2
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
385 replies to this topic
#361
Gửi vào 13/10/2024 - 08:36
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết cửu
Hư thần độn pháp, hữu tam thuật chi diệu thú.
(Phép độn hư thần, có ba phương pháp thú vị).
Cứ lộc mã quý nhân là cát, còn nhận sát tử bại là hung, mỗi thứ đều đã có vị trí nhất định, chính là dùng ngũ hổ độn thiên can địa chi của trụ đứng đầu, có khả năng điều khiển việc của quan chức, rất là ứng nghiệm. Lại nói rằng: thái tuế đến chỗ thiện ác của mười hai quan, độn cũng chỉ độn can của thái tuế, nơi tốt là phúc lành, còn do xứ gây ra tai hoạ, phải dùng nhật chủchon5 lựa các tài quan, đúng phải xem hai can của năm và ngày, mục đích quan hệ chỗ ẩn ngay khi sanh, những cái nào cát hung thần sát, cũng phải phân biệt nặng nhẹ, ví như nơi xuất thân một người, quan hệ phái nào nguồn gốc, tư cách.
Dụng thần sanh thì vượng chi phương, đương phòng khắc chế.
(Nơi dụng thần sanh ra vượng, nên đề phòng khắc chế).
Như dùng thuỷ làm quan, kỵ thổ đến các nơi thân tý thìn; dùng mộc làm quan kỵ kim đến các nơi hợi mão mùi. Lý Hư Trung nói rằng gia đình dụng thần đã bị phá tổn, riêng ta chỉ chỉ lấy nơi dụng thần khởi phát, trước lúc bị tổn hại, tức là dụng thần không quay trở lại.
kỵ thần tọa lệnh vượng chi sở, phản hỉ hình thương.
(Kỵ thần mà ngồi chỗ vượng, trái lại mừng nó bị hình thương tổn)
Kỵ thần: như dùng kim làm tài thì hoả là kỵ thần, chỉ mừng có thần khắc chế, chiếm giữ thổ thì tuyệt diệu, nhưng cũng cần thuỷ tới các nơi của dần ngọ tuất và tỵ, vì giảm bớt sự phát triễn thịnh vượng của nền tảng nhà kỵ thần.
Dụng thần chi quỷ mộ, đắc chi vi ương. dụng thần chi quý, tình đình đình tán trợ.
(Quỷ mộ của dụng thần, gặp phải là tai hoạ. Quý khi của dụng thần, rõ ràng được giúp đỡ).
Dụng thần tự có quỷ mộ, tốt thì sẽ là quan khố, như đới hung sát tới hình khắc xung chiếm cứ thì dụng thần đó tự thành kỵ , nhật chủ càng kỵ.
Dụng thần tự có tài quan quý khí, chẳng phải tài quan của nhà mình. Ý thuận sanh phù hợp đến, khí lực tăng gấp trăm lần, dụng thần tự mừng thích, nhật chủ càng thích hợp.
Mộ tuyệt tịnh sát nhận lai hình, họa hình ác hội, không xá lĩnh tài quan vi thể, lộc tập phúc gia.
(Mộ tuyệt cùng với sát nhận tới hình, tai hoạ hình xấu hội hợp, nguyệt không thiên xá , câu nguyên các hạng tới xung hình khắc, nguồn gốc căn bản của tài quan, phúc lộc tăng thêm).
Mộ tuyệt tử bại: đến mức không đáng kể, nếu có nhận sát vong kiếp, trộm khí nhật chủ cùng dụng thần thì tai hoạ lập tức xãy đến. Hai thần nguyệt không và thiên xá, cho đến các thần tốt lành thiên nguyệt đức, thiên nguyệt đức hợp, bốn thần đoán giống nhau, mỗi thần chưởng quản riêng sự việc của mình, nếu liên quan các hạng tài quan hay lãnh tụ cao quý khác thì càng tốt đẹp, phúc khí của giàu sang và hiển đạt, song song tụ tập rộng lớn .
Loại hữu thương quan mộ thần, trụ trung vưu ác, ám hữu kiếp tài khố quỷ, mệnh phân chí hung.
(Tương tự có mộ thần của thương quan, trong trụ càng thêm xấu,ngầm có khố quỷ của kiếp tài số mệnh càng hung).
Thương quan tự có mộ khố, như người bính thì thổ là thương quan, gặp thìn là mộ thần của mình, nếu có mang theo hung sát, khắc, trộm khí hình xung nhật chủ cùng với dụng thần, ác khí vô cùng khẩn thiết. Khồ của kiếp tài: như người bính thì ở tuất gồm cả đinh vượng ở trên, có mang theo hung sát trong tương lai, khắc trộm khí hình xung dụng thần với nhật chủ rất hung.
Ấn thụ sanh hương, nghi hồ nhuận trạch, ác thần tử địa, phạ tác hình thương.
(Nơi sanh của ấn thụ, thích hợp thấm nhuần, đất chết của ác thần, sợ khởi lên hình thương).
Ấn thụ vốn là thần sinh ra mình, nếu gặp ấn thụ là chỗ sanh vượng của mình, lại gặp thần sanh hợp, biến thành phúc lành, đại nghĩa của mình, sẽ tồn tại mãi mãi. Hoặc tràn đầy, hoả xuất hiện mộc bị đốt cháy, mộc nổi nước tràn lan, thổ nhiều chôn vùi kim, hoả nhiều thổ hư , thuỷ chảy kim bị chìm, trái lại có tai hoạ của quá đầy sẽ sụp đổ, quá thịnh sẽ gãy vậy. Thần của hung ác: mình đã ở nơi tử tuyệt, lại lợi dụng ác khí ở trên, khắc trộm khí hình xung dụng thần nhật chủ thì chật vật khốn khổ, nếu tử tuyệt mộ bại ở cung chủ, nếu ác tới huỷ hoại sợ gây ra hình thương.
Dụng thần ố một chi sở, địa chi khởi dục toàn chương.
Nạp âm sanh vượng chi phương, dụng thần thản nhiên vô kị.
(Dụng thần ghét chỗ mất tích, địa chi mong muốn hoàn toàn rực rỡ.
Nạp âm ở nơi sanh vượng, dụng thần thản nhiên không kỵ).
Thông tường các vị trí mà của dụng thần bại tuyệt ác hãm, kỵ phơi bày trong trụ, thường lầcch1 thấp hèn, thậm chí còn mang theo hung sát, nhưng nếu gặp hai vị trí tương đồng thì vẫn có thể, nếu tuế vận nâng đỡ khí ác hãm, gồm cả kết cấu của sát tức là trôi giạt lênh đênh, thất bại, hối tiếc khí tốt lành bị phá mất.
Nặng sẽ chết mà không có đất chôn thân, cần phải không vong tụ cùng sát mới đoán như thế. Thông tường nạp âm của mệnh luôn sanh luôn vượng, đất của bốn quý nhân, dụng thần tới sanh, thì tự nhiên vui vẻ, đều không kiêng sợ gì cả, điềm nhiên tự yên ổn.
Hỏa thổ chi nguyên thất trúng, dị hóa trần mông chi tượng.
(Mất đi nguồn của hoả thổ, dễ biến thành tượng bị long đong).
Nếu hoả thổ không được khí trung hoà của phúc lành, có thể khô có thể lạnh, có thể nghiêng lệch có thể khô héo, dễ bị khí của vật tối tăm, chính là tượng của trì trệ hôn ám không rõ ràng, không thể tươi sáng, gặp mà không thành công vậy. Tượng của tử bại có bè nhóm, chớ thương tổn thần của sanh vượng.
Như tượng tử bại có bè nhóm, quay lại hình xung trộm khí sanh vượng , điềm triêu của rất là không thuận lợi trôi chảy, như người thuỷ gặp mão nhà của mộc, dậu kim thìn thổ tỵ hoả các thần, tức là giúp đỡ nhật chủ làm cho cung chủ sanh vượng, dụng thần làm cho cung chủ sanh vượng, xâm phạm hay khắc chế lẫn nhau là tai hoạ không nhỏ cần nên hiểu rõ.
Ngũ khí bố định đông tây, địa lí năng bồi năng kiệt.
(Năm khí xếp đặt ổn định bốn phương, địa lý có khả năng vun bồi có khả năng cạn kiệt).
Hợi tý thuỷ, dần mão mộc, tỵ ngọ hoả, thân dậu kim, thìn tuất sửu mùi thổ. Như kim đến hợi tý sẽ tiết khí nên cạn kiệt, mộc đến hợi tý sẽ nhận được nuôi dưỡng nên được vun bồi. Còn lại phỏng theo đó mà suy xét, rất là quan trọng.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀九
虚辰遁法,有三术之妙趣。
一禄马贵人等吉,刃煞死败等凶,一一俱有定位,乃用五虎遁元住干支,能司其官之事,极为应验。又云:太岁所临十二官之善恶,遁亦只遁岁神之干,吉处作福,因处兴祸,却用日主取财官等件,正要看岁日干之二位,的系当生所遁,何等吉凶神煞,所主亦分轻重,如人出身处,系何派源流资格也。
用神生时旺之方,当防克制。
如用水为官,忌土到申子辰等处,用木为官,忌金到亥卯未等处。李虚中所谓伤破用神家宅,予独以为用神起发之处,先被伤坏,即用神无归着矣。
忌神坐令旺之所,反喜刑伤。
忌神者,如用金为财,火即忌,唯喜克制之神,占土为妙,却要水来寅午戌巳等处,以减忌神发旺之基宅也。
用神之鬼墓,得之为殃。用神之贵,情亭亭赞助。
用神自有鬼墓,吉则谓之官库,如带凶煞来刑克冲窃者,其用神自忌之,日主尤忌之。
用神自有财官贵气,非本家之财官也。来意顺生扶合,精神百倍,用神自喜之,日主尤宜见之。
墓绝并煞刃来刑,祸形恶会,空赦领财官为体,禄集福加。
墓绝死败,至不足道,若带有刃煞亡劫、勾元等,来冲刑克,窃日主并用神者,祸患立侵矣。月空天赦二神,至吉善者,天月德,天月合,四神同断,各司乃职主事,若又系财官等贵主领者更美,其荣耀之福气,骈骈然广集矣。
类有伤官墓神,柱中尤恶,暗有劫财库鬼,命分至凶。
伤官自有墓库,如丙人士为伤官,遇辰自家墓神,若带凶煞,克窃刑冲日主并用神,至为紧切恶气,劫财之库基,如丙人戌位兼丁旺于上,带凶煞前来,克窃刑冲其用日主,至凶。
印绶生乡,宜乎润泽,恶神死地,怕作刑伤。
印绶本为生我之神,若值印绶自家生旺之所,又见生合之神,转转为福,自家大义,绵绵不绝则可。或满或溢,火出木焚,木浮水泛,土重金埋,火重土虚,水流金沉,反有太满则倾,太盛则折之祸矣。凶恶之神,自家已在死绝之处,于上又乘恶气,克窃刑冲用神日主者狼狈,若死绝墓败上宫主,为恶来坏者,用前注断。
用神恶没之所,地支岂欲全彰。
纳音生旺之方,用神坦然无忌。
凡用神之败绝恶陷等位,柱中忌露,多是卑贱下格,更带凶煞之神,可乎,倘见二一位犹可,若岁运上扶起恶陷之气,兼会煞局者,即为沉论丧败,悔吝破失之气类也。
甚则死无葬身之地,须空亡并煞方断,凡命之纳音,常生常旺,四贵之地,用神来生,自然喜悦者,皆无忌惮,恬然自安。
火土之源失中,易化尘蒙之象。
若火土不得造化中和之气者,或燥或寒,或偏或枯,易于晦物之气,乃滞暗昏蒙之象,不能焕发,遇而不成者矣。死败之象有党,莫伤生旺之神。
如死败之象有党,反来刑冲范窃生旺之神,大不亨通之兆,如水人见卯家之木,酉金辰土巳火等神之类,却将日主生旺宫主,用神生旺宫主,相犯相克,为咎不小,宜详之。
五气布定东西,地理能培能竭。
亥子水,寅卯木,巳午火,申酉金,辰戌丑未土,如金到亥子,则气泄而竭,木到亥子,则受养得培,余仿此推,极为切要。
.
ngọc tỉnh áo quyết cửu
Hư thần độn pháp, hữu tam thuật chi diệu thú.
(Phép độn hư thần, có ba phương pháp thú vị).
Cứ lộc mã quý nhân là cát, còn nhận sát tử bại là hung, mỗi thứ đều đã có vị trí nhất định, chính là dùng ngũ hổ độn thiên can địa chi của trụ đứng đầu, có khả năng điều khiển việc của quan chức, rất là ứng nghiệm. Lại nói rằng: thái tuế đến chỗ thiện ác của mười hai quan, độn cũng chỉ độn can của thái tuế, nơi tốt là phúc lành, còn do xứ gây ra tai hoạ, phải dùng nhật chủchon5 lựa các tài quan, đúng phải xem hai can của năm và ngày, mục đích quan hệ chỗ ẩn ngay khi sanh, những cái nào cát hung thần sát, cũng phải phân biệt nặng nhẹ, ví như nơi xuất thân một người, quan hệ phái nào nguồn gốc, tư cách.
Dụng thần sanh thì vượng chi phương, đương phòng khắc chế.
(Nơi dụng thần sanh ra vượng, nên đề phòng khắc chế).
Như dùng thuỷ làm quan, kỵ thổ đến các nơi thân tý thìn; dùng mộc làm quan kỵ kim đến các nơi hợi mão mùi. Lý Hư Trung nói rằng gia đình dụng thần đã bị phá tổn, riêng ta chỉ chỉ lấy nơi dụng thần khởi phát, trước lúc bị tổn hại, tức là dụng thần không quay trở lại.
kỵ thần tọa lệnh vượng chi sở, phản hỉ hình thương.
(Kỵ thần mà ngồi chỗ vượng, trái lại mừng nó bị hình thương tổn)
Kỵ thần: như dùng kim làm tài thì hoả là kỵ thần, chỉ mừng có thần khắc chế, chiếm giữ thổ thì tuyệt diệu, nhưng cũng cần thuỷ tới các nơi của dần ngọ tuất và tỵ, vì giảm bớt sự phát triễn thịnh vượng của nền tảng nhà kỵ thần.
Dụng thần chi quỷ mộ, đắc chi vi ương. dụng thần chi quý, tình đình đình tán trợ.
(Quỷ mộ của dụng thần, gặp phải là tai hoạ. Quý khi của dụng thần, rõ ràng được giúp đỡ).
Dụng thần tự có quỷ mộ, tốt thì sẽ là quan khố, như đới hung sát tới hình khắc xung chiếm cứ thì dụng thần đó tự thành kỵ , nhật chủ càng kỵ.
Dụng thần tự có tài quan quý khí, chẳng phải tài quan của nhà mình. Ý thuận sanh phù hợp đến, khí lực tăng gấp trăm lần, dụng thần tự mừng thích, nhật chủ càng thích hợp.
Mộ tuyệt tịnh sát nhận lai hình, họa hình ác hội, không xá lĩnh tài quan vi thể, lộc tập phúc gia.
(Mộ tuyệt cùng với sát nhận tới hình, tai hoạ hình xấu hội hợp, nguyệt không thiên xá , câu nguyên các hạng tới xung hình khắc, nguồn gốc căn bản của tài quan, phúc lộc tăng thêm).
Mộ tuyệt tử bại: đến mức không đáng kể, nếu có nhận sát vong kiếp, trộm khí nhật chủ cùng dụng thần thì tai hoạ lập tức xãy đến. Hai thần nguyệt không và thiên xá, cho đến các thần tốt lành thiên nguyệt đức, thiên nguyệt đức hợp, bốn thần đoán giống nhau, mỗi thần chưởng quản riêng sự việc của mình, nếu liên quan các hạng tài quan hay lãnh tụ cao quý khác thì càng tốt đẹp, phúc khí của giàu sang và hiển đạt, song song tụ tập rộng lớn .
Loại hữu thương quan mộ thần, trụ trung vưu ác, ám hữu kiếp tài khố quỷ, mệnh phân chí hung.
(Tương tự có mộ thần của thương quan, trong trụ càng thêm xấu,ngầm có khố quỷ của kiếp tài số mệnh càng hung).
Thương quan tự có mộ khố, như người bính thì thổ là thương quan, gặp thìn là mộ thần của mình, nếu có mang theo hung sát, khắc, trộm khí hình xung nhật chủ cùng với dụng thần, ác khí vô cùng khẩn thiết. Khồ của kiếp tài: như người bính thì ở tuất gồm cả đinh vượng ở trên, có mang theo hung sát trong tương lai, khắc trộm khí hình xung dụng thần với nhật chủ rất hung.
Ấn thụ sanh hương, nghi hồ nhuận trạch, ác thần tử địa, phạ tác hình thương.
(Nơi sanh của ấn thụ, thích hợp thấm nhuần, đất chết của ác thần, sợ khởi lên hình thương).
Ấn thụ vốn là thần sinh ra mình, nếu gặp ấn thụ là chỗ sanh vượng của mình, lại gặp thần sanh hợp, biến thành phúc lành, đại nghĩa của mình, sẽ tồn tại mãi mãi. Hoặc tràn đầy, hoả xuất hiện mộc bị đốt cháy, mộc nổi nước tràn lan, thổ nhiều chôn vùi kim, hoả nhiều thổ hư , thuỷ chảy kim bị chìm, trái lại có tai hoạ của quá đầy sẽ sụp đổ, quá thịnh sẽ gãy vậy. Thần của hung ác: mình đã ở nơi tử tuyệt, lại lợi dụng ác khí ở trên, khắc trộm khí hình xung dụng thần nhật chủ thì chật vật khốn khổ, nếu tử tuyệt mộ bại ở cung chủ, nếu ác tới huỷ hoại sợ gây ra hình thương.
Dụng thần ố một chi sở, địa chi khởi dục toàn chương.
Nạp âm sanh vượng chi phương, dụng thần thản nhiên vô kị.
(Dụng thần ghét chỗ mất tích, địa chi mong muốn hoàn toàn rực rỡ.
Nạp âm ở nơi sanh vượng, dụng thần thản nhiên không kỵ).
Thông tường các vị trí mà của dụng thần bại tuyệt ác hãm, kỵ phơi bày trong trụ, thường lầcch1 thấp hèn, thậm chí còn mang theo hung sát, nhưng nếu gặp hai vị trí tương đồng thì vẫn có thể, nếu tuế vận nâng đỡ khí ác hãm, gồm cả kết cấu của sát tức là trôi giạt lênh đênh, thất bại, hối tiếc khí tốt lành bị phá mất.
Nặng sẽ chết mà không có đất chôn thân, cần phải không vong tụ cùng sát mới đoán như thế. Thông tường nạp âm của mệnh luôn sanh luôn vượng, đất của bốn quý nhân, dụng thần tới sanh, thì tự nhiên vui vẻ, đều không kiêng sợ gì cả, điềm nhiên tự yên ổn.
Hỏa thổ chi nguyên thất trúng, dị hóa trần mông chi tượng.
(Mất đi nguồn của hoả thổ, dễ biến thành tượng bị long đong).
Nếu hoả thổ không được khí trung hoà của phúc lành, có thể khô có thể lạnh, có thể nghiêng lệch có thể khô héo, dễ bị khí của vật tối tăm, chính là tượng của trì trệ hôn ám không rõ ràng, không thể tươi sáng, gặp mà không thành công vậy. Tượng của tử bại có bè nhóm, chớ thương tổn thần của sanh vượng.
Như tượng tử bại có bè nhóm, quay lại hình xung trộm khí sanh vượng , điềm triêu của rất là không thuận lợi trôi chảy, như người thuỷ gặp mão nhà của mộc, dậu kim thìn thổ tỵ hoả các thần, tức là giúp đỡ nhật chủ làm cho cung chủ sanh vượng, dụng thần làm cho cung chủ sanh vượng, xâm phạm hay khắc chế lẫn nhau là tai hoạ không nhỏ cần nên hiểu rõ.
Ngũ khí bố định đông tây, địa lí năng bồi năng kiệt.
(Năm khí xếp đặt ổn định bốn phương, địa lý có khả năng vun bồi có khả năng cạn kiệt).
Hợi tý thuỷ, dần mão mộc, tỵ ngọ hoả, thân dậu kim, thìn tuất sửu mùi thổ. Như kim đến hợi tý sẽ tiết khí nên cạn kiệt, mộc đến hợi tý sẽ nhận được nuôi dưỡng nên được vun bồi. Còn lại phỏng theo đó mà suy xét, rất là quan trọng.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀九
虚辰遁法,有三术之妙趣。
一禄马贵人等吉,刃煞死败等凶,一一俱有定位,乃用五虎遁元住干支,能司其官之事,极为应验。又云:太岁所临十二官之善恶,遁亦只遁岁神之干,吉处作福,因处兴祸,却用日主取财官等件,正要看岁日干之二位,的系当生所遁,何等吉凶神煞,所主亦分轻重,如人出身处,系何派源流资格也。
用神生时旺之方,当防克制。
如用水为官,忌土到申子辰等处,用木为官,忌金到亥卯未等处。李虚中所谓伤破用神家宅,予独以为用神起发之处,先被伤坏,即用神无归着矣。
忌神坐令旺之所,反喜刑伤。
忌神者,如用金为财,火即忌,唯喜克制之神,占土为妙,却要水来寅午戌巳等处,以减忌神发旺之基宅也。
用神之鬼墓,得之为殃。用神之贵,情亭亭赞助。
用神自有鬼墓,吉则谓之官库,如带凶煞来刑克冲窃者,其用神自忌之,日主尤忌之。
用神自有财官贵气,非本家之财官也。来意顺生扶合,精神百倍,用神自喜之,日主尤宜见之。
墓绝并煞刃来刑,祸形恶会,空赦领财官为体,禄集福加。
墓绝死败,至不足道,若带有刃煞亡劫、勾元等,来冲刑克,窃日主并用神者,祸患立侵矣。月空天赦二神,至吉善者,天月德,天月合,四神同断,各司乃职主事,若又系财官等贵主领者更美,其荣耀之福气,骈骈然广集矣。
类有伤官墓神,柱中尤恶,暗有劫财库鬼,命分至凶。
伤官自有墓库,如丙人士为伤官,遇辰自家墓神,若带凶煞,克窃刑冲日主并用神,至为紧切恶气,劫财之库基,如丙人戌位兼丁旺于上,带凶煞前来,克窃刑冲其用日主,至凶。
印绶生乡,宜乎润泽,恶神死地,怕作刑伤。
印绶本为生我之神,若值印绶自家生旺之所,又见生合之神,转转为福,自家大义,绵绵不绝则可。或满或溢,火出木焚,木浮水泛,土重金埋,火重土虚,水流金沉,反有太满则倾,太盛则折之祸矣。凶恶之神,自家已在死绝之处,于上又乘恶气,克窃刑冲用神日主者狼狈,若死绝墓败上宫主,为恶来坏者,用前注断。
用神恶没之所,地支岂欲全彰。
纳音生旺之方,用神坦然无忌。
凡用神之败绝恶陷等位,柱中忌露,多是卑贱下格,更带凶煞之神,可乎,倘见二一位犹可,若岁运上扶起恶陷之气,兼会煞局者,即为沉论丧败,悔吝破失之气类也。
甚则死无葬身之地,须空亡并煞方断,凡命之纳音,常生常旺,四贵之地,用神来生,自然喜悦者,皆无忌惮,恬然自安。
火土之源失中,易化尘蒙之象。
若火土不得造化中和之气者,或燥或寒,或偏或枯,易于晦物之气,乃滞暗昏蒙之象,不能焕发,遇而不成者矣。死败之象有党,莫伤生旺之神。
如死败之象有党,反来刑冲范窃生旺之神,大不亨通之兆,如水人见卯家之木,酉金辰土巳火等神之类,却将日主生旺宫主,用神生旺宫主,相犯相克,为咎不小,宜详之。
五气布定东西,地理能培能竭。
亥子水,寅卯木,巳午火,申酉金,辰戌丑未土,如金到亥子,则气泄而竭,木到亥子,则受养得培,余仿此推,极为切要。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#362
Gửi vào 14/10/2024 - 09:10
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thập
Nhất thìn tụ tàng quý sát, nạp âm tự vượng tự sanh.
(Mỗi một thời gian tụ họp hay tàng ẩn quý sát, nạp âm tự vượng tự sanh).
Như mỗi thời gian tụ họp quý, là trường sanh đới sát, ở ngày giờ là sanh sát cùng chung đường. Lại nói sát đới quý, tự trường sanh, là có ích lợi, đó là quý đới tự sanh, lại là quý ẩn trong sát. Lại nói can âm trong năm thuận theo sanh trưởng, giống thần sát ở ngày giờ, là trường sanh thật sự, chính là tụ họp khí của năm tháng ngày giờ, lại trở thành một mạnh bốn yếu.
Lại nói rằng: tứ trụ quan trọng nhất là chỗ trường sanh, tập trung vào khí vượng của nó, là thu góp khí lực.
Không vong tiêu tức sổ đoan, khởi chỉ thập can khuyết xứ.
(Có nhiều tin tức về không vong, chẳng phải chỉ có nơi thiếu sót của mười thiên can).
Sát này rất là quan trọng, trong đo có nặng nhẹ, thật giả, nên xem xét tỉ mỉ. Một tuần không vong, mười ngày phân biệt trên dưới theo chỗ phụ trách, như tuần giáp tý, mậu thìn dùng tuất không là quan trọng, kỷ tỵ đến quý đậuùng hợi là quan trọng. Mỗi khí phân biệt nặng nhẹ, giáp tý gặp nhâm tuất là chân không (không thật sự), gặp mậu tuất thì nhẹ hơn. Lại nói rằng: một vị trí trên vai quá nặng, tương tự như người giáp gặp quý, người ất gặp giáp, tức là trong mỗi tuần, sau lộc gặp không vong, tương tự như tuần giáp tý là nhâm thân, tuần giáp tuất là canh thìn. Hoặc là năm khí rơi vào chỗ trống, tương tự như tuần giáp tý là thuỷ thổ, tuần giáp tuất là kim, tuần giáp thân là hoả thổ.
Quan quý ức phù lưỡng lập, xưng đình nhất lộ từ cơ.
(Quan quý hỗ trợ và trấn áp lẫn nhau, gọi là cơ sở từ tính thoả đáng bằng mọi cách).
Quan tinh là nguồn phúc lành và quý khí của toàn thân, là sự việc quan trọng nhất, kế là tài thần, nếu có một đè nén và một nâng đỡ, nghĩa của lưỡng lập (cả hai cùng tạo nên), không phân biệt thắng bại, ví như khí âm dương không thăng giáng, trong vận nên thoả đáng ý niệm kết hợp thuộc vế mạnh yếu, mà có thể quan sát thịnh vượng hay suy bại.
Sát hiện quan ẩn dĩ thác tình, quan hiển sát tàng nhi lập nghĩa.
(Sát hiện quan ẩn để bày tỏ tình cảm, quan hiện sát ẩn để tạo nên lẽ phải).
Sát hiện: lộ ra thần chế (khống chế) hợp (tụ hội) quân (điều hoà) phối (kết hợp), quan ẩn mà không có ấn cũng như ấn ẩn chủ bên ngoài có quyền hành, kế hoạch, trong lòng thì có mưu kế xảo trá, nếu sát nhiều mà không có chế ngự, quan thần vô tình thì trái ngược lại. Quan hiển sát tàng, bên trong thì bản tính ác và vô tình, bên ngoài thì hoà thuận, thận trọng, tiết chế, ý nghĩa lớn là như thế, cũng nên xem xét mọi việc để loại bỏ chi tiêt.
Kỵ sát khí chuyên, dụng thần tình giả, dụng thần lực thiết, kỵ sát ngoại trì.
(Kỵ và sát tập trung khí, dụng thần không thật tình. Dụng thần sức lực chắc chắn, kỵ sát truyền đi bên ngoài).
Kỵ và sát được sanh và nâng đỡ, hoặc ngồi ở noi sanh vượng, cùng với thần tán trợ và tụ hội, ý nghĩa đặc biệt của nó không thể nói hết. Trong trụ mà gặp dụng thần yếu đuối tới sanh hợp, tình giả lộ ra có khí lực, hoặc lạc không vong, cho dù vượng mà không có đất, tình giả nên lực tản ra, cho nên đương nhiên không như là tập trung khí lực, nếu dụng thần tán hợp (đồng ý hội tụ), có nâng đỡ có sanh, hoặc sức lực tập trung vào vị trí sanh vượng, tài năng được thần sanh trợ, có tình có sức là sự việc trọng yếu phải hiểu rõ ràng.
Kỵ và sát hai thần, tuy ở trong trụ thì ngăn trở, lực yếu đuối và thiên vị, tuế vận cùng lúc có khắc chế hay trộm khí, tự nhiên ngừng lại trong trụ , không có khả năng tán khí mà truyền đi bên ngoài.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十
一辰聚藏贵煞,纳音自旺自生。
如一辰贵聚,长生带煞,在日时为生煞同途。一云煞带贵,自长生,为有用,此为贵带自生,又为煞中藏贵。一云年中干音随生长,同神煞在日时者,为真长生,乃聚年月日时之气,又为一强四弱。
又云:四柱只要一位长生,专其旺气,为聚敛精神。
空亡消息数端,岂止十干缺处。
此煞最为要紧,中间轻重真假,宜仔细详审。一旬空亡,十日分上下所管,如甲子旬中,戊辰用戌空为切,己巳至癸酉用亥空为切,一气分轻重,甲子见壬戌真空,见戊戌轻。一云:上肩一位太重,如甲人见癸,乙人见甲之类,即一旬中,后禄遇空亡,如甲子旬壬申,甲戌旬庚辰之类,一五气落空,如甲子旬水土,甲戌旬金,甲申旬火土之类。
官贵抑扶两立,称停一路磁基。
官星为一身之贵气福源,第一切事,财神次之,若有一扶一抑,两立其义,不分胜负,如阴阳气不升降,一路运中,当称停其配属强弱之情,以察兴废可也。
煞见官隐以托情,官显煞藏而立义。
煞见,有露神制合均配,官隐无印更隐者,主外有权谋操略,内怀奸宄奇计,若煞重而无驭,官神无情者反是。官显煞藏,内则性恶无情,外则义和谨节,大义如此,又当格物以消详之。
忌煞气专,用神情假,用神力切,忌煞外驰。
忌煞有生有扶,或坐生旺处,及有赞合之神,其专之意,不可言也。柱中乃见用神虚来生合,情假露形有气,或落天中,虽旺亦无地面,情假力散,故自不若气专者,若用神赞合,有扶有生,或力专生旺之位,才有
生助之神,有情有力,切要分晓。
忌神煞神二者,虽在柱中作梗,力怯自偏,岁运兼有克窃,自然柱中停住,不得气散而外驰也。
.
ngọc tỉnh áo quyết thập
Nhất thìn tụ tàng quý sát, nạp âm tự vượng tự sanh.
(Mỗi một thời gian tụ họp hay tàng ẩn quý sát, nạp âm tự vượng tự sanh).
Như mỗi thời gian tụ họp quý, là trường sanh đới sát, ở ngày giờ là sanh sát cùng chung đường. Lại nói sát đới quý, tự trường sanh, là có ích lợi, đó là quý đới tự sanh, lại là quý ẩn trong sát. Lại nói can âm trong năm thuận theo sanh trưởng, giống thần sát ở ngày giờ, là trường sanh thật sự, chính là tụ họp khí của năm tháng ngày giờ, lại trở thành một mạnh bốn yếu.
Lại nói rằng: tứ trụ quan trọng nhất là chỗ trường sanh, tập trung vào khí vượng của nó, là thu góp khí lực.
Không vong tiêu tức sổ đoan, khởi chỉ thập can khuyết xứ.
(Có nhiều tin tức về không vong, chẳng phải chỉ có nơi thiếu sót của mười thiên can).
Sát này rất là quan trọng, trong đo có nặng nhẹ, thật giả, nên xem xét tỉ mỉ. Một tuần không vong, mười ngày phân biệt trên dưới theo chỗ phụ trách, như tuần giáp tý, mậu thìn dùng tuất không là quan trọng, kỷ tỵ đến quý đậuùng hợi là quan trọng. Mỗi khí phân biệt nặng nhẹ, giáp tý gặp nhâm tuất là chân không (không thật sự), gặp mậu tuất thì nhẹ hơn. Lại nói rằng: một vị trí trên vai quá nặng, tương tự như người giáp gặp quý, người ất gặp giáp, tức là trong mỗi tuần, sau lộc gặp không vong, tương tự như tuần giáp tý là nhâm thân, tuần giáp tuất là canh thìn. Hoặc là năm khí rơi vào chỗ trống, tương tự như tuần giáp tý là thuỷ thổ, tuần giáp tuất là kim, tuần giáp thân là hoả thổ.
Quan quý ức phù lưỡng lập, xưng đình nhất lộ từ cơ.
(Quan quý hỗ trợ và trấn áp lẫn nhau, gọi là cơ sở từ tính thoả đáng bằng mọi cách).
Quan tinh là nguồn phúc lành và quý khí của toàn thân, là sự việc quan trọng nhất, kế là tài thần, nếu có một đè nén và một nâng đỡ, nghĩa của lưỡng lập (cả hai cùng tạo nên), không phân biệt thắng bại, ví như khí âm dương không thăng giáng, trong vận nên thoả đáng ý niệm kết hợp thuộc vế mạnh yếu, mà có thể quan sát thịnh vượng hay suy bại.
Sát hiện quan ẩn dĩ thác tình, quan hiển sát tàng nhi lập nghĩa.
(Sát hiện quan ẩn để bày tỏ tình cảm, quan hiện sát ẩn để tạo nên lẽ phải).
Sát hiện: lộ ra thần chế (khống chế) hợp (tụ hội) quân (điều hoà) phối (kết hợp), quan ẩn mà không có ấn cũng như ấn ẩn chủ bên ngoài có quyền hành, kế hoạch, trong lòng thì có mưu kế xảo trá, nếu sát nhiều mà không có chế ngự, quan thần vô tình thì trái ngược lại. Quan hiển sát tàng, bên trong thì bản tính ác và vô tình, bên ngoài thì hoà thuận, thận trọng, tiết chế, ý nghĩa lớn là như thế, cũng nên xem xét mọi việc để loại bỏ chi tiêt.
Kỵ sát khí chuyên, dụng thần tình giả, dụng thần lực thiết, kỵ sát ngoại trì.
(Kỵ và sát tập trung khí, dụng thần không thật tình. Dụng thần sức lực chắc chắn, kỵ sát truyền đi bên ngoài).
Kỵ và sát được sanh và nâng đỡ, hoặc ngồi ở noi sanh vượng, cùng với thần tán trợ và tụ hội, ý nghĩa đặc biệt của nó không thể nói hết. Trong trụ mà gặp dụng thần yếu đuối tới sanh hợp, tình giả lộ ra có khí lực, hoặc lạc không vong, cho dù vượng mà không có đất, tình giả nên lực tản ra, cho nên đương nhiên không như là tập trung khí lực, nếu dụng thần tán hợp (đồng ý hội tụ), có nâng đỡ có sanh, hoặc sức lực tập trung vào vị trí sanh vượng, tài năng được thần sanh trợ, có tình có sức là sự việc trọng yếu phải hiểu rõ ràng.
Kỵ và sát hai thần, tuy ở trong trụ thì ngăn trở, lực yếu đuối và thiên vị, tuế vận cùng lúc có khắc chế hay trộm khí, tự nhiên ngừng lại trong trụ , không có khả năng tán khí mà truyền đi bên ngoài.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十
一辰聚藏贵煞,纳音自旺自生。
如一辰贵聚,长生带煞,在日时为生煞同途。一云煞带贵,自长生,为有用,此为贵带自生,又为煞中藏贵。一云年中干音随生长,同神煞在日时者,为真长生,乃聚年月日时之气,又为一强四弱。
又云:四柱只要一位长生,专其旺气,为聚敛精神。
空亡消息数端,岂止十干缺处。
此煞最为要紧,中间轻重真假,宜仔细详审。一旬空亡,十日分上下所管,如甲子旬中,戊辰用戌空为切,己巳至癸酉用亥空为切,一气分轻重,甲子见壬戌真空,见戊戌轻。一云:上肩一位太重,如甲人见癸,乙人见甲之类,即一旬中,后禄遇空亡,如甲子旬壬申,甲戌旬庚辰之类,一五气落空,如甲子旬水土,甲戌旬金,甲申旬火土之类。
官贵抑扶两立,称停一路磁基。
官星为一身之贵气福源,第一切事,财神次之,若有一扶一抑,两立其义,不分胜负,如阴阳气不升降,一路运中,当称停其配属强弱之情,以察兴废可也。
煞见官隐以托情,官显煞藏而立义。
煞见,有露神制合均配,官隐无印更隐者,主外有权谋操略,内怀奸宄奇计,若煞重而无驭,官神无情者反是。官显煞藏,内则性恶无情,外则义和谨节,大义如此,又当格物以消详之。
忌煞气专,用神情假,用神力切,忌煞外驰。
忌煞有生有扶,或坐生旺处,及有赞合之神,其专之意,不可言也。柱中乃见用神虚来生合,情假露形有气,或落天中,虽旺亦无地面,情假力散,故自不若气专者,若用神赞合,有扶有生,或力专生旺之位,才有
生助之神,有情有力,切要分晓。
忌神煞神二者,虽在柱中作梗,力怯自偏,岁运兼有克窃,自然柱中停住,不得气散而外驰也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#363
Gửi vào 15/10/2024 - 08:56
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thập nhất
Khuyết dụng nạp âm, toàn vi bổ khí.
(Thiếu sót thì dùng nạp âm, đầy đủ thì giúp ích khí).
Quấy nhiễu lớn tạo ra phép nạp âm, tài năng cách tám hữu dụng, dù là vật bỏ đi chăng nửa, chỗ thiếu khí vẫn cần nạp âm bổ sung, như thiếu thổ mà nạp âm có thổ sẽ bổ sung được chỗ không đủ, hưu tù thì chậm hơn một chút.
Vật giai diệu ý, thân bất năng nhậm.
(Mọi vật đều có ý nghĩa tuyệt vời, tự mình không khả năng gánh vác).
Quý khí có thể nhiều có thể nặng, tự thân mình không có khí lực làm sao có khả năng gánh vác, giống như tuỳ theo loại, thoả thích sự biến hoá của nó, hoặc thuận theo tượng của nó, đáp ứng khí của nó, không bàn luận ở đây, có một thuyết về tự mình không khả năng gánh vác là như bệnh không thể ăn, hoa không đậu trái.
Thế tình sung duyệt, phát vượng dĩ thì, tượng ý không hàn, u tê độ nhật.
(Tình trạng tràn đầy phấn khởi, hưng thịnh theo thời gian, bên trong tượng trống rỗng cùng quẫn, lặng lẽ sống qua ngày).
Tình huống khí hậu của bát tự, cảm xúc, suy nghĩ của bản thể, như người có khí lực mạnh mẽ, tràn đầy, vẻ mặt như hoà thuận, ấm áp vui mừng thoả thích, thì ít khi gặp được vận may, vạn sự thuận lợi, hoặc tuế vận nâng đỡ trợ giúp, còn nói gì nữa! Nếu hệ thống bát tự cô hư, khí tượng đìu hiu, cùng lúc bị không vong hưu tù, mặc cho có trí (mưu kế) thuật (sách lược) tài (năng lực thiên phú) dũng (can đảm) cũng không có đất để thi triễn, năm tháng nhàn rỗi mà thôi.
Thành công chi khí, biến hóa quy tôn, giao hỗ chi thần, vãng lai câu quý.
(Tinh thần thành công được tôn vinh bởi sự biến hoá, thần tương tác đều quý trong mọi giao tế).
Biến hoá thành công như nhâm thuỷ tháng mười hai, khí vốn suy bại, có thiên can địa chi tượng mộc đưa đến biến hoá, sự việc kỳ diệu nhất là tương tác lẫn nhau đều quý. Tương tự như đinh tỵ gặp tân hợi, hoặc canh dần kỷ mão. Địa chi tuy rằng xung, không hoà hợp, nhưng hai địa chi giao tiếp với quý khí của nhàn thần lẫn nhau, còn lại phỏng theo đó.
Hưu tù canh nhập không vong, thì quai sự thối. Vượng tướng nhược kiêm sanh hợp, phúc thấu quyền hành.
(Hưu tù lại bị không vong, là lúc sự tốt đẹp không còn. Vượng tướng cùng lúc được sanh hợp, tập trung quyền hành).
Thông thường mọi vật hưu tù vốn là không tốt đẹp rồi, lại thêm bị không vong, há chỉ sanh không gặp thời, cho dù được thời, sự việc cũng thối tán không có ích lợi gì. Nếu năm tượng vượng tướng, đến chỗ không vong vẫn cón thích nghi, kim hoả vượng vào chỗ không vong tức là tốt, vốn là đang lúc khí lực vượng tướng, nếu sanh nếu hợp càng thấy khí lực biến hoá, phúc có khả năng hội tụ song song, có thể thật hiện ý chí của nó, bỏ đi hay về lại đều không mất thứ tự.
Khí dĩ quá giả dục thối tàng, phiên nghi mộ tuyệt chi địa,
Vật phương lai giả tương tiến thủ, nguyên hỉ sanh vượng chi cung.
(Khí đã vượt qua muốn thối lui ẩn náu, phù hợp với đất mộ tuyệt,
Vật mới đến thì nỗ lực đạt được mục đích, vốn dĩ thích nơi sanh vượng).
Như tháng ba khí của giáp mộc đã vượt qua, theo lý nên thối lui và ẩn tàng, chỉ thích hợp ở đất mộ tuyệt, chính là đạo lý tự nhiên vậy, nếu đến nơi sanh vượng trái lại thành ngang trái. Mới đến sanh vượng, như tháng mười hai giáp mộc nỗ lực đạt được mục đích, tháng giêng ất mộc nỗ lực đạt được mục đích, sắp đến mới đến thích hợp tạo nên đất sanh vượng, là hoạ là phúc, càng quan trọng.
Hưu tù hữu dụng, phát việt nhưng trì, vượng tướng vô tình, vi ác tối tốc.
(Hưu tù mà có lợi ích sẽ phát triễn nhưng mà chậm, vượng tướng mà vô tình là ác thì đến rất nhanh).
Dụng thần chỉ quý khi có lợi ích, sanh mình trợ giúp mình, lại đến thiên đức, nguyệt đức, thái ất các loại, nếu không gặp phải thiên thời vượng tướng, cho dù có lợi ích nó cũng xãy ra chậm chạp. Trong trụ gặp phải thần vượng tướng không có tình cảm với mình, như nửa tốt nửa xấu, một khi đến tuế vận, chỉ nâng đỡ hung sát, là tai hoạ rất là mạnh mẽ và nhanh chóng.
Tiến thần chấp quyền, chí tinh chí đương, nạp âm tái quý, nghi khắc nghi sanh.
(Tiến thần nắm quyền, rất tinh tế rất tương xứng, nạp âm nâng đỡ quý, nên khắc nên sanh).
Tiến thần có mang quý khí ở trong trụ là điều tuyệt diệu nhất. Dẫn dắt sát vào bên trong là đệ nhất hung xấu. Quý khí ở trong trụ tuy là tốt, nếu thực tình không cần kíp lắm, thì nạp âm nên đến khắc mình sanh mình, thì mới là hữu tình, vì đầy đủ cái đẹp của quý khí, nếu nạp âm không sanh khắc mình thì quý khí đo không có gì cả, và với mình không có liên quan.
Vượng thần xung khí, thấu dụng điêu khô, ác sát nhậm quyền, bổn tuần cấp thiết.
(Vượng thần khí lực mạnh mẽ, tiết lộ dụng thần điêu tàn khô héo, ác sát nắm quyền,tuần này rất là gấp rút).
Như đinh mùi có thể sanh ra ở các tháng mùa hạ được thời gian giúp đỡ, hình xuất ra tân và quý trong sửu, hiển lộ dụng thần ở trong trụ, thì phúc của nó mỏng và hoạ cũng nhẹ, ác sát vượng tướng vốn là hung, nếu cùng nhật thần ràng buộc ở bên trong, tai hoạ đến nhanh mà rất nặng. Quý thần tuần này rất tốt rất quan trọng.
Kim thần đắc thế chí hung, không vong ngộ xung tất phát.
(KIm thần đắc thế rất hung, không vong gặp xung sẽ phát).
Kim thần vốn là hung, nếu không bị đất hoả chế phục, lại được nơi khác hỗ trợ, hoặc vượng tướng đều là đắc thế, rất tàn ác, rất mạnh mẽ, trở thành cực kỳ hung hãn. Không vong chìm đắm thì không có ích lợi, chính là vật vứt bỏ rồi vậy. Gặp xung thần dĩ nhiên bắt đầu hiện ra, tức là có lợi ích , tương tự như dần không vong gặp thân.
Nhận tịnh nguyên vong kim mãn cục, toàn lại hỏa thần, vượng tướng hung sát hỏa phần không, tu bằng thủy tượng.
(Nhận tụ hợp nguyên vong kim đầy khắp cả cục, toàn cậy nhờ hoả thần, hung sát hoả vượng tướng đốt hư không, phải căn cứ theo thuỷ tượng).
Kim chính là tượng của mệnh hay vật giêt hại, kim khí đầy khắp cục, cùng lúc có các hung sát hình khắc, mình không giết hại người khác, sẽ bị người đâm, không có hoả chế phục sẽ đúng thật, người mà hoả vượng như là tượng ánh lửa bốc lên, loại này thường gặp tai nạn về lửa, thêm tuế vận phù hợp khí lực của nó, phải nương tựa vào tượng thuỷ cứu giúp.
Mộc thổ khí thác, dĩ đãi phát minh, khắc xung lực đình, vị phân thắng phụ.
(Khí của mộc thổ bày ra, vì đợi phát minh, lực khắc xung thoả đáng, không phân thắng bại).
Mộc không có thổ thì không thể trồng trọt, thổ không có mộc thì không thể khai thông, do đợi tuế vận giúp đỡ chỗ không đầy đủ, khí của nó tươi sáng, tự nhiên có ích lợi và vững chắc, cho đến thấm nhuần, xung khắc có thắng có bại, lực ổn thoả thì không phân thắng bại, cần phải quan sát khí của nó biến hoá, mới có thể đoán.
Phù trì sanh trợ, sát chuyển dưỡng chi thần, chiến đẩu xung tranh, quan phôi tẫn chi khí.
(Phù trì sanh trợ quan sát chuyển hoá thành thần nuôi dưỡng, chiến đấu xung tranh, hiển thị khí bị cạn kiệt).
Sanh trợ cuồn cuộn là cho rằng chuyển thành thần nuôi dưỡng, ở đâu là nền tảng của thể dụng, là điềm báo tốt xấu mà xác định. Chiến đấu xung tranh hiển thị khí bị cạn kiệt, đây là người hiềm khích mà nhút nhát và vô dụng.
Âm can thủ nhận dục phân minh, chi lực đương quyền phòng ám phạm.
(Can âm chọn nhận muốn rõ ràng, chi lực đang nắm quyền đề phòng ngầm xâm phạm).
Chi lực còn gọi là quý lực, can âm thủ nhận tương tự như đinh kỷ gặp mùi, người tân gặp tuất là nhận. Chi lực đương quyền, như mùi liên quan quý thần, hoặc lực nặng thì hợp ngọ, ngọ xung tý, tý lại phạm mùi, lại thêm mùi có lực mạnh có khả năng xung khởi quý kỷ trong chữ sửu xuất ra.
Vượng thần đĩnh lập, vật mạc đương tiền, ác sát mãn doanh, can vô đình xứ.
(Vượng thần hiên ngang đứng, trước mặt không có gì, ác sát đầy tràn, mối quan hệ không có lúc ngừng).
Như bè nhóm của những người cùng vị trí, có thiên thời cho dến vượng khí, đột nhiên chuyên quyền trong trụ, không có ràng buộc nào khác, nó bị thần khắc, làm sao dám hiển lộ, cho dù tàng phục, cũng không dám đảm nhận sự việc. Can năm cn ngày gặp đầy cục sát nhận, can chủ củ mình cuối cùng không có trú xứ, chắc chắn không phải là điều tốt, chết trẻ trong nghèo khó.
Quỷ trung phùng quỷ vô khứ tựu, xung nhi ngộ xung khiếm ỷ bằng.
(Gặp quỷ trong quỷ không có nơi nào để đi, xung mà gặp xung không có chỗ nương tựa).
Cái mà khắc hại mình là quỷ, nếu như quỷ cũng gặp quỷ tới hại, sẽ chuyển đổi thương khắc đó sang uy hiếp mình, nếu không có chế phục truền đến là điềm chết gấp.
Chi thần bị xung, quý khí của can thần liền không ổn định, làm thế nào xung thần lại gặp xung, nhà mình không có nên tảng để nương tựa, tượng không tồn tại, sự việc cũng không hoàn thành, chẳng phải tai hoạ cũng yểu.
Tinh thôn trọng khắc giai thành họa, nhị kích song trùng tổng bất tường.
(Tinh thôn (chiếm lấy) trùng khắc đều thành hoạ, hai kích hai xung đều là xấu xa).
Như giáp gặp hai nhâm là trọng thôn (chiếm lấy nặng nề), gặp hai canh là song khắc (cặp đôi kiềm chế), trong trụ lần lượt gặp xung thần, có thể ở nơi hợp có hình có hại, có khắc có phá, điều là điềm báo xấu xa.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十一
缺用纳音,全为补气。
大挠造纳音之法,隔八有用之具,如何竟为弃物,缺气处仍要纳音补借,如欠土纳音有土,则补其不足,休囚稍慢。
物皆妙意,身不能任。
贵气或多或重,自身无气岂能胜任,如随其类,遂其化,或从其象,应其气,不在此论,一说身不能任,如病不能食,花不结实。
势情充悦,发旺以时,象意空寒,幽栖度日。
八字气候势况,情思体段,如人气壮气满,似和暖喜悦之色,少能达时通济,利物发韧,或岁运扶持,更何言哉。若八字体制孤虚,气象冷落,兼带空亡休囚者,任有智术才勇,无所施展,岁月空闲而已。
成功之气,变化归尊,交互之神,往来俱贵。
成功变化,如壬水十二月,气本残废,有木象支干引化,第一妙事,交互俱贵。如丁巳见辛亥,或庚寅己卯之类。地支虽冲,不和处,二支互有闲神贵气来往,其余仿此。
休囚更入空亡,时乖事退,旺相若兼生合,辐辏权行。
凡休囚之物,本不好了,更入空亡,岂惟生不遇时,纵使乘时,事亦退散不济,若五象旺相,到空犹可,金火旺入空却好,夫旺相之神,本自当时,若生若合,愈见精神权变,福能骈集,可行其志,去就皆不失序。
气已过者欲退藏,翻宜墓绝之地,
物方来者将进取,原喜生旺之宫。
如三月甲木气过,理合退藏,惟宜于墓绝之地,乃道合自然也,若临生旺之乡,反为乖戾,方来生旺者,如十二月甲木进气,正月乙木进气,将进方来,宜立生旺之地,为祸为福尤切。
休囚有用,发越仍迟,旺相无情,为恶最速。
用神虽贵有用,生我助我,又临天月二德天乙之类,若不临天时旺相,纵有用,发越迟迟,柱中虽带旺相之神,与我无意,如半吉半凶,一至岁运,只扶其凶煞,为祸最为猛速。
进神执权,至精至当,纳音载贵,宜克宜生。
进神带贵气,柱中第一妙。引煞入内,第一凶。贵气柱中虽吉,情若未切,纳音宜来克我生我,则方为有意,以全其贵之美,若纳音不生克者,空负其贵,与我无统也。
旺神冲气,透用凋枯,恶煞任权,本旬急切。
如丁未或生夏月得时之际,刑出丑中辛癸,透在柱中为用者,其福气薄为祸亦轻,恶煞旺相本凶,若同日辰一句之内,祸速至重也。贵神本旬,至吉至紧。
金神得势至凶,空亡遇冲必发。
金神本凶,若无火乡制之,又被别处扶起,或旺相,皆为得势,至暴至刚,为凶特甚,空亡陷没无用,乃弃物也。遇冲神必然起发,即有用矣,如寅空见申之类是也。
刃并元亡金满局,全赖火神,旺相凶煞火焚空,须凭水象。
金乃杀害物命之象,满局金气,兼带凶煞等神刑克者,我不杀害他人,必被人所剌,无火制必验,火若焚炎之象盛者,此等多值火灾,况岁运符合其气,须藉水象既济。
木土气托,以待发明,克冲力停,未分胜负。
木非土则不能栽养,士非木则不能疏通,以待岁运,扶其不足,焕发其气,自然益坚,至于润泽冲克,有胜有负,力停则胜负未分,须观其气而消息之,方可断也。
扶持生助,察转养之神,战斗冲争,观坏尽之气。
生助滔滔者,看转养之神,何处为体用之基,为吉凶之兆而决之,战斗冲争,观坏尽之气,即此为闲退无用之人也。
阴干取刃欲分明,支力当权防暗犯。
支力一云贵力,阴干取刃,如丁己见末,辛人见戌,为刃之类,支力当权,如未系贵神,或力重,则合午,午冲子,来犯未,又如未有力重,能冲起丑字中癸己之物出来。
旺神挺立,物莫当前,恶煞满盈,干无停处。
如一位之干,有天时至旺之气,卓然柱中擅权,余无牵绾者,其被克之神,何敢现露,纵使藏伏,亦莫敢执事也。岁干日干,遇满局煞刃等恶,自家干主,竟无住处,决主不祥,贫夭恶死。
鬼中逢鬼无去就,冲而遇冲欠倚凭。
克害我者为鬼,倘鬼亦遇鬼来相害,展转伤克,气极逼我,若更无转制,促死之兆。
支神被冲,干神贵气便不安稳,奈何冲神又遇冲激,我家更无倚赖之基,象不立,物亦不成,非祸则夭。
并吞重克皆成祸,二激双冲总不祥。
如甲见二壬为重吞,见二庚为双克,柱中迭见冲神,或合处有刑有害,有克有破,皆不祥之兆也。
.
ngọc tỉnh áo quyết thập nhất
Khuyết dụng nạp âm, toàn vi bổ khí.
(Thiếu sót thì dùng nạp âm, đầy đủ thì giúp ích khí).
Quấy nhiễu lớn tạo ra phép nạp âm, tài năng cách tám hữu dụng, dù là vật bỏ đi chăng nửa, chỗ thiếu khí vẫn cần nạp âm bổ sung, như thiếu thổ mà nạp âm có thổ sẽ bổ sung được chỗ không đủ, hưu tù thì chậm hơn một chút.
Vật giai diệu ý, thân bất năng nhậm.
(Mọi vật đều có ý nghĩa tuyệt vời, tự mình không khả năng gánh vác).
Quý khí có thể nhiều có thể nặng, tự thân mình không có khí lực làm sao có khả năng gánh vác, giống như tuỳ theo loại, thoả thích sự biến hoá của nó, hoặc thuận theo tượng của nó, đáp ứng khí của nó, không bàn luận ở đây, có một thuyết về tự mình không khả năng gánh vác là như bệnh không thể ăn, hoa không đậu trái.
Thế tình sung duyệt, phát vượng dĩ thì, tượng ý không hàn, u tê độ nhật.
(Tình trạng tràn đầy phấn khởi, hưng thịnh theo thời gian, bên trong tượng trống rỗng cùng quẫn, lặng lẽ sống qua ngày).
Tình huống khí hậu của bát tự, cảm xúc, suy nghĩ của bản thể, như người có khí lực mạnh mẽ, tràn đầy, vẻ mặt như hoà thuận, ấm áp vui mừng thoả thích, thì ít khi gặp được vận may, vạn sự thuận lợi, hoặc tuế vận nâng đỡ trợ giúp, còn nói gì nữa! Nếu hệ thống bát tự cô hư, khí tượng đìu hiu, cùng lúc bị không vong hưu tù, mặc cho có trí (mưu kế) thuật (sách lược) tài (năng lực thiên phú) dũng (can đảm) cũng không có đất để thi triễn, năm tháng nhàn rỗi mà thôi.
Thành công chi khí, biến hóa quy tôn, giao hỗ chi thần, vãng lai câu quý.
(Tinh thần thành công được tôn vinh bởi sự biến hoá, thần tương tác đều quý trong mọi giao tế).
Biến hoá thành công như nhâm thuỷ tháng mười hai, khí vốn suy bại, có thiên can địa chi tượng mộc đưa đến biến hoá, sự việc kỳ diệu nhất là tương tác lẫn nhau đều quý. Tương tự như đinh tỵ gặp tân hợi, hoặc canh dần kỷ mão. Địa chi tuy rằng xung, không hoà hợp, nhưng hai địa chi giao tiếp với quý khí của nhàn thần lẫn nhau, còn lại phỏng theo đó.
Hưu tù canh nhập không vong, thì quai sự thối. Vượng tướng nhược kiêm sanh hợp, phúc thấu quyền hành.
(Hưu tù lại bị không vong, là lúc sự tốt đẹp không còn. Vượng tướng cùng lúc được sanh hợp, tập trung quyền hành).
Thông thường mọi vật hưu tù vốn là không tốt đẹp rồi, lại thêm bị không vong, há chỉ sanh không gặp thời, cho dù được thời, sự việc cũng thối tán không có ích lợi gì. Nếu năm tượng vượng tướng, đến chỗ không vong vẫn cón thích nghi, kim hoả vượng vào chỗ không vong tức là tốt, vốn là đang lúc khí lực vượng tướng, nếu sanh nếu hợp càng thấy khí lực biến hoá, phúc có khả năng hội tụ song song, có thể thật hiện ý chí của nó, bỏ đi hay về lại đều không mất thứ tự.
Khí dĩ quá giả dục thối tàng, phiên nghi mộ tuyệt chi địa,
Vật phương lai giả tương tiến thủ, nguyên hỉ sanh vượng chi cung.
(Khí đã vượt qua muốn thối lui ẩn náu, phù hợp với đất mộ tuyệt,
Vật mới đến thì nỗ lực đạt được mục đích, vốn dĩ thích nơi sanh vượng).
Như tháng ba khí của giáp mộc đã vượt qua, theo lý nên thối lui và ẩn tàng, chỉ thích hợp ở đất mộ tuyệt, chính là đạo lý tự nhiên vậy, nếu đến nơi sanh vượng trái lại thành ngang trái. Mới đến sanh vượng, như tháng mười hai giáp mộc nỗ lực đạt được mục đích, tháng giêng ất mộc nỗ lực đạt được mục đích, sắp đến mới đến thích hợp tạo nên đất sanh vượng, là hoạ là phúc, càng quan trọng.
Hưu tù hữu dụng, phát việt nhưng trì, vượng tướng vô tình, vi ác tối tốc.
(Hưu tù mà có lợi ích sẽ phát triễn nhưng mà chậm, vượng tướng mà vô tình là ác thì đến rất nhanh).
Dụng thần chỉ quý khi có lợi ích, sanh mình trợ giúp mình, lại đến thiên đức, nguyệt đức, thái ất các loại, nếu không gặp phải thiên thời vượng tướng, cho dù có lợi ích nó cũng xãy ra chậm chạp. Trong trụ gặp phải thần vượng tướng không có tình cảm với mình, như nửa tốt nửa xấu, một khi đến tuế vận, chỉ nâng đỡ hung sát, là tai hoạ rất là mạnh mẽ và nhanh chóng.
Tiến thần chấp quyền, chí tinh chí đương, nạp âm tái quý, nghi khắc nghi sanh.
(Tiến thần nắm quyền, rất tinh tế rất tương xứng, nạp âm nâng đỡ quý, nên khắc nên sanh).
Tiến thần có mang quý khí ở trong trụ là điều tuyệt diệu nhất. Dẫn dắt sát vào bên trong là đệ nhất hung xấu. Quý khí ở trong trụ tuy là tốt, nếu thực tình không cần kíp lắm, thì nạp âm nên đến khắc mình sanh mình, thì mới là hữu tình, vì đầy đủ cái đẹp của quý khí, nếu nạp âm không sanh khắc mình thì quý khí đo không có gì cả, và với mình không có liên quan.
Vượng thần xung khí, thấu dụng điêu khô, ác sát nhậm quyền, bổn tuần cấp thiết.
(Vượng thần khí lực mạnh mẽ, tiết lộ dụng thần điêu tàn khô héo, ác sát nắm quyền,tuần này rất là gấp rút).
Như đinh mùi có thể sanh ra ở các tháng mùa hạ được thời gian giúp đỡ, hình xuất ra tân và quý trong sửu, hiển lộ dụng thần ở trong trụ, thì phúc của nó mỏng và hoạ cũng nhẹ, ác sát vượng tướng vốn là hung, nếu cùng nhật thần ràng buộc ở bên trong, tai hoạ đến nhanh mà rất nặng. Quý thần tuần này rất tốt rất quan trọng.
Kim thần đắc thế chí hung, không vong ngộ xung tất phát.
(KIm thần đắc thế rất hung, không vong gặp xung sẽ phát).
Kim thần vốn là hung, nếu không bị đất hoả chế phục, lại được nơi khác hỗ trợ, hoặc vượng tướng đều là đắc thế, rất tàn ác, rất mạnh mẽ, trở thành cực kỳ hung hãn. Không vong chìm đắm thì không có ích lợi, chính là vật vứt bỏ rồi vậy. Gặp xung thần dĩ nhiên bắt đầu hiện ra, tức là có lợi ích , tương tự như dần không vong gặp thân.
Nhận tịnh nguyên vong kim mãn cục, toàn lại hỏa thần, vượng tướng hung sát hỏa phần không, tu bằng thủy tượng.
(Nhận tụ hợp nguyên vong kim đầy khắp cả cục, toàn cậy nhờ hoả thần, hung sát hoả vượng tướng đốt hư không, phải căn cứ theo thuỷ tượng).
Kim chính là tượng của mệnh hay vật giêt hại, kim khí đầy khắp cục, cùng lúc có các hung sát hình khắc, mình không giết hại người khác, sẽ bị người đâm, không có hoả chế phục sẽ đúng thật, người mà hoả vượng như là tượng ánh lửa bốc lên, loại này thường gặp tai nạn về lửa, thêm tuế vận phù hợp khí lực của nó, phải nương tựa vào tượng thuỷ cứu giúp.
Mộc thổ khí thác, dĩ đãi phát minh, khắc xung lực đình, vị phân thắng phụ.
(Khí của mộc thổ bày ra, vì đợi phát minh, lực khắc xung thoả đáng, không phân thắng bại).
Mộc không có thổ thì không thể trồng trọt, thổ không có mộc thì không thể khai thông, do đợi tuế vận giúp đỡ chỗ không đầy đủ, khí của nó tươi sáng, tự nhiên có ích lợi và vững chắc, cho đến thấm nhuần, xung khắc có thắng có bại, lực ổn thoả thì không phân thắng bại, cần phải quan sát khí của nó biến hoá, mới có thể đoán.
Phù trì sanh trợ, sát chuyển dưỡng chi thần, chiến đẩu xung tranh, quan phôi tẫn chi khí.
(Phù trì sanh trợ quan sát chuyển hoá thành thần nuôi dưỡng, chiến đấu xung tranh, hiển thị khí bị cạn kiệt).
Sanh trợ cuồn cuộn là cho rằng chuyển thành thần nuôi dưỡng, ở đâu là nền tảng của thể dụng, là điềm báo tốt xấu mà xác định. Chiến đấu xung tranh hiển thị khí bị cạn kiệt, đây là người hiềm khích mà nhút nhát và vô dụng.
Âm can thủ nhận dục phân minh, chi lực đương quyền phòng ám phạm.
(Can âm chọn nhận muốn rõ ràng, chi lực đang nắm quyền đề phòng ngầm xâm phạm).
Chi lực còn gọi là quý lực, can âm thủ nhận tương tự như đinh kỷ gặp mùi, người tân gặp tuất là nhận. Chi lực đương quyền, như mùi liên quan quý thần, hoặc lực nặng thì hợp ngọ, ngọ xung tý, tý lại phạm mùi, lại thêm mùi có lực mạnh có khả năng xung khởi quý kỷ trong chữ sửu xuất ra.
Vượng thần đĩnh lập, vật mạc đương tiền, ác sát mãn doanh, can vô đình xứ.
(Vượng thần hiên ngang đứng, trước mặt không có gì, ác sát đầy tràn, mối quan hệ không có lúc ngừng).
Như bè nhóm của những người cùng vị trí, có thiên thời cho dến vượng khí, đột nhiên chuyên quyền trong trụ, không có ràng buộc nào khác, nó bị thần khắc, làm sao dám hiển lộ, cho dù tàng phục, cũng không dám đảm nhận sự việc. Can năm cn ngày gặp đầy cục sát nhận, can chủ củ mình cuối cùng không có trú xứ, chắc chắn không phải là điều tốt, chết trẻ trong nghèo khó.
Quỷ trung phùng quỷ vô khứ tựu, xung nhi ngộ xung khiếm ỷ bằng.
(Gặp quỷ trong quỷ không có nơi nào để đi, xung mà gặp xung không có chỗ nương tựa).
Cái mà khắc hại mình là quỷ, nếu như quỷ cũng gặp quỷ tới hại, sẽ chuyển đổi thương khắc đó sang uy hiếp mình, nếu không có chế phục truền đến là điềm chết gấp.
Chi thần bị xung, quý khí của can thần liền không ổn định, làm thế nào xung thần lại gặp xung, nhà mình không có nên tảng để nương tựa, tượng không tồn tại, sự việc cũng không hoàn thành, chẳng phải tai hoạ cũng yểu.
Tinh thôn trọng khắc giai thành họa, nhị kích song trùng tổng bất tường.
(Tinh thôn (chiếm lấy) trùng khắc đều thành hoạ, hai kích hai xung đều là xấu xa).
Như giáp gặp hai nhâm là trọng thôn (chiếm lấy nặng nề), gặp hai canh là song khắc (cặp đôi kiềm chế), trong trụ lần lượt gặp xung thần, có thể ở nơi hợp có hình có hại, có khắc có phá, điều là điềm báo xấu xa.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十一
缺用纳音,全为补气。
大挠造纳音之法,隔八有用之具,如何竟为弃物,缺气处仍要纳音补借,如欠土纳音有土,则补其不足,休囚稍慢。
物皆妙意,身不能任。
贵气或多或重,自身无气岂能胜任,如随其类,遂其化,或从其象,应其气,不在此论,一说身不能任,如病不能食,花不结实。
势情充悦,发旺以时,象意空寒,幽栖度日。
八字气候势况,情思体段,如人气壮气满,似和暖喜悦之色,少能达时通济,利物发韧,或岁运扶持,更何言哉。若八字体制孤虚,气象冷落,兼带空亡休囚者,任有智术才勇,无所施展,岁月空闲而已。
成功之气,变化归尊,交互之神,往来俱贵。
成功变化,如壬水十二月,气本残废,有木象支干引化,第一妙事,交互俱贵。如丁巳见辛亥,或庚寅己卯之类。地支虽冲,不和处,二支互有闲神贵气来往,其余仿此。
休囚更入空亡,时乖事退,旺相若兼生合,辐辏权行。
凡休囚之物,本不好了,更入空亡,岂惟生不遇时,纵使乘时,事亦退散不济,若五象旺相,到空犹可,金火旺入空却好,夫旺相之神,本自当时,若生若合,愈见精神权变,福能骈集,可行其志,去就皆不失序。
气已过者欲退藏,翻宜墓绝之地,
物方来者将进取,原喜生旺之宫。
如三月甲木气过,理合退藏,惟宜于墓绝之地,乃道合自然也,若临生旺之乡,反为乖戾,方来生旺者,如十二月甲木进气,正月乙木进气,将进方来,宜立生旺之地,为祸为福尤切。
休囚有用,发越仍迟,旺相无情,为恶最速。
用神虽贵有用,生我助我,又临天月二德天乙之类,若不临天时旺相,纵有用,发越迟迟,柱中虽带旺相之神,与我无意,如半吉半凶,一至岁运,只扶其凶煞,为祸最为猛速。
进神执权,至精至当,纳音载贵,宜克宜生。
进神带贵气,柱中第一妙。引煞入内,第一凶。贵气柱中虽吉,情若未切,纳音宜来克我生我,则方为有意,以全其贵之美,若纳音不生克者,空负其贵,与我无统也。
旺神冲气,透用凋枯,恶煞任权,本旬急切。
如丁未或生夏月得时之际,刑出丑中辛癸,透在柱中为用者,其福气薄为祸亦轻,恶煞旺相本凶,若同日辰一句之内,祸速至重也。贵神本旬,至吉至紧。
金神得势至凶,空亡遇冲必发。
金神本凶,若无火乡制之,又被别处扶起,或旺相,皆为得势,至暴至刚,为凶特甚,空亡陷没无用,乃弃物也。遇冲神必然起发,即有用矣,如寅空见申之类是也。
刃并元亡金满局,全赖火神,旺相凶煞火焚空,须凭水象。
金乃杀害物命之象,满局金气,兼带凶煞等神刑克者,我不杀害他人,必被人所剌,无火制必验,火若焚炎之象盛者,此等多值火灾,况岁运符合其气,须藉水象既济。
木土气托,以待发明,克冲力停,未分胜负。
木非土则不能栽养,士非木则不能疏通,以待岁运,扶其不足,焕发其气,自然益坚,至于润泽冲克,有胜有负,力停则胜负未分,须观其气而消息之,方可断也。
扶持生助,察转养之神,战斗冲争,观坏尽之气。
生助滔滔者,看转养之神,何处为体用之基,为吉凶之兆而决之,战斗冲争,观坏尽之气,即此为闲退无用之人也。
阴干取刃欲分明,支力当权防暗犯。
支力一云贵力,阴干取刃,如丁己见末,辛人见戌,为刃之类,支力当权,如未系贵神,或力重,则合午,午冲子,来犯未,又如未有力重,能冲起丑字中癸己之物出来。
旺神挺立,物莫当前,恶煞满盈,干无停处。
如一位之干,有天时至旺之气,卓然柱中擅权,余无牵绾者,其被克之神,何敢现露,纵使藏伏,亦莫敢执事也。岁干日干,遇满局煞刃等恶,自家干主,竟无住处,决主不祥,贫夭恶死。
鬼中逢鬼无去就,冲而遇冲欠倚凭。
克害我者为鬼,倘鬼亦遇鬼来相害,展转伤克,气极逼我,若更无转制,促死之兆。
支神被冲,干神贵气便不安稳,奈何冲神又遇冲激,我家更无倚赖之基,象不立,物亦不成,非祸则夭。
并吞重克皆成祸,二激双冲总不祥。
如甲见二壬为重吞,见二庚为双克,柱中迭见冲神,或合处有刑有害,有克有破,皆不祥之兆也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#364
Gửi vào 16/10/2024 - 09:12
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thập nhị
Ngũ hành vụ yếu quân đình, thiên ỷ nan năng tế vật, tứ trụ toàn nghi thất phối, hưng suy khủng bất thành công.
(Ngũ hành cần phải cân bằng, thiên lệch không thể giúp vật, tứ trụ đầy đủ nên phối hợp, thịnh suy e không thành công).
Đình quân (cân bằng), có năm lý thuyết:
- Một: nhật chủ và dụng thần, xung hoà hỗ trợ nhau, hai bên mỗi bên đều có chỗ nương tựa không đến nổi quá nghèo nàn.
- Hai: tổn hại khí của dụng thần, có vật để chế phục, không đến ngăn trở.
- Ba: thiên can địa chi câu chữ trên dưới đón nhận nhau để đạt được lợi ích, không lỗi bất cập.
- Bốn: tử khí hoặc kiểm nghiệm vật sống thì bè nhóm ít không thể thắng bè nhóm đông.
- Năm: muốn biến muốn hoá, có đố (ganh ghét) có phá (phá hỏng), muốn tĩnh (tĩnh lặng) muốn an (yên ổn), có phạm (đụng chạm) có kích (mãnh lệt).
Thất phối (phối hợp) có sáu lý thuyết
- Một: suy thần mà có ích phải đợi vận nâng đỡ mới có thể.
- Hai: thiện ác tách rời có thể điều hoà, xem vận nâng đỡ bên nào mà phân biệt tốt xấu.
- Ba: tuy có dụng thần, một thịnh một suy, thiên khô (hết sức nghèo nàn) không thành công.
- Bốn: ổn định nhau hỗ trợ nhau, cái mình phụ hoạ cái mình tìm tòi, đều có chỗ nương tựa.
- Năm: vượng muốn thành vật của nó, một khi suy thì không thể hoàn thành.
- Sáu: mỗi thiên can địa chi đều có riêng quý khí của mình, hoặc có riêng những cái xấu, quái gỡ.
Bình sanh phúc đức, bất tri hóa vật liên miên, thứ vị lai thần, yếu thức ám thương lan tiệt.
(Cả đời phúc đức, không biết rằng hoá vật liên tục không ngừng, kế đến là nơi thần sắp đến phải biết ngầm tổn hại mà ngăn chặn hay cắt đứt).
Trong địa chi có kỷ ất tân đinh các loại, đều nói là thất sát đáng ghét, mà không biết rằng kỷ thổ sanh ất kim, ất kim sanh tân thuỷ, tân thuỷ sanh đinh mộc (đoạn này là nói về can hợp hoá sanh cho can hợp hoá), liên tục không đứt đoạn, huống chi lộ ra rõ ràng, nơi hư củng hoặc có giáp bính nhâm canh, ngầm hợp khí vững chắc, cách đại phú quý.
Thiên can chưa tới trước một vị trí, địa chi chưa tới trước một vị trí đều là hung ác, không thể không biết. Như ất thấy bính, hợp tân ngầm tổn hại, và có nhận các loại, tý thấy sửu, sửu thấy dần, dần thấy mão các loại, vừa có nhận vừa có sát, hàm trì, tỷ kiên ác khí nhiều mối.
Thập can cố chân khí tương lăng, thất sát phạm khắc thần cực thiết.
(Mười thiên can xem xét chân khí xâm phạm nhau, thất sát đụng chạm khắc thần rất quan trọng).
Như ất dậu gặp mậu tuất, tức là tuất hoả thương tổn ất kim, lại thêm lục hại của mộ hoả, khai mở khí kim vượng, còn lại phỏng theo đó.
Thất sát phạm khắc: như vốn là dụng thần là ất mộc đi vận dậu, tuế là sửu xung tổn ất mùi kim cục, vốn là huỷ hoại dụng thần ất mộc , cùng lúc sửu xung làm mùi suy yếu, có thể làm thần ẩn tàng bị huỷ nát rơi xuống đất. Đơn cử một thí dụ này, còn lại các kết cấu phải hiểu tỉ mỉ.
Đoạn này chỉ có thể nói là thất sát gặp xung thì không tốt, không thể luận kim cục huỷ hoại ất mộc dụng thần.
Bát tự đái sát hình thai, ý ngoại tu thức, tứ ấn hà can thừa khí, loại thủ kì tường.
(Bát tự có sát hình thai, điều không ngờ cần phải biết, bốn ấn can nào thừa khí, phép tắc chọn lấy kỹ càng).
Thai thần: cái mà truyền lại bí mật đều có khác biệt, người đời nay chỉ ước chừng ở mười tháng không có nông cạn hay chiều sâu nên dễ dẫn đến sai lầm. Một cách khác là khoảng chừng mười tháng, chi thần đối với ngày sanh là đúng, như ngày bính ngọ ở trong tháng tiết nào, có thể là mười một tháng, có thể là chín tháng, phải linh hoạt sử dụng. Nếu đới hình, chủ sớm tổn hại cha mẹ, không vong, hãm, xung, hình, bốn sát rất ác
Tứ ấn: bài ca xưa hát rằng: thỉn tuất sửu mùi là tứ ấn, mậu kỷ gặp phải chủ thành thực, giáp ất nếu gặp thì hèn hạ và tham lam, bính đinh nếu gặp thường nghèo và bệnh, canh tân cách hiệu mẹ sanh con, sát họp ở cung sửu thường đoản mệnh, nhâm quý không biết rõ.
Ngũ hành phân bố phương ngung, tử thủy sanh kim nhi dị dụng.
(Ngũ hành chia ra ở các góc, tử thuỷ (nhâm) sanh ở kim mà có công hiệu khác nhau).
Cho rằng hoả sanh ở dần, bại ở mão và vượng ở ngọ; kim sanh ở tỵ, bại ở ngọ và mộ ở sửu các loại. Như người giáp tý gặp tỵ, tức là sanh kim, sanh kim khắc giáp, tuyệt thuỷ sanh giáp, lâm quan hoả trộm khí của giáp các loại; gặp mão tức là tử thuỷ sanh giáp, vượng mộc cùng một đảng, bại hoả làm hao tổn giáp, mỗi chỗ đều có vai trò riêng của mình, xem kết cấu còn lại của nó, tiếp theo mới luận phù (nâng đỡ) ức (đè nén), còn lại dựa theo cách này để suy xét.
Nhất thần nhàn đình tả hữu, thương quan thiết bổn dĩ đãi thì。
(Mỗi thần nhàn rỗi gần bên, thương quan trộm của mình và đợi thời).
Nhàn đình chi thần (thần nhàn rỗi) ở gần bên, tức là can năm tháng giờ, phần nhiều là không được chọn dùng, cho nên luôn chậm chạp, đến lúc tù thì trí tuệ sinh ra, dưỡng bậnh mất mạng, có thể vì thương quan không có khí lực, không trói buộc vào việc gì, bỗng nhiên tuế vận bắt đầu nâng đỡ các loại thần này, làm hao tổn khí lực của mình, làm tổn hại dụng thần của mình, nửa thật nửa giả, thực ra chính là cường quyền được sức mạnh, tiểu nhân được sủng ái mà có quyền, giữ lại điều này là gốc rễ tai hoạ, làm sao có thể coi thường được.
Can thần bỉ thử tương an, phương vi lộc bị, địa chi lai vãng xung kích, bất nại mã trì.
(Can thần hai bên ổn định nhau mới là lộc chu đáo, địa chi qua lại xung kích không chịu được mã giong ruỗi).
Như người giáp lộc ở dần, gặp nhâm dần sẽ là tự mình mang theo triệt lộ không vong, là tăng đạo thì có phúc. Canh dần là phá lộc, nửa tốt nửa xấu.
Lại thêm như đinh gặp mậu là nhận, không thể chỉ nói lộc là quý, tân lộc ở dậu, gặp quý dậu là hoả thuỷ đụng chạm nhau, đinh là dậu không vong quý. Đinh mộc dung nạp khí, tân thuỷ mộc dục chủ gian dâm.
Độn can ở lộc, gọi là chân lộc (lộc thật sự), đến nơi nào cũng có ích. Can của nó gặp thiên ất quý nhân, can công khai ở quý, lại ngồi ở lộc của quý. Như người đinh lộc ở ngọ, độn đến ngọ được chữ bính, mà bính quý ở dậu và hợi, nên gặp tân dậu tân hợi, tức là quý của tân lại gặp ở ngọ, hợp cách có giá trị cao nhất, đó là lý do Lý Hư Trung chế ra thiên lộc hỗ quý (trao đổi quý của lộc tự nhiên).
Hoặc là mã không thích xung, xung thì động, can thần ở mã cưởi quý thì tốt, can độn ở mã hữu tình thì tốt, như người đinh sửu gặp tân hợi, là nơi quý xứ quan trọng hữu dụng, can thần ở mã, tự mang theo hung sát không vong thì ác, tới khắc chủ thể cùng với dụng thần cũng là ác, hoặc địa chi xung hình mãnh liệt làm thay đổi liên tục, mã đó làm sao được nghĩ ngơi ổn định đây.
Thương tẫn quan tinh, phương tri dụng lộc, xung phá lộc vị, thủy đắc dụng quan.
(Thương tẫn quan tinh mới biết dùng lộc, xung phá lộc vị bắt đầu dùng được quan).
Trong trụ có thương quan, rõ ràng là quan tinh bị khắc hại, tức là người có nhật lộc, dụng lộc thì thoả đáng, không dùng cả hai, không góp lại làm một.
Lộc vị như bị phá hỏng, tức là chỉ dùng quan tinh mà định thể (bản chất của sự vật), bởi quý dụng một mối rất tuyệt diệu, nhiều sẽ tan mất khí lực.
Lộc vị tuy minh, hóa khí khủng kị, dịch mã kí hiện, nhật thần hựu trọng.
(Lộc vị tuy rõ ràng, hoá khí e dè, dịch mã đã hiện, nhật thần càng quan trọng).
Quan tinh thấy lộc các sự kiện, đã rõ ràng không bị phá, là tốt là phúc lẽ dương nhiên vậy, nếu thể dụng có thể được biến hoá, tức là nơi đó có ghen ghét, có tranh đoạt, biến hoá không được, là vật không thành công, thì chỉ như lúa không trổ bông, quý suông không có quan, hoặc có phúc, nhưng không phải là người coi trọng tích luỹ tài phúc. Dịch mã vốn che dấu ở cung thái tuế, cần phải đến thừa dụng, nếu trụ ngày lại có mã xuất hiện chồng lên nhau, trái lại thành cách cục thấp hèn. Còn một thuyết khác mã của nhật thần hội tụ cùng mã của thái tuế tuy quan trọng, mã nếu có ích, quý khí ổn định nhau càng tốt, gặp lại sẽ không đúng vậy.
Ký thủ lộc tân vi dụng, tế quan mã tướng vi nguyên.
(Đã chọn lấy lộc tân làm dụng thần, quan sát kỹ mã tướng là người đứng đầu).
Độn can của lộc thượng, tên là lộc tân (lộc khách), như không có niên lộc (lộc của năm), phải xem độn đến lộc quan (lộc của quan), can thần là dụng thần, chủ lộc rất cần thiết, tức là xem nhật thần, dụng thần là thần nào.
Mã tướng cũng như phương pháp của lộc, thí dụ như năm đinh tỵ ngày bính, mã ở hợi, độn gặp tân là vợ của bính, chủ cưới vợ ở bên ngoài đường, tức là phân rõ quý lộc tài quan, là nói về sát hung sát nhẹ nặng.
Dụng tượng khế hợp, yếu phòng đố tranh, quý khí giao thông, thiết quan phân đoạt.
(Dụng tượng phù hợp, cần phải đề phòng đố kỵ tranh đoạt, quý khí không bị trở ngại, cần thiết quan sát phân chia tranh đoạt).
Dụng thần vốn cùng với can ngày hợp tác, hữu tình có khí lực thành bạn bè, hoặc có tỷ kiên công khai hay ngầm, một tranh đoạt một đố kỵ thì gặp cũng như không gặp, thần tranh đố của mình làm dụng thần, đoán pháp cùng một bản chất sự vật, tuế vận giống nhau. Thông thường quý khí chuyên dùng thì có thể phân dụng hai hay ba nơi, là vật của mọi người, không chỉ thường ngàyhay xãy ra kiện tụng về tranh chấp, tài sản của mình, cũng là cự phách của tỷ kiên, thậm chí còn tệ hơn nếu mình được đánh giá cao hơn.
Tài quan chỉ ỷ nhật thần, vong kiếp tu tham thái tuế.
(Tài quan chỉ dựa vào nhật thần, vong kiếp phải tham khảo thái tuế).
Nhật thần chỉ lấy tài quan làm dụng thần, rất là gần gũi, hưng suy vượng tuyệt, sanh nhau khắc nhau, tức là cùng với thái tuế thông lĩnh như thế nào, hành tàng (lúc ra làm việc, lúc náu một chỗ), hoạ phúc của nó rất hiệu quả. Hai thần vong và kiếp, là ác sát rất nặng của một năm. Đều phải dựa theo tuế quân mà suy xét, mỗi thứ đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, cho đến cách ra làm việc hay ẩn náu, lấy hay bỏ đã được ghi chép từ trước.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十二
五行务要均停,偏倚难能济物,四柱全宜匹配,兴衰恐不成功。
停均,其说有五:
一、日主用神,冲和相济,彼此各有倚赖不至偏枯。
二、损用神之气者,有物以制之,不致作梗。
三、干支上下字样,相承得所,无过不及。
四、死气或对活物,党寡不能胜党众。
五、欲变欲化,有妒有破,欲静欲安,有犯有激者。
匹配,其说有六:
一、衰神有用,须运扶衰者方可。
二、善恶离能均配,看运扶何者,以别吉凶。
三、虽有用神,一兴一衰,偏枯不济。
四、相安相济,所应所求,各有倚赖。
五、旺欲成其物,一衰不可成全。
六、干支各有所配贵气者,或有所乖劣者。
平生福德,不知化物连绵,次位来神,要识暗伤拦截。
支内有己乙辛丁之类,皆言七煞恶之,殊不知己土生乙金、乙金生辛水,辛水生了木,续续不绝,况明露乎,虚拱处或有甲丙壬庚,暗合完气者,大富贵格。
天干未来前一位,地支未来前一位,皆为凶恶,不可不知,如乙见丙,合辛暗损,及有刃类,子见丑,丑见寅,寅见卯之类,有刃有煞,咸池比肩,恶气多端。
十干顾真气相凌,七煞犯克神极切。
如乙酉见戊戌,即成火伤乙金,又六害之墓火,发其旺金之气,余仿此。
七煞犯克,如原用乙木行酉运,丑岁冲损,乙未金局,本坏其乙木用神,兼丑冲其虚未,将所藏之神,碎坏倒地也。举此一例,余局细详。
此段止可言,七煞逢冲者不吉,不可论金局坏乙木用神。
八字带煞刑胎,意外须识,四印何干乘气,类取其详。
胎神所传消息,各有异类,今人但总约十个月之位,故无浅深,以致差池。一法十个月左右间,其所生日辰对者是,如丙午日在何月节内,或十一月,或九月,通而用之。若带刑,主早妨父母,空陷冲刑,四煞最恶。
四印:古歌云:辰戌丑未为四印,戊己得之偏主信,甲乙若逢鄙且贪,丙丁或遇多贫病,庚辛格号母生儿,聚煞丑宫多短命,壬癸未详。
五行分布方隅,死水生金而异用。
谓火生寅败卯旺午,金生巳败午墓丑之类,如甲子人遇巳,即为生金,生金克甲,绝水生甲,临官火窃甲之类,遇卯即为死水生甲,旺木同党,败火耗甲,位位各有所司,看其余局,次第扶抑而论之,余干仿此推。
一神闲停左右,伤官窃本以待时。
闲停之神在左右者,即月时岁干,多是不取用,故一向差慢,而至停囚长智,养病丧身,或系伤官之神无气,不系为事,忽岁运助起此等之神,耗我之气,伤我之用,半真半假,其实则圉圉得势,小人逢宠有权,留此祸根,岂可忽哉。
干神彼此相安,方为禄备,地支来往冲激,不奈马驰。
如甲人禄在寅,见壬寅,则自家带截路空亡,为僧道有福。庚寅为破禄,半吉半凶。
又如丁见戊为刃,难只言禄为贵,辛禄在酉,见癸酉为火水相犯,丁为酉空亡贵。丁木受气,辛水沐浴,主奸淫。
禄上遁干,号为真禄,着落何方有用。其干见天乙贵人,其贵上之明干,复坐贵禄。如丁人禄在午,遁至年,得丙字,丙贵酉亥,而逢辛酉辛亥,则辛贵复见于午,入格极品,此李虚中为天禄互贵。
一马不喜冲,冲则动,马上干神乘贵者吉,马上遁干有情者吉,如丁丑人逢辛亥,是要贵处有用,马上干神,自带凶煞空亡者恶,来克主体及用神者恶,或支神激烈刑冲转转,其马岂得安休耶。
伤尽官星,方知用禄,冲破禄位,始得用官。
柱内有伤官之神,官星明被克害,却有日禄者,用禄却稳当,不致两用,不归一也。
禄位如被破坏,却只用官星为定体,盖贵用一端最妙,多则散了精神。
禄位虽明,化气恐忌,驿马既见,日辰又重。
官星建禄等件,既明无破,为吉为福必矣,若体用成化,却于其位有妒有夺,化来不得者,为物不成,则亦苗而不秀,空贵无官,或有福,而非财积福厚者,驿马本埋于太岁宫,要来乘用,若日宫又有马出重迭者,反为贱局。一说,日辰马并岁马虽重,马若有用,贵气相安者愈好,再见则不中矣。
记取禄宾为用,细观马将为元。
遁禄上之干,名为禄宾,如无年禄,须看遁至禄官,干神为用,主禄最切,却看日辰,用为何神也。
马将亦如禄法,譬如丁巳岁丙日,马在亥,遁见辛,为丙日之妻,主道途方外所娶,却分贵禄财官,煞凶煞轻重言之。
用象契合,要防妒争,贵气交通,切观分夺。
用神本与日干作合,有情有气得侣,或其明暗中有比肩,一争一妒,遇而不遇,用神自家之神争妒者,一体断法,岁连同。凡贵气专用则可,两处三处分用,便是众人之物,不惟平生多起分争之讼,自家财产,亦为比肩所擘,被重我轻更甚。
财官只倚日辰,亡劫须参太岁。
日辰只取财官为用,最为亲切,兴衰旺绝,相生相克,却与岁家如何统摄,其行藏祸福极验,亡劫二神,一年至重之恶煞也。须准岁君推参,各有进退吉凶一十六般,所致行藏取舍之道,已录于前。
.
ngọc tỉnh áo quyết thập nhị
Ngũ hành vụ yếu quân đình, thiên ỷ nan năng tế vật, tứ trụ toàn nghi thất phối, hưng suy khủng bất thành công.
(Ngũ hành cần phải cân bằng, thiên lệch không thể giúp vật, tứ trụ đầy đủ nên phối hợp, thịnh suy e không thành công).
Đình quân (cân bằng), có năm lý thuyết:
- Một: nhật chủ và dụng thần, xung hoà hỗ trợ nhau, hai bên mỗi bên đều có chỗ nương tựa không đến nổi quá nghèo nàn.
- Hai: tổn hại khí của dụng thần, có vật để chế phục, không đến ngăn trở.
- Ba: thiên can địa chi câu chữ trên dưới đón nhận nhau để đạt được lợi ích, không lỗi bất cập.
- Bốn: tử khí hoặc kiểm nghiệm vật sống thì bè nhóm ít không thể thắng bè nhóm đông.
- Năm: muốn biến muốn hoá, có đố (ganh ghét) có phá (phá hỏng), muốn tĩnh (tĩnh lặng) muốn an (yên ổn), có phạm (đụng chạm) có kích (mãnh lệt).
Thất phối (phối hợp) có sáu lý thuyết
- Một: suy thần mà có ích phải đợi vận nâng đỡ mới có thể.
- Hai: thiện ác tách rời có thể điều hoà, xem vận nâng đỡ bên nào mà phân biệt tốt xấu.
- Ba: tuy có dụng thần, một thịnh một suy, thiên khô (hết sức nghèo nàn) không thành công.
- Bốn: ổn định nhau hỗ trợ nhau, cái mình phụ hoạ cái mình tìm tòi, đều có chỗ nương tựa.
- Năm: vượng muốn thành vật của nó, một khi suy thì không thể hoàn thành.
- Sáu: mỗi thiên can địa chi đều có riêng quý khí của mình, hoặc có riêng những cái xấu, quái gỡ.
Bình sanh phúc đức, bất tri hóa vật liên miên, thứ vị lai thần, yếu thức ám thương lan tiệt.
(Cả đời phúc đức, không biết rằng hoá vật liên tục không ngừng, kế đến là nơi thần sắp đến phải biết ngầm tổn hại mà ngăn chặn hay cắt đứt).
Trong địa chi có kỷ ất tân đinh các loại, đều nói là thất sát đáng ghét, mà không biết rằng kỷ thổ sanh ất kim, ất kim sanh tân thuỷ, tân thuỷ sanh đinh mộc (đoạn này là nói về can hợp hoá sanh cho can hợp hoá), liên tục không đứt đoạn, huống chi lộ ra rõ ràng, nơi hư củng hoặc có giáp bính nhâm canh, ngầm hợp khí vững chắc, cách đại phú quý.
Thiên can chưa tới trước một vị trí, địa chi chưa tới trước một vị trí đều là hung ác, không thể không biết. Như ất thấy bính, hợp tân ngầm tổn hại, và có nhận các loại, tý thấy sửu, sửu thấy dần, dần thấy mão các loại, vừa có nhận vừa có sát, hàm trì, tỷ kiên ác khí nhiều mối.
Thập can cố chân khí tương lăng, thất sát phạm khắc thần cực thiết.
(Mười thiên can xem xét chân khí xâm phạm nhau, thất sát đụng chạm khắc thần rất quan trọng).
Như ất dậu gặp mậu tuất, tức là tuất hoả thương tổn ất kim, lại thêm lục hại của mộ hoả, khai mở khí kim vượng, còn lại phỏng theo đó.
Thất sát phạm khắc: như vốn là dụng thần là ất mộc đi vận dậu, tuế là sửu xung tổn ất mùi kim cục, vốn là huỷ hoại dụng thần ất mộc , cùng lúc sửu xung làm mùi suy yếu, có thể làm thần ẩn tàng bị huỷ nát rơi xuống đất. Đơn cử một thí dụ này, còn lại các kết cấu phải hiểu tỉ mỉ.
Đoạn này chỉ có thể nói là thất sát gặp xung thì không tốt, không thể luận kim cục huỷ hoại ất mộc dụng thần.
Bát tự đái sát hình thai, ý ngoại tu thức, tứ ấn hà can thừa khí, loại thủ kì tường.
(Bát tự có sát hình thai, điều không ngờ cần phải biết, bốn ấn can nào thừa khí, phép tắc chọn lấy kỹ càng).
Thai thần: cái mà truyền lại bí mật đều có khác biệt, người đời nay chỉ ước chừng ở mười tháng không có nông cạn hay chiều sâu nên dễ dẫn đến sai lầm. Một cách khác là khoảng chừng mười tháng, chi thần đối với ngày sanh là đúng, như ngày bính ngọ ở trong tháng tiết nào, có thể là mười một tháng, có thể là chín tháng, phải linh hoạt sử dụng. Nếu đới hình, chủ sớm tổn hại cha mẹ, không vong, hãm, xung, hình, bốn sát rất ác
Tứ ấn: bài ca xưa hát rằng: thỉn tuất sửu mùi là tứ ấn, mậu kỷ gặp phải chủ thành thực, giáp ất nếu gặp thì hèn hạ và tham lam, bính đinh nếu gặp thường nghèo và bệnh, canh tân cách hiệu mẹ sanh con, sát họp ở cung sửu thường đoản mệnh, nhâm quý không biết rõ.
Ngũ hành phân bố phương ngung, tử thủy sanh kim nhi dị dụng.
(Ngũ hành chia ra ở các góc, tử thuỷ (nhâm) sanh ở kim mà có công hiệu khác nhau).
Cho rằng hoả sanh ở dần, bại ở mão và vượng ở ngọ; kim sanh ở tỵ, bại ở ngọ và mộ ở sửu các loại. Như người giáp tý gặp tỵ, tức là sanh kim, sanh kim khắc giáp, tuyệt thuỷ sanh giáp, lâm quan hoả trộm khí của giáp các loại; gặp mão tức là tử thuỷ sanh giáp, vượng mộc cùng một đảng, bại hoả làm hao tổn giáp, mỗi chỗ đều có vai trò riêng của mình, xem kết cấu còn lại của nó, tiếp theo mới luận phù (nâng đỡ) ức (đè nén), còn lại dựa theo cách này để suy xét.
Nhất thần nhàn đình tả hữu, thương quan thiết bổn dĩ đãi thì。
(Mỗi thần nhàn rỗi gần bên, thương quan trộm của mình và đợi thời).
Nhàn đình chi thần (thần nhàn rỗi) ở gần bên, tức là can năm tháng giờ, phần nhiều là không được chọn dùng, cho nên luôn chậm chạp, đến lúc tù thì trí tuệ sinh ra, dưỡng bậnh mất mạng, có thể vì thương quan không có khí lực, không trói buộc vào việc gì, bỗng nhiên tuế vận bắt đầu nâng đỡ các loại thần này, làm hao tổn khí lực của mình, làm tổn hại dụng thần của mình, nửa thật nửa giả, thực ra chính là cường quyền được sức mạnh, tiểu nhân được sủng ái mà có quyền, giữ lại điều này là gốc rễ tai hoạ, làm sao có thể coi thường được.
Can thần bỉ thử tương an, phương vi lộc bị, địa chi lai vãng xung kích, bất nại mã trì.
(Can thần hai bên ổn định nhau mới là lộc chu đáo, địa chi qua lại xung kích không chịu được mã giong ruỗi).
Như người giáp lộc ở dần, gặp nhâm dần sẽ là tự mình mang theo triệt lộ không vong, là tăng đạo thì có phúc. Canh dần là phá lộc, nửa tốt nửa xấu.
Lại thêm như đinh gặp mậu là nhận, không thể chỉ nói lộc là quý, tân lộc ở dậu, gặp quý dậu là hoả thuỷ đụng chạm nhau, đinh là dậu không vong quý. Đinh mộc dung nạp khí, tân thuỷ mộc dục chủ gian dâm.
Độn can ở lộc, gọi là chân lộc (lộc thật sự), đến nơi nào cũng có ích. Can của nó gặp thiên ất quý nhân, can công khai ở quý, lại ngồi ở lộc của quý. Như người đinh lộc ở ngọ, độn đến ngọ được chữ bính, mà bính quý ở dậu và hợi, nên gặp tân dậu tân hợi, tức là quý của tân lại gặp ở ngọ, hợp cách có giá trị cao nhất, đó là lý do Lý Hư Trung chế ra thiên lộc hỗ quý (trao đổi quý của lộc tự nhiên).
Hoặc là mã không thích xung, xung thì động, can thần ở mã cưởi quý thì tốt, can độn ở mã hữu tình thì tốt, như người đinh sửu gặp tân hợi, là nơi quý xứ quan trọng hữu dụng, can thần ở mã, tự mang theo hung sát không vong thì ác, tới khắc chủ thể cùng với dụng thần cũng là ác, hoặc địa chi xung hình mãnh liệt làm thay đổi liên tục, mã đó làm sao được nghĩ ngơi ổn định đây.
Thương tẫn quan tinh, phương tri dụng lộc, xung phá lộc vị, thủy đắc dụng quan.
(Thương tẫn quan tinh mới biết dùng lộc, xung phá lộc vị bắt đầu dùng được quan).
Trong trụ có thương quan, rõ ràng là quan tinh bị khắc hại, tức là người có nhật lộc, dụng lộc thì thoả đáng, không dùng cả hai, không góp lại làm một.
Lộc vị như bị phá hỏng, tức là chỉ dùng quan tinh mà định thể (bản chất của sự vật), bởi quý dụng một mối rất tuyệt diệu, nhiều sẽ tan mất khí lực.
Lộc vị tuy minh, hóa khí khủng kị, dịch mã kí hiện, nhật thần hựu trọng.
(Lộc vị tuy rõ ràng, hoá khí e dè, dịch mã đã hiện, nhật thần càng quan trọng).
Quan tinh thấy lộc các sự kiện, đã rõ ràng không bị phá, là tốt là phúc lẽ dương nhiên vậy, nếu thể dụng có thể được biến hoá, tức là nơi đó có ghen ghét, có tranh đoạt, biến hoá không được, là vật không thành công, thì chỉ như lúa không trổ bông, quý suông không có quan, hoặc có phúc, nhưng không phải là người coi trọng tích luỹ tài phúc. Dịch mã vốn che dấu ở cung thái tuế, cần phải đến thừa dụng, nếu trụ ngày lại có mã xuất hiện chồng lên nhau, trái lại thành cách cục thấp hèn. Còn một thuyết khác mã của nhật thần hội tụ cùng mã của thái tuế tuy quan trọng, mã nếu có ích, quý khí ổn định nhau càng tốt, gặp lại sẽ không đúng vậy.
Ký thủ lộc tân vi dụng, tế quan mã tướng vi nguyên.
(Đã chọn lấy lộc tân làm dụng thần, quan sát kỹ mã tướng là người đứng đầu).
Độn can của lộc thượng, tên là lộc tân (lộc khách), như không có niên lộc (lộc của năm), phải xem độn đến lộc quan (lộc của quan), can thần là dụng thần, chủ lộc rất cần thiết, tức là xem nhật thần, dụng thần là thần nào.
Mã tướng cũng như phương pháp của lộc, thí dụ như năm đinh tỵ ngày bính, mã ở hợi, độn gặp tân là vợ của bính, chủ cưới vợ ở bên ngoài đường, tức là phân rõ quý lộc tài quan, là nói về sát hung sát nhẹ nặng.
Dụng tượng khế hợp, yếu phòng đố tranh, quý khí giao thông, thiết quan phân đoạt.
(Dụng tượng phù hợp, cần phải đề phòng đố kỵ tranh đoạt, quý khí không bị trở ngại, cần thiết quan sát phân chia tranh đoạt).
Dụng thần vốn cùng với can ngày hợp tác, hữu tình có khí lực thành bạn bè, hoặc có tỷ kiên công khai hay ngầm, một tranh đoạt một đố kỵ thì gặp cũng như không gặp, thần tranh đố của mình làm dụng thần, đoán pháp cùng một bản chất sự vật, tuế vận giống nhau. Thông thường quý khí chuyên dùng thì có thể phân dụng hai hay ba nơi, là vật của mọi người, không chỉ thường ngàyhay xãy ra kiện tụng về tranh chấp, tài sản của mình, cũng là cự phách của tỷ kiên, thậm chí còn tệ hơn nếu mình được đánh giá cao hơn.
Tài quan chỉ ỷ nhật thần, vong kiếp tu tham thái tuế.
(Tài quan chỉ dựa vào nhật thần, vong kiếp phải tham khảo thái tuế).
Nhật thần chỉ lấy tài quan làm dụng thần, rất là gần gũi, hưng suy vượng tuyệt, sanh nhau khắc nhau, tức là cùng với thái tuế thông lĩnh như thế nào, hành tàng (lúc ra làm việc, lúc náu một chỗ), hoạ phúc của nó rất hiệu quả. Hai thần vong và kiếp, là ác sát rất nặng của một năm. Đều phải dựa theo tuế quân mà suy xét, mỗi thứ đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, cho đến cách ra làm việc hay ẩn náu, lấy hay bỏ đã được ghi chép từ trước.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十二
五行务要均停,偏倚难能济物,四柱全宜匹配,兴衰恐不成功。
停均,其说有五:
一、日主用神,冲和相济,彼此各有倚赖不至偏枯。
二、损用神之气者,有物以制之,不致作梗。
三、干支上下字样,相承得所,无过不及。
四、死气或对活物,党寡不能胜党众。
五、欲变欲化,有妒有破,欲静欲安,有犯有激者。
匹配,其说有六:
一、衰神有用,须运扶衰者方可。
二、善恶离能均配,看运扶何者,以别吉凶。
三、虽有用神,一兴一衰,偏枯不济。
四、相安相济,所应所求,各有倚赖。
五、旺欲成其物,一衰不可成全。
六、干支各有所配贵气者,或有所乖劣者。
平生福德,不知化物连绵,次位来神,要识暗伤拦截。
支内有己乙辛丁之类,皆言七煞恶之,殊不知己土生乙金、乙金生辛水,辛水生了木,续续不绝,况明露乎,虚拱处或有甲丙壬庚,暗合完气者,大富贵格。
天干未来前一位,地支未来前一位,皆为凶恶,不可不知,如乙见丙,合辛暗损,及有刃类,子见丑,丑见寅,寅见卯之类,有刃有煞,咸池比肩,恶气多端。
十干顾真气相凌,七煞犯克神极切。
如乙酉见戊戌,即成火伤乙金,又六害之墓火,发其旺金之气,余仿此。
七煞犯克,如原用乙木行酉运,丑岁冲损,乙未金局,本坏其乙木用神,兼丑冲其虚未,将所藏之神,碎坏倒地也。举此一例,余局细详。
此段止可言,七煞逢冲者不吉,不可论金局坏乙木用神。
八字带煞刑胎,意外须识,四印何干乘气,类取其详。
胎神所传消息,各有异类,今人但总约十个月之位,故无浅深,以致差池。一法十个月左右间,其所生日辰对者是,如丙午日在何月节内,或十一月,或九月,通而用之。若带刑,主早妨父母,空陷冲刑,四煞最恶。
四印:古歌云:辰戌丑未为四印,戊己得之偏主信,甲乙若逢鄙且贪,丙丁或遇多贫病,庚辛格号母生儿,聚煞丑宫多短命,壬癸未详。
五行分布方隅,死水生金而异用。
谓火生寅败卯旺午,金生巳败午墓丑之类,如甲子人遇巳,即为生金,生金克甲,绝水生甲,临官火窃甲之类,遇卯即为死水生甲,旺木同党,败火耗甲,位位各有所司,看其余局,次第扶抑而论之,余干仿此推。
一神闲停左右,伤官窃本以待时。
闲停之神在左右者,即月时岁干,多是不取用,故一向差慢,而至停囚长智,养病丧身,或系伤官之神无气,不系为事,忽岁运助起此等之神,耗我之气,伤我之用,半真半假,其实则圉圉得势,小人逢宠有权,留此祸根,岂可忽哉。
干神彼此相安,方为禄备,地支来往冲激,不奈马驰。
如甲人禄在寅,见壬寅,则自家带截路空亡,为僧道有福。庚寅为破禄,半吉半凶。
又如丁见戊为刃,难只言禄为贵,辛禄在酉,见癸酉为火水相犯,丁为酉空亡贵。丁木受气,辛水沐浴,主奸淫。
禄上遁干,号为真禄,着落何方有用。其干见天乙贵人,其贵上之明干,复坐贵禄。如丁人禄在午,遁至年,得丙字,丙贵酉亥,而逢辛酉辛亥,则辛贵复见于午,入格极品,此李虚中为天禄互贵。
一马不喜冲,冲则动,马上干神乘贵者吉,马上遁干有情者吉,如丁丑人逢辛亥,是要贵处有用,马上干神,自带凶煞空亡者恶,来克主体及用神者恶,或支神激烈刑冲转转,其马岂得安休耶。
伤尽官星,方知用禄,冲破禄位,始得用官。
柱内有伤官之神,官星明被克害,却有日禄者,用禄却稳当,不致两用,不归一也。
禄位如被破坏,却只用官星为定体,盖贵用一端最妙,多则散了精神。
禄位虽明,化气恐忌,驿马既见,日辰又重。
官星建禄等件,既明无破,为吉为福必矣,若体用成化,却于其位有妒有夺,化来不得者,为物不成,则亦苗而不秀,空贵无官,或有福,而非财积福厚者,驿马本埋于太岁宫,要来乘用,若日宫又有马出重迭者,反为贱局。一说,日辰马并岁马虽重,马若有用,贵气相安者愈好,再见则不中矣。
记取禄宾为用,细观马将为元。
遁禄上之干,名为禄宾,如无年禄,须看遁至禄官,干神为用,主禄最切,却看日辰,用为何神也。
马将亦如禄法,譬如丁巳岁丙日,马在亥,遁见辛,为丙日之妻,主道途方外所娶,却分贵禄财官,煞凶煞轻重言之。
用象契合,要防妒争,贵气交通,切观分夺。
用神本与日干作合,有情有气得侣,或其明暗中有比肩,一争一妒,遇而不遇,用神自家之神争妒者,一体断法,岁连同。凡贵气专用则可,两处三处分用,便是众人之物,不惟平生多起分争之讼,自家财产,亦为比肩所擘,被重我轻更甚。
财官只倚日辰,亡劫须参太岁。
日辰只取财官为用,最为亲切,兴衰旺绝,相生相克,却与岁家如何统摄,其行藏祸福极验,亡劫二神,一年至重之恶煞也。须准岁君推参,各有进退吉凶一十六般,所致行藏取舍之道,已录于前。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#365
Gửi vào 17/10/2024 - 13:21
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thập tam
Quý hữu đẳng hàng minh trọng khinh, phú hữu cao đê phân hậu bạc.
(Quý có các hạng ban cho công khai nặng nhẹ, phú có cao thấp phân chia hậu bạc).
-Một: Xét kỹ cách cục thể chế, như thế cường liệt chủ mình mạnh mẽ, quý khí trao đổi qua lại, hung sát giúp đạt được điều mình mong muốn, không đến khí đầy chẳng đi đến đâu. Là ý nghĩa thứ nhất.
- Hai: Dụng thần rất thân rất tình, không bị phá không bị huỷ hoại, cách cục cân đối, bằng nhau nên điều hoà.
- Ba: Phúc thần có tình cảm, hoá tượng hợp thể thức.
- Bốn: Vốn có các loại tài quan hữu dụng, vận gặp trợ giúp liên tục không dứt.
- Năm: Vật mà mình thích, trụ giờ cùng với tuế vận có trợ giúp; vật mà mình ghét, trụ giờ cùng với tuế vận có chế ngự.
Hung xứ kiêm hữu đức thần, cát xứ mỗi hữu hoán phát.
(Những nơi hung xấu đều có đức thần, những nơi tốt lành đầy ánh hào quang).
- Một: giàu có không ở nặng nhẹ của tài thần, đại khái cũng có đầy đủ quý khí đi cùng, chỉ cần xem khí lực dày và cường tráng, chỉ thiếu trong sáng ở giữa.
- Hai: khí lực có giúp đỡ, nhàn thần hơi nhiều, nhật chủ có chỗ dựa, ấn thực tài thần rất cần thiết.
- Ba: lộc mã giúp đỡ bản thân, nhật chủ ở nơi khí tuyệt, thai tuyệt, tài quan có lợi ích, hoặc gặp sanh khí, nhưng khí chảy xa tụ hình mà không mở rộng.
- Bốn: khố tài có củng, có thể bày rõ ra ngoài thì cần khí lực dày, được xung được hình, tài ấn thực thần, ba vị hay một vị mà hữu dụng, nhật thần, chỉ hạn chế hết sức tự chuyên, quý khí tản mác, hiểu rõ mỗi thứ đều có ưu điểm rõ ràng.
- Năm: đới hình khắc, có thể là vật khắc mình, liên quan khí lực của tài tinh sanh vượng, có thể khí lực của tài thần lộc mã quý nhân.
Bần tiện nhi thọ diên, phú quý nhi niên yểu.
(Nghèo hèn mà tuổi thọ dài, giàu sang mà tuổi thọ ngắn).
- Một: đối phó dụng thần khắc chiến không cậy nhờ, cùng lúc hưu tù không có ích, hoặc lâm tử tuyệt khốn đốn, chỉ bản thân được khí lực trung hoà, vận dẫn dắt không thiên lệch.
- Hai: thân ở vào nơi thai tử tuyệt, không có phúc thần, vận trôi chảy không thể gây hại, hoặc không vong, phá toái, nguyên thần, đại hao, lục hại, quỷ mộ, kim thần, bạch hổ, tử khí nhận sát, hợp nhất trở lại cục, chỉ có một ấn thụ, hoặc một thực thần có khí lực, vận dẫn dắt lơi hỗn tạp mà không tuyệt, chuẩn xác lời nói trên.
- Ba: phúc qua lại được sức mạnh, tự thân mình vượng tướng, tuế vận rực rỡ, quá đầy mà dụng sụp đổ, hoặc thiếu thần chuyên sanh, hoặc khắc mình không có nơi để đi, hoặc vật đều không vong, hãm, hình xung nơi tụ khí lực của mình.
- Bốn: bổn tượng với hoá tượng đều gặp dụng thần là phúc, gặp nguồn gốc khắp noi, tức là thân nó hoá mà không hoá, gốc rễ không ổn định.
- Năm: quý khí đầy cục, thân yếu không gánh nổi tuế vận khắc chiến nhật chủ, chính xác đoạn văn ở trên
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十三
贵有等降明重轻,富有高低分厚薄。
一、察格局体制,如势意猛烈主本雄健,贵气互换往来,凶煞辅佐得所,不致气满无去就。第一义也。
二、用神至切至情,无破无坏,格局斤两,相等而顺。三、福神有情,化象得体。
四、本等财官有用,运遇扶持不绝。
五、所喜之物,时上与运中扶持,所恶之物,时上与运中制驭。
凶处兼有德神,吉处每有焕发。
一、大富不在财神之轻重,大概亦有贵气俱全者,不过看气厚气壮,但中间欠清纯之象。
二、精神有助,闲神颇多,日主有倚,印食财神三者至切。
三、禄马扶身,日主受气绝胎绝处,财官有用,或遇生气,但流远聚象之气不广。
四、库财有拱,或露则要气厚,得冲得刑,财印食神,三位一位有用,日辰,但拘切自专,贵气散漫,详之,各有高下明矣。
五、带刑克,或克我之物,系财星生旺之气,或财神禄马贵人之气。
贫贱而寿延,富贵而年夭。
一、应用神克战无倚,又兼休囚无用,或临死绝驳杂,独身得中和之气,运引而不偏,
二、身临胞胎死绝受气之方,不带福神,运通不能害者,或空亡破碎,元辰大耗,六害鬼墓,金神白虎,死气刃煞,交并归局,独有一印绶,或一食神有力,运运引而驳杂处不绝者,准前文。
三、福往来得势,自身旺相,岁运显扬,太满用倾者,或欠转生之神,或克我处竟无去就,或一空陷之物,刑冲我聚气之所。
四、本象与化象,皆得用神为福,左右逢其源,其身却化而不化,根本不稳者。
五、满局贵气,身弱不任岁运克战日主,准上文。
.
ngọc tỉnh áo quyết thập tam
Quý hữu đẳng hàng minh trọng khinh, phú hữu cao đê phân hậu bạc.
(Quý có các hạng ban cho công khai nặng nhẹ, phú có cao thấp phân chia hậu bạc).
-Một: Xét kỹ cách cục thể chế, như thế cường liệt chủ mình mạnh mẽ, quý khí trao đổi qua lại, hung sát giúp đạt được điều mình mong muốn, không đến khí đầy chẳng đi đến đâu. Là ý nghĩa thứ nhất.
- Hai: Dụng thần rất thân rất tình, không bị phá không bị huỷ hoại, cách cục cân đối, bằng nhau nên điều hoà.
- Ba: Phúc thần có tình cảm, hoá tượng hợp thể thức.
- Bốn: Vốn có các loại tài quan hữu dụng, vận gặp trợ giúp liên tục không dứt.
- Năm: Vật mà mình thích, trụ giờ cùng với tuế vận có trợ giúp; vật mà mình ghét, trụ giờ cùng với tuế vận có chế ngự.
Hung xứ kiêm hữu đức thần, cát xứ mỗi hữu hoán phát.
(Những nơi hung xấu đều có đức thần, những nơi tốt lành đầy ánh hào quang).
- Một: giàu có không ở nặng nhẹ của tài thần, đại khái cũng có đầy đủ quý khí đi cùng, chỉ cần xem khí lực dày và cường tráng, chỉ thiếu trong sáng ở giữa.
- Hai: khí lực có giúp đỡ, nhàn thần hơi nhiều, nhật chủ có chỗ dựa, ấn thực tài thần rất cần thiết.
- Ba: lộc mã giúp đỡ bản thân, nhật chủ ở nơi khí tuyệt, thai tuyệt, tài quan có lợi ích, hoặc gặp sanh khí, nhưng khí chảy xa tụ hình mà không mở rộng.
- Bốn: khố tài có củng, có thể bày rõ ra ngoài thì cần khí lực dày, được xung được hình, tài ấn thực thần, ba vị hay một vị mà hữu dụng, nhật thần, chỉ hạn chế hết sức tự chuyên, quý khí tản mác, hiểu rõ mỗi thứ đều có ưu điểm rõ ràng.
- Năm: đới hình khắc, có thể là vật khắc mình, liên quan khí lực của tài tinh sanh vượng, có thể khí lực của tài thần lộc mã quý nhân.
Bần tiện nhi thọ diên, phú quý nhi niên yểu.
(Nghèo hèn mà tuổi thọ dài, giàu sang mà tuổi thọ ngắn).
- Một: đối phó dụng thần khắc chiến không cậy nhờ, cùng lúc hưu tù không có ích, hoặc lâm tử tuyệt khốn đốn, chỉ bản thân được khí lực trung hoà, vận dẫn dắt không thiên lệch.
- Hai: thân ở vào nơi thai tử tuyệt, không có phúc thần, vận trôi chảy không thể gây hại, hoặc không vong, phá toái, nguyên thần, đại hao, lục hại, quỷ mộ, kim thần, bạch hổ, tử khí nhận sát, hợp nhất trở lại cục, chỉ có một ấn thụ, hoặc một thực thần có khí lực, vận dẫn dắt lơi hỗn tạp mà không tuyệt, chuẩn xác lời nói trên.
- Ba: phúc qua lại được sức mạnh, tự thân mình vượng tướng, tuế vận rực rỡ, quá đầy mà dụng sụp đổ, hoặc thiếu thần chuyên sanh, hoặc khắc mình không có nơi để đi, hoặc vật đều không vong, hãm, hình xung nơi tụ khí lực của mình.
- Bốn: bổn tượng với hoá tượng đều gặp dụng thần là phúc, gặp nguồn gốc khắp noi, tức là thân nó hoá mà không hoá, gốc rễ không ổn định.
- Năm: quý khí đầy cục, thân yếu không gánh nổi tuế vận khắc chiến nhật chủ, chính xác đoạn văn ở trên
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十三
贵有等降明重轻,富有高低分厚薄。
一、察格局体制,如势意猛烈主本雄健,贵气互换往来,凶煞辅佐得所,不致气满无去就。第一义也。
二、用神至切至情,无破无坏,格局斤两,相等而顺。三、福神有情,化象得体。
四、本等财官有用,运遇扶持不绝。
五、所喜之物,时上与运中扶持,所恶之物,时上与运中制驭。
凶处兼有德神,吉处每有焕发。
一、大富不在财神之轻重,大概亦有贵气俱全者,不过看气厚气壮,但中间欠清纯之象。
二、精神有助,闲神颇多,日主有倚,印食财神三者至切。
三、禄马扶身,日主受气绝胎绝处,财官有用,或遇生气,但流远聚象之气不广。
四、库财有拱,或露则要气厚,得冲得刑,财印食神,三位一位有用,日辰,但拘切自专,贵气散漫,详之,各有高下明矣。
五、带刑克,或克我之物,系财星生旺之气,或财神禄马贵人之气。
贫贱而寿延,富贵而年夭。
一、应用神克战无倚,又兼休囚无用,或临死绝驳杂,独身得中和之气,运引而不偏,
二、身临胞胎死绝受气之方,不带福神,运通不能害者,或空亡破碎,元辰大耗,六害鬼墓,金神白虎,死气刃煞,交并归局,独有一印绶,或一食神有力,运运引而驳杂处不绝者,准前文。
三、福往来得势,自身旺相,岁运显扬,太满用倾者,或欠转生之神,或克我处竟无去就,或一空陷之物,刑冲我聚气之所。
四、本象与化象,皆得用神为福,左右逢其源,其身却化而不化,根本不稳者。
五、满局贵气,身弱不任岁运克战日主,准上文。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#366
Gửi vào 18/10/2024 - 12:14
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thập tứ
Nhân thật diệc do vu hỏa thổ.
(Cổng bên trong đầy cũng do ở hoả thổ).
Hoả sanh thổ, ý niệm rất đúng rất chân xác, khí tượng tự nhiên tích tụ vững chắc, phải là người thành thật chăm chú vào cái căn bản, yên ổn hưởng thụ lợi danh, đối xử với đời ung dung, không phải người lèo lái hão để tạo công lập nghiệp.
Lưu hành câu tạ vu căn nguyên.
(Sự phổ biến đều đến từ nguồn gốc).
Nói chung lưu niên vận hạn thuận lợi, không sợ sóng gió thành bại, bởi giống nên tảng vốn có quý khí đắc lực, dẫn đi tuế vận, tán đồng và giúp đỡ không làm huỷ hoại chỗ nương tựa.
Thông minh vô phi đức tú, hối lãn tổng vi hưu tù.
(Thông minh không có gì ngoài đức tú, tối tăm lười biếng luôn là hưu tù).
Đức tú: như tháng thân tý thìn, thì nhâm quý là đức, bính tân là tú, có điều này thường là những người thông thạo văn chương, thông minh và hiểu biết, các cục còn lại theo lề lối này.
Hưu tù phế tử giả, thiên thì dã. tử bại mộ tuyệt giả, ngũ hành dã.
(Hưu tù phế tử là thiên thời. Tử bại mộ tuyệt là ngũ hành).
Nếu như đầy cục đều mang các loại khí số này, thì cả đời mong cầu không thành công, rút lui vào bóng tối, che dấu vụng về, nếu cùng lúc có cô khí (lẻ loi, đợn độc) rời bỏ thế tục làm người ở ẩn vậy.
Thiên khí câu cường nhi bỉ tục, bổn nguyên thất thác tắc phiêu lưu.
(Khí lệch lạc đều cường mạnh nên có thói quen dê tiện, nguồn gốc mất chỗ dựa sẽ troi nổi).
Như bát tự thuần âm hoặc thuần dương, trong trụ do thiếu hợp thần tài quan các loại quý, dụng thần đã nghiêng về một bên lại có sức lực, lại thêm có thể hình xuất hay xung tán vật đến, đều là thiên khí (khí nghiêng về một bên) gây ra, tuy sảng khoái nhưng cũng thô tục, chẳng phải là người tài trí xuất chúng. Nhật chủ mà tượng thì không có bè nhóm có thể tụ về, khí thì không có quý có thể đuổi theo, trong trụ thường liên quan đến nhàn thần hay mạn sát (thần chậm chạp, lười biếng), cùng lúc có hình khắc xung trộm và tản mác khí, đó là loại người lười biếng, nhàn rỗi, trì trục (đánh cá ngựa), thường chỉ trù tính mà ít thành tựu.
Khí như mãnh liệt, hại vật thương nhân, tượng nhược thuần hòa, vô thao (bắt giữ) vô túng (thả ra).
(Khí như dũng mãnh, tổn người hại vật, tượng nếu trong sáng và hoà hợp không điều khiển không buông lung).
Uy lực của khí đang lúc thiên thời nên dũng mãnh và cương cường, nếu có thêm kim thần, bạch hổ, các thần nhận sát hình hai, là nguyên nhân trở thành cường đạo (kẻ dùng bạo lực hiếp bách, cưỡng đoạt tài vật của người khác), cướp bóc, người tốt lành thì sống bằng nghề buôn bán hay giết mổ súc vật, tính ra cũng là sát nhân hại vật, e rằng cũng bị người phanh xác.
Khi sự việc xãy ra có gián đoạn, quyền biến linh hoạt, tất cả đều bởi hung sát, không chậm trễ, không ngăn trở, phụ giúp dụng thần để khiến sự việc xãy ra. Nếu trong trụ tượng số thuần khiết và hoà hợp, khí đầy mà mềm mại, tốt lành, sẽ không có khả năng duy trì thứ tự cương thường, tuy có dụng thần cũng khó khăn.
Hiên ngang hô ứng, nguyên bằng nhận sát chi uy, ác xúc tài phong, tẫn đái khố mộ chi khí.
(Kẻ gọi người đáp hăng hái, vốn dĩ dựa vào sức mạnh của nhận sát; tiền của bẩn thỉu dồi dào, không còn mang khí của mộ khố).
Có quý khí, không có nhận sát phụ giúp, không chỉ gặp việc không có uy thế dũng mãnh, là thiếu phối hợp tương ứng trong hành động của mình. Có nhận sát đó nâng đỡ quý, sẽ có khả năng làm việc và lập nghiệp, quyết định chắc chắn, người có danh xưng thấp hèn nhưng lại giàu có, chính là tạp khí tài quan ấn thụ trong mộ khố dày, có ích lợi cho nhật chủ, huống chi tuế vận càng hỗ trợ tốt hơn.
Thân cường lộ nhận, phiên nghi tụ liễm doanh doanh. Can hợp đa thiên, đảo loạn tinh thần miểu miểu.
(Thân cường mà nhận lộ ra, trái lại nên thu góp miệt mài. Can hợp thường nghiêng, tinh thần hỗn loạn mịt mùng).
Thân cường sức mạnh, trong trụ ngầm có nguồn tài, nếu gặp nhận phơi bày vốn là cướp tài, nhưng sức mình đã sung mãn, tài thần hữu tình, trái lại nhận phơi bày, bởi mình có khả năng cầm và cất giữ nó. Phong cách này chỉ là bủn xỉn chỉ giỏi thu góp tiền của, nếu trong trụ hay tuế vận có đất của nhận vượng, không dám đoán như vậy, cần phải phân biệt tỉ mỉ. Can hợp thường nghiêng lệch như ất gặp ba canh hai canh hợp, làm sao chỉ khí không thích hợp, mà bản thân cũng bị khô héo và hỗn loạn, cho dù hoà được thành tượng, cũng không hoàn hảo, nhưng ba họ cùng chung sống, thì hai họ cùng nhau linh động, y theo người yêu đào chuyển mùa.
Độc vi sát bố chúng thần, hư trương thanh thế, nhất chủng quý do tam xứ, phân tán anh linh.
(Chỉ vì sát xếp đặt các thần, phô bày thanh thế giả tạo; một hạng quý ở nhiều nơi, phân tán người tài năng xuất chúng).
Sát vốn không tụ họp, nếu chỉ một vị trí của sát, bày ra ở các nơi, sức lực đương nhiên là nhẹ và thưa thớt, không đến nổi trù tính nhiều mà thành tựu ít, nhiều chuyện không có ý nghĩa, quá mong mỏi việc lớn lao mà sức lực nhỏ trách nhiệm lớn, chỉ một quý khí mà tinh khiết thì đặc biệt, nếu bai ba nơi đều có giống như mây dày đặc mà không mưa, đẹp mà không thật, có thể là quý hão không có quan, học nhiều mà ít thành công.
Bình đầu đái lai châm nhận, khởi vô thương tàn, câu giảo tịnh chí vong kiếp, trữ duy giảo hoạt.
(Bình đầu mang đến kim và lưởi đao, làm sao không bị thương tàn; câu giảo tụ hội cùng vong kiếp, yên ổn chỉ là giả dối).
Bình đầu: chính là giáp bính đinh các mặt chữ, cầm đầu huyền châm dương nhận, hình hại nhật thần.
Lại nói rằng: trong ngày có sát có hoa cái, chủ vợ lấy người khác trước, hoặc tàn phế, hoặc dốt nát.
Lại nói rằng: noi theo việc gì mà kết hôn, có thể do có nhan sắc nên dâm, như người kỷ ngày mùi hoặc kỷ hợi kỷ mão kỷ mùi.
Lại nói rằng: ngày giờ tân nhận là lưỡi đao mang theo sát bên mình, vợ chủ sanh ly tử biệt.
Lại nói rằng: huyền châm trao đổi lẫn nhau chủ có bệnh tật, cùng với quan hình tụ họp với ác sát, tự hình hiện ngay tức thì, phụ nữ cũng vậy, câu giảo hai thần chủ giả dối phá bại. Tốt thì tạo nên uy quyền, nếu gặp phải vong kiếp thì hung, càng không hoà hợp với nhật chủ.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十四
闉实亦由于火土。
火生土,意最良最实,气象自然固聚,必是敦厚务本,利名安享,处世优游,却非驾空建功立业者。
流行俱藉于根源。
大凡流年运限从容,不经风波成败者,盖由根基元有得力贵气,引行岁运,赞助不坏有所凭借也。
聪明无非德秀,晦懒总为休囚。
德秀,如申子辰月,壬癸为德,丙辛为秀,带此,多是文业通达,聪明晓事之人,余局例此。
休囚废死者,天时也。死败墓绝者,五行也。
如满局俱带此等气数,一生谋望无成,退晦藏拙,若兼孤气,出俗作林泉人也。
偏气俱强而鄙俗,本源失托则漂流。
如八字纯阴纯阳,柱中因欠合神财官等贵,用神既偏且强,又能刑出冲飞之物来者,皆为偏气所致,虽豪亦俗,非俊秀才器矣。日主,象则无党可就,气则无贵可乘,柱中多系闲神慢煞,兼有刑克冲窃散漫之气,此等懒散驰逐,多谋少立。
气如猛烈,害物伤人,象若纯和,无操无纵。
势当天时之气,勇猛刚强,若更带金神白虎,刃煞刑害之神,因则为强盗劫掠,善则屠侩活计,终亦杀人害物,恐亦被人杀戮也。
临事有断,机变通利,皆由凶煞之神,不滞不塞,辅佐用神,有以使之然也。若柱中象数纯和,柔善气实,则无纲常伦序之能,虽有用神,亦难也矣。
轩昂呼应,原凭刃煞之威,龌龊财丰,尽带库墓之气。
有贵气,无刃煞辅佐,不独临事无威勇,作为殊欠相应合也。有此刃煞扶贵,必能做事立业,果决有断,有人名目卑微,却发财禄,乃库墓中杂气财官印绶亲厚,有益于日主,况岁运更相扶合也。
身强露刃。翻宜聚敛营营,干合多偏,倒乱精神渺渺。
身强力健,柱中暗有财源之意,若见刃露,本为劫财,但我力既专,财神有情,反宜刃露,盖我能执归敛其物也。此等格调,仅吝干蛊,善能聚财,若柱中岁运有刃旺之地,未敢如此论断,须别详之。
干合多偏,如乙见三庚二庚合者,岂惟气不得中,亦自偏枯倒乱,纵化得成象,亦未成全美,不过三姓同居,两姓合活,按季换桃人也。
独为煞布众辰,虚张声势,一种贵由三处,分散英灵。
煞本不聚,若只一位之煞,布向诸处,力自轻疏,不至谋多遂少,有口无心,过望大节,力小任重,一件贵气,精专为奇,若二三处皆有,如密云不雨,秀而不实,或空贵无官,多学少成。
平头带来针刃,岂无伤残,勾绞并至亡劫,宁惟狡猾。
平头,乃甲丙丁等字样,引悬针羊刃,刑害日辰。
一云:日中带煞带华盖,主妻先嫁人,或残疾,或愚钝。
一云:率因事而结婚,或有貌必淫,如己人未日,或己亥己卯己未。
一云:日时辛刃,为贴身刃,妻有生离死别。
一云:互换悬针,主带疾,及官刑,并恶煞,自刑立见,女人亦然,勾绞二神,主狡猾破败。吉则立威,若临亡劫必凶,况不和于日主者乎。
.
ngọc tỉnh áo quyết thập tứ
Nhân thật diệc do vu hỏa thổ.
(Cổng bên trong đầy cũng do ở hoả thổ).
Hoả sanh thổ, ý niệm rất đúng rất chân xác, khí tượng tự nhiên tích tụ vững chắc, phải là người thành thật chăm chú vào cái căn bản, yên ổn hưởng thụ lợi danh, đối xử với đời ung dung, không phải người lèo lái hão để tạo công lập nghiệp.
Lưu hành câu tạ vu căn nguyên.
(Sự phổ biến đều đến từ nguồn gốc).
Nói chung lưu niên vận hạn thuận lợi, không sợ sóng gió thành bại, bởi giống nên tảng vốn có quý khí đắc lực, dẫn đi tuế vận, tán đồng và giúp đỡ không làm huỷ hoại chỗ nương tựa.
Thông minh vô phi đức tú, hối lãn tổng vi hưu tù.
(Thông minh không có gì ngoài đức tú, tối tăm lười biếng luôn là hưu tù).
Đức tú: như tháng thân tý thìn, thì nhâm quý là đức, bính tân là tú, có điều này thường là những người thông thạo văn chương, thông minh và hiểu biết, các cục còn lại theo lề lối này.
Hưu tù phế tử giả, thiên thì dã. tử bại mộ tuyệt giả, ngũ hành dã.
(Hưu tù phế tử là thiên thời. Tử bại mộ tuyệt là ngũ hành).
Nếu như đầy cục đều mang các loại khí số này, thì cả đời mong cầu không thành công, rút lui vào bóng tối, che dấu vụng về, nếu cùng lúc có cô khí (lẻ loi, đợn độc) rời bỏ thế tục làm người ở ẩn vậy.
Thiên khí câu cường nhi bỉ tục, bổn nguyên thất thác tắc phiêu lưu.
(Khí lệch lạc đều cường mạnh nên có thói quen dê tiện, nguồn gốc mất chỗ dựa sẽ troi nổi).
Như bát tự thuần âm hoặc thuần dương, trong trụ do thiếu hợp thần tài quan các loại quý, dụng thần đã nghiêng về một bên lại có sức lực, lại thêm có thể hình xuất hay xung tán vật đến, đều là thiên khí (khí nghiêng về một bên) gây ra, tuy sảng khoái nhưng cũng thô tục, chẳng phải là người tài trí xuất chúng. Nhật chủ mà tượng thì không có bè nhóm có thể tụ về, khí thì không có quý có thể đuổi theo, trong trụ thường liên quan đến nhàn thần hay mạn sát (thần chậm chạp, lười biếng), cùng lúc có hình khắc xung trộm và tản mác khí, đó là loại người lười biếng, nhàn rỗi, trì trục (đánh cá ngựa), thường chỉ trù tính mà ít thành tựu.
Khí như mãnh liệt, hại vật thương nhân, tượng nhược thuần hòa, vô thao (bắt giữ) vô túng (thả ra).
(Khí như dũng mãnh, tổn người hại vật, tượng nếu trong sáng và hoà hợp không điều khiển không buông lung).
Uy lực của khí đang lúc thiên thời nên dũng mãnh và cương cường, nếu có thêm kim thần, bạch hổ, các thần nhận sát hình hai, là nguyên nhân trở thành cường đạo (kẻ dùng bạo lực hiếp bách, cưỡng đoạt tài vật của người khác), cướp bóc, người tốt lành thì sống bằng nghề buôn bán hay giết mổ súc vật, tính ra cũng là sát nhân hại vật, e rằng cũng bị người phanh xác.
Khi sự việc xãy ra có gián đoạn, quyền biến linh hoạt, tất cả đều bởi hung sát, không chậm trễ, không ngăn trở, phụ giúp dụng thần để khiến sự việc xãy ra. Nếu trong trụ tượng số thuần khiết và hoà hợp, khí đầy mà mềm mại, tốt lành, sẽ không có khả năng duy trì thứ tự cương thường, tuy có dụng thần cũng khó khăn.
Hiên ngang hô ứng, nguyên bằng nhận sát chi uy, ác xúc tài phong, tẫn đái khố mộ chi khí.
(Kẻ gọi người đáp hăng hái, vốn dĩ dựa vào sức mạnh của nhận sát; tiền của bẩn thỉu dồi dào, không còn mang khí của mộ khố).
Có quý khí, không có nhận sát phụ giúp, không chỉ gặp việc không có uy thế dũng mãnh, là thiếu phối hợp tương ứng trong hành động của mình. Có nhận sát đó nâng đỡ quý, sẽ có khả năng làm việc và lập nghiệp, quyết định chắc chắn, người có danh xưng thấp hèn nhưng lại giàu có, chính là tạp khí tài quan ấn thụ trong mộ khố dày, có ích lợi cho nhật chủ, huống chi tuế vận càng hỗ trợ tốt hơn.
Thân cường lộ nhận, phiên nghi tụ liễm doanh doanh. Can hợp đa thiên, đảo loạn tinh thần miểu miểu.
(Thân cường mà nhận lộ ra, trái lại nên thu góp miệt mài. Can hợp thường nghiêng, tinh thần hỗn loạn mịt mùng).
Thân cường sức mạnh, trong trụ ngầm có nguồn tài, nếu gặp nhận phơi bày vốn là cướp tài, nhưng sức mình đã sung mãn, tài thần hữu tình, trái lại nhận phơi bày, bởi mình có khả năng cầm và cất giữ nó. Phong cách này chỉ là bủn xỉn chỉ giỏi thu góp tiền của, nếu trong trụ hay tuế vận có đất của nhận vượng, không dám đoán như vậy, cần phải phân biệt tỉ mỉ. Can hợp thường nghiêng lệch như ất gặp ba canh hai canh hợp, làm sao chỉ khí không thích hợp, mà bản thân cũng bị khô héo và hỗn loạn, cho dù hoà được thành tượng, cũng không hoàn hảo, nhưng ba họ cùng chung sống, thì hai họ cùng nhau linh động, y theo người yêu đào chuyển mùa.
Độc vi sát bố chúng thần, hư trương thanh thế, nhất chủng quý do tam xứ, phân tán anh linh.
(Chỉ vì sát xếp đặt các thần, phô bày thanh thế giả tạo; một hạng quý ở nhiều nơi, phân tán người tài năng xuất chúng).
Sát vốn không tụ họp, nếu chỉ một vị trí của sát, bày ra ở các nơi, sức lực đương nhiên là nhẹ và thưa thớt, không đến nổi trù tính nhiều mà thành tựu ít, nhiều chuyện không có ý nghĩa, quá mong mỏi việc lớn lao mà sức lực nhỏ trách nhiệm lớn, chỉ một quý khí mà tinh khiết thì đặc biệt, nếu bai ba nơi đều có giống như mây dày đặc mà không mưa, đẹp mà không thật, có thể là quý hão không có quan, học nhiều mà ít thành công.
Bình đầu đái lai châm nhận, khởi vô thương tàn, câu giảo tịnh chí vong kiếp, trữ duy giảo hoạt.
(Bình đầu mang đến kim và lưởi đao, làm sao không bị thương tàn; câu giảo tụ hội cùng vong kiếp, yên ổn chỉ là giả dối).
Bình đầu: chính là giáp bính đinh các mặt chữ, cầm đầu huyền châm dương nhận, hình hại nhật thần.
Lại nói rằng: trong ngày có sát có hoa cái, chủ vợ lấy người khác trước, hoặc tàn phế, hoặc dốt nát.
Lại nói rằng: noi theo việc gì mà kết hôn, có thể do có nhan sắc nên dâm, như người kỷ ngày mùi hoặc kỷ hợi kỷ mão kỷ mùi.
Lại nói rằng: ngày giờ tân nhận là lưỡi đao mang theo sát bên mình, vợ chủ sanh ly tử biệt.
Lại nói rằng: huyền châm trao đổi lẫn nhau chủ có bệnh tật, cùng với quan hình tụ họp với ác sát, tự hình hiện ngay tức thì, phụ nữ cũng vậy, câu giảo hai thần chủ giả dối phá bại. Tốt thì tạo nên uy quyền, nếu gặp phải vong kiếp thì hung, càng không hoà hợp với nhật chủ.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十四
闉实亦由于火土。
火生土,意最良最实,气象自然固聚,必是敦厚务本,利名安享,处世优游,却非驾空建功立业者。
流行俱藉于根源。
大凡流年运限从容,不经风波成败者,盖由根基元有得力贵气,引行岁运,赞助不坏有所凭借也。
聪明无非德秀,晦懒总为休囚。
德秀,如申子辰月,壬癸为德,丙辛为秀,带此,多是文业通达,聪明晓事之人,余局例此。
休囚废死者,天时也。死败墓绝者,五行也。
如满局俱带此等气数,一生谋望无成,退晦藏拙,若兼孤气,出俗作林泉人也。
偏气俱强而鄙俗,本源失托则漂流。
如八字纯阴纯阳,柱中因欠合神财官等贵,用神既偏且强,又能刑出冲飞之物来者,皆为偏气所致,虽豪亦俗,非俊秀才器矣。日主,象则无党可就,气则无贵可乘,柱中多系闲神慢煞,兼有刑克冲窃散漫之气,此等懒散驰逐,多谋少立。
气如猛烈,害物伤人,象若纯和,无操无纵。
势当天时之气,勇猛刚强,若更带金神白虎,刃煞刑害之神,因则为强盗劫掠,善则屠侩活计,终亦杀人害物,恐亦被人杀戮也。
临事有断,机变通利,皆由凶煞之神,不滞不塞,辅佐用神,有以使之然也。若柱中象数纯和,柔善气实,则无纲常伦序之能,虽有用神,亦难也矣。
轩昂呼应,原凭刃煞之威,龌龊财丰,尽带库墓之气。
有贵气,无刃煞辅佐,不独临事无威勇,作为殊欠相应合也。有此刃煞扶贵,必能做事立业,果决有断,有人名目卑微,却发财禄,乃库墓中杂气财官印绶亲厚,有益于日主,况岁运更相扶合也。
身强露刃。翻宜聚敛营营,干合多偏,倒乱精神渺渺。
身强力健,柱中暗有财源之意,若见刃露,本为劫财,但我力既专,财神有情,反宜刃露,盖我能执归敛其物也。此等格调,仅吝干蛊,善能聚财,若柱中岁运有刃旺之地,未敢如此论断,须别详之。
干合多偏,如乙见三庚二庚合者,岂惟气不得中,亦自偏枯倒乱,纵化得成象,亦未成全美,不过三姓同居,两姓合活,按季换桃人也。
独为煞布众辰,虚张声势,一种贵由三处,分散英灵。
煞本不聚,若只一位之煞,布向诸处,力自轻疏,不至谋多遂少,有口无心,过望大节,力小任重,一件贵气,精专为奇,若二三处皆有,如密云不雨,秀而不实,或空贵无官,多学少成。
平头带来针刃,岂无伤残,勾绞并至亡劫,宁惟狡猾。
平头,乃甲丙丁等字样,引悬针羊刃,刑害日辰。
一云:日中带煞带华盖,主妻先嫁人,或残疾,或愚钝。
一云:率因事而结婚,或有貌必淫,如己人未日,或己亥己卯己未。
一云:日时辛刃,为贴身刃,妻有生离死别。
一云:互换悬针,主带疾,及官刑,并恶煞,自刑立见,女人亦然,勾绞二神,主狡猾破败。吉则立威,若临亡劫必凶,况不和于日主者乎。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#367
Gửi vào 19/10/2024 - 12:31
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thập ngũ
Tài cư khố địa, thân nhập suy hương, tính năng bỉ lận, khí diệc ổi thung.
(Tài ở đất khố, thân vào nơi suy, bản chất keo kiệt, bản chất keo kiệt, khí cũng tuỳ tiện biếng nhác).
Tài thần gặp phải khố đóng kín, đã thiếu hình xung để khai mợ, lại thêm thân yếu đuối,các loại người này, keo kiệt bủn xỉn, phong độ thiếu cởi mở.
Mộc ngộ học đường, hỏa lâm sanh địa, văn kí tinh hoa, chí vưu cứ ngạo.
(Mộc gặp học đường, hoả đến đất trường sanh, toàn bộ bài văn tinh tuý, ý chí càng thêm hỗn láo, xấc xược).
Mộc và hoả là tượng của văn minh. Ở vị trí sanh vượng, chủ văn học khai thông, tài năng có sức mạnh, nhưng mộc hoả khí nóng, là người không chú ý tiểu tiết nhỏ nhặt, không thể khuất phục trước sự kiêu ngạo xấc xược.
Bá đức vọng chi thanh danh, mẫn trí mưu chi tài lược.
(Truyền bá tiếng tăm của đức hạnh và hy vọng; nhanh nhẹn trù tính kế sách quản lý).
Quý khí có trợ giúp, thiên can có lực, thiên nguyệt đức hai thần cùng với thiên ất quý nhân, qua lại trao đổi lẫn nhau, chủ thông minh ước vọng thanh cao, cùng lúc nhờ không vong hình xung có ích lợidung91 với đoạn văn trên.
Sát nhận nâng đỡ quý tượng, có chế phục, hợp cách, can ngày có thể điều khiển, chỉ đoạn văn trên. Lại nói rằng: thuỷ mang theo quý khí, có giúp đỡ, có đê phòng ngừa, không chỉ tài năng quản lý quyền biến, mà cũng trí mưu hơn người.
Tài nguyên câu cục, nhai đầu phô điếm kinh doanh; thiết khí vô bằng, hóa ngoại giang hồ bôn tẩu.
(Nguồn tài hạn chế, xây dựng cửa hàng trên đường; ăn trộm khí không chứng cứ, bên ngoài dân gian chạy trốn).
Cách cục không rộng lớn, phong độ không tự mãn, chỉ có nguồn tài giúp đỡ bản thân, một hai địa chi thông minh hỗ trợ, mà khí lượng thuần tuý, đồng thời khố thần có hiệu quả, trạch thần hữu tình, đúng với đoạn văn trên. Lại nói rằng: thực thần hoặc ấn, ví dụ này giống như trên, hễ thần tiết khí (thực thần), uy lực cuồn cuộn bao la, xa nhưng có lực, tụ họp nhưng không thuận theo, đúng với đoạn văn trên.
Giang hồ phiếm phiếm (bềnh bồng) hề, phong xan vũ túc, la võng mông mông hề, lợi tỏa danh cương.
(Sông hồ mênh mông, gió ăn mưa nghĩ; la võng tâm trí ngu muội, bị ràng buộc trong vòng danh lợi).
Hợi tý là sông hồ, nếu liên quan đến tài quan lộc mã dụng thần, khí lực tràn trề, thường dẫn đến sinh hoạt trên đường, vạch sao đội trăng, nước sẽ đầy tràn, mã hình xung mới đoán như thế.
Thìn tỵ là địa võng, tuất hợi là thiên la, tất cả dụng thần ở nơi thất địa, ngũ khí không thể thành tượng, thì lợi danh tầm thường không thành công. Giống như bụi bặm che phủ, cùng bụi nước lờ mờ, tuế vận cùng đến, nên cùng với can ngày khắc hại thì chết yểu.
Thủy hỏa động diêu, thị phi lâm lí lập thân; mộc kim hòa hiệp, nghĩa lễ môn đình phát tài.
(Thuỷ hoả lay động, đúng hay sai nếu lập thân trong rừng; mộc kim điều hoà, nghĩa và lễ làm cho gia đình phát tài).
Thuỷ hoả chính là dộng vật (giống gì tự cử động đều gọi là động vật) trong cõi đời người, rơi vào cách này, thường khiến môi mép thị phi, hễ tạo dựng thân phận là sự việc, ra mặt chỉ trích ở chốn ồn ào, đột nhiên giẫm chân trong lúc nói thao thao, nếu tốt thì có cơ hội quyết định mưu lược, còn hung thì được danh hiệu là bất nhã (mất thể thống).
Kim mộc không nghiêng về một bên, khí được trung hoà, âm dương phối hợp nhau, trợ giúp nhau, cần phải căn cứ sự thật, nếu mình khắc nó , xứng đáng thu hoạch tài của đạo nghĩa, nếu giao thác (thay thế lẫn nhau) vô tình, chủ bị khách khinh thường, chủ là người bất nghĩa, tổn hại tài của mình ngoài ý muốn, hoặc bị sự việc bất nghĩa, oan khuất và nhục nhã.
Dịch mã đắc ngã khắc tha sanh, tẫn phát ngoại bang chi lộc; không vong hữu vật minh khí kiến, mỗi ưng vô ý chi danh.
(Dịch mã được mình sanh nó khắc, toàn bộ lộc được phát ở ngoại bang; không vong có khí củ vật rõ ràng hiện ra, thường nhận lấy danh ngoài ý muốn).
Gặp can ở trên mã, nhật chủ có thể khắc, hoặc chỗ mã có vật nào đó sanh mình, phần lớn là phát tài ở nơi xa, hoặc ra ngoài biên giới mà kiếm được tài lộc. Không vong là chỗ hung bại, nếu có tượng vui mừng tụ họp lại, như kim hoả mừng chỗ trống nhân lúc vượng, là các loại thần quan quý hữu tình, hợp với cách cục này.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十五
财居库地,身入衰乡,性能鄙吝,气亦猥慵。
财神遇库闭藏,既欠刑冲开激,况身弱者,此等之人,度量悭鄙,器宇少豁达也。
木遇学堂,火临生地,文既精华,志尤倨傲。
木火,文明之象。居生旺之位,主文学疏通,才能雄健,但木火炎上之气,为人不顾细节,不能屈下倨傲骄忽。
播德望之声名,敏智谋之才略。
贵气有助,干有力,天月德辰,及天乙,互换来往,主聪明雅望,兼藉空亡刑冲得用,准上文。
煞刃扶贵象,有制伏,得中,日干可以驭伏,惟上文。又云:水带贵气,有扶助,有堤防,不惟才略机变,而亦智谋过人。
财源拘局,街头铺店经营,窃气无凭,化外江湖奔走。
格局不广,器宇不充,但有财源助身,一二支伶俐生扶,而局于纯粹之器,兼库神得用,宅神有情者,准上文。又云:食神或印,此例同断,凡泄气之神,汗漫滔滔之势,远而有力,聚而无依,准上文。
江湖泛泛兮,风餐雨宿,罗网蒙蒙兮,利锁名疆。
亥子为江湖,若系财官禄马用神,其气泛溢者,多致道途生计,披星戴月,其水泛泛,其马刑冲,方断。
辰巳为地网,戌亥为天罗,全者用神其上失地,五气不能成象,则利名碌碌无成。如尘埃所罩,皆雾所迷,岁运并临,仍与日干克害者,夭亡。
水火动摇,是非林里立身,木金和协,义礼门庭发财。
水火乃人间之动物,犯此格,多惹是非唇吻,凡立身为事,短于闹里出头,斗喋之中着脚,若吉则有决策之机,凶则有不雅之号。
金木无偏倚,气和得中,阴阳相配相济者,必务本实,我若克彼专,当获道义之财,若交错无情,主被客凌者,主不义人,损我无意中之财,或被不义事,冤屈折辱。
驿马得我克他生,尽发外邦之禄,空亡有物明气见,每膺无意之名。
遇马上之干,日主能克,或马位有物生我者,多是远方外财发越,或出外于边境得财禄,空亡为凶败之所,若有喜象集来,如金火喜空乘旺,为官贵等神有情者,合此格局。
.
ngọc tỉnh áo quyết thập ngũ
Tài cư khố địa, thân nhập suy hương, tính năng bỉ lận, khí diệc ổi thung.
(Tài ở đất khố, thân vào nơi suy, bản chất keo kiệt, bản chất keo kiệt, khí cũng tuỳ tiện biếng nhác).
Tài thần gặp phải khố đóng kín, đã thiếu hình xung để khai mợ, lại thêm thân yếu đuối,các loại người này, keo kiệt bủn xỉn, phong độ thiếu cởi mở.
Mộc ngộ học đường, hỏa lâm sanh địa, văn kí tinh hoa, chí vưu cứ ngạo.
(Mộc gặp học đường, hoả đến đất trường sanh, toàn bộ bài văn tinh tuý, ý chí càng thêm hỗn láo, xấc xược).
Mộc và hoả là tượng của văn minh. Ở vị trí sanh vượng, chủ văn học khai thông, tài năng có sức mạnh, nhưng mộc hoả khí nóng, là người không chú ý tiểu tiết nhỏ nhặt, không thể khuất phục trước sự kiêu ngạo xấc xược.
Bá đức vọng chi thanh danh, mẫn trí mưu chi tài lược.
(Truyền bá tiếng tăm của đức hạnh và hy vọng; nhanh nhẹn trù tính kế sách quản lý).
Quý khí có trợ giúp, thiên can có lực, thiên nguyệt đức hai thần cùng với thiên ất quý nhân, qua lại trao đổi lẫn nhau, chủ thông minh ước vọng thanh cao, cùng lúc nhờ không vong hình xung có ích lợidung91 với đoạn văn trên.
Sát nhận nâng đỡ quý tượng, có chế phục, hợp cách, can ngày có thể điều khiển, chỉ đoạn văn trên. Lại nói rằng: thuỷ mang theo quý khí, có giúp đỡ, có đê phòng ngừa, không chỉ tài năng quản lý quyền biến, mà cũng trí mưu hơn người.
Tài nguyên câu cục, nhai đầu phô điếm kinh doanh; thiết khí vô bằng, hóa ngoại giang hồ bôn tẩu.
(Nguồn tài hạn chế, xây dựng cửa hàng trên đường; ăn trộm khí không chứng cứ, bên ngoài dân gian chạy trốn).
Cách cục không rộng lớn, phong độ không tự mãn, chỉ có nguồn tài giúp đỡ bản thân, một hai địa chi thông minh hỗ trợ, mà khí lượng thuần tuý, đồng thời khố thần có hiệu quả, trạch thần hữu tình, đúng với đoạn văn trên. Lại nói rằng: thực thần hoặc ấn, ví dụ này giống như trên, hễ thần tiết khí (thực thần), uy lực cuồn cuộn bao la, xa nhưng có lực, tụ họp nhưng không thuận theo, đúng với đoạn văn trên.
Giang hồ phiếm phiếm (bềnh bồng) hề, phong xan vũ túc, la võng mông mông hề, lợi tỏa danh cương.
(Sông hồ mênh mông, gió ăn mưa nghĩ; la võng tâm trí ngu muội, bị ràng buộc trong vòng danh lợi).
Hợi tý là sông hồ, nếu liên quan đến tài quan lộc mã dụng thần, khí lực tràn trề, thường dẫn đến sinh hoạt trên đường, vạch sao đội trăng, nước sẽ đầy tràn, mã hình xung mới đoán như thế.
Thìn tỵ là địa võng, tuất hợi là thiên la, tất cả dụng thần ở nơi thất địa, ngũ khí không thể thành tượng, thì lợi danh tầm thường không thành công. Giống như bụi bặm che phủ, cùng bụi nước lờ mờ, tuế vận cùng đến, nên cùng với can ngày khắc hại thì chết yểu.
Thủy hỏa động diêu, thị phi lâm lí lập thân; mộc kim hòa hiệp, nghĩa lễ môn đình phát tài.
(Thuỷ hoả lay động, đúng hay sai nếu lập thân trong rừng; mộc kim điều hoà, nghĩa và lễ làm cho gia đình phát tài).
Thuỷ hoả chính là dộng vật (giống gì tự cử động đều gọi là động vật) trong cõi đời người, rơi vào cách này, thường khiến môi mép thị phi, hễ tạo dựng thân phận là sự việc, ra mặt chỉ trích ở chốn ồn ào, đột nhiên giẫm chân trong lúc nói thao thao, nếu tốt thì có cơ hội quyết định mưu lược, còn hung thì được danh hiệu là bất nhã (mất thể thống).
Kim mộc không nghiêng về một bên, khí được trung hoà, âm dương phối hợp nhau, trợ giúp nhau, cần phải căn cứ sự thật, nếu mình khắc nó , xứng đáng thu hoạch tài của đạo nghĩa, nếu giao thác (thay thế lẫn nhau) vô tình, chủ bị khách khinh thường, chủ là người bất nghĩa, tổn hại tài của mình ngoài ý muốn, hoặc bị sự việc bất nghĩa, oan khuất và nhục nhã.
Dịch mã đắc ngã khắc tha sanh, tẫn phát ngoại bang chi lộc; không vong hữu vật minh khí kiến, mỗi ưng vô ý chi danh.
(Dịch mã được mình sanh nó khắc, toàn bộ lộc được phát ở ngoại bang; không vong có khí củ vật rõ ràng hiện ra, thường nhận lấy danh ngoài ý muốn).
Gặp can ở trên mã, nhật chủ có thể khắc, hoặc chỗ mã có vật nào đó sanh mình, phần lớn là phát tài ở nơi xa, hoặc ra ngoài biên giới mà kiếm được tài lộc. Không vong là chỗ hung bại, nếu có tượng vui mừng tụ họp lại, như kim hoả mừng chỗ trống nhân lúc vượng, là các loại thần quan quý hữu tình, hợp với cách cục này.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十五
财居库地,身入衰乡,性能鄙吝,气亦猥慵。
财神遇库闭藏,既欠刑冲开激,况身弱者,此等之人,度量悭鄙,器宇少豁达也。
木遇学堂,火临生地,文既精华,志尤倨傲。
木火,文明之象。居生旺之位,主文学疏通,才能雄健,但木火炎上之气,为人不顾细节,不能屈下倨傲骄忽。
播德望之声名,敏智谋之才略。
贵气有助,干有力,天月德辰,及天乙,互换来往,主聪明雅望,兼藉空亡刑冲得用,准上文。
煞刃扶贵象,有制伏,得中,日干可以驭伏,惟上文。又云:水带贵气,有扶助,有堤防,不惟才略机变,而亦智谋过人。
财源拘局,街头铺店经营,窃气无凭,化外江湖奔走。
格局不广,器宇不充,但有财源助身,一二支伶俐生扶,而局于纯粹之器,兼库神得用,宅神有情者,准上文。又云:食神或印,此例同断,凡泄气之神,汗漫滔滔之势,远而有力,聚而无依,准上文。
江湖泛泛兮,风餐雨宿,罗网蒙蒙兮,利锁名疆。
亥子为江湖,若系财官禄马用神,其气泛溢者,多致道途生计,披星戴月,其水泛泛,其马刑冲,方断。
辰巳为地网,戌亥为天罗,全者用神其上失地,五气不能成象,则利名碌碌无成。如尘埃所罩,皆雾所迷,岁运并临,仍与日干克害者,夭亡。
水火动摇,是非林里立身,木金和协,义礼门庭发财。
水火乃人间之动物,犯此格,多惹是非唇吻,凡立身为事,短于闹里出头,斗喋之中着脚,若吉则有决策之机,凶则有不雅之号。
金木无偏倚,气和得中,阴阳相配相济者,必务本实,我若克彼专,当获道义之财,若交错无情,主被客凌者,主不义人,损我无意中之财,或被不义事,冤屈折辱。
驿马得我克他生,尽发外邦之禄,空亡有物明气见,每膺无意之名。
遇马上之干,日主能克,或马位有物生我者,多是远方外财发越,或出外于边境得财禄,空亡为凶败之所,若有喜象集来,如金火喜空乘旺,为官贵等神有情者,合此格局。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#368
Gửi vào 21/10/2024 - 11:14
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thập lục
Thân tuy thực lộc, gia kế bần hàn, khố hữu dư tài, danh mục ti tiện.
(Thân tuy có lộc nhưng gia cảnh nghèo hèn; khố có tài dồi dào nhưng tiếng tăm thấp hèn).
Bản thể bát tự nhẹ và trong, quan tinh cưởi quý, địa chi có thể phá hỏng hình tượng, hưu phế tài của mình, tức là vào các xứ tử tuyệt, không mang quý khí của mộ khố trạch thần, trạch thần luôn luôn xung phá, đúng với đoạn văn trên.
Quý khí lạc không vong, dụng thần vào nơi tử bại, vẫn không có sanh ý, hàm trì, mộc dục,bạch hổ, không vong tức là có củng hộ (vây quanh che chở), trong trụ chỉ có tài khố, hoặc tài thần chuyên vượng, giúp nhật chủ hữu tình khắc trợ, đúng với đoạn văn trên.
Tuế vọng khuyết môn, đương cận triều đường chi chức; khí xung đệ trạch, nan y tổ nghiệp chi cơ.
(Thái tuế nhìn ra cửa thành, đang có chức vị ở gần cung vua; khí xung nhà của vương công đại thần, khó mà nương nhờ nền tảng của tổ tiên).
Trước mặt thái tuế là khuyết môn (thời xưa, ở ngoài cửa cung, hai bên có lầu đài để nhìn ra xa, giữa có lối đi gọi là khuyết), có củng cách (cách vây quanh), chắc nhất định được bỗng lộc, chức vụ gánh vác lo liệu các việc quan trọng nên thường ở gần cung điện của vua. Phía trước thái tuế năm vị trí, nếu bị xung, cùng với nhật chủ không có quý khí hỗ trợ thống lãnh, nhất định chủ nền tảng của tổ tiên bị phá tán, không thể cư trú, nếu nhân lúc quan phù hội tụ cùng vong thần chủ là chức quan bị kết thúc, phạm phá toái kiếp nhận, huỷ thụ (thi đỗ bị huỷ bỏ) là điều chắc chắn.
Nhị vị bất nghi vong kiếp, sách ốc thụ điền; tứ trọng nhược phạm hàm trì, tham tài mĩ mạo.
(Có hai vị trí không hợp với vong kiếp, phá nhà bán ruộng; bốn vị trí ở giữa - ý nói tý mão ngọ dâu - nếu phạm hàm trì, ham thích tiền bạc và sắc đẹp).
Vị trí thứ năm trước thái tuế là mệnh trạch, vị trí thứ năm phía sau là lộc trạch. Mệnh trạch là đệ trạch gia xá (chỉ nhà cửa của vương công đại thần, gia tộc phú quý), lộc trạch là điền trang (nông trang) và khâu mộ (gò đất mồ mã), nếu có mang vong kiếp, chủ một đời thường hoang phí tiền bạc, xây nhà với mua ruộng, tức là chủ phá hoại, huống chi với nhật chủ hình xung hại kiếp phá khắc.
Tý ngọ mão dậu hoàn bị, xưa cho là đào hoa khắp nơi, lại có tên liêm trinh mộc dục, lại là bạo bại đào hoa, có mang các thần sát này chủ yêu thích nghệ thuật lãng mạn, bản tính thông minh và nóng nảy, gây dựng địa vị trong thị phi, cùng với nhật thần hình xung khắc hay trộm khí mới chính xác, kỵ có thuỷ chủ dâm đãng, cũng vì tầm quan trọng của quý sát cần nói là hàm trì thì khẩn (quan trọng) là mộc dục thì mạn (chậm chạp).
Mã thượng không vong, mỗi ngộ dị lộ chi tài bạch; thiên trung lộc vị, thường chiêu tăng hào chi thanh danh.
(Không vong ở mã, thường gặp tiền của ở phuơng diện khác ; lộc ở thiên trung, thường bị ghét, hiệu là thanh danh).
Can độn ở mã có ích lợi, gặp can rõ ràng ở mã trợ giúp mình, có thể làm thành nguồn tài, có thể mã ngồi ở đất sanh vượng của tài, tức là ngồi ở không vong có tình ý, phần lớn ra vào ngoại phương, thu hoạch tài lộc của ngoại phương, hoặc thường tìm được lợi lộc không chủ ý từ nhà khác, hay địa vị khác, cho rằng không phải các loại tiền của mà mình đáng có. Thiên trung tức là không vong, có mang theo lộc, nếu suy bại đúng với đoạn văn trên. Thêm bạch hổ ở ngày rất quan trọng, có thể làm người truyền bá cái tiếng xấu, huống chi thuỷ hoả tượng hội cùng hàm trì với đào hoa.
Mão dậu hảo thiên di môn hộ, tị ngọ đương cảm mộng sanh thai.
(Mão dậu thường hay dời đổi nhà cửa; tỵ ngọ nên mơ thấy mang thai).
Phạm chữ mão dậu ở ngày giờ, ưa thích trang hoàng phòng ốc, sửa đổi nhà cửa, có mã thì thường hay di cư. Thai và trụ giờ gặp phải tỵ ngọ, có mang theo lộc năm với ngày phối hợp lẫn nhau, chủ ứng với cha mẹ gặp mông sanh sản.
Vượng nhận bất kiêm dư sát, thiên hảo dị đoan; vong kiếp canh dẫn tha thần, chỉ đồ hào ẩm.
(Dương nhận vượng không có các sát còn lại, ưa thích nguyên nhân khác; vong kiếp cầm đầu các vị thần khác, chỉ mong thật nhiều đồ uống).
Vượng khí dương nhận không có các sát còn lại khác , chính trực, ngay thẳng, dũng cảm, bị đánh bắt nuôi dưỡng trong lồng, giả làm đám cháy, có mang theo học đường, quan quý hiểu rõ khác biệt;vong thần kiếp sát dương nhận thường tụ họp, với trụ ngày không hoà hợp, ăn như chó sói uống như cá kình no say đuổi theo nhật chủ, một khi gặp sóng gió mất hết hồn vía không còn hiện hữu.
đào hoa trâm chủ tứ phong tình, phá toái triêu nguyên nghi lạc phách.
(Trâm cài đào hoa chủ phóng túng tình dục, phá toái chầu người lãnh đạo nên mất hồn vía).
Như người mão gặp dần ngọ tuất, người dậu gặp thân tý thìn các loại, lại là đảo sáp đào hoa (đào hoa cắm ngược), là người phong lưu phóng túng, tức là có hiền (đức hạnh, tài năng) mà cũng có bất hiền (không đức hạnh, không tài năng), cùng với nhật thần kiềm chế, chiếm giữ mới chính xác. Như nhười dậu gặp dần thân tỵ hợi, người sửu gặp thìn tuất sửu mùi các loại, cũng gọi là hồi đầu phá toái (quay đầu lại là làm vỡ vụn), khắc thiết (ăn trộm khí) hình hại nhật thần, chủ giả dối tráo trở, mệnh yểu, nhẹ thì không thể khởi đầu nên nghèo.
Quan phù lạc tại thiên trung, ngữ đa vọng đản; không vong tức lâm thiên ất, tính hảo âu ngâm.
(Quan phù lạc không vong, lời nói thường không đúng sự thật; không vong đến thiên ất, bản tính hay than van).
Quan phù tức là vong thần. Ở trong không vong cùng với nhật thần kiềm chế và trộm khí, thiên ất quý nhân ở trong không vong, cùng với nhật thần kiềm chế và trộm khí, đều đúng với câu văn ở trên.
Tài thương dụng khí, bão oán ta hu; trọng giá thân cường, vọng vi uổng đãng.
(Tài tổn hại khí lực của dụng thần, ôm lòng oán giận và than thở; chế ngự chồng lấp mà thân cường, làm điều xằng bậy uống phí).
Dụng thần đang sanh, dù cho không có tổn hại, nếu mà có tuế vận đến khắc, thì trong lúc đắc ý trái lại thành thất ý, cho nên than thở sanh oán hận. Thông thường người mà thân vượng, tức như người uống rượu say khướt, muốn không điên rồ mà không thể được. Có thể lại gặp tuế vận chế ngự chồng chất, tự nhiên có hành vi dâm đãng xằng bậy, đồng thời phá tan tài sản của gia đình, làm việc tuỳ tiện, trong trụ có chế ngự, có chỗ nương tựa, cần phân biệt kỹ càng.
Bạch hổ kiêm nhận, mạ sát thì nhân; hoa cái tự mộ, hưởng vu thanh phúc.
(Bạch hổ gồm cả nhận, mắng chửi sát người thời đó; hoa cái tự mộ hưởng thanh phúc).
Bạch hổ đồng nhận: chính là bạch hổ với phi nhận, dương nhận cùng một cung, với nhật thần hình xung khắc thiết (ăn trộm khí) như thế. Lại nói rằng: nêu ở ngày giờ khắc trụ năm, đột nhiên cưới vợ tốt lành, không phải vậy thì vợ có chứng khác, do thi hành án mà vội vã kết hôn, người vợ đó cũng bị người mắng chửi.
Hoa cái tự mộ: nếu tự sanh vượng, lại gặp tuế vận, với nhật thần hoà hợp thành cục, được phúc lành rất thanh cao, không sẽ là tăng đạo (nhà sư và đạo sĩ) hay cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家.), như canh thìn không thể tự mộ, chỉ là đồng cốt trong thôn, hoặc là người làm việc thù công thô lỗ.
Lại nói rằng: hoa cái tự mộ có khí lực chủ phúc thọ. Chỉ không được phong tước vị có thể là tăng đạo người có danh vọng, nếu có mang theo quỷ hàm trì, không phải nghệ nhân tức là đồng cốt trong thôn xóm.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十六
身虽食禄,家计贫寒,库有余财,名目卑贱。
八字体段轻清,官神乘贵,地支或破其象,休废其财,却又入死绝等处,不带墓库宅神之贵,宅神仍冲破者,准上文。
贵气落空亡,用神入死败处,仍无生意,其咸池沐浴白虎空亡,却有拱护,柱中惟财库,或财神专旺,辅日主有情克助者,准上文。
岁望阙门,当近朝堂之职,气冲第宅,难依祖业之基。
太岁对为阙门,有拱入格,决主食禄,职任皆近于朝堂要路之处,岁前第五位,若是被冲,更与日主非贵气生扶统摄者,决主祖上基业离破,不能居住,若乘官符,并亡神,主为官断没抄封,犯破碎劫刃,毁售必矣。
二位不宜亡劫,拆屋售田,四仲若犯咸池,贪财美貌。
岁前第五位为命宅,后第五位为禄宅,命宅为第宅家舍,禄宅为田庄邱墓,若带亡劫,主平生多费财,造屋置田,却主破坏,况与日家刑冲害劫破克乎。
子午卯酉全,古谓遍野桃花,又名廉贞沐浴,又为暴败桃花,带此,主爱风流艺术,性巧情急,是非中立身,与日刑冲克窃,方准,忌水,主淫,兼贵煞轻重言之,咸池紧,沐浴慢。
马上空亡,每遇异路之财帛,天中禄位,常招憎号之声名。
马上遁干得用,遇马上明干助我,或作财元,或马坐财生旺之地,却坐空亡有意,多外方出入,获外方财禄,或常招别门无心利禄,异路,言非本等之财也。天中,即空亡,带禄,若衰败者,准上文。加白虎在日紧切,或招人传恶名,况水火象,并咸池桃花乎。
卯酉好迁移门户,巳午当感梦生胎。
犯卯酉字,在日时,好妆饰堂亭,迁改门户,带马则常移居止。胎时加临巳午,带年禄和谐其日主者,主应父母得梦生产。
旺刃不兼余煞,偏好异端,亡劫更引他神,只图豪饮。
旺气阳刃,别无余煞者,刚廉正直武勇,受笼养打捕,起扮社火之类,带学堂官贵别详,亡神劫煞羊刃多聚,更与日不和协,狼餐鲸饮,逐日醉饱,一任风波,落魄无成矣。
桃花簪主恣风情,破碎朝元宜落魄。
如卯人见寅午戌,酉人见申子辰之类,又谓倒插桃花,为人风流倜傥,却有贤而有不贤也,与日克窃方准。如酉人见寅申巳亥,丑人见辰戌丑未之类,亦谓回头破碎,克窃刑害日辰,主狡猾命夭,轻则不能起发而贫。
官符落在天中,语多妄诞,空亡却临天乙,性好讴吟。
官符,即亡神也。在空亡中,与日克窃,天乙贵人在空亡中,与日克窃者,俱准上文。
才伤用气,抱怨嗟吁,重驾身强,妄为枉荡。
用神当生,纵无伤动,倘若岁运来克,必须得意中,反成失意,故嗟吁生怨矣。凡身旺之人,即如饮酒醉眩者,欲其无狂,不可得也。或又遇岁运重驾气强,自然所为淫荡狂妄,兼破财产家业,胡做胡为,柱有驭制,有倚托,别详。
白虎兼刃,骂杀时人,华盖自墓,享于清福。
白虎同刃,乃白虎与飞刃阳刃同宫,与日刑冲克窃者,如此。一云:若在日时上克年者,娶妻鹊突,不然,妻有异证,因服讼促逼结亲则可,其妻亦受骂人也。
华盖自墓,若自生旺,又遇岁运,与日和合成局,极受清高之福,否则为僧道九流,如庚辰不能自墓,只是村巫,或为粗鲁手作人。
一云:华盖带墓有气,主福寿。但不至封爵之贵或为僧道名望人,若带鬼咸池,非艺人即村巫也。
.
ngọc tỉnh áo quyết thập lục
Thân tuy thực lộc, gia kế bần hàn, khố hữu dư tài, danh mục ti tiện.
(Thân tuy có lộc nhưng gia cảnh nghèo hèn; khố có tài dồi dào nhưng tiếng tăm thấp hèn).
Bản thể bát tự nhẹ và trong, quan tinh cưởi quý, địa chi có thể phá hỏng hình tượng, hưu phế tài của mình, tức là vào các xứ tử tuyệt, không mang quý khí của mộ khố trạch thần, trạch thần luôn luôn xung phá, đúng với đoạn văn trên.
Quý khí lạc không vong, dụng thần vào nơi tử bại, vẫn không có sanh ý, hàm trì, mộc dục,bạch hổ, không vong tức là có củng hộ (vây quanh che chở), trong trụ chỉ có tài khố, hoặc tài thần chuyên vượng, giúp nhật chủ hữu tình khắc trợ, đúng với đoạn văn trên.
Tuế vọng khuyết môn, đương cận triều đường chi chức; khí xung đệ trạch, nan y tổ nghiệp chi cơ.
(Thái tuế nhìn ra cửa thành, đang có chức vị ở gần cung vua; khí xung nhà của vương công đại thần, khó mà nương nhờ nền tảng của tổ tiên).
Trước mặt thái tuế là khuyết môn (thời xưa, ở ngoài cửa cung, hai bên có lầu đài để nhìn ra xa, giữa có lối đi gọi là khuyết), có củng cách (cách vây quanh), chắc nhất định được bỗng lộc, chức vụ gánh vác lo liệu các việc quan trọng nên thường ở gần cung điện của vua. Phía trước thái tuế năm vị trí, nếu bị xung, cùng với nhật chủ không có quý khí hỗ trợ thống lãnh, nhất định chủ nền tảng của tổ tiên bị phá tán, không thể cư trú, nếu nhân lúc quan phù hội tụ cùng vong thần chủ là chức quan bị kết thúc, phạm phá toái kiếp nhận, huỷ thụ (thi đỗ bị huỷ bỏ) là điều chắc chắn.
Nhị vị bất nghi vong kiếp, sách ốc thụ điền; tứ trọng nhược phạm hàm trì, tham tài mĩ mạo.
(Có hai vị trí không hợp với vong kiếp, phá nhà bán ruộng; bốn vị trí ở giữa - ý nói tý mão ngọ dâu - nếu phạm hàm trì, ham thích tiền bạc và sắc đẹp).
Vị trí thứ năm trước thái tuế là mệnh trạch, vị trí thứ năm phía sau là lộc trạch. Mệnh trạch là đệ trạch gia xá (chỉ nhà cửa của vương công đại thần, gia tộc phú quý), lộc trạch là điền trang (nông trang) và khâu mộ (gò đất mồ mã), nếu có mang vong kiếp, chủ một đời thường hoang phí tiền bạc, xây nhà với mua ruộng, tức là chủ phá hoại, huống chi với nhật chủ hình xung hại kiếp phá khắc.
Tý ngọ mão dậu hoàn bị, xưa cho là đào hoa khắp nơi, lại có tên liêm trinh mộc dục, lại là bạo bại đào hoa, có mang các thần sát này chủ yêu thích nghệ thuật lãng mạn, bản tính thông minh và nóng nảy, gây dựng địa vị trong thị phi, cùng với nhật thần hình xung khắc hay trộm khí mới chính xác, kỵ có thuỷ chủ dâm đãng, cũng vì tầm quan trọng của quý sát cần nói là hàm trì thì khẩn (quan trọng) là mộc dục thì mạn (chậm chạp).
Mã thượng không vong, mỗi ngộ dị lộ chi tài bạch; thiên trung lộc vị, thường chiêu tăng hào chi thanh danh.
(Không vong ở mã, thường gặp tiền của ở phuơng diện khác ; lộc ở thiên trung, thường bị ghét, hiệu là thanh danh).
Can độn ở mã có ích lợi, gặp can rõ ràng ở mã trợ giúp mình, có thể làm thành nguồn tài, có thể mã ngồi ở đất sanh vượng của tài, tức là ngồi ở không vong có tình ý, phần lớn ra vào ngoại phương, thu hoạch tài lộc của ngoại phương, hoặc thường tìm được lợi lộc không chủ ý từ nhà khác, hay địa vị khác, cho rằng không phải các loại tiền của mà mình đáng có. Thiên trung tức là không vong, có mang theo lộc, nếu suy bại đúng với đoạn văn trên. Thêm bạch hổ ở ngày rất quan trọng, có thể làm người truyền bá cái tiếng xấu, huống chi thuỷ hoả tượng hội cùng hàm trì với đào hoa.
Mão dậu hảo thiên di môn hộ, tị ngọ đương cảm mộng sanh thai.
(Mão dậu thường hay dời đổi nhà cửa; tỵ ngọ nên mơ thấy mang thai).
Phạm chữ mão dậu ở ngày giờ, ưa thích trang hoàng phòng ốc, sửa đổi nhà cửa, có mã thì thường hay di cư. Thai và trụ giờ gặp phải tỵ ngọ, có mang theo lộc năm với ngày phối hợp lẫn nhau, chủ ứng với cha mẹ gặp mông sanh sản.
Vượng nhận bất kiêm dư sát, thiên hảo dị đoan; vong kiếp canh dẫn tha thần, chỉ đồ hào ẩm.
(Dương nhận vượng không có các sát còn lại, ưa thích nguyên nhân khác; vong kiếp cầm đầu các vị thần khác, chỉ mong thật nhiều đồ uống).
Vượng khí dương nhận không có các sát còn lại khác , chính trực, ngay thẳng, dũng cảm, bị đánh bắt nuôi dưỡng trong lồng, giả làm đám cháy, có mang theo học đường, quan quý hiểu rõ khác biệt;vong thần kiếp sát dương nhận thường tụ họp, với trụ ngày không hoà hợp, ăn như chó sói uống như cá kình no say đuổi theo nhật chủ, một khi gặp sóng gió mất hết hồn vía không còn hiện hữu.
đào hoa trâm chủ tứ phong tình, phá toái triêu nguyên nghi lạc phách.
(Trâm cài đào hoa chủ phóng túng tình dục, phá toái chầu người lãnh đạo nên mất hồn vía).
Như người mão gặp dần ngọ tuất, người dậu gặp thân tý thìn các loại, lại là đảo sáp đào hoa (đào hoa cắm ngược), là người phong lưu phóng túng, tức là có hiền (đức hạnh, tài năng) mà cũng có bất hiền (không đức hạnh, không tài năng), cùng với nhật thần kiềm chế, chiếm giữ mới chính xác. Như nhười dậu gặp dần thân tỵ hợi, người sửu gặp thìn tuất sửu mùi các loại, cũng gọi là hồi đầu phá toái (quay đầu lại là làm vỡ vụn), khắc thiết (ăn trộm khí) hình hại nhật thần, chủ giả dối tráo trở, mệnh yểu, nhẹ thì không thể khởi đầu nên nghèo.
Quan phù lạc tại thiên trung, ngữ đa vọng đản; không vong tức lâm thiên ất, tính hảo âu ngâm.
(Quan phù lạc không vong, lời nói thường không đúng sự thật; không vong đến thiên ất, bản tính hay than van).
Quan phù tức là vong thần. Ở trong không vong cùng với nhật thần kiềm chế và trộm khí, thiên ất quý nhân ở trong không vong, cùng với nhật thần kiềm chế và trộm khí, đều đúng với câu văn ở trên.
Tài thương dụng khí, bão oán ta hu; trọng giá thân cường, vọng vi uổng đãng.
(Tài tổn hại khí lực của dụng thần, ôm lòng oán giận và than thở; chế ngự chồng lấp mà thân cường, làm điều xằng bậy uống phí).
Dụng thần đang sanh, dù cho không có tổn hại, nếu mà có tuế vận đến khắc, thì trong lúc đắc ý trái lại thành thất ý, cho nên than thở sanh oán hận. Thông thường người mà thân vượng, tức như người uống rượu say khướt, muốn không điên rồ mà không thể được. Có thể lại gặp tuế vận chế ngự chồng chất, tự nhiên có hành vi dâm đãng xằng bậy, đồng thời phá tan tài sản của gia đình, làm việc tuỳ tiện, trong trụ có chế ngự, có chỗ nương tựa, cần phân biệt kỹ càng.
Bạch hổ kiêm nhận, mạ sát thì nhân; hoa cái tự mộ, hưởng vu thanh phúc.
(Bạch hổ gồm cả nhận, mắng chửi sát người thời đó; hoa cái tự mộ hưởng thanh phúc).
Bạch hổ đồng nhận: chính là bạch hổ với phi nhận, dương nhận cùng một cung, với nhật thần hình xung khắc thiết (ăn trộm khí) như thế. Lại nói rằng: nêu ở ngày giờ khắc trụ năm, đột nhiên cưới vợ tốt lành, không phải vậy thì vợ có chứng khác, do thi hành án mà vội vã kết hôn, người vợ đó cũng bị người mắng chửi.
Hoa cái tự mộ: nếu tự sanh vượng, lại gặp tuế vận, với nhật thần hoà hợp thành cục, được phúc lành rất thanh cao, không sẽ là tăng đạo (nhà sư và đạo sĩ) hay cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家.), như canh thìn không thể tự mộ, chỉ là đồng cốt trong thôn, hoặc là người làm việc thù công thô lỗ.
Lại nói rằng: hoa cái tự mộ có khí lực chủ phúc thọ. Chỉ không được phong tước vị có thể là tăng đạo người có danh vọng, nếu có mang theo quỷ hàm trì, không phải nghệ nhân tức là đồng cốt trong thôn xóm.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十六
身虽食禄,家计贫寒,库有余财,名目卑贱。
八字体段轻清,官神乘贵,地支或破其象,休废其财,却又入死绝等处,不带墓库宅神之贵,宅神仍冲破者,准上文。
贵气落空亡,用神入死败处,仍无生意,其咸池沐浴白虎空亡,却有拱护,柱中惟财库,或财神专旺,辅日主有情克助者,准上文。
岁望阙门,当近朝堂之职,气冲第宅,难依祖业之基。
太岁对为阙门,有拱入格,决主食禄,职任皆近于朝堂要路之处,岁前第五位,若是被冲,更与日主非贵气生扶统摄者,决主祖上基业离破,不能居住,若乘官符,并亡神,主为官断没抄封,犯破碎劫刃,毁售必矣。
二位不宜亡劫,拆屋售田,四仲若犯咸池,贪财美貌。
岁前第五位为命宅,后第五位为禄宅,命宅为第宅家舍,禄宅为田庄邱墓,若带亡劫,主平生多费财,造屋置田,却主破坏,况与日家刑冲害劫破克乎。
子午卯酉全,古谓遍野桃花,又名廉贞沐浴,又为暴败桃花,带此,主爱风流艺术,性巧情急,是非中立身,与日刑冲克窃,方准,忌水,主淫,兼贵煞轻重言之,咸池紧,沐浴慢。
马上空亡,每遇异路之财帛,天中禄位,常招憎号之声名。
马上遁干得用,遇马上明干助我,或作财元,或马坐财生旺之地,却坐空亡有意,多外方出入,获外方财禄,或常招别门无心利禄,异路,言非本等之财也。天中,即空亡,带禄,若衰败者,准上文。加白虎在日紧切,或招人传恶名,况水火象,并咸池桃花乎。
卯酉好迁移门户,巳午当感梦生胎。
犯卯酉字,在日时,好妆饰堂亭,迁改门户,带马则常移居止。胎时加临巳午,带年禄和谐其日主者,主应父母得梦生产。
旺刃不兼余煞,偏好异端,亡劫更引他神,只图豪饮。
旺气阳刃,别无余煞者,刚廉正直武勇,受笼养打捕,起扮社火之类,带学堂官贵别详,亡神劫煞羊刃多聚,更与日不和协,狼餐鲸饮,逐日醉饱,一任风波,落魄无成矣。
桃花簪主恣风情,破碎朝元宜落魄。
如卯人见寅午戌,酉人见申子辰之类,又谓倒插桃花,为人风流倜傥,却有贤而有不贤也,与日克窃方准。如酉人见寅申巳亥,丑人见辰戌丑未之类,亦谓回头破碎,克窃刑害日辰,主狡猾命夭,轻则不能起发而贫。
官符落在天中,语多妄诞,空亡却临天乙,性好讴吟。
官符,即亡神也。在空亡中,与日克窃,天乙贵人在空亡中,与日克窃者,俱准上文。
才伤用气,抱怨嗟吁,重驾身强,妄为枉荡。
用神当生,纵无伤动,倘若岁运来克,必须得意中,反成失意,故嗟吁生怨矣。凡身旺之人,即如饮酒醉眩者,欲其无狂,不可得也。或又遇岁运重驾气强,自然所为淫荡狂妄,兼破财产家业,胡做胡为,柱有驭制,有倚托,别详。
白虎兼刃,骂杀时人,华盖自墓,享于清福。
白虎同刃,乃白虎与飞刃阳刃同宫,与日刑冲克窃者,如此。一云:若在日时上克年者,娶妻鹊突,不然,妻有异证,因服讼促逼结亲则可,其妻亦受骂人也。
华盖自墓,若自生旺,又遇岁运,与日和合成局,极受清高之福,否则为僧道九流,如庚辰不能自墓,只是村巫,或为粗鲁手作人。
一云:华盖带墓有气,主福寿。但不至封爵之贵或为僧道名望人,若带鬼咸池,非艺人即村巫也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#369
Gửi vào 23/10/2024 - 12:29
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thập thất
Bài này giống bài số 16
Thân tuy thực lộc, gia kế bần hàn; khố hữu dư tài, danh mục ti tiện.
(Thân tuy rằng hưởng lộc, gia cảnh nghèo hèn; khố có tài dồi dào, danh tiếng thấp kém).
Bản thể của bát tự nhẹ nhàng và trong sáng, quan tinh cao quý, địa chi có thê phá hình tượng của nó, trừ bỏ tài của nó, tức là lại thêm vào các xứ tử tuyệt, không mang theo cái quý của khố mộ và trạch thần, trạch thần luôn luôn xung phá, thì đúng với câu văn trên.
Quý khí rơi vào không vong, dụng thần vào xứ tử bai, vẫn không có sanh ý (chủ trương), hàm trì mộc dục không vong tức là có vây quanh cứu giúp, trong trụ chỉ có tài khố, hoặc là tài thần chuyên vượng, giúp nhật chủ hữu tình khắc trợ, thì đúng với lời văn trên.
Tuế vọng khuyết môn, đương cận triều đường chi chức; khí xung đệ trạch, nan y tổ nghiệp chi cơ.
(Tuế nhìn ra ngoài cửa cung, xứng đáng chức vụ ở gần triều đình; khí xung dệ trạch, khó nương tựa nền tảng của tổ tiên).
Cung đối với thái tuế là khuyết môn (thời xưa, ở ngoài cửa cung, hai bên có lầu đài để nhìn ra xa, giữa có lối đi gọi là khuyết), có củng (vây quanh) thì hợp cách, nhất định chủ hưởng bỗng lộc, chức vị quan trọng đều ở gần triều đình, vị trí thứ năm ở phía trước thái tuế nếu bị xung, với nhật chủ không có quý khí hỗ trợ cầm đầu, nhất định phá tan cơ nghiệp của tổ tiên, không thể cư trú, nếu cưởi quan phù hội cùng vong thần chủ là chức quan bị gián đoạn, kết thúc, phạm phá toái kiếp nhận, thi đậu cũng bị huỷ bỏ.
Nhị vị bất nghi vong kiếp, sách ốc thụ điền; tứ trọng nhược phạm hàm trì, tham tài mĩ mạo.
(Hai nơi không nên có vong kiếp, phá nhà bán ruộng; bốn trọng nếu phạm hàm trì, tham tiền của và sắc đẹp).
Vị trí thứ năm trước thái tuế là mệnh trạch, năm vị trí sau là lộc trạch, mệnh trạch là nhà cửa của bậc quyền quý, lộc trạch là trang trại và lăng mộ, nếu có mang vong kiếp chủ một đời thường hoang phí tiền bạc, nếu xây nhà mua ruộng đất chủ phá hoại, huống chi với nhật chủ hình xung hại kiếp phá khắc.
Tý ngọ mão dậu có đầy đủ, ngày xưa cho là đào hoa khắp nơi, lại thêm tên liêm trinh mộc dục, lại là bạo bại đào hoa, mang theo những thứ này chủ ưa thích nghệ thuật lãng mạn, bản tính thông minh, khéo léo nhưng nóng nảy, lập thân trong thị phi, cùng với nhật chủ hình xung khắc thiết (trộm khí) mới chính xác. Kỵ thuỷ chủ buông thả, tham sắc dục, gồm cả quý sát bàn luận nặng nhẹ: hàm trì thì khẩn (nhanh, liên tiếp không ngừng) còn mộc dục thì mạn (chậm chạp).
Mã thượng không vong, mỗi ngộ dị lộ chi tài bạch; thiên trung lộc vị, thường chiêu tăng hào chi thanh danh.
(Không vong ở mã, thường gặp của cải ở phương diện khác; không vong ở lộc, thường dẫn tới danh tiếng khoa trương đáng ghét).
Đôn can ở mã gặp dụng thần, gặp can lộ trên mã giúp đỡ mình, có thể là nguồn tài, có thể mã ngồi ở đất sanh vượng của tài, tức là ngồi ở không vong mà hữu tình, thường ra vào ngoại phương, thu hoạch tài lộc của ngoại phương, có thể thường thu hút tài lộc không chủ ý từ nhà khác, hay địa vị khác, nói là không phải các loại tài của mình vậy. Thiên trung tức là không vong, có mang lộc, nếu suy bại thì đúng với lời văn trên. Có thêm bạch hổ ở nhật chủ rất quan trọng có thể là khiến người lan truyền tiếng xấu, huống chi là tượng thuỷ hoả cùng hàm trì, đào hoa.
Mão dậu hảo thiên di môn hộ; tị ngọ đương cảm mộng sanh thai.
(Mão dậu thích dời đổi nhà cửa; tỵ ngọ nên mộng thấy sanh thai).
Hễ các chữ mão dậu ở trụ ngày giờ, thích trang trí phòng ốc, sửa đổi nhà cửa, có mang theo mã thì thường di cư. Giờ thai tỵ ngọ, mang lộc của năm hoà hợp với nhật chủ, chủ đúng với cha mẹ gặp mộng sanh sản.
Vượng nhận bất kiêm dư sát, thiên hảo dị đoan; vong kiếp canh dẫn tha thần, chỉ đồ hào ẩm.
(Dương nhận vượng không có các sát còn lại, ưa thích nguyên nhân khác; vong kiếp cầm đầu các vị thần khác, chỉ mong thật nhiều đồ uống).
Vượng khí dương nhận không có các sát còn lại khác , chính trực, ngay thẳng, dũng cảm, bị đánh bắt nuôi dưỡng trong lồng, giả làm đám cháy, có mang theo học đường, quan quý hiểu rõ khác biệt; vong thần kiếp sát dương nhận thường tụ họp, với trụ ngày không hoà hợp, ăn như chó sói uống như cá kình no say đuổi theo nhật chủ, một khi gặp sóng gió mất hết hồn vía không còn hiện hữu.
Đào hoa trâm chủ tứ phong tình, phá toái triêu nguyên nghi lạc phách.
(Trâm cài đào hoa chủ phóng túng tình dục, phá toái chầu người lãnh đạo nên mất hồn vía).
Như người mão gặp dần ngọ tuất, người dậu gặp thân tý thìn các loại, lại là đảo sáp đào hoa (đào hoa cắm ngược), là người phong lưu phóng túng, tức là có hiền (đức hạnh, tài năng) mà cũng có bất hiền (không đức hạnh, không tài năng), cùng với nhật thần kiềm chế, chiếm giữ mới chính xác. Như nhười dậu gặp dần thân tỵ hợi, người sửu gặp thìn tuất sửu mùi các loại, cũng gọi là hồi đầu phá toái (quay đầu lại là làm vỡ vụn), khắc thiết (ăn trộm khí) hình hại nhật thần, chủ giả dối tráo trở, mệnh yểu, nhẹ thì không thể khởi đầu nên nghèo.
Quan phù lạc tại thiên trung, ngữ đa vọng đản; không vong tức lâm thiên ất, tính hảo âu ngâm.
(Quan phù lạc không vong, lời nói thường không đúng sự thật; không vong đến thiên ất, bản tính hay than van).
Quan phù tức là vong thần. Ở trong không vong cùng với nhật thần kiềm chế và trộm khí, thiên ất quý nhân ở trong không vong, cùng với nhật thần kiềm chế và trộm khí, đều đúng với câu văn ở trên.
Tài thương dụng khí, bão oán ta hu; trọng giá thân cường, vọng vi uổng đãng.
(Tài tổn hại khí lực của dụng thần, ôm lòng oán giận và than thở; chế ngự chồng lấp mà thân cường, làm điều xằng bậy uống phí).
Dụng thần đang sanh, dù cho không có tổn hại, nếu mà có tuế vận đến khắc, thì trong lúc đắc ý trái lại thành thất ý, cho nên than thở sanh oán hận. Thông thường người mà thân vượng, tức như người uống rượu say khướt, muốn không điên rồ mà không thể được. Có thể lại gặp tuế vận chế ngự chồng chất, tự nhiên có hành vi dâm đãng xằng bậy, đồng thời phá tan tài sản của gia đình, làm việc tuỳ tiện, trong trụ có chế ngự, có chỗ nương tựa, cần phân biệt kỹ càng.
Bạch hổ kiêm nhận, mạ sát thì nhân; hoa cái tự mộ, hưởng vu thanh phúc.
(Bạch hổ gồm cả nhận, mắng chửi sát người thời đó; hoa cái tự mộ hưởng thanh phúc).
Bạch hổ đồng nhận: chính là bạch hổ với phi nhận, dương nhận cùng một cung, với nhật thần hình xung khắc thiết (ăn trộm khí) như thế. Lại nói rằng: nêu ở ngày giờ khắc trụ năm, đột nhiên cưới vợ tốt lành, không phải vậy thì vợ có chứng khác, do thi hành án mà vội vã kết hôn, người vợ đó cũng bị người mắng chửi.
Hoa cái tự mộ: nếu tự sanh vượng, lại gặp tuế vận, với nhật thần hoà hợp thành cục, được phúc lành rất thanh cao, không sẽ là tăng đạo (nhà sư và đạo sĩ) hay cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家.), như canh thìn không thể tự mộ, chỉ là đồng cốt trong thôn, hoặc là người làm việc thù công thô lỗ.
Lại nói rằng: hoa cái tự mộ có khí lực chủ phúc thọ. Chỉ không được phong tước vị có thể là tăng đạo người có danh vọng, nếu có mang theo quỷ hàm trì, không phải nghệ nhân tức là đồng cốt trong thôn xóm.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十七
身虽食禄,家计贫寒,库有余财,名目卑贱。
八字体段轻清,官神乘贵,地支或破其象,休废其财,却又入死绝等处,不带墓库宅神之贵,宅神仍冲破者,准上文。
贵气落空亡,用神入死败处,仍无生意,其咸池沐浴白虎空亡,却有拱护,柱中惟财库,或财神专旺,辅日主有情克助者,准上文。
岁望阙门,当近朝堂之职,气冲第宅,难依祖业之基。
太岁对为阙门,有拱入格,决主食禄,职任皆近于朝堂要路之处,岁前第五位,若是被冲,更与日主非贵气生扶统摄者,决主祖上基业离破,不能居住,若乘官符,并亡神,主为官断没抄封,犯破碎劫刃,毁售必矣。
二位不宜亡劫,拆屋售田,四仲若犯咸池,贪财美貌。
岁前第五位为命宅,后第五位为禄宅,命宅为第宅家舍,禄宅为田庄邱墓,若带亡劫,主平生多费财,造屋置田,却主破坏,况与日家刑冲害劫破克乎。
子午卯酉全,古谓遍野桃花,又名廉贞沐浴,又为暴败桃花,带此,主爱风流艺术,性巧情急,是非中立身,与日刑冲克窃,方准,忌水,主淫,兼贵煞轻重言之,咸池紧,沐浴慢。
马上空亡,每遇异路之财帛,天中禄位,常招憎号之声名。
马上遁干得用,遇马上明干助我,或作财元,或马坐财生旺之地,却坐空亡有意,多外方出入,获外方财禄,或常招别门无心利禄,异路,言非本等之财也。天中,即空亡,带禄,若衰败者,准上文。加白虎在日紧切,或招人传恶名,况水火象,并咸池桃花乎。
卯酉好迁移门户,巳午当感梦生胎。
犯卯酉字,在日时,好妆饰堂亭,迁改门户,带马则常移居止。胎时加临巳午,带年禄和谐其日主者,主应父母得梦生产。
旺刃不兼余煞,偏好异端,亡劫更引他神,只图豪饮。
旺气阳刃,别无余煞者,刚廉正直武勇,受笼养打捕,起扮社火之类,带学堂官贵别详,亡神劫煞羊刃多聚,更与日不和协,狼餐鲸饮,逐日醉饱,一任风波,落魄无成矣。
桃花簪主恣风情,破碎朝元宜落魄。
如卯人见寅午戌,酉人见申子辰之类,又谓倒插桃花,为人风流倜傥,却有贤而有不贤也,与日克窃方准。如酉人见寅申巳亥,丑人见辰戌丑未之类,亦谓回头破碎,克窃刑害日辰,主狡猾命夭,轻则不能起发而贫。
官符落在天中,语多妄诞,空亡却临天乙,性好讴吟。
官符,即亡神也。在空亡中,与日克窃,天乙贵人在空亡中,与日克窃者,俱准上文。
才伤用气,抱怨嗟吁,重驾身强,妄为枉荡。
用神当生,纵无伤动,倘若岁运来克,必须得意中,反成失意,故嗟吁生怨矣。凡身旺之人,即如饮酒醉眩者,欲其无狂,不可得也。或又遇岁运重驾气强,自然所为淫荡狂妄,兼破财产家业,胡做胡为,柱有驭制,有倚托,别详。
白虎兼刃,骂杀时人,华盖自墓,享于清福。
白虎同刃,乃白虎与飞刃阳刃同宫,与日刑冲克窃者,如此。一云:若在日时上克年者,娶妻鹊突,不然,妻有异证,因服讼促逼结亲则可,其妻亦受骂人也。
华盖自墓,若自生旺,又遇岁运,与日和合成局,极受清高之福,否则为僧道九流,如庚辰不能自墓,只是村巫,或为粗鲁手作人。
一云:华盖带墓有气,主福寿。但不至封爵之贵或为僧道名望人,若带鬼咸池,非艺人即村巫也。
.
ngọc tỉnh áo quyết thập thất
Bài này giống bài số 16
Thân tuy thực lộc, gia kế bần hàn; khố hữu dư tài, danh mục ti tiện.
(Thân tuy rằng hưởng lộc, gia cảnh nghèo hèn; khố có tài dồi dào, danh tiếng thấp kém).
Bản thể của bát tự nhẹ nhàng và trong sáng, quan tinh cao quý, địa chi có thê phá hình tượng của nó, trừ bỏ tài của nó, tức là lại thêm vào các xứ tử tuyệt, không mang theo cái quý của khố mộ và trạch thần, trạch thần luôn luôn xung phá, thì đúng với câu văn trên.
Quý khí rơi vào không vong, dụng thần vào xứ tử bai, vẫn không có sanh ý (chủ trương), hàm trì mộc dục không vong tức là có vây quanh cứu giúp, trong trụ chỉ có tài khố, hoặc là tài thần chuyên vượng, giúp nhật chủ hữu tình khắc trợ, thì đúng với lời văn trên.
Tuế vọng khuyết môn, đương cận triều đường chi chức; khí xung đệ trạch, nan y tổ nghiệp chi cơ.
(Tuế nhìn ra ngoài cửa cung, xứng đáng chức vụ ở gần triều đình; khí xung dệ trạch, khó nương tựa nền tảng của tổ tiên).
Cung đối với thái tuế là khuyết môn (thời xưa, ở ngoài cửa cung, hai bên có lầu đài để nhìn ra xa, giữa có lối đi gọi là khuyết), có củng (vây quanh) thì hợp cách, nhất định chủ hưởng bỗng lộc, chức vị quan trọng đều ở gần triều đình, vị trí thứ năm ở phía trước thái tuế nếu bị xung, với nhật chủ không có quý khí hỗ trợ cầm đầu, nhất định phá tan cơ nghiệp của tổ tiên, không thể cư trú, nếu cưởi quan phù hội cùng vong thần chủ là chức quan bị gián đoạn, kết thúc, phạm phá toái kiếp nhận, thi đậu cũng bị huỷ bỏ.
Nhị vị bất nghi vong kiếp, sách ốc thụ điền; tứ trọng nhược phạm hàm trì, tham tài mĩ mạo.
(Hai nơi không nên có vong kiếp, phá nhà bán ruộng; bốn trọng nếu phạm hàm trì, tham tiền của và sắc đẹp).
Vị trí thứ năm trước thái tuế là mệnh trạch, năm vị trí sau là lộc trạch, mệnh trạch là nhà cửa của bậc quyền quý, lộc trạch là trang trại và lăng mộ, nếu có mang vong kiếp chủ một đời thường hoang phí tiền bạc, nếu xây nhà mua ruộng đất chủ phá hoại, huống chi với nhật chủ hình xung hại kiếp phá khắc.
Tý ngọ mão dậu có đầy đủ, ngày xưa cho là đào hoa khắp nơi, lại thêm tên liêm trinh mộc dục, lại là bạo bại đào hoa, mang theo những thứ này chủ ưa thích nghệ thuật lãng mạn, bản tính thông minh, khéo léo nhưng nóng nảy, lập thân trong thị phi, cùng với nhật chủ hình xung khắc thiết (trộm khí) mới chính xác. Kỵ thuỷ chủ buông thả, tham sắc dục, gồm cả quý sát bàn luận nặng nhẹ: hàm trì thì khẩn (nhanh, liên tiếp không ngừng) còn mộc dục thì mạn (chậm chạp).
Mã thượng không vong, mỗi ngộ dị lộ chi tài bạch; thiên trung lộc vị, thường chiêu tăng hào chi thanh danh.
(Không vong ở mã, thường gặp của cải ở phương diện khác; không vong ở lộc, thường dẫn tới danh tiếng khoa trương đáng ghét).
Đôn can ở mã gặp dụng thần, gặp can lộ trên mã giúp đỡ mình, có thể là nguồn tài, có thể mã ngồi ở đất sanh vượng của tài, tức là ngồi ở không vong mà hữu tình, thường ra vào ngoại phương, thu hoạch tài lộc của ngoại phương, có thể thường thu hút tài lộc không chủ ý từ nhà khác, hay địa vị khác, nói là không phải các loại tài của mình vậy. Thiên trung tức là không vong, có mang lộc, nếu suy bại thì đúng với lời văn trên. Có thêm bạch hổ ở nhật chủ rất quan trọng có thể là khiến người lan truyền tiếng xấu, huống chi là tượng thuỷ hoả cùng hàm trì, đào hoa.
Mão dậu hảo thiên di môn hộ; tị ngọ đương cảm mộng sanh thai.
(Mão dậu thích dời đổi nhà cửa; tỵ ngọ nên mộng thấy sanh thai).
Hễ các chữ mão dậu ở trụ ngày giờ, thích trang trí phòng ốc, sửa đổi nhà cửa, có mang theo mã thì thường di cư. Giờ thai tỵ ngọ, mang lộc của năm hoà hợp với nhật chủ, chủ đúng với cha mẹ gặp mộng sanh sản.
Vượng nhận bất kiêm dư sát, thiên hảo dị đoan; vong kiếp canh dẫn tha thần, chỉ đồ hào ẩm.
(Dương nhận vượng không có các sát còn lại, ưa thích nguyên nhân khác; vong kiếp cầm đầu các vị thần khác, chỉ mong thật nhiều đồ uống).
Vượng khí dương nhận không có các sát còn lại khác , chính trực, ngay thẳng, dũng cảm, bị đánh bắt nuôi dưỡng trong lồng, giả làm đám cháy, có mang theo học đường, quan quý hiểu rõ khác biệt; vong thần kiếp sát dương nhận thường tụ họp, với trụ ngày không hoà hợp, ăn như chó sói uống như cá kình no say đuổi theo nhật chủ, một khi gặp sóng gió mất hết hồn vía không còn hiện hữu.
Đào hoa trâm chủ tứ phong tình, phá toái triêu nguyên nghi lạc phách.
(Trâm cài đào hoa chủ phóng túng tình dục, phá toái chầu người lãnh đạo nên mất hồn vía).
Như người mão gặp dần ngọ tuất, người dậu gặp thân tý thìn các loại, lại là đảo sáp đào hoa (đào hoa cắm ngược), là người phong lưu phóng túng, tức là có hiền (đức hạnh, tài năng) mà cũng có bất hiền (không đức hạnh, không tài năng), cùng với nhật thần kiềm chế, chiếm giữ mới chính xác. Như nhười dậu gặp dần thân tỵ hợi, người sửu gặp thìn tuất sửu mùi các loại, cũng gọi là hồi đầu phá toái (quay đầu lại là làm vỡ vụn), khắc thiết (ăn trộm khí) hình hại nhật thần, chủ giả dối tráo trở, mệnh yểu, nhẹ thì không thể khởi đầu nên nghèo.
Quan phù lạc tại thiên trung, ngữ đa vọng đản; không vong tức lâm thiên ất, tính hảo âu ngâm.
(Quan phù lạc không vong, lời nói thường không đúng sự thật; không vong đến thiên ất, bản tính hay than van).
Quan phù tức là vong thần. Ở trong không vong cùng với nhật thần kiềm chế và trộm khí, thiên ất quý nhân ở trong không vong, cùng với nhật thần kiềm chế và trộm khí, đều đúng với câu văn ở trên.
Tài thương dụng khí, bão oán ta hu; trọng giá thân cường, vọng vi uổng đãng.
(Tài tổn hại khí lực của dụng thần, ôm lòng oán giận và than thở; chế ngự chồng lấp mà thân cường, làm điều xằng bậy uống phí).
Dụng thần đang sanh, dù cho không có tổn hại, nếu mà có tuế vận đến khắc, thì trong lúc đắc ý trái lại thành thất ý, cho nên than thở sanh oán hận. Thông thường người mà thân vượng, tức như người uống rượu say khướt, muốn không điên rồ mà không thể được. Có thể lại gặp tuế vận chế ngự chồng chất, tự nhiên có hành vi dâm đãng xằng bậy, đồng thời phá tan tài sản của gia đình, làm việc tuỳ tiện, trong trụ có chế ngự, có chỗ nương tựa, cần phân biệt kỹ càng.
Bạch hổ kiêm nhận, mạ sát thì nhân; hoa cái tự mộ, hưởng vu thanh phúc.
(Bạch hổ gồm cả nhận, mắng chửi sát người thời đó; hoa cái tự mộ hưởng thanh phúc).
Bạch hổ đồng nhận: chính là bạch hổ với phi nhận, dương nhận cùng một cung, với nhật thần hình xung khắc thiết (ăn trộm khí) như thế. Lại nói rằng: nêu ở ngày giờ khắc trụ năm, đột nhiên cưới vợ tốt lành, không phải vậy thì vợ có chứng khác, do thi hành án mà vội vã kết hôn, người vợ đó cũng bị người mắng chửi.
Hoa cái tự mộ: nếu tự sanh vượng, lại gặp tuế vận, với nhật thần hoà hợp thành cục, được phúc lành rất thanh cao, không sẽ là tăng đạo (nhà sư và đạo sĩ) hay cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家.), như canh thìn không thể tự mộ, chỉ là đồng cốt trong thôn, hoặc là người làm việc thù công thô lỗ.
Lại nói rằng: hoa cái tự mộ có khí lực chủ phúc thọ. Chỉ không được phong tước vị có thể là tăng đạo người có danh vọng, nếu có mang theo quỷ hàm trì, không phải nghệ nhân tức là đồng cốt trong thôn xóm.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十七
身虽食禄,家计贫寒,库有余财,名目卑贱。
八字体段轻清,官神乘贵,地支或破其象,休废其财,却又入死绝等处,不带墓库宅神之贵,宅神仍冲破者,准上文。
贵气落空亡,用神入死败处,仍无生意,其咸池沐浴白虎空亡,却有拱护,柱中惟财库,或财神专旺,辅日主有情克助者,准上文。
岁望阙门,当近朝堂之职,气冲第宅,难依祖业之基。
太岁对为阙门,有拱入格,决主食禄,职任皆近于朝堂要路之处,岁前第五位,若是被冲,更与日主非贵气生扶统摄者,决主祖上基业离破,不能居住,若乘官符,并亡神,主为官断没抄封,犯破碎劫刃,毁售必矣。
二位不宜亡劫,拆屋售田,四仲若犯咸池,贪财美貌。
岁前第五位为命宅,后第五位为禄宅,命宅为第宅家舍,禄宅为田庄邱墓,若带亡劫,主平生多费财,造屋置田,却主破坏,况与日家刑冲害劫破克乎。
子午卯酉全,古谓遍野桃花,又名廉贞沐浴,又为暴败桃花,带此,主爱风流艺术,性巧情急,是非中立身,与日刑冲克窃,方准,忌水,主淫,兼贵煞轻重言之,咸池紧,沐浴慢。
马上空亡,每遇异路之财帛,天中禄位,常招憎号之声名。
马上遁干得用,遇马上明干助我,或作财元,或马坐财生旺之地,却坐空亡有意,多外方出入,获外方财禄,或常招别门无心利禄,异路,言非本等之财也。天中,即空亡,带禄,若衰败者,准上文。加白虎在日紧切,或招人传恶名,况水火象,并咸池桃花乎。
卯酉好迁移门户,巳午当感梦生胎。
犯卯酉字,在日时,好妆饰堂亭,迁改门户,带马则常移居止。胎时加临巳午,带年禄和谐其日主者,主应父母得梦生产。
旺刃不兼余煞,偏好异端,亡劫更引他神,只图豪饮。
旺气阳刃,别无余煞者,刚廉正直武勇,受笼养打捕,起扮社火之类,带学堂官贵别详,亡神劫煞羊刃多聚,更与日不和协,狼餐鲸饮,逐日醉饱,一任风波,落魄无成矣。
桃花簪主恣风情,破碎朝元宜落魄。
如卯人见寅午戌,酉人见申子辰之类,又谓倒插桃花,为人风流倜傥,却有贤而有不贤也,与日克窃方准。如酉人见寅申巳亥,丑人见辰戌丑未之类,亦谓回头破碎,克窃刑害日辰,主狡猾命夭,轻则不能起发而贫。
官符落在天中,语多妄诞,空亡却临天乙,性好讴吟。
官符,即亡神也。在空亡中,与日克窃,天乙贵人在空亡中,与日克窃者,俱准上文。
才伤用气,抱怨嗟吁,重驾身强,妄为枉荡。
用神当生,纵无伤动,倘若岁运来克,必须得意中,反成失意,故嗟吁生怨矣。凡身旺之人,即如饮酒醉眩者,欲其无狂,不可得也。或又遇岁运重驾气强,自然所为淫荡狂妄,兼破财产家业,胡做胡为,柱有驭制,有倚托,别详。
白虎兼刃,骂杀时人,华盖自墓,享于清福。
白虎同刃,乃白虎与飞刃阳刃同宫,与日刑冲克窃者,如此。一云:若在日时上克年者,娶妻鹊突,不然,妻有异证,因服讼促逼结亲则可,其妻亦受骂人也。
华盖自墓,若自生旺,又遇岁运,与日和合成局,极受清高之福,否则为僧道九流,如庚辰不能自墓,只是村巫,或为粗鲁手作人。
一云:华盖带墓有气,主福寿。但不至封爵之贵或为僧道名望人,若带鬼咸池,非艺人即村巫也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#370
Gửi vào 24/10/2024 - 09:08
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thập bát
Lộc mệnh nhị thần tương kích, cổ vũ tác vi; quý sát tứ vị tương thừa, tụ quy thủ dụng.
(Hai thần của lộc và mệnh xung nhau, khích lệ hành động; bốn vị quý sát tiếp thụ nhau, tụ về chọn lấy dụng thần).
Lộc và mệnh hai nhà theo phương pháp ở trên, nếu phạm kích sẽ hình xung khắc hại, phải xem ý tốt xấu như thế nào, cùng nhật chủ không hoà hợp đúng thật như thế. Bởi hai thần lộc và mệnh, thật sự liên quan đến xung đột với lệnh, thực chất là tinh thần cổ vũ. Hoặc là quý hoặc là sát, gấp đôi hay gấp ba, cùng lúc tụ họp cùng một thần, huống chi có bốn chỗ trong trụ, mỗi chỗ đều có thần tốt xấu, cần phải phân biệt tụ ở vị trí nào niều nhất, để so sánh dài ngắn, dần thân tỵ hợi không có trường sanh thì hung xấu.
Thủy hỏa chi tượng, khinh thanh tắc văn chương dị thuật. Hình xung tắc đạo đức thiện môn.
(Tượng của thuỷ hoả: nhẹ nhàng trong sáng là văn chương nghệ thuật. Còn hình xung sẽ là cửa thiền đạo đức).
Thuỷ hoả chính là thần của khảm và ly, có hạnh vận của ký tế, khí trong sáng trong nó sẽ là văn chương đứng đầu mọi người, nhẹ nhàng sẽ là nghệ thuật khác thường, không vong sẽ là bản chất khác có dáng vấp của tiên , hình sẽ là đạo pháp và bùa chú, khắc sẽ là không tịch (trống rỗng và lặng yên) của dòng thiền, dã nạp túc duyên (y áo bá nạp), nghiên cứu sự giác ngộ, tập trung luận về cách tượng của nhật thần, nặng nhẹ mà bàn luận.
Kim thổ chi nguyên, khí lão tắc tài khố lâu thai, thiển nộn tắc kinh thương thủ nghệ.
(Nguồn của kim và thổ, khí già nua sẽ là tài khố lầu đài, còn non trẻ sẽ là buôn bán hay nghề thủ công).
Nghĩa của kim và thổ: có công sanh ra quý nhờ khiêm tốn, khí lão (khí già nua, quá hạn) vật của nó sẽ thành tựu, đại để là nơi của kho của cải, quang cảnh lớn lao của tường thành ở các nhà quyền quý, trang trại , do đó mà đạt tới. Hoặc khí suy tàn tuyệt, hoặc khí mới bắt đầu, nếu không phải người buôn bán, sẽ là người làm nghề tay chân.
Hoa cái mộ thần, thiên nguyệt đức hợp, tuyền thạch gia phong, hưu tù nhật đức, tử tuyệt bại sanh, trần ai thứ sĩ.
(Hoa cái mộ thần, thiên đức và nguyệt đức hợp, suối và đá truyền thống gia đình, nhật đức hưu tù, tử tuyệt bại sanh, sĩ tộc và thứ tộc đời ô trọc).
Hoa cái mộ thần, thiên nguyệt đức hợp, ba dữ kiện lưu chuyển trong trụ, nhất định có một nơi để ở trên hòn đá bên bờ nước, có ý chí hỏi đạo cầu tiên, nhật đức nếu hưu phế, đó là danh tiếng trống rỗng vậy. Huống chi can âm có các vị trí tử bại, ác khí không vong tới sanh trợ, chẳng hơn gì một người làm qua loa tầm thường vậy.
Thập ác đại bại nhược chân, quý vi tướng, tiện vi khấu; tù tử không vong nhược tụ, sanh giả đạo, suy giả tăng.
(Nếu thật là thập ác đại bại, quý là tướng, hèn là cướp; nếu tụ hội tù tử không vong: sanh là đạo sĩ, suy là tăng).
Thập ác được ghi chép trong Đạo Tàng Kinh, quý khí nâng đỡ nhau, hợp cách thanh hậu nhất định nắm giữ binh quyền, nếu hung sát tụ họp, cùng nhau tụ hợp trong trụ, đánh nhau dụng thần hay nhật chủ sẽ hung. Nhật chủ dụng thần đương lúc hưu phế, lạc không vong cùng lúc là cô quả lục hại, nếu gặp đất trường sanh, lâm quan, đế vượng, sẽ là mũ vàng, nếu ở nơi bại tuyệt mộ tử là tri y (áo nhà sư).
Khôi cương quyền trọng, tức hại lục thân; kiếp quả tuy cô, hỉ toàn tam quý.
(Khôi cương quyền lực lớn, tức là làm hại lục thân; kiếp quả tuy là lẽ loi, mừng có đủ ba quý).
Thìn là thiên cương, tuất là thiên khôi, rất có quyền uy sức mạnh, nhưng khí cô khắc quá nặng, khó tránh khỏi tổn hại lục thân. Kiếp sát quả tú, nếu đới trường sanh, quý nhân, có lộc, chính là ba dữ kiện của phúc khí vậy. Cùng với nhật thần hoà hợp nhất định chủ phú quý, không có ba dữ kiện này, cho dù có phát cũng không bền, trở thành nghèo khó.
Thôn đạm thế phồn, phi thiên phòng định phạp nhũ bộ (cho bú); cô quả lai tịnh, do dị tính giả hợp đồng cư.
(Thôn đạm tình trạng phức tạp, không phải thiên phòng nhất định không có sữa cho bú; cô quả tới hội tụ, giống người khác họ cùng ở chung).
Thôn đạm chính là thần đảo thực, nếu có lực, có thế, có quyền, hoặc gặp nơi sanh vượng quá gần, thì đúng với câu văn trên; cô quả lục hại cùng hội tụ, tức là có ấn thụ thực thần mỗi thứ đều hữu dụng, vẫn gặp trạch thần xung phá, thì đúng với câu văn trên.
Trọng bái song sanh, tị hợi đái chi can đồng loại; vu y tửu sắc, vong kiếp phạm hàm trì quý nhân.
(Lại gặp mặt song sanh, tỵ hợi đới can chi cùng loại; đồng cốt chữa bệnh tửu sắc, vong kiếp phạm hàm trì quý nhân).
Mệnh đới hai vị trí tỵ hợi, lại có can chi khác cùng một loại, có hai hay ba chỗ, như giáp gặp giáp, tý gặp tý, tất là song sanh, có thể lại gặp phụ mẫu, phải là can chi đều có sức lực tương đồng, và kiếp cô cũng vậy.
Các bọn mối lái, thầy cúng và phương pháp làm thuốc, vẫn phài phân nặng nhẹ cao thấp, đều là dẫn dắt bởi hai vị vong thần hàm trì, cùng lúc dương nhận phá toái, mộ quỷ bạch hổ các loại, yêu cầu càn rở, mê sắc đẹp và ưa rượu,là người cửu lưu (học thuật xưa chia ra cửu lưu 九流 chín dòng: (1) nhà Nho, (2) nhà Đạo, (3) nhà Âm Dương, (4) nhà học về pháp, (5) nhà học về danh, (6) nhà Mặc, (7) nhà tung hoành, (8) nhà tạp học, (9) nhà nông) không có tài năng, nếu quý nhân đức thần sanh vượng cũng chỉ là bình thường.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十八
禄命二神相激,鼓舞作为,贵煞四位相承,聚归取用。
前法禄命二宅,若犯激作刑冲克害,看吉凶之意何如,与日不和应验如此。盖禄命二神,实系冲令,左鼓右舞之气使然也。或贵或煞,二重三重,兼并一辰上者,况柱中四位,各有吉凶之神,要分聚在何位最多,以较长短,寅申巳亥无长生,则凶。
水火之象,轻清则文章异术。刑冲则道德禅门。
水火乃坎离之神,有既济之造化,其中气清,则文章魁众,轻则术业异常,空则仙风异质,刑则道法鬼符,克则禅宗空寂,野衲宿缘,参究觉悟,专论日辰格象,轻重而言。
金土之源,气老则财库楼台,浅嫩则经商手艺。
金土之义,有以贱生贵之功,气老则成就其物,盖宜于富藏,墙垣第宅庄营之壮观,由此而致也。或衰气残绝,或初新气嫩,若非经商买卖,则手艺工作之人。
华盖墓神,天月德合,泉石家风,休囚日德,死绝败生,尘埃庶士。
华盖墓神,天月德合,三件循环于柱中者,必有水边石上宿缘,访道求仙志意,日德若休废,虚有其德名矣。况又干音有死败等位,恶气空亡,来生助者,不过碌碌一塞士耳。
十恶大败若真,贵为将,贱为寇,囚死空亡若聚,生者道,衰者僧。
十恶以道藏经所载为准,贵气相扶,清厚入格,必掌兵权,若凶煞凑集,交并柱中,战害用神身主则凶,日主用神,当休废之时,落空亡兼为孤寡六害,若临长生临官旺地,则为黄冠,若处败绝墓死之方,为缁衣。
魁罡权重,却害六亲,劫寡虽孤,喜全三贵。
辰为天罡,戌为天魁,最有权威力量,但孤克之气太重,未免妨害六亲,劫煞寡宿,若带长生贵人有禄,乃三件之福气也。与日和协,必主富贵,无此三件,纵发不久而贫。
吞啖势繁,非偏房定乏乳哺,孤寡来并,由异姓假合同居。
吞啖乃倒食之神,倘多有力有势有权,或临生旺之乡太切,准上文,孤寡六害同并,却有印绶食神一有用者,仍见宅神冲破,准上文。
重拜双生,巳亥带支干同类,巫医酒色,亡劫犯咸池贵人。
命带巳亥二位,又有别支别干一类同者,有二三位者,如甲见甲,子见子,必是双生,或重拜父母,须是干支俱有相同力的,更劫孤亦然。
师巫药术牙侩等辈,仍分轻重高下,皆亡神咸池二位主领,兼羊刃破碎,墓鬼白虎之类者,狂妄诡诈,迷花恋酒,九流不才之人,若贵人德神财官生旺者庶几。
.
ngọc tỉnh áo quyết thập bát
Lộc mệnh nhị thần tương kích, cổ vũ tác vi; quý sát tứ vị tương thừa, tụ quy thủ dụng.
(Hai thần của lộc và mệnh xung nhau, khích lệ hành động; bốn vị quý sát tiếp thụ nhau, tụ về chọn lấy dụng thần).
Lộc và mệnh hai nhà theo phương pháp ở trên, nếu phạm kích sẽ hình xung khắc hại, phải xem ý tốt xấu như thế nào, cùng nhật chủ không hoà hợp đúng thật như thế. Bởi hai thần lộc và mệnh, thật sự liên quan đến xung đột với lệnh, thực chất là tinh thần cổ vũ. Hoặc là quý hoặc là sát, gấp đôi hay gấp ba, cùng lúc tụ họp cùng một thần, huống chi có bốn chỗ trong trụ, mỗi chỗ đều có thần tốt xấu, cần phải phân biệt tụ ở vị trí nào niều nhất, để so sánh dài ngắn, dần thân tỵ hợi không có trường sanh thì hung xấu.
Thủy hỏa chi tượng, khinh thanh tắc văn chương dị thuật. Hình xung tắc đạo đức thiện môn.
(Tượng của thuỷ hoả: nhẹ nhàng trong sáng là văn chương nghệ thuật. Còn hình xung sẽ là cửa thiền đạo đức).
Thuỷ hoả chính là thần của khảm và ly, có hạnh vận của ký tế, khí trong sáng trong nó sẽ là văn chương đứng đầu mọi người, nhẹ nhàng sẽ là nghệ thuật khác thường, không vong sẽ là bản chất khác có dáng vấp của tiên , hình sẽ là đạo pháp và bùa chú, khắc sẽ là không tịch (trống rỗng và lặng yên) của dòng thiền, dã nạp túc duyên (y áo bá nạp), nghiên cứu sự giác ngộ, tập trung luận về cách tượng của nhật thần, nặng nhẹ mà bàn luận.
Kim thổ chi nguyên, khí lão tắc tài khố lâu thai, thiển nộn tắc kinh thương thủ nghệ.
(Nguồn của kim và thổ, khí già nua sẽ là tài khố lầu đài, còn non trẻ sẽ là buôn bán hay nghề thủ công).
Nghĩa của kim và thổ: có công sanh ra quý nhờ khiêm tốn, khí lão (khí già nua, quá hạn) vật của nó sẽ thành tựu, đại để là nơi của kho của cải, quang cảnh lớn lao của tường thành ở các nhà quyền quý, trang trại , do đó mà đạt tới. Hoặc khí suy tàn tuyệt, hoặc khí mới bắt đầu, nếu không phải người buôn bán, sẽ là người làm nghề tay chân.
Hoa cái mộ thần, thiên nguyệt đức hợp, tuyền thạch gia phong, hưu tù nhật đức, tử tuyệt bại sanh, trần ai thứ sĩ.
(Hoa cái mộ thần, thiên đức và nguyệt đức hợp, suối và đá truyền thống gia đình, nhật đức hưu tù, tử tuyệt bại sanh, sĩ tộc và thứ tộc đời ô trọc).
Hoa cái mộ thần, thiên nguyệt đức hợp, ba dữ kiện lưu chuyển trong trụ, nhất định có một nơi để ở trên hòn đá bên bờ nước, có ý chí hỏi đạo cầu tiên, nhật đức nếu hưu phế, đó là danh tiếng trống rỗng vậy. Huống chi can âm có các vị trí tử bại, ác khí không vong tới sanh trợ, chẳng hơn gì một người làm qua loa tầm thường vậy.
Thập ác đại bại nhược chân, quý vi tướng, tiện vi khấu; tù tử không vong nhược tụ, sanh giả đạo, suy giả tăng.
(Nếu thật là thập ác đại bại, quý là tướng, hèn là cướp; nếu tụ hội tù tử không vong: sanh là đạo sĩ, suy là tăng).
Thập ác được ghi chép trong Đạo Tàng Kinh, quý khí nâng đỡ nhau, hợp cách thanh hậu nhất định nắm giữ binh quyền, nếu hung sát tụ họp, cùng nhau tụ hợp trong trụ, đánh nhau dụng thần hay nhật chủ sẽ hung. Nhật chủ dụng thần đương lúc hưu phế, lạc không vong cùng lúc là cô quả lục hại, nếu gặp đất trường sanh, lâm quan, đế vượng, sẽ là mũ vàng, nếu ở nơi bại tuyệt mộ tử là tri y (áo nhà sư).
Khôi cương quyền trọng, tức hại lục thân; kiếp quả tuy cô, hỉ toàn tam quý.
(Khôi cương quyền lực lớn, tức là làm hại lục thân; kiếp quả tuy là lẽ loi, mừng có đủ ba quý).
Thìn là thiên cương, tuất là thiên khôi, rất có quyền uy sức mạnh, nhưng khí cô khắc quá nặng, khó tránh khỏi tổn hại lục thân. Kiếp sát quả tú, nếu đới trường sanh, quý nhân, có lộc, chính là ba dữ kiện của phúc khí vậy. Cùng với nhật thần hoà hợp nhất định chủ phú quý, không có ba dữ kiện này, cho dù có phát cũng không bền, trở thành nghèo khó.
Thôn đạm thế phồn, phi thiên phòng định phạp nhũ bộ (cho bú); cô quả lai tịnh, do dị tính giả hợp đồng cư.
(Thôn đạm tình trạng phức tạp, không phải thiên phòng nhất định không có sữa cho bú; cô quả tới hội tụ, giống người khác họ cùng ở chung).
Thôn đạm chính là thần đảo thực, nếu có lực, có thế, có quyền, hoặc gặp nơi sanh vượng quá gần, thì đúng với câu văn trên; cô quả lục hại cùng hội tụ, tức là có ấn thụ thực thần mỗi thứ đều hữu dụng, vẫn gặp trạch thần xung phá, thì đúng với câu văn trên.
Trọng bái song sanh, tị hợi đái chi can đồng loại; vu y tửu sắc, vong kiếp phạm hàm trì quý nhân.
(Lại gặp mặt song sanh, tỵ hợi đới can chi cùng loại; đồng cốt chữa bệnh tửu sắc, vong kiếp phạm hàm trì quý nhân).
Mệnh đới hai vị trí tỵ hợi, lại có can chi khác cùng một loại, có hai hay ba chỗ, như giáp gặp giáp, tý gặp tý, tất là song sanh, có thể lại gặp phụ mẫu, phải là can chi đều có sức lực tương đồng, và kiếp cô cũng vậy.
Các bọn mối lái, thầy cúng và phương pháp làm thuốc, vẫn phài phân nặng nhẹ cao thấp, đều là dẫn dắt bởi hai vị vong thần hàm trì, cùng lúc dương nhận phá toái, mộ quỷ bạch hổ các loại, yêu cầu càn rở, mê sắc đẹp và ưa rượu,là người cửu lưu (học thuật xưa chia ra cửu lưu 九流 chín dòng: (1) nhà Nho, (2) nhà Đạo, (3) nhà Âm Dương, (4) nhà học về pháp, (5) nhà học về danh, (6) nhà Mặc, (7) nhà tung hoành, (8) nhà tạp học, (9) nhà nông) không có tài năng, nếu quý nhân đức thần sanh vượng cũng chỉ là bình thường.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十八
禄命二神相激,鼓舞作为,贵煞四位相承,聚归取用。
前法禄命二宅,若犯激作刑冲克害,看吉凶之意何如,与日不和应验如此。盖禄命二神,实系冲令,左鼓右舞之气使然也。或贵或煞,二重三重,兼并一辰上者,况柱中四位,各有吉凶之神,要分聚在何位最多,以较长短,寅申巳亥无长生,则凶。
水火之象,轻清则文章异术。刑冲则道德禅门。
水火乃坎离之神,有既济之造化,其中气清,则文章魁众,轻则术业异常,空则仙风异质,刑则道法鬼符,克则禅宗空寂,野衲宿缘,参究觉悟,专论日辰格象,轻重而言。
金土之源,气老则财库楼台,浅嫩则经商手艺。
金土之义,有以贱生贵之功,气老则成就其物,盖宜于富藏,墙垣第宅庄营之壮观,由此而致也。或衰气残绝,或初新气嫩,若非经商买卖,则手艺工作之人。
华盖墓神,天月德合,泉石家风,休囚日德,死绝败生,尘埃庶士。
华盖墓神,天月德合,三件循环于柱中者,必有水边石上宿缘,访道求仙志意,日德若休废,虚有其德名矣。况又干音有死败等位,恶气空亡,来生助者,不过碌碌一塞士耳。
十恶大败若真,贵为将,贱为寇,囚死空亡若聚,生者道,衰者僧。
十恶以道藏经所载为准,贵气相扶,清厚入格,必掌兵权,若凶煞凑集,交并柱中,战害用神身主则凶,日主用神,当休废之时,落空亡兼为孤寡六害,若临长生临官旺地,则为黄冠,若处败绝墓死之方,为缁衣。
魁罡权重,却害六亲,劫寡虽孤,喜全三贵。
辰为天罡,戌为天魁,最有权威力量,但孤克之气太重,未免妨害六亲,劫煞寡宿,若带长生贵人有禄,乃三件之福气也。与日和协,必主富贵,无此三件,纵发不久而贫。
吞啖势繁,非偏房定乏乳哺,孤寡来并,由异姓假合同居。
吞啖乃倒食之神,倘多有力有势有权,或临生旺之乡太切,准上文,孤寡六害同并,却有印绶食神一有用者,仍见宅神冲破,准上文。
重拜双生,巳亥带支干同类,巫医酒色,亡劫犯咸池贵人。
命带巳亥二位,又有别支别干一类同者,有二三位者,如甲见甲,子见子,必是双生,或重拜父母,须是干支俱有相同力的,更劫孤亦然。
师巫药术牙侩等辈,仍分轻重高下,皆亡神咸池二位主领,兼羊刃破碎,墓鬼白虎之类者,狂妄诡诈,迷花恋酒,九流不才之人,若贵人德神财官生旺者庶几。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#371
Gửi vào 25/10/2024 - 09:07
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết thập cửu
Khảm li giao hội, lão túy tần lâu; tượng loại thanh u, ấu đăng tiên phủ.
(Khảm ly gặp nhau, lão già say trên lầu Tần; tượng loại thanh nhã, trẻ con đã đến cõi tiên).
Can thần ở trên tý ngọ đều hợp như nhâm ngọ mậu tý các loại, mậu hợp quý trong tý, nhâm hợp đinh trong ngọ, có thể đinh hợp nhâm, quý hợp mậu, thuỷ hoả hữu tình, đến già còn ham thích sắc đẹp và rượu, thanh thì phong lưu, trọc thì thấp hèn.
Hợp của ngũ hành cực kỳ rõ ràng vả thành tượng, huống chi dẫn đến đất thanh nhã trong sạch, quý thần hợp nhất không hỗn tạp, khí thuần thanh sâu xa, đặc biệt không có các dữ kiện tử tuyệt ác thần xâm phạm nhau, thì đúng với câu văn trên.
Luận văn học nghiệp đặc tinh anh, trường sanh đức tú, thế tửu tích hoa thiên lạc phách, thân vượng hàm trì.
(Xét định văn học thành quả tinh hoa đặc biệt, trường sanh đức tú; mê rượu quý sắc một mình mất cả vía, thân vượng hàm trì).
Trường sanh, đế vượng, bốn quý các xứ, hai thần đức tú, văn học có tài năng nghệ thuật, giỏi về các kỹ năn đặc biệt, người có tài năng đặc xuất, vượt hẳn mọi người. Thế tửu tích hoa (mê rượu quý sắc đẹp), can ngày vượng ở trên hàm trì là một. Bản thân tư vượng bị thần mộc dục khắc là hai. Bản thân quá vượng, mộc dục càng nhiều , phúc khí tản mác không tụ là ba.
Thê ngộ tỉ kiên vượng đoạt, phi thị lương nhân; tài nhân mộc dục cường tranh, nan từ dâm trọc.
(Thê gặp tỷ kiên vượng đoạt, không phải là người thiên lương; tài vì mộc dục cưỡng tranh, khó tránh khỏi bị ô uế).
Can của thế có thể ẩn có thể lộ mà gặp thân cận với tỷ kiên gần gũi thân thiết nhau, vị tri của nó bị chiếm đọt, lại có thể do tỷ kiên vượng, vợ nó nhất định với người ngoài tư thông, nếu không phải vậy, thì cưới tỳ thiếp xinh đẹp làm vợ, mới tránh khỏi xấu xa đó. Ngũ hành ở bại xứ là ộc dục, lại có tên là đào hoa hàm trì sát, đều là một tiêu chuẩn đoán giống nhau.
Thần nếu vì sức mạnh mà tranh đoạt tài, có thể tài đứng ở trên nó, bị thần khác lặng lẽ chiến đấu, thân mình cùng với khí của dụng thần không tụ hội không thu góp lại , khí lực bị tản mác thì đúng với câu văn trên.
Thú thê tức nhân phục tụng, loại minh lục can; sanh tử dục biệt hiền ngu, thể hữu ngũ pháp.
(Cưới vợ do hiếu phục hay kiện tụng, loại sáu can rõ ràng; sanh con muốn phân biệt hiền ngu, bản chất có năm phương pháp).
Nhật thần bính tý, đinh sửu, mậu dần, tân mão, nhâm thìn, quý tỵ, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, tân mão, nhâm tuất, quý hợi.
Phạm những ngày này, phần lớn do hai việc hiếu phục và kiện tụng mà đối mặt cưỡng bức kết hôn, có thể thành thân trong vòng một trăm ngày, nhất định hai bên thông gia đột nhiên có kiện tụng hay tang phục, có thể chủ sức mạnh nhà chồng hoặc vợ, bên cha chồng hay bên cha vợ không hoà hợp, có thể không có nhà chồng hay vợ, có thể cả hai bên cha mẹ, có thể không có thê tài, có thể mệnh phụ nữ hai lần ông cô (cha mẹ chồng), nửa thật nửa giả, có mang hợp thần đào hoa, kết hôn không rõ ràng, có thể không phải là phụ nữ hiền lương, có thể là tàn phòng (căn phòng còn lại) nhập xá (vào ngôi nhà), đó là vì sáu can này nhiều trong trụ, càng khẩn (chặt chẽ) càng lạm (quá mức)
, tức là có sự nhầm lẫn giữa âm và dương. (sáu can là bính đinh mậu tân nhâm quý)
Đới đào hoa ở đế vượng, thường rước lấy phụ nữ kiện tung, hoặc nhà giàu có cũng vì vợ với tỳ thiếp tranh đấu, không phải vậy thì con cái cũng bị kiện.
Năm cách phân biệt con cái khôn ngoan hay ng* d*t,một là vợ sanh nên khắc mình là con, nam lấy thiên quan làm con, nữ lấy chánh quan làm con.
Một rằng phụ nữ lấy cái mình sanh làm con, dẫn đến trụ giờ gặp được sanh vượng là tốt đẹp, noi theo các vị thần còn lại hội hợp hữu tình mới quý.
Một rằng mình với vợ cùng hoá, như người giáp lấy thổ làm con, dẫn đến khảo cứu ở trụ giờ. Một là hoá khí chỗ mình sanh làm con, như người giáp lấy kim làm con, dẫn đến chọn lấy dụng thần ở trụ giờ. Một là khí của bản thân mình sanh tức là con, như người giáp lấy hoả làm con, dẫn đến nghiên cứu tỉ mỉ ở trụ giờ. Một là thiên quan hay chánh quan hữu tình, dẫn đến trụ giờ hoá đắc thành tượng, tức là con giỏi, khí của nạp âm trường sanh tán trợ (giúp đỡ) càng tuyệt diệu.
Một rằng như lấy mình sanh làm con, tương tự như dùng thuỷ một, hoả hai, mộc ba, kim bốn, thổ năm.
Ác toàn thì nhật, khinh tắc tử ảo thê ngu, trọng tắc không phòng chỉ ảnh.
(Ác tập hợp ở ngày giờ: nhẹ thì con bướng bỉnh vợ ng* d*t; nặng thì phòng trống một mình).
Vong kiếp, cô quả, tam hình, nếu ba sát hội tụ mà có người cứu giúp, ở trụ giờ con nhiều mà không thọ, ở trụ ngày vợ dốt nát hoặc không hoà hợp, nếu phạm chồng chất sức mạnh mà không có cứu giúp, cô độc và nghèo hèn, một đời phòng không chờ đợi.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十九
坎离交会,老醉秦楼,象类清幽,幼登仙府。
子午上有干神钩合,如壬午戊子之类,戊合子癸,壬合午丁,或丁合壬,癸合戊,水火有情,至老迷恋花酒,清则风流,浊则卑贱。
五行之合至清成象,况引于幽洁之地,贵神归一不杂气纯清远,别无死绝等件恶神相犯,准上文。
论文学业特精英,长生德秀,殢酒惜花偏落魄,身旺咸池。
长生帝旺四贵等处,德秀二神,文学才能艺术,特达精专,出类拔萃人也。殢酒惜花,日干旺于咸池之上,一也。本身自旺,受沐浴之神克者,二也。本身太旺,沐浴更多,福气散漫不聚,三也。
妻遇比肩旺夺,非是良人,财因沐浴强争,难辞淫浊。
妻干或隐或显,而切切遇比肩,相近相亲,其位被占夺,又或比肩乘旺,其妻必与外人私通,不然,娶婢妾媚枝为婚,方免此丑。五行败处为沐浴,又名桃花咸池煞,一、例同断。
其神若来乘势争财,或财立其上,被他神所窃战者,我身兼与用神之气,不聚不敛,精神散漫,准上文。
娶妻却因服讼,类明六干,生子欲别贤愚,体有五法。
日辰丙子、丁丑、戊寅、辛卯、壬辰、癸巳、丙午、丁未、戊申、辛酉、壬戌、癸亥。
犯此日,多因孝服官讼二事,临逼结婚,或成亲百日内,决主两处亲家,忽招讼服,或主外家力,舅氏不谐,或无外家,或两重父母,或无妻财,或女命两重翁姑,半真半假,带合神桃花,花烛不明,或非良妇,或残房入舍,此六干柱中多者,尤紧尤滥,即阴错阳差也。
带桃花在帝旺,多惹妇人官讼,或豪家亦因妻党婢妾致争,否则儿女官司也。
别子贤愚五法,一以妻生而克我者为子,男以偏官为子,女以正官为子。
一云女以我生为子,引至时上,逢生旺则好,仍以余神会合有情方贵。
一云我与妻同化者,如甲人以土为子,引至时上考究。一化气所生者为子,如甲人以金为子,引至时上取用。一我之本气所生者即子,如甲人以火为子,引至时上详究。一但是个偏官正官有情,引至时上化得成象,即好子,纳音长生之气,赞助妙甚。
一云:如以我生为子,类以水一、火二、木三、金四、土五、取之。
恶攒时日,轻则子拗妻愚,重则空房只影。
亡劫孤寡三刑,若三煞并而有救者,时上子多不考,日上妻愚拙或不和,若重犯力猛无救,孤独贫寒,一生自守空房。
.
ngọc tỉnh áo quyết thập cửu
Khảm li giao hội, lão túy tần lâu; tượng loại thanh u, ấu đăng tiên phủ.
(Khảm ly gặp nhau, lão già say trên lầu Tần; tượng loại thanh nhã, trẻ con đã đến cõi tiên).
Can thần ở trên tý ngọ đều hợp như nhâm ngọ mậu tý các loại, mậu hợp quý trong tý, nhâm hợp đinh trong ngọ, có thể đinh hợp nhâm, quý hợp mậu, thuỷ hoả hữu tình, đến già còn ham thích sắc đẹp và rượu, thanh thì phong lưu, trọc thì thấp hèn.
Hợp của ngũ hành cực kỳ rõ ràng vả thành tượng, huống chi dẫn đến đất thanh nhã trong sạch, quý thần hợp nhất không hỗn tạp, khí thuần thanh sâu xa, đặc biệt không có các dữ kiện tử tuyệt ác thần xâm phạm nhau, thì đúng với câu văn trên.
Luận văn học nghiệp đặc tinh anh, trường sanh đức tú, thế tửu tích hoa thiên lạc phách, thân vượng hàm trì.
(Xét định văn học thành quả tinh hoa đặc biệt, trường sanh đức tú; mê rượu quý sắc một mình mất cả vía, thân vượng hàm trì).
Trường sanh, đế vượng, bốn quý các xứ, hai thần đức tú, văn học có tài năng nghệ thuật, giỏi về các kỹ năn đặc biệt, người có tài năng đặc xuất, vượt hẳn mọi người. Thế tửu tích hoa (mê rượu quý sắc đẹp), can ngày vượng ở trên hàm trì là một. Bản thân tư vượng bị thần mộc dục khắc là hai. Bản thân quá vượng, mộc dục càng nhiều , phúc khí tản mác không tụ là ba.
Thê ngộ tỉ kiên vượng đoạt, phi thị lương nhân; tài nhân mộc dục cường tranh, nan từ dâm trọc.
(Thê gặp tỷ kiên vượng đoạt, không phải là người thiên lương; tài vì mộc dục cưỡng tranh, khó tránh khỏi bị ô uế).
Can của thế có thể ẩn có thể lộ mà gặp thân cận với tỷ kiên gần gũi thân thiết nhau, vị tri của nó bị chiếm đọt, lại có thể do tỷ kiên vượng, vợ nó nhất định với người ngoài tư thông, nếu không phải vậy, thì cưới tỳ thiếp xinh đẹp làm vợ, mới tránh khỏi xấu xa đó. Ngũ hành ở bại xứ là ộc dục, lại có tên là đào hoa hàm trì sát, đều là một tiêu chuẩn đoán giống nhau.
Thần nếu vì sức mạnh mà tranh đoạt tài, có thể tài đứng ở trên nó, bị thần khác lặng lẽ chiến đấu, thân mình cùng với khí của dụng thần không tụ hội không thu góp lại , khí lực bị tản mác thì đúng với câu văn trên.
Thú thê tức nhân phục tụng, loại minh lục can; sanh tử dục biệt hiền ngu, thể hữu ngũ pháp.
(Cưới vợ do hiếu phục hay kiện tụng, loại sáu can rõ ràng; sanh con muốn phân biệt hiền ngu, bản chất có năm phương pháp).
Nhật thần bính tý, đinh sửu, mậu dần, tân mão, nhâm thìn, quý tỵ, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, tân mão, nhâm tuất, quý hợi.
Phạm những ngày này, phần lớn do hai việc hiếu phục và kiện tụng mà đối mặt cưỡng bức kết hôn, có thể thành thân trong vòng một trăm ngày, nhất định hai bên thông gia đột nhiên có kiện tụng hay tang phục, có thể chủ sức mạnh nhà chồng hoặc vợ, bên cha chồng hay bên cha vợ không hoà hợp, có thể không có nhà chồng hay vợ, có thể cả hai bên cha mẹ, có thể không có thê tài, có thể mệnh phụ nữ hai lần ông cô (cha mẹ chồng), nửa thật nửa giả, có mang hợp thần đào hoa, kết hôn không rõ ràng, có thể không phải là phụ nữ hiền lương, có thể là tàn phòng (căn phòng còn lại) nhập xá (vào ngôi nhà), đó là vì sáu can này nhiều trong trụ, càng khẩn (chặt chẽ) càng lạm (quá mức)
, tức là có sự nhầm lẫn giữa âm và dương. (sáu can là bính đinh mậu tân nhâm quý)
Đới đào hoa ở đế vượng, thường rước lấy phụ nữ kiện tung, hoặc nhà giàu có cũng vì vợ với tỳ thiếp tranh đấu, không phải vậy thì con cái cũng bị kiện.
Năm cách phân biệt con cái khôn ngoan hay ng* d*t,một là vợ sanh nên khắc mình là con, nam lấy thiên quan làm con, nữ lấy chánh quan làm con.
Một rằng phụ nữ lấy cái mình sanh làm con, dẫn đến trụ giờ gặp được sanh vượng là tốt đẹp, noi theo các vị thần còn lại hội hợp hữu tình mới quý.
Một rằng mình với vợ cùng hoá, như người giáp lấy thổ làm con, dẫn đến khảo cứu ở trụ giờ. Một là hoá khí chỗ mình sanh làm con, như người giáp lấy kim làm con, dẫn đến chọn lấy dụng thần ở trụ giờ. Một là khí của bản thân mình sanh tức là con, như người giáp lấy hoả làm con, dẫn đến nghiên cứu tỉ mỉ ở trụ giờ. Một là thiên quan hay chánh quan hữu tình, dẫn đến trụ giờ hoá đắc thành tượng, tức là con giỏi, khí của nạp âm trường sanh tán trợ (giúp đỡ) càng tuyệt diệu.
Một rằng như lấy mình sanh làm con, tương tự như dùng thuỷ một, hoả hai, mộc ba, kim bốn, thổ năm.
Ác toàn thì nhật, khinh tắc tử ảo thê ngu, trọng tắc không phòng chỉ ảnh.
(Ác tập hợp ở ngày giờ: nhẹ thì con bướng bỉnh vợ ng* d*t; nặng thì phòng trống một mình).
Vong kiếp, cô quả, tam hình, nếu ba sát hội tụ mà có người cứu giúp, ở trụ giờ con nhiều mà không thọ, ở trụ ngày vợ dốt nát hoặc không hoà hợp, nếu phạm chồng chất sức mạnh mà không có cứu giúp, cô độc và nghèo hèn, một đời phòng không chờ đợi.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀十九
坎离交会,老醉秦楼,象类清幽,幼登仙府。
子午上有干神钩合,如壬午戊子之类,戊合子癸,壬合午丁,或丁合壬,癸合戊,水火有情,至老迷恋花酒,清则风流,浊则卑贱。
五行之合至清成象,况引于幽洁之地,贵神归一不杂气纯清远,别无死绝等件恶神相犯,准上文。
论文学业特精英,长生德秀,殢酒惜花偏落魄,身旺咸池。
长生帝旺四贵等处,德秀二神,文学才能艺术,特达精专,出类拔萃人也。殢酒惜花,日干旺于咸池之上,一也。本身自旺,受沐浴之神克者,二也。本身太旺,沐浴更多,福气散漫不聚,三也。
妻遇比肩旺夺,非是良人,财因沐浴强争,难辞淫浊。
妻干或隐或显,而切切遇比肩,相近相亲,其位被占夺,又或比肩乘旺,其妻必与外人私通,不然,娶婢妾媚枝为婚,方免此丑。五行败处为沐浴,又名桃花咸池煞,一、例同断。
其神若来乘势争财,或财立其上,被他神所窃战者,我身兼与用神之气,不聚不敛,精神散漫,准上文。
娶妻却因服讼,类明六干,生子欲别贤愚,体有五法。
日辰丙子、丁丑、戊寅、辛卯、壬辰、癸巳、丙午、丁未、戊申、辛酉、壬戌、癸亥。
犯此日,多因孝服官讼二事,临逼结婚,或成亲百日内,决主两处亲家,忽招讼服,或主外家力,舅氏不谐,或无外家,或两重父母,或无妻财,或女命两重翁姑,半真半假,带合神桃花,花烛不明,或非良妇,或残房入舍,此六干柱中多者,尤紧尤滥,即阴错阳差也。
带桃花在帝旺,多惹妇人官讼,或豪家亦因妻党婢妾致争,否则儿女官司也。
别子贤愚五法,一以妻生而克我者为子,男以偏官为子,女以正官为子。
一云女以我生为子,引至时上,逢生旺则好,仍以余神会合有情方贵。
一云我与妻同化者,如甲人以土为子,引至时上考究。一化气所生者为子,如甲人以金为子,引至时上取用。一我之本气所生者即子,如甲人以火为子,引至时上详究。一但是个偏官正官有情,引至时上化得成象,即好子,纳音长生之气,赞助妙甚。
一云:如以我生为子,类以水一、火二、木三、金四、土五、取之。
恶攒时日,轻则子拗妻愚,重则空房只影。
亡劫孤寡三刑,若三煞并而有救者,时上子多不考,日上妻愚拙或不和,若重犯力猛无救,孤独贫寒,一生自守空房。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#372
Gửi vào 26/10/2024 - 09:21
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết nhị thập
Nhận đái mộ hình, cát nhi thọ di phúc hậu, hung nhi phá mạo đan y.
(Nhận mang theo mộ hình, nếu tốt thì thọ lắp đầy phúc dày, còn xấu thì phá mũ và áo đơn).
Dương nhận và phi nhận phạm mộ hình hai vị trí, phải có hoa cái để bắt đầu tốt, cùng với can đầu của sửu mùi là quý, không thể nào không hưởng phúc. Cùng với nhật chủ nên hoà hợp, nếu không có hoa cái, mang theo không vong tử tuyệt, là người phá bại, nghèo khó không nơi nương tựa, cùng với nhật chủ không hoà hợp cũng như vậy.
Nhật phạm ác thần hữu trợ, tái hôn nữ thê; thì lâm hung sát nhưng không, tu chiêu nghĩa tử.
(Ngày phạm ác thần mà có trợ giúp, lại cưới vợ trẻ; giờ gặp phải hung sát nhưng không vong, phải tìm con nuôi).
Ngày phạm năm, vong kiếp, đại bại, phá toái, lâm quan, đế vượng khắc vợ, tức là có can âm sanh trợ nhật chủ, nhất định là lại cưới vợ là thiếu nữ trẻ tuổi, hoặc là nàng hầu nhỏ tuổi làm vợ, nếu có mang theo lộc quý củng trợ, xinh đẹp và có tài năng.
Lại nói rằng: nếu lộc mã quý thực củ năm lục hợp ở trụ ngày, không chỉ cưới vợ đẹp, mà còn được tài sản của vợ, trụ giờ có mang theo hung sát, lạc không vong nhất định là không có con, nếu có thực thần hỗ trợ, hoặc trụ ngày vứt bỏ xung khắc nhất định là có con nuôi.
Thì nhật hàm trì đái sát, phụ mệnh ác vong; hưu tù đại bại lâm không, thê gia vô trạch.
(Ngày giờ hàm trì có mang theo sát, mệnh cha chết ác; hưu tù đại bại gặp phải không vong, bên vợ không có nhà).
Hàm trì ở ngày giờ là sát của năm chủ cha chết độc ác, có thêm ác sát càng không sai, như kim chủ đao binh, hoả chủ tai ách bởi lửa, thuỷ chủ tai ách về sông nước, thổ chủ bị ôn dịch, mộc chủ bị đòn roi, lấy năm tượng mà suy xét.
Lại nói rằng: hàm trì nếu vượng, phạm hoa cái, phá toái cùng với âm dương khuyết điểm ngoài ý muốn, bởi vì vợ xấu hổ, hoặc ly dị, nếu nhà giàu sang thì vợ với cha mẹ anh em thân thuộc trach chấp nội bộ.
Lại nói rằng: hàm trì dương nhận, thường tính toán và nhiều tài năng, cũng có bệnh cũ từ trước.
Trao đổi nhau ở ngày giờ rất chặt chẽ, trụ ngày là trạch thần lún bởi khí lực của vợ, cùng lúc đích sát, thập ác đại bại của ngày, hưu phế lại lạc không vong, như tuần giáp dần, quý là lộc ở tý bị không vong, chủ bên vợ không có miếng ngói làm cơ sở.
Thai thần khắc thiết hoạnh vong, kị xung cục trung chi tự; phá toái không cô li tổ, nhân phạm lộc hậu chi thần.
(Thai thần khắc thiết chết bất ngờ, kỵ xung các chữ trong cục; phá toái không vong cô quả xa lìa quê tổ bởi phạm thần sau lộc).
Thai thần: là bạch hổ sát. Thuỷ ở ngọ, kim ở mão các loại, xung các chữ trong cục như thân tý thìn, địa chi quan hệ mệnh thuỷ, sợ chữ ngọ là thai thần, bạch hổ tới khắc thiết nhật chủ, hội tụ cùng dụng thần chủ bất ngờ chết đẳm máu me, lấy năm tượng mà suy xét. Sau lộc một thần, nếu quan hệ không vong, cô quả, phá toái các loại sát, nhất định đi xa quê lập thân ở nơi khác.
Chi cách hợp xung nhị phương, thử cách đa ứng tự ải; hợp kiêm hà tỉnh lưỡng vị, phạm giả vô bất nịch vong.
(Địa chi ngăn cách, hợp xung hai nơi, cách này thường ứng với tự treo cổ chết; hợp cùng lúc sông và giếng hai chỗ, người phạm không tránh khỏi chết đuối).
Tự ải sát: chính là trường hợp người tuất gặp tỵ, người tỵ gặp tuất.Nếu có mang theo kim thần, bạch hổ, vong kiếp, quỷ mộ, không vong, quan phù, đại hao, nhận sát, nhận lấy đất tử tuyệt tới khắc bản thân, phế bỏ dụng thần, phạm thái tuế, hình đại vận thì đúng với câu văn trên. Bính tý thuỷ vượng, quý mùi đông tỉnh (giếng phương đông), quý sửu tam hà (ba con sông), đới hàm trì, kim thần, dương nhận, vong thần thường chủ chết trong nước. Lại nói rằng đới vong thần gây ra mầm mối, bợi vì rượu và sắc đẹp mà rước lấy biến cố.
Nhĩ hội mục manh, dụng thần hãm thiết, nhi tử bại khắc thân; yêu đà túc bả , phúc khí suy đồi, nhi nhận sát hình chủ.
(Tai điếc mắt mù, dụng thần tiêu mất, nên tử bại khắc bản thân; lưng gù chân khập khiểng, phúc khí suy đồi nên nhận sát hình nhật chủ).
Dụng thần bị các vật tử bại khắc thiết, lại gặp phải hưu phế, lệnh giờ lại bị ác thần khắc thiết bản thân thì đúng với câu văn trên. Quý khí hưu tù, lại bị ác thần khắc chế bản thân, cùng lúc lại dựa vào tử tuyệt, ác khí hiện ra, cái tốt của dụng thần chìm vào trong nước, nhận sát vẫn hình nhật chủ thì đúng với câu văn trên.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀二十
刃带墓刑,吉而寿弥福厚,凶而破帽单衣。
羊刃飞刃,犯墓刑二位,须有华盖始吉,及丑未干头贵者,未有不享福也。与日宜和,若无华盖,带空亡死绝,孤寒破败人也,与日不和,亦如此。
日犯恶神有助,再婚女妻,时临凶煞仍空,须招义子。
日犯年家,亡劫,大败破碎,临官帝旺者克妻,却有干音生助日主,必是再娶少年室女,或幼妾为妻,若带禄贵拱助者,美貌贤能。
一云:若年之禄马贵食,六合在日,不独妻秀,更主得妻财,时上带凶煞、落空亡,必主无子,若生助食神,或日去冲克者,必是螟蛉之子。
时日咸池带煞,父命恶亡,休囚大败临空,妻家无宅。
咸池在日时为岁煞,主父恶死,更加恶煞无疑,如金主刀兵,火主火厄,水主水厄,士主瘟疫,木主杖伽,以五象推之。
一云:咸池若旺,犯华盖破碎,及阴错阳差,因妻丑辱,或离异,若贵豪之家,妻父母兄弟亲属内乱。
一云:咸池阳刃,多算多能,亦有宿疾。
互换在日时紧切,日宅神,陷妻之气,兼的煞十恶大败之日,休废又落空亡,如甲寅旬,癸禄居子为空神,主妻家无瓦片根基。
胎神克窃横亡,忌冲局中之字,破碎空孤离祖,因犯禄后之神。
胎神,白虎煞也。水午金卯之类,冲局中字,如申子辰,支系水命,怕午字之胎神,白虎来克窃日主,并用神主血光横死,以五象推之,禄后一辰,若系空亡孤寡破碎等煞,定主出祖相别立。
支隔合冲二方,此格多应自缢,合兼河井两位,犯者无不溺亡。
自隘煞,乃戌人巳,巳人戌之例。若带金神白虎亡劫鬼墓空亡,官符大耗刃煞,领其死绝之地,来克其身废其用神,犯其太岁,刑其大运,准上文。丙子旺水,癸未东井,癸丑三河,带咸池金神辛刃亡神,多主死于水中。一云带亡神起端,因花酒惹事。
耳聩目盲,用神陷切,而死败克身,腰驼足跛,福气衰颓,而刃煞刑主。
用神被死败等物克窃,又临休废,时令又被恶神克窃身者,准上文,贵气休囚,又被恶神克制本体,兼又倚托死绝,恶气出现,沈沦用神之吉,刃煞仍刑我日主者,准上文。
.
ngọc tỉnh áo quyết nhị thập
Nhận đái mộ hình, cát nhi thọ di phúc hậu, hung nhi phá mạo đan y.
(Nhận mang theo mộ hình, nếu tốt thì thọ lắp đầy phúc dày, còn xấu thì phá mũ và áo đơn).
Dương nhận và phi nhận phạm mộ hình hai vị trí, phải có hoa cái để bắt đầu tốt, cùng với can đầu của sửu mùi là quý, không thể nào không hưởng phúc. Cùng với nhật chủ nên hoà hợp, nếu không có hoa cái, mang theo không vong tử tuyệt, là người phá bại, nghèo khó không nơi nương tựa, cùng với nhật chủ không hoà hợp cũng như vậy.
Nhật phạm ác thần hữu trợ, tái hôn nữ thê; thì lâm hung sát nhưng không, tu chiêu nghĩa tử.
(Ngày phạm ác thần mà có trợ giúp, lại cưới vợ trẻ; giờ gặp phải hung sát nhưng không vong, phải tìm con nuôi).
Ngày phạm năm, vong kiếp, đại bại, phá toái, lâm quan, đế vượng khắc vợ, tức là có can âm sanh trợ nhật chủ, nhất định là lại cưới vợ là thiếu nữ trẻ tuổi, hoặc là nàng hầu nhỏ tuổi làm vợ, nếu có mang theo lộc quý củng trợ, xinh đẹp và có tài năng.
Lại nói rằng: nếu lộc mã quý thực củ năm lục hợp ở trụ ngày, không chỉ cưới vợ đẹp, mà còn được tài sản của vợ, trụ giờ có mang theo hung sát, lạc không vong nhất định là không có con, nếu có thực thần hỗ trợ, hoặc trụ ngày vứt bỏ xung khắc nhất định là có con nuôi.
Thì nhật hàm trì đái sát, phụ mệnh ác vong; hưu tù đại bại lâm không, thê gia vô trạch.
(Ngày giờ hàm trì có mang theo sát, mệnh cha chết ác; hưu tù đại bại gặp phải không vong, bên vợ không có nhà).
Hàm trì ở ngày giờ là sát của năm chủ cha chết độc ác, có thêm ác sát càng không sai, như kim chủ đao binh, hoả chủ tai ách bởi lửa, thuỷ chủ tai ách về sông nước, thổ chủ bị ôn dịch, mộc chủ bị đòn roi, lấy năm tượng mà suy xét.
Lại nói rằng: hàm trì nếu vượng, phạm hoa cái, phá toái cùng với âm dương khuyết điểm ngoài ý muốn, bởi vì vợ xấu hổ, hoặc ly dị, nếu nhà giàu sang thì vợ với cha mẹ anh em thân thuộc trach chấp nội bộ.
Lại nói rằng: hàm trì dương nhận, thường tính toán và nhiều tài năng, cũng có bệnh cũ từ trước.
Trao đổi nhau ở ngày giờ rất chặt chẽ, trụ ngày là trạch thần lún bởi khí lực của vợ, cùng lúc đích sát, thập ác đại bại của ngày, hưu phế lại lạc không vong, như tuần giáp dần, quý là lộc ở tý bị không vong, chủ bên vợ không có miếng ngói làm cơ sở.
Thai thần khắc thiết hoạnh vong, kị xung cục trung chi tự; phá toái không cô li tổ, nhân phạm lộc hậu chi thần.
(Thai thần khắc thiết chết bất ngờ, kỵ xung các chữ trong cục; phá toái không vong cô quả xa lìa quê tổ bởi phạm thần sau lộc).
Thai thần: là bạch hổ sát. Thuỷ ở ngọ, kim ở mão các loại, xung các chữ trong cục như thân tý thìn, địa chi quan hệ mệnh thuỷ, sợ chữ ngọ là thai thần, bạch hổ tới khắc thiết nhật chủ, hội tụ cùng dụng thần chủ bất ngờ chết đẳm máu me, lấy năm tượng mà suy xét. Sau lộc một thần, nếu quan hệ không vong, cô quả, phá toái các loại sát, nhất định đi xa quê lập thân ở nơi khác.
Chi cách hợp xung nhị phương, thử cách đa ứng tự ải; hợp kiêm hà tỉnh lưỡng vị, phạm giả vô bất nịch vong.
(Địa chi ngăn cách, hợp xung hai nơi, cách này thường ứng với tự treo cổ chết; hợp cùng lúc sông và giếng hai chỗ, người phạm không tránh khỏi chết đuối).
Tự ải sát: chính là trường hợp người tuất gặp tỵ, người tỵ gặp tuất.Nếu có mang theo kim thần, bạch hổ, vong kiếp, quỷ mộ, không vong, quan phù, đại hao, nhận sát, nhận lấy đất tử tuyệt tới khắc bản thân, phế bỏ dụng thần, phạm thái tuế, hình đại vận thì đúng với câu văn trên. Bính tý thuỷ vượng, quý mùi đông tỉnh (giếng phương đông), quý sửu tam hà (ba con sông), đới hàm trì, kim thần, dương nhận, vong thần thường chủ chết trong nước. Lại nói rằng đới vong thần gây ra mầm mối, bợi vì rượu và sắc đẹp mà rước lấy biến cố.
Nhĩ hội mục manh, dụng thần hãm thiết, nhi tử bại khắc thân; yêu đà túc bả , phúc khí suy đồi, nhi nhận sát hình chủ.
(Tai điếc mắt mù, dụng thần tiêu mất, nên tử bại khắc bản thân; lưng gù chân khập khiểng, phúc khí suy đồi nên nhận sát hình nhật chủ).
Dụng thần bị các vật tử bại khắc thiết, lại gặp phải hưu phế, lệnh giờ lại bị ác thần khắc thiết bản thân thì đúng với câu văn trên. Quý khí hưu tù, lại bị ác thần khắc chế bản thân, cùng lúc lại dựa vào tử tuyệt, ác khí hiện ra, cái tốt của dụng thần chìm vào trong nước, nhận sát vẫn hình nhật chủ thì đúng với câu văn trên.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀二十
刃带墓刑,吉而寿弥福厚,凶而破帽单衣。
羊刃飞刃,犯墓刑二位,须有华盖始吉,及丑未干头贵者,未有不享福也。与日宜和,若无华盖,带空亡死绝,孤寒破败人也,与日不和,亦如此。
日犯恶神有助,再婚女妻,时临凶煞仍空,须招义子。
日犯年家,亡劫,大败破碎,临官帝旺者克妻,却有干音生助日主,必是再娶少年室女,或幼妾为妻,若带禄贵拱助者,美貌贤能。
一云:若年之禄马贵食,六合在日,不独妻秀,更主得妻财,时上带凶煞、落空亡,必主无子,若生助食神,或日去冲克者,必是螟蛉之子。
时日咸池带煞,父命恶亡,休囚大败临空,妻家无宅。
咸池在日时为岁煞,主父恶死,更加恶煞无疑,如金主刀兵,火主火厄,水主水厄,士主瘟疫,木主杖伽,以五象推之。
一云:咸池若旺,犯华盖破碎,及阴错阳差,因妻丑辱,或离异,若贵豪之家,妻父母兄弟亲属内乱。
一云:咸池阳刃,多算多能,亦有宿疾。
互换在日时紧切,日宅神,陷妻之气,兼的煞十恶大败之日,休废又落空亡,如甲寅旬,癸禄居子为空神,主妻家无瓦片根基。
胎神克窃横亡,忌冲局中之字,破碎空孤离祖,因犯禄后之神。
胎神,白虎煞也。水午金卯之类,冲局中字,如申子辰,支系水命,怕午字之胎神,白虎来克窃日主,并用神主血光横死,以五象推之,禄后一辰,若系空亡孤寡破碎等煞,定主出祖相别立。
支隔合冲二方,此格多应自缢,合兼河井两位,犯者无不溺亡。
自隘煞,乃戌人巳,巳人戌之例。若带金神白虎亡劫鬼墓空亡,官符大耗刃煞,领其死绝之地,来克其身废其用神,犯其太岁,刑其大运,准上文。丙子旺水,癸未东井,癸丑三河,带咸池金神辛刃亡神,多主死于水中。一云带亡神起端,因花酒惹事。
耳聩目盲,用神陷切,而死败克身,腰驼足跛,福气衰颓,而刃煞刑主。
用神被死败等物克窃,又临休废,时令又被恶神克窃身者,准上文,贵气休囚,又被恶神克制本体,兼又倚托死绝,恶气出现,沈沦用神之吉,刃煞仍刑我日主者,准上文。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#373
Gửi vào 28/10/2024 - 12:30
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết nhị thập nhất
Quỷ khiếu ứng tri ác yêu; bổn khuy phi chỉ bần hàn.
(Quỷ khiếu cần phải biết là ác yểu; bổn khuy không chỉ nghèo hèn).
Quỷ khiếu: như người giáp gặp canh, canh gặp bính, quay lại khắc nhau các loại, có tân hợp bính, mới có thể tham hợp vong khắc.
Lại nói rằng: trước tiên hỏi ngày, sau mới hỏi năm, cách này rất quan trọng. Bổn khuy: chính là hung thần làm thành bè nhóm, khắc khí của ngày, hại can của năm, cho nên nghèo khó không tránh khỏi chết trẻ.
Thiên địa cụ bao tàng chi đức; phong lôi diêu kích liệt chi thanh.
(Trời đất chứa đựng đức hạnh; tiếng gió và sấm vang xa mãnh liệt).
Hai chữ thân hợi, rõ ràng có sức mạnh, dậu tuất là dụng thần đạt được cái mình muốn, đúng là hợp với cách này.
Lại nói rằng: thân hợi không lộ ra chi thần, dự trước hai vị trí kề bên có quý khí thì thể cục không tầm thường, hai vị trí mão dậu trong có quý khí hư củng trong trụ, tuế vận đối xung, nơi không vong nhất định có khả năng phát triễn vượt trội.
Lại nói rằng: củng kề bên chổ ẩn núp, lại e sợ hình xung quá bức bách, quý khí bị tan mất. củng trong trụ, tuế vận đối xung, nơi không vong nhất định có khả năng phát triễn vượt trội.
Lại nói rằng: củng kề bên chổ ẩn núp, lại e sợ hình xung quá bức bách, quý khí bị tan mất. củng trong trụ, tuế vận đối xung, nơi không vong nhất định có khả năng phát triễn vượt trội.
Lại nói rằng: củng kề bên chổ ẩn núp, lại e sợ hình xung quá bức bách, quý khí bị tan mất.
Củng tướng củng tọa tịnh củng ấn, tất thị quý nhân, cố (chăm sóc) tử cố mẫu vưu cố thân, tự phi tục khách.
(Củng tướng củng toạ hội cùng củng ấn, nhất định là quý nhân; chăm sóc con, chăm sóc mẹ càng chăm sóc bản thân, vốn không phải là người thường).
Củng tướng: cho là gốc địa chi tam hợp, như trường hợp người tý gặp thân thìn.
Củng toạ: cho là cung đối diện, như trường hợp người tý tức là ngọ.
Củng ấn: cho là vị trí chánh của ấn thụ, như trường hợp người giáp có tý sửu.
Có một thuyết khác: ấn chính là khố.
Lại nói rằng: ấn là can của khố, đồng thời quý khí của tài quan hữu dụng, hoặc nơi tài quan sanh vượng, đều là hạnh vận phú quý. Sanh mình là mẹ, mình sanh là con, cùng lúc tự thân mình nửa là ba chỗ đều không bị tổn hại, qua lại trông nom có phúc lành giúp đỡ, là ngưốic phúc vậy.
Tam vị kì bảo dụng quan thần, lưu phương anh liệt; tứ can thiên ất lâm hoa cái, khoáng thế thanh cao.
(Tam bảo quý hiếm dụng quan,lưu tiếng thơm anh liệt; bốn can thiên ất gặp hoa cái, đời thanh thản thanh cao).
Giờ ngồi ở tam hợp, gọi là kỳ bảo (báu vật quý hiếm), nếu có quan tinh ở trên, không bị phá không có kỵ thần, tiếng thơm của công lao được lưu truyền không đứt.
Phương pháp xưa không chỉ luận can năm và ngày, nhân có quý của thiên ất thì tốt, can tháng và giờ có quý nhân cưởi lên càng thêm tốt, huống chi bổn mệnh gặp hoa cái, một đời không chỉ không bị hung xấu, cũng là quý nhân thanh cao vậy.
Tứ diện tuyên minh vượng tướng, nội đình thực lộc; nhị sát nhược lâm giáp củng, sa tắc dương uy.
(Bốn phía hết sức rõ ràng vượng tướng, bỗng lộc trong nội cung; hai sát nếu kề bên và củng, cát che lấp sức mạnh được thể hiện).
Thanh long, huyền vũ, chu tước, câu trận là tứ diện (bốn phía), can lộc quy nguyên, mỗi can chiếm một phía, vượng tướng như giáp ất gặp dần mão là thanh long, bính đinh gặp tỵ ngọ là chu tước các loại, thì đúng với câu văn trên. Vong thần, kiếp sát hai vị đều rảnh rang, tức là mỗi vị đều có củng giáp. Đúng với câu văn trên.
Kim thủy văn hoa nhi bạt tụy; thổ kim hoàng phú dĩ thành cao.
(Kim thuỷ t*o nhã mà tài năng xuất chúng; thổ kim giàu có lớn nên tôn quý).
Hai tượng kim thuỷ nếu trong sạch không có khí khác làm hỗn tạp nguồn của nó, văn thải anh hoa (tiếng tốt về văn chương), vượt hẳn mọi người. Kim thổ sanh nhau, nếu mỗi thứ không nghiêng về một bên, được khí trung hoà, giống như vật dần lớn lên, sanh ý càng cao, nếu tượng như vậy, đáng coi là cách phú quý, hoặc quý khí hoà hợp, cũng chủ bỗng lộc của công danh.
Vinh diệu giả mộc hỏa hữu phát nguyên; thanh quý giả thủy mộc đa thuận tự.
(Người vẻ vang mộc hoả có nguồn hiện ra; người thanh quý thuỷ mộc thường thuận lợi).
Mộc hoả dễ tươi sáng, có nguồn gốc có chủ trương trong trụ, hoặc dẫn đến tuế vận, cho nên có khả năng giúp dẫn đến vẻ vang, vì thế người không biết vốn là có căn khí, chỉ biết mộc hoả lộ ra trên vận, thuỷ mộc thanh kỳ (trong sạch đặc biệt), nếu khí của nó không nghiêng về một bên, thuận theo trợ giúp sanh vượng, nhất định là gánh vác nơi gom tụ nhiều sự vật rõ ràng, hoặc đài gián (quan chức can ngăn).
Đăng kim bộ ngọc, quý nhân đầu thượng đái quan tinh; phụ cấp đam đăng, học đường quán trung phùng dịch mã.
(Trèo lên vàng bước trên ngọc, quý nhân đội quan tinh trên dầu; gánh hòm sách vác dù long, nơi chỗ học đường gặp dịch mã).
Trên đầu thiên ất có quan tinh lộ ra, cho là quan tinh ngồi chỗ quý, chủ cao quý. Học đường chính là vị trí vượng ở nhật chủ, học quán là nơi sanh vượng của quan tinh, vị trí của lâm quan cũng đồng chọn lấy để dùng, gặp dịch mã ở trong không có quý khí lắm, tài học trống rỗng không thành tựu, tức là bước vào quan trường, cũng phải chạy vạy bôn ba trên đường, lạc không vong càng thêm tệ.
Hàn uyển tiêu danh, định bẩm can khôn thụy khí (điềm lành); vi viên bỉnh chánh, ứng củng tý ngọ đoan môn.
(Hàn uyền đề tên, nhất định nhận khí lành của càn khôn; vi viên cầm quyền, ứng củng tý ngọ đoan môn)
Hai nơi dần tỵ có lực, có thể hợp hơi thân là càn khôn, lại có thêm tam hợp củng: tý thìn có khả năng cũng thân, mão mùi có khả năng củng hợi, nếu không hỗn tạp, thân hợi lợi dụng quý khí của mình, nhất định là xuất thai chi tạo (出台之造). Hai chỗ tý ngọ hoặc chánh củng, hoặc có tam hợp ngoại củng, giống như có quý khí tụ lại ở trên, học giả có công lao, không ai sánh bằng.
Sửu hợi củng tý, mùi tỵ củng ngọ là chánh củng; thân thìn củng tý, dần tuất củng ngọ là ngoại củng.
(1- Về nhà Đường 唐 hay trồng tử vi ở trung thư tỉnh 中書省 (sảnh trung thư), nên cũng gọi trung thư tỉnh là tử vi tỉnh 紫薇省. Nhà Minh 明 đổi làm ti bố chánh, cho nên gọi bố chánh ti 布政司 là vi viên 薇垣.)
(2- Cửa chính phía nam cung điện hoặc kinh thành gọi là đoan môn 端門.)
Khôi cương tài phùng giáp quý, phong hiến đề hình, long hổ đắc dĩ chuyên chức, ngọc đường bái tương.
(Tài năng của khôi cương gặp hay kề bên quý, quan coi việc hình án; long hổ tập trung chức vụ, nơi cung diện nhận mệnh làm tể tướng).
Hai nơi thìn tuất, gặp hay kề bên quý là quan coi việc hình án, nghĩa là có quyền lực để phấn phát. Như nhâm quý gặp tỵ mão củng thìn, bính đinh gặp dậu hợi củng tuất. Lại thêm khôi cương hiện rõ ràng, tụ quý khí lại thì đoán giống ở trên, hai chỗ thìn dần nếu gặp chánh củng hay ngoại củng, có quý khí cát thần tụ họp ở trên nó thì càng tuyệt diệu. Hợp cách này, hoặc gặp dần thìn đắc khí tụ quý vượng tướng hỗ trợ, không bị xung hình khắc hại, nhưng vẫn gặp tốt lành ở mão, đoán giống ở trên.
Âm dương thiên dụng, quý sùng phấn cực phẩm chi tôn; mão dậu chánh môn, quyền phụ lĩnh ngoại phiên chi trấn.
(Âm dương riêng dùng, quý coi trọng hăng hái rất đáng tôn kính; mão dậu chánh môn, sức mạnh phụ đốc suất canh giữ ngoại biên).
Thiên âm thiên dương: khí của nó phần nhiều là phấn chấn, gió thổi sấm sét mãnh liệt, quý khí nếu tập trung, vượng tướng lực lượng đột nhiên tiến đến cấp hạng cao nhất, bởi thiên khí ưa cạnh tranh, không chịu khuất tất, anh hùng mạnh mẽ, thiên quan dễ phát động, chỉ là rút lui nhanh chóng, có thể không phải là vận mệnh, nếu là chánh quan sẽ yên ổn, thuận theo phận mà đề bạt, không có quyền sanh sát. Mão dậu chính là cửa ra vào của nhật nguyệt, có quý khí củng hay kề bên có hiệu quả, hợp cách này. Co1 thể hiện rõ ràng hai vị trí đó, dụng thần tụ phúc lại có sức mạnh, không bị phá, đúng với câu văn ở trên.
Tuế giá lộc mã đái tài quan, anh hùng siêu mại; quý cục nhật thì thừa đức tú, tài nghiệp tranh vanh.
(Tuế điều khiển lộc mã mang theo tài quan, anh hùng vượt trội; quý cục ngày giờ lợi dụng đức tú, thành tích của tài năng cao chót vót).
Thông thường hai vị trí lộc mã của thái tuế, nên liên quan đền tài quan của nhật chủ, làm sao không phải là anh hùng vượt trội. Hễ quý nhân cục ở ngày giờ gặp hai khí của đức và tú, hợp cách chủ thành tích của tài năng về văn chương, tài năng xuất chúng vượt qua anh hùng hào kiệt.
Dụng chuyết nhi vận phù, khô lân tể thủy; dụng cường nhi vận chuyết, khúc cảng hành chu.
(Dụng thần mộc mạc mà vận nâng đỡ, vãy khô gp85 nước; dụng thần mạnh mẽ mà vận vụng về, ngồi thuyền nơi nhánh sông khúc khuỷu).
Dụng thần sức lực vụng về hoặc có khí lực mà bị ăn trộm, hoặc ẩn tàng mà không có xung hợp, toàn là không có lợi, khó khăn trên nhưng được dẫn khí sanh phù, nhàn nhã và suôn sẻ. Dụng thần hoặc có lực, hoặc đúng thời điểm, hoặc tình hợp, nếu có trở ngại trong vận làm hỏng khí của nó, bên đông trở ngại bên tây xung đột, không khả năng điều khiển thuận lợi, cho dù có một lúc thuận lợi, nó làm gì được.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀二十一
鬼啸应知恶夭,本亏非止贫寒。
鬼啸如甲人遇庚,庚遇丙,转转相克之类,有辛合其丙,方可贪合亡克。
一云:先问日,后问年,此格最紧,本亏,乃凶神作党,克日家之气,害年之干,所以贫难少亡不免。
天地具包藏之德,风雷遥激烈之声。
申亥二字,明有力量,酉戌用神得所,正合此格。
一云:申亥不露支神,虚夹二位,有贵气者,体局不凡,卯巳二位,内有贵气,柱中虚拱,岁运对冲,空处必能变化发越。
一云:拱夹隐处,又恐刑冲太迫,走了贵气。
拱将拱座并拱印,必是贵人,顾子顾母尤顾身,自非俗客。
拱将,谓本支三合,如子人见申辰之例。
拱座,谓对宫,如子人即午之例。
拱印,谓印绶正位,如甲人子丑之例。
一说:印乃库也。
又云:印即干库,兼若财官贵气有用,或财官生旺之乡,皆富贵造化,生我者为母,我生者为子,兼自身三位,俱无损坏,往来顾盼有福益者,为有福人也。
三位奇宝用官神,流芳英烈,四干天乙临华盖,旷世清高。
时座三合,谓之奇宝,若官星居上,无破无忌,世代不绝芳名勋业人也。
古法不独论岁日之干,乘天乙之贵为吉,月时干有贵人乘者,更妙,况临本命华盖,生平不止无凶,亦清高奇贵人也。
四面宣明旺相,内廷食禄,二煞若临夹拱,沙塞扬威。
青龙:元武、朱雀、勾陈为四面,干禄归元,各占方位,旺相,如甲乙临寅卯为青龙,丙丁临巳午,为朱雀之类,准上文。亡神劫煞,二位俱空闲,而却各有拱夹者。
准上文。
金水文华而拔萃,土金皇富以成高。
金水二象,若清无其余之气,混浊其源者,文彩英华,出类之格,金土相生,若各无偏倚,得中和之气者,似物渐长,生意益高,如此之象,当作富贵之格,或贵气和协,亦主功名食禄。
荣耀者木火有发源,清贵者水木多顺序。
木火易于焕发,有来处根源,柱中生意,或引岁运,故能扶引而荣耀,所以人不知元有根气,但知运上木火透发耳,水木清奇,若其气不偏倚,顺扶生旺带贵者,必为斡苑清要,或台谏。
登金步玉,贵人头上带官星,负笈担簦,学堂馆中逢驿马。
天乙头上有官星显露,谓之官星坐贵,主贵。学堂乃日主上旺之位,学馆为官星生旺之方,临官之位亦同取用,遇驿马在中,无甚贵气者,空有才学无成,即入仕途,亦多奔走道路,落空亡更甚。
翰苑标名,定禀乾坤瑞气,薇垣秉政,应拱子午端门。
寅巳二位有力,能合亥申乾坤,又有三合拱者,子辰能拱申,卯未能拱亥,若无杂,申亥乘其贵气,必为出台之造矣。子午二位或有正拱,或有三合外拱,如有贵气集上,勋业名家,人所未及。
丑亥拱子,未已拱午,为正,申辰拱子,寅戌拱午为外。
魁罡才逢夹贵,风宪提刑,龙虎得以专职,玉堂拜相。
辰戌二位,逢夹贵为风宪提刑者,谓有威权振作也。如壬癸逢巳卯拱辰,丙丁逢酉亥拱戌是也。又明见魁罡,重集贵气,同前断,辰寅二位,若遇正拱外拱,有贵气吉神聚其上者妙。合此格,或见寅辰得气集贵,旺相扶持,无冲刑克害,仍得卯处有吉,同前断。
阴阳偏用,贵崇奋极品之尊,卯酉正门,权辅领外藩之镇。
偏阴偏阳,其气多是奋发,风飞雷厉,贵气若专,旺相力量骤进极品者多,盖偏气好争,挺然不屈,雄豪力大,偏官易于起发,但是退速,或非命尔,若正官则稳,随分迁擢,无生杀之权,卯酉乃日月出入之门户,有贵气拱夹得用者,合此。或明见此二位,用神集福有力,无破者,准上文。
岁驾禄马带财官,英雄超迈,贵局日时乘德秀,才业峥嵘。
凡太岁禄马二位,宜系日主财官居上,岂非英雄超迈,凡贵人局,在日时见德秀二气者,合主文章才业,大器秀拔英杰之人也。
用拙而运扶,枯鳞济水,用强而运拙,曲港行舟。
用神力拙,或有气而被克窃,或隐藏而无冲合,纯而不利,连上却引生扶之气,悠然畅意矣。用神或有力,或得时,或情合,若运中阻坏其气者,东碍西撞,不能顺驾,、纵有一时风便,其奈何也。
.
ngọc tỉnh áo quyết nhị thập nhất
Quỷ khiếu ứng tri ác yêu; bổn khuy phi chỉ bần hàn.
(Quỷ khiếu cần phải biết là ác yểu; bổn khuy không chỉ nghèo hèn).
Quỷ khiếu: như người giáp gặp canh, canh gặp bính, quay lại khắc nhau các loại, có tân hợp bính, mới có thể tham hợp vong khắc.
Lại nói rằng: trước tiên hỏi ngày, sau mới hỏi năm, cách này rất quan trọng. Bổn khuy: chính là hung thần làm thành bè nhóm, khắc khí của ngày, hại can của năm, cho nên nghèo khó không tránh khỏi chết trẻ.
Thiên địa cụ bao tàng chi đức; phong lôi diêu kích liệt chi thanh.
(Trời đất chứa đựng đức hạnh; tiếng gió và sấm vang xa mãnh liệt).
Hai chữ thân hợi, rõ ràng có sức mạnh, dậu tuất là dụng thần đạt được cái mình muốn, đúng là hợp với cách này.
Lại nói rằng: thân hợi không lộ ra chi thần, dự trước hai vị trí kề bên có quý khí thì thể cục không tầm thường, hai vị trí mão dậu trong có quý khí hư củng trong trụ, tuế vận đối xung, nơi không vong nhất định có khả năng phát triễn vượt trội.
Lại nói rằng: củng kề bên chổ ẩn núp, lại e sợ hình xung quá bức bách, quý khí bị tan mất. củng trong trụ, tuế vận đối xung, nơi không vong nhất định có khả năng phát triễn vượt trội.
Lại nói rằng: củng kề bên chổ ẩn núp, lại e sợ hình xung quá bức bách, quý khí bị tan mất. củng trong trụ, tuế vận đối xung, nơi không vong nhất định có khả năng phát triễn vượt trội.
Lại nói rằng: củng kề bên chổ ẩn núp, lại e sợ hình xung quá bức bách, quý khí bị tan mất.
Củng tướng củng tọa tịnh củng ấn, tất thị quý nhân, cố (chăm sóc) tử cố mẫu vưu cố thân, tự phi tục khách.
(Củng tướng củng toạ hội cùng củng ấn, nhất định là quý nhân; chăm sóc con, chăm sóc mẹ càng chăm sóc bản thân, vốn không phải là người thường).
Củng tướng: cho là gốc địa chi tam hợp, như trường hợp người tý gặp thân thìn.
Củng toạ: cho là cung đối diện, như trường hợp người tý tức là ngọ.
Củng ấn: cho là vị trí chánh của ấn thụ, như trường hợp người giáp có tý sửu.
Có một thuyết khác: ấn chính là khố.
Lại nói rằng: ấn là can của khố, đồng thời quý khí của tài quan hữu dụng, hoặc nơi tài quan sanh vượng, đều là hạnh vận phú quý. Sanh mình là mẹ, mình sanh là con, cùng lúc tự thân mình nửa là ba chỗ đều không bị tổn hại, qua lại trông nom có phúc lành giúp đỡ, là ngưốic phúc vậy.
Tam vị kì bảo dụng quan thần, lưu phương anh liệt; tứ can thiên ất lâm hoa cái, khoáng thế thanh cao.
(Tam bảo quý hiếm dụng quan,lưu tiếng thơm anh liệt; bốn can thiên ất gặp hoa cái, đời thanh thản thanh cao).
Giờ ngồi ở tam hợp, gọi là kỳ bảo (báu vật quý hiếm), nếu có quan tinh ở trên, không bị phá không có kỵ thần, tiếng thơm của công lao được lưu truyền không đứt.
Phương pháp xưa không chỉ luận can năm và ngày, nhân có quý của thiên ất thì tốt, can tháng và giờ có quý nhân cưởi lên càng thêm tốt, huống chi bổn mệnh gặp hoa cái, một đời không chỉ không bị hung xấu, cũng là quý nhân thanh cao vậy.
Tứ diện tuyên minh vượng tướng, nội đình thực lộc; nhị sát nhược lâm giáp củng, sa tắc dương uy.
(Bốn phía hết sức rõ ràng vượng tướng, bỗng lộc trong nội cung; hai sát nếu kề bên và củng, cát che lấp sức mạnh được thể hiện).
Thanh long, huyền vũ, chu tước, câu trận là tứ diện (bốn phía), can lộc quy nguyên, mỗi can chiếm một phía, vượng tướng như giáp ất gặp dần mão là thanh long, bính đinh gặp tỵ ngọ là chu tước các loại, thì đúng với câu văn trên. Vong thần, kiếp sát hai vị đều rảnh rang, tức là mỗi vị đều có củng giáp. Đúng với câu văn trên.
Kim thủy văn hoa nhi bạt tụy; thổ kim hoàng phú dĩ thành cao.
(Kim thuỷ t*o nhã mà tài năng xuất chúng; thổ kim giàu có lớn nên tôn quý).
Hai tượng kim thuỷ nếu trong sạch không có khí khác làm hỗn tạp nguồn của nó, văn thải anh hoa (tiếng tốt về văn chương), vượt hẳn mọi người. Kim thổ sanh nhau, nếu mỗi thứ không nghiêng về một bên, được khí trung hoà, giống như vật dần lớn lên, sanh ý càng cao, nếu tượng như vậy, đáng coi là cách phú quý, hoặc quý khí hoà hợp, cũng chủ bỗng lộc của công danh.
Vinh diệu giả mộc hỏa hữu phát nguyên; thanh quý giả thủy mộc đa thuận tự.
(Người vẻ vang mộc hoả có nguồn hiện ra; người thanh quý thuỷ mộc thường thuận lợi).
Mộc hoả dễ tươi sáng, có nguồn gốc có chủ trương trong trụ, hoặc dẫn đến tuế vận, cho nên có khả năng giúp dẫn đến vẻ vang, vì thế người không biết vốn là có căn khí, chỉ biết mộc hoả lộ ra trên vận, thuỷ mộc thanh kỳ (trong sạch đặc biệt), nếu khí của nó không nghiêng về một bên, thuận theo trợ giúp sanh vượng, nhất định là gánh vác nơi gom tụ nhiều sự vật rõ ràng, hoặc đài gián (quan chức can ngăn).
Đăng kim bộ ngọc, quý nhân đầu thượng đái quan tinh; phụ cấp đam đăng, học đường quán trung phùng dịch mã.
(Trèo lên vàng bước trên ngọc, quý nhân đội quan tinh trên dầu; gánh hòm sách vác dù long, nơi chỗ học đường gặp dịch mã).
Trên đầu thiên ất có quan tinh lộ ra, cho là quan tinh ngồi chỗ quý, chủ cao quý. Học đường chính là vị trí vượng ở nhật chủ, học quán là nơi sanh vượng của quan tinh, vị trí của lâm quan cũng đồng chọn lấy để dùng, gặp dịch mã ở trong không có quý khí lắm, tài học trống rỗng không thành tựu, tức là bước vào quan trường, cũng phải chạy vạy bôn ba trên đường, lạc không vong càng thêm tệ.
Hàn uyển tiêu danh, định bẩm can khôn thụy khí (điềm lành); vi viên bỉnh chánh, ứng củng tý ngọ đoan môn.
(Hàn uyền đề tên, nhất định nhận khí lành của càn khôn; vi viên cầm quyền, ứng củng tý ngọ đoan môn)
Hai nơi dần tỵ có lực, có thể hợp hơi thân là càn khôn, lại có thêm tam hợp củng: tý thìn có khả năng cũng thân, mão mùi có khả năng củng hợi, nếu không hỗn tạp, thân hợi lợi dụng quý khí của mình, nhất định là xuất thai chi tạo (出台之造). Hai chỗ tý ngọ hoặc chánh củng, hoặc có tam hợp ngoại củng, giống như có quý khí tụ lại ở trên, học giả có công lao, không ai sánh bằng.
Sửu hợi củng tý, mùi tỵ củng ngọ là chánh củng; thân thìn củng tý, dần tuất củng ngọ là ngoại củng.
(1- Về nhà Đường 唐 hay trồng tử vi ở trung thư tỉnh 中書省 (sảnh trung thư), nên cũng gọi trung thư tỉnh là tử vi tỉnh 紫薇省. Nhà Minh 明 đổi làm ti bố chánh, cho nên gọi bố chánh ti 布政司 là vi viên 薇垣.)
(2- Cửa chính phía nam cung điện hoặc kinh thành gọi là đoan môn 端門.)
Khôi cương tài phùng giáp quý, phong hiến đề hình, long hổ đắc dĩ chuyên chức, ngọc đường bái tương.
(Tài năng của khôi cương gặp hay kề bên quý, quan coi việc hình án; long hổ tập trung chức vụ, nơi cung diện nhận mệnh làm tể tướng).
Hai nơi thìn tuất, gặp hay kề bên quý là quan coi việc hình án, nghĩa là có quyền lực để phấn phát. Như nhâm quý gặp tỵ mão củng thìn, bính đinh gặp dậu hợi củng tuất. Lại thêm khôi cương hiện rõ ràng, tụ quý khí lại thì đoán giống ở trên, hai chỗ thìn dần nếu gặp chánh củng hay ngoại củng, có quý khí cát thần tụ họp ở trên nó thì càng tuyệt diệu. Hợp cách này, hoặc gặp dần thìn đắc khí tụ quý vượng tướng hỗ trợ, không bị xung hình khắc hại, nhưng vẫn gặp tốt lành ở mão, đoán giống ở trên.
Âm dương thiên dụng, quý sùng phấn cực phẩm chi tôn; mão dậu chánh môn, quyền phụ lĩnh ngoại phiên chi trấn.
(Âm dương riêng dùng, quý coi trọng hăng hái rất đáng tôn kính; mão dậu chánh môn, sức mạnh phụ đốc suất canh giữ ngoại biên).
Thiên âm thiên dương: khí của nó phần nhiều là phấn chấn, gió thổi sấm sét mãnh liệt, quý khí nếu tập trung, vượng tướng lực lượng đột nhiên tiến đến cấp hạng cao nhất, bởi thiên khí ưa cạnh tranh, không chịu khuất tất, anh hùng mạnh mẽ, thiên quan dễ phát động, chỉ là rút lui nhanh chóng, có thể không phải là vận mệnh, nếu là chánh quan sẽ yên ổn, thuận theo phận mà đề bạt, không có quyền sanh sát. Mão dậu chính là cửa ra vào của nhật nguyệt, có quý khí củng hay kề bên có hiệu quả, hợp cách này. Co1 thể hiện rõ ràng hai vị trí đó, dụng thần tụ phúc lại có sức mạnh, không bị phá, đúng với câu văn ở trên.
Tuế giá lộc mã đái tài quan, anh hùng siêu mại; quý cục nhật thì thừa đức tú, tài nghiệp tranh vanh.
(Tuế điều khiển lộc mã mang theo tài quan, anh hùng vượt trội; quý cục ngày giờ lợi dụng đức tú, thành tích của tài năng cao chót vót).
Thông thường hai vị trí lộc mã của thái tuế, nên liên quan đền tài quan của nhật chủ, làm sao không phải là anh hùng vượt trội. Hễ quý nhân cục ở ngày giờ gặp hai khí của đức và tú, hợp cách chủ thành tích của tài năng về văn chương, tài năng xuất chúng vượt qua anh hùng hào kiệt.
Dụng chuyết nhi vận phù, khô lân tể thủy; dụng cường nhi vận chuyết, khúc cảng hành chu.
(Dụng thần mộc mạc mà vận nâng đỡ, vãy khô gp85 nước; dụng thần mạnh mẽ mà vận vụng về, ngồi thuyền nơi nhánh sông khúc khuỷu).
Dụng thần sức lực vụng về hoặc có khí lực mà bị ăn trộm, hoặc ẩn tàng mà không có xung hợp, toàn là không có lợi, khó khăn trên nhưng được dẫn khí sanh phù, nhàn nhã và suôn sẻ. Dụng thần hoặc có lực, hoặc đúng thời điểm, hoặc tình hợp, nếu có trở ngại trong vận làm hỏng khí của nó, bên đông trở ngại bên tây xung đột, không khả năng điều khiển thuận lợi, cho dù có một lúc thuận lợi, nó làm gì được.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀二十一
鬼啸应知恶夭,本亏非止贫寒。
鬼啸如甲人遇庚,庚遇丙,转转相克之类,有辛合其丙,方可贪合亡克。
一云:先问日,后问年,此格最紧,本亏,乃凶神作党,克日家之气,害年之干,所以贫难少亡不免。
天地具包藏之德,风雷遥激烈之声。
申亥二字,明有力量,酉戌用神得所,正合此格。
一云:申亥不露支神,虚夹二位,有贵气者,体局不凡,卯巳二位,内有贵气,柱中虚拱,岁运对冲,空处必能变化发越。
一云:拱夹隐处,又恐刑冲太迫,走了贵气。
拱将拱座并拱印,必是贵人,顾子顾母尤顾身,自非俗客。
拱将,谓本支三合,如子人见申辰之例。
拱座,谓对宫,如子人即午之例。
拱印,谓印绶正位,如甲人子丑之例。
一说:印乃库也。
又云:印即干库,兼若财官贵气有用,或财官生旺之乡,皆富贵造化,生我者为母,我生者为子,兼自身三位,俱无损坏,往来顾盼有福益者,为有福人也。
三位奇宝用官神,流芳英烈,四干天乙临华盖,旷世清高。
时座三合,谓之奇宝,若官星居上,无破无忌,世代不绝芳名勋业人也。
古法不独论岁日之干,乘天乙之贵为吉,月时干有贵人乘者,更妙,况临本命华盖,生平不止无凶,亦清高奇贵人也。
四面宣明旺相,内廷食禄,二煞若临夹拱,沙塞扬威。
青龙:元武、朱雀、勾陈为四面,干禄归元,各占方位,旺相,如甲乙临寅卯为青龙,丙丁临巳午,为朱雀之类,准上文。亡神劫煞,二位俱空闲,而却各有拱夹者。
准上文。
金水文华而拔萃,土金皇富以成高。
金水二象,若清无其余之气,混浊其源者,文彩英华,出类之格,金土相生,若各无偏倚,得中和之气者,似物渐长,生意益高,如此之象,当作富贵之格,或贵气和协,亦主功名食禄。
荣耀者木火有发源,清贵者水木多顺序。
木火易于焕发,有来处根源,柱中生意,或引岁运,故能扶引而荣耀,所以人不知元有根气,但知运上木火透发耳,水木清奇,若其气不偏倚,顺扶生旺带贵者,必为斡苑清要,或台谏。
登金步玉,贵人头上带官星,负笈担簦,学堂馆中逢驿马。
天乙头上有官星显露,谓之官星坐贵,主贵。学堂乃日主上旺之位,学馆为官星生旺之方,临官之位亦同取用,遇驿马在中,无甚贵气者,空有才学无成,即入仕途,亦多奔走道路,落空亡更甚。
翰苑标名,定禀乾坤瑞气,薇垣秉政,应拱子午端门。
寅巳二位有力,能合亥申乾坤,又有三合拱者,子辰能拱申,卯未能拱亥,若无杂,申亥乘其贵气,必为出台之造矣。子午二位或有正拱,或有三合外拱,如有贵气集上,勋业名家,人所未及。
丑亥拱子,未已拱午,为正,申辰拱子,寅戌拱午为外。
魁罡才逢夹贵,风宪提刑,龙虎得以专职,玉堂拜相。
辰戌二位,逢夹贵为风宪提刑者,谓有威权振作也。如壬癸逢巳卯拱辰,丙丁逢酉亥拱戌是也。又明见魁罡,重集贵气,同前断,辰寅二位,若遇正拱外拱,有贵气吉神聚其上者妙。合此格,或见寅辰得气集贵,旺相扶持,无冲刑克害,仍得卯处有吉,同前断。
阴阳偏用,贵崇奋极品之尊,卯酉正门,权辅领外藩之镇。
偏阴偏阳,其气多是奋发,风飞雷厉,贵气若专,旺相力量骤进极品者多,盖偏气好争,挺然不屈,雄豪力大,偏官易于起发,但是退速,或非命尔,若正官则稳,随分迁擢,无生杀之权,卯酉乃日月出入之门户,有贵气拱夹得用者,合此。或明见此二位,用神集福有力,无破者,准上文。
岁驾禄马带财官,英雄超迈,贵局日时乘德秀,才业峥嵘。
凡太岁禄马二位,宜系日主财官居上,岂非英雄超迈,凡贵人局,在日时见德秀二气者,合主文章才业,大器秀拔英杰之人也。
用拙而运扶,枯鳞济水,用强而运拙,曲港行舟。
用神力拙,或有气而被克窃,或隐藏而无冲合,纯而不利,连上却引生扶之气,悠然畅意矣。用神或有力,或得时,或情合,若运中阻坏其气者,东碍西撞,不能顺驾,、纵有一时风便,其奈何也。
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#374
Gửi vào 30/10/2024 - 08:34
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập
ngọc tỉnh áo quyết nhị thập nhị
Vận dĩ chi trọng vi cơ; tuế dĩ can trọng thừa khí.
(Vận lấy địa chi làm cơ bản là quan trọng; tuế lấy can thừa khí là quan trọng).
Địa chi của vận thái quá thì nên đè nén, còn bất cập thì nên nâng đỡ, cần phải lấy địa chi ngay khi sanh quán xuyên, xem gốc của mình không thuận theo như thế nào, nếu chỉ biết rõ dụng thần nặng nhẹ nâng dỡ hay đè nén cũng không tốt.
Lại luận khí sanh hay khăc, địa chi nối liền là quan trọng nhất, kế đến là xem thiên can của vận chiến đấu hay hoà hợp đến như thế nào, vật hữu tình nào trong trụ cầm đầu, mới tốt. Lưu niên với thiên can của thái tuế quan hệ rất quan trọng, làm chủ của tất cả các thần cát hung trong một năm, ngày khắc tuế sẽ là tai hoạ, còn hợp thì tối tăm, tiêu điều. Nếu có hoá có tình sẽ là có sự việc tốt đẹp, khảo sát hoạ phúc nhanh chậm, vẫn phải xem xét sự giúp đỡ trong vận như thế nào, phải gồm cả địa chi của thái tuếhinh2 xung phá hại, những bàn luận trên không nghiêng về một bên nào mới thích nghi.
Vận trì hành sắc, dụng phân hà nhược dữ hà cường; tuế nhiếp binh quyền, thế trì tình cấp nhi tình trọng.
(Vận đuổi theo ngũ hành, dụng thần phân biệt mạnh và yếu; tuế giữ binh quyền, uy lực giúp đỡ tình trạng cấp bách và quan trọng).
Như ngày là thân quý là dụng, cả hai khó phát triễn nghiêng về một hướng, nhật chủ là thể, quý khí là dụng, đều cần phải trung hoà. Có một thuyết về quý khí của dụng thần, giống như các món hành lý, đồ dùng, thức ăn khi lên đường. Vận tức là ngừng chân nơi nhà ở công cộng, bến thuyền. Ngũ khí quý sát, cái nào phù hợp với vị trí địa lý, hoặc phù hợp để tham khảo điềm triệu tốt xáu. Hai tượng tốt xấu, vận vốn là chưa sinh ra, nếu không phải thái tuêse4 không khả năng khiến cho phấn phát chí khí.
Chỉ có tuế quân rất nghiêm khắc và quan trọng, rất uy nghi và trang trọng, khống chế rất khẩn trương, khó mà khí thế như dàn trận chống địch, nhanh chóng và hiểm nguy, khó mà bất ngờ cứu ứng cổng sát khoá vàng, làm sao có khả năng chống cự được, cũng có khi quý khí là hung, đè nén cái ác truyền bá cái thiện, nhân lúc chạy đến cứu giúp không ngờ.
Lộc quý vận dục hiển dương, thiểu tráng nghi kiêm vượng địa; hung sát tu tòng trầm muội, lão nhân canh hỉ suy hương.
(Lộc quý vận muốn phô bày, tuổi trẻ mạnh mẽ nên gồm cả đất vượng; hung sát phải chìm trong ẩn tàng, người già trái lại thích nơi suy).
Đất thai, dưỡng, trường sanh, mộc dục, quan đới hai mươi tuổi thích hợp đi; vận lâm quan, đế vượng dương khí cường thịnh, ba bốn mươi tuổi thích hợp đi; vận suy bệnh mộ tuyệt thiên quý (kinh nguyệt đàn bà gọi là thiên quý 天癸. § Cũng gọi là quý thủy 癸水) khô cạn, năm sáu mươi tuổi thích hợp đi, đó là ý nghĩa hợp khả trong nó, sẽ là hướng dẫn chọn lấy hay bỏ trong hạnh vận, là nói về thông biến vậy. Tuổi trẻ mạnh mẽ trong vận hợp thể, thích hợp lan truyền quý lộc của mình, hung thần vận muốn chìm đắm, người già nên đi các vận tử tuyệt, vẫn không cần cùng với nhật chủ dụng thần, sanh ý trong ngoài quả thật là phúc vận.
Vận khí phát nguyên lực ổn, phương dịch thành công; thì can hóa tượng cầu tình, hành đương lĩnh dụng.
(Nguồn của vận khí ổn định, mới dễ thành công; can giờ hoá tượng đáp ứng yêu cầu, hành động đáng nhận lấy).
Đi vận xem xét chứng cứ phúc hoạ, cũng là việc dễ, khi tin tức đến từ cung, phải xét ý nghĩa của nó, như vận phát nguồn ở năm tháng ngày giờ, đất không vong xung tử bại, cho dù có phát cũng không bền, phát nguồn ở nơi ổn định, có thể chịu được hoạn nạn, có thể hưởng phú quý, phước báo sâu rộng.
Phương pháp đi vận là chọn hoá tượng của can giờ, có hai quan điểm về thể tượng và hoá tượng, một là được bạn bè, có tinh có lý, là tượng thành dụng, hoặc đi đến vận hỗ trợ, hoặc quay lại tạo thành khí vật của mình, sự mầu nhiệm đệ nhứt, chính là bí quyết của gia truyền trong thiên không, với lý thuyết cực đoan này dẫn đến dụng khí lực của thần còn lại rất quan trọng, thích hợp chọn dụng sanh khắc cường nhược.
Phỉ hoàng đằng đạt, liên khai nhất lộ quan tinh; báo biến hưng long, niên thống bình sanh tài khí.
(Gián vàng bay lên cao, liên tục mở con đường quan tinh; beo trở thành hưng long, trụ năm cầm đầu một đời tài khí).
Trong trụ có mang theo quan tinh, không chỉ vận vận thống lãnh, quan tinh đắc ý, bước bước vẻ vang, rưc4 rỡ, trong bát tự có tài không vượng, tuy gặp vô tình, đi vận tuy đến nơi sanh vượng, vẫn không phấn chấn, bởi vì khí có thể tử tuyệt, có thể trì trệ tắc nghẽn, tuế chính là vua tôn nghiêm, cầm đầu các cát hung thần sát, lưu niên có thể nhận lấy tài nguyên, có thể nâng đỡ tượng của tài, có thể kích mở tài khố, hoặc hợp xa xung tán nơi sanh vượng, có thể củng hay kề bên cung ngầm chứa tài thần lộc mã quý nhân, tài này thịnh vượng, giống vậy, hệ thống tuế quân thay đổi (豹變 báo biến: Con báo thì nhỏ, mà thành con cọp. Chỉ người nghèo hèn thành phú quý), bỗng nhiên hưng thịnh.
Vận lăng thân nhược, nhi quát phù dụng thần. Vận biến thân cường, nhi ức kì phúc khí.
(Vận cưởi lên thân yếu đuối nên tình cờ nâng đỡ dụng thần. Vận thay đôi thân cường, nên phúc khí bị đè nén).
Ngay khi sanh thân vượng hay tỷ kiên quá nhiều, dụng thần bạc nhược, nên vứt bỏ khí của bản thân mình, mà hỗ trợ dụng thần của mình, trái ngược lại thì không tốt lành. Ngay khi sanh khí của bản thân yếu đuối, dụng thần thái quá, bản thân không gánh vác nổi, lại trở thành hỗn loạn không thể thống nhất, chỗ vui mừng như thế, trái ngược lại sẽ quái gở, bởi vì ngay khi sanh gốc ngọn, thể dụng thích đáng nhau, vận igup1 đỡ thân thái quá, có thể làm khốn đốn dụng thần, cũng không đúng vậy.
Tuế hoặc vận phù cát võng hung; tuế hoặc vận muội thiện túng ác.
(Tuế hoặc vận hợp tốt không có hung xấu; tuế hoặc vận giấu giếm cái thiện buông thả cái ác).
Có thể ngay khi sanh sức lực của hung sát thì nặng, sức lực của cát thần nhẹ, sức mạnh của tài quan thì tản mác, tuế vận phù hợp với phúc thần, mà đè nén khí lực hung xấu; ngay khi sanh sức lực của cát thần mạnh, hung sát thì tuỳ ý tức là khí sơ xài, xấu, tuế vận mất cách quản trị phép chế ngự, có thể chỉ buông thả ác sát, che dấu những cái thiện lành.
Bài thơ nói:
Vãng lai năng tham ngọc tỉnh thiên, nhân gian tức thị địa hành tiên, trọng khai ngũ khí phân điều xứ, phẫu phá phiên li biệt hữu thiên
(Đi lại có thể tham khảo chương ngọc tỉnh, trần thế tức là địa hành tiên, mở lại ngũ khí rõ ràng không trở ngại, phá vỡ rào cản có thế giới khác).
Ngọc tỉnh áo quyết: chính là của An Đông Đỗ Khiêm, có những hình ảnh tuyệt vời và xúc tích sâu xa trong đó, số hiện mà dụng thần ẩn núp, khí loại sinh ra từ hư không, quay lại ám hợp, được mọt phần ba, thoát thai hoán cốt (thoát khỏi bào thai thay đổi xương cốt), nhập thánh siêu phàm (vượt khỏi cái tính phàm trần mà vào bậc thánh), quả thật việc chẳng dễ dàng. Muốn nghiên cứu tuyệt xứ phùng sanh, phải biết khi vượng thì thối lui và ần núp, khí đầy sẽ đổ, vật nhiều quá sẽ tổn hại, bè nhóm đông sẽ tuỳ theo loại, khí suy sẽ tuỳ theo cảm giác mà sử dụng, thật giả nên nhận rõ, thay đổi hay không, tượng loại nên được phân chia trước, cho nên khí có thể dày hay mỏng, trong hay đục, cao hay thấp, tối hay sang có cả vạn đầu mối, thiên biến vạn hoá, khí có sanh khắc, suy cho cùng mọi thứ đều vượt quá tầm lý trí, vạn vật do thiên nhiên tạo ra, phương thức sanh hoạt cực kỳ liên quan đến nguồn gốc. Đó thật sự là học phái của Lý Hư Trung còn để lại, không có nhiều người trên thế gian thấy qua quyển sách này, cho nên ta mới đưa ra. "Dục Ngô" ghi chép.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀二十二
运以支重为基,岁以干重乘气。
运之支神,太过之物,则宜抑之,不及之物,则宜扶之,须要以当生支神贯穿,看其本未乖顺何如,若只详用神轻重扶抑者,亦未善。
又论生气克气,连支至重,次观运干战斗和谐何似,统何柱中之物有情而言,方吉。流年与太岁干神,关系最紧切,一年万神吉凶之主,日克岁则灾,合则晦。若有化有情,则有好事,所验灾福迟速,仍察运中相摄何如,须兼用岁支刑冲破害上言,无偏则可。
运驰行色,用分何弱与何强,岁摄兵权,势持情急而情重。
如日为身,贵为用,二者难以偏发,日主为体,贵气为用,俱要中和。一说用神贵气,如登程行李器物粮草等件。运即住脚公廨馆宇所泊之所,五气贵煞,何者引彼地理所宜,或顺以参考其否泰之兆,吉凶二象,运元未萌,非岁则不能激扬。
唯岁君最严最切,至威至重,持握特急,势来则如战阵斗敌,迅速险大,难以卒然救应铁关金锁,岂能御哉,亦有贵气为凶,抑恶扬善,乘机凑济莫测。
禄贵运欲显扬,少壮宜兼旺地,凶煞须从沉昧,老人更喜衰乡。
胎胞养沐长生冠带之地,二十岁宜行,临官帝旺之运,阳气强盛,三四十岁宜行,衰病基绝之运,天癸枯竭,五六十岁宜行,其中合可之义,则造化取舍之道,通变为言者也。运中少壮合体,同宜扬其贵禄,凶神运欲沉淹,老老宜行死绝等运,仍不要与日主用神,表里生意者,诚为福运。
运气发源力稳,方易成功,时干化象求情,行当领用。
行运究考的验福祸,亦是易事,当逐宫消息,审其来意,如运之发源,在年月日时上,空冲死败之地,纵发不久,发源在稳实住处,可耐患难,可享富贵,福泽悠远也。
行运之法,取时干之化象者,有体象化象二意,一者得侣,有情有类,为象成用,或行至运中扶持,或旋造成其器,第一妙事,乃虚中家传之秘,有此极论,引用余神之气最切,宜取用生克强弱。
蜚黄腾达,连开一路官星,豹变兴隆,年统平生财气。
柱中带官星,不若运运统摄,官神得意,步步荣耀,八字中有财不旺,虽见无情,行运虽至生旺之处,仍未奋发,盖气或死绝,或滞塞,岁乃尊严之君,吉凶神煞之主,流年或领财元,或生扶财象,或激开财库,或遥合飞冲生旺之所,或拱夹暗包财神禄马贵人之宫,其财之旺,由此,岁君统系豹变,勃然兴发也。
运凌身弱,而适扶用神。运变身强,而抑其福气。
当生身旺或比肩太繁,用神怯弱者,宜凌废其身之气,适扶我之用神,反是则不祥矣。当生本体气弱,用神太过,身不胜任,又成错乱不能归一,所喜如是,反是则乖,盖当生本末,体用相称,运扶身太过,或困其用神,亦不中也。
岁或运符吉罔凶,岁或运昧善纵恶。
或当生凶煞力重,吉神力轻,财官势况散漫,岁运符合福神,而抑凶气者有之,当生吉神力重,凶煞为任使者却气薄,岁运失纪纲制驭之道,或至于纵容恶煞,沉昧众善者有之。
诗曰:
往来能参玉井篇、人间却是地行仙、重开五气分条处、剖破藩篱别有天
玉井奥诀,乃安东杜谦所者,其间幽趣妙象,数见而用藏,气类从无立有,倒飞暗合,得一分三,脱胎换骨,入圣超凡,诚非易事。欲穷其绝处逢生,要识其旺而退藏,器满必倾,物过则损,党盛则随类,气衰则托情,用不用,真假宜辨,变不变,象类先分,故气禀有厚薄焉,有清浊焉,有高卑焉,有晦明焉,万绪万端,千变万化,气有生克,究竟尽烛理外之理,物有造化,活法极参元中之元,诚得李虚中余学一派之正传也,世之不得睹是书者多矣,予故表而出之。“育吾”记
.
ngọc tỉnh áo quyết nhị thập nhị
Vận dĩ chi trọng vi cơ; tuế dĩ can trọng thừa khí.
(Vận lấy địa chi làm cơ bản là quan trọng; tuế lấy can thừa khí là quan trọng).
Địa chi của vận thái quá thì nên đè nén, còn bất cập thì nên nâng đỡ, cần phải lấy địa chi ngay khi sanh quán xuyên, xem gốc của mình không thuận theo như thế nào, nếu chỉ biết rõ dụng thần nặng nhẹ nâng dỡ hay đè nén cũng không tốt.
Lại luận khí sanh hay khăc, địa chi nối liền là quan trọng nhất, kế đến là xem thiên can của vận chiến đấu hay hoà hợp đến như thế nào, vật hữu tình nào trong trụ cầm đầu, mới tốt. Lưu niên với thiên can của thái tuế quan hệ rất quan trọng, làm chủ của tất cả các thần cát hung trong một năm, ngày khắc tuế sẽ là tai hoạ, còn hợp thì tối tăm, tiêu điều. Nếu có hoá có tình sẽ là có sự việc tốt đẹp, khảo sát hoạ phúc nhanh chậm, vẫn phải xem xét sự giúp đỡ trong vận như thế nào, phải gồm cả địa chi của thái tuếhinh2 xung phá hại, những bàn luận trên không nghiêng về một bên nào mới thích nghi.
Vận trì hành sắc, dụng phân hà nhược dữ hà cường; tuế nhiếp binh quyền, thế trì tình cấp nhi tình trọng.
(Vận đuổi theo ngũ hành, dụng thần phân biệt mạnh và yếu; tuế giữ binh quyền, uy lực giúp đỡ tình trạng cấp bách và quan trọng).
Như ngày là thân quý là dụng, cả hai khó phát triễn nghiêng về một hướng, nhật chủ là thể, quý khí là dụng, đều cần phải trung hoà. Có một thuyết về quý khí của dụng thần, giống như các món hành lý, đồ dùng, thức ăn khi lên đường. Vận tức là ngừng chân nơi nhà ở công cộng, bến thuyền. Ngũ khí quý sát, cái nào phù hợp với vị trí địa lý, hoặc phù hợp để tham khảo điềm triệu tốt xáu. Hai tượng tốt xấu, vận vốn là chưa sinh ra, nếu không phải thái tuêse4 không khả năng khiến cho phấn phát chí khí.
Chỉ có tuế quân rất nghiêm khắc và quan trọng, rất uy nghi và trang trọng, khống chế rất khẩn trương, khó mà khí thế như dàn trận chống địch, nhanh chóng và hiểm nguy, khó mà bất ngờ cứu ứng cổng sát khoá vàng, làm sao có khả năng chống cự được, cũng có khi quý khí là hung, đè nén cái ác truyền bá cái thiện, nhân lúc chạy đến cứu giúp không ngờ.
Lộc quý vận dục hiển dương, thiểu tráng nghi kiêm vượng địa; hung sát tu tòng trầm muội, lão nhân canh hỉ suy hương.
(Lộc quý vận muốn phô bày, tuổi trẻ mạnh mẽ nên gồm cả đất vượng; hung sát phải chìm trong ẩn tàng, người già trái lại thích nơi suy).
Đất thai, dưỡng, trường sanh, mộc dục, quan đới hai mươi tuổi thích hợp đi; vận lâm quan, đế vượng dương khí cường thịnh, ba bốn mươi tuổi thích hợp đi; vận suy bệnh mộ tuyệt thiên quý (kinh nguyệt đàn bà gọi là thiên quý 天癸. § Cũng gọi là quý thủy 癸水) khô cạn, năm sáu mươi tuổi thích hợp đi, đó là ý nghĩa hợp khả trong nó, sẽ là hướng dẫn chọn lấy hay bỏ trong hạnh vận, là nói về thông biến vậy. Tuổi trẻ mạnh mẽ trong vận hợp thể, thích hợp lan truyền quý lộc của mình, hung thần vận muốn chìm đắm, người già nên đi các vận tử tuyệt, vẫn không cần cùng với nhật chủ dụng thần, sanh ý trong ngoài quả thật là phúc vận.
Vận khí phát nguyên lực ổn, phương dịch thành công; thì can hóa tượng cầu tình, hành đương lĩnh dụng.
(Nguồn của vận khí ổn định, mới dễ thành công; can giờ hoá tượng đáp ứng yêu cầu, hành động đáng nhận lấy).
Đi vận xem xét chứng cứ phúc hoạ, cũng là việc dễ, khi tin tức đến từ cung, phải xét ý nghĩa của nó, như vận phát nguồn ở năm tháng ngày giờ, đất không vong xung tử bại, cho dù có phát cũng không bền, phát nguồn ở nơi ổn định, có thể chịu được hoạn nạn, có thể hưởng phú quý, phước báo sâu rộng.
Phương pháp đi vận là chọn hoá tượng của can giờ, có hai quan điểm về thể tượng và hoá tượng, một là được bạn bè, có tinh có lý, là tượng thành dụng, hoặc đi đến vận hỗ trợ, hoặc quay lại tạo thành khí vật của mình, sự mầu nhiệm đệ nhứt, chính là bí quyết của gia truyền trong thiên không, với lý thuyết cực đoan này dẫn đến dụng khí lực của thần còn lại rất quan trọng, thích hợp chọn dụng sanh khắc cường nhược.
Phỉ hoàng đằng đạt, liên khai nhất lộ quan tinh; báo biến hưng long, niên thống bình sanh tài khí.
(Gián vàng bay lên cao, liên tục mở con đường quan tinh; beo trở thành hưng long, trụ năm cầm đầu một đời tài khí).
Trong trụ có mang theo quan tinh, không chỉ vận vận thống lãnh, quan tinh đắc ý, bước bước vẻ vang, rưc4 rỡ, trong bát tự có tài không vượng, tuy gặp vô tình, đi vận tuy đến nơi sanh vượng, vẫn không phấn chấn, bởi vì khí có thể tử tuyệt, có thể trì trệ tắc nghẽn, tuế chính là vua tôn nghiêm, cầm đầu các cát hung thần sát, lưu niên có thể nhận lấy tài nguyên, có thể nâng đỡ tượng của tài, có thể kích mở tài khố, hoặc hợp xa xung tán nơi sanh vượng, có thể củng hay kề bên cung ngầm chứa tài thần lộc mã quý nhân, tài này thịnh vượng, giống vậy, hệ thống tuế quân thay đổi (豹變 báo biến: Con báo thì nhỏ, mà thành con cọp. Chỉ người nghèo hèn thành phú quý), bỗng nhiên hưng thịnh.
Vận lăng thân nhược, nhi quát phù dụng thần. Vận biến thân cường, nhi ức kì phúc khí.
(Vận cưởi lên thân yếu đuối nên tình cờ nâng đỡ dụng thần. Vận thay đôi thân cường, nên phúc khí bị đè nén).
Ngay khi sanh thân vượng hay tỷ kiên quá nhiều, dụng thần bạc nhược, nên vứt bỏ khí của bản thân mình, mà hỗ trợ dụng thần của mình, trái ngược lại thì không tốt lành. Ngay khi sanh khí của bản thân yếu đuối, dụng thần thái quá, bản thân không gánh vác nổi, lại trở thành hỗn loạn không thể thống nhất, chỗ vui mừng như thế, trái ngược lại sẽ quái gở, bởi vì ngay khi sanh gốc ngọn, thể dụng thích đáng nhau, vận igup1 đỡ thân thái quá, có thể làm khốn đốn dụng thần, cũng không đúng vậy.
Tuế hoặc vận phù cát võng hung; tuế hoặc vận muội thiện túng ác.
(Tuế hoặc vận hợp tốt không có hung xấu; tuế hoặc vận giấu giếm cái thiện buông thả cái ác).
Có thể ngay khi sanh sức lực của hung sát thì nặng, sức lực của cát thần nhẹ, sức mạnh của tài quan thì tản mác, tuế vận phù hợp với phúc thần, mà đè nén khí lực hung xấu; ngay khi sanh sức lực của cát thần mạnh, hung sát thì tuỳ ý tức là khí sơ xài, xấu, tuế vận mất cách quản trị phép chế ngự, có thể chỉ buông thả ác sát, che dấu những cái thiện lành.
Bài thơ nói:
Vãng lai năng tham ngọc tỉnh thiên, nhân gian tức thị địa hành tiên, trọng khai ngũ khí phân điều xứ, phẫu phá phiên li biệt hữu thiên
(Đi lại có thể tham khảo chương ngọc tỉnh, trần thế tức là địa hành tiên, mở lại ngũ khí rõ ràng không trở ngại, phá vỡ rào cản có thế giới khác).
Ngọc tỉnh áo quyết: chính là của An Đông Đỗ Khiêm, có những hình ảnh tuyệt vời và xúc tích sâu xa trong đó, số hiện mà dụng thần ẩn núp, khí loại sinh ra từ hư không, quay lại ám hợp, được mọt phần ba, thoát thai hoán cốt (thoát khỏi bào thai thay đổi xương cốt), nhập thánh siêu phàm (vượt khỏi cái tính phàm trần mà vào bậc thánh), quả thật việc chẳng dễ dàng. Muốn nghiên cứu tuyệt xứ phùng sanh, phải biết khi vượng thì thối lui và ần núp, khí đầy sẽ đổ, vật nhiều quá sẽ tổn hại, bè nhóm đông sẽ tuỳ theo loại, khí suy sẽ tuỳ theo cảm giác mà sử dụng, thật giả nên nhận rõ, thay đổi hay không, tượng loại nên được phân chia trước, cho nên khí có thể dày hay mỏng, trong hay đục, cao hay thấp, tối hay sang có cả vạn đầu mối, thiên biến vạn hoá, khí có sanh khắc, suy cho cùng mọi thứ đều vượt quá tầm lý trí, vạn vật do thiên nhiên tạo ra, phương thức sanh hoạt cực kỳ liên quan đến nguồn gốc. Đó thật sự là học phái của Lý Hư Trung còn để lại, không có nhiều người trên thế gian thấy qua quyển sách này, cho nên ta mới đưa ra. "Dục Ngô" ghi chép.
Link đến bản tiếng Hoa:
玉井奥诀二十二
运以支重为基,岁以干重乘气。
运之支神,太过之物,则宜抑之,不及之物,则宜扶之,须要以当生支神贯穿,看其本未乖顺何如,若只详用神轻重扶抑者,亦未善。
又论生气克气,连支至重,次观运干战斗和谐何似,统何柱中之物有情而言,方吉。流年与太岁干神,关系最紧切,一年万神吉凶之主,日克岁则灾,合则晦。若有化有情,则有好事,所验灾福迟速,仍察运中相摄何如,须兼用岁支刑冲破害上言,无偏则可。
运驰行色,用分何弱与何强,岁摄兵权,势持情急而情重。
如日为身,贵为用,二者难以偏发,日主为体,贵气为用,俱要中和。一说用神贵气,如登程行李器物粮草等件。运即住脚公廨馆宇所泊之所,五气贵煞,何者引彼地理所宜,或顺以参考其否泰之兆,吉凶二象,运元未萌,非岁则不能激扬。
唯岁君最严最切,至威至重,持握特急,势来则如战阵斗敌,迅速险大,难以卒然救应铁关金锁,岂能御哉,亦有贵气为凶,抑恶扬善,乘机凑济莫测。
禄贵运欲显扬,少壮宜兼旺地,凶煞须从沉昧,老人更喜衰乡。
胎胞养沐长生冠带之地,二十岁宜行,临官帝旺之运,阳气强盛,三四十岁宜行,衰病基绝之运,天癸枯竭,五六十岁宜行,其中合可之义,则造化取舍之道,通变为言者也。运中少壮合体,同宜扬其贵禄,凶神运欲沉淹,老老宜行死绝等运,仍不要与日主用神,表里生意者,诚为福运。
运气发源力稳,方易成功,时干化象求情,行当领用。
行运究考的验福祸,亦是易事,当逐宫消息,审其来意,如运之发源,在年月日时上,空冲死败之地,纵发不久,发源在稳实住处,可耐患难,可享富贵,福泽悠远也。
行运之法,取时干之化象者,有体象化象二意,一者得侣,有情有类,为象成用,或行至运中扶持,或旋造成其器,第一妙事,乃虚中家传之秘,有此极论,引用余神之气最切,宜取用生克强弱。
蜚黄腾达,连开一路官星,豹变兴隆,年统平生财气。
柱中带官星,不若运运统摄,官神得意,步步荣耀,八字中有财不旺,虽见无情,行运虽至生旺之处,仍未奋发,盖气或死绝,或滞塞,岁乃尊严之君,吉凶神煞之主,流年或领财元,或生扶财象,或激开财库,或遥合飞冲生旺之所,或拱夹暗包财神禄马贵人之宫,其财之旺,由此,岁君统系豹变,勃然兴发也。
运凌身弱,而适扶用神。运变身强,而抑其福气。
当生身旺或比肩太繁,用神怯弱者,宜凌废其身之气,适扶我之用神,反是则不祥矣。当生本体气弱,用神太过,身不胜任,又成错乱不能归一,所喜如是,反是则乖,盖当生本末,体用相称,运扶身太过,或困其用神,亦不中也。
岁或运符吉罔凶,岁或运昧善纵恶。
或当生凶煞力重,吉神力轻,财官势况散漫,岁运符合福神,而抑凶气者有之,当生吉神力重,凶煞为任使者却气薄,岁运失纪纲制驭之道,或至于纵容恶煞,沉昧众善者有之。
诗曰:
往来能参玉井篇、人间却是地行仙、重开五气分条处、剖破藩篱别有天
玉井奥诀,乃安东杜谦所者,其间幽趣妙象,数见而用藏,气类从无立有,倒飞暗合,得一分三,脱胎换骨,入圣超凡,诚非易事。欲穷其绝处逢生,要识其旺而退藏,器满必倾,物过则损,党盛则随类,气衰则托情,用不用,真假宜辨,变不变,象类先分,故气禀有厚薄焉,有清浊焉,有高卑焉,有晦明焉,万绪万端,千变万化,气有生克,究竟尽烛理外之理,物有造化,活法极参元中之元,诚得李虚中余学一派之正传也,世之不得睹是书者多矣,予故表而出之。“育吾”记
.
Thanked by 1 Member:
|
|
#375
Gửi vào 01/11/2024 - 08:55
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
khí tượng thiên nhất
Dương cương bất trung, kháng tắc hại dã; cương nhi năng nhu, cát chi đạo dã.
Nhu nhược bá khô, tiểu nhân chi tượng; cương kiện trung chánh, quân tử chi phong.
(Dương cương không hợp trung đạo, cao ngạo sẽ có hại; cương mà có thể nhu đó là đạo lý của cái tốt.
Nhu nhược anh cả của nghèo nàn, tượng của tiểu nhân; mạnh mẽ và thẳng thắn, phong cách của quân tử).
Đó là tượng không hợp trung đạo. Trong tứ trụ chỉ thấy âm nhu là không có phẩm cách con người, thiên can địa chi lại không chứa đựng dương, sẽ nhu nhược và hèn nhát. Người có bát tự như vậy, ý đồ nham hiểm, không chỗ nào không đến. Nếu cứng cỏi mạnh mẽ là bản chất của người quân tử, ngay thẳng là đức của người quân tử. Trong tứ trụ dương mà có chứa âm, là cương nhu có chế phục, không phạm phải khắc hình xung. Người có bát tự như thế nên đức hạnh vượt hơn người, trung trực trùm đời, cho nên nói là phong cách của người quân tử.
Quá vu hàn bạc hòa noãn xứ, chung nan phấn phát; quá vu táo liệt thủy kích xứ, phản hữu hung tai.
(Ở nơi quá lạnh hay quá nóng, khó mà phấn chấn; ở nơi quá khô ráo nước đột ngột thấm vào, ngược lại thành tai hoạ xấu).
Tứ trụ thuần âm, sanh vào tháng mười nguồn gốc ngũ hành không vong tuyệt, can ngày lại gặp suy nhược nên không có khí cường vượng, cho dù gặp nơi ấm áp, cũng không phát đạt. Tứ trụ thuần hoả, sanh vào trước hai chí (hạ chi và đông chí), bản chất khô ráo lâu dài, trong tuế vận bỗng gặp thuỷ đến, không chỉ không thể chế phục, nên phản thành tai hoạ. Người có bát tự như thế, nghèo hèn không nơi nương tựa, chết yểu, thường phạm tội hình sự.
Quá vu chấp thật, sự nan hiển hoát; quá vu thanh lãnh, tư hữu thê lương.
(Quá chấp vào thực tế, sự việc khó thể hiện cởi mở; quá lạnh lùng, nghĩ ngợi rất buồn khổ).
Người chấp vào thực tế, sử dụng chuyên nhất mà không linh hoạt. Ví như dụng quan mà không có tài, dụng ấn hoàn sát, người hợp nhiều mà thành tựu ít, gặp việc mãi không thể cởi mở. Nếu kim thuỷ quá trong và lạnh, không gặp vận ấm áp, như canh tân sanh vào tháng mười, trong trụ toàn thuỷ, vận lại đi phương tây bắc, cả đời ăn ngủ chỉ một mình, đời sống hiu quạnh, người không chịu nổi nhàn rỗi.
Quá vu hữu tình, chí vô viễn đạt.
(Hữu tình quá mức, ý chí không đạt dến nơi xa).
Vật trong cục, không thể quá hữu tình. Nếu quá hữu tình, sẽ ràng buộc lầm lạc không thể tự mình thoát khỏi, không thấy gì ở bên ngoài. Như giáp mộc lấy kỷ thổ làm vợ, tình cảm vững bền; nếu địa chi dưới giáp kỷ lợi dụng con bảo hộ, trong ngoài thêm hợp , mà ngoại thì không có tài quan, ấn thụ động lòng giáp, nên giáp thường ở dưới kỷ thổ, ý chí của nó sao mà có khả năng đi xa được?
Quá vu dụng lực, thành diệc đa nan.
(Dùng sức quá mức, thành tựu cũng khó).
Hễ trong trụ được vật tự nhiên thì tuyệt diệu, nếu dùng sức hỗ trợ, cuối cùng không là tốt đẹp. Lại như dụng tài, trong cục không gặp, nhất định phải tìm cầu thương quan, thực thần sanh cho mình, như thực thần, thương quan lạc thời không có khí lực, thì lại tìm tỷ kiên trợ giúp, hoặc bên ngoài xung tạo thành hợp, đều là dùng sức quá mức, sự thành tựu của nó nhất định là gian nan vậy.
Quá vu quý nhân, phùng tai tự dũ; quá vu ác sát, ngộ phúc nan hưởng.
(Quá ở quý nhân, gặp tai hoạ tự khỏi; quá ở ác sát, gặp cũng phúc khó hưởng).
Trong bát tự vốn dĩ nhiều phương nhân, giúp đỡ tài quan, không có hình phá, tuy ở trong hỗn loạn cũng không nguy hiểm. Vốn dĩ nhiều ác sát, tam hình, lục xung, lại thêm cùng với tài quan làm phản, cho dù gặp đất tài quan, cơ bản hưởng phúc sao được lâu dài?
Ngũ hành tuyệt xứ, lộc mã phù thân; tứ trụ kì trung, tỉ kiên phân phúc.
(Ngũ hành ở tuyệt xứ, lộc mã giúp đỡ thân; kỳ trong tứ trụ, tỷ kiên chia cắt phúc).
Thông thường gặp tuyệt xứ, không thể nhân từ chỉ ra cái ác, bởi ở hung xứ cũng có hạt giống phúc hỗ trợ nhau. Ví như mộc tuyệt ở thân, xung có nhâm thuỷ là ấn, canh mậu là tài quan đều là vật của mình sử dụng, nhất định có thể hỗ trợ thân thu được phúc. Chỉ lo có khắc thần báo cho biết là chỗ dùng của khách, tức là chỗ dùng tuyệt vậy, như thế chính là hung. Nói lấy quan làm ngũ (số năm - không hiểu ý của chữ số năm này), lấy tài làm kỳ, trong cục thường có tài quan, chính là tốt vậy; như gặp tỷ kiên không e ngại, tranh giành quan cướp doạt tài, sẽ không thật sự đẹp.
Link đến bản tiếng Hoa:
气象篇一
阳刚不中,亢则害也;刚而能柔,吉之道也。
柔弱伯枯,小人之象,刚健中正,君子之风。
(此象不中之道也。四柱中但见阴柔而不人格,干支又不包阳,则终日柔懦。用此者,机心阴毒,无所不至。乃若刚健君子之体也,中正君子之德也。四柱中阳而藏阴,刚柔得制,不犯被克、刑冲。用此者,德行过人,中直盖世,故曰君子之风。)
过于寒薄和暖处,终难奋发;过于燥烈水激处,反有凶灾。
(四柱纯阴,生于十月空绝五行之根,日干又见衰弱而无强旺之气,纵遇和暖之乡,终难发达。四柱纯火,生于二至之前,久性燥烈,岁运中乍遇水进,不惟不能制,而反致害矣。用此者,大折孤贫,多犯刑宪。)
过于执实,事难显豁;过于清冷,思有凄凉。
(执实者,用一而不通也。假如用官无财,用印完煞,多合少成者,遇事终无豁达。若金水过于清寒,不遇和暖之运,如庚辛生于十月,柱中纯水,运又行西北,平生独食孤眠,生涯寂寞,人不堪其优矣。)
过于有情,志无远达。
(局中之物,不可过于有情。若过有精,则牵迷不能自脱,外无所见矣。如甲木以己土为妻,精固宜有;苦甲己支下又乘子卫,内外加合,而外无时官、印经动甲之心,则甲常处于己土之下,其志安能远达哉?)
过于用力,成亦多难。
(凡柱中得自然之物为妙,若用力扶持,终不为美。且如用财,局中不见,必求伤官、食神所生,如食、伤失时无气,又求比肩转助,或外冲造合,皆谓过于用力,其成就必艰难矣。)
过于贵人,逢灾自愈;过于恶煞,遇福难享。
(八字中原多方人,M4扶用时官,不有刑破,虽居颠沛之中,亦无危矣。原多恶然,三刑、六冲,又与财官反背,纵遇财官之地,将何为享福之基?)
五行绝处,禄马扶身;四柱奇中,比肩分福。
(凡遇绝处,不可仁指为凶,盖凶处亦有福种相扶。假如未绝于中冲有壬水为印,庚戊为时官,皆我所用之物,必能扶身进福。只愁有神克客所用之言,则所用绝矣,如此乃凶。言以官为五,以财为奇,局中得通财官,乃为吉矣;如见比肩无惮,争官劫财,则无全美。)
.
khí tượng thiên nhất
Dương cương bất trung, kháng tắc hại dã; cương nhi năng nhu, cát chi đạo dã.
Nhu nhược bá khô, tiểu nhân chi tượng; cương kiện trung chánh, quân tử chi phong.
(Dương cương không hợp trung đạo, cao ngạo sẽ có hại; cương mà có thể nhu đó là đạo lý của cái tốt.
Nhu nhược anh cả của nghèo nàn, tượng của tiểu nhân; mạnh mẽ và thẳng thắn, phong cách của quân tử).
Đó là tượng không hợp trung đạo. Trong tứ trụ chỉ thấy âm nhu là không có phẩm cách con người, thiên can địa chi lại không chứa đựng dương, sẽ nhu nhược và hèn nhát. Người có bát tự như vậy, ý đồ nham hiểm, không chỗ nào không đến. Nếu cứng cỏi mạnh mẽ là bản chất của người quân tử, ngay thẳng là đức của người quân tử. Trong tứ trụ dương mà có chứa âm, là cương nhu có chế phục, không phạm phải khắc hình xung. Người có bát tự như thế nên đức hạnh vượt hơn người, trung trực trùm đời, cho nên nói là phong cách của người quân tử.
Quá vu hàn bạc hòa noãn xứ, chung nan phấn phát; quá vu táo liệt thủy kích xứ, phản hữu hung tai.
(Ở nơi quá lạnh hay quá nóng, khó mà phấn chấn; ở nơi quá khô ráo nước đột ngột thấm vào, ngược lại thành tai hoạ xấu).
Tứ trụ thuần âm, sanh vào tháng mười nguồn gốc ngũ hành không vong tuyệt, can ngày lại gặp suy nhược nên không có khí cường vượng, cho dù gặp nơi ấm áp, cũng không phát đạt. Tứ trụ thuần hoả, sanh vào trước hai chí (hạ chi và đông chí), bản chất khô ráo lâu dài, trong tuế vận bỗng gặp thuỷ đến, không chỉ không thể chế phục, nên phản thành tai hoạ. Người có bát tự như thế, nghèo hèn không nơi nương tựa, chết yểu, thường phạm tội hình sự.
Quá vu chấp thật, sự nan hiển hoát; quá vu thanh lãnh, tư hữu thê lương.
(Quá chấp vào thực tế, sự việc khó thể hiện cởi mở; quá lạnh lùng, nghĩ ngợi rất buồn khổ).
Người chấp vào thực tế, sử dụng chuyên nhất mà không linh hoạt. Ví như dụng quan mà không có tài, dụng ấn hoàn sát, người hợp nhiều mà thành tựu ít, gặp việc mãi không thể cởi mở. Nếu kim thuỷ quá trong và lạnh, không gặp vận ấm áp, như canh tân sanh vào tháng mười, trong trụ toàn thuỷ, vận lại đi phương tây bắc, cả đời ăn ngủ chỉ một mình, đời sống hiu quạnh, người không chịu nổi nhàn rỗi.
Quá vu hữu tình, chí vô viễn đạt.
(Hữu tình quá mức, ý chí không đạt dến nơi xa).
Vật trong cục, không thể quá hữu tình. Nếu quá hữu tình, sẽ ràng buộc lầm lạc không thể tự mình thoát khỏi, không thấy gì ở bên ngoài. Như giáp mộc lấy kỷ thổ làm vợ, tình cảm vững bền; nếu địa chi dưới giáp kỷ lợi dụng con bảo hộ, trong ngoài thêm hợp , mà ngoại thì không có tài quan, ấn thụ động lòng giáp, nên giáp thường ở dưới kỷ thổ, ý chí của nó sao mà có khả năng đi xa được?
Quá vu dụng lực, thành diệc đa nan.
(Dùng sức quá mức, thành tựu cũng khó).
Hễ trong trụ được vật tự nhiên thì tuyệt diệu, nếu dùng sức hỗ trợ, cuối cùng không là tốt đẹp. Lại như dụng tài, trong cục không gặp, nhất định phải tìm cầu thương quan, thực thần sanh cho mình, như thực thần, thương quan lạc thời không có khí lực, thì lại tìm tỷ kiên trợ giúp, hoặc bên ngoài xung tạo thành hợp, đều là dùng sức quá mức, sự thành tựu của nó nhất định là gian nan vậy.
Quá vu quý nhân, phùng tai tự dũ; quá vu ác sát, ngộ phúc nan hưởng.
(Quá ở quý nhân, gặp tai hoạ tự khỏi; quá ở ác sát, gặp cũng phúc khó hưởng).
Trong bát tự vốn dĩ nhiều phương nhân, giúp đỡ tài quan, không có hình phá, tuy ở trong hỗn loạn cũng không nguy hiểm. Vốn dĩ nhiều ác sát, tam hình, lục xung, lại thêm cùng với tài quan làm phản, cho dù gặp đất tài quan, cơ bản hưởng phúc sao được lâu dài?
Ngũ hành tuyệt xứ, lộc mã phù thân; tứ trụ kì trung, tỉ kiên phân phúc.
(Ngũ hành ở tuyệt xứ, lộc mã giúp đỡ thân; kỳ trong tứ trụ, tỷ kiên chia cắt phúc).
Thông thường gặp tuyệt xứ, không thể nhân từ chỉ ra cái ác, bởi ở hung xứ cũng có hạt giống phúc hỗ trợ nhau. Ví như mộc tuyệt ở thân, xung có nhâm thuỷ là ấn, canh mậu là tài quan đều là vật của mình sử dụng, nhất định có thể hỗ trợ thân thu được phúc. Chỉ lo có khắc thần báo cho biết là chỗ dùng của khách, tức là chỗ dùng tuyệt vậy, như thế chính là hung. Nói lấy quan làm ngũ (số năm - không hiểu ý của chữ số năm này), lấy tài làm kỳ, trong cục thường có tài quan, chính là tốt vậy; như gặp tỷ kiên không e ngại, tranh giành quan cướp doạt tài, sẽ không thật sự đẹp.
Link đến bản tiếng Hoa:
气象篇一
阳刚不中,亢则害也;刚而能柔,吉之道也。
柔弱伯枯,小人之象,刚健中正,君子之风。
(此象不中之道也。四柱中但见阴柔而不人格,干支又不包阳,则终日柔懦。用此者,机心阴毒,无所不至。乃若刚健君子之体也,中正君子之德也。四柱中阳而藏阴,刚柔得制,不犯被克、刑冲。用此者,德行过人,中直盖世,故曰君子之风。)
过于寒薄和暖处,终难奋发;过于燥烈水激处,反有凶灾。
(四柱纯阴,生于十月空绝五行之根,日干又见衰弱而无强旺之气,纵遇和暖之乡,终难发达。四柱纯火,生于二至之前,久性燥烈,岁运中乍遇水进,不惟不能制,而反致害矣。用此者,大折孤贫,多犯刑宪。)
过于执实,事难显豁;过于清冷,思有凄凉。
(执实者,用一而不通也。假如用官无财,用印完煞,多合少成者,遇事终无豁达。若金水过于清寒,不遇和暖之运,如庚辛生于十月,柱中纯水,运又行西北,平生独食孤眠,生涯寂寞,人不堪其优矣。)
过于有情,志无远达。
(局中之物,不可过于有情。若过有精,则牵迷不能自脱,外无所见矣。如甲木以己土为妻,精固宜有;苦甲己支下又乘子卫,内外加合,而外无时官、印经动甲之心,则甲常处于己土之下,其志安能远达哉?)
过于用力,成亦多难。
(凡柱中得自然之物为妙,若用力扶持,终不为美。且如用财,局中不见,必求伤官、食神所生,如食、伤失时无气,又求比肩转助,或外冲造合,皆谓过于用力,其成就必艰难矣。)
过于贵人,逢灾自愈;过于恶煞,遇福难享。
(八字中原多方人,M4扶用时官,不有刑破,虽居颠沛之中,亦无危矣。原多恶然,三刑、六冲,又与财官反背,纵遇财官之地,将何为享福之基?)
五行绝处,禄马扶身;四柱奇中,比肩分福。
(凡遇绝处,不可仁指为凶,盖凶处亦有福种相扶。假如未绝于中冲有壬水为印,庚戊为时官,皆我所用之物,必能扶身进福。只愁有神克客所用之言,则所用绝矣,如此乃凶。言以官为五,以财为奇,局中得通财官,乃为吉矣;如见比肩无惮,争官劫财,则无全美。)
.
Thanked by 2 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
||
Tác giả của sách lịch pháp thông thư đại toàn và ngao đầu thông thư |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
2 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |