宝鉴》云:"庚申,自绝木,为魂游神变,遇此日生者,类非凡器,常格主赋性颖异,家族不羁,入贵格则是英杰之才,立不世之功;辛酉,失位之木,木困金乡,乘之者涉世多艰,惟对癸卯金则刚柔相济,挺拔出群,决取巍科。"
壬戌,偏库之水,癸亥,临官之水,名曰大海水。盖支干、纳音皆水,忌见群水,虽壬辰水库亦不能当。不忌他土,死绝则吉,生旺则泛滥无所归也。《玉宵宝鉴》云:“亥子,水之正位,壬戌气伏而不顺,唯此水、土损益之,乃成大器。”
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Giáp dần: thuỷ bệnh, ất mão: thuỷ tử. Tuy nhiên tử bệnh mà thổ không thể khắc. Bởi hai mộc của can chi có thể chế thổ. Nếu gặp kim của nhâm dần, quý mão, sẽ là dồi dào. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "thuỷ của giáp dần, nhâm tuất ngầm chống đối nhau, âm thắng ở dương, chủ gian tà làm hại vật, chỉ dùng hoả, thổ cứu giúp tổn ích, mới thành tài năng".
Bính thìn: thổ củ tự khố. Dày lại mạnh khoẻ, thích lửa của giáp thìn, ghét mộc của mậu thìn. Thổ này thường mộc không thể làm thương tổn, bởi vì có bính hoả vậy. Thìn là hoả của khố lệch, thổ đã trở thành khí cụ. Chỉ hiềm mộc của mậu tuất, kỷ hợi, tân mão, mậu thìn. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "bính thìn thổ là chánh ấn, đức hội kiến của ngũ phúc. Trời phú cho tất cả đều được thịnh vượng, không giàu cũng sang, chỉ người phạm xung nhiều dễ thành tăng đạo".
Đinh tỵ: thổ của tự tuyệt. Lại không bị tuyệt, bởi thổ ở dưới của hai chữ hoả, chỗ quê nhà của cha mẹ, tận dụng ân huệ của trời, cho nên không bị tuyệt. Mộc không thể khắc, hoả thường thêm tốt đẹp. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "đinh tỵ chứa đựng đức hoả vượng của đông nam, người được vận số này sẽ được phúc thọ".
Mậu ngọ: hoả tự vượng, kỷ mùi: hoả của khố lệch. Ở nơi sáng của cung ly, đất vượng tướng, khí của nó rất thịnh, các loại thuỷ không thương tổn được. Kỵ thiên thượng thuỷ của bính ngọ, đinh mùi. "Ngũ Hành Yếu Luận" nói: "kỷ mùi, hoả suy, chứa đựng kho báu còn thừa lại, tháng xuân và tháng hè, vận vào đất chìm ngập, sẽ thông minh sáng suốt, phúc lành sẽ lan rộng, nhận được vào mùa hè thì chẳng ôn hoà thân thiện, nhận được vào mùa thu sẽ trước tốt sau xấu".
Canh thân, tân dậu: hai mộc. Kim ở trên mộc, bởi vì kim đã thành khí, nên kỵ gặp lại kim, sẽ làm huỷ hoại tài năng của nó. Nếu gặp thuỷ của giáp thân, ất dậu sẽ hợp cách. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "canh thân, mộc tự tuyệt, là linh hồn lang thang và biến đổi, người sanh gặp ngày này, giống như tài năng phi phàm, thường cách chủ trời cho tính thông minh lạ kỳ, gia tộc không trói buộc, hợp cách quý là tài năng xuất chúng, lập công lao phi thường; tân dậu, mộc sai vị trí, mộc khốn ở đất của kim, người này thường phải trải qua nhiều khó khăn, chỉ điều chỉnh bằng kim của quý mão sẽ là cương nhu giúp đỡ lẫn nhau, cao siêu xuất chúng, nhất định cao chót vót".
Nhâm tuất: thuỷ của khố lệch, quý hợi: thuỷ ở lâm quan, tên gọi là "đại hải thuỷ". Bởi can, chi, nạp âm đều là thuỷ, kỵ thấy các loại thuỷ, cho dù nhâm thuỷ là kho thuỷ cũng không thể thoả đáng. Không kỵ các loại thổ khác, tử tuyệt thì tốt lành, còn sanh vượng thì trôi nỗi không có chỗ quay về. "Ngọc Tiêu Bảo Giám" nói: "hợi, tý là thuỷ ở chánh vị, khí của nhâm tuất thì bị thu phục mà không thuận theo, chỉ có thuỷ này cần tổn thổ mà được lợi ích sẽ thành tài năng".
甲寅,自病之水,乙卯,自死之水。虽然死病,土不能克,盖支干二木可以制土。若见壬寅、癸卯之金,则为优裕。《五行要论》云:“甲寅、壬戌二水为伏逆,阴胜于阳,主奸邪害物,惟济之以火土损益,方成大器。”
丙辰,自库之土。厚且壮,喜甲辰火,恶戊辰木。此土凡木不能伤,盖丙,火也,辰为火偏库,土已成器。惟嫌戊戌、己亥、辛卯、戊辰之木。《五行要论》云:“丙辰土为正印,建五福吉会之德。禀之者类皆亨大有为,不富即贵,惟犯冲者多为僧道。”
丁巳,自绝之土。又不为绝,盖一土居二火之下,在父母之乡,乘天属之恩,故不为绝。木不能克,火多益佳。《玉宵宝鉴》云:“丁巳含东南火德旺,数得之者,含容福寿。”
戊午,自旺之火,己未,偏库之火。居离明之方,旺相之地,其气极盛,他水无伤。忌丙午、丁未天上之水。《五行要论》云:“己未,衰火,含余藏宝之气,春夏之月,运入沈潜之乡,则明达峻敏,福庆深远,夏得之,非和气也,秋得之,则先吉后凶。”
庚申、辛酉二木,金居木上,因金以成器,忌再见金,致毁其器。若见甲申、乙酉水则入格。《玉宵宝鉴》云:"庚申,自绝木,为魂游神变,遇此日生者,类非凡器,常格主赋性颖异,家族不羁,入贵格则是英杰之才,立不世之功;辛酉,失位之木,木困金乡,乘之者涉世多艰,惟对癸卯金则刚柔相济,挺拔出群,决取巍科。"
壬戌,偏库之水,癸亥,临官之水,名曰大海水。盖支干、纳音皆水,忌见群水,虽壬辰水库亦不能当。不忌他土,死绝则吉,生旺则泛滥无所归也。《玉宵宝鉴》云:“亥子,水之正位,壬戌气伏而不顺,唯此水、土损益之,乃成大器。”
.
#15
Gửi vào 25/06/2024 - 10:28
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Nhất
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Quý hợi có đủ số của thuần dương, nội tâm vô cùng nhân từ, người sanh ra được trời phú đại tài, tinh thần chính đại cương trực, phạm vào công án ngày ngày được lợi, nếu đới sát sẽ truyền lại hung xấu và gian xảo, lại nói: thổ của bính tuất là phúc lành lớn dày, cho nên hoả kết thúc ở dây. Kỷ mùi, canh thìn, mậu thìn, đinh sửu cũng đồng nghĩa này. Kỷ mùi hoả gọi là trong mùi có mộ của mộc; canh thìn kim trong thìn có mộ của thổ; mậu thìn mộc trong thìn có mộ của thuỷ, đinh sửu thuỷ, trong sửu có mộ của kim, tất cả đều là khí của phụ mẫu, mỗi thứ đều có chỗ nuôi dưỡng. Năm thứ này chính là phúc lành lớn dày nói ở trên, nếu có quỷ làm tổn thương, không gây hại, vì khí đã hình thành.
Ất tỵ, mậu ngọ, chính là hoả rất là nóng. Mùa thu, mùa đông làm thành đức tốt lành, mùa xuân, mùa hè làm thành hình phạt hung xấu. Nếu giữa mùa hè nóng nực cùng phát , lập tức quay trở lại khô cháy, hoà hợp mà là trách cứ. Ất tỵ,hoả ở lâm quan, trên có một chữ mộc sanh, nên khí của nó rất vượng; mậu ngọ hoả tự vượng, nếu sanh mùa thu, mùa đông là khí ấm áp, là đức tính cứu giúp vạn vật. Nếu sanh mùa xuân, mùa hè hoả vượng lại được vị trí dương sẽ thành hung xấu, sanh giữa mùa hè thì hung ác, nghiệt ngã tức thời, tai vạ hung xấu. Ất mão, quý tỵ, đinh dậu, ất hợi mặc dù thuỷ hoả tử, tuyệt, nhưng rõ ràng là tốt đẹp lửa tàn nên trong sáng mà ngoài thì tối, phản chiếu hồi quang, thuỷ tử tuyệt nên trong suốt, có thể chiếu sáng tu mi, cho nên noá rõ ràng nên tốt đẹp. Nhâm dần kim, việc của vua không chống đối, canh thân mộc là bầy tôi không tận lực, ngũ hành thuộc ngũ âm: âm thổ là vua, âm kim là bầy tôi, âm mộc là dân. Âm thương nhiều quá tức là bầy tôi tận lực, âm giác nhiều quá thì vua yếu hèn. Cho nên trong ngũ âm luôn sử dụng tứ thanh để giảm bớt âm thương, giác. Canh thân giác mộc tự tuyệt, nhâm dần thương kim tự tuyệt, tính tình trung thành thuận hợp, cho nên việc của vua không chống lại, là thần không tận lực. Vì thế đương nhiên "tử vi", "loan thai", "phượng cát" là quan trên, phải kiêng nhất mệnh kim, mộc sanh vượng, như vậy thì không được làm, mà có làm thì cũng không thể lâu dài, chỉ có quan can gián thì có thể. Nếu kim, mộc sanh vượng mà khắc phá thì chẳng phải thế. Canh thân mộc, ất tỵ hoả: vốn là chỗ thổ và kim được sanh nhưng lại không thể sanh; bính ngọ thuỷ, quý mão kim: vốn là chỗ chết của mộc và thuỷ nhưng lại không chết. Thổ sanh ở thân nhưng không được sanh ở canh thân, thuỷ sanh ở thân nhưng lại không được sanh ở mậu thân, hoả sanh ở dần nhưng lại không được sanh ở giáp dần, kim sanh ở tỵ nhưng lại không sanh ở ất tỵ, mộc sanh ở hợi nhưng lại không sanh ở tân hợi, bởi vì chỗ sanh này bị chế ngự, người gặp phải sẽ chết non; thuỷ chết ở mão nhưng không chết ở quý mão, thổ chết ở mão nhưng không chết ở đinh mão, mộc chết ở ngọ nhưng không chết ở bính ngọ, kim chết ở tý nhưng không chết ở canh tý, hoả chết ở dậu nhưng không chết ở tân dậu, bởi ở chỗ chết này lại được sanh vậy, nếu như người được vậy sẽ sống thọ. Mậu tý: can chi đều vượng ở phương bắc, chính là vị trí của thuỷ, mà nạp âm thuộc hoả, chình là hoả trong thuỷ, chẳng phải "thần long" không thể có được; bính ngọ: can chi đều ở phương nam, chính là vị trí của hoả, mà nạp âm thuộc thuỷ, chình là thuỷ trong hoả, chẳng phải "thiên hà" thì không thể có được. Người mậu tý được bính ngọ, hoặc người bính ngọ được mậu tý, không gì mà không quý. Bởi trong hoả sanh thuỷ, trong thuỷ tàng hoả, là thuỷ hoả ký tế, tinh thần vận động phải là ở người thần diệu dị kỳ.
癸亥具纯阳之数,内体至仁,禀之者天资夷旷,志气浩然,发为功案,利泽日时,带煞则凶狡之流。又曰:丙戌之土为福隆厚,火钟于此故也。己未、庚辰、戊辰、丁丑与此同义。己未,火也,未中有墓木;庚辰,金也,辰中有墓土;戊辰,木也,辰中有墓水;丁丑,水也,丑中有墓金,皆父母之气,各有所养。此五者福壮厚以上,有鬼所伤,不为害,气成故也。
乙巳、戊午,乃盛炎之火。秋冬作德吉,春夏作刑凶。若仲夏暴炎一发,旋即归燥竟焚,和而为咎。乙巳,临官之火,上有一木生之,其气盛矣;戊午,自旺之火,若生秋冬,为温燠之气,为济物之德。若生春夏,旺火复得阳位则作凶,生仲夏,为暴戾、刻忍、凶夭之流也。乙卯、癸巳、丁酉、乙亥,水火虽死绝,却清明而妙佳火死绝而内明外晦,返照回光,水死绝而湛然清澈,可烛须眉,故却清明而妙佳。壬寅之金,事君不逆,庚申之木,为臣不强。五行属五音,宫土者,君也,商金者,臣也,角木者,民也。商太过则臣强,角太过则君弱。故五音之中,常用四清以杀商角。庚申者,角木自绝也,壬寅者,商金自绝也,性情得忠顺之道,故事君不逆,为臣不强。所以自紫微、鸾台、凤阁以上官,切忌金木生旺之命,如是必不为之,为之亦不能久,独台谏则可。若金木生旺而克破则不然。庚申木、乙巳火,土金生而还不生;丙午水、癸卯金,木水死而还不死。土生申而不生于庚申,水生申而不生于戊申,火生寅而不生于甲寅,金生巳而不生于乙巳,木生亥而不生辛亥,盖生处而反受制也,得之者夭寿;木死卯而不死于癸卯,土死卯而不死于丁卯,木死午而不死于丙午,金死子而不于庚子,火死酉而不死于辛酉,盖死处得生也,若得之者长寿。戊子,支干旺于北方,乃水之位,纳音属火,乃水中之火,非神龙不能有之;丙午,支干旺于南方,乃火之位,纳音属水,乃火中之水,非天河不能有之。戊子人得丙午,或丙午人得戊子,无不贵。盖火中生水,水中藏火,水火既济,精神运动,必灵异于人矣。
.
Thích Lục Thập Giáp Tý Tính Chất Cát Hung - Giải thích bản chất tốt xấu của Lục Thập Giáp Tý (tiếp theo)
Quý hợi có đủ số của thuần dương, nội tâm vô cùng nhân từ, người sanh ra được trời phú đại tài, tinh thần chính đại cương trực, phạm vào công án ngày ngày được lợi, nếu đới sát sẽ truyền lại hung xấu và gian xảo, lại nói: thổ của bính tuất là phúc lành lớn dày, cho nên hoả kết thúc ở dây. Kỷ mùi, canh thìn, mậu thìn, đinh sửu cũng đồng nghĩa này. Kỷ mùi hoả gọi là trong mùi có mộ của mộc; canh thìn kim trong thìn có mộ của thổ; mậu thìn mộc trong thìn có mộ của thuỷ, đinh sửu thuỷ, trong sửu có mộ của kim, tất cả đều là khí của phụ mẫu, mỗi thứ đều có chỗ nuôi dưỡng. Năm thứ này chính là phúc lành lớn dày nói ở trên, nếu có quỷ làm tổn thương, không gây hại, vì khí đã hình thành.
Ất tỵ, mậu ngọ, chính là hoả rất là nóng. Mùa thu, mùa đông làm thành đức tốt lành, mùa xuân, mùa hè làm thành hình phạt hung xấu. Nếu giữa mùa hè nóng nực cùng phát , lập tức quay trở lại khô cháy, hoà hợp mà là trách cứ. Ất tỵ,hoả ở lâm quan, trên có một chữ mộc sanh, nên khí của nó rất vượng; mậu ngọ hoả tự vượng, nếu sanh mùa thu, mùa đông là khí ấm áp, là đức tính cứu giúp vạn vật. Nếu sanh mùa xuân, mùa hè hoả vượng lại được vị trí dương sẽ thành hung xấu, sanh giữa mùa hè thì hung ác, nghiệt ngã tức thời, tai vạ hung xấu. Ất mão, quý tỵ, đinh dậu, ất hợi mặc dù thuỷ hoả tử, tuyệt, nhưng rõ ràng là tốt đẹp lửa tàn nên trong sáng mà ngoài thì tối, phản chiếu hồi quang, thuỷ tử tuyệt nên trong suốt, có thể chiếu sáng tu mi, cho nên noá rõ ràng nên tốt đẹp. Nhâm dần kim, việc của vua không chống đối, canh thân mộc là bầy tôi không tận lực, ngũ hành thuộc ngũ âm: âm thổ là vua, âm kim là bầy tôi, âm mộc là dân. Âm thương nhiều quá tức là bầy tôi tận lực, âm giác nhiều quá thì vua yếu hèn. Cho nên trong ngũ âm luôn sử dụng tứ thanh để giảm bớt âm thương, giác. Canh thân giác mộc tự tuyệt, nhâm dần thương kim tự tuyệt, tính tình trung thành thuận hợp, cho nên việc của vua không chống lại, là thần không tận lực. Vì thế đương nhiên "tử vi", "loan thai", "phượng cát" là quan trên, phải kiêng nhất mệnh kim, mộc sanh vượng, như vậy thì không được làm, mà có làm thì cũng không thể lâu dài, chỉ có quan can gián thì có thể. Nếu kim, mộc sanh vượng mà khắc phá thì chẳng phải thế. Canh thân mộc, ất tỵ hoả: vốn là chỗ thổ và kim được sanh nhưng lại không thể sanh; bính ngọ thuỷ, quý mão kim: vốn là chỗ chết của mộc và thuỷ nhưng lại không chết. Thổ sanh ở thân nhưng không được sanh ở canh thân, thuỷ sanh ở thân nhưng lại không được sanh ở mậu thân, hoả sanh ở dần nhưng lại không được sanh ở giáp dần, kim sanh ở tỵ nhưng lại không sanh ở ất tỵ, mộc sanh ở hợi nhưng lại không sanh ở tân hợi, bởi vì chỗ sanh này bị chế ngự, người gặp phải sẽ chết non; thuỷ chết ở mão nhưng không chết ở quý mão, thổ chết ở mão nhưng không chết ở đinh mão, mộc chết ở ngọ nhưng không chết ở bính ngọ, kim chết ở tý nhưng không chết ở canh tý, hoả chết ở dậu nhưng không chết ở tân dậu, bởi ở chỗ chết này lại được sanh vậy, nếu như người được vậy sẽ sống thọ. Mậu tý: can chi đều vượng ở phương bắc, chính là vị trí của thuỷ, mà nạp âm thuộc hoả, chình là hoả trong thuỷ, chẳng phải "thần long" không thể có được; bính ngọ: can chi đều ở phương nam, chính là vị trí của hoả, mà nạp âm thuộc thuỷ, chình là thuỷ trong hoả, chẳng phải "thiên hà" thì không thể có được. Người mậu tý được bính ngọ, hoặc người bính ngọ được mậu tý, không gì mà không quý. Bởi trong hoả sanh thuỷ, trong thuỷ tàng hoả, là thuỷ hoả ký tế, tinh thần vận động phải là ở người thần diệu dị kỳ.
癸亥具纯阳之数,内体至仁,禀之者天资夷旷,志气浩然,发为功案,利泽日时,带煞则凶狡之流。又曰:丙戌之土为福隆厚,火钟于此故也。己未、庚辰、戊辰、丁丑与此同义。己未,火也,未中有墓木;庚辰,金也,辰中有墓土;戊辰,木也,辰中有墓水;丁丑,水也,丑中有墓金,皆父母之气,各有所养。此五者福壮厚以上,有鬼所伤,不为害,气成故也。
乙巳、戊午,乃盛炎之火。秋冬作德吉,春夏作刑凶。若仲夏暴炎一发,旋即归燥竟焚,和而为咎。乙巳,临官之火,上有一木生之,其气盛矣;戊午,自旺之火,若生秋冬,为温燠之气,为济物之德。若生春夏,旺火复得阳位则作凶,生仲夏,为暴戾、刻忍、凶夭之流也。乙卯、癸巳、丁酉、乙亥,水火虽死绝,却清明而妙佳火死绝而内明外晦,返照回光,水死绝而湛然清澈,可烛须眉,故却清明而妙佳。壬寅之金,事君不逆,庚申之木,为臣不强。五行属五音,宫土者,君也,商金者,臣也,角木者,民也。商太过则臣强,角太过则君弱。故五音之中,常用四清以杀商角。庚申者,角木自绝也,壬寅者,商金自绝也,性情得忠顺之道,故事君不逆,为臣不强。所以自紫微、鸾台、凤阁以上官,切忌金木生旺之命,如是必不为之,为之亦不能久,独台谏则可。若金木生旺而克破则不然。庚申木、乙巳火,土金生而还不生;丙午水、癸卯金,木水死而还不死。土生申而不生于庚申,水生申而不生于戊申,火生寅而不生于甲寅,金生巳而不生于乙巳,木生亥而不生辛亥,盖生处而反受制也,得之者夭寿;木死卯而不死于癸卯,土死卯而不死于丁卯,木死午而不死于丙午,金死子而不于庚子,火死酉而不死于辛酉,盖死处得生也,若得之者长寿。戊子,支干旺于北方,乃水之位,纳音属火,乃水中之火,非神龙不能有之;丙午,支干旺于南方,乃火之位,纳音属水,乃火中之水,非天河不能有之。戊子人得丙午,或丙午人得戊子,无不贵。盖火中生水,水中藏火,水火既济,精神运动,必灵异于人矣。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
||
Tác giả của sách lịch pháp thông thư đại toàn và ngao đầu thông thư |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
2 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |