Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất
minh thông phú tam
Trụ trung nhật can kiện vượng, hoặc hữu tỉ kiên phá hợp khứ tài,
tắc ấn sát khả dĩ song thu, diệc chủ phát đạt, đãn bất thanh dã.
(Can ngày trong trụ cường mạnh, hoặc có tỷ kiên phá hợp bỏ tài,
Thì ấn và sát cả hai có thể tiếp nhận, cũng chủ phát đạt, chỉ là không thanh).
Thơ nói rằng:
Bỗng gặp giáp kỷ thêm vào kim cục, bính hoả tầm thường liền thở than.
Đi vận đất vượng hoả sanh thân, công danh chỗ nào không chói lọi. Là vậy.
Kiến lộc ngộ quan tắc quý, ngộ tài tắc phú. Ngộ ấn tắc tú, bại tài phá ấn, bất cát.
(Kiến lộc gặp quan sẽ quý, gặp tài sẽ giàu. Gặp ấn sẽ tốt đẹp, còn bại tài phá ấn thì không tốt).
Kiến lộc thì thân vượng. Cho nên dụng quan, dụng ấn hay dụng tài đều tốt lành.
Có bại tài, dương nhận, tỷ kiên thì thân quá vượng.
Tất cả đều đủ để cướp tài của mình, chia cắt quan của mình, và đoạt ấn của mình.
Kiến lộc càng thích ấn với tài, cho nên thấy bại tài phá ấn, sẽ rất khô héo không thành phúc lành.
Tài ấn đều hiện hỗn tạp, không giàu cũng không đẹp, là mệnh không thành tựu.
Quan sát lưỡng đình, hỉ giả tồn chi, tăng giả khứ chi.
(Quan sát cả hai ổn thoả, cái nào thích thì giữ lại, cái nào ghét thì bỏ đi).
Vũ (sức mạnh) có khả năng bỏ chánh mà giữ thiên hoá quan thành sát. Còn văn (ngược lại với vũ) có khả năng bỏ thiên mà giữ chánh, hoá sát thành quan.
Vận gặp thân vượng nhất định được thêm ban tặng. Tài ấn đan xen nhau, muốn nó được tiến tới, kỵ nó thối lui.
Quý có khả năng thấy nghĩa mà bỏ lợi, chọn lấy ấn mà bỏ tài. Giàu sẽ thấy lợi mà quên ghĩa, chọn lấy tài mà bỏ ấn.
Tuế gặp mệnh chường mạnh nên thăng quan tiến chức. 。
Quan và sát không thể cùng lúc dùng, tài ấn khó để giao lưu, cho nên thích và ghét, giữ và bỏ.
Hoặc bỏ sát giữ quan, hoặc bỏ quan giữ sát, muốn tránh tiến thối (nỗ lực hay rụt rè), hoặc chọn ấn bỏ tài, hoặc chọn tài bỏ ấn, mỗi trường hợp nên thuận theo có độ nghiêm trọng mà dùng.
Phú quý của văn hay vũ cũng tương tự suy theo bàn bạc, không nhất thiết phải như vậy.
Bốn cách đều lấy thany vượng mệnh cường làm chủ, tuế vận hỗ trợ thì tuyệt diệu. Biết rõ và chấp nhận hoà hợp là bàn luận.
Thân dữ tài vượng lực đình, đắc quan sát lai diệc khả hóa tài trợ ấn, vi phúc ích hậu.
Thân nhược vô quan sát lai hóa, bất duy bất thắng quan sát.
(Thân với tài vượng lực ngang nhau, được quan sát tới cũng có thể hoá tài trợ ấn, là phúc càng lớn.
Thân nhược không có quan sát tới hoá, không chỉ không thắng được quan sát).
Nhưng tài ấn xung đột nhau, thân chế không nhường, không thể là chỗ dựa, nhất định nghèo hèn.
Mười can bối lộc (vác lộc), thích gặp tài dồi dào. Bại gặp tỷ kiên trục mã (đuổi theo mã).
Quan sát đều có, giống như bỏ sát giữ quan.
Ấn trợ thân cường, tất định thu công bái chức.
(Ấn trợ thân cường, nhất định nhận công lao và phong chức quan).
Đây là nói về cách thương quan.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: Mười can bối lộc (vác lộc) trụ năm và giờ mừng hiện quan tinh.
Vận đến tỷ kiên, tên gọi là bối lộc trục mã (vác lộc đuổi theo mã). Là vậy.
Ngũ hành thực thần, hứa thừa mã thịnh, họa sanh chánh ấn kiêu thần.
Quan sát nhất lai, ngộ trí phản hiền bại đức.
Kiêu thần ấn vượng, lập kiến phá bại thương thân.
(Ngũ hành thực thần, hứa hẹn cưởi ngựa thịnh vượng, hoạ sanh từ chánh ấn và kiêu thần.
Quan sát một khi tới, mê hoặc đến đến làm trái lại tài năng làm bại hoại phẩm cách.
Kiêu thần và ấn vượng, tức thì thấy phá bại thương tổn bản thân).
Đây là nói về cách thực thần. Đó là lý do đoạn văn ở trên nói là bối lộc trục mã (vác lộc đuổi theo mã), hết sức giúp đỡ quan sát chuyển thành phúc. Cho nên chương này nói về nhờ tài dẫn đến giàu, bị quan sát trợ ấn thành hoạ, nên trái lại gây huỷ hoại lớn.
Hỗ trợ lời văn để hiện rõ ý nghĩa, không thể không xem xét tỉ mỉ.
Bởi thực thần thích tài mà sợ kiêu thần. Quan sát sanh ấn, thì kiêu càng vượng.
Thương quan thích thấy ấn, thực thần sợ thấy ấn, vì nói là chiếm nuốt.
Ngày mậu tháng ngọ, chớ xem là nhận. Giờ và năm hoả nhiều, chuyển thành ấn thụ.
Dương nhận này với ấn đồng cung, hoả nhiều thì ấn vượng, cho nên có khả năng chuyển yếu đuối thành cường mạnh.
Nhưng dương nhận trợ thân cường, lại được ấn trợ, thì văn chương và khoa học sẽ tiến bộ, có thể che lấp cái ác mà phô trương cái thiện.
Nếu có chữ kỷ lộ ra, vẫn lấy nhận để đoán.
Ấn nhận câu hữu, kì nhân bất miễn tính độc. Hữu hảo vận lai thành công.
Vận thối nhận lai, hoặc bị tài xung khởi, diệc hung. Hỷ chánh quan chế trung vi diệu.
(Ấn và dương nhận đều có, người này không tránh khỏi bản tính hiểm ác. Có vận tốt đến sẽ thành công.
Vận thối lui dương nhận đến, hoặc bị tài xung khởi, cũng xấu. Mừng chánh quan chế phục thì tuyệt diệu).
Như quý hợi mậu gọ mậu ngọ mậu ngọ đây là mệnh phù hợp với lý luận này.
Bính nhật sửu nguyệt, phi vi bối lộc. Chi can kim vượng, phản tác ti tài.
(Ngày bính tháng sửu, chẳng phải là bối lộc. Can chi là kim vượng, trái lại thành của cải).
Sanh ngày bính gặp tháng sửu, kỷ thổ trong sửu, thương quan bối lộc, chủ nghèo.Gặp được can chi canh tân kim khí vượng, thổ có khả năng sanh kim, tức lấy tài mà đoán. Cần thấy ngày bính, có thể dần ngọ tuất hoả cục cũng vượng, có thể gánh vác của mình.
Chi giờ là sửu, trong địa chi tỵ dậu hợp canh tân lộ ra, bính hoả sanh vượng, cũng hợp cách này. Như ngày bính bản thân tự vượng, một mình nhìn thấy tháng sửu, không có canh tân lộ ra, cùng với tỵ dậu sửu cục, đúng là bối lộc thật sự.
Quan tọa nhận đầu chung bị hình, quý áp tam hình tu chấp chánh.
(Quan ngồi trên dương nhận cuối cùng bị hình, quý đè ép tam hình cần phải nắm giữ quyền).
Như ngày giáp gặp tháng tân mão, cùng với giờ tân mão, quan không được lệnh, trái lại bị đinh hoả (không hiểu sao lại có đinh hoả trong mão?!) trong mão thương khắc, tuế vận lại thấy, nhất định gặp hình. Nếu quan sát chế phục thích hợp, tuy lấy quý để luận, gặp dương nhận cuối cùng xấu, là dương nhận rất làm hỏng phúc lành.
Quý áp tam hình (quý đè ép tam hình), chính là trong mệnh phạm tam hình, tuy xấu, nếu một thiên ất quý nhân soi sáng. Sanh vượng đúng lúc, trái lại chủ nắm quyền về pháp luật và hình phạt, có khả năng chuyên đem binh đi đánh giặc. Quý nhân mà không sanh vượng, cũng có thể coi là thuận khuôn phép mà đoán. Đúng quý thần là sát tốt nhất.
Đức cái thất sát, tất thị an thiện chi sĩ. Hoa nghênh lục hợp, khởi phi dâm đãng chi nhân.
(Đức bao trùm thất sát, đúng là người tĩnh toạ nhập định. Đào hoa đón lục hợp, sao không phảingười dâm đãng).
Đức tức là thiên đức và nguyệt đức, chính là từ thiện thần. Thất sát chính là cô thần sát.
Đức cái thất sát (đức bao trùm thất sát) chủ là người có đạo đức, nhờ đạo đức mà sanh phú quý.
Hoa tức là đào hoa sát, chính là dâm đãng sát. Lục hợp chính là đa tình sát.
Hoa nghênh lục hợp (đào hoa nghênh đón lục hợp) chủ ham mê sắc đẹp và ca hát, không phải là người ngay thẳng.
Lại thêm: tương tự như người sanh mậu ngọ thấy quý sửu, chính là can chi giao hợp, là cổn lãng (sóng cuồn cuộn) đào hoa (cổ nhân có câu đào hoa khinh bạc 桃花輕薄 vì thế nay mới gọi con gái bất trinh là đào hoa, nhà xem số gọi là số đào hoa cũng là do ý đó). Tứ trụ tý ngọ mão dậu là hoa đào khắp canh đồng, chủ đàn ông không mai mối mà cưới, phụ nữ không môi giới mà gã.
Cô quả song toàn đái quan ấn, đương ưng trụ trì; vô tắc chỉ vi đạo hành.
(Có đủ cả hai cô thần và quả tú có quan ấn, xứng đáng là trụ trì; còn không có thì chỉ là đạo hạnh).
Hai sát cô thần và quả tú, sợ cả hai hiện chồng chất, chỉ một vị trí thì mặc kệ (không bàn tới).
Đới quan ấn ở trên tuy là tăng đạo cũng quý, còn như không có chỉ là tăng đạo bình thường mà thôi.
Như giáp tuất mậu thìn canh thìn bính tý;
Giáp tuất mậu thìn canh thìn đinh sửu.
Đều là mệnh trưởng lão thanh cao.
Khống yêu cách giác, phùng sanh vượng tất quá phòng xá; tuyệt tắc chung thủ quan sương.
(Khống và yêu cách trở góc, gặp sanh vượng nhất định quá phòng xá; tuyệt thì cả đời không vợ không chồng).
Không thần và yêu thần là cô quả sát.
Ví dụ lệnh người dần mão thìn, gặp người tỵ thìn gọi là khống thần sát, lại gọi là yêu thần sát.
Gặp người sửu dần gọi là khuy thần sát, lại gọi là truy thần sát. Còn lại phỏng theo đó.
Gặp thêm tuế vận không hoà hợp, tam nguyên hình chiến, là xấu càng nặng.
Thôn đạm toàn bài, gia nhân tiêu tán; không vong biến hiện, thân thuộc li thương.
(Thôn đạm cả hàng, người nhà tan tác; không vong hiện khắp nơi, người thân mắc phải tổn hại).
Hai sát thôn đạm và không vong, chính là thần cô quả khắc hại vậy. Phải hiện khắp nơi ở các hàng, mới như khuôn mẫu mà đoán.
Nếu thực gặp thôn đạm, các cách tài thực quý lộc, gặp không vong càng là không tốt.
Tài ấn song thương, đoán kì tất vô thượng hạ. Quan sát câu khứ, tri kì thiểu thất gia nương.
(Tài ấn cả hai bị thương tổn, đoán nó nhất định không có thượng hạ. Quan sát đều mất, ý thức tuổi trẻ mất cha mẹ).
Đây là hai tiết chuyên luận cốt nhục (người thân thuộc).
Thuần háo thuần nhận giao sai, ngưu dương loại đoạn. Thuần âm thuần dương bài khắc, trư cẩu đồ khán.
(Toàn háo toàn nhận đan xen, đoán tương tự trâu dê. Toàn âm toàn dương khắc trừ, xem bọn heo chó).
Đại háo và dương nhận chính là thần sát rất ác. Cô âm và cô dương chính là thiên can và địa chi không phối hợp. Háo và nhận tụ tập và tiếp xúc trên bốn trụ, chủ thật là hèn mọn, coi như các loại trâu dê mà đoán.
Thiên can tất cả đều nghiêng về một bên, địa chi xung hình phá hại, nhất định là người khog6 có bản tính ngay thẳng, coi như bọn heo chó mà luận. Nếu dịch mã lục hại, hoa cái kiếp sát vong thần các sát của năm tháng, hiện thiên âm hay thiên dương càng xấu. Như giáp tý canh ngọ giáp tý canh ngọ, giáp lấy tân làm quan, canh sát lộ ra, lại không được lệnh. Giáp lấy kỷ làm tài, phát lộc ở tháng ngọ, tý ngọ đối xung, tài cũng không thành tựu, coi như bất nhân bất nghĩa mà đoán.
Như giáp ngọ giáp tuất giáp ngọ giáp tý ba giáp cùng hiện, dùng quan thì quan không lộ, tài ấn đều xung hoàn toàn không có chỗ nương tựa, nên tham vọng không thoả mãn, không nhìn nhận lục thân, là người bạc tình bội nghĩa vậy.
Suy thụ chúng kiêu, nãi thị kí thực trường công. Tuyệt phùng trọng thực, nghi tác đồ hành nha quái.
(Suy mà nhận được nhiều kiêu thần, chính là ăn nhờ công trình lâu dài. Tuyệt gặp nhiều thực thần, nên coi là đồ tể hành nghề môi giới).
Kiêu thần với thực thần trái ngược nhau, cho nên cùng nhau nêu ra, bản thân của nó ghét suy tuyệt giống nhau.
Suy mà gặp kiêu thần, khó coi là thiên ấn; tuyệt mà gặp thực thần, khó coi là thọ tinh; cho nên đều là không tốt.
Kí thực trường công, vì kiêu thần khó được ăn no. Đồ hành nha quái vì thực thần tuy được no nhưng hèn mọn.
Nhược dã thuần quan, thuần sát, thuần mã, thuần tài, thân vượng vô tạp, tắc quan cư cực phẩm.
(Nếu thuần quan, thuần sát, thuần mã, thuần tài, thân vượng không tạp loạn, thì quan sẽ ở bậc cao nhất).
Thông thường mệnh lấy thuần tuý không hỗn tạp là trên hết, nghiêng về khô héo và hỗn loạn là thấp kém.
Lại như ngày giáp, lấy tân làm quan, trong trụ chỉ có dậu, tân các loại, là thuần quan được sử dụng.
Lấy canh làm sát, trong trụ chỉ có chữ thân và canh đó nghĩa là thuần sát.
Lấy chánh tài làm mã, trong trụ chỉ có các chữ sửu mùi kỷ.
Lấy thiên tài làm tài, trong trụ chỉ có các chữ thìn tuất mậu, gọi là thuần mã, thuần tài.
Gặp thân vượng là cách đại phú quý.
Kiến lộc đắc cách, xuất thân tiện thị phú túc. Nhật hạ thứ chi, thì hạ hựu thứ chi.
Kiến lộc ngộ chánh quan đệ nhất, chánh tài thứ chi, duy sát thọ bất vĩnh.
Nhược dương nhận chi nguyệt, thuần sát đệ nhất, tài cách tắc phòng hoành sự.
(Kiến lộc được cách, sanh ra liền giàu có. Dưới trụ ngày thì kế tiếp, còn trụ giờ thì sau nửa.
Kiến lộc gặp chánh quan là số một, chánh tài tiếp theo, chỉ sát là tuổi thọ không bền.
Nếu tháng là dương nhận, thuần sát là số một, còn tài cách thì đề phòng tai hoạ).
Quý mão ất mão kỷ tỵ ất sưu đây là mệnh thuần sát chính là khả năng hết sức tốt đẹp, cũng quý là cực phẩm. Giáp tuất đinh mão kỷ tỵ ất hợi quan sát hỗn tạp, nhờ giáp kỷ hợp hoá thành quý.
Do hỗn tạp biến đổi sức lực nhiều quá, nên sẽ không kết cục tốt đẹp.
Toàn ấn, toàn xung, toàn chế, toàn thực, mệnh cường vô phá, tắc lộc thụ thiên chung.
(Toàn ấn thụ, toàn xung, toàn chế, toàn thực thần, và mệnh cường không bị phá, thì lộc được hưởng ngàn chung).
[Chung: đơn vị dung lượng, sáu hộc bốn đấu là một chung. ◎Như: vạn chung 萬鍾 ý nói bổng lộc hậu]
Toàn ấn như ngày giáp tý gặp tý quý nhâm hợi, hoặc là chánh hoặc là thiên không có hỗn tạp.
Toàn xung tương tự như địa chi thuần hợi thuần tỵ, thuần tý, thuần ngọ, xung ra lộc mã.
Hoặc dần thân tỵ hợi, tý ngọ mão dậu, thìn tuất sửu mùi đều đúng.
Toàn chế như ngày giáp gặp chữ đinh hay chữ ngọ, thương tẫn quan tinh, hư không sanh ra thổ tới là tài.
Toàn thực tương tự như giáp gặp bính, trong trụ thuần dần, cần gặp nhật chủ sanh vượng, chánh khố lâm quan. Tháng ngày giờ đều là quý nhân.
Như kỷ mùi ất hợi bính dần tân mão, đây là toàn ấn lẫn lộn, lại có tân tài khắc hình, đi vận thân vượng sẽ hiển quý. Đi vận thân suy sẽ hình hãm.
Như tân hợi kỷ hợi tân hợi kỷ hợi, tứ trụ toàn hợi, xung xuất bính mậu trong tỵ. Toàn xung thì quý.
Nhật can thái vượng vô y, nhược bất vi tăng, cố nghi vi đạo.
Thiên nguyên doanh nhược vô phụ, nhược bất vi kĩ, tắc đương vi vu.
(Can ngày quá vượng không có chỗ nương tựa, nếu không phải là tăng thì hãy là đạo sĩ.
Thiên nguyên quá nhược không có giúp đỡ, nếu không phải là thợ, thì nên là đồng cốt).
Đây là nói về thái quá (quá nhiều) bất cập (không đủ) đều là không tốt. Thái quá thì tài quan tử tuyệt vì thế chủ lẻ loi đơn độc. Bất cập thì tài quan khó gánh vác, vì thế chủ nghệ (nghề, tài năng, kĩ thuật).
Thấy phúc lành, quý ở trung hoà. Nếu có chỗ nương tựa có giúp đỡ thì không nên bàn luận như vậy.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: trong trụ quan tinh quá vượng, tên của thiên nguyên quá nhược.
Nhật can vượng thậm vô y, nhược bất vi tăng tức đạo.
Thân nhược hữu sanh tất phát, kị tài mã dĩ tương thương.
(Can ngày rất vượng không có chỗ dựa, nếu không là tăng thì là đạo sĩ.
Thân yếu có sanh nhất định phát, kỵ tài mã làm tổn hại nhau).
Đây là thân nhược dụng ấn kỵ tài thương tổn ấn, theo lý thuyết tham tài hoại ấn, cần phải phân mức độ nghiêm trọng của tài ấn mà bàn luận.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: can ngày không có khí lực, trụ giờ gặp dương nhận không là hung.
Dương nhận sở dĩ kiếp tài, trong trụ tài nhiều thân yếu nhược, cho nên dương nhận không kỵ. Phải cùng nhau để luận.
Thực thần phùng kiêu tắc yểu, hỉ tài tinh nhi sanh cứu.
(Thực thần gặp kiêu thần sẽ yểu, thích có tài tinh sẽ được cứu).
Đây là thực thần phạ kiêu (thực thần sợ kiêu thần), cần có tài chế phục kiêu thần, là dụng thần có cứu giúp, cần phải phân mức độ nghiêm trọng của tài mà bàn.
Ấn thì kỵ tài, còn thực thì cần tài, nghĩa mỗi thứ có chỗ chịu trách nhiệm riêng vậy.
Ngày giáp tý gặp giờ tý, không có canh tân thân dậu sửu ngọ, gọi là lộc mã phi lai (lộc mã bay đến).
Đấy là tý diêu tỵ cách.
Giờ canh thân gặp ngày mậu, không có giáp bính mão dần ngọ đinh, tên gọi là thực thần minh vượng (thực thần vượng rõ ràng).
Đây là cách chuyên thực hợp lộc vậy.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: giờ canh thân gặp ngày mậu, tên thực thần trồng nơi can vượng;
Nguyệt phạm giáp bính mão dần, đấy chính là gặp mà không gặp, là vậy.
Canh nhâm tý xung lộc của ngọ, rất kỵ bính đinh. Đó là cách chánh xung lộc mã.
Tân quý sửu hợp cung tỵ, đều ghét tý tỵ. Đó là cách sửu diêu tỵ.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: ngày tân quý thường gặp đất sửu, không thích quan tinh.
Trụ năm và giờ gặp hai cung tý tỵ, danh lợi hư ảo là vậy.
Bính ngọ đinh tỵ chuẩn điều này, rất kỵ hình xung. Đây là cách đảo xung lộc mã.
Ví dụ nhâm tý quý hợi giống nhau, cũng nên đề phòng điền thật.
Trên đây là chánh xung, đảo xung, diêu hợp, thông dung, ý nghĩa phép luật hỗ trợ lẫn nhau.
Đề cử bính đinh với tỵ, kỵ diền thật, Đề cử tý, kỵ hình xung.
Như bính tý, canh dần, bính ngọ, quý tỵ;
Canh dần nhâm ngọ bính ngọ mậu tuất hai mệnh mừng có đủ dần ngọ tuất.
Như tân dậu quý tỵ đinh tỵ ất tỵ;
Quý mão đinh tỵ, đinh tỵ, ất tỵ, hai mệnh mừng có chữ tỵ nhiều, không kể có hợp, hay không hợp đều tốt. Chỉ kỵ chữ thìn ngăn trở, thì không có khả năng xung. Tức là mừng có đủ tỵ dậu sửu, là cách chánh xung vậy. "Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: nếu từ bỏ thương quan nguyệt kiến, như chỗ hung chưa chắc là hung; bên trong có chánh đảo lộc phi, kỵ quan tinh cũng ghét ràng buộc là vậy.
Link đến bản tiếng Hoa:
明通赋三
柱中日干健旺,或有比肩破合去财,
则印煞可以双收,亦主发达,但不清也。
诗云:
忽逢甲己加金局,丙火寻常便可嗟。
运行旺火生身地,功名何处不光华。是也。
建禄遇官则贵,遇财则富。遇印则秀,败财破印。不吉。
建禄则身旺。故用官、用印、用财皆吉。
有败财、羊刃、比肩,则身太旺。
皆足以劫我之财,分我之官,夺我之印。
建禄尤喜印与财,故见败财破印,则偏枯不成造化。
财印俱见混杂,不富不秀,无成之命也。
官煞两停,喜者存之,憎者去之。
武能去正留偏,化官为煞。文能去偏留正,化煞为官。
运逢身旺必加封。财印交差,欲其进也,忌其退也。
贵能见义忘利,取印舍财。富则见利忘义,取财舍印。
岁遇命强而进爵。
官煞不可并用,财印难以交留,故喜增存弃,或去煞留官,或去官留煞,欲忌进退,或取印舍财,或取财舍印,各从其有力而重者用之。文武富贵,亦推言其类,未必尽然。
四格皆以身旺命强为主,岁运生扶为妙。通容融论之。
身与财旺力停,得官煞来亦可化财助印,为福益厚。
身弱无官煞来化,不惟不胜官煞。
而财印交差,身制不让,无可为倚,必定贫贱。
十干背禄,喜见财丰。败逢比肩逐马。
官煞俱有,犹如去煞留官。
印助身强,必定收功拜职。
此言伤官格也。
《喜忌篇》云:十干背禄,岁时喜见官星。
运至比肩,号曰背禄逐马。是也。
五行食神,许乘马盛,祸生正印枭神。
官煞一来,误致反贤败德。
枭神印旺,立见破败伤身。
此言食神格也。此因上文背禄逐马,穷极将官煞而转为福。故此章言因财致富,被官煞助印为祸,而反大坏。
互文见义,不可不详察之。
盖食神喜财怕枭。官煞生印,则枭愈旺。
伤喜见印,食怕见印,故并言之。
戊日午月,勿作刃看。时岁火多,转为印绶。
此羊刃与印同宫,火多则印旺,故能转弱从强。
然刃助身强,又得印助,则文理高致,可以隐恶而扬善。
若有己字透出,仍以刃断。
印刃俱有,其人不免性毒。有好运来成功。
运退刃来,或被财冲起,亦凶。喜正官制中为妙。
如癸亥,戊午、戊午、戊午,此命正合此论。
丙日丑月,非为背禄。支干金旺,反作赀财。
丙日生逢丑月,丑中己土,伤官背禄,主贫。得干支庚辛,金气旺盛,土能生金,却为财断。须丙日建,或寅午戌火局亦旺,可任其财。
时支是丑,支中巳酉合庚辛透出,丙火生旺者,亦合此格。如丙日本身自旺,单见丑月,无庚辛透露,及巳酉丑局,真背禄矣。
官坐刃头终被刑,贵压三刑须执政。
如甲日见辛卯月,及辛卯时,官不得令,反被卯中丁火伤克,岁运又见,定然遭刑。若官煞制伏得宜,虽以贵论,遇刃年终凶,是羊刃最坏造化也。
贵压三刑,乃命中犯三刑,虽凶,若得一个天乙贵人正照。生旺得时,反主掌典刑政,可专征伐。贵人不生旺者,亦可作从政断。是贵神,最为吉煞也。
德盖七煞,必是安禅之士。花迎六合,岂非淫荡之人。
德即天月德,乃慈善神也。七煞,乃孤辰煞也。
德盖七煞,主人有道德,因道德而生富贵。
花即桃花煞,乃淫荡煞也。六合,乃多情煞也。
花迎六合,主好色歌唱,大非端士。
又如:戊午生人,见癸丑之类,乃支干交合,为滚浪桃花。四柱子午卯酉,为遍野桃花,主男不媒而婚,女不媒而嫁。
孤寡双全带官印,当膺住持;无则只为道行。
孤辰、寡宿二煞,怕双逢叠见,只一位不论。
带官印在上,虽为僧道亦贵,如无,只平常僧道而已。
如甲戌、戊辰、庚辰、丙子;
甲戌、戊辰、庚辰、丁丑。
俱是清高长老之命。
控邀隔角,逢生旺必过房舍;绝则终守鳏孀。
控神、邀神,是孤寡煞也。
假令寅卯辰人,见巳,辰人谓之控神煞,又谓之邀神煞。
见丑,寅人谓之窥神煞,又谓之追神煞。余仿此。
更值岁运不和,三元刑战,为凶尤甚。
吞啖全排,家人消散;空亡遍见,亲属离伤。
吞啖空亡二煞,乃克害孤寡之辰也。须全排遍见,方如经断。若食遇吞啖,财食贵禄等格,见空亡尤为不吉。
财印双伤,断其必无上下。官煞俱去,知其少失爷娘。
此二节专论骨肉。
纯耗纯刃交差,牛羊类断。纯阴纯阳排克,猪狗徒看。
大耗羊刃,乃神煞之最恶者。孤阴孤阳,乃干支之不调者。耗、刃攒聚交至四柱上,主贱之极,作牛羊之类断之。
天干皆是一偏,地支冲刑破害,必是无正性之人,作猪狗之徒论之。
若驿马六害、华盖劫煞、亡神年月等煞,见偏阴偏阳,尤凶。如甲子、庚午、甲子、庚午,甲用辛为官,庚煞透出,又不得令。甲用己为财,发禄午月,子午对冲,财又不成,作不仁不义断之。
如甲午、甲戌、甲午、甲子,三甲并见,用官官不显,财印俱冲并无所托,当是贪图无厌、不认六亲、薄情背礼之人也。
衰受众枭,乃是寄食长工。绝逢重食,宜作屠行牙侩。
枭与食相反,故并举之,其身嫌衰绝一也。
衰而逢枭,难作偏印;绝而逢食,难作寿星;故皆不吉。
寄食长工,因枭难得饱食。屠行牙侩,因食虽得饱而贱。
若也纯官、纯煞、纯马、纯财,身旺无杂,则官居极品。
凡命,以纯粹不杂为上,偏枯混乱为下。
且如甲日,以辛为官,柱中只有酉、辛等,是用纯官。
以庚为煞,柱中只有申、庚字,是谓纯煞。
以正财为马,柱中只有丑未己字。
以偏财为财,柱中只有辰戌戊字,谓之纯马、纯财。
值身旺,为大富贵格。
建禄得格,出身便是富足。日下次之,时下又次之。
建禄遇正官第一,正财次之,惟煞寿不永。
若羊刃之月,纯煞第一,财格则防横事。
癸卯、乙卯、己巳、乙丑,此命纯煞乃能尽善,亦贵为极品。甲戌、丁卯、己巳、乙亥,官煞混杂,赖甲己合化为贵。
因杂化力过,不得善终。
全印、全冲、全制、全食,命强无破,则禄受千锺。
全印,如甲日见子癸壬亥,或正,或偏,无所驳杂。
全冲,如地支纯亥、纯巳、纯子、纯午之类,冲出禄马。
或寅申巳亥,子午卯酉,辰戌丑未,皆是。
全制如甲日见丁字或午字,伤尽官星,虚空生出土来为财。全食,如甲见丙,柱中纯寅之类,须得日主生旺,正库临官。月日时者,皆贵人也。
如己未、乙亥、丙寅、辛卯,此全印驳杂,又有辛财克刑,运行身旺则贵显。行身衰,则刑陷。
如辛亥、己亥、辛亥、己亥,四柱纯亥,冲出巳中丙戊。
全冲为贵。)
日干太旺无依,若不为僧,固宜为道。
天元赢弱无辅,若不为技,则当为巫。
此言太过不及,皆不为吉也。
太过,则财官死绝,所以主孤。
不及,则财官难任,所以主艺。
见造化,贵中和也。若有依有辅,则不可以是论。
《喜忌篇》云:柱中官星太旺,天元赢弱之名。
日干旺甚无依,若不为僧即道。
身弱有生必发,忌财马以相伤。
此身弱用印忌财伤印,为贪财坏印之说,须分财印轻重言之。《喜忌篇》云:日干无气,时逢羊刃不为凶。
羊刃所以劫财,柱中财多身弱,故羊刃不忌。须并论之。
食神逢枭则夭,喜财星而生救。
此食神怕枭,要财制枭,为用神有救,须分财轻重言之。
印则忌财,食则要财,义各有所当也。
甲子日逢子时,没庚辛申酉丑午,谓之禄马飞来。
此子遥巳格也。
庚申时逢戊日,无甲丙卯寅午丁,名曰食神明旺。
此专食合禄格也。
《喜忌篇》云:庚申时逢戊日,名食种干旺之方;
月犯甲丙卯寅,此乃遇而不遇。是也。
庚壬子冲午禄,切忌丙丁。
此正冲禄马格也。
辛癸丑合巳宫,须嫌子巳。
此丑遥巳格也。
《喜忌篇》云:辛癸日多逢丑地,不喜官星。
岁时逢子巳二宫,虚名虚利。是也
丙午丁巳准此,最忌刑冲。
此倒冲禄马格也。
壬子癸亥例同,亦防填实。
以上正冲、倒冲,遥合,通融,互文见义。
举丙丁与巳,忌填实也。举子,忌刑冲也。
如丙子、庚寅、丙午、癸巳;
庚寅、壬午、丙午、戊戌,二命喜寅午戌全。
如辛酉、癸巳、丁巳,乙巳;
癸卯、丁巳、丁巳、乙巳,二命喜巳字多,不论有合、无合,皆吉。惟忌辰字绊住,则不能冲。却喜巳酉丑全,是正冲格也。《喜忌篇》云:若送伤官月建,如凶处未必为凶;内有正倒禄飞,忌官星亦嫌羁绊。是也。
.
2
Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》
Viết bởi FM_daubac, 25/06/24 05:20
390 replies to this topic
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Lịch thông thắng |
Thiên Văn - Lịch Pháp - Coi Ngày Tốt Xấu | trongtri |
|
|
|
JD VANCE - Tân Phó Tổng Thống Hoa Kỳ |
Tử Vi | tutruongdado |
|
||
lá số tổng thống Ukraine ô. Zelensky |
Tử Vi | Ngu Yên |
|
||
Xem khoảnh khắc công bố kết quả đầu tiên trong cuộc đua giành chức tổng thống năm 2024 |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
|
|
Bài Diễn Văn Của Tổng Thống Joe Biden |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Truy "long mạch" phát tích gia tộc tổng thống họ Dương |
Địa Lý Phong Thủy | 55555 |
|
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |