Jump to content

Advertisements




Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》


413 replies to this topic

#391 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 03/12/2024 - 13:26

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất

minh thông phú tam

Trụ trung nhật can kiện vượng, hoặc hữu tỉ kiên phá hợp khứ tài,
tắc ấn sát khả dĩ song thu, diệc chủ phát đạt, đãn bất thanh dã.
(Can ngày trong trụ cường mạnh, hoặc có tỷ kiên phá hợp bỏ tài,
Thì ấn và sát cả hai có thể tiếp nhận, cũng chủ phát đạt, chỉ là không thanh).
Thơ nói rằng:
Bỗng gặp giáp kỷ thêm vào kim cục, bính hoả tầm thường liền thở than.
Đi vận đất vượng hoả sanh thân, công danh chỗ nào không chói lọi. Là vậy.

Kiến lộc ngộ quan tắc quý, ngộ tài tắc phú. Ngộ ấn tắc tú, bại tài phá ấn, bất cát.
(Kiến lộc gặp quan sẽ quý, gặp tài sẽ giàu. Gặp ấn sẽ tốt đẹp, còn bại tài phá ấn thì không tốt).
Kiến lộc thì thân vượng. Cho nên dụng quan, dụng ấn hay dụng tài đều tốt lành.
Có bại tài, dương nhận, tỷ kiên thì thân quá vượng.
Tất cả đều đủ để cướp tài của mình, chia cắt quan của mình, và đoạt ấn của mình.
Kiến lộc càng thích ấn với tài, cho nên thấy bại tài phá ấn, sẽ rất khô héo không thành phúc lành.
Tài ấn đều hiện hỗn tạp, không giàu cũng không đẹp, là mệnh không thành tựu.

Quan sát lưỡng đình, hỉ giả tồn chi, tăng giả khứ chi.
(Quan sát cả hai ổn thoả, cái nào thích thì giữ lại, cái nào ghét thì bỏ đi).
Vũ (sức mạnh) có khả năng bỏ chánh mà giữ thiên hoá quan thành sát. Còn văn (ngược lại với vũ) có khả năng bỏ thiên mà giữ chánh, hoá sát thành quan.
Vận gặp thân vượng nhất định được thêm ban tặng. Tài ấn đan xen nhau, muốn nó được tiến tới, kỵ nó thối lui.
Quý có khả năng thấy nghĩa mà bỏ lợi, chọn lấy ấn mà bỏ tài. Giàu sẽ thấy lợi mà quên ghĩa, chọn lấy tài mà bỏ ấn.
Tuế gặp mệnh chường mạnh nên thăng quan tiến chức. 。
Quan và sát không thể cùng lúc dùng, tài ấn khó để giao lưu, cho nên thích và ghét, giữ và bỏ.
Hoặc bỏ sát giữ quan, hoặc bỏ quan giữ sát, muốn tránh tiến thối (nỗ lực hay rụt rè), hoặc chọn ấn bỏ tài, hoặc chọn tài bỏ ấn, mỗi trường hợp nên thuận theo có độ nghiêm trọng mà dùng.
Phú quý của văn hay vũ cũng tương tự suy theo bàn bạc, không nhất thiết phải như vậy.
Bốn cách đều lấy thany vượng mệnh cường làm chủ, tuế vận hỗ trợ thì tuyệt diệu. Biết rõ và chấp nhận hoà hợp là bàn luận.

Thân dữ tài vượng lực đình, đắc quan sát lai diệc khả hóa tài trợ ấn, vi phúc ích hậu.
Thân nhược vô quan sát lai hóa, bất duy bất thắng quan sát.
(Thân với tài vượng lực ngang nhau, được quan sát tới cũng có thể hoá tài trợ ấn, là phúc càng lớn.
Thân nhược không có quan sát tới hoá, không chỉ không thắng được quan sát).
Nhưng tài ấn xung đột nhau, thân chế không nhường, không thể là chỗ dựa, nhất định nghèo hèn.
Mười can bối lộc (vác lộc), thích gặp tài dồi dào. Bại gặp tỷ kiên trục mã (đuổi theo mã).
Quan sát đều có, giống như bỏ sát giữ quan.

Ấn trợ thân cường, tất định thu công bái chức.
(Ấn trợ thân cường, nhất định nhận công lao và phong chức quan).
Đây là nói về cách thương quan.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: Mười can bối lộc (vác lộc) trụ năm và giờ mừng hiện quan tinh.
Vận đến tỷ kiên, tên gọi là bối lộc trục mã (vác lộc đuổi theo mã). Là vậy.

Ngũ hành thực thần, hứa thừa mã thịnh, họa sanh chánh ấn kiêu thần.
Quan sát nhất lai, ngộ trí phản hiền bại đức.
Kiêu thần ấn vượng, lập kiến phá bại thương thân.
(Ngũ hành thực thần, hứa hẹn cưởi ngựa thịnh vượng, hoạ sanh từ chánh ấn và kiêu thần.
Quan sát một khi tới, mê hoặc đến đến làm trái lại tài năng làm bại hoại phẩm cách.
Kiêu thần và ấn vượng, tức thì thấy phá bại thương tổn bản thân).
Đây là nói về cách thực thần. Đó là lý do đoạn văn ở trên nói là bối lộc trục mã (vác lộc đuổi theo mã), hết sức giúp đỡ quan sát chuyển thành phúc. Cho nên chương này nói về nhờ tài dẫn đến giàu, bị quan sát trợ ấn thành hoạ, nên trái lại gây huỷ hoại lớn.
Hỗ trợ lời văn để hiện rõ ý nghĩa, không thể không xem xét tỉ mỉ.
Bởi thực thần thích tài mà sợ kiêu thần. Quan sát sanh ấn, thì kiêu càng vượng.
Thương quan thích thấy ấn, thực thần sợ thấy ấn, vì nói là chiếm nuốt.
Ngày mậu tháng ngọ, chớ xem là nhận. Giờ và năm hoả nhiều, chuyển thành ấn thụ.
Dương nhận này với ấn đồng cung, hoả nhiều thì ấn vượng, cho nên có khả năng chuyển yếu đuối thành cường mạnh.
Nhưng dương nhận trợ thân cường, lại được ấn trợ, thì văn chương và khoa học sẽ tiến bộ, có thể che lấp cái ác mà phô trương cái thiện.
Nếu có chữ kỷ lộ ra, vẫn lấy nhận để đoán.

Ấn nhận câu hữu, kì nhân bất miễn tính độc. Hữu hảo vận lai thành công.
Vận thối nhận lai, hoặc bị tài xung khởi, diệc hung. Hỷ chánh quan chế trung vi diệu.
(Ấn và dương nhận đều có, người này không tránh khỏi bản tính hiểm ác. Có vận tốt đến sẽ thành công.
Vận thối lui dương nhận đến, hoặc bị tài xung khởi, cũng xấu. Mừng chánh quan chế phục thì tuyệt diệu).
Như quý hợi mậu gọ mậu ngọ mậu ngọ đây là mệnh phù hợp với lý luận này.

Bính nhật sửu nguyệt, phi vi bối lộc. Chi can kim vượng, phản tác ti tài.
(Ngày bính tháng sửu, chẳng phải là bối lộc. Can chi là kim vượng, trái lại thành của cải).
Sanh ngày bính gặp tháng sửu, kỷ thổ trong sửu, thương quan bối lộc, chủ nghèo.Gặp được can chi canh tân kim khí vượng, thổ có khả năng sanh kim, tức lấy tài mà đoán. Cần thấy ngày bính, có thể dần ngọ tuất hoả cục cũng vượng, có thể gánh vác của mình.
Chi giờ là sửu, trong địa chi tỵ dậu hợp canh tân lộ ra, bính hoả sanh vượng, cũng hợp cách này. Như ngày bính bản thân tự vượng, một mình nhìn thấy tháng sửu, không có canh tân lộ ra, cùng với tỵ dậu sửu cục, đúng là bối lộc thật sự.

Quan tọa nhận đầu chung bị hình, quý áp tam hình tu chấp chánh.
(Quan ngồi trên dương nhận cuối cùng bị hình, quý đè ép tam hình cần phải nắm giữ quyền).
Như ngày giáp gặp tháng tân mão, cùng với giờ tân mão, quan không được lệnh, trái lại bị đinh hoả (không hiểu sao lại có đinh hoả trong mão?!) trong mão thương khắc, tuế vận lại thấy, nhất định gặp hình. Nếu quan sát chế phục thích hợp, tuy lấy quý để luận, gặp dương nhận cuối cùng xấu, là dương nhận rất làm hỏng phúc lành.
Quý áp tam hình (quý đè ép tam hình), chính là trong mệnh phạm tam hình, tuy xấu, nếu một thiên ất quý nhân soi sáng. Sanh vượng đúng lúc, trái lại chủ nắm quyền về pháp luật và hình phạt, có khả năng chuyên đem binh đi đánh giặc. Quý nhân mà không sanh vượng, cũng có thể coi là thuận khuôn phép mà đoán. Đúng quý thần là sát tốt nhất.

Đức cái thất sát, tất thị an thiện chi sĩ. Hoa nghênh lục hợp, khởi phi dâm đãng chi nhân.
(Đức bao trùm thất sát, đúng là người tĩnh toạ nhập định. Đào hoa đón lục hợp, sao không phảingười dâm đãng).
Đức tức là thiên đứcnguyệt đức, chính là từ thiện thần. Thất sát chính là cô thần sát.
Đức cái thất sát (đức bao trùm thất sát) chủ là người có đạo đức, nhờ đạo đức mà sanh phú quý.
Hoa tức là đào hoa sát, chính là dâm đãng sát. Lục hợp chính là đa tình sát.
Hoa nghênh lục hợp (đào hoa nghênh đón lục hợp) chủ ham mê sắc đẹp và ca hát, không phải là người ngay thẳng.
Lại thêm: tương tự như người sanh mậu ngọ thấy quý sửu, chính là can chi giao hợp, là cổn lãng (sóng cuồn cuộn) đào hoa (cổ nhân có câu đào hoa khinh bạc 桃花輕薄 vì thế nay mới gọi con gái bất trinh là đào hoa, nhà xem số gọi là số đào hoa cũng là do ý đó). Tứ trụ tý ngọ mão dậu là hoa đào khắp canh đồng, chủ đàn ông không mai mối mà cưới, phụ nữ không môi giới mà gã.

Cô quả song toàn đái quan ấn, đương ưng trụ trì; vô tắc chỉ vi đạo hành.
(Có đủ cả hai cô thần và quả tú có quan ấn, xứng đáng là trụ trì; còn không có thì chỉ là đạo hạnh).
Hai sát cô thầnquả tú, sợ cả hai hiện chồng chất, chỉ một vị trí thì mặc kệ (không bàn tới).
Đới quan ấn ở trên tuy là tăng đạo cũng quý, còn như không có chỉ là tăng đạo bình thường mà thôi.
Như giáp tuất mậu thìn canh thìn bính tý;
Giáp tuất mậu thìn canh thìn đinh sửu.
Đều là mệnh trưởng lão thanh cao.

Khống yêu cách giác, phùng sanh vượng tất quá phòng xá; tuyệt tắc chung thủ quan sương.
(Khống và yêu cách trở góc, gặp sanh vượng nhất định quá phòng xá; tuyệt thì cả đời không vợ không chồng).
Không thầnyêu thần là cô quả sát.
Ví dụ lệnh người dần mão thìn, gặp người tỵ thìn gọi là khống thần sát, lại gọi là yêu thần sát.
Gặp người sửu dần gọi là khuy thần sát, lại gọi là truy thần sát. Còn lại phỏng theo đó.
Gặp thêm tuế vận không hoà hợp, tam nguyên hình chiến, là xấu càng nặng.

Thôn đạm toàn bài, gia nhân tiêu tán; không vong biến hiện, thân thuộc li thương.
(Thôn đạm cả hàng, người nhà tan tác; không vong hiện khắp nơi, người thân mắc phải tổn hại).
Hai sát thôn đạmkhông vong, chính là thần cô quả khắc hại vậy. Phải hiện khắp nơi ở các hàng, mới như khuôn mẫu mà đoán.
Nếu thực gặp thôn đạm, các cách tài thực quý lộc, gặp không vong càng là không tốt.

Tài ấn song thương, đoán kì tất vô thượng hạ. Quan sát câu khứ, tri kì thiểu thất gia nương.
(Tài ấn cả hai bị thương tổn, đoán nó nhất định không có thượng hạ. Quan sát đều mất, ý thức tuổi trẻ mất cha mẹ).
Đây là hai tiết chuyên luận cốt nhục (người thân thuộc).

Thuần háo thuần nhận giao sai, ngưu dương loại đoạn. Thuần âm thuần dương bài khắc, trư cẩu đồ khán.
(Toàn háo toàn nhận đan xen, đoán tương tự trâu dê. Toàn âm toàn dương khắc trừ, xem bọn heo chó).
Đại háodương nhận chính là thần sát rất ác. Cô âmcô dương chính là thiên can và địa chi không phối hợp. Háonhận tụ tập và tiếp xúc trên bốn trụ, chủ thật là hèn mọn, coi như các loại trâu dê mà đoán.
Thiên can tất cả đều nghiêng về một bên, địa chi xung hình phá hại, nhất định là người khog6 có bản tính ngay thẳng, coi như bọn heo chó mà luận. Nếu dịch mã lục hại, hoa cái kiếp sát vong thần các sát của năm tháng, hiện thiên âm hay thiên dương càng xấu. Như giáp tý canh ngọ giáp tý canh ngọ, giáp lấy tân làm quan, canh sát lộ ra, lại không được lệnh. Giáp lấy kỷ làm tài, phát lộc ở tháng ngọ, tý ngọ đối xung, tài cũng không thành tựu, coi như bất nhân bất nghĩa mà đoán.
Như giáp ngọ giáp tuất giáp ngọ giáp tý ba giáp cùng hiện, dùng quan thì quan không lộ, tài ấn đều xung hoàn toàn không có chỗ nương tựa, nên tham vọng không thoả mãn, không nhìn nhận lục thân, là người bạc tình bội nghĩa vậy.

Suy thụ chúng kiêu, nãi thị kí thực trường công. Tuyệt phùng trọng thực, nghi tác đồ hành nha quái.
(Suy mà nhận được nhiều kiêu thần, chính là ăn nhờ công trình lâu dài. Tuyệt gặp nhiều thực thần, nên coi là đồ tể hành nghề môi giới).
Kiêu thần với thực thần trái ngược nhau, cho nên cùng nhau nêu ra, bản thân của nó ghét suy tuyệt giống nhau.
Suy mà gặp kiêu thần, khó coi là thiên ấn; tuyệt mà gặp thực thần, khó coi là thọ tinh; cho nên đều là không tốt.
Kí thực trường công, vì kiêu thần khó được ăn no. Đồ hành nha quáithực thần tuy được no nhưng hèn mọn.

Nhược dã thuần quan, thuần sát, thuần mã, thuần tài, thân vượng vô tạp, tắc quan cư cực phẩm.
(Nếu thuần quan, thuần sát, thuần mã, thuần tài, thân vượng không tạp loạn, thì quan sẽ ở bậc cao nhất).
Thông thường mệnh lấy thuần tuý không hỗn tạp là trên hết, nghiêng về khô héo và hỗn loạn là thấp kém.
Lại như ngày giáp, lấy tân làm quan, trong trụ chỉ có dậu, tân các loại, là thuần quan được sử dụng.
Lấy canh làm sát, trong trụ chỉ có chữ thân và canh đó nghĩa là thuần sát.
Lấy chánh tài làm , trong trụ chỉ có các chữ sửu mùi kỷ.
Lấy thiên tài làm tài, trong trụ chỉ có các chữ thìn tuất mậu, gọi là thuần mã, thuần tài.
Gặp thân vượng là cách đại phú quý.

Kiến lộc đắc cách, xuất thân tiện thị phú túc. Nhật hạ thứ chi, thì hạ hựu thứ chi.
Kiến lộc ngộ chánh quan đệ nhất, chánh tài thứ chi, duy sát thọ bất vĩnh.
Nhược dương nhận chi nguyệt, thuần sát đệ nhất, tài cách tắc phòng hoành sự.
(Kiến lộc được cách, sanh ra liền giàu có. Dưới trụ ngày thì kế tiếp, còn trụ giờ thì sau nửa.
Kiến lộc gặp chánh quan là số một, chánh tài tiếp theo, chỉ sát là tuổi thọ không bền.
Nếu tháng là dương nhận, thuần sát là số một, còn tài cách thì đề phòng tai hoạ).
Quý mão ất mão kỷ tỵ ất sưu đây là mệnh thuần sát chính là khả năng hết sức tốt đẹp, cũng quý là cực phẩm. Giáp tuất đinh mão kỷ tỵ ất hợi quan sát hỗn tạp, nhờ giáp kỷ hợp hoá thành quý.
Do hỗn tạp biến đổi sức lực nhiều quá, nên sẽ không kết cục tốt đẹp.

Toàn ấn, toàn xung, toàn chế, toàn thực, mệnh cường vô phá, tắc lộc thụ thiên chung.
(Toàn ấn thụ, toàn xung, toàn chế, toàn thực thần, và mệnh cường không bị phá, thì lộc được hưởng ngàn chung).
[Chung: đơn vị dung lượng, sáu hộc bốn đấu là một chung. ◎Như: vạn chung 萬鍾 ý nói bổng lộc hậu]
Toàn ấn như ngày giáp tý gặp tý quý nhâm hợi, hoặc là chánh hoặc là thiên không có hỗn tạp.
Toàn xung tương tự như địa chi thuần hợi thuần tỵ, thuần tý, thuần ngọ, xung ra lộc mã.
Hoặc dần thân tỵ hợi, tý ngọ mão dậu, thìn tuất sửu mùi đều đúng.
Toàn chế như ngày giáp gặp chữ đinh hay chữ ngọ, thương tẫn quan tinh, hư không sanh ra thổ tới là tài.
Toàn thực tương tự như giáp gặp bính, trong trụ thuần dần, cần gặp nhật chủ sanh vượng, chánh khố lâm quan. Tháng ngày giờ đều là quý nhân.
Như kỷ mùi ất hợi bính dần tân mão, đây là toàn ấn lẫn lộn, lại có tân tài khắc hình, đi vận thân vượng sẽ hiển quý. Đi vận thân suy sẽ hình hãm.
Như tân hợi kỷ hợi tân hợi kỷ hợi, tứ trụ toàn hợi, xung xuất bính mậu trong tỵ. Toàn xung thì quý.

Nhật can thái vượng vô y, nhược bất vi tăng, cố nghi vi đạo.
Thiên nguyên doanh nhược vô phụ, nhược bất vi kĩ, tắc đương vi vu.
(Can ngày quá vượng không có chỗ nương tựa, nếu không phải là tăng thì hãy là đạo sĩ.
Thiên nguyên quá nhược không có giúp đỡ, nếu không phải là thợ, thì nên là đồng cốt).
Đây là nói về thái quá (quá nhiều) bất cập (không đủ) đều là không tốt. Thái quá thì tài quan tử tuyệt vì thế chủ lẻ loi đơn độc. Bất cập thì tài quan khó gánh vác, vì thế chủ nghệ (nghề, tài năng, kĩ thuật).
Thấy phúc lành, quý ở trung hoà. Nếu có chỗ nương tựa có giúp đỡ thì không nên bàn luận như vậy.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: trong trụ quan tinh quá vượng, tên của thiên nguyên quá nhược.

Nhật can vượng thậm vô y, nhược bất vi tăng tức đạo.
Thân nhược hữu sanh tất phát, kị tài mã dĩ tương thương.
(Can ngày rất vượng không có chỗ dựa, nếu không là tăng thì là đạo sĩ.
Thân yếu có sanh nhất định phát, kỵ tài mã làm tổn hại nhau).
Đây là thân nhược dụng ấn kỵ tài thương tổn ấn, theo lý thuyết tham tài hoại ấn, cần phải phân mức độ nghiêm trọng của tài ấn mà bàn luận.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: can ngày không có khí lực, trụ giờ gặp dương nhận không là hung.
Dương nhận sở dĩ kiếp tài, trong trụ tài nhiều thân yếu nhược, cho nên dương nhận không kỵ. Phải cùng nhau để luận.

Thực thần phùng kiêu tắc yểu, hỉ tài tinh nhi sanh cứu.
(Thực thần gặp kiêu thần sẽ yểu, thích có tài tinh sẽ được cứu).
Đây là thực thần phạ kiêu (thực thần sợ kiêu thần), cần có tài chế phục kiêu thần, là dụng thần có cứu giúp, cần phải phân mức độ nghiêm trọng của tài mà bàn.
Ấn thì kỵ tài, còn thực thì cần tài, nghĩa mỗi thứ có chỗ chịu trách nhiệm riêng vậy.
Ngày giáp tý gặp giờ tý, không có canh tân thân dậu sửu ngọ, gọi là lộc mã phi lai (lộc mã bay đến).
Đấy là tý diêu tỵ cách.
Giờ canh thân gặp ngày mậu, không có giáp bính mão dần ngọ đinh, tên gọi là thực thần minh vượng (thực thần vượng rõ ràng).
Đây là cách chuyên thực hợp lộc vậy.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: giờ canh thân gặp ngày mậu, tên thực thần trồng nơi can vượng;
Nguyệt phạm giáp bính mão dần, đấy chính là gặp mà không gặp, là vậy.
Canh nhâm tý xung lộc của ngọ, rất kỵ bính đinh. Đó là cách chánh xung lộc mã.
Tân quý sửu hợp cung tỵ, đều ghét tý tỵ. Đó là cách sửu diêu tỵ.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: ngày tân quý thường gặp đất sửu, không thích quan tinh.
Trụ năm và giờ gặp hai cung tý tỵ, danh lợi hư ảo là vậy.
Bính ngọ đinh tỵ chuẩn điều này, rất kỵ hình xung. Đây là cách đảo xung lộc mã.
Ví dụ nhâm tý quý hợi giống nhau, cũng nên đề phòng điền thật.

Trên đây là chánh xung, đảo xung, diêu hợp, thông dung, ý nghĩa phép luật hỗ trợ lẫn nhau.
Đề cử bính đinh với tỵ, kỵ diền thật, Đề cử tý, kỵ hình xung.
Như bính tý, canh dần, bính ngọ, quý tỵ;
Canh dần nhâm ngọ bính ngọ mậu tuất hai mệnh mừng có đủ dần ngọ tuất.
Như tân dậu quý tỵ đinh tỵ ất tỵ;
Quý mão đinh tỵ, đinh tỵ, ất tỵ, hai mệnh mừng có chữ tỵ nhiều, không kể có hợp, hay không hợp đều tốt. Chỉ kỵ chữ thìn ngăn trở, thì không có khả năng xung. Tức là mừng có đủ tỵ dậu sửu, là cách chánh xung vậy. "Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: nếu từ bỏ thương quan nguyệt kiến, như chỗ hung chưa chắc là hung; bên trong có chánh đảo lộc phi, kỵ quan tinh cũng ghét ràng buộc là vậy.


Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



明通赋三

柱中日干健旺,或有比肩破合去财,
则印煞可以双收,亦主发达,但不清也。
诗云:
忽逢甲己加金局,丙火寻常便可嗟。
运行旺火生身地,功名何处不光华。是也。

建禄遇官则贵,遇财则富。遇印则秀,败财破印。不吉。
建禄则身旺。故用官、用印、用财皆吉。
有败财、羊刃、比肩,则身太旺。
皆足以劫我之财,分我之官,夺我之印。
建禄尤喜印与财,故见败财破印,则偏枯不成造化。
财印俱见混杂,不富不秀,无成之命也。

官煞两停,喜者存之,憎者去之。
武能去正留偏,化官为煞。文能去偏留正,化煞为官。
运逢身旺必加封。财印交差,欲其进也,忌其退也。
贵能见义忘利,取印舍财。富则见利忘义,取财舍印。
岁遇命强而进爵。
官煞不可并用,财印难以交留,故喜增存弃,或去煞留官,或去官留煞,欲忌进退,或取印舍财,或取财舍印,各从其有力而重者用之。文武富贵,亦推言其类,未必尽然。
四格皆以身旺命强为主,岁运生扶为妙。通容融论之。

身与财旺力停,得官煞来亦可化财助印,为福益厚。
身弱无官煞来化,不惟不胜官煞。
而财印交差,身制不让,无可为倚,必定贫贱。

十干背禄,喜见财丰。败逢比肩逐马。
官煞俱有,犹如去煞留官。

印助身强,必定收功拜职。
此言伤官格也。
《喜忌篇》云:十干背禄,岁时喜见官星。
运至比肩,号曰背禄逐马。是也。

五行食神,许乘马盛,祸生正印枭神。
官煞一来,误致反贤败德。
枭神印旺,立见破败伤身。
此言食神格也。此因上文背禄逐马,穷极将官煞而转为福。故此章言因财致富,被官煞助印为祸,而反大坏。
互文见义,不可不详察之。
盖食神喜财怕枭。官煞生印,则枭愈旺。
伤喜见印,食怕见印,故并言之。
戊日午月,勿作刃看。时岁火多,转为印绶。
此羊刃与印同宫,火多则印旺,故能转弱从强。
然刃助身强,又得印助,则文理高致,可以隐恶而扬善。
若有己字透出,仍以刃断。

印刃俱有,其人不免性毒。有好运来成功。
运退刃来,或被财冲起,亦凶。喜正官制中为妙。
如癸亥,戊午、戊午、戊午,此命正合此论。

丙日丑月,非为背禄。支干金旺,反作赀财。
丙日生逢丑月,丑中己土,伤官背禄,主贫。得干支庚辛,金气旺盛,土能生金,却为财断。须丙日建,或寅午戌火局亦旺,可任其财。
时支是丑,支中巳酉合庚辛透出,丙火生旺者,亦合此格。如丙日本身自旺,单见丑月,无庚辛透露,及巳酉丑局,真背禄矣。

官坐刃头终被刑,贵压三刑须执政。
如甲日见辛卯月,及辛卯时,官不得令,反被卯中丁火伤克,岁运又见,定然遭刑。若官煞制伏得宜,虽以贵论,遇刃年终凶,是羊刃最坏造化也。
贵压三刑,乃命中犯三刑,虽凶,若得一个天乙贵人正照。生旺得时,反主掌典刑政,可专征伐。贵人不生旺者,亦可作从政断。是贵神,最为吉煞也。

德盖七煞,必是安禅之士。花迎六合,岂非淫荡之人。
德即天月德,乃慈善神也。七煞,乃孤辰煞也。
德盖七煞,主人有道德,因道德而生富贵。
花即桃花煞,乃淫荡煞也。六合,乃多情煞也。
花迎六合,主好色歌唱,大非端士。
又如:戊午生人,见癸丑之类,乃支干交合,为滚浪桃花。四柱子午卯酉,为遍野桃花,主男不媒而婚,女不媒而嫁。

孤寡双全带官印,当膺住持;无则只为道行。
孤辰、寡宿二煞,怕双逢叠见,只一位不论。
带官印在上,虽为僧道亦贵,如无,只平常僧道而已。
如甲戌、戊辰、庚辰、丙子;
甲戌、戊辰、庚辰、丁丑。
俱是清高长老之命。

控邀隔角,逢生旺必过房舍;绝则终守鳏孀。
控神、邀神,是孤寡煞也。
假令寅卯辰人,见巳,辰人谓之控神煞,又谓之邀神煞。
见丑,寅人谓之窥神煞,又谓之追神煞。余仿此。
更值岁运不和,三元刑战,为凶尤甚。

吞啖全排,家人消散;空亡遍见,亲属离伤。
吞啖空亡二煞,乃克害孤寡之辰也。须全排遍见,方如经断。若食遇吞啖,财食贵禄等格,见空亡尤为不吉。

财印双伤,断其必无上下。官煞俱去,知其少失爷娘。
此二节专论骨肉。

纯耗纯刃交差,牛羊类断。纯阴纯阳排克,猪狗徒看。
大耗羊刃,乃神煞之最恶者。孤阴孤阳,乃干支之不调者。耗、刃攒聚交至四柱上,主贱之极,作牛羊之类断之。
天干皆是一偏,地支冲刑破害,必是无正性之人,作猪狗之徒论之。
若驿马六害、华盖劫煞、亡神年月等煞,见偏阴偏阳,尤凶。如甲子、庚午、甲子、庚午,甲用辛为官,庚煞透出,又不得令。甲用己为财,发禄午月,子午对冲,财又不成,作不仁不义断之。
如甲午、甲戌、甲午、甲子,三甲并见,用官官不显,财印俱冲并无所托,当是贪图无厌、不认六亲、薄情背礼之人也。

衰受众枭,乃是寄食长工。绝逢重食,宜作屠行牙侩。
枭与食相反,故并举之,其身嫌衰绝一也。
衰而逢枭,难作偏印;绝而逢食,难作寿星;故皆不吉。
寄食长工,因枭难得饱食。屠行牙侩,因食虽得饱而贱。

若也纯官、纯煞、纯马、纯财,身旺无杂,则官居极品。
凡命,以纯粹不杂为上,偏枯混乱为下。
且如甲日,以辛为官,柱中只有酉、辛等,是用纯官。
以庚为煞,柱中只有申、庚字,是谓纯煞。
以正财为马,柱中只有丑未己字。
以偏财为财,柱中只有辰戌戊字,谓之纯马、纯财。
值身旺,为大富贵格。

建禄得格,出身便是富足。日下次之,时下又次之。
建禄遇正官第一,正财次之,惟煞寿不永。
若羊刃之月,纯煞第一,财格则防横事。
癸卯、乙卯、己巳、乙丑,此命纯煞乃能尽善,亦贵为极品。甲戌、丁卯、己巳、乙亥,官煞混杂,赖甲己合化为贵。
因杂化力过,不得善终。

全印、全冲、全制、全食,命强无破,则禄受千锺。
全印,如甲日见子癸壬亥,或正,或偏,无所驳杂。
全冲,如地支纯亥、纯巳、纯子、纯午之类,冲出禄马。
或寅申巳亥,子午卯酉,辰戌丑未,皆是。
全制如甲日见丁字或午字,伤尽官星,虚空生出土来为财。全食,如甲见丙,柱中纯寅之类,须得日主生旺,正库临官。月日时者,皆贵人也。
如己未、乙亥、丙寅、辛卯,此全印驳杂,又有辛财克刑,运行身旺则贵显。行身衰,则刑陷。
如辛亥、己亥、辛亥、己亥,四柱纯亥,冲出巳中丙戊。
全冲为贵。)

日干太旺无依,若不为僧,固宜为道。
天元赢弱无辅,若不为技,则当为巫。
此言太过不及,皆不为吉也。
太过,则财官死绝,所以主孤。
不及,则财官难任,所以主艺。
见造化,贵中和也。若有依有辅,则不可以是论。
《喜忌篇》云:柱中官星太旺,天元赢弱之名。

日干旺甚无依,若不为僧即道。
身弱有生必发,忌财马以相伤。
此身弱用印忌财伤印,为贪财坏印之说,须分财印轻重言之。《喜忌篇》云:日干无气,时逢羊刃不为凶。
羊刃所以劫财,柱中财多身弱,故羊刃不忌。须并论之。

食神逢枭则夭,喜财星而生救。
此食神怕枭,要财制枭,为用神有救,须分财轻重言之。
印则忌财,食则要财,义各有所当也。
甲子日逢子时,没庚辛申酉丑午,谓之禄马飞来。
此子遥巳格也。
庚申时逢戊日,无甲丙卯寅午丁,名曰食神明旺。
此专食合禄格也。
《喜忌篇》云:庚申时逢戊日,名食种干旺之方;
月犯甲丙卯寅,此乃遇而不遇。是也。
庚壬子冲午禄,切忌丙丁。
此正冲禄马格也。
辛癸丑合巳宫,须嫌子巳。
此丑遥巳格也。
《喜忌篇》云:辛癸日多逢丑地,不喜官星。
岁时逢子巳二宫,虚名虚利。是也
丙午丁巳准此,最忌刑冲。
此倒冲禄马格也。
壬子癸亥例同,亦防填实。

以上正冲、倒冲,遥合,通融,互文见义。
举丙丁与巳,忌填实也。举子,忌刑冲也。
如丙子、庚寅、丙午、癸巳;
庚寅、壬午、丙午、戊戌,二命喜寅午戌全。
如辛酉、癸巳、丁巳,乙巳;
癸卯、丁巳、丁巳、乙巳,二命喜巳字多,不论有合、无合,皆吉。惟忌辰字绊住,则不能冲。却喜巳酉丑全,是正冲格也。《喜忌篇》云:若送伤官月建,如凶处未必为凶;内有正倒禄飞,忌官星亦嫌羁绊。是也。



.

Thanked by 2 Members:

#392 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 05/12/2024 - 13:32

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất

minh thông phú tứ

Lục tân nhật nhi vô ngọ tự, đắc mậu tý thì, tân hợp bính quan vi quý.
(Sáu ngày tân mà không có chữ ngọ, được giờ mậu tý, tân hợp bính quan nên quý).
Đây là cách lục âm triều dương. Như:
Mậu thìn thân dậu tân sửu mậu tý;
Mậu thìn tân dậu tân dậu mậu tý;
Ất sửu canh thìn tân dậu mậu tý là những cách này.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: sáu ngày tân giờ gặp mậu tý, ghét vị trí ngọ vận thích phương tây là vậy.

Lục quý nhật nhi vô can thổ, đắc giáp dần thì, dần hình tị cách vưu kì.
(Sáu ngày quý mà không có can thổ, được giờ giáp dần, dần hình tỵ càng đặc biệt).
Đây là cách hình hợp. Cách này chủ tính khí cứng cỏi, nên hiện khoái thái sát. Như:
Ất mùi giáp thân quý dậu giáp dần, ghét canh trong thân thương tổn giáp mộc, dần thân đối xung,
Cho nên tuy quý mà giảm phần số, lợi dày mà danh tiếng thấp.
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: sáu ngày quý trụ giờ gặp dần, trụ năm và tháng sợ kỷ mậu hai chỗ là vậy.

Quý vô bính hỏa mậu kỉ canh thân thì, hợp nhất kỉ (có lẽ là chữ tỵ) chi tài quan.
(Quý không có bính hoả mậu kỷ giờ canh thân, hợp nhất tài quan của tỵ).
Đây là cách chuyên ấn hợp lộc. Cùng với chuyên thực xem giống nhau.
Nhâm có tý ngọ mão dậu chánh khí, trụ bao gồm thổ lộc của tứ quý (thìn tuất sửu mùi).
Ngày nhâm làm chủ, đã không có quan sát, tức là được tý ngọ mão dậu là tứ chánh.
Có khả năng hợp xuất ra thìn tuất sửu mùi làm quan lộc, không cần phải tứ chánh đều hội tụ, nhưng được đầy đủ bốn chữ càng tuyệt diệu.
Ngày quý giống ở trên, sao thổ chớ xâm phạm.
Người được vậy sẽ có cả lợi ích và tổn hại, quan cao mà thân bệnh.
Người gặp phải hình ơn xác thật, chức cao mà nhà nghèo.
Ngày quý làm chủ, tức là gồm cả thổ lộc hiện tý ngọ mão dậu, cùng với ngày nhâm giống nhau, tốt xấu làm bạn với nhau vậy.

Giáp khúc trực, bính viêm thượng, quan cao khắc thê nhi bất phú.
Mậu tòng cách, canh nhuận hạ, chức trọng tự thiểu nhi tự bần.
(Giáp là khúc trực, bính là viêm thượng, quan cao mà khắc vợ con nên không giàu.
Mậu là tòng cách, canh thì nhuận hạ, chức cao mà ít người thừa kế nên tự nghèo).
Giáp thấy hợi mão mùi gọi là khúc trực. Bính thấy dần ngọ tuất, gọi là viêm thượng. Mậu thấy tỵ dậu sửu gọi là tòng cách. Canh thấy thân tý thìn gọi là nhuận hạ.
Giáp bính thấy mộc hoả cục thì quá vượng, có khả năng tam hợp lôi ra quan cục, cho nên chủ là quan cao.
Nhưng có dương nhận, kiếp tài cho nên khắc vợ.
Mậu canh thấy kim thuỷ cục sẽ thoát khí, có khả năng tam hợp lôi ra quan cục, cho nên chủ chức cao.
Nhưng trong trụ vốn là không có quan sát, cho nên ít con.
Cần phải hiểu bốn cách này, tất cả đều là nghiêng về một nhóm, vì thế phúc lộc không đầy đủ.

Thân phạm hưu tù chi địa, tịnh xung quan quý hà ta.
(Thân phạm đất hưu tù, cùng nhau xung quan lộc có sao đâu).
Như ngày tân hợi, đã không có quan sát, bản thân lại không vượng, làm sao không buồn rầu?
Không hiểu rằng chữ hợi nhiều, cũng có thễung xuất ra quan ấn trong tỵ nên quý, cho nên nói hà ta (có sao đâu).

Tự chuyên quan vượng chi chi, đồng điếu (câu cá) lộc tử do quý.
(Vốn là một mình địa chi của quan vượng, cùng nhau tìm cách lấy lộc con giống quý).
Đó tức là các ngày đinh tỵ, quý hợi, bính ngọ, nhâm tý
Tự ngồi ở lâm quan, đế vượng. Chi thần thường có khả năng xung xuất quan lộc ở đối cung.
Ý nghĩa giống với lời văn trên.

Âm mộc độc ngộ tý thì, một quan tinh, ất trấn thử khỏa tối quý.
(Âm mộc chỉ gặp giờ tý, không có quan tinh, ất áp chế ổ chuột rất quý).
Đây là cách lục ất thử quý. Nghĩa lời văn "Hỷ Kỵ Thiên" giống nhau.
Như giáp dần mậu thìn ất hợi bính tý, tứ trụ đặc biệt không có cách khác động diêu (chạm đến từ xa), bính tý cũng không động diêu, an nhiên nên quý. "Sách" nói rằng: "có khi thần không thể động diêu" là vậy
Như giáp dần quý dậu ất hợi bính tý, lệnh tháng thiên quan thương tổn bản thân, nhờ ấn vượng dưới trụ ngày, cũng không mất y lộc.
Như tân hợi giáp ngọ ất hợi bính tý, đây là mệnh quý bị ngọ phá, hai hợi tự hình. Bản thân đã ở tử địa, lại gặp tự hình, cho nên chủ nghèo hèn.

Dương thủy điệp phùng thìn vị, vô xung khắc, nhâm kị long bối phi thường.
(Dương thuỷ liên tiếp gặp vị trí thìn, không có xung khắc, nhâm kỵ long bối thì không tầm thường).
Đây là cách nhâm kỵ long bối. Nghĩa của lời văn giống "Hỷ Kỵ Thiên".
Như nhâm thìn giáp thìn nhâm thìn nhâm dần, nhâm lấy kỷ làm chánh quan, đinh làm chánh tài.
Chữ thìn nhiếu, xung xuất ra quan trong tuất khố, hư hợp tài quan trong ngọ, dần ngọ tuất tam hợp hoả cục, người nhâm được vậy nên quý.
Như nhâm dần nhâm dần nhâm thìn nhâm dần, người nhâm thấy bính hoả sanh ở dần, tỵ là tài quan. Lại thêm chữ dần nhiều, hợp khởi ngọ tuất tài quan, cho nên lợi lộc vượt qua danh tiếng.

Canh nhật toàn phùng nhuận hạ, kị nhâm quý tị ngọ chi phương. Thì ngộ tý thân, kì phúc giảm bán.
(Ngày canh gặp toàn nhuận hạ, kỵ phương của nhâm quý tỵ ngọ. Trụ giờ gặp tý thân, phúc của nó giảm phân nửa).
Đây là cách tỉnh lan xoa. Nghĩa cùa lời văn giống với "Hỷ Kỵ Thiên".

Hợp quan, hợp tài tác công khanh, phòng hưu tù khắc hại chi nhục.
(Hợp quan hợp tài coi là công khanh, dề phòng xấu hỗ vì hưu tù khắc hại).
Hợp quan tương tự như ngày ất gặp canh. Hợp tài tương tự như ngày giáp thấy kỷ.
Chính là đạo của mười thiên can biến hoá.

"Phú" nói rằng: người thật sự biến hoá, tên là vua và bầy tôi; người giả biến hoá, bản tính khác của cô nhi.
Ất canh hoá kim gặp thuỷ địa. sẽ hưu khốn; gặp hoả địa sẽ khắc hại.
Thông thường đới hợp hoặc là độc vượng, không vui lòng tự tụ về. Hoặc trong hợp gặp xung phá, hoặc một bên phá khắc, đều là hợp mà không thành. Hoặc hoá ở đất hưu tù tử tuyệt, lầm lỗi với hợp, dĩ nhiên sẽ trì trệ không có lợi, là giả biến đổi.
Như kỷ thấy giáp, gặp kỷ mùi là đắc địa, kỷ vượng khố.
Như bính gặp tân, gặp tân mão là thất địa, vì bính hoả bại ở mão.
Mậu với quý hợp, gặp mậu ngọ là đắc địa, mậu quý hoá hoả, vì ngọ là đất hoả vượng . Cũng cần quý thuỷ đắc địa trước, thì hợp mới đúng. Nếu thất địa hay không đúng thời sẽ tổn giảm tuổi thọ.

Cái hóa vi quý vượng, thân nhược bất năng thắng, túng quý diệc thất.
(Bởi hoá thành quý vượng, bản thân yếu không thể vượt hơn, cho dù quý cũng mất).
Lại như bính với tân hợp, gặp tân mùi, dương hoả khí yếu ở mùi, thường chết non, hoặc vì sắc đẹp mà thương tổn. Trụ có nhâm khắc bính, hoặc nhâm ở trên thân tự sanh, xung cung dần đất cùa hoả sanh, chết non không nghi ngờ.
Cũng có khi tham hợp vong quan, như ngày đinh gặp hai, ba chữ nhâm, một mình đinh nhâm thì nhiều, một người không thể vượt hơn số đông, chính là người bẩn thỉu, không có gì nổi bật làm sao có thể thành công? Đinh có lực chẳng qua được phân nửa cái tốt.
Lại như giáp với kỷ hợp, giáp mộc không có cung thông khí, kỷ thổ có vị trí chánh nghĩa, tuy hợp mà mất đi chánh nghĩa, cũng giống bàn luận ở trên. Nếu giáp và kỷ cả hai đều đắc vị, quý hiển rất cao.

"Sách" nói rằng: giáp kỷ mộc thịnh ở nơi thổ, truyền bá nhân từ và chánh nghiã phò tá vua sáng suốt.
Bính tân hợp, bính vượng tân sanh, giữ gìn uy quyền của chức vụ.
Ất canh hợp kim cục, cùng lúc mộc tự vượng, văn thì nhân từ vũ thì chánh nghĩa cả hai có đủ.
Mậu quý được hoả vượng, thêm thuỷ độc vượng, vừa có trí tuệ vừa có lòng dũng cảm trong lễ nghi và pháp luật.
Đinh nhâm thuỷ hoả ký tế, cá nước hoà đồng;
Âm dương can chi hợp nhau, vua và các quan dại thần đang ăn mừng.
Nghe tiếng phượng trên gò cao, chim ưng bay ở chiến trường, là vậy.

Như giáp thìn mậu thìn kỷ tỵ tân mùi, ngày kỷ gặp giáp là chánh quan, khí thông ở tháng ba, dẫn đến ở mùi cùng lúc là chánh ấn, cho nên chủ cực quý.
Như mậu thân canh thân quý hợi mậu ngọ, quý sanh tháng bảy, đất của ấn vượng, thiên đức, hợp mậu là quan, dẫn đến giờ ngọ là đất hoả vượng, lại có khả năng trợ giúp mậu thổ quan, quan và thân đều vượng, cho nên chủ đại quý.

Củng quý, củng lộc vi tướng tướng, kị hình xung điền thật chi hung.
(Củng quý củng lộc là tướng tướng, kỵ hình xung điền thật xấu).
Đây là cách củng quý, củng lộc. "Hỷ Kỵ Thiên" cũng có ý nghĩa giống nhau.
Như đinh tỵ bính ngọ giáp dần giáp tý củng sửu quý. Như nhâm tý đinh mùi đinh tỵ đinh mùi, địa chi năm là tý tự xung xuất ra chữ ngọ, cho nên đại quý. Như quý mão canh thân mậu thìn mậu ngọ củng tỵ lộc.
Như tân sửu tân sửu giáp dần giáp tý có chữ sửu điền thật, tức là lấy tân làm chánh quan để luận. Như kỷ mùi mậu thìn mậu dần mậu ngọ quan sát nhiều, chữ dần xung thân là xung khai, nên củng không thành.
Như nhâm thìn mậu thân kỷ mùi kỷ tỵ đúng là cách này cho nên đại quý.

Quan ấn ám hợp thiên địa, kì quý khả tri. Phúc đức ẩn tại chi trung, kì đức vưu tụy.
(Quan ấn ngầm hợp thiên địa, nó quý có thể biết. Phúc đức ẩn trong địa chi, đức hạnh càng nổi bật).
Quan ấn ám hợp tức thực thần ám hợp chánh quan, thiên tài ám hợp chánh ấn.
Như giáp dụng tân là quan, bính thịnh có khả năng hợp tân mùi là quan.
Dụng quý là ấn; mậu vượng ám hợp quý sửu là ấn; được thêm địa chi là tý hợp sửu.
Có ngọ hợp mùi mới đúng là.
Phúc đức ẩn tàng: phúc tức là phúc tinh quý; đức tức là thiên nguyệt đức hoặc chỉ phúc đức tú khí, hoặc chỉ thiên ất quý nhân, vì ẩn tàng ở trong địa chi thì tuyệt diệu.
Như giáp mậu canh không hiện sửu mùi, nhưng được chữ kỷ tức là đúng. Gặp kỷ ở cung sửu mùi càng tuyệt diệu.
Trụ không có mão ất phá, thêm sanh ở các tháng cuối mùa, kỷ thổ được lệnh, chủ quý nhân hiện vui mừng, tương lai có địa vị tôn kính. Vợ hiền cùng với được tài sản.
Lại nói rằng: người giáp gặp sửu, thích ngồi ở dương nhận là thiên ất đang quản lý, hiện mùi sanh ban đêm thì đắc lực, là phúc hoàn hảo. Ngược với điều này thì luận một nửa.

Tứ trụ đái giáp mậu canh toàn, đắc ất sửu vi tụ quý, canh gia phúc lực.
(Tứ trụ có giáp mậu canh đầy đủ, được ất sửu là tụ quý, càng thêm phúc lực).
Nếu một canh, một giáp, hiện ba bốn chi thần sửu mùi là quý hội họp, cũng tăng phúc lực.
Nếu bổn chủ cùng với quý nhân đều sanh vượng, chỉ mất một chữ, phúc của nó vẫn đầy đủ.
Mừng tam hợp, lục hợp, kỵ hưu tù , không vong và phá.
Thơ nói: quý nhân đế toạ (ngôi vua) gặp sanh thành,
Nơi quan vượngdanh sớm thành. Nếu gặp hưu tù hợp phá và chế; danh hão dấu vết tranh xa tam công (ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保).

Ngũ hành chánh quý, phạ hình xung khắc hại chi thần. Tứ trụ cát thần, hỉ quan vượng sanh hợp chi địa.
(Ngũ hành chánh quý sợ hình xung khắc hại. Tứ trụ cát thần thích quan vượng đất sanh hợp).
Ngũ hành chánh quý: chính là chánh khí quan tinh. Tương tự như giáp sanh tháng dậu.
Rất sợ dậu hình mão xung, đinh khắc tuất hại, thương tổn mất quý khí.
Hoặc lấy quý làm quý thần, như giáp thấy sửu, trong sửu có tân, lại là chánh quan của giáp.
Trụ có mão ất khắc huỷ quý của sửu, thích tỵ dậu tam hợp, ất mộc khắc xung sửu không còn quý.
Hoặc có tý hợp sửu cũng thích nghi. Ngăn trở mộc khắc, như có ất mão, tý mão hình nhau, không còn khả năng khắc sửu mùi, là thiên ất quý nhân.
Tứ trụ cát thần: chính là quan ấn, tài thực, kỳ quý, phúc đức tất cả các sao đều đúng là. Chỉ gặp một sao ở chỗ trường sanh, đế vượng, lâm quan, chánh khố, tam hợp, lục hợp. Không có thì không phú quý. Thơ nói: mệnh người khi sanh ra được toàn cường, ngày giờ có thể đến nơi của lộc mã, đều phải xem trước sau hỗ trợ hợp, nhất định áo gấm vào trung đường (nhà Đường đặt phòng chánh sự cho tể tướng làm việc ở trung thư tỉnh 中書省, nên gọi tể tướng là trung đương 中堂).
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: ngũ hành chánh quý kỵ hình xung phá hại; tứ trụ can chi, thích nơi tam hợp, lục hợp.
Lại nói thêm: địa chi, thiên can hợp nhiều. Cũng nói là thực hợp mất quan. Hai nghĩa đều phải cùng nhau luận.

Nhược dã mộc dục phùng sát, phách vãng phong đô*; nguyên phạm tái thương, hồn quy nhạc phủ.
(Nếu mộc dục gặp sát, hồn vía đến cõi âm ty; nguyên phạm thương tổn lần nửa, hồn vế nhạc phủ).
[* phong dô: tên đất, chỗ Văn Vương 文王 đóng đô ngày xưa, thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, bây giờ. Ở Tứ Xuyên có huyện Phong Đô, ở đây có đền Phong Đô, là chỗ Am Tràng Sinh đời Hán tu đắc đạo, do đó tục mới tin lầm gọi cõi âm ti là Phong Đô thành 酆都城.]
Đây là bàn về lý do hình xung khắc hại. Sợ loả hình (trần truồng) mà gặp sát, vì người sanh thì nhỏ bé mà người khắc thì nghiêm túc. Mệnh vốn phạm đã là không tốt. Tuế vận lại phạm, quyết chết không nghi ngờ.
Như vốn là phạm quan sát, bỏ phối hợp không thanh, trụ không có thực thần có thể giải cứu, tuế vận lại gặp sẽ chết.
Nếu vốn là phạm phá ấn, lưu niên tái phạm sẽ chết. Thông thường dụng thần bị tổn giảm, đều đúng là.
Bốn câu này là văn gốc của "Lạc Lục Tử".

Uý sát phùng sát tắc yểu, ưu quan lạc quan tức vong.
(Sợ sát mà gặp sát sẽ chết non, lo quan mà lạc quan thì chết).
Đây cũng vì ở trên mà trình bày rõ ràng thêm vậy. Trong trụ vốn là sợ quan sát như giáp gặp canh thân là sát, tuế vận lại gặp, trụ không có cứu giải thì chết trẻ. Sát ở năm càng nghiêm trọng. Có ấn sẽ hoá, có thực thần sẽ chế phục, có nhận sẽ hợp, thân vượng sẽ chống cự, nếu đi vận sát vượng cũng chết trẻ.
Lại thêm ngày giáp gặp thìn, là số dương cực, lại là thiết xà quan.
Nhâm thấy sửu, canh thấy tuất, bính thấy mùi thân tất cả đều là dương quan, nói là nghiêm trọng.
Ất thấy thìn, quý thầy sửu, đinh thấy mùi thân là âm quan, nhẹ hơn một chút.

Tứ trụ phạm lưu niên hựu phạm, vận hành hưu tù, chủ tử.
(Tứ trụ phạm mà lưu niên lại phạm, đi vận hưu tù, chủ chết).
Có thể bao trùm thần sát quỷ tặc, có thể nói tên của quan sát rất là nhiều, chẳng phải cố ý nói thất sát dương quan vậy.
Nó thấy rõ ở bàn luận trước "Thọ Yểu Cập Tiểu Nhi Quan Sát Hạ".

Dẫn hợp quan sát ngộ thương thân, trung hạ diệt tuyệt hoạnh yểu thọ.
(Gây ra hợp với quan sát vô tình làm thương tổn bản thân, trung hạ bị tiêu diệt và tuổi thọ ngắn).
Dẫn hợp quan sát như bính hoả đã nhược, lại gặp tân mùi, bính tân đã hợp rồi và bính là quan của tân.
Vị trí mùi chính là cực điểm dương quan của bính, bị nhâm lại tới khắc sẽ chết ngay. Hoặc là tân hợila2 đất của sát càng khẩn cấp, phạm phải bất ngờ lo âu về tai hoạ của mình.
Như bính tuất đinh dậu tân dậu ất mùi, chết năm nhâm thân là vậy.
Trung hạ diệt tuyệt như ngày nhâm tuất là ngồi ở tài, lại ngồi ở sá, địa chi ngày có được sẽ thọ.
Đi vận nhâm thìn, nhâm quý thuỷ tụ ở thìn, khắc phá hoả thổ trong tuất, đặc biệt không có cứu trợ thích hợp thì yểu. Đó là tên gọi đảo xung mệnh nguyên. Thổ vượng thì thuỷ vượng, bản thân của thổ tự sụp đổ huỷ hoại làm sao mà rảnh rỗi để đi cứu trợ.
Thuỷ vượng thì hoả bị diệt, cho nên nói rằng trung hạ tuyệt diệt.
Trung hạ tức là địa nguyên và nhân nguyên. Phân chia của trung và hạ vậy. Còn lại phỏng theo đó mà suy xét.

Thương quan kiến quan, họa hoạn bách đoan. Trục mã phùng mã, lao khổ thiên bàn.
(Thương quan mà gặp quan, trăm mối tai hoạ. Đuổi theo mã mà gặp mã, cực nhọc vất vả ngàn kiểu).
Đây là nói về độc phạm sở kỵ (chỉ phạm chỗ cấm kỵ), cho nên không tốt.
Thương quan kiến quan chỉ có tài tinh thích hợp để tiêu trừ cái độc của thương tổn, xoa dịu cơn giận của quan, chuyển hoạ thành điều tốt lành.
Trục mã phùng mã chỉ có quan sát thích hợp để chế phục dương nhận và kiếp, tuy vất vả cũng được tài của mình.

Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



明通赋四

六辛日而无午字,得戊子时,辛合丙官为贵。
此六阴朝阳格也。如:
戊辰、辛酉、辛丑、戊子;
戊辰、辛酉、辛酉、戊子;
乙丑、庚辰、辛酉、戊子,是此格也。
《喜忌篇》云:六辛日时逢戊子,嫌午位运喜西方”是也。


六癸日而无干土,得甲寅时,寅刑巳格尤奇。
此刑合格也。此格主性气刚,而见快太察。如:
乙未、甲申、癸酉、甲寅,嫌申中庚伤甲木,寅申对冲,
故虽贵而减分数,利厚名低。
《喜忌篇》云:六癸日时逢寅位,岁月怕己戊二方。是也。


癸无丙火戊己庚申时,合一己之财官。
此专印合禄格也。与专食同看。)
壬有子午卯酉正气,柱兼四季之土禄。
壬日为主,既无官煞,却得子午卯酉为四正。
能合出辰戌丑未为官禄,不须四正俱会,但得四字全为妙。
癸日同上,土曜莫侵。
得之者利害交并,官高身病。
遇之者刑惠确实,职重家贫。
癸日为主,却兼土禄见子午卯酉,与壬日同,吉凶相伴也。

甲曲直,丙炎上,官高克妻而不富。
戊从革,庚润下,职重嗣少而自贫。
甲见亥卯未,曰曲直。丙见寅午戌,曰炎上。
戊见巳酉丑,曰从革。庚见申子辰,曰润下。
甲丙见木火局,则太旺,能三合叉出官局,故主官高。
然有羊刃、劫财故克妻。
戊庚见金水局,则脱气,能三合叉出官局,故主职重。
然柱中原无官煞,故少子。
要知此四格,皆偏党,所以福禄不全。

身犯休囚之地,并冲官贵何嗟。
如辛亥日,既无官煞,身又不旺,岂不惆帐?
不知亥字多,亦能冲出巳中官印为贵,故曰何嗟。

自专官旺之支,同钓禄子犹贵。
此即丁巳、癸亥、丙午、壬子等日,
自坐临官、帝旺。支神多能冲出对宫官禄。与上文义同。

阴木独遇子时,没官星,乙镇鼠窠最贵。
此六乙鼠贵格也。《喜忌篇》文义同。
如甲寅、戊辰、乙亥、丙子,四柱别无他格动摇,丙子亦不动摇,安然为贵。《经》云:“有神不可动摇”是也。
如甲寅、癸酉、乙亥、丙子,月令偏官伤身,赖日下印旺,亦不失为衣禄。
如辛亥、甲午、乙亥、丙子,此命贵被午破,两亥自刑。
本身既在死地,又见自刑,两无所依,故主贫贱。)

阳水叠逢辰位,无冲克,壬骑龙背非常。
此壬骑龙背格也。《喜忌篇》文义同。
如壬辰、甲辰、壬辰、壬寅,壬用己为正官,丁为正财。
辰字多,冲出戌中官库,虚合午中财官,寅午戌三合火局。壬人得之为贵。
如壬寅、壬寅、壬辰、壬寅,壬人见丙火生在寅,巳是财官。又寅字多,合起午戌财官,故利胜於名。


庚日全逢润下,忌壬癸巳午之方。时遇子申,其福减半。
此井拦叉格也。《喜忌篇》文义同。

合官、合财作公卿,防休囚克害之辱。
合官,如乙日见庚之例。合财,如甲日见己之例。
乃十干变化之道也。

《赋》云:化之真者,名公巨卿;化之假者,孤儿异性。
乙庚化金见水地,则休困;见火地,则克害。
凡带合或独旺,不肯自就。或合中见冲破,或一边破克,皆合不成。或化在休囚死绝之地,失误与合,必然陷滞不利,是化之假也。
如己见甲,见己未为得地,己旺库也。
如丙见辛,见辛卯为失地,丙火败於卯也。
戊与癸合,见戊午为得地,戊癸化火,午为火旺之地故也。亦须癸水先得地,方合得中。若失地不得时,则损寿。

盖化为贵旺,身弱不能胜,纵贵亦失。
又丙与辛合,见辛未阳火,气弱於未,多夭折,或因色伤。柱有壬克丙,或壬居申上自生,冲寅宫火生之地,夭折无疑。
亦有贪合忘官,如丁日见二、三壬字,丁独壬众,一人不能胜众,乃污合之士,无所卓立岂能成功?丁有力仅得半吉。
又如,甲与己合,甲木无通气之宫,己土有正义之位,虽合而失其正,亦同上论。若甲己两皆得位,贵显高极。

《经》云:甲己木盛於土乡,发扬仁义佐明君。
丙辛合,丙旺辛生,镇守威权之职。
乙庚入金局,兼木自旺,文仁武义双全。
戊癸得火旺,更水独旺,礼律智勇俱备。
丁壬水火既济兮,鱼水和同;阴阳干支相合兮,君臣庆会。听凤鸣于高岗,必鹰扬於疆场。是也。

如甲辰、戊辰、己巳、辛未,己日得甲为正官,三月通气,引於未上,兼为正印,故主极贯。
如戊申、庚申、癸亥、戊午,癸生七月,印旺天德之地,合戊为官,引於午时火旺之地,又能资戊土之官,官身俱旺,故主大贵。

拱贵、拱禄为将相,忌刑冲填实之凶。
此拱贵、拱禄格也。《喜忌篇》文义同。
如丁巳、丙午、甲寅、甲子,拱丑贵。
如壬子、丁未、丁巳、丁未、年支子字冲出午字,故大贵。如癸卯、庚申、戊辰、戊午,拱巳禄。
如辛丑、辛丑、甲寅、甲子,有丑字填实,却以辛为正官论。如己未、戊辰、戊寅、戊午,官煞多,寅字冲申为冲开,则拱不成。
如壬辰、戊申、己未、己巳,是此格也,故大贵。

官印暗合天地,其贵可知。福德隐在支中,其德尤萃。
官印暗合,即食神暗合正官,偏财暗合正印。
如甲用辛官,丙盛能暗合辛未为官。
用癸为印;戊旺位暗合癸丑为印;更得地支有子合丑。
有午合未方是。
福德隐藏,福即福星贵;德即天月德或指福德秀气,或指天乙贵人,以藏在支中为妙。
如甲戊庚不见丑未,但得己字即是。见己在丑未宫尤妙。
柱无卯乙破,更生四季月,己土得令,主贵人见喜,前程尊显。妻贤及得妻财。
又云;甲人见丑,喜坐羊刃,为天乙当职,见未夜生得力,为福十全。反此,一半论。

四柱带甲戊庚全,得乙丑为聚贵,更加福力
若一庚、一甲,见支神三四丑未,为会贵,亦加福力。
若本主与贵人俱生旺,只消一字,其福自全。
喜三合、六合,忌休囚、空破。诗曰。贵人帝座见生成,
官旺之乡名早成。若遇休囚并破制;虚名踪迹远三公。

五行正贵,怕刑冲克害之神。四柱吉神,喜官旺生合之地。
五行正贵,乃正气官星。如甲生酉月之例。
最怕酉刑卯冲,丁克戌害,伤了贵气。
或以贵为贵神,如甲见丑,丑中有辛,又为甲正官之类。
柱有卯乙克坏丑贵,喜巳酉三合,乙木克冲,丑不贵。
或有子合丑亦可。隔木之克,如有乙卯,子卯相刑,不能克丑未,为天乙之贵。
四柱吉神,乃官印、财食、奇贵、福德等星皆是。但得一星临长生、帝旺、临官、正库、三合、六合之位。无不富贵。诗曰:人命生时得一强,日时或临禄马乡,须看前後扶助合,必然衣锦入中堂。《喜忌篇》云:五行正贵,忌刑冲破害之宫;四柱干支,喜三合、六合之地。
又云:地支、天干合多。亦云食合忘官。二义须并论之。

若也沐浴逢煞,魄往酆都;元犯再伤,魂归岳府。
此因刑冲克害而言。怕裸形逢煞,以生之者微,而克之者重。命元犯之,已为不吉。岁运再犯,决死无疑。
如元犯官煞,去配不清,柱无食神可解,岁运再见则死。
若元犯破印,流年再犯,则死。凡用神有损者,皆是。
此四句,《珞琭子》本文。

畏煞逢煞则夭,忧关落关即亡。
此亦因上而申明之也。柱中原怕关煞,如甲见庚申为煞,岁运再见,柱无救解者,夭。年煞尤重。有印则化,有食则制,有刃则合,身旺则敌,若行煞旺运,亦夭。
又如,甲日见辰,为阳数极,又为铁蛇关。
壬见丑,庚见戌,丙见未申,皆阳关,曰重。
乙见辰,癸见丑,辛见戌,丁见未申,为阴关,稍轻。

四柱犯流年又犯,运行休囚,主死。
或被神煞鬼贼,或曰关煞之名甚多,非直言七煞阳关也。
其详见前论《寿夭及小儿关煞下》。

引合关煞误伤身,中下灭绝横夭寿。
引合关煞,如丙火既弱,又见辛未,丙辛既合丙就辛官。
未位,乃丙极阳关,再被壬来克即亡。或是辛亥煞地尤紧,犯之横罹其咎。
如丙戌、丁酉、辛酉、乙未,壬申年死是也。
中下灭绝,如壬戌日为坐财,又坐煞,日支有之则寿。
行壬辰运,壬癸水聚於辰,克破戌中火土,别无可救即夭。此名倒冲命元。土旺则水旺,土身自崩坏,何暇救之。
水旺则火灭,故云中下绝灭。
中下者,即地元、人元。中下之分也。余仿此推。

伤官见官,祸患百端。逐马逢马,劳苦千般。
此言独犯所忌,故不吉。
伤官见官,惟有财星可以解伤之毒,劝官之怒,转祸为祥。逐马逢马,惟有官煞可以制刃之劫,虽劳亦得其财。



.

Thanked by 2 Members:

#393 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 07/12/2024 - 09:52

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất

minh thông phú ngũ

Nhược tỷ kiên đa, tha cường ngã nhược, tuy giảm háo, diệc đắc kì tài.
(Nếu tỷ kiên nhiều, nó cường mạnh mình yếu đuối, tuy bớt tiêu hao, cũng được tài).
Không được đồng đều, chỉ được ba bốn phần.

Tài phùng dương nhận dĩ đa thương, ấn kiến thê tài nhi bất phá.
(Tài gặp dương nhận thường là thương tổn, ấn gặp thê tài mà không bị phá).
Điêù này cũng giống nghĩa câu văn ở trên.

Thường mệnh: rất kỵ dương nhận, tài bị phá, ấn bị đoạt, quan giận dữ.
Chỉ mừng có thất sát chế phục. Còn sức của âm nhận suy yếu thì không có hại gì.
Ấn gặp thê tài đúng là thuyết tham tài hoại ấn.
Tuế vận lại gặp chủ phá tài thương tổn vợ, hoặc vì vợ mà kiện tụng.
Nếu nguồn không có tài tinh, hoặc là lực của tài tinh suy yếu, tuế vận có gặp cũng nhẹ.
Chỉ quan sát tiến sanh khuyên bảo, trái lại được tiến cử thành danh.

Thực thần ngộ quả, vô tài tắc yểu. Thân nhược hữu tài, trùng phùng chánh ấn, diệc hung.
Chế sát phùng ấn, hữu xung tắc tru. Mệnh cường vô quan, đan phùng thất sát vưu thắng.
(Thực thần gặp quả tú, không có tài sẽ chết trẻ. Thân nhược mà tài sung túc, gặp lại chánh ấn, cũng xấu.
Chế sát gặp ấn, có xung sẽ trừng phạ. Mệnh cường mạnh không có quan, gặp một thất sát càng tốt đẹp).
"Hỷ Kỵ Thiên" nói rằng: trong trụ gặp đầy thất sát, bản thân yếu đuối rất nghèo không có đất. Đúng là ý nghĩa này vậy.

Tam hình đối xung hoạnh họa sanh, dương nhận đối hợp phi ương chí.
Mộc dục tòng sanh vô gia khách, hưu tù kiến sát bất mai nhân.
(Tam hình đối xung hoạ bất ngờ sanh ra, dương nhận hướng về hợp chẳng phải tai ương đến.
Mộc dục thuận theo trường sanh không có nhà khách, hưu tù thấy sát không chôn người).
Mộc dục, hưu tù đều là nói về bản thân suy. Tòng sanh thì trôi nổi, kiến sát thì thương tổn.

Nguyệt hạ kiếp tài chủ vô tài, hỉ sát vô ấn nhi hữu hoạch.
(Kiếp tài dưới trụ tháng chủ không có tài, mừng sát không có ấn thì có thu hoạch).
Sát có thể chế phục nhận, ấn có khả năng hoá sát. Khi hoá thì không còn khả năng chế phục dương nhận, cho nên thích sát mà bỏ ấn.

Ám trung phá ấn thân phôi ấn, hỉ quan vô thực dĩ gia phong.
(Âm thầm phá ấn bản thân làm hoại ấn, mừng có quan không có thực thần vì được thêm ban chức).
Tài có khả năng phá ấn, quan có khả năng sanh ấn.
Có thực thần sẽ làm hoại quan mà sanh tài, ấn càng bị thương tổn, cho nên thích có quan mà bỏ thực thần.

Quan sát hỗn tạp tiện hoạn hề, huynh đệ thái đa phân tán hề.
(Quan sát lẫn lộn thì tai hoạ thấp kém, anh em quá nhiều nên tản mác).

Hỷ ấn vô chế năng văn, hỉ chế vô ấn năng vũ. Chế ấn câu hữu, lục lục nan thành.
(Mừng ấn không có chế phục có khả năng văn, mừng chế phục không có ấn có khả năng vũ. Chế phục và ấn đều có, chỉ tầm thường khó thành công).
Ấn có khả năng hoá sát, thực thần có khả năng chế phục sát. Có hoá thì chớ nên chế phục. Có chế phục chớ nên hoá. Chế phục và hoá quá mức, thì sát không có khí lực, ngược lại là không tốt.

Dương nhận toàn lại sát chế, hoặc hóa tác ấn thụ,
(Dương nhận đầy đủ nhờ sát chế phục, hoặc hoá coi là ấn thụ).
Giống như ngày mậu tháng ngọ. Là chế phục hay hoá chỉ dùng một mà thôi, đều có khả năng có thành công.

Lộc mã bối trục cơ hàn hề, tài ấn tương phá quát nang hề
Hỷ quan đái sát vi quyền, ái sát đái quan vi quý. Quan sát đan kiến, tỏa tỏa bất toại.
(Lộc mã bối trục thì đói rét, tài ấn phá nhau bao gồm cái túi.
Mừng quan có sát thành quyền, thích sát có quan thành quý. Quan sát hiện lẻ loi, vụn vặt không thành tựu).
Lộc mã bối trục, tài ấn tương phá cần quan sát thấy liên tục, mới có khả năng chế phục tỷ kiếp mà sanh tài, sanh ấn thụ mà hoá tài. Đơn kiến thì lực yếu đuối, làm sao có thể toại ý?

Kiêu ấn tương tạp sủng nhục hề, tài mã thái đa đạo khí hề.
(Kiêu ấn lẫn lộn nhau ưu ái và xấu hổ, tài mã quá nhiều trộm khí lực).
Mừng bản thân vượng nên thành phúc, kỵ vận yếu nhược vì gây ra tai hoạ.

Thiên chánh nhị ấn tương tạp, thiên chánh nhị tài câu hữu.
(Thiên chánh hai ấn lẫn lộn nhau, thiên chánh hai tài đều có).
Nếu thân yếu đuối không thể thành đời sống chung, cùng nhau nhận lấy tài, trong đó cần phân chia thiên chánh và cường nhược.
Nếu thiến ấn thiên tài cường, thân vượng vận cường đột nhiên phát phúc. Chánh ấn chánh tài cũng như vậy.

Quan lộc khắc phá yểu tử hề, khố mộ xung tán vô xan hề.
Kỵ trùng phá nhi vô y, hỉ tỉ kiên nhi khả cứu.
(Quan lộc khắc phá thì chết trẻ, mộ khố xung tán không có cơm ăn.
Kỵ phá chồng chất nên không chỗ nương tựa, mừng tỷ kiên nên có thể cứu giúp).
Quan là quan tinh. Lộc là chánh lộc.
Như giáp thấy tân và dần, lại thấy canh thân, và giống như với tỵ với ngọ, tuế vận lại gặp tức chết yểu. Nếu bản thân vượng, có tỷ kiên cũng cò thể coi là vượng để bàn luận.
Lại như giáp lấy sửu làm quan khố, cần được chữ mùi xung mở, dùng mùi thì không thể thấy hai sửu. Có sửu thì không thể thấy hai mùi. Lại kỵ cả đinh sửu, đinh mùi vì đinh thương tổn tân quan. Thấy quý mùi, quý sửu, quý thuỷ có thể chế phục đinh hoả. Kỷ sửu, kỷ mùi, kỷ thổ có thể sanh tân quan. Kỷ là tài của giáp, quý là ấn của giáp, bính là thực thần của giáp, người mà địa chi thiên can sanh vượng không có phá thì phú quý.
Có hiện một chút xung khắc thì giảm bớt phần số. Còn xung khắc nhiều quá, trái ngược lại thành nghèo khó.
Trên đây đè cử lặt vặt tài quan ấn thụ, thực thần thương quan, quan sát dương nhận, tỷ kiên kiêu thần.

Kỵ nhau hay cần nhau, chế phục nhau hay hợp nhau, tương tác với nhau mà nói phải xem chỗ dùng các thần như thế nào.
Ngày thì mạnh yếu như thế nào
Sách nói rằng: nhật chủ rất nên kiện vượng, dụng thần không thể bị tổn thương. Đó là nói một cách ngắn gọn vậy.
Kiếp tài dương nhận, rất kỵ gặp ở trụ giờ. Tuế vận cùng nhau đến, tai hoạ lập tức đến.

Tuế xung vận tắc băng, vận khắc tuế tắc hối.
(Tuế xung vận sẽ sụp đổ, vận khắc tuế sẽ tối tăm).
Đây là tập trung luận tuế vận. Tuế là chỗ bao trùm của trời, vận là chỗ chuyên chở của đất.
Tuế vận không thể cả hai xung kích nhau, nặng thì sụp đổ, nhẹ thì tối tăm. Trong mệnh rất cần phải hoà hợp nhau, thì thiên địa hanh thông thuận lợi, phúc lộc tự đến.
Thái tuế xung vận, hoạ của nó nặng; vận khắc thái tuế hoạ sẽ nhẹ. Xem xét các thuyết "Uyên Nguyên, Uyên Hải", chẳng qua lấy vận khắc tuế là nặng, tuế khắc vận là nhẹ, tức là ý nghĩa của ngày phạm thái tuế. Kiểm tra mệnh của ta, đi vận đinh tỵ, gặp lưu niên quý hợi, quý thương tổn đinh, hợi thì xung tỵ, là tuế xung vận, năm đó từ bỏ chức quan có tang mẹ, nhận tai hoạ rất thảm, có thể lấy làm thí dụ để quan sát vậy.

Âm khí chung nhi dương khí đoạn, vị tử kham ta.
Dương sổ cực nhi âm mệnh truy, bất trở hà đãi?
(Âm khí kết thúc và dương khí đoạn, chưa chết chịu được than ôi.
Dương số cực nên âm mệnh đuổi theo, không mâm tế lễ đợi làm gì?)
Giáp thấy thìn, bính thấy mùi, mậu thấy sửu, canh thấy tuất, nhâm thấy sửu là dương khí cực.
Ất thấy tuất đinh thấy sửu tỵ, quý thấy mùi, tân thấy thìn, là âm số kết thúc. Tuế vận gặp phải càng xấu.
Lại nói rằng: ất thìn, đinh mùi, kỷ sửu, tân tuất cũng là âm phù (dấu hiệu âm) đuổi theo tới, dương số gãy trước,nếu ngừng khi đang sanh, thì tứ trụ không có hại gì. Rất sơánh đã phạm, tuế vận lại thấy chết liền lập tức.
Lại nói rằng: âm can gặp dương cực là âm gặp dương quan; dương can ở âm kết thúc là dương gặp âm quan. Thân yếu đuối chỉ sức lực đều còn non; thân vượng được tỷ kiên phe nhóm trợ giúp thì không hại gì.

Ngũ hành hữu cứu, đương ưu bất ưu; tứ thì phùng không, văn hỉ bất hỉ.
(Ngũ hành có cứu giúp, đang lo mà không lo; bốn mùa gặp không vong, nghe vui mà không vui).
Nói về mệnh người gặp tuế vận hung xấu. Tương tự xung khắc, khí kết thúc, số cực (vận mệnh khốn quẫn) ở trên, nếu như ngũ hành có cứu giúp thì đang lo mà không còn lo. Còn bốn mùa gặp không vong, là lưu niên thái tuế gặp cát thần, nhưng gặp không vong thì nghe vui mà không vui.
Hoặc nói: giáp lo lắng canh, gặp được ất có thể cứu giúp; tương tự mùa xuân không có thổ, nên không sợ thổ xấu, không mừng thổ là phúc.
"Sách" nói rằng: canh tân tới thương tổn giáp ất, bính đinh thấy trước không có nguy hiểm.
Lại nói rằng: mùa xuân không có thổ, mùa hạ không có kim, mùa thu không có mộc, mùa đông không có hoả là vậy.

Dưới đây có hai mươi câu luận bàn về người phụ nữ, đã dẫn chuyên luận phụ nhân môn. Cho nên không ghi lại.
Vì vậy âm dương khó đoán, không thể suy xét theo một hướng; quý tiện khó phân, cần phải nắm cả hai mối mà đoán. Nghiên cứu nét chính lời văn truyền lại của các cổ thánh, đơn giản hoá cho người đời này nghiên cứu tường tận.
Nếu tuân theo phương pháp nghiên cứu này và hiểu ra, xem xét mệnh hầu như không có sai lầm.

Đây là tổng kết ý nghĩa của các cách ở bài viết ở trên. Trên đây chỉ ra các cách, đều được bàn luận ở quyển trước cho nên không ghi chú chi tiết. "Hỷ Kỵ Thiên thêm Kế Thiện Thiên", là một biến thể của bài phú này, người ngày nay chỉ biết có hai chương này, mà không biết có phú này. Cho nên ghi chép lạii.


Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



明通赋五

若比肩多,他强我弱,虽减耗,亦得其财。
不得均平,止三四分之一。
财逢羊刃以多伤,印见妻财而不破。
此亦同上文之义。
凡命:最忌羊刃,财格被破,印格被夺,官格冲怒。
只喜七然制之。阴刃力微无妨。
印见妻财,是贪财坏印之说也。
岁运又见,主破财伤妻,或因妻致讼。
若原无财星,或财星力微,岁运见之,稍轻。
惟官煞进生解劝,反得举荐成名。

食神遇果,无财则夭。身弱有财,重逢正印,亦凶。
制煞逢印,有冲则诛。命强无官,单逢七煞尤胜。
《喜忌》云:柱中七煞全逢,身弱极贫无地。是此义也。

三刑对冲横祸生,羊刃对合非殃至。
沐浴从生无家客,休囚见煞不埋人。
沐浴、休囚,皆身衰也。从生则泛,见煞则伤。

月下劫财主无财,喜煞无印而有获。
煞能制刃,印能化煞。化则不能制刃,故喜煞而去印。

暗中破印亲坏印,喜官无食以加封。
财能破印,官能生印。
有食则坏官生财,印愈受伤,故喜官而去食。

官煞混杂贱患兮,兄弟太多分散兮。
喜印无制能文,喜制无印能武。制印俱有,碌碌难成。
印能化煞,食能制煞。有化莫制。有制莫化。
制化太多,则煞无气,反为不吉。

羊刃全赖煞制,或化作印绶,如戊日午月之类。
是制化止用其一,皆能有成。

禄马背逐饥寒兮,财印相破括囊兮。
喜官带煞为权,爱煞带官为贵。官煞单见,琐琐不遂。
禄马背逐,财印相破,须官煞叠见,方能制比劫而生财,生印绶而化财。单见则力薄弱,岂能遂意?

枭印相杂宠辱兮,财马太多盗气兮。
喜身旺而为福,忌运弱以生灾。

偏正二印相杂,偏正二财俱有。
若身弱不能双成其生,并受其财,中间要分偏正强弱。
若偏印偏财强,身旺运强,骤然发福。正印正财亦然。

官禄克破夭死兮,库墓冲散无餐兮。
忌重破而无依,喜比肩而可救。
官,官星。禄,正禄。
如甲见辛寅,又见庚申,及巳与午之类,岁运再见,即夭。若身旺,有比肩,亦可作旺论。
又如,甲以丑为官库,要得未字冲开,用未不可见二丑。
有丑不可见二未。又忌丁丑、丁未,丁伤辛官之类。
见癸未、癸丑,癸水能制丁火。己丑、己未。己土能生辛官。
己为甲财,癸为甲印,丙为甲食,支干生旺无破者富贵。
稍见冲克,则减分数。冲克太甚,反为贫窘。

以上杂举财官印绶、食神伤官、官煞羊刃、比肩枭神。
相忌相须,相制相合,交互言之,看所用之神何如。
日於强弱如何。
经云:日主最宜健旺,用神不可损伤。斯言简而尽也。
劫财羊刃,切忌时逢。岁运并临,灾殃立至。

岁冲运则崩,运克岁则晦。
此下专论岁运。岁者,天之所盖,运者,地之所载。
岁运不可两相冲激,重则崩,轻则晦。命中最要相和,则天地亨泰,福禄自臻。
太岁冲运,其祸重;运克太岁,则祸轻。考《渊源,渊海》诸说,仅以运克岁为重,岁克运为轻,即日犯岁君之义也。验余命,行丁巳运,遇癸亥流年,癸伤丁亥冲巳,是岁冲运也。其年罢官丧母,受祸最惨,可以例观矣。

阴气终而阳气断,未死堪嗟。
阳数极而阴命追,不俎何待?
甲见辰,丙见未,戊见丑,庚见戌,壬见丑,为阳气极。
乙见戌,丁见丑巳,癸见未、辛见辰,为阴数终。岁运见之尤凶。
又云:乙辰、丁未、己丑、辛戌、亦是阴符来追,阳数先断,若止当生,四柱无害。最怕生既犯,岁运又见,立死。
又云:阴干遇阳极,为阴遇阳关;阳干在阴终,为阳遇阴关。身弱只力皆夭;身旺得比肩党助,则无害。

五行有救,当忧不忧;四时逢空,闻喜不喜。
言人命遇岁运之凶。以上冲克、气终、数极之类,如五行有救,则当忧不忧。四时逢空,是流年太岁遇吉神,却值空亡,则闻喜不喜。
或曰:甲忧庚,得乙可救;
春无土,不怕土为凶,不喜土为福之类。
《经》云:庚辛来伤甲乙,丙丁先见无危。
又云:春无土,夏无金,秋无木,冬无火是也。

以下有论妇人二十句,已引专论妇人门。故不重录。
是以阴阳罕测,不可一途而推;贵贱难分,要执两端而断。略究古圣之遗文,约以今贤之研详。
若遵此法参悟,鉴命庶无差忒。
此总结上文诸格之义。以上指出诸格,俱论前卷诸格下,故不详注。《喜忌篇加继善篇》,是从此赋变化而出,今人但知有此二篇,而不知有此赋。故录之。)



.

Thanked by 2 Members:

#394 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 08/12/2024 - 13:37

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất

hỉ kị thiên

Tứ trụ xếp đặt, tam tài phân chia.
Tập trung lấy thiên nguyên ở trụ ngày, phối hợp với can chi của bát tự.
Trong địa chi có hiện hay không hiện hình, không khi nào không có.
Thần sát ngăn trở nhau, đo lường mức độ nghiêm trọng.
Nếu mà giờ gặp thất sát, gặp vậy chưa chắc là hung.
Tháng chế phục can mạnh mẽ, thì sát đó trở thành quyền ấn.
Tài quan ấn thụ có đầy đủ, ẩn chứa trong bốn tháng cuối mùa.
Quan tinh tài khí trường sanh, đóng ở dần thân tỵ hợi.

Giờ canh thân gặp ngày mậu, tên là thực thần ở nơi can vượng.
Năm tháng phạm giáp bính mão dần, đây chính là gặp mà không gặp.
Tháng sanh can ngày không có thiên tài, chính là tên của ấn thụ.
Nhật lộc quý thời không có quan tinh, hiệu là thanh vân đắc lộ (chỉ đường công danh thuận lợi).
Dương thuỷ (nhâm) liên tục gặp thìn, là nơi nhâm kỵ long bối (nhâm cưởi lưng rồng).
Âm mộc (ất) chỉ gặp giờ tý, là đất của lục ất thử quý (sáu ất quý nhân ở tý).
Ngày canh gặp đủ nhuận hạ, kỵ nơi của nhâm quý tỵ ngọ.
Giờ gặp tý thân, phúc bị giảm phân nửa.

Nếu gặp thương quan nguyệt kiến, biết chỗ hung chưa chắc là hung.
Trong có chánh đảo lộc phi, kỵ quan tinh cũng ghét ràng buộc.
Sáu ngày quý gặp dần, năm tháng sợ hai phương mậu kỷ.
Ngày giáp tý gặp lại giờ tý, sợ canh tân thân dậu sửu ngọ.
Ngày tân quý thường gặp đất sửu, không thích quan tinh.
Năm giờ gặp hai cung tý tỵ, danh lợi hư ảo.
Củng lộc củng quý điền thật sẽ hung.
Thiên tài ở trụ giờ, cung khác kỵ thấy.

lSáu ngày tân giờ gặp mậu tý, ghét chỗ ngọ vận thích phương tây.
Ngũ hành gặp chi tháng thiên quan, trong năm giờ cũng nên chế phục.
Giống có trường hợp bỏ quan giữ sát, cũng có bỏ sát giữ quan.
Tứ trụ thuần sát có chế phục, nhất định ở chỗ nhất phẩm tôn kính.
Đại khái có một vị chánh quan, còn quan sát hỗn tạp lại thành hèn mọn. .
Lệnh tháng tuy gặp kiến lộc, rất kỵ hội hợp sát thì hung.
Ngày mậu tháng ngọ, chớ coi là nhận để xem.
Giờ và năm hoả nhiều, tức là ấn thụ.

Quan tinh thất sát giao sai, tức lấy hợp sát là quý.
Trong trụ quan tinh rất vượng, thiên nguyên tên là yếu đuối.
Ngày vượng không có chỗ nào nương tựa, nếu không là tăng thì là đạo sĩ.
Tháng sanh ấn thụ, năm giờ kỵ gặp tài tinh.
Vận vào tài hương, tức là nên rút lui lánh chức quan.
Kiếp tài dương nhận, rất kỵ giờ gặp.
Tuế vận cùng nhau đến, tai ương lập tức đến.
Mười can bối lộc, năm giờ mừng gặp tài tinh.

Vận đến tỷ kiên, hiệu là bối lộc trục mã (vác lộc đuổi theo mã).
Ngũ hành chánh quý, kỵ cung hình xung khắc phá.
Can chi trong tứ trụ thích chỗ tam hợp lục hợp.
Can ngày không có khí lực, giờ gặp dương nhậnkhong6 là xấu.
Quan sát cả hai ổn thoả nhau, cái nào thích thì giữ cái nào ghét thì bỏ.
Địa chi thiên can hợp nhiều, cũng nói rằng tham hợp vong quan (tham hợp mà quên mất quan).
Tứ trụ sát vượng vận thuần khiết, thân vượng là quan thanh quý.
Thường thấy thiên nguyên quá nhược, bên trong có chỗ yếu nhược được sanh trở lại.

Thất sát trong trụ hoàn toàn rực rỡ, thân vượng rất nghèo không có tuổi thọ.
(Lại nói rằng, không có cứu giúp).
Mệnh phụ nữ không có sát, một quý có thể coi là chồng mình.
Quý đông lại hợp nhiều, nhất định là ni cô hoặc kỹ nữ hay tỳ nữ.
Thiên quan giờ gặp chế phục, quá nhiều chính là bần nho (học giả nghèo).
Tứ trụ thương quan, vận vào dất quan sẽ phá.
Ngũ hành tuyệt xứ, tức là thai nguyên.
Ngày sanh gặp phải, tên gọi là thụ khí (nhận lấy khí).

Vì vậy âm dương khó lường, không thể suy ra từ một trường hợp.
Nhất thiết phải nhận khí trung hoà, thần được phân chia quý tiện.
Trích lược ghi chép truyền lại của cổ thánh, rút gọn bác lãm (quãng bác duyệt lãm) của người tài đời nay.
Nếu tuân theo phương pháp này, tham cứu chi tiết xem xét mệnh không có sai lầm.


Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



喜忌篇

四柱排定,三才次分。
专以日上天元,配合八字干支。
支中有见不见之形,无时不有。
神煞相绊,轻重较量。
若乃时逢七煞,见之未必为凶。
月制干强,其煞反为权印。
财官印绶全备,藏蓄於四季之中。
官星财气长生,镇居於寅申巳亥。

庚申时逢戊日,名食神干旺之方。
岁月犯甲丙卯寅,此乃遇而不遇。
月生日干无天财,乃印绶之名。
日禄归时没官星,号青云得路。
阳水叠逢辰位,是壬骑龙背之乡。
阴木独遇子时,为六乙鼠贵之地。
庚日全逢润下,忌壬癸巳午之方。
时遇子申,其福减半。

若逢伤官月建,知凶处未必为凶。
内有正倒禄飞,忌官星亦嫌羁绊。
六癸日时逢寅位,岁月怕戊己二方。
甲子日再逢子时,畏庚辛申酉丑午。
辛癸日多逢丑地,不喜官星。
岁时逢子巳二宫,虚利虚名。
拱禄拱贵,填实则凶。
时上偏财,别宫忌见。

六辛日时逢戊子,嫌午位运喜西方。
五行遇月支偏官,岁时中亦宜制伏。
类有去官留煞,亦有去煞留官。
四柱纯煞有制,定居一品之尊。
略有一位正官,官然混杂反贱。
月令虽逢建禄,切忌会煞为凶。
戊日午月,勿作刃看。
时岁火多,却为印绶。

官星七煞交差,却以合煞为贵。
柱中官星大旺,天元赢弱之名。
日於旺甚无依,若不为僧即道。
印绶生月,岁时忌见财星。
运入财乡,却宜退身避位。
劫财阳刃,切忌时逢。
岁运并临,灾殃立至。
十干背禄,岁时喜见财星。

运至比肩,号曰背禄逐马。
五行正贵,忌冲刑克破之宫。
四柱干支,喜三合六合之地。
日干无气,时逢阳刃不为凶。
官煞两停,喜者存之憎者弃之。
地支天干合多,亦云贪合忘官。
四柱煞旺运纯,身旺为官清贵。
凡见天元太弱,内有弱处复生。

柱中七煞全彰,身旺极贫无寿
(一云,无救)。
无煞女人之命,一贵可作良人。
贵众合多,定是师尼娼婢。
偏官时遇制伏,太过乃是贫儒。
四柱伤官,运入官乡必破。
五行绝处,即是胎元。
生日逢之,名曰受气。

是以阴阳罕测,不可一例而推。
务禀中和之气,神分贵贱。
略出古圣之遗书,约以今贤之博览。
若遵此法,参详鉴命,无差无误。



.

Thanked by 1 Member:

#395 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 10/12/2024 - 13:20

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhất

kế thiện thiên

Người thụ nhận trời đất, mệnh thuộc âm dương.
Sanh ở bên trong sự che chở, tất cả ở trong ngũ hành.
Muốn biết sang hèn, trước xem lệnh tháng chính là đề cương (phần chủ yếu).
Kế đoán tốt xấu, tập trung dùng can ngày làm chủ bổn.
Tam nguyên cần phải thành cách cục.
Tứ trụ mừng gặp tài quan.
Dụng thần không nên bị thương tổn.
Nhật chủ rất nên cường vượng.

Trụ năm thương tổn can ngày, tên là bổn chủ không hoà thuận.
Trong năm tháng giờ, rất sợ quan sát hỗn tạp.
Chọn dụng thần căn cứ vào tháng sanh, nên nghiên cứu sự nông sâu của nó.
Phát giác ở ngày giờ, cần phải biết rõ mạnh yếu.
Quan tinh chánh khí, kỵ gặp hình xung.
Thiên tài ở giờ, sợ gặp anh em.
Sanh khí ấn thụ lợi vận quan, sợ vào nơi tài.
Thất sát thiên quan mừng có chế phục, mà không nên thái quá.

Thương quan lại đi vận quan, không ngờ được tai hoạ đến.
Dương nhận xung hợp tuế quân, bỗng nhiên tai hoạ đến.
Giàu mà lại sang, nhất định do tài vượng sanh quan.
Không yểu tức là nghèo, chắc chắn là thân suy gặp quỷ.
Lục nhâm sanh đến chỗ ngọ, hiệu là lộc mã đồng hương (lộc mã cùng một nơi).
Ngày quý ngồi nhìn về cung tỵ, chính là cả hai tài quan song mỹ (tài quan cùng đẹp).
Tài nhiều thân yếu, đúng là người nghèo ở nhà giàu.
Vì sát hoá quyền, nhất định khách quý của nhà nghèo.

Lên bảng tên tiến sĩ, quan tinh đến quan không bị phá.
Nộp bỗng lộc đạt được danh tiếng, kho tài ở đất sanh vượng.
Quan quý quá thịnh, tài gặp chỗ vượng sẽ sụp đổ.
Ấn thụ bị thương tổn, nếu được vinh hoa cũng không bền.
Có quan có ấn không bị phá, coi là nhân tài của đất nước.
Có cách không ấn không quan, chỉ là sử dụng của triều đình.
Tên đề trên bảng vàng, cần phải là thân vượng gặp quan.
Được phụ tá vua, quý ở xung quan gặp hợp.

Không cách không cục, gặp vậy sao lại là kỳ.
Thân yếu gặp quan, đạt được sau cũng là uổng công hao sức.
Bên trong mẹnh tiểu nhân, cũng có chánh ấn quan tinh.
Trong cách quân tử, cũng có phạm dương nhận thất sát.
Cả đời ít bệnh, nhật chủ cao cường.
Mọt đời an nhiên, mệnh tài có khí lực.
Quan hình không phạm, ấn thụ và thiên đức cùng một cung.
Ít vui nhiều buồn, bởi do nhật chủ tự nhược.

Thân cường mà sát nông cạn, mượn sát thành quyền.
Sát trọng thân nhẹ, cả đời luôn tổn hại.
Suy thì biến quan thành quỷ.
Vượng thì hoá quỷ thành quan.
Tháng sanh can ngày, đi vận không thích nơi tài.
Nhật chủ không chỗ dựa, tức là mừng vận đất tài.
Trụ giờ nương về nhật lộc, thường ngày không thích quan tinh.
Âm nếu triều dương, phải kiêng kỵ chỗ bính đinh và quẻ ly.

Thái tuế chính là chủ cùa các sát, nhập mệnh không hẳn là tai hoạ.
Nếu gặp nơi đánh nhau, sẽ chủ hình ở mệnh của mình.
Tuế thương tổn can ngày, có tai hoạ sẽ nhẹ.
Ngày phạm tuế quân, tai hoạ sẽ nặng.
Ngũ hành có cứu giúp, năm đó trái lại sẽ có tài.
Tứ trụ vô tình, cho nên luận là khắc thái tuế.
Canh tân đến thương tổn giáp ất, bính đinh gặp trước thì không nguy hiểm.
Bính đinh khắc ngược lại canh tân, nhâm quý gặp được thì không sơ.

Mậu kỷ lo buồn gặp giáp ất, can đầu cần canh tân.
Nhâm quý tự gặp phải mậu kỷ, giáp ất đến thì có cứu giúp.
Nhâm tới khắc bính, cần chữ mậu chống lại.
Quý đi thương tổn đinh, nhưng mừng kỷ tới giúp đỡ.
Canh được nhâm là con chế phục bính, tự nhiên coi là năm dài.
Giáp lấy ất là em gái làm vợ của canh, hung thành điềm tốt.
Thiên nguyên tuy vượng, nếu không nơi nương tựa chỉ là người bình thường.
Nhật chủ quá yếu, cho dù gặp tài quan vẫn là học trò nghèo.

Phụ nữ không có sát mà mang theo nhị đức, được nhận ban thưởng của hai nước.
Mệnh đàn ông thân cường gặp tam kỳ, là tôn quý của nhất phẩm.
Giáp gặp kỷ sanh vượng, nhất định ôm lòng trung chánh.
Đinh gặp nhâm mà thái quá, sẽ phạm dâm tà bừa bãi.
Bính đến chỗ thân gặp dương thuỷ, khó thu được thêm tuổi thọ.
(Tháng gặp ấn thụ, thì yên ổn giàu có và tôn vinh).
Kỷ vào cung hợi gặp âm mộc, luôn là tổn thọ.
(Giờ gặp bính dần, sẽ là mũ mang trâm anh*)
[trâm là để cài tóc, anh là giải mũ. Ngày xưa, chỉ mũ áo trang sức của người hiển quý. Trâm anh 簪纓 chỉ người quan cao, hiển quý]

Canh gặp dần mà lại gặp bính, chủ vượng không có nguy hiểm.
Ất gặp tỵ mà lại thấy tân, thân suy sẽ có tai hoạ.
Ất gặp canh vượng, thường giữ được lòng nhân nghĩa.
Bính hợp tân sanh, chức vụ nắm giữ quyền uy.
Một mộc gặp chồng chất chỗ hoả, tên là khí tán chi văn (hiện tượng của khí tán).
Chỉ mọt mộc mà ba lần phạm canh tân, hiệu gọi là thể toàn chi tượng (tượng của bảo toàn cơ thể).
Thuỷ nương về mùa đông vượng, một đời vui vẻ vốn là không lo buồn.
Mộc sanh ở mùa xuân, xử thế yên ổn sẽ được tuổi thọ.

Kim yếu gặp đất hoả nóng, bệnh về máu không nghi ngờ.
Thổ suy nhược gặp nơi mộc vượng, lá lách bị thương tổn nhất định luận.
Cân đông cốt thống (gân cốt đau nhức), tất cả đều do mộc bị kim thương tổn.
Nhãn ám mục hôn (mắt tối tăm thiếu ánh sáng), nhất định là hoả gặp thuỷ khắc.
Kim gặp cấn mà gặp thổ, hiệu gọi là hoàn hồn (sống trở lại).
Thuỷ vào tốn mà gặp kim, tên là bất tuyệt (không cạn kiệt).
Thổ đến chỗ mão, chưa đến tuổi trung niên mà lòng như tro nguội.
Kim gặp nơi hoả, tuy trẻ và khoẻ dĩ nhiên cũng toả chí (ý chí thất bại).

Kim mộc dánh nhau hình chiến, nhân và nghĩa đều không có.
Thuỷ hoả thay nhau thương tổn, ngày ngày thị phi.
Mộc theo thuỷ nuôi dưỡng, thuỷ thịnh nên mộc sẽ trôi nổi.
Kim nhờ thổ sanh, nhưng thổ dầy nên kim bị chôn vùi.
Vì thế ngũ hành không nên quá nghèo nàn, cần phải có khí trung hoà.
Càng có thể dứt hết lo lắng quên hết suy nghĩ, khả năng soi xét mệnh không sai không lầm.

Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



继善篇

人禀天地,命属阴阳。

生居覆载之内,尽在五行之中。
欲知贵贱,先观月令乃提纲。
次断吉凶,专用日干为主本。
三元要成格局。
四柱喜见财官。
用神不可损伤。
日主最宜健旺。

年伤日干,名为本主不和。
岁月时中,大怕官煞混杂。
取用凭於生月,当推究其浅深。
发觉在於日时,要消详於强弱。
官星正气,忌见刑冲。
时上偏财,怕逢兄弟。
生气印绶利官运,畏入财乡。
七煞偏官喜制伏,不宜太过。

伤官复行官运,不测灾来。
阳刃冲合岁君,勃然祸至。
富而且贵,定因财旺生官。
非夭即贫,必是身衰遇鬼。
六壬生临午位,号曰禄马同乡。
癸日坐向巳宫,乃是财官双美。
财多身弱,正为富屋贫人。
以煞化权,定显寒门贵客。

登科甲第,官星临无破之官。
纳粟奏名,财库居生旺之地。
官贵太盛,才临旺处必倾。
印绶被伤,倘若荣华不久。
有官有印无破,作廊庙之材。
无印无官有格,乃朝廷之用。
名题金榜,须还身旺逢官。
得佐圣君,贵在冲官逢合。

非格非局,见之焉得为奇。
身弱遇官,得後徒然费力。
小人命内,亦有正印官星。
君子格中,也犯羊刃七煞。
生平少病,日主高强。
一世安然,财命有气。
官刑不犯,印绶天德同宫。
少乐多忧,盖缘日主自弱。

身强煞浅,假煞为权。
煞重身轻,终身有损。
衰则变官为鬼。
旺则化鬼为官。
月生日干,运行不喜财乡。
日主无依,却喜运行财地。
时归日禄,生平不喜官星。
阴若朝阳,切忌丙丁离位。

太岁乃众煞之主,入命未必为殃。
若遇战斗之乡,必主刑於本命。
岁伤日干,有祸必轻。
日犯岁君,灾殃必重。
五行有救,其年反必为财。
四柱无情,故论名为克岁。
庚辛来伤甲乙,丙丁先见无危。
丙丁反克庚辛,壬癸遇之不畏。

戊己愁逢甲乙,干头须要庚辛。
壬癸虑遭戊己,甲乙临之有救。
壬来克丙,须要戊字当头。
癸去伤丁,却喜己来相助。
庚得壬男制丙,天作长年。
甲以乙妹妻庚,凶为吉兆。
天元虽旺,若无依倚是常人。
日主太柔,纵遇财官为寒士。

女人无煞带二德,作两国之封。
男命身强遇三奇,为一品之贵。
甲逢己而生旺,定怀中正之心。
丁遇壬而太过,必犯淫讹之乱。
丙临申位逢阳水,难获延年
(月逢印绶,则安富尊荣)。
己入亥宫见阴木,终为损寿
(时遇丙寅,则冠带簪缨)。

庚值寅而遇丙,主旺无危。
乙遇巳而见辛,身衰有祸。
乙遇庚旺,常存仁义之心。
丙合辛生,镇掌威权之职。
一木叠逢火位,名为气散之文。
独水三犯庚辛,号曰体全之象。
水归冬旺,生平乐自无忧。
木在春生,处世安然必寿。

金弱遇火炎之地,血疾无疑。
土虚逢木旺之乡,脾伤定论。
筋疼骨痛,皆因木被金伤。
眼暗目昏,必是火遭水克。
金逢艮而遇土,号曰还魂。
水入巽而见金,名为不绝。
土临卯位,未中年便欲灰心。
金遇火乡,虽少壮必然挫志。

金木交争刑战,仁义俱无。
水火递互相伤,是非日有。
木从水养,水盛而木则漂流。
金赖土生,土厚而金遭埋没。
是以五行不可偏枯,务禀中和之气。
更能绝虑忘思,鉴命无差无误。


.

Thanked by 1 Member:

#396 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 13/12/2024 - 11:09

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhị

nguyên lí phú

(Từ Đại Thăng soạn. Vạn Dục Ngô phân tích)

Vốn là cùng một khí, sanh ra ngũ hành, tổng hợp tam tài, phổ biến vạn vật.
Mở đầu sự diệu dụng của trời đất, biện minh cơ chế của âm dương.
Suy tìm bốn phương, phân ra quý tiện, đạ được trung đạo cho bát tự.
Quyết chắc phồn thịnh hay nghèo nàn, vì vậy rõ ràng về sanh khắc chế hoá, thanh trọc quý tiện, thọ yểu hiên ngu.
(Đây vốn là bắt đầu của tạo hoá).

Kim nhờ thổ sanh, thổ nhiều chôn kim. Thổ nhờ hoả sanh, hoả nhiều thổ khô.
Hoả nhờ mộc sanh, mộc nhiều hoả mạnh. Mộc nhờ thuỷ sanh, thuỷ nhiều mộc trôi.
Thuỷ nhờ kim sanh, kim nhiều thuỷ đục.

Kim có thể sanh thuỷ, thuỷ nhiều kim chìm. Thuỷ có thể sanh mộc, mộc nhiều thuỷ giảm.
Mộc có thể sanh hoả, hoả nhiều mộc đốt. Hoả có thể sanh thổ, thổ nhiều hoả tối.
Thổ có thể sanh kim, kim nhiều thổ biến.

Kim có thể khắc mộc, mộc chắc kim khuyết. Mộc có thể khắc thổ, thổ nhiều mộc gãy.
Thổ có thể khắc thuỷ, thuỷ nhiều thổ trôi. Thuỷ có thể khắc hoả, hoả cháy thuỷ nóng.
Hoả có thể khắc kim, kim nhiều hoả tắt.

Kim suy gặp hoả sẽ bị tan chảy. Hoả yếu gặp thuỷ sẽ bị dập tắt.
Thuỷ yếu gặp thổ sẽ bị đọng lấp. Thổ suy gặp mộc, sẽ gặp sụp đổ.
Mộc yếu gặp kim, sẽ bị chặt gãy.

Trên đây là thái quá và bất cập, mỗi tình trạng đều có cái hại. Như điều này thấy trong ngũ hành của tứ trụ, không thể không trung hoà vậy.

Cường kim gặp được thuỷ, nơi bẻ gãy mủi nhọn của mình, cường thuỷ gặp được mộc, nơi trút ra uy lực của mình. Cường mộc gặp được hoả.
Nơi đốt cháy cố chấp của mình. Cường hoả gặp được thổ, nơi dừng lại ánh lửa của mình. Cường thổ gặp đươc kim nơi chế phục tai hoạ của mình.
Trên đây là nói về ngũ hành khắc chế, cần phải được trung hoà, vì thái quá hay bất cập đều gặp mất mát.

Người thông suốt lý lẽ biết điều hoà lý lẽ mầu nhiệm sâu xa, quan sát cái nó hiển hiện. Nó là thể , sâu sắc có khả năng thông biến, cuối cùng ảo diệu cơ bản của nó trở thành dụng. Bàn luận nặng nhẹ, vốn là có hay không có, bẫm tính đến từ lý tự nhiên, tốt xấu động tĩnh. Đời sống được phân định bế tắc hay thuận lợi, đầy đủ hay thiếu kém.
Trên đây là bàn luận tổng quát về can chi, âm dương sanh khắc chế hoá, thể thì sâu kín mà dụng thì hiển hiện, nặng hay nhẹ, có hay không, nên tốt xấu, động tĩnh, bế tắc hay thuận lợi, đầy đủ hay thiếu kém đều từ đây mà sanh ra. Mầu nhiệm ở hiểu biết vào sự thông biến, nghiên cứu ảo diệu cơ bản , giống như hiển lộ mà mà ẩn kín, nắm được lý này của nó. Dưới đây sẽ bàn luận chi tiết.

Sát vô nhận bất uy, nhận vô sát bất hiển.
(Sát không có nhận không oai, nhận không có sát không vẻ vang).
Sát chính là khắc mình nhận chính là cướp mình, nó rất xấu trong mệnh.
Đầu tiên nói về sát và nhận, hiểu chỗ quan trọng của nó.
"Phú" nói rằng: nhận là bính khí, không có sát khó tồn tại. Sát là quân lệnh, không có nhận không tôn nghiêm.
Nhận sát cả hai hiển lộ, uy trấn trời đất là vậy.
Từ Đại Thăng thấy hai thiên "Hỷ Kỵ" và "Kế Thiện", vì không đủ để nói hết mệnh con người.
Cho nên lại soạn ra bài phú này, sở dĩ để vá chỗ còn chưa đầy đủ vậy.

Sát nhận song hiển quân đình, vị chí vương hầu. Nhận sát khinh trọng, vô chế thân vi tư lại.
Sát nhận tương đình giả, cực quý. Bất tương đình giả, cực tiện.
(Sát nhận cả hai hiện lộ đều ổn thoả, địa vị đến vương hầu. Nhận sát nặng nhẹ, không có chế bản thân là thơ lại.
Sát nhận ổn thoả nhau rất quý. Không ổn thoả nhau rất tiện).
Nhận sát ổn thoả hay không ổn thoả, và mối quan hệ sang hèn thì như thế này.
Cả đời giàu mà lại sang, sát nặng thân yếu. Nửa đường bỗng chết hoặc nguy hiểm, vận hỗ trợ can vượng.
Nếu không ổn thoả nhau, không bằng tòng sát.
Người có khả năng tòng, tất sát nặng mà bản thân yếu, mà sau mới có thể tòng.
Không phải vậy, không khả năng tòng vậy.
Đã tòng sát, chỉ lấy sát để luận, không nên lại gặp thân vượng chống cư nhau, chống cự sẽ phản lại thành tai hoạ.

Quyết đoán thân phận đứng đầu tăng đạo, dụng sát trái lại coi nhẹ. Nhận chức can gián vua, thiên quan đắc địa.
Thất sát là cực tinh (ngôi sao cao nhất), lại là cô tinh (ngôi sao cô độc).
Thân và sát cả hai cường mạnh, thất sát có chế phục, thân yếu tòng sát, tất cả đều quý.
Sát nhiều là quan can gián (gián chức 諫職 chức quan ngự sử để can vua).
Nếu thân vượng sát nhẹ, thêm hợp thanh kỳ sẽ là lãnh tụ (trụ trì) của tăng đạo.

Làm sao biết người đại quý, dụng tài mà không dụng quan.
Người đang nắm quyền dụng sát không dụng ấn. Ấn nhờ sát sanh, quan do tài vượng.
Dụng tài không dụng quan, vì tài sanh quan. Dụng sát không dụng ấn vì sát sanh ấn.
Cho nên nói rằng ấn nhờ sát sanh,quan do tài vượng, chẳng phải không dụng ấn dụng quan, mà tập trung dùng tài và sát.
Thì quan và ấn ở trong đó vậy. Ấn lại (ấn nhờ) hai chữ, có quan hệ mật thiết bốn chữ trong lời văn ở trên, là tự phát minh.

Ngũ hành tiêu tức, nguyên lí khả tri; tứ trụ thôi minh, dụng thần khả kiến.
Thực cư tiên, sát cư hậu, công danh lưỡng toàn.
Dậu phá mão, mão phá ngọ, tài quan song mĩ.
(Ngũ hành biến hoá, lý cơ bản có thể biết; tứ trụ nghiên cứu rõ ràng, dụng thần nên thấy.
Thực thần ở trước, thất sat ở sau, sự nghiệp và thanh danh cả hai có đủ.
Dậu phá mão, mão phá ngọ, tài quan cả hai hoàn mỹ).
Bát tự của con người, toàn xem dụng thần. Như trên dụng sát, dụng nhận, dụng tài mà không dụng quan, dụng ấn, cái lý của nó rất ảo diệu, biến hoá ở người mà thôi.
Bàn luận về sát nên cần có nhận, không có nhận thì phải có chế phục, sát cường có chế phục , tất cả đều là bàn luận về biện pháp.
Thất sát chủ về danh, thực thần chủ về lợi, cho nên nói sự nghiệp và thanh danh cả hai có đủ.
Dậu phá mão, mão phá ngọ, cũng là ý nghĩa của thực thần ở trước sát ở phía sau. Dậu lấy mão làm tài, ngọ là sát, tài sát cùng lúc có, cho nên chủ tài quan cả hai hoàn mỹ.
Sát sở dĩ phá nhau là vì nó khắc nhau, tức là tứ chánh (bốn vị trí chánh) phá nhau.

Hưởng phúc, ngũ hành quy lộc; mi thọ, bát tự tương đình.
(Hưởng phúc là ngũ hành quy lộc; tuổi thọ là bát tự ổn thoả nhau).
Đây là đề cử điều rất cần trong mệnh mà nói. Cần phải quy lộc, phải ổn thoả nhau, không nên tử tuyệt nghiêng về một nhóm.
Hưởng phúc thuộc về quy lộc, mi thọ (tuổi thọ) thuộc về ổn thoả nhau, ý nghĩa mỗi điều đều có chỗ dùng riêng.

Hối hỏa vô quang ư giá sắc, đạo mộc đa khốn ư bính đinh.
(Hoả tối không có ánh sáng ở mùa cấy gặt, trộm mộc thường khổ sở ở bính đinh).
Từ đây trở xuống nói về không quy lộc, không ổn thoả nhau, cho nên không được hưởng phúc, tuổi thọ.
Thổ che lấp ánh sáng của hoả, thổ nhờ mộc khai thông, mộc vốn sanh hoả. Hoả nhiều sẽ trở thành đạo khí (ăn trộm khí) hiện không trung hoà.
Hoả lo lắng khí thế.
Hoả sợ tối tăm, trống rỗng sẽ có uy thế không tối tăm.
Kim đầy thì không có âm thanh.
Kim cần có hoả, không có hoả rèn đúc thì không thành vật dụng. Thật (đầy, không còn chỗ trống) làm sao phát ra tiếng?
Thuỷ tràn ngập mộc nổi là hoạt mộc (mộc còn sống tức là ất), thổ nặng chôn kim là dương kim. Thuỷ thịnh thì nguy hiểm, hoả sáng sủa sẽ tắt.
Đây lại phân chi tiết ngũ hành không ổn thoả nhau, mà có khác biệt biểu hiện âm dương.
Ngũ hành không nên thái quá, ví như thuỷ tràn lan thì mộc trôi nổi, nếu là ất mộc thì sợ, còn giáp mộc thì không.
Thổ dày chôn kim, nếu là cnh thì sợ, còn tân kim thì không.
Vì ất mộc tử ở hợi, còn giáp mộc thì sanh ở hợi.
Canh kim là kim xuất ra từ thổ, sở dĩ sanh ở tỵ. Tân kim là kim đới thuỷ, vì váyanh ở tý.
Thuỷ thịnh sẽ tràn ngập cho nên nguy hiểm. Hoả sáng sủa sẽ còn lại gốc tro tàn, cho nên dập tắt.

Dương kim đắc luyện thái quá, biến cách bôn ba. Âm mộc quy viên thất lệnh, chung vi thân nhược.
(Dương kim gặp rèn luyện quá mức, biến đổi khổ sở. Âm mộc quy viên mất lệnh, kết cuộc thân yếu đuối).
Kim dày đặc không có âm thanh, rèn luyện quá sẽ thay đổi; quy lộc thì hưởng phúc, thất lệnh thì thân yếu nhược, cần gặp trung hoà.
Dương kim (canh) thổ dày sẽ chôn vùi, sợ rèn luyện sai lầm quá lớn, là không có thổ vậy.
Âm mộc (ất) không gặp lệnh sẽ yếu nhược, cho dù quy viên thì tuổi thọ cũng bị tổn giảm.
Đây là lời văn gốc ở trên nói về hoạt mộc, dương kim, lại không thể không có thuỷ và thổ để sanh và nuôi dưỡng.
Thổ dày nên che lấp hoả không có anh sáng, thuỷ thịnh thì mộc trôi nổi không ổn định.
Ngũ hành không nên quá thịnh, bát tự cần được trung hoà.
Thổ dày tức là ý nghĩa che lấp hoả không có ánh sáng; thuỷ thịnh tức là ý nghiã là thuỷ tràn lan mộc trôi nổi.
Hai chữ ngũ hành có thể tóm tắt là trở về trung hoà thế thôi.
Thổ ngăn nuớc chảy phúc thọ bảo toàn, thuỷ không có thổ ngăn sẽ thương tổn tàn tật.
Dưới đây là nói về mất trung hoà nên ngũ hành có cứu giúp cũng cói là tốt để luận; không có cứu trợ mới xấu.
Như thuỷ chầym có thổ ngăn lại, thì lộc và tuổi thọ cả hai có đủ. Còn lại có thể xem theo đó.

Mộc thịnh đa nhân, thổ bạc quả tín.
Thủy vượng cư viên tu hữu trí, kim kiên chủ nghĩa tức năng vi.
Kim thủy thông minh nhi hảo sắc, thủy thổ hỗn tạp tất đa ngu.
(Mộc thịnh thường nhân từ, thổ mỏng ít thành thực.
Thuỷ vượng ở trong tường thành cần có trí tuệ, kim cứng chắc chủ đạo lý có thể thực hành.
Kim thuỷ thông minh mà háo sắc, thuỷ thổ hỗn tạp nên thường ngu muội).
Đây là nói về tính khí của ngũ hành quá mức, trung hoà cũng đều có chỗ hưng vượng riêng, nghiêng về một bên có thể gây hại.
Ngũ hành phân chia theo bốn mùa, ngũ thường phối hợp với ngũ hành, là cái lý tự nhiên.
Có thề thịnh, có thể mỏng, có thể vượng, có thể nhiều, có thể hỗn tạp.
Mà nhân nghĩa trí tín, thông minh hay đần độn, tuy nhiên mỗi hành thuận theo loại của nó.

Hà linh đắc ư trung hòa, yểu thọ tang ư thiên khô.
(Tuổi thọ cao có được nhờ trung hoà, tuổi thọ ngắn dánh mất vì nghiêng về khô héo).
Đây lại là trình bày mệnh người cần phải trung hoà, như ý nghĩa của mi thọbát tự đình quân ở phần trước.
Nếu thái quá hay bất cập, mất vì thiên khô, làm sao hưởng được tuổi thọ cao đây?

Thìn tuất khắc chế tịnh xung, tất phạm hình danh. Tý mão tương hình môn hộ, toàn vô lễ đức.
(Thìn tuất khắc chế cùng nhau xung, sẽ phạm hình danh. Tý mão hai nhà hình nhau, hoàn toàn không có lễ đức).
Dưới đây đề cập đến địa chi xung nhau, hìn nhau mà bàn luận.
Thìn tuất là khôi cương mà cùng nhau xung sẽ hung; tý mão là mẹ con mà hình nhau sẽ loạn.
Chính là xung và hình rất quan trọng. Còn lại thì nhẹ hơn một chút.
Dần thân tỵ hợi là bốn chổ sanh của bố cục, cho dù phạm khắc chế, hình xung cũng không có tai hoạ lớn.

Khí ấn tựu tài minh thiên chánh.
(Khi bỏ ấn tụ theo tài phải rõ ràng thiên hay chánh).
Ở phần trước nói về người đại quý, dụng tài không dụng ấn.
Tài có thiên có chánh, ấn cũng có thiên có chánh. Chánh ấn thấy tài thì có tai hoạ, thiên tài thấy ấn thì không sao.
Chánh tài không thích thấy ấn, thiên tài không ky thấy ấn, cùng lột lý vậy.

Khí can tòng sát luận cương nhu.
(Khi bỏ can đi theo sát thì luận cương nhu).
Ở phần trước nói về người đang nắm quyền, dụng sát không dụng ấn.
Sát thì có cương nhu, bỏ thiên can mà đi theo địa chi.
Dương thì cứng cỏi âm thì mềm yếu, kim thuỷ thổ có thể đi theo, mộc hoả thì không nên đi theo.
Cái lý rõ ràng nên đi theo hay là không nên theo, sau đó mới biết ấn có thể dùng hay không thể dùng.

Thương quan vô tài khả ỷ, tuy xảo tất bần. Thực thần chế sát phùng kiêu, bất bần tắc yểu.
(Thương quan không có tài có thể dựa vào, tuý khéo léo nhưng nghèo. Thực thần chế phục sát mà gặp kiêu thần, không nghèo sẽ yểu).
Thương quanthực thần cùng một loại. Thương quan bác quan (thương quan làm mất quan) trong mệnh rất kỵ.
có tài cũng tốt vì thương quan sanh tài mà tài thì sanh quan là vậy, Không có thì đoán là nghèo.
Thực thần chế sát, trong mệnh rât sợ gặp kiêu thần, vì kiêu đoạt thực, sát không còn chế phục sẽ khắc thân cho nên chết trẻ.

Nam đa dương nhận tất trùng hôn, nữ phạm thương quan tu tái giá.
(Đàn ông có nhiều dương nhận sẽ trùng hôn; phụ nữ phạm thương quan đều tái giá).
Dương nhận gặp sát ổn thoả nhau, cho nên chủ quý, mà nhiều thì thương tổn vợ.
Đàn ông lấy tài làm vợ, dương nhận thì khắc chế, cho nên trùng hôn (cưới vợ nhiều lần).
Thương quan có tài có thể nương tựa, cho nên chủ quý, nữ thì thương tổn chồng.
Phụ nữ lấy quan làm chồng, thương quan thì khắc chế, cho nên tái giá (gã chông lần nữa).

Bần tiện giả, giai nhân quan xứ ta o thương. Cô quả giả, chỉ vi tài thần bị kiếp.
(Người nghèo hèn đều do chỗ quan gặp thương tổn. Người cô quả, chỉ vì tài thần bị cướp).
Quan là lộc, có lộc sao mà phải nghèo hèn?
Bản thân vượng gặp quan ẩn núp, lại đi vận thương quan, gọi là bối lộc (vác lộc) thì không có quan vậy. Làm sao mà không nghèo hèn? Tài là vợ, có vợ sao mà phải cô độc?
Tài ít mà gặp bản thân vượng, lại đi vận kếp tài, gọi là trục mã (đuổi theo mã), thì không có vợ, thích hợp với cô quả đó. Tài quan là cái rất cần thiết trong mệnh người!

Tài lâm vượng địa nhân đa phúc, quan ngộ trường sanh mệnh tất vinh.
(Tài đến đất vượng người nhiều phúc, quan gặp trường sanh mệnh vẻ vang).
Ở phần trước nói thực thần, thương quan sanh tài là vượng, ở đây nói thẳng là tài đến đất vượng.
Như giáp dụng mậu kỷ là tài, ở tỵ ngọ là vượng.
Ở phần trước nói tài vượng sanh quan, ở đây nói thẳng là quan gặp trường sanh.
Như giáp dụng canh tân làm quan, ở tỵ và tý (tân sanh ra ở tý) là đất trường sanh.
Tài quan đều cần thân vượng mới chủ có phúc vẻ vang cao quý.

Khứ sát lưu quan phương luận phúc, khứ quan lưu sát bất vi ti.
(Bỏ sát giữ quan mới bàn là phúc, bỏ quan giữ sát không là thấp kém).
Mệnh người rất sợ quan sát hỗn tạp, dụng quan chỉ dụng quan, dụng sát chỉ dụng sát.
Cho nên mới có bỏ hay giữ, mới có thể nói là quý.

Như thương quan, dương nhận mệnh người gặp phải thường không tốt.
Dùng cách bỏ quan giữ sát hay bỏ sát giữ quan có thể cũng coi là phúc để bàn.
Làm sao biết gặp chánh quan, tức là bỗng lộc cả đời. Gặp thất sát, chính là có danh tiếng.
Chánh quan và thất sát, phân rõ ràng quân tử và tiểu nhân. Vì sao quân tử không như tiểu nhân?
Chánh quan chỉ có được khi thuần tuý, thất sát một khi có chế phục, liền phát quý mà có tiếng tăm.
Nếu chánh quan thuần tuý, phát phúc lâu dài, so với thất sát thì sao?
Đó là đề cử mà nhiều người thiên về nó bàn tới.

Phùng thương quan phản kiến phu, tài mệnh hữu khí. Ngộ kiêu thần nhi tang tử, phúc khí vô y.
(Gặp thương quan trái lại thấy chồng, tài mệnh có khí lực. Gặp kiêu thần nên mất con, phúc khí không nơi nương tựa).
Mệnh phụ nữ rất sợ thương quan, nếu có sẽ thương tổn chồng, lý của nó dễ hiểu. Trong đó có thương quan mà trái lại gặp chồng (tức là quan tinh), chính là tài mệnh có khí lực , thương quan sanh tài và tài sanh quan tinh tức là chồng vậy.
Mệnh phụ nữ lấy thực thần làm con, gặp kiêu đoạt thực (kiêu thần cướp đoạt thực thần), tuy sanh mà con không tồn tại.
Phụ nữ dựa vào con là phúc, đã không có con, thì làm sao có thể có phúc được mà nói?
Mệnh phụ nữ quan trọng hai sao chông và con, cho nên nêu thương quan, thực thần mà bàn luận.

Thiên can sát hiển, vô chế giả tiện. Địa chi tài phục, ám sanh giả kì.
(Thiên can sát hiện, không có chế phục thì thấp hèn. Địa chi tài phục, ngầm sanh thật kỳ lạ).
Mệnh người lấy sát là quan trọng, ở phần trước tập trung nói về sát, cần có dương nhận hợp, cần có thực thần chế phục, cần đi theo sát.
Như không có hợp, không chế phục, không đi theo mà thiên can hiện ra thì sát vô tình, cho nên chủ nghèo hèn.
Mệnh người lấy tài làm phúc, ở phần trước tập trung nói về tài, cần có thương quan sanh, cần xung phá, cần thực thần vượng.
Nhưng tài không thích lộ ra mà ẩn trong địa chi, có vật ngầm sanh thì chủ giàu có cho nên mới là kỳ lạ.

Tam tuất xung thìn họa bất thiển.
Khôi cương tối phạ tương xung, bất cát. Nhược tương đình vi tài quan khố, bất kị.
(Ba tuất xung thìn hoạ không nhỏ.
Khôi cương rất sợ xung nhau, không tốt. Nếu ổn thoả nhau là quan tài khố, không kỵ).
Như ba tuất một thìn, ngày giáp thìn chủ tham tài mà sanh ra tai hoạ, vì địa võng xung thiên la, cho nên kỵ.

Lưỡng can bất tạp lợi danh tề.
(Cả hai can không hỗn tạp lợi danh hoàn bị).
Cả hai can khó mà không hỗn tạp, cho nên chủ lợi danh cùng lúc có đủ, nhưng không thể nhất luật nói là quý.
Có thể là tài sát, có thể là quan ấn, có thể là sát nhận, có thể ngũ hành thành tượng, thêm hợp cách cục, mới coi là quý mà bàn luận.

Bính tý tân mão tương hình, hoang dâm cổn lãng.
(Bính tý tân mão hình nhau, hoang dâm như sóng cuồn cuộn).
Bính tân hợp, tý mão hình, thiên can hợp địa chi hình. Bính tân hoá thành thuỷ tượng, tý mão vô lễ. Cho nên hoang dâm (bỏ bê công việc, đam mê tửu sắc. Sau thường chỉ say đắm nữ sắc) như sóng cuồn cuộn, nói là cực dâm (rất tham sắc dục). Mệnh phụ nữ càng kỵ.

Tý ngọ mão dậu toàn bị, tửu sắc hôn mê.
(Tý ngọ mão dậu đầy đủ, mê đắm tửu sắc).
Ở trên nói tý mão, ở đây cùng bàn về ngọ dậu, là cách cục của tứ bại (bốn chỗ bại), hiệu là biến dã đào hoa sát khắp cả cánh đồng.
Người có đầy đủ thường quý, nhưng chỉ say đắm tửu sắc. Mệnh phụ nữ rất kỵ.

Nhân tài trí họa, tham thực chủng tật. Chất nam vi tự, nghĩa nữ vi thê.
(Vì tài dẫn đến hoạ, tham ăn mắc bệnh. Cháu trai là con thừa tự, con gái nuôi là vợ).
Ở trên nói tài cần tàng phục mới là kỳ lạ, nhưng tài thì ai cũng tranh giành, cho nên có dương nhận, kiếp tài, sẽ là do tài mà dẫn đến tai hoạ, thấy tài không nên tập trung vậy.
Ở trên nói thực thần chế phục sát là kỳ diệu, nhưng thực (ăn) là thứ người tham muốn của riêng mình, cho nên có kiêu thần doạt thực, thì người ăn mắc bậnh, thấy thực không nên chia cắt.
Nam lấy quan sát làm con, như dương nhận, kiếp tài, quan sát là bỉ dụng (dụng thần của bên kia), là anh em có con mà mình không có con, cho nên lấy cháu trai làm dụng thần.
Lấy thiên và chánh tài làm vợ, như trong trụ không có tài ở đúng vị trí, thì nương tựa vào cung khác, là cưới con gái nuôi của người khác, cho nên nói chủ con gái nuôi làm vợ.

Nhật thì tương xung mão dậu, thủy sanh tất chủ thiên di.
Tạo hoá nhân phùng tuất hợi, bình sanh kính tín thần chỉ.
(Ngày giờ mão dậu xung nhau, mới sanh nhất định thiên di.
Phúc lành do gặp tuất hợi, cả đời chỉ kính tin vào thần).
Đây là đề cử mão dậu trong địa chi, nhà của mặt trời mặt trang, ngày giờ gặp chủ thiên di không chắc chắn.
Tuất hợi là thiên môn (cửa trời), ngày tháng di chuyển, thường chỉ kính tin thần, có thể là tu sĩ hay đạo sĩ vậy.

Âm khắc âm, dương khắc dương, tài thần hữu dụng. Quan vô quan, quỷ vô quỷ, thái vượng khuynh nguy.
(Âm khắc âm, dương khắc dương, tài thần có lợi ích. Quan không có quan, quỷ không có quỷ, quá vượng sẽ gặp nguy hiểm).
Mệnh người lấy tài quan là quan trọng, cho nên nêu ra để bàn luận.
Con người đều biết chánh tài là dụng thần, không biết rằng âm có khả năng khắc âm, dương có khả năng khắc dương.
Thiên tài vượt hơn chánh tài, hạnh vận trái lại thành sử dụng được.
Quan không thể không có, quan nhiều trái lại chủ không có quan, không tốt.
Sát không nên có, sát nhiều nên đi theo quỷ, trái lại không là tai hại.
Những điều quan trọng đều quá vượng, thân suy không khả năng thắng cự, có xu hướng nguy hiểm.

Đắc cục thất viên, bình sanh bất toại. Quy viên đắc cục, tảo tuế hiên ngang.
(Được kết cấu mà mất tường thành, cả đời không vừa ý. Trở về tường thành và được kết cấu, tuổi trẻ hiên ngang).
Đắc cục là tam hợp cục. Quy viên là can quy lộc.
Đây là nói về mệnh người cần được sanh vượng thành cục, cơ hội trở thành phúc lành.
Nếu đắc đắc cục thất viên (được kết cấu mất tường thành), dẫu có thiên can loại tượng.
Mà địa chi tam hợp, tức là can ngày ở dất hưu tù tử tuyệt, cũng cả đời không vừa lòng.
Nếu đắc cục (được kết cấu) lại quy viên (trở về tường thành), như năm sao lên sảnh đường vào tường thành, chính là chỗ đắc địa đắc thời.
Chắc chắn chủ tuổi còn nhỏ đã phát phúc. Các cách khúc trực, nhuận hạ, tức là đắc cục quy viên (được kết cấu trở về tường thành).

Mệnh ngộ kiêu thần, nhi dữ phú gia doanh vận.
Long tàng hợi mão, kinh thương lợi lộ ti nhung.
Tài quan câu bại giả tử, thực thần phùng kiêu giả hung.
(Mệnh gặp kiêu thần, nên cùng với nhà giàu cai quản vận.
Rồng chứa hợi mão, buôn bán lợi hối lộ nhung lụa.
Tài quan đều bại thì chết, thực thần gặp kiêu thần thì xấu).
Kiêu thần đương nhiên đáng ghét, nhưng mà tiểu nhân thấy có lợi ích, nói là nó giúp đỡ quản lý nhà giàu.
Như giáp dùng bính hoả làm thực thần, bính có khả nấngnh mậu thổ lầ tài của giáp, nhâm thuỷ tức là kiêu thần của giáp, bị mậu sai khiến, bính hoả dựa vào giáp mộc, trái lại hỗ trợ sanh cho nhau, là cung cách của chủ và khách vậy.
Cũng có trường hợp người buôn bán tự quản lý vận, gọi là long tàng hợi mão. Dần là thanh long, tỵ là thái thường,
Hợi mão mùi mộc cục. Bát tự long tàng hợi mão mùi là dụng thần hoặc dụng tài, đều chủ lợi lộc của the lụa. Tài quan là lộc mã, rất cần thiết của con người. Nếu đều ở đất bại tuyệt, hoặc đi vận lại đến nơi bại tuyệt, dụng thần bị tổn giảm khí lực, làm sao không chết?
Thực thần là sao tước vị của con người, sanh cho tài hay chế phục sát, trong mệnh rất cần thiết.
Gặp kiêu thần đoạt thực , thì sát không còn chế phục, tài không có chỗ sanh, làm sao mà không hung?

Đinh tỵ cô loan mệnh ngộ, thông minh thi nữ; lỏa hình mộc dục nhật phạm, trọc lạm hoang dâm.
(Mệnh gặp đinh tỵ cô loan, nữ thi sĩ thông minh; ngày phạm mộc dục loả hình, hoang dâm bừa bãi).
Đây là bàn về mệnh phụ nữ, nam cũng giống nhau.
Cô loan chính là các ngày giáp dần, đinh tỵ, mậu thân, tân hợi,ngồi ở bốn chỗ sanh cho nên thường thông minh. Loả hình mộc dục tức là tý ngọ mão dậu bốn chỗ bại.
Tháng và giờ phạm thì không có hại gì, chỉ sợ can ngày tự ngồi trên.
Như các ngày giáp tý, canh ngọ, đinh mão, quý dậu.
Thân ngồi trên đào hoa sát, lại gặp đới hợp, cho nên chủ trọc lạm hoang dâm (hoang dâm bừa bãi).

Đinh phùng mão nhật ngộ kỉ thổ, thao thực chi nhân. Hợi nãi tương thần phùng dậu kim, thị bôi chi khách.
(Đinh gặp ngày mão gặp kỷ thổ, người tham ăn. Hợi chính là thần tương gặp dậu kim, khách thích bôi).
Can đinh sanh mão mộc là kiêu thần, nếu gặp kỷ là thực thần, cho nên chủ tham ăn, hoặc do ăn mà sanh tai hoạ.
Hợi là đăng (trèo lên) minh, dậu thêm thuỷ là rượu (chữ dậu 酉 thêm bộ thuỷ là chữ rượu), người sanh ngày dậu gặp hợi, sẽ thích rượu (bôi là cái chén ý nói chén rượu).
Thêm đới hình xung, chủ khốn đốn hoặc chết vì rượu.

Quy lộc đắc tài nhi hoạch phúc, vô tài quy lộc tất tu bần.
(Quy lộc gặp được tài nên thu hoạch được phúc, không có tài mà quy lộc sẽ nghèo).
Quy lộc mà bản thân vượng, cho nên dụng tài, không có tài mà chuyên lộc, quy lộc không ích lợi.
Được thương quan, thực thánanh tài ở tháng, tốt. Lại sợ thấy quan sát, trộm khí của tài.

Tài ấn hỗn tạp, chung vi thụ khốn; thiên chánh thác loạn, tất trí thương thân.
(Tài và ấn hỗn tạp, luôn bị khốn khổ; thiên chánh tạp loạn, sẽ dẫn đến thương tổn bản thân).
Tham tài hoại ấn, cho nên kỵ hỗn tạp. Nếu trước là tài sau là ấn, trái lại chủ thành phúc, không bàn luận với điều này. Quan và dương nhận hỗn tạp, có trường hợp bỏ hay giữ cũng tốt. Nếu tạp loạn sẽ thương tổn bản thân nên hung xấu.
Phụ nữ mà thiên chánh tạp loạn càng là không tốt. Người chọn vợ nên biết điều này.
Có thể nói: thiên chánh chỉ có nghĩa là nói về thiên tài, chánh tài hay thiên ấn chánh ấn, nhưng đối với thương tổn bản thân khó thông.

Thái tuế kị phùng chiến đẩu; dương nhận bất hỉ hình xung.
(Thái tuế kỵ gặp đánh nhau; dương nhận không thích hình xung).
Đây là luận can ngày với tuế quân phạm nhau và hoạ phúc. Nếu ngày phạm tuế quân, lấy tuế làm dụng thần thì không có lỗi. Như sáu ngày nhâm, lấy bính đinh làm tài, trong trụ vốn có căn, tuy phạm thái tuế, trái lại là tốt. Thân vượng thì hung, còn yếu nhược thì không lỗi. Ngày với vận đều phạm phải, mới chủ đại hung. Ngũ hành có cứu giúp, cũng giảm phần số. Rất sợ thiên xung địa kích, nên quan sát tính tình âm dương, chân lý của sự vật.
Lại như sáu người ất, lộ ra kỷ ở tuế vận, hoạt mộc khắc hoạt thổ, tức có sanh ý (chỉ tiền tài), nguồn tài tăng lên nhiều lần. Người sanh sáu ngày giáp, gặp mậu tuế vận, tử mộc khắc tử thổ thì không tốt, nặng có thể mất mạng.
Dương nhận cách, không thích tuế vận hình xung, tiểu nhân không thể phạm phải. Như bát tự đã có dương nhận, nhiều sát chế phục, đi dương nhận tuế vận, cũng hung. Vốn là có tài càng nặng.
Đới thương xung hình dánh nhau, chủ tai hoạ xãy ra bất ngờ.
"Sách" nói rằng: dương nhận xung hợp tuế quân, đột nhiên sát hoạ đến, là vậy.
Chiến đấu chỉ hành vi của thái tuế, hình xung chỉ hành vi của dương nhận, chỉ ra chỗ rất quan trọng của nó để bàn luận.

Canh phùng bính nhiễu, đa hữu bất nhân. Quý tòng mậu hợp, thiểu trường vô tình.
(Canh gặp bính làm phiền, phần lớn là bất nhân. Quý theo mậu hợp, nhỏ lớn vô tình).
Đây là nói về tính tình và tâm thuật của con người
Kim hoả hình nhau, cho nên có bệnh lại chủ là người cứng cỏi hung bạo.
Quý là thiếu âm mậu là lão dương, quý mậu tuy hợp hoá chính là hợp vô tình, cho nên lấy nhỏ lớn để nói.
Nam mệnh ngày mậu thấy quý, nên cưới phụ nữ trẻ tuổi.
Nữ ngày quý thấy mậu sẽ là gã chồng là người già.

Bất tòng bất hóa, yêm lưu sĩ lộ chi nhân. Đắc hóa đắc tòng, hiển đạt công danh chi sĩ.
(Không tòng không hoá, người ở quan trường lâu dài. Đắc tòng đắc hoá, người có công danh thành tựu vẻ vang).
Tháng không thông khí, giờ không có chỗ trở về, lại phạm cọ thần, thì không tong cũng không hoá.
Nếu thông khí, giờ có chỗ trở về, thì lấy tòng hay hoá đề luận.
Chồng vượng theo chồng hoá, vợ vượng theo vợ hoá.
Sự nghiệp của con người đâu chỉ một việc mà gầy dựng, cả đời không thay đổi, cho nên tòng hoá thành cách sẽ đầy đủ phú quý. Trước luận tòng hoá, sau luận tài quan.
Tòng là lấy thiên can đi theo địa chi, như ất sanh tháng tám, địa chi kim nặng, thì lấy kim để luận là vậy.
Hoá trải qua vượng lộc thì sống, hoá về lộc tuyệt thì chết.
Đó là nói đắc hoá đắc tòng, cần thiết được lộc vượng, không nên tử tuyệt.
Bởi khi hoá thành hạnh vận, trải qua bổn cục lộc vượng.
Như đinh nhâm hoá mộc, lệnh tháng mùa xuân, hoặc vận phương đông nam là sống.
Đi nơi kim, hoặc giờ gặp dất thân dậu thì chết.

Sanh địa tương phùng, tráng niên bất lộc. Thì quy bại địa, lão hậu vô chung.
(Sanh địa gặp nhau, tráng niên không có lộc. Giờ về với bại địa, tuổi già không thành tựu).
Sanh địa tương phùng là mệnh đã trường sanh, lâm quan đi vận lại gặp nữa.
Như canh tân lâm quan đế vượng ở thân dậu, dụng bính đinh làm quan, dụng giáp ất làm tài.
Hoả mà vận đến thân dậu, thì bệnh tử, là canh tân không có quan.
Mộc mà vận đến thân dậu, thì tử tuyệt, là canh tân không có tài.
Tài quan đều bại, dụng thần bị phá thương tổn, tuy là tráng niên (thời kì từ ba mươi đến bốn mươi tuổi) mà không có lộc.
Trụ giờ là kết quả, giờ sanh của con người, rất không nên ở ngũ hành bại địa.
Kim bại ở ngọ, mộc bại ở tý, thuỷ thổ bại ở dậu, hoả bại ở mão.
Trụ giờ cai quản phần ngọn, nếu ở chỗ bại , chủ tuổi già tối tăm trì trệ, phá bại không có thành tựu.

Đinh tọa dậu kim, bính tân ngộ chi tuyệt tự; tài lâm sát vị, phụ tử nhi bất quy gia.
(Đinh ngồi ở dậu kim, bính tân gặp thì tuyệt tự; tài đến chỗ sát, cha chết mà không về nhà).
Bính dụng nhâm làm con, mà nhâm bại ở dậu; tân dung bính làm con, mà chết ở dậu.
Trụ giờ chính là cung của con cái, đã bại lại chết, hỏi làm sao mà sử dụng được? Nếu như hữu dụng thì cha sẽ bất lộc (chết).

Nhân mệnh dĩ tài vi phụ, tài sát đồng quan, tắc nan vi phụ.
(Mệnh người lấy tài làm cha, tài sát đồng cung, sẽ khó thành cha).
Như canh tân dùng giáp làm cha, năm tháng giờ thấy giáp thân, ngồi ở cung của sát, tuế vận sát vượng, chủ cha chết nơi đất khách.
Hoặc vận sát, kiếp sát. Tài ngồi ở kiếp sát thay thế chỗ cha, đúng với nghĩa của bài "phú" cũng thông suốt.

Bát tự can chi đồng loại, tuế vận hội sát đa hung.
(Bát tự can chi cùng một loại, tuế vận gặp sát thường hung xấu).
Chi can đồng loại như là giáp dần, ất mão, bính ngọ, đinh mùi, canh thân, tân dậu, nhâm tý, quý sửu, mậu ngọ, kỷ mùi, mậu tuất, kỷ sửu.
Hành vận hội sát sẽ chết. Vì ỷ mình mạnh cùng với tranh nhau, sát cường thịnh khắc thân là lý do.

Nếu có khả năng xem xét một cách cẩn thận, sang hèn không thể sai trật một điều nào.
Ta đã xem các chú thích cũ, phân tích bị phá hỏng, vụn vặt, làm sai mục dích của bài "phú".
Nên ghi chú ngắn gọn ở phần dưới để làm rõ ý của tác giả.


Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



元理赋

(徐大升着。万育吾解。)
元一气,生五行,统三才,周万物。
发乾坤之妙用,剖阴阳之枢机。
在乎推四方,分其贵贱,得其中道八字。
一定荣枯,是以强明其生克制化,清浊贵贱,寿夭贤愚。
(此原造化之始。)

金赖土生,土多金埋。土赖火生。火多土焦。
火赖木生,木多火炽。木赖水生,水多木漂。
水赖金生,金多水浊。
金能生水,水多金沉。水能生木,木盛水缩。
木能生火,火多木焚。火能生土,土多火晦。
土能生金,金多土变。
金能克木,木坚金缺。木能克土,土重木折。
土能克水,水多土流。水能克火,火炎水热。
火能克金,金多火熄。
金衰遇火,必见销熔。火弱逢水,必为熄灭。
水弱逢土,必为淤塞。土衰遇木,必遭倾陷。
木弱逢金,必为砍折。
以上太过不及,各有其害。如此见五行四柱,不可不中和也。

强金得水,方挫其锋,强水得木,方泄其势。强木得火。
方化其顽。强火得土,方止其焰。强土得金,方制其害。
以上言五行克制,要得中和,而太过不及,会失之矣。
理贯人融者妙其幽,察其显也。其为体也,深能通变,究其元微其为用也。论其轻重,原有原无,天理赋来,吉凶动静。人生分定,否泰盈亏。
以上通论干支,阴阳生克制化之中,体幽用显,轻重有无,而吉凶动静、否在盈亏,皆自此而生之也。妙在识其通变,究其元微,由显而幽,斯得其理。以下则详言之。

煞无刃不威,刃无煞不显
煞乃克我刃乃劫我,命中之最凶者。
首言煞刃,其知所重者欤。
《赋》云:刃为兵器,无煞难存。煞为军令,无刃不尊。
刃煞双显,威镇乾坤。是也。
徐大升因见《喜忌》(继善》二篇,不足以尽人之命。
故复撰此赋,所以补其未备也。

煞刃双显均停,位至王侯。刃煞轻重,无制身为胥吏。
煞刃相停者,极贵。不相停者,极贱。
刃煞停不停,而贵贱之相是如此。
生平富而且贵,煞重身柔。中途忽死或危,运扶干旺。
既不相停,不如从煞。
能从者,必煞重身柔,而後可从。
不然,不能从也。
既从煞,只以煞论,不可再遇身旺相敌,敌则反生祸矣。

处身僧道之首,用煞反轻。受职台谏之除,偏官得地。
七煞为极星,又为孤星。
身煞两强,七煞有制,身弱从煞,皆贵。
煞多为台谏之官。
若身旺煞轻,更入清奇,必为增道之首矣。
岂知大贵者,用财而不用官。
当权者,用煞而不用印。印赖煞生,官因财旺。
用财不用官,财生官也。用煞不用印,煞生印也。
故云印赖煞生,官因财旺,非不用印用官,而专用财煞。
则官印在其中矣。印赖二句,紧本上文四句,自发明之。

五行消息,元理可知;四柱推明,用神可见
食居先,煞居後,功名两全。
酉破卯,卯破午,财官双美。
人之八字,全看用神。如上用煞、用刃、用财,而不用官、用印,其理甚玄,在人消息之耳。
论煞当要刃,无刃要有制,煞强有制,皆为方论。
煞主名,食主利,故曰功名两全。
酉破卯,卯破午,亦食前煞後之意。酉以卯为财,午为煞。财煞兼有,故主财官两美。
煞所以相破者,以其相克也,必四正相破。

享福,五行归禄;眉寿,八字相停。
此举命中最要者言之。要归禄,要相停,不可死绝偏党。
享福属归禄,眉寿属相停,义各有所取也。

晦火无光於稼穑,盗木多困於丙丁。
此以下,正言不归禄、不相停,故不得享福、眉寿。
土掩火光,土赖木疏,木本生火。火多则反盗气,见不中和。
火虑有焰。
火怕晦,虚则有焰不晦。
金实无声。
金要火,无火炼则不成器。实,何以发声?
水泛木浮者活木,土重金埋者阳金。水盛则危,火明则灭。
此又细分五行不相停,而有阴阳之别见。
五行不可太过,如水泛则木浮,在乙木则怕,甲木则否。
土重金埋,在庚金则畏,辛金则否。
以乙木死於亥,甲木生於亥。
庚金出土之金,所以生巳。辛金带水之金,所以生子。
水盛则泛滥,故危。火明则根烬,故灭。

阳金得炼太过,变革奔波。阴木归垣失令,终为身弱
金实无声,炼过变革;归禄享福,失令身弱,见要中和。
阳金,土重则埋,怕炼大过,是无土也。
阴木,失令则弱,纵是归垣,亦损寿也。
此本上文活木、阳金而言,又不可无水土生养也。
土厚而掩火无光,水盛则漂木无定。
五行不可太盛,八字须得中和。
土厚,即晦火无光之意;水盛,即水泛木浮之意。
五行二句,又所以总结之,归於中和而已。
土止水流全福寿,水无土止必伤残。
此下言失中和,而五行有救,亦作吉论;无救助方凶。
如水流而有土止,则禄寿两全。余可例见。

木盛多仁,土薄寡信
水旺居垣须有智,金坚主义却能为。
金水聪明而好色,水土混杂必多愚。
此言五行性气太过,中亦各有所盛,偏之为害也。
五行分四时,五常配五行,自然之理也。
或盛、或薄、或旺、或多、或混杂。
而仁义智信,聪明愚鲁,亦各从其类耳。

遐龄得於中和,夭寿丧於偏枯
此又申言人命要禀中和,即前眉寿八字停均之义。
若太过不及,失於偏枯,安得遐龄之享哉?)

辰戌克制并冲,必犯刑名。子卯相刑门户,全无礼德
此以下提起地支相冲、相刑言之。
辰戌魁罡并冲必凶;子卯母子相刑必乱。
乃冲刑之最重者。余稍轻。
寅申巳亥为四生之局,纵犯克制、刑冲亦无大害。

弃印就财明偏正
前言大贵者,用财不用印。
财有偏正,印亦有偏正。正印见财有祸,偏财见印无妨。
正财不喜见印,偏财不忌见印。同此理也。

弃干从煞论刚柔
前言当权者,用煞不用印。
煞有刚柔,弃天干而从地支。
阳刚阴柔,金水土可从,木火不可从。
明可从不可从之理,然後知印可用不可用也。

伤官无财可倚,虽巧必贫。食神制煞逢枭,不贫则夭
伤官、食神同类,伤官剥官,命中最忌。
有财亦好,以伤生财,财生官故也。无时则以贫断。
食神制煞,命中最怕逢枭,以枭夺食,煞无制则克身故夭。

男多阳刃必重婚,女犯伤官须再嫁。
羊刃逢煞相停,固主贵矣,多则伤妻。
男以财为妻,刃则克制,故重婚。
伤官有财可倚,固主贵矣,女则伤夫。
女以官为夫,伤则克制,故再嫁。

贫贱者,皆因官处遭伤。孤寡者,只为财神被劫
官为禄,有禄安得贫贱?
身旺得官微,复行伤官运,谓之背禄则无官矣。安得不贫贱?财为妻,有妻安得孤独?
财少遇身旺,复行劫财运,谓之遂马,则无妻矣宜乎该孤寡。财官,其人命之最要者欤!

财临旺地人多福,官遇长生命必荣
前言食伤生财为旺,此则直言财临旺地。
如甲用戊己为财,居巳午之地为旺。
前言财旺生官,此则直言官遇长生。
如甲用庚辛为官,居巳子之地为生。
二者必须身旺,方主有福荣贵。

去煞留官方论福,去官留煞不为卑
人命最怕官煞混杂,用官只用官,用煞只用煞。
故有去留,方可言贵。
如伤官、羊刃,人命逢之多不吉。
用之去官留煞,去煞留官,或者亦作福论。
岂知遇正官、却终俸禄。逢七煞,乃有声名。
正官七煞,君子小人之分也。岂君子不如小人?
正官虽得纯粹,七煞一有制伏,便发贵有声。
若正官纯粹,发福悠长,岂七煞之比?
此举其偏重者言之。

逢伤官反见夫,财命有气。遇枭神而丧子,福气无依
女命最怕伤官,有则伤夫,其理易晓。内有伤而反见夫者,乃财命有气,伤官生财,财生官星,为夫故也。
女命以食神为子,遇枭夺食,虽生子不存。
女倚子为福,既无子,又何有福之可言?
女命重夫子二星,故举伤官、食神言之。


天干煞显,无制者贱。地支财伏,暗生者奇
人命以煞为重,前专以煞言,要刃合,要食制,要从煞。
如不合、不制、不从,天干显则煞为无情,故主贫贱。
人命以财为福,前专以财言,要伤生,要冲破,要食旺。
但财不喜露要藏地支中,有暗物以生之,则主丰厚故为奇特。

三戌冲辰祸不浅
魁罡最怕相冲,不吉。若相停为财官库,不忌。
如三戌一辰,甲辰日主贪财生祸,以地网冲天罗,故忌之。

两干不杂利名齐
两干难得不杂,故主利名兼有,然不可一概言贵。
或是财煞,或是官印,或是煞刃,或五行成象,更入格局,方作贵论。

丙子辛卯相刑,荒淫滚浪
丙辛合,子卯刑,干合支刑。丙辛水象,子卯无礼。
故主荒淫滚浪,言极淫也。女命尤忌之。

子午卯酉全备,酒色昏迷
上言子卯,此并论午酉,为四败之局,号曰遍野桃花煞。
全备者多贵,但主酒色昏迷。女命尤忌之。

因财致祸、贪食种疾。侄男为嗣,义女为妻
上言财要伏藏为奇,然财者众所争,故有羊刃劫财,则因财致祸,见财不可专也。
上言食神制煞为妙,然食者人所贪,故有枭神夺食,则因食生疾,见食不可分也。
男以官煞为子,如羊刃劫财官煞为彼用,是兄弟有子而我无子,故以侄男为用。
以偏正财为妻,如柱中无财正位,而寄生别宫,是娶他人所养女,故主义女为妻。

日时相冲卯酉,始生必主迁移
造化因逢戌亥,平生敬信神只
此又举地支中卯酉,日月门户,日时遇之,主迁移不定。
戌亥为天门,日月迁之,多敬信神只,或僧道也。

阴克阴,阳克阳,财神有用。官无官,鬼无鬼,太旺倾危。
人命以财官为重,故又举而言之。
人皆知正财为用,不知阴能克阴,阳能克阳。
偏财胜乎正财,造化反为得用。
官不可无,官多反主无官,不吉。
煞不可有,煞多得从其鬼,反不为害。
要之皆为太旺,身衰不能敌,倾危之道也。

得局失垣,平生不遂。归垣得局,早岁轩昂
得局,三合局也。归垣,干归禄也。
此言人命要生旺成局,势为福。
若得局失垣,虽天干类象。
而地支三合,却为日干休囚死绝之地,亦平生不遂。
若得局,又归垣,如五星升殿入垣,乃得地得时之谓也。
决主早岁发福。曲直润下等格,即得局归垣。

命遇枭神,而与富家营运
龙藏亥卯,经商利赂丝绒
财官俱败者死,食神逢枭者凶
枭神固可恶,小人得之有用,谓其与富家营运。
如甲用丙火为食,丙能生戊土为甲之财,壬水却为甲木枭神,受戊驱使,丙火以托甲木,反换相生,为主客之道故也。
亦有为商自营运者,谓龙藏亥卯。寅为青龙,巳为太常,
亥卯未木局。八字龙藏亥卯末为用神者或用财,皆主丝纺之利。财官为禄马,人最紧要。若俱在败绝之地,或行运又到败绝,用神损气,安得不死?
食神,人之爵星,生财制煞,命中紧要。
逢枭夺食,煞无所制,财无所生,安得不凶?

丁巳孤鸾命遇,聪明诗女;裸形沐浴日犯,浊滥荒淫。
此论女命,男亦同。
孤鸾乃甲寅、丁巳、戊申、辛亥等日,坐四生之地故多聪明。裸形沐浴,即子午卯酉四败之地也。
月时犯无妨,只怕日干自坐。
如甲子、庚午、丁卯、癸酉等日。
身坐桃花煞,再遇带合,故主浊滥荒淫。

丁逢卯日遇己土,饕食之人。亥乃浆神逢酉金,嗜杯之客
丁干生卯木为枭,若遇己为食,故主贪食,或因食生灾。
亥为登明,酉加水为酒,酉日生人逢亥,必主贪杯。
更带刑冲,主落魄或酒死。

归禄得财而获福,无财归禄必须贫
归禄身旺,故用财,无财而专禄,归禄无用。
得伤官、食神生财月,吉。又怕见官煞,窃财之气。

财印混杂,终为受困;偏正错乱,必致伤身
贪财坏印,故忌混杂。若先财後印,反主成其福,不以此论。官认混杂,有去留,亦吉。若错乱,则伤身为凶。
女个偏正错乱,尤为不吉。择妇者须知之。
或曰:偏正,就指财之偏正、印之偏正言,但於伤身难通。

太岁忌逢战斗,羊刃不喜刑冲
此论日干与岁君相犯祸福。若日犯岁君,以岁为用神者无咎。如六壬日,以丙丁为财,柱中原有根,虽犯太岁,反为吉。身旺者凶,弱者无咎。日与运俱犯之,方主大凶。五行有救,亦减分数。最怕天冲地击,当察性情阴阳,物元真理。
且如六乙人,透己岁运,活木克活土,却有生意,财源倍有。六甲生人,逢戊岁运,死木克死土,则不吉,重者丧身。
羊刃格,不喜岁运刑冲,小人不可犯之。如八字既有羊刃,多煞制伏,行羊刃岁运,亦凶。元有财者,更重。
带伤冲刑战斗,主祸出不测。
《经》云:羊刃冲合岁君,勃煞祸至。是也。
战斗独举太岁,刑冲独举羊刃,指其所最重言也。

庚逢丙扰,多有不仁。癸从戊合,少长无情
此言人之性情、心术。
金火相刑,故有此病,且主人刚暴。
癸为少阴戊为老阳,癸戊虽合化乃无情之合,故以少长言。
男命戊日见癸,当娶少年之妇。
女个癸日见戊,必嫁老年之夫。

不从不化,淹留仕路之人。得化得从,显达功名之士
不通月气,时无所归,又犯孤神,不从不化也。
若通月气,时有所归,则以从化论。
夫旺,从夫化,妻旺,从妻化。
人之行藏岂止一事而立,终身无改,故从化成格则富贵备矣。先论从化,後论财官。
从,以天干从地支,如乙生八月,地支重金,则以金论是也。
化行禄旺者生,化归禄绝者死。
此言得化、得从,要得禄旺,不要死绝。
盖化成造化,行本局禄旺。
如丁壬化木,月令春,或东南方运为生。
行金乡,或时遇申酉之地,为死。

生地相逢,壮年不禄。时归败地,老後无终
生地相逢,是命已有长生、临官,行运复遇之。
如庚辛临官、帝旺,在申酉,用丙丁为官,用甲乙为财。
火至申酉运,则病死,是庚辛无官也。
木至申酉运,则死绝,是庚辛无财也。
财官俱败,用神破伤,虽壮年不禄。
时为结果,人之生时,最不可居於五行败地。
金败午,木败子,水土败於酉,火败卯。
时为末主,若居败地,主晚年晦滞,破败无终。

丁坐酉金,丙辛遇之绝嗣;财临煞位,父死而不归家
丙用壬为子,壬败於酉,辛用丙为子,而死於酉。
时乃子宫,既败且死,岂有用乎?如有用,则父必不禄。

人命以财为父,财煞同官,则难为父
如庚辛用甲为父,年月时见甲申,坐煞宫,岁运煞旺,主父死他乡。
或云,煞,劫煞。财坐劫煞更父位,准《赋》义亦通。

八字干支同类,岁运会煞多凶
支干同类,如甲寅、乙卯、丙午、丁未,庚申、辛酉、壬子、癸丑,戊午、己未、戊戌、己丑是也。
行运会煞,必主不禄。以其恃强,与煞相争,煞竞克身故也。

若能详观玩览,贵贱万不失一。
余见旧注,分析破碎,有失《赋》旨。
故略注於下,以明作者之意云。



.

Thanked by 1 Member:

#397 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 13/12/2024 - 11:20

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhị

chân bảo phú

(Triều Minh Binh Bộ Thương Thư Vạn Kỳ soạn. Vạn Dục Ngô phân tích)

Quan tinh đái nhận vô khắc phá, chưởng binh hình chi đại quyền.
Tài ấn tương tư một hình xung, đăng hoàng các tam công chi quý.
(Quan tinh đới nhận không có khắc phá, nắm giữ binh quyền to lớn.
Tài ấn nương nhau không hình xung, leo lên lầu vàng, quý của bậc tam công).
Chánh quan cách. Ở dương nhận cùng với tài ấn nương nhờ nhau.
Có thương quan sẽ khắc, có hình xung sẽ bị. Không có ấn, không có nhận, chỉ có tài tinh giúp đỡ, cũng tốt. Tuế vận giống nhau.

Tài quan sanh vượng phùng ấn thụ, bái vi viên hiến phủ chi tôn.
Tam hợp ấn tài hội cục toàn, đăng ngũ mã chư hầu chi quý.
(Tài quan sanh vượng gặp ấn thụ, phong chức vi viên phủ quan tôn quý.
Tam hợp ấn tài hội cục đầy đủ, leo lên năm ngựa quý của chư hầu).
Tài quan sanh vượng cách. Trụ có thiên ấn, chánh ấn, lại tam hợp ấn cục, hoặc tài cục, tốt.

Thương quan phùng kiếp nhận, kiêm tướng tướng ư minh thì. Ấn thụ nhược tương phù, đăng long môn ư tảo tuế.
(Thương quan gặp kiếp, nhận, cùng lúc tướng tướng ở thời gian tươi sáng. Ấn thụ nếu hỗ trợ, tuổi còn nhỏ đã leo lên long môn - triều đình).
Thương quan cách. Bản thân yếu hược, mừng nhận ấn giúp đỡ, sẽ tốt.

Thương quan đắc thực thần trọng phụ, thuyết các đồ ngụy tương chi công.
Tuế vận kỵ chế phục hình xung, tái thương quan nhi họa chí.
(Thương quan được thực thần giúp đỡ, giải thích công lao của tướng nước Nguỵ về các đồ.
Tuế vận kỵ chế phục hình xung, gặp lại thương quan lần nửa thì tai hoạ đến).
Thương quan được thực thần trùng diệp hỗ trợ, tốt. Kỵ hình xung cùng với chế phục quá mức. Lại đi vận thương quan, tai hoạ không lường trước sẽ đến.
Trong trụ không có quan, thích đi vận tài quan. Không có ấn, thích đi vận ấn thụ chủ dược thăng quan tiến chưc. Tuế vận giống nhau.

Tài tư thất sát, uy quyền độc áp vạn nhân. Ấn nhược tương phù, đoán định quan cư cực phẩm.
(Tài giúp đỡ thất sát, quyền uy áp đảo vạn người. Ấn nếu hỗ trợ, đoán chắc quan cao cực phẩm).
Thất sát cách. Mừng có tài giúp đỡ, lại được ấn hoá, rất tốt.
Chỉ có sát, cho nên chủ có quyền lực; được ấn cho nên chủ cực phẩm.
Tháng gặp cùng lúc sát nhận, danh tiếng anh hùng so với Hoắc Quang của đời Hán.
Giờ và tuế lại có ấn tài. Hoàng đế trung hưng cấp cao Đạng Vũ.
Thất sát kiếp nhận cùng ở lệnh tháng, tuế và giờ có tài, có ấn rất quý.
Nghĩa giống với lời văn ở trên, nhưng ở đây lại có thêm dương nhận.

Sát thất thì nhi ấn vô khí, canh chủ vượng nhi nhậm thường lưu.
(Sát lạc thời nên ấn không có khí lực, trái lại lúc thịnh vượng nên sự việc thường trôi chảy).
Thất sát, ấn thụ, nếu không đang nắm lệnh quyền cai quản. Mà can ngày tự vượng, dụng thần nhỏ yếu, chẳng qua chỉ là trống rỗng và lãnh đạm. Tuế vận đi tài sát sẽ tốt.

Ấn ti lệnh nhi sát tương phù, tái kiến tài nhi quan hàn uyển.
(Ấn nắm lệnh mà sát hỗ trợ, gặp lại tài nên quan hàn uyển).
Ấn thụ cách. Cần phải đương lúc lệnh tháng, chi ngày lại được sanh trở lại khí vượng, không gặp hình xung phá hại. Có một chút phát tài, một sát thì tốt, nhiều quá không thích hợp. Tài ấn cả hai ổn thoả chính là thường lưu.
"Phú" nói rằng: ấn thụ trùng phùng, quan ở hàn uyển (vườn văn chương) là vậy.

Thiên tài thì thượng kiến quan, tảo tuế danh tiêu kim bảng.
Canh đắc thực thần tương phụ, thiểu niên nhật cận thiên nhan.
(Thiên tài trụ giờ gặp quan, tuổi còn nhỏ danh treo bảng vàng.
Được thêm thực thần hỗ trợ, tuổi trẻ mỗi ngày ở sát bên vua).
Thời thượng thiên tài cách. Năm tháng có quan tinh, lại được thực thần trợ giúp, đúng với câu văn trên.
Kỵ tỷ kiếp, gặp tỷ trăm sự không một việc nào toại ý.

Phúc đức kiến tài nhi ẩn quan, cư cực cao chi trọng nhậm.
Trụ vận phùng ấn nhi vô thổ, xử chí hạ chi cô hình.
(Phúc đức gặp tài mà quan ẩn, địa vị rất cao có chức vụ lớn lao.
Trụ và vận gặp ấn mà không có thổ, nơi tận đáy cô hình).
Phúc đức. Tương tự như ngày nhâm quý, sanh ba tháng mùa đông, thích tài quan giúp đỡ. Can chi tác hợp, có thể được hoả cục, cùng với thìn tuất sửu mùi, chỉ truy cầu một chữ là tốt đẹp.
Nếu không có tài quan, mà gặp ấn thụ, không đi vận tài quan, mà đi vận ấn thụ cùng với phương bắc. Hình vợ khắc con, mệnh cô quả nghèo hèn vậy.

Lục nhâm xu cấn, thấu tài ấn dĩ vi kỳ. Quan sát tương xâm, phản bần cùng nhi hạ tiện.
(Sáu ngày nhâm nhắm tới cấn, lộ tài ấn thật là kỳ lạ. Quan sát xâm phạm nhau, trái lại nghèo khó và thấp hèn).
Sáu ngày nhâm gặp giờ nhâm dần, chính là xu cấn cách. Năm và tháng lại gặp dần, thiên can lộ ra đinh tân thì tốt đẹp phú quý được có đủ cả hai.
Rất kỵ quan sát, hoặc đi vận gặp phải, người thân ruột thịt chia ly, nghèo mọn làm người nộ bộc hay tớ gái.

Lục giáp xu càn, hỉ tài ấn nhi vị trọng danh cao.
Tuế vận xung hình, tịnh sát quan nhi tai hưng họa chí.
(Sáu giáp nhắm tới càn, thích tài ấn nên địa vị và danh tiếng cao quý.
Tuế vận xung hình, tụ hợp quan sát thì tai hoạ dến ngay).
Ngày giớ giáp gặp ất hợi, chính là xu càn cách. Nêm8 và tháng lại gặp hợi, lại được tài tinh, liên tiếp gặp ấn thụ sanh bản thân, chánh quan tự nhiên xuất hiện, lại đi dất tài vượng thì tốt.
Kỵ chữ tỵ hình xung, quan sát khắc phá, giáp ất cướp doạt. Tuế vận giống nhau.

Tài tú điệp phùng đắc ấn sanh, thiểu niên thụ phúc.
(Sao tài liên tiếp gặp, được ấn sanh, tuổi trẻ nhận được phúc).
Tức là trước là tài sau là ấn, trái lại trở thành phúc của mình, không nên nghi ngờ là vì tài hoại ấn.

Đảo xung đái ấn ngộ tài thực, tảo tuế thành danh.
(Đảo xung đới ấn gặp tài thực thần, tuổi còn nhỏ đã thành danh).
Đảo xung lộc mã cách. Chính là các ngày bính ngọ, đinh tỵ, tân hợi, quý hợi, trụ có thiên ấn lại đi vận tài hay thực thần thì quý. Kỵ điền thật, quan sát không thích hợp.
"Phú" nói rằng: đảo xung đới ấn, tuổi nhỏ đã thành danh, tài và thực thần cùng lúc giúp đỡ, bản thân ở gần bên thềm son tức là cung vua.

Tuế đức phù can, hỉ tài tinh nhi hiềm chế phục。 ấn tinh tại vận, hội dương nhận nhi chưởng binh hình.
(Tuế đức hỗ trợ can, thích tài tinh mà ghét chế phục. Ấn tinh ở vận, hợp dương nhận mà nắm binh quyền).
Can năm thất sát là tuế đức, không nên gặp lại, rất thích tài tinh cùng với ấn thụ, dương nhận không nên chế phục, tuế vận giống nhau. Như giáp thân kỷ tỵ mậu tý quý hợi tuế đức không có chế phục, có giờ thất sát được dùng, có ấn hoá sát giúp đỡ bản thân, có dương nhận hợp sát hỗ trợ bản thân, cho nên đại quý.

Nhị đức phối quan, vương lăng vi hán triều chi tướng.
(Nhị đức phối hợp với quan, Vương Lăng là tướng triều Hán).
Như ngày tân sanh tháng chín, lấy bính là thiên đứcnguyệt đức, lại là chánh quan, thích tài tinh giúp đỡ, kỵ thương quan khắc chế.
"Phú" lại nói rằng: "làm yên ổn quốc gia, thống lĩnh sau sư (phép nhà binh ngày xưa định cứ 2500 người gọi là một ), nhờ quan biến thành nhị đức" là vậy.
Như ất hợi bính tuất tân sửu mậu tý hợp cách.
Lại thêm quan biên đức, địa vị quan không có tai hoạ; tài biến đức, được tài sàn tốt lành. Ấn biến đức, chủ nhận được ông cha truyền lại phúc lành, đức hạnh không có tai hoạ; can ngày biến đức tức là bản thân mình.

Tài tinh đức tú, tạ an vi tấn đại chi công.
(Tài tinh đức tú, Tạ An là công tước đời Tấn).
Như mậu kỷ lấy giáp ất làm quan, nhâm quý làm tài, hai đức có can lộ ra, là đức tú chi thần. Không có canh tân chế phục, không bị tỷ kiếp tranh đoạt, thì đại quý. Lại như ngày ất lấy canh làm quan, sanh tháng tỵ dậu sửu. Tương tự như bính đinh lấy canh tân làm tài, sanh tháng tỵ dậu sửu.
"Phú" lại nói rằng: "Vương Thương hộ tống nhà Hán, do tài quan là đức tú nên vẻ vang" là vậy.
Hoặc lấy đức tú làm phúc đức tú khí, gặp thêm tài quan càng tốt.

Thương quan đa nhi kiến quan, ngoan thạch sản ngọc. Nguyên hữu quan nhi tái kiến, tai họa liên miên.
(Thương quan nhiều mà gặp quan, hòn đá bướng bỉnh sinh ra ngọc. Vốn có quan mà gặp lại, tai hoạ liên miên).
Thương quan cách. Cần trong trụ gặp nhiều thương quan, như có một vị chánh quan thì quý.
Không có quan thích đi vận quan.
Thương quan như đá, còn chánh quan thì như ngọc, nếu có quan, lại đi vận quan, sẽ có tai hoạ.

Thương quan như đái sát nhận, xuất tướng tướng nhi nhập công hầu.
(Thương quan như đới sát nhận, trở thành một vị tướng đến bậc công hầu).
Thương quan là chủ, trong trụ có sát nhận, lại gặp ấn thụ, đang lúc được lệnh, hữu tình có ích lợi nhau, không bị hình xung, chính là cách cực quý.

"Phú" lại nói thêm: thương quan đới nhận, ấn đầy đủ, nhiệm vụ quan trọng nhất của binh phù, là vậy.
Đức tú nếu giúp đỡ thuơng quan, nắm binh quyền nên giấu phủ việt (một loại vũ khí thời xưa, giống cái búa lớn, làm bằng kim loại, thường dùng trong lễ nghi, tượng trưng cho uy quyền của đế vương).
(Đây lại bàn đức tú, tất cả đều là thương quan cách làm chủ).

Địa toàn tý ngọ mão dậu, thành đại cách nhi văn vũ kinh bang.
(Địa toàn tý ngọ mão dậu, thành đại cách nên văn vũ kinh bang).
Tứ trọng (tý ngọ mão dậu) đầy đủ, thì xem thiên can như thế nào, cần thành đại cách thì tốt đẹp.
Trụ bày dần thân tỵ hợi, thêm kỳ nghi nên quyền uy vang dội.
Tứ mạnh (dần thân tỵ hợi) đầy đủ, xem thiên can như thế nào, được thêm kỳ nghi thì tốt đẹp.

Mộc sanh mão nguyệt, thì hội ngọ nhi chấn động li minh; vận chí tây nam,quan cư cực phẩm.
(Mộc sanh tháng mão, giờ gặp ngọ nên chấn động phương nam sang sủa; vận đến tây nam, quan ở địa vị cực phẩm).
Đây là mộc hoả thông minh cách.

Thực ngộ ấn đa tái kiếp trùng, thiên niên tất yêu.
(Thực thần gặp ấn nhiều lại gặp kiếp xung, tuổi trời sẽ ngắn).
Đây là chỗ ky của thực thn cách.

Trụ thịnh thực thần vận tài hương, công danh hữu chuẩn.
(Trụ thịnh thực thần mà vận đến nơi tài, nhất định có công danh).
Lại nói rằng quan đại thần có uy quyền mắc ý ra vào trong cung đình. Đây là chỗ thích của thực thần cách.

Triều dương đái ấn tư mã túc, thanh tỏa hoàng môn.
(Triều dương đới ấn hỗ trợ mã, khoá xanh cổng vàng).
Trụ không có tài ấn, sự vụ ở người chăn nuôi. Tuế vận rất ghét điền thật.
Lục âm triều dương cách. Thích ấn thụ, tài tinh ở trong năm tháng đúng cách, mà không có tài ấn thì giảm phần số. Đi vận tài hay ấn, địa vị quan chuyển thành tốt, kỵ hình xung điền thật.
Lại nói rằng: triều dương mang ấn, thanh triều học giả hiển quý; tài tinh hỗ trợ, không phải vẻ vang của khoá xanh, tức là trách nhiệm của phong kỷ. Trụ không có ấn tài, thường là người chăn nuôi, chỉ dựa vào chăm chú hết lòng.

Thử quý đái thực tư ấn diệu, vi viên phiên tỉnh.
(Chuột quý mang thực hỗ trợ ấn, vi viên phiên tỉnh*).
[* Về nhà Đường 唐 hay trồng tử vi ở trung thư tỉnh 中書省 (sảnh trung thư), nên cũng gọi trung thư tỉnh là tử vi tỉnh 紫薇省. Nhà Minh 明 đổi làm ti bố chánh, cho nên gọi bố chánh ti 布政司 là vi viên 薇垣]
Trụ có quan sát, nghèo túng thấp hèn, vận không thích bị hình xung.
Cách lục ất thử quý. Thích thực thần gặp liên tiếp, cùng với ấn thụ sẽ tốt. Kỵ quan sát xung hình hại.

Tý sửu diêu hợp tị cung, trụ ấn tài nhi vi cực bảo.
Tuế vận nhược vô phụ tá, đăng ti chức nhi tọa hàn chiên.
(Tý sửu hợp từ xa với tỵ cung, trụ có ấn tài nên là rất trân quý.
Tuế vận nếu không có hỗ trợ, được chức vị thấp nên ở chỗ lạnh lẽo).
Hai cách tý sửu diêu tỵ. Cần phải trong trụ có tài ấn sẽ quý. Không có thì không phải. Vận gặp tài ấn cũng phát. "Phú" lại nói ằng: tý sửu diêu hợp tỵ cung, được tài ấn nên là vật rất trân quý" là vậy.

Luận đạo thụ bang, hỉ tài quan tự lộc nhi tự vượng.
(Luận bàn dây thao quốc gia, thích tài quan tự lộc và tự vượng).
Như ngày giáp lấy tân làm quan, tương tự như được dậu là kiến lộc, kỷ thổ là tài, trường sanh ở dậu
Hợp tượng này, đại quý. Kỵ vận hình xung với thương quan, tuế giống nhau.
Như Ngô Nhạc thượng thư: giáp tý quý dậu giáp thìn giáp tý đúng cách.
Mất năm canh ngọ, một đời là quân tử khí khái chánh trực.

Điều nguyên tán hóa, nhân tam kỳ tự vượng nhi tự sanh.
(Điều nguyên tán hoá, do tam kỳ tự vượng và tự sanh).
Chánh quan, chánh ấn, chánh tài là tam kỳ, ngày ất lấy canh làm chánh quan, được chữ kỷ (chữ tỵ mới đúng) là tự trường sanh; nhâm là chánh ấn, sanh ở thân; chánh tài ở mậu, cũng sanh ở thân, hợp tượng này, đại quý.
Như Đàm Luận thượng thư: canh thìn giáp thân đinh mùi bính ngọ tài quan ấn đều vượng.
Hồ Tông Hiến thượng thư: nhâm thân tân hợi đinh dậu nhâm dần, tài quan kiến lộc ấn trường sanh, đinh hoả sanh ở dậu, là đất của quý thần, lại hoá mộc thành tượng. Cho nên quyền uy cai quản bốn tỉnh, địa vị quan đến bậc nhất.

Lan xoa đắc ấn lộc chi tương trợ, quan cư phụ bật a hành.
Hỏa kiếp kiêm tuế vận chi bất hòa, phản tác bần cùng nhi hạ tiện.
(Lan xoa được trợ giúp từ ấn thụ, địa vị quan trợ lý quan chấp chánh*.
Hoả kiếp cùng lúc tuế vận không thuận hợp, trái lại thành nghèo túng và thấp hèn).
[* a hành 阿衡 chức đại quan chấp chánh thời xưa]
Đây là cách trong trụ có lộc thần, thiên và chánh ấn, thiên can được tài ấn thì tốt đẹp.
Nếu gặp hoả thần, kiếp nhận quá nhiều, tuế vận không thích hợp, nghèo hèn.

Lộc phùng tài ấn, thanh niên cập đệ đăng khoa. Tuế vận hình trùng, quan sát phùng chi bất diệu.
(Lộc gặp tài ấn, tuổi thanh niên đã thi đậu. Tuế vận hình xung, quan sát gặp phải thì không tốt đẹp).
Quy lộc cách. Trong trụ năm tháng và giờ có ấn, có tài, địa chi tam hợp thì tốt đẹp.
Đi vận đến đất tài ấn, tốt. Kỵ hình xung, phá hại, quan sát phá cách.

Kim thủy thanh trừng bị thương, văn chương hiển đạt, nhi thọ toán nan diên.
(Kim thuỷ trong suốt bị thương tổn, văn chương có thành tựu mà tuổi thọ khó kéo dài).
Trong trụ tỵ dậu sửu kim cục, thân tý thìn thuỷ cục, hai cục đầy đủ chính là nói kim bạch thuỷ thanh.
Nhưng bị thiên can bính đinh mậu kỷ khắc chế bừa bãi, thì có văn chương mà không thọ.
"Phú" nói rằng: "Kim thuỷ trong suốt bị thương tổn, Nhan Tử ưu tú mà không thật" là vậy.

Mộc hỏa suy thịnh bất quân, công danh thặng đặng, nhi yêu chiết vô nghi.
(Mộc hoả suy thịnh không cân bằng, công danh lận đận, mà chết trẻ không nghi ngờ).
Ngày ất sanh mùa hạ, trong trụ bính đinh tỵ ngọ hoả nhiều, tức là công danh lận đận, tên gọi là khí tán chi văn. Trụ không có tài ấn, như tro bay khói diệt, khắc con tổn hại vợ, hoặc là tàn tật.
Được kiếp nhận giúp đỡ, nhâm quý sanh và hỗ trợ, mậu kỷ giúp ích, công danh tuý có, cũng chỉ là thành tựu nhỏ mà thôi.

Vân long phong hổ nhược tương tòng, định tác thánh triêu chi đại khí.
(Mây rồng gió cọp nếu thuận theo nhau, nhất định là tài năng chí khí rất lớn của thành triều).
Vân long phong hổ, như giáp ất sanh ba tháng mùa xuân, hoặc các tháng hợi mão mùi, là sao thanh long, thiên can cần nhâm quý thuỷ, gọi là vân long tương tòng (mây và rồng theo nhau).
Hoặc canh thân tân dậu chỉ được một chữ là thần của bạch hổ ở phương tây, ưa hợi mão mùi gặp hợp chữ tỵ là quẻ tốn là gió, thì quý.
Nếu gặp điền thật, lại không có mây mưa, gọi là hạn long; có dương mà không có âm, là có vua mà không có bầy tôi, cương nhu không giúp đỡ nhau, trái lại thành người bình thường không hiển đạt. Hoặc lấy thìn làm rồng, dần là cọp, nhâm là mấy, tỵ là gió, cục có đủ dần thìn tỵ nhâm thì đại quý.

Phi lộc đảo trùng kiêm ấn thụ, tất vi chiêu đại chi danh công.
(Phi lộc đảo xung gồm cả ấn thụ, là công tước danh tiếng của đời Chiêu).
Cách phi thiên lộc mã đảo xung, thích ấn thụ và tài. Kỵ chánh quan, thất sát hình xung, điền thật. Nếu đi đất ấn tài cùng với tam hợp, cũng tốt.

Thân tuy vượng nhi quan lộc vi khinh, mã thị giảng kinh nghệ ư thao trướng.
(Thân tuy vượng mà quan lộc nhỏ yếu, họ Mã giảng kinh sách nghệ thuật trong lều tơ).
Như ngày giáp dần, dụng tân làm quan và sanh ba tháng mùa đông, hoặc tháng tư tháng năm, dụng thần nông cạn, lại không có tài tinh hỗ trợ, chỉ là mệnh của thầy giáo đức hạnh. Như sanh mùa hạ nên tài tinh hỗ trợ tên so sánh với Đào Chu. Nếu có thể bị chế phục, hoả nhiều thi không phải.

Cách bất thanh nhi dụng thần bất phế, tiêu tào khởi đao bút ư tây tần.
(Cách không thanh mà dụng thần không phế bỏ, Tiêu Tào bắt đầu đao bút ở Tây Tần).
(Nghĩa giống ở phần trên).

Giáp ất nhược nhập càn cung, hội thần long diện tất quý.
(Giáp ất nếu vào cung càn, gặp thìn là mặt rồng sẽ quý).
Hai chữ giáp ất thường lộ thiên can, địa chi gặp hợi, lại có chữ thìn.
Tên lục giáp xu càn cách, tốt. Nếu tứ trụ hợp tượng này, chủ đại quý.

Kim thần như phùng nhâm quý, đắc tị ngọ dĩ vi giai.
(Kim thần như gặp nhâm quý,được tỵ ngọ đều là tốt đẹp).
Người sanh ngày giáp ất, được nhâm quý ấn hỗ trợ, địa chi tỵ ngọ.
Là thuỷ hoả ký tế, rồng gặp tượng bay cao, công lao mây bay thành mưa.

Canh ngộ nhâm quý tọa sát ấn, nhi Chu Du vị trọng.
(Canh gặp nhâm quý ngồi ở sát ấn, nên Chu Du có địa vị quan trọng).
Sanh sáu ngày canh, trong trụ nhâm quý nhiều, thân ngồi ở thất sát hay ấn thụ chủ đại quý.
Như Hà thượng thư: nhâm tý quý sửu canh ngọ bính tý.
Mệnh của ta: nhâm ngọ quý sửu canh dần bính tuất đều hợp tượng này.

Quy xà trì kiếm kiêm kim nhận, nhi cổ phục danh cao.
(Rùa rắn cầm kiếm gồm cả đao vàng, nên Giả Phục danh cao quý).
Sanh ngày nhâm quý trong trụ bính hoả nhiều, hoặc dần ngọ tuất hay thân tý thìn hai cục.
Thuỷ thuộc rùa, hoả thuộc rắn, tên tượng rùa rắn cầm kiếm. Trụ không có kim thì kiếm của nó không xuất hiện.

Canh tân trọng nhi thì kiến tị hợi, hổ khiếu phong sanh. Đắc mậu kỉ dĩ tương tư, quan cư cực phẩm.
(Canh tân nhiều mà giờ gặp tỵ hợi, hổ gầm gió nổi lên. Được mậu kỷ hỗ trợ, quan ở địa vị cực phẩm) .
Nhật chủ canh tân lại gặp thiên can canh tân, trong tru năm tháng và giờ được một chữ tỵ là quẻ tốn là gió; hoặc được hợi cũng nên. Thích giáp ất hợi mão mùi, đi vận đông nam, quyền cao bỗng lộc nhiều. Đi vận phương bắc thì giàu. Vào phương tây tai hoạ khó lường.

Nhất khí tương sanh, xưng ngũ hành chi thuận thực, vị cận tam thai.
(Một khí sanh nhau, xưng là ngũ hành của thực thần theo thứ tự, địa vị gần tam thai).
Nhất khí tương sanh: tức là giáp sanh bính, bính sanh mậu, mậu sanh canh, ngũ hành là thực thần theo thứ tự.
Thêm địa chi cùng có lợi thì đại quý. (Hoặc lấy thiên nguyên nhất khí mà phân tích, thì không phải vậy).

Kim thần đái nhận, ngộ hỏa địa chi viêm minh, quan cư nội các.
(Kim thần mang theo nhận, gặp đất hoả rực sáng, quan ở địa vị trong nội các).
Kim thần cách. Trong trụ có dương nhận, lại đi vận nơi hoả, đại quý.

Thì thượng thiên quan, hỷ kiếp nhận ấn tài, nhi cư tuế nguyệt.
(Thời thượng thiên quan, thích kiếp nhận ấn tài, nên ở trụ năm tháng).
Thời thượng thiên quan cách.
Trong trụ năm, tháng, giờ có tài trợ ấn hoá, nhận trợ giúp bản thân cường, chủ sức mạnh của phong hiến (một chức quan xưa).

Phụ truyền tử đạo kiêm văn vũ, tướng tướng nhi hiển triêu đình.
(Đạo cha truyền cho con kể cả văn võ, tướng tướng có địa vị ở triều đình).
Sanh ngày ất, gặp giờ nhâm ngọ là đúng. Ất thuộc phương đông là thần thanh đế, ngọ thuộc phương nam là thần hoả đế. Ất là cha, ngọ là con, được nhâm thuỷ ở thiên can, lại sanh cho ất mộc, là truyền thống đạo cha truyền cho con, tốt đẹp của xanh đỏ kế thừa nhau. Hợp cách này, một đời công lao cao quý, vinh dự vượt hơn ngàn quan. Không nên thuỷ thịnh, ất mộc bị trôi nổi.
Tức ở phần trước mộc sanh tháng mão, giờ gặp ngọ nên rúng động phương nam sáng sủa, vận đến tây nam thì quan ở địa vị cực phẩm là vậy.

Thương quan thấu nhi chánh quan ẩn, ngộ sát ấn nhi vị trọng quyền cao.
(Thương quan lộ mà chánh quan ẩn tàng, gặp sát ấn nên địa vị quan trọng quyền cao).
Thương quan lộ ở thiên can của trụ năm tháng và giờ, chánh quan ẩn tàng trong địa chi của trụ, tài ấn thất sát có đầy đủ thì đại quý.

Địa thiên giao nhi âm dương cảm, đắc mậu kỷ nhi tam thai bát tọa.
(Địa thiên kết hợp nên âm dương ảnh hưởng lẫn nhau, được mậu kỷ nên tam thai bát toạ).
Ngày giờ được hợi là quẻ càn là trời, năm tháng được thân là quẻ khôn là đất, mà thiên can lộ ra mậu kỷ là đất ở tại trời, có vẻ của âm dương giao cảm, bên trong dương, bên ngoài âm, biểu tượng xây dựng hoà hợp. Hợp cách này thì đại quý.

Mộc thịnh kim phồn, đắc li minh nhi công trung chánh trực.
(Mộc tươi tốt kim phồn thịnh, được ly minh nên công bình trung thành và thẳng thắn).
Mộc nhờ kim đẽo gọt, phồn thình thì kim quá nhiều, cần hoả chế phục kim.
Công trung chánh trực (công bình, trung thành và thằng thắn) do kim mộc mà nói vậy.

Kim bạch thủy thanh, ngộ trường sanh, nhi thông minh xuất chúng.
(Kim bạch thuỷ thanh gặp trường sanh, nên thông minh vượt qua mọi người).
Ngày canh tân, sanh ở các tháng thân tý thìn, địa chi ngồi ở tỵ, trụ có nhâm quý, không có hoả thổ kế bên và hỗn tạp, chủ thông minh có tài văn học.

Hỏa minh mộc tú, phùng thổ hiện nhi tảo cổ ngao đầu.
(Hoả sáng sủa mộc tươi tốt, gặp thổ hiện nên sớm chiếm ngao đầu).
Sanh ngày giáp ất, trong trụ có tỵ ở chữ bính đinh dần tuất, sanh ở mùa xuân thì kỳ lạ đặc biệt.
Nếu địa chi có ngọ tuất hợi mão mùi, được một chữ, cũng đúng. Không hạn chế sanh ngày giáp ất.

Thủy mộc tại xuân sanh, ngộ thổ kim nhi tác công hầu chi quý.
(Thuỷ mộc sanh ở mùa xuân, gặp thổ kim nên coi là cao quý của công hầu).
Thuỷ gặp thổ, mộc gặp kim là quan.
Thuỷ gặp kim là ấn, mộc gặp thổ là tài, mùa xuân thì mộc vượng mà thuỷ hưu, trợ giúp tài lẫn nhau, cho nên quý.

Kim phùng hỏa luyện, tảo niên xuất sĩ.
Mộc đắc kim tài, ấu tuế thành danh.
(Kim được hoả luyện, ra làm quan rất sớm.
Mộc nhờ kim đẽo gọt, tuổi còn nhỏ đã thành danh).
Đây là nói về sự giúp đõ nhau của ngũ hành.
Kim nhiều mà mất hoả, bản tính phàn nàn và bướng bĩnh tàn ác.
Mộc thịnh mà không có kim, oán than công danh không vừa ý.
Thổ nặng mà không có mộc khai thông, là lũ không khó chạy vạy.
Thuỷ thịnh mà không có thổ chế phục, là người phá tan nhà cửa và dâm đãng.
Hoả thịnh mà không có thuỷ trợ giúp, người tàn bạo đến chết mà không hối hận.
Mộc suy hoả thịnh biến thành tro bay, công danh trì trệ mà khó tránh khỏi chết trẻ.

Kim bạch thủy thanh bị kiêu hại, văn chương tú nhi mạc vĩnh thiên niên.
(Kim bạch thuỷ thanh bị kiêu thần hại, văn chương ưu tú nhưng không tồn tại mãi mãi).
Đây là nói tổng quát về ngũ hành, nghiêng về một đảng mà không có chế hoá, đều là không tốt.

Km bạch thủy thanh, thoát kiêu thần nhi văn chương ích hiển.
(Kim bạch thuỷ thanh, thoát khỏi kiêu thần nên văn chương càng sáng tỏ).
Với phần trước "kim bạch thuỷ thanh, gặp trường sanh nên thông minh vượt hơn mọi người" xem bổ túc nhau.

Sát quan lưỡng lộ, ngộ nhị đức nhi tước vị sùng cao.
(Sát quan cả hai cùng lộ, gặp hai đức nên tước vị tôn quý).
Hai đức là thiên đứcnguyệt đức. Sát quan cả hai cùng lộ nên hỗn tạp, được điều này thì tiêu trừ , cho nên quý.

Tài tư thất sát, tử nghi ti tướng tướng chi cao quyền.
(Tài giúp đỡ thất sát, còn nhỏ đã ngưỡng mộ điều khiển quyền cao của tướng tướng).
Trong trụ tài vượng thất sát, sát sanh ấn, lại được đất trường sanh.
Can ngày vượng, cách cục thuần tuý, đại quý.

Kim thần đái sát, khấu chuẩn thiện miếu đường chi đại khí.
(Kim thần mang sát, Khấu Chuẩn thạo về bảo vật của miếu đường).
Kim thần phạm chồng chất, năm giờ và lệnh tháng đều gặp thất sát, đại quý. Kỵ hình xung.

Tuế đức phùng tài sát tài căn, tảo đăng hiển sĩ. Canh gia ấn nhận vô đố hợp, dự nghĩ cao khoa.
(Tuế đức gặp gốc rễ tài sát, sớm trở thành quan chức. Thêm ấn nhận không có đố hợp, dự tính cao khoa).
Cùng với phần trước tuế đức phù can, thích tài tinh mà ghét chế phục; ấn tinh ở vận gặp dương nhận nên nắm binh hình. Nghĩa giống nhau.

Tuế đức phùng tài, thiểu niên thỉnh cử; tuế đức đái nhận, tảo tuế thành danh.
(Tuế đức gặp tài, tuổi trẻ được đón mời; tuế đức mang nhận, thành danh rất sớm).
Tuế đức là sát quan trọng cho nên thường được nói đến. Thỉnh cử nhỏ mà đã thành danh, sớm đề bạt mà ra làm quan. Lấy trụ năm phụ trách những năm đầu, vì thế sát chủ về quyền thế. Giả như ngày giáp gặp năm canh là tuế đức, trong trụ cần mậu kỷ giúp đỡ sát, gốc rễ tỵ dậu sửu mang nhận, thích đi ấn thụ, kỵ chánh quan là thần đố hợp.

Nguyệt thất sát nhi thì tuế thực, túc hiến phủ phong sương chi hào lệnh.
(Tháng là thất sát mà giờ và năm là thực thần, hiệu lệnh gió sương của Túc Hiến phủ).
Thực thần chế sát, là điều đương nhiên vậy.

Nguyệt sát ấn nhi thì thương quan, thụ phượng các long lâu chi hậu sủng.
(Tháng là sát ấn mà giờ là thương quan, nhận được ân huệ của lầu rồng gác phượng).
Lệnh tháng có sát ấn, can chi năm được điều này thì rất tốt đẹp.
Cần trụ giờ lộ thương quan, là vợ của ấn, coi như sát có chế phục, cho nên chủ đại quý.

Nhật bính hỏa nhi thì nhập hợi cung, lệ hồ thiên nhi văn minh tứ hải.
(Ngày bính hoả mà giờ vào cung hợi, bầu trời khắp nơi đẹp và văn minh).
Sáu ngày bính giờ được kỷ hợi, hợi thuộc quẻ càn là trời, hoả ở trên trời, không có chỗ nào mà không chiếu tới.
Mệnh có tượng này, từ nhỏ đến già, sang trọng cao quý, trách nhiệm nắm giữ binh hình. Trên giúp đỡ vua, dưới điều hoà bốn mùa, bên ngoài vỗ về tứ di (tiếng gọi khinh miệt các dân tộc ở ngoài Trung Nguyên như: Man Di Nhung Địch). Kỵ chỗ hình xung, phá hại, có cứu giúp thì tốt.
"Phú" nói rằng: "dương hoả giờ gặp chỗ hợi, ánh sáng văn minh chiếu khắp nơi" là vậy.

Can dương huỳnh* nhi thì phùng kỉ sửu, xuất hồ địa nhi chiếu diệu san xuyên.
(Can dương huỳnh mà giờ gặp kỷ sửu, mọc lên từ dất chiếu sáng núi sông).
[* Huỳnh: nói tắt của huỳnh hoặc, sao hoả tinh. Ngày xưa gọi Hỏa tinh là huỳnh hoặc 熒惑. § Vì sao này ẩn hiện bất định, làm người ta mê hoặc, nên gọi tên như thế]
Ngày bính gặp giờ kỷ sửu, là tượng mặt trời mọc lên từ đất. Thích hợp bầu trời đẹp, đức hạnh của đại minh. Như An Quốc Khang hầu, thường nhận được đại tứ (ân huệ của vua), mệnh gặp điều này, trách nhiệm của bề tôi thân cận phụ giúp.
Như Diêu Lai trạng nguyên: mậu thân mậu ngọ bính thìn kỷ sửu đúng cách.
"Phú" lại nói thêm: "sáu bính gặp giờ kỷ sửu, mặt trời trên mặt đất nên cực hiển" là vậy.

Thì tân hợi nhi nhật phùng đinh, nãi thì tam kì nhi khoa danh tảo trung.
(Giờ tân hợi mà ngày gặp đinh, chính là tam kỳ nên sớm thi đậu).
Sáu ngày đinh gặp giờ tân hợi, tân là thiên tài, giáp mộc trong hợi là chánh ấn.
Nhâm thuỷ là chánh quan, gọi là thời thượng tam kỳ. Nhất định chủ tuổi trẻ đã thi đậu. Phú quý lâu dài.
"Phú" lại nói thêm: "âm hoả giờ hợi, phú quý bất tận" là vậy.

Nguyệt kiến thân nhi tuế thì ngộ tý, vi khôn khảm thuận nhi tướng tướng khả kì.
(Tháng là thân mà năm hay giờ gặp tý, là khôn và khảm thích hợp tướng tướng có thể mong đợi).
Muốn biết phú quý, trước hết quan sát lệnh tháng chính là phần chủ yếu. Tháng ở thân thuộc quẻ khôn là đất, địa chi năm là tý là ở quẻ khảm là thuỷ, quẻ địa thuỷ sư, thuỷ không ở bên ngoài đất, như quân đội không ở ngoài dn6.
Người gặp được tượng này thì đại quý. Giờ tý cũng như vậy, địa chi ngày là tý thì không phải.

Thì li tuế tốn nhật âm kim, thấu giáp ất vi tam thai chi quý.
(Giờ quẻ ly năm quẻ tốn ngày âm kim, lộ giáp ất là tôn quý của tam thai).
Người sanh giờ ngọ, chi năm được chữ tỵ, ngày được tân kim làm chủ, kim dụng mộc làm tài, ly hoả là quan, tên nói tượng của bên trong được quẻ tốn nhu thuận, mà bên ngoài được quẻ ly sáng sủa. Nhu tiến mà đi lên, đắc trung mà ứng ở cương. Nếu tốn ở lệnh tháng thì không phải. Hợp cách nên đại quý.

Mộc tú hỏa minh xuân bỉnh lệnh, nhập tư tượng đoạt bảng nhãn chi khôi.
(Mộc tươi tốt hoả sáng sủa mùa xuân nắm lệnh, hợp tượng này đoạt vị trí đầu cùa bảng nhãn*).
[* Bảng nhãn: người đậu thứ nhì trong kì thi Đình, dưới Trạng nguyên 狀元, trên Thám hoa 探花]
Quan trọng sanh ở mùa xuân. Tức là như ý nghĩa của phần trước "hoả sáng sủa mộc tươi tốt, gặp thổ hiện nên sớm chiếm vị trí đầu".

Thực thần đái nhận kết cục, nhi vị chí tam công.
(Thực thần mang nhận kết thành cục, nên địa vị đến tam công*).
[* Tam công: Ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保]
Như người giáp thực thần là bính, cần hoả cục. Người kỷ thực thần là tân, cần kim cục.
Chỉ được một chữ, có thêm nhận trợ giúp, đại quý.

Thực thần đái nhận tọa quan, nhi huân cao nhất phẩm.
(Thực thần mang nhận ngồi ở quan, nên huân lao cao bậc nhất).
Nhật chủ ngồi trên quan tinh, trụ năm tháng giờ lại có dương nhận, thực thần hiện diện, thì đại quý.
Ghét có thiên ấn xung hình, nếu đi hai vận tài và quan, đột nhiên nổi lên nhanh lẹ.

Quan tinh đái nhận, Ban Siêu vạn lí phong hầu. Tuế nguyệt đắc thì, Chu Bột đặc nhiên nhập tướng.
(Quan tinh mang nhận, Ban Siêu được phong hầu vạn dặm. Năm tháng đắc thời, Chu Bột đặc nhiên thành tướng).
Cách của chánh tinh, dụng thần cần đương thời. Trụ có kiếp nhận làm chánh quan thê tài, thì cương nhu giúp đỡ nhau, tức là được tài tinh là quý. Quan tinh, kiếp nhận cả hai đều hiện ra ở trên thiên can, càng quý.
"Phú" lại nói thêm: "quan tinh mang nhận, quý không thể nói. Năm tháng lộ ra, Chu Bột đặc nhiên thành tướng" là vậy.
Đắc thời vì quan tinh nhân lúc vượng mà nói. Đới nhận không hạn chế ở can chi mà nói. Thấu lộ, thì chỉ thẳng chỗ quan trọng mà nói. Nhận là hung sát, quan tinh và thực thần có mang theo, tất cả đều coi là quyền lực cao quý mà xem.
Như Lý Bang Trân đô hiến: Quý dậu kỷ mùi nhâm tý canh tý đúng cách.

Tài quan song mỹ, thấu tài ấn, nhi cư thai tỉnh chi tôn.
(Tài quan cả hai đẹp, thấu tài ấn, nên địa vị là quan tỉnh tôn quý).
Vận đến tỷ kiên, thêm hình xung, họ Bão đần độn ôm gốc cây (tích truyện ôm cây đợi thỏ).
Ngày quý tỵ, toạ hướng tháng tư. Ngày nhâm ngọ toạ hướng tháng ngọ.
Thiên can lộ tài ấn, quý. Không nên đi vận phương bắc, lại sợ hình xung. Nên đắn đo, liệu tính cho đúng, cho vừa.

Tài quan sanh vượng, thiên can thấu lộ vi kì, nhi duệ tử tha chu.
(Tài quan sanh vượng, thiên can lộ ra nên kỳ lạ, mà kéo theo dây thao và phú quý).
Tứ trụ tài tinh vượng, không cần có chánh quan lộ ra, tài tự sanh quan, hết sức đặc biệt.
Hoặc tài quan cả hai lộ ra, ở đất sanh vượng, tất cả đều chủ đại quý.

Nhật can kiện vượng, nhi ấn nhận tương phù, cung thắng tẫn hán gia chi tử tiết.
(Can ngày cường vượng, mà ấn nhận hỗ trợ, Cung Thắng tử tiết vào đời Hán kết thúc).
Phú nói rằng: sát vượng mà được ấn nhận hỗ trợ, Cung thắng tử tiết ở đời Tây Hán, là tứ trụ toàn sát. Hoặc quan tinh thuện theo sát, được ấn nhận lộ ra ở thiên can, chính là bầy tôi tài giỏi có chí khí trung thành.
Ở phần trước nói về can ngày vượng mà ấn nhận hỗ trợ thái quá, làm sao mà tốt cho được? Nên về sau là thích hợp.
Xem xét Cung Thắng, một học giả thời Hán có thể tử tiết, hỏi chẳng phải là tổn hại từ ngũ hành thái quá hay sao?

Quan tinh đái nhận, nhi ấn thụ đái sát, huyền linh bộ đường đại chi doanh châu.
Tam công chi nhậm, tại hồ sát nhận ti quyền, các ngộ trường sanh, canh đắc tài tư, cực quý.
(Quan tinh đới nhận, mà ấn thụ đới sát, Huyền Linh bước đền Doanh Châu thời Đường.
Trách nhiệm của tam công, dựa vào sát nhận nắm quyền điều khiến, mỗi thứ gặp trường sanh, được thêm tài hỗ trợ, cực quý).
Như giáp dụng canh làm sát, ất dụng tân làm sát, trụ có tỵ tý thì sát được trường sanh.
Giáp gắp ất, ất gặp giáp là nhận, trụ có hợi ngọ là trường sanh của nhận.
Được thêm tài hỗ trợ, sát ấn hoá nhận rất quý.

Ty yếu xu, tổng nhung chánh, nhân kiếp đái ấn dĩ tư quan.
(Chưởng quan phải then chốt, cầm đầu quy tắc quân đội, nhận kiếp đới ấn để hỗ trợ quan).
Lệnh tháng hay trụ giờ chánh quan, cần có dương nhận hỗ trợ.
Như giáp dụng tân làm quan, có chữ ất hỗ trợ quan là vậy.

Thân uổng ức, lí oan khiên, vi tài sanh sát nhi trợ ấn.
(Bày tỏ oan ức, phản ứng oan nghiệt, vì tài sanh sát mà trợ ấn).
Tứ trụ thất sát trùng diệp, lại được tài quan hỗ trợ, thì sát được thế mạnh, lại sanh ấn vậy.

Tiến trực ngôn, nhi xu kim khuyết, nhân sát nhận lưỡng lộ ư thiên can.
(Tiến vào nói thẳng, nên đi theo kim khuyết*, do nhận sát cả hai lộ ra ở thiên can).
[* khuyết: thời xưa, ở ngoài cửa cung, hai bên có lầu đài để nhìn ra xa, giữa có lối đi gọi là khuyết]
Đây là sát cách. Mà sát nhận cùng nhau hiện ở trong trụ năm tháng và giờ.

Cư hàn uyển nhi chưởng ti luân, vi chánh quan quy lộc ư tứ trụ.
(Ở vào địa vị Hàn Uyển nên nắm giữ dây thao xanh, vì chánh quan quy lộc ở tứ trụ).
Quy lộc, lại là chánh quan. Như bính dụng quý làm quan, có chữ tý, tức là quý lộc ở tý, sanh vào ba tháng mùa đông tốt đẹp. "Phú" lại nói thêm: "mệnh nắm giữ dây thao, chức vị ở cung điện, do quý lộc mà được thanh kỳ là vậy.

Niên chánh ấn nhi nguyệt chánh quan, cư quốc giam hàn lâm chi nhậm.
(Trụ năm chánh ấn mà trụ tháng chánh quan, địa vị quốc giám chức vị hàn lâm*).
[* Tên chức quan ngày xưa. Dưới thời Đường, Tống, giữ việc cung phụng trong nội đình. Từ nhà Minh, nhà Thanh, thi đậu tiến sĩ đều gọi là nhập Hàn Lâm 翰林]
Chánh quan thích hiện ở trong lệnh tháng, chánh ấn cần lộ ở trên can năm.
Không gặp các thần xung khắc, đúng với lời văn trên.

Cách thanh kì nhi thì đắc lệnh, xướng hồng lư ngọc điện chi danh.
(Cách thanh kỳ mà giờ đắc lệnh, được kêu tên ở Hồng Lô cùa điện ngọc).
Cách cục thuần hoà không hỗn tạp, dụng thần đắc lệnh có khí lực, không có hình xung, phá hại, là mệnh đại quý. "Phú" lại nói thêm: "phong cách trong sạch cục không pha tạp, điện ngọc lưu truyền" là vậy.

Bình bang quốc, thống lục sư, lại quan tinh biến vi thiên đức.
(Trị yên đất nước, lãnh đạo sáu sư*, nhờ quan tinh biến thành thiên đức).
[* phép nhà binh ngày xưa định cứ 2500 người gọi là một sư].
(Xem phân tích ở phần trước).

Lý âm dương, đăng tể phụ, nhân lộc mã hựu đái trường sanh.
(Quy luật âm dương, đề bạt tể phụ, do lộc mã lại mang trường sanh).
Chánh tài, chánh quan, đều được trường sanh. Được nhận sanh thực thần, thực thần sanh tàu, tài sanh quan, quan sanh ấn, ấn sanh bản thân, kỳ diệu của sự lưu chuyển không ngừng, sẽ chủ đại quý.
"Phú" nói rằng: tài quan có cơ sở, sức mạnh của điều hoà thích hợp. Có cơ sở trường sanh là vậy.
Tài quan trường sanh theo quý trường sanh, chỉ đất trường sanh mà người ta ở, không cần thiết phân tích dương nhận và thực thần sanh nhau.

Cách cục thuần hòa, nhi nhật can tự nhược, lãm tuyền thạch nhi hảo u tê.
(Cách cục thuần hoà, mà can ngày tự nhược, ngắm suối và đá nơi vắng vẻ).
Dụng thân cho dù đắc thời, mà nhật chủ suy không chiếm được ưu thế, tức là người ở nơi suối rừng mợ mịt dấu vết.
Gặp vận hỗ trợ bản thân, cũng phát.

Cách cục bạc nhược, nhi dụng thần khinh vi, túng tư sanh nhi vô quá tiểu chức.
(Cách cục yếu đuối, mà dụng thần nhỏ bé, cho dù được hỗ trợ nhưng chẳng qua chức nhỏ mà thôi).
Như dụng thần của mình, không được thời lệnh, cho dù được chữ lợi ích, chẳng qua chỉ chức nhỏ mà thôi.
So với cách cục thuần hoà ở phần trước không gống nhau.

Thổ trọng nhi chi thần hậu tái, úy nguyên vũ nhi hỉ thanh long. Cách cục cẩu phùng, tất ưng đại quý.
(Thổ dày mà địa chi nâng đỡ, sợ huyền vũ mà thích thanh long. Cách cục tuỳ tiện gặp phải, sẽ ứng vào đại quý).
Như ngày mậu kỷ, trong trụ có nhiều chữ mậu kỷ, hoặc được một chữ thân ở địa chi, là thuần đạo hoà thuận, ôn hoà. Cấp cho hình thể có nơi nhất định, đức hợp không có biên giới cùa quẻ khôn rộng lớn. Gặp tượng này đại quý.
Kỵ nhâm quý, mà thích giáp ất. Vận giống nhau.

Mộc thịnh nhi thổ hậu phùng huỳnh, thuận đông phương nhi hành khôn địa. Trụ vận thuận hòa, định hiển công danh.
(Mộc thịnh mà thổ dày gặp hoả, men theo phương đông mà đi đất khôn. Trụ và vận thuận hoà, nhất định công danh thành tựu).
Thiên can giáp ất cùng một khí, địa chi mậu kỷ (?) trùng điệp, tức là được một chữ dần ngọ tuất, theo phương đông thì mộc đắc địa. Đi đất khôn, thì thổ đắc vị.
Như thế khi mộc càng thịnh thì thổ càng dày. Tứ cửu thượng hạ ứng chi (四九上下应之: không hiểu ý câu này).

Thổ đa nhi cư khôn cấn chi thượng,, tắc thiên đạo hạ tể nhi quang minh.
(Thổ nhiếu mà ở trên không và cấn, thì đạo trời thuận lợi và tươi sáng).
Mậu kỷ ở trụ năm tháng và giờ can, địa chi có căn của nó, được đề cương ở dần.
Thổ là quẻ khôn là đất, dần là quẻ cấn là núi, ngừng lại ở bên trong mà thuận ở bên ngoài, ý nghĩa của khiêm cung vậy. Gần như tượng này thì phú quý và hanh thông.

Nhận phùng lộc mã tam kỳ, đắc lệnh thấu tài, vi công hầu nhất phẩm chi quý.
Trụ hội thủy hỏa nhị cục, lộ kim tàng thổ, vi quy xà trì kiếm chi hình.
(Nhận gặp lộc mã tam kỳ, được lệnh và lộ tài, là công hầu cao quý bậc nhất.
Trụ gặp hai cục thuỷ và hoả, lộ kim tàng thổ, là hình ảnh rùa rắn cầm kiếm).
Đó chính là ý nghĩa "rùa rắn cầm kiếm kim đao nên Giả Phục dnh tiếng cao quý" ở phần trước.

Tài tinh biến đức nhi tọa sát, lí tĩnh kiêm văn vũ toàn tài.
(Tài tinh biến thành đức mà ngồi ở sát, Lý Tĩnh gồm đủ cả tài văn võ).
Như ngày bính thân lấy tan kim làm chánh tài, cần phải sanh trong tháng tư, tự ngồi ở thân trong đó có nhâm thuỷ là sát. Kỷ mão lấy nhâm thuỷ làm chánh tài, cần sanh ở các tháng thân tý thìn tương tự là thiên đức, nguyệt đức.
Cả hai đều biến thành đức tú, lại là tài tinh biến thành đức gặp sanh vượng, không có kiếp đoạt.
Vũ thì cuốc mạnh diệt hết tàn ác, văn thì dùng đất chia cỏ.
"Phú" lại nói thêm: "tài tinh biến thành đức, lên đến chỗ then chốt nên trách nhiệm phụ giúp, che chở" là vậy.

Sát nhận đắc ấn dĩ tương tư, Cấp Ảm tác triêu đình chi nhĩ mục.
(Sát nhận được ấn để hỗ trợ nhau, Cấp Ảm làm tai mắt của triều đình).
Sát sanh ấn, nhận hợp sát, người có đủ thì đại quý.

Thương đái tài ấn, kiêm sanh vượng, nhi trì cương trì kỉ.
(Thương quan đới tài ấn, gồm cả sanh vượng, nên giữ gìn cương kỷ).
Nhĩa của thương quan dụng tài, dụng ấn vậy. Đều cần tài ấn sanh vượng mới là tốt đẹp.

Trụ quân hỏa thổ, phùng mộc khí nhi vi quốc vi dân.
(Trụ cân bằng hoả thổ, gặp mộc khí nên vì nước vì dân).
Hoả sanh thổ là thực thần thương quan, mộc là ấn của hoả, là quan của thổ, là vậy.

Vương Tăng khôi chúng sĩ, nhân quan ấn đái thực dĩ tương phù.
(Vương Tăng đứng đầu nhóm học giả, do quan ấn đới thực thần hỗ trợ nhau).

Hiệp Chánh chiêm ngao đầu, lại ấn tinh tự quan nhi tự lộc.
(Hiêp Chánh chiếm hàng đầu, nhờ ấn tinh tự quan và tự lộc).

Thân vượng vô tài quan chi phụ, phi kĩ nghệ nhi tất tăng lưu.
(Bản thân vượng mà không có tài quan giúp đỡ, chẳng phải kỹ nghệ cũng là tăng đạo).

Nữ nhân phạm nhị đức chi thuần, thụ sủng chương nhi triêm phượng cáo.
(Phụ nữ phạm trong sạch của hai đức, nhận được sùng chương và tiếp xúc phượng cáo).

Ta quan sát "phú" này, không ngoài tử bình, chỉ quan trọng thất sát, dương nhận, thương quan, thực thần, mà tài quan, ấn thụ gồm cả hỗ trợ cùng nhau giữ. Thành cách, hợp cục, làm thành đảng, chế hoá, biến thành đức, tất cả đều coi là đại quyền đại quý, Vạn Công tai nghe mắt thấy, cho nên lấy phương pháp tử bình để phổ biến.

Vạn Công cũng là một học giả có kiến văn ảo diệu vậy.

Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Do bài này dài quá nên phần tiếng Hoa sẽ đăng riêng.

.

Thanked by 1 Member:

#398 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 13/12/2024 - 11:44

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhị

chân bảo phú (tiếp theo phần Hoa văn)

真宝赋

(明兵部尚书万骐撰。万育吾解。)

官星带刃无克破,掌兵刑之大权。

财印相资没刑冲,登黄阁三公之贵。

正官格。在羊刃及财印相资。

有伤官则克,有刑冲则被。

无印、无刃,只有财星资助,亦吉。岁同。

财官生旺逢印绶,拜薇垣宪府之尊。

三合印财会局全,登五马诸侯之贵。

财官生旺格。柱有偏、正印,再三合印局,或财局,吉。

伤官逢劫刃,兼将相於明时。印绶若相扶,登龙门於早岁。

伤官格。身弱,喜刃印相资扶,则吉。

伤官得食神重辅,说阁图魏相之功。

岁运忌制伏刑冲,再伤官而祸至。

伤官得食神重叠相扶,吉。所忌刑冲及制伏太过。

复行伤官运,不测灾来。

柱中无官,喜行时官运。无印,喜行印绶运主迁官。岁运同。

财资七煞,威权独压万人。印若相扶,断定官居极品。

七煞格。喜财资助,又得印化,最吉。

惟煞,故主有权;得印,故主极品。

月会既同煞刃,英名俦汉室之霍光。

时岁复带印财。高位埒中兴之邓禹。

七煞劫刃同在月令,岁时有财、有印,最贵。

义同上文,但此又兼刃言也。

煞失时而印无气,更主旺而任常流。

七煞、印绶,若不当令司权。

而日干自旺,用神轻微,不过清虚冷淡之职。

岁运行财煞,则吉。

印司令而煞相扶,再见财而官翰苑。

印绶格。要当时月令,日支又得重生气旺,不见刑冲破害。稍得一财、一煞为妙,太过不宜。财印两停乃常流也。

《赋》云:印绶重逢,官居翰苑是也。

偏财时上见官,早岁名标金榜。

更得食神相辅,少年日近天颜。

时上偏财格。岁月有官星,又得食助,准上文。

忌比劫,逢比,百无一遂。

福德见财而隐官,居极高之重任。

柱运逢印而无土,处至下之孤刑。

福德。如壬癸日,生冬三月之例,喜财官资助。

干支作合,或得火局,及辰戌丑未,但近一字为妙。

若无财官,而逢印绶,不行财官,而行印绶及北方之运。

刑妻克子,孤寡贫贱之命也。

六壬趋艮,透财印以为奇。官煞相侵,反贫穷而下贱。

六壬日逢壬寅时,乃趋艮格也。

岁月再见寅,天干透丁辛为妙,富贵双全。

最忌官煞,或行运见之,六亲骨肉分散,贫薄婢仆之人也。

六甲趋乾,喜财印而位重名高。

岁运冲刑,并煞官而灾兴祸至。

甲日时逢乙亥,乃趋乾格也。

岁月再见亥,又得财星,重遇印绶生身,正官自然出现,

再行财旺之地,吉。

忌巳字刑冲,官煞克破,甲乙劫夺。岁运同。

财宿叠逢得印生,少年受福。

即先财後印,反成其福,不可以财坏印为嫌。

倒冲带印遇财食,早岁成名。

倒冲禄马格。乃丙午、丁巳、辛亥、癸亥等日,柱有偏印,又行财食运,为贵。忌填实,官煞不中。

《赋》云:倒冲带印,早岁成名,财食兼资,身近丹墀是也。

岁德扶干,喜财星而嫌制伏。印星在运,会羊刃而掌兵刑。

年干七煞为岁德,不宜重见,最喜财星及印绶,羊刃不可制伏,岁运同。如甲申、己巳、戊子、癸亥,岁德无制,有时七煞得用,有印化煞助身,有刃合煞扶身,故大贵。

二德配官,王陵为汉朝之相。

如辛日生九月,以丙为天、月二德,又为正官,喜财星资助,忌伤官克制。

《赋》又云:“平邦国,统六师,赖官变为二德”是也。

如乙亥、丙戌、辛丑、戊子。合格。

又官变德,居官无祸;财变德,得善中财帛。

印变德,主受父祖贻庆无祸;日干变德,则主本身。

财星德秀,谢安为晋代之公。

如戊己,以甲乙为官,壬癸为财,二德透干,为德秀之辰。无庚辛制伏,不被比劫争夺,大贵。又如,乙日以庚为官,生巳酉丑月。丙丁用庚辛为财,生巳酉丑月之例。

《赋》又云。“王商扶汉,因财官而为德秀之荣”是也。

或以德秀为福德秀气,更逢财官尤妙。

伤官多而见官,顽石产玉。原有官而再见,灾祸连绵。

伤官格,要柱中重见伤官,如有一位正官,为贵。

无官喜行官运。

伤官如石,正官如玉,若有官,再行官运,则祸。

伤官如带煞刃,出将相而入公侯。

伤官为主,柱带煞刃,又得印绶,当时得令,有相益之情,不被刑冲,乃极贯之格。

《赋》又云:伤官带刃,印全备,一兵符之重任。是也。

德秀若助伤官,握兵权而伏斧钺。

(此又兼德秀言之,皆以伤官格为主。)。

地全子午卯酉,成大格而文武经邦。

四仲全,看天干何如,须成大格为妙。

柱列巳亥寅申,更奇仪而威权震主。

四孟全,看天干何如,更得奇仪为妙。

木生卯月,时会午而震动离明;运至西南,官居极品。

此木火通明格也。

食遇印多再劫冲,天年必夭。

此食格所忌。

柱盛食神运财乡,功名有准。

一云,权臣内使。此食格所喜。

朝阳带印资马宿,青琐黄门。

柱无财印,职居民牧。岁运最嫌填实。

六阴朝阳格。喜印绶、财星,在岁月之中入格,而无财印则减分数。运行财印,官居转运,忌冲刑填实。

又云:朝阳带印,清朝达士;财星资助,非青琐之荣,即风纪之任。柱无印财,多居民牧,职守专城。

鼠贵带食资印曜,薇垣藩省。

柱有官煞,贫穷下贱,运途不喜刑冲。

六乙鼠贵格。喜食神重见,及印绶则吉。忌官煞冲刑害。

子丑遥合巳宫,柱印财而为极宝。

岁运若无辅佐,登卑职而坐寒毡。

子丑遥巳二格。要柱有财印必贵。无则否。运遇财印亦发。《赋》又云:“子丑遥合巳宫,得财印而为至宝”是也。

论道绶邦,喜财官自禄而自旺。

如甲日以辛为官,得酉建禄,己土为财,长生在酉之例。

入斯象,大贵。忌刑冲伤官运,岁同。

如吴岳尚书:甲子、癸酉、甲辰、甲子,合格,

庚午年卒,平生正气君子。

调元赞化,因三奇自旺而自生。

正官、正印、正财为三奇,乙日以庚为正官,得己字长生;壬为正印,生於申;戊上正财,生於申,入斯象,大贵。

如谭论尚书:庚辰、甲申、丁未、丙午,财官印俱旺。

胡宗宪尚书:壬申、辛亥、丁酉、壬寅,

财官建禄印长生,火自生於酉,为贵神之地,又化木成象。所以威制四省,官居一品。

栏叉得印禄之相助,官居辅弼阿衡。

火劫兼岁运之不和,反作贫穷而下贱。

此格柱中有禄神,偏、正印,天干得财印为妙。

若见火神、劫刃太重,岁运不和,贫贱。

禄逢财印,青年及第登科。岁运刑冲,官煞逢之不妙。

归禄格。岁月时中有印、有财,地支三合为妙。

运行财印之地,吉。忌刑冲、破害,官煞破格。

金水清澄被伤,文章显达,而寿算难延。

柱中巳酉丑金局,申子辰水局,二局全,乃曰金白水清。

却被天干丙丁戊己混克,则文而不寿。

《赋》云:“金水清澄被伤,颜子秀而不实”是也。

木火衰盛不均,功名蹭蹬,而夭折无疑。

乙日夏生,柱中丙丁午巳火多,即功名蹭蹬,名为气散之文。柱无财印,灰飞烟灭,克子伤妻,或残疾。

得劫刃帮助,壬癸生扶,戊己资益,功名虽有,亦小就而已。

云龙风虎若相从,定作圣朝之大器。

云龙风虎,如甲乙生春三月,或亥卯未月,为青龙之宿,天干要壬癸水,谓之云龙相从。

或庚申、辛酉,但得一字,为西方白虎之神,爱亥卯未逢合巳字为巽风,则贵。

若见填实,又无云雨,谓之旱龙;有阳而无阴,有君而无臣,刚柔不相济,反为中庸不达之士也。或以辰为龙,寅为虎,壬为云,巳为风,局全寅辰巳壬者,大贵。

飞禄倒冲兼印绶,必为昭代之名公。

飞天禄马倒冲之格,喜印绶财。忌正官、七煞冲刑、填实。若行印财及三合之地,亦吉。

身虽旺而官禄微轻,马氏讲经艺於绦帐。

如甲寅日,用辛为官和生冬三月,或四、五月,用神既浅,又无财星资助,止为师德之命。如生夏而财星资助名拟陶朱。若克被制伏,火重则否。

格不清而用神不废,萧曹起刀笔於西秦。

(义同上。)

甲乙若入乾宫,会辰龙面必贵。

甲乙二字多透干头,地支见亥,又得辰字。

名六甲趋乾格,吉。如四柱入斯象,主大贵。

金神如逢壬癸,得巳午以为佳。

甲乙日生人,得壬癸印生扶,支神巳午。

为水火既济,龙得飞腾之象,云行雨施之功。

庚遇壬癸坐煞印,而周瑜位重。

六庚日生,柱中壬癸多,身坐七煞、印绶者,主大贵。

如何尚书;壬子、癸丑、庚午、丙子。

余命:壬午、癸丑、庚寅、丙戌,俱合此象。

龟蛇持剑兼金刃,而贾复名高。

壬癸日生,柱中丙火多,或寅午戌、申子辰二局。

水属龟,火属蛇,名龟蛇持剑之象。柱无金,其剑不出。

庚辛重而时见巳亥,虎啸风生。得戊己以相资,官居极品。

庚辛日主再见庚辛干,岁月时中得一巳为巽风;或得亥亦可。喜甲乙亥卯未,运行东南,权高禄重。行北方富。

入西,祸莫测。

一气相生,称五行之顺食,位近三台。

一气相生,即甲生丙,丙生戊,戊生庚,五行顺食。

更地支互益者,大贵。(或以天元一气解之,则非。)

金神带刃,遇火地之炎明,官居内阁。

金神格。柱中有阳刃,又行火乡,大贵。

时上偏官,喜劫刃印财,而居岁月。

时上偏官格。

岁、月、时中,有财资印化,刃扶身强,主风宪之权。

父传子道兼文武,将相而显朝廷。

乙日生,逢壬午时者,是。乙属东方青帝之神,午属南方火帝之神。乙为父,午为子,得干上壬水,反生乙木,是父传子道之家,青赤相续之妙。入此格者,功高一世,宠压千官。不宜水盛,乙木有泛。

即前木生卯月,时会午而震动离明,运至西南官居极品是也。

伤官透而正官隐,遇煞印而位重权高。

伤官透於岁月时干,正官隐於地支柱内,财印七煞全者大贵。

地天交而阴阳感,得戊己而三台八座。

日时得亥为乾天,岁月得申为坤地,而干透戊己是地在天上,有阴阳交感之意,内阳外阴,建顺之象。入此格者大贵。

木盛金繁,得离明而公忠正直。

木赖金削,繁则金太多,要火制金。

公忠正直,因金木而言也。

金白水清,遇长生,而聪明出众。

庚辛日,生於申子辰月,地支坐巳,柱有壬癸,无火土夹杂,主聪明有文学。

火明木秀,逢土现而早古鳌头。

甲乙日生,柱中有巳在丙丁寅戌字,在春生奇特。

若地支有午戌亥卯未,各得一字,亦是。不拘甲乙日生。

水木在春生,遇土金而作公侯之贵。

水见土,木见金,为官。

水见金印,木见土财,春则木旺水休,互相资财,故贵。

金逢火炼,早年出仕。

木得金裁,幼岁成名。

此言五行之相济也。

金多失火,嗟性度之凶顽。

木盛无金,叹功名之不遂。

土重而无木疏通,困苦奔波之辈。

水盛而无土制伏,破家淫荡之人。

火盛而无水济,死而无悔之暴夫。

木衰火盛变灰飞,功名迟而难逃夭折。

金白水清被枭害,文章秀而莫永天年。

此总言五行,偏党无制化,皆为不吉。

金白水清,脱枭神而文章益显。

与前“金白水清,遇长生而聪明出众”互看。

煞官两露,遇二德而爵位崇高。

二德,天、月二德也。煞官两露疑混,得此解之,故贵。

财资七煞,子仪司将相之高权。

柱中财旺七煞,煞生印,又得长生之地。

日干旺,格局纯,大贵。

金神带煞,寇准擅庙堂之大器。

金神重犯,岁时月令,却逢七煞,大贵。忌刑冲。

岁德逢财煞栽根,早登显仕。更加印刃无妒合,预拟高科。

与前岁德扶干,喜财星而嫌制伏;印星在运会羊刃而掌兵刑。义同。)

岁德逢财,少年请举;岁德带刃,早岁成名。

岁德为重煞故屡言之。请举,少而成名,早擢高科而登显仕。以年管初年,煞主威风故也。假如甲日见庚年为岁德,柱中要戊己资煞,巳酉丑栽根带刃,喜行印绶,忌正官妒合之辰。

月七煞而时岁食,肃宪府风霜之号令。

食神制煞,理固然也。

月煞印而时伤官,受凤阁龙楼之厚宠。

月令有煞印,岁干支得此为极妙。

要时透伤官,为印之妻,作煞之制,故主大贵。

日丙火而时入亥宫,丽乎天而文明四海。

六丙日时得己亥,亥属乾为天,火在天上,无所不照。

命有斯象,自幼至老,贵显崇高,掌兵刑之任。上佐天子,下顺四时,外抚四夷。所忌刑冲、破害,有救者吉。

《赋》云:“阳火时逢亥位,文明光照乎四海”是也。

干阳荧而时逢己丑,出乎地而照耀山川。

丙日逢己丑时,是日出地上之象。顺而丽乎天,大明之德。如安国康侯,多受大赐,命之值此,心膐股肱之任。

如姚涞状元:戊申、戊午、丙辰、己丑,合格。

《赋》又云:“六丙时临己丑,日在地上为极显”是也。

时辛亥而日逢丁,乃时三奇而科名早中。

六丁日见辛亥时,辛为偏财,亥中甲木正印。

壬水正官,谓之时上三奇。必主少年登科。富贵长久。

《赋》又云:“阴火时亥,富贵悠悠”是也。

月建申而岁时遇子,为坤坎顺而将相可期。

欲知富贵,先观月令乃提纲。月在申属坤为地,年支子居坎为水,地水师卦,水不外乎地,兵不外乎民。

得此象者,大贵。子时亦然,日支子者则非。

时离岁巽日阴金,透甲乙为三台之贵。

午时生人,年支得巳字,日得辛金为主,金用及木为财,离火为官,名曰内得巽顺,而外得离明之象。柔进而上行,得中而应乎刚。若巽居月令,则非。入格大贵。

木秀火明春秉令,入斯象夺榜眼之魁。

重在春生。即前“火明木秀,逢土现而早占鳌头”之义。

食神带刃结局,而位至三公。

如甲人食丙,要火局。己人食辛,要金局。

但得一字,更有刃助,大贵。

食神带刃坐官,而勳高一品。

日主坐下官星,岁月时中又有刃食之现,大贵。

所嫌者偏印冲刑,若行财官二运,勃然骤发。

官星带刃,班超万里封侯。岁月得时,周勃特然入相。

正星之格,用神要当时。柱有劫刃为正官妻财,则刚柔相济,却得财星为贵。官星、劫刃两现天干之上,尤贵。

《赋》又云:“官星带刃,贵不可言。岁月透露,周勃特然入相”是也。

得时,以官星乘旺言。带刃,以不拘干支言。透露,则直指所重者言之也。刃为凶煞,官食带之,皆作权贵看。

如李邦珍都宪:癸酉、己未、壬子、庚子,合格。

财官双美,透财印,而居台省之尊。

运至比肩,更刑冲,抱守株之拙。

癸巳日,坐向四月。壬午日,坐向午月。

天干透财印,贵。不宜北方运,又怕刑冲。宜斟酌。

财官生旺,天干透露为奇,而曳紫拖朱。

四柱财星旺,不必正官透,财自生官,绝奇。

或财官两透,居生旺之地,皆主大贵。

财旺生官,印刃相扶为妙,而三台八座。

柱中财星旺得令,又印劫扶持,大贵。再莫行财乡运。

干食神而时骑禄马,初年题虎榜之荣名。

庚日见壬午时,辛日见癸巳时是也。

透印绶而格得财官,早岁镇边隅之重任。

财官之格,要岁时透印於为妙。

日干健旺,而印刃相扶,龚胜尽汉家之死节。

赋云:煞旺而得印刃之扶,龚胜死节於西汉,是四柱纯煞。或官星从煞,得印刃透出天干,乃忠节之良臣也。

前言日干旺而印刃相扶则太过,焉得好处?当以後为正。

考龚胜,汉之处士而能死节,岂非五行太过之伤欤?

官星带刃,而印绶带煞,玄龄步唐代之瀛洲。

三公之任,在乎煞刃司权,各遇长生,更得财资,极贵。

如甲用庚为煞,乙用辛为煞,柱有巳子,则煞长生。

甲见乙,乙见甲为刃,柱有亥午为刃长生。

更得财资,煞印化刃,极贵。

司要枢,总戎政,因劫带印以资官。

月令时上正官,要羊刃资之。

如甲用辛为官,有乙字资官是也。

伸枉抑,理冤愆,为财生煞而助印。

四柱七煞重叠,又得财官资助,则煞得势,复生乎印矣。

进直言,而趋金阙,因煞刃两露於天干。

此是煞格。而煞刃并现岁月时中。

居翰苑而掌丝纶,为正官归禄於四柱。

归禄,乃正官。如丙用癸为官,有子字,则癸禄居子,在冬三月生,妙。《赋》又云:“掌丝纶之命,列玉堂之职,因贵禄而得清奇是也。

年正印而月正官,居国监翰林之任。

正官喜现於月令之中,正印要露於岁元之上。

不见冲克之神,准上文。

格清奇而时得令,唱鸿胪玉殿之名。

格局纯和不杂,用神得令有气,无刑冲、破害,大贵之造。《赋》又云:“格清局正,玉殿传胪”是也。

平邦国,统六师,赖官星变为天德。

(解见前。)

理阴阳,登宰辅,因禄马又带长生。

正财、正官,俱有长生。得刃生食,食生财,财生官,官生印,印生身,有周流不息之妙,必主大贵。

《赋》云:财官有蒂,调和燮理之权。有蒂长生是也。

财官长生就贵长生,指所居长生之地言,不必要刃食相生解。

格局纯和,而日干自弱,览泉石而好幽栖。

用神虽得时,日主衰不胜,却为林泉晦迹之人。

遇运扶身,亦发。

格局薄弱,而用神轻微,纵资生而无过小职。

如其所用之神,不得时令,纵得资益之字,不过小官。

比前格局纯和者不同。

土重而支神厚载,畏元武而喜青龙。格局苟逢,必膺大贵。

如戊己日,柱中又重戊己字,或得一申字在地支,是纯柔顺之道。赋形有定之方,德合无疆坤之大也。值此象大贵。

忌壬癸,喜甲乙。运同。

木盛而土厚逢荧,顺东方而行坤地。柱运顺和,定显功名。

天於甲乙一气,地支戊己重叠,却得寅午戌一字,顺东方,木得地也。行坤地,土得位也。

如是,则木愈盛而土愈厚矣。四九上下应之。

土多而居坤艮之上,则天道下济而光明。

戊己居於岁月,时干地支又有其根,得提纲在寅。

土为坤为地,寅为艮为山,止乎内而顺乎外,谦之义也。

山至高而地至卑,乃屈而止乎其下。仅此象富贵亨通。

刃逢禄马三奇,得令透财,为公侯一品之贵。

柱会水火二局,露金藏土,为龟蛇持剑之形。

即前“龟蛇持剑兼金刀,而贾复名高”之义。

财星变德而坐煞,李靖兼文武全材。

如丙申日以辛金为正财,要在四月中生,自坐申中壬水为煞。己卯以壬水为正财,要在申子辰月生,为天、月德之类。

二者俱变为德秀,又是财星变德值生旺,无劫夺。

武则锄强殄暴,文则胙土分茅。

《赋》又云:“财星变德,登枢要而任股肱”是也。

煞刃得印以相资,汲黯作朝廷之耳目。

煞生印,刃合煞,全者大贵。

伤带财印,兼生旺,而持纲持纪。

伤官,用财、用印之义也。须财印生旺,方妙。

柱均火土,逢木气而为国为民。

火生土为食伤,木为火印,为土官,故也。

王曾魁众士,因官印带食以相扶。

叶正占鳌头,赖印星自官而自禄。

身旺无财官之辅,非技艺而必僧流。

女人犯二德之纯,受宠章而沾凤诰。

余观此《赋》,不外子平,但多重七煞、羊刃、伤官、食神,而财官、印绶兼资并取。成格、合局、作党、制化、变德者,皆作大权大贵、万公耳闻目击,故以子平之法而推广之。

万公其亦识微之士耶。

Link

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





.

Thanked by 1 Member:

#399 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 13/12/2024 - 13:26

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhị

kim thanh ngọc chấn phú

(Huyền Hư Đạo Nhân sáng tác. Dục Ngô cư sĩ phân tích)

Thụ mệnh không giống nhau cũng như thụ hình. Đo lường lý của nó khó thông còn khó hơn đo độ sâu của biển.
Âm thì tăm tối, dương thì khoan khoái, hiểu biết đầy trống có số; trời cao đất xa, che chỡ tận cùng không có biến giới.
Có thể lên cao trên bầu trời nhà Hán, mà không có chỗ riêng tư. Có thể rơi xuống vực thẳm mà không có chỗ sợ hãi. Khí số của nó đã định từ lúc ban đầu, nó vun bón ví như các loại cây cỏ.

Bí quyết không ở nói nhiều, đến người việc nào ép buộc phiền nhiễu.
Lại như loại thuộc hay tòng hoá, cách phán đoán vượng suy, chiếu (rọi sáng) phục (ẩn núp) củng (nhiểu quanh) diêu (dài, xa), bố cục chia ra minh (rõ ràng) hay ám (ngầm).
Gặp loại thuộc cần phải vượng, tòng hoá cần phải suy. Hai thứ chiếuphục đều chọn cục minh (rõ ràng).
Hai thứ diêucủng thì chính là chọn bố cục không thấy hình thể, cho nên gọi là ám (ngầm).
Luận dụng thần, luận nhật chủ, mỗi cách có chỗ thích hợp. Chọn địa mạch, chọn thiên nguyên là một lẽ nhất định phải noi theo.
Đề xuất rộng lớn này để bàn về tạo hoá không phải là một lần.
Có thể nói: sáu câu này, là trình bày rõ ràng ý nghĩa của tám cách ở trên. Ở nghĩa lý cũng thông suốt.

Du tâm ư khứ lưu thư phối, quyết ý ư hỉ kị ái tăng.
(Mưu tính di động ở bỏ hay giữ khoan khoái điều hoà, nhất định ở hỷ kỵ thương ghét).
Đây là hạn chế nói về tạo hoá không có nhiều phương pháp. Sự thật tuyệt vời ỡ giữa thì không thể diễn tả bằng một lời.
Như luận dụng thần, dụng can ngày, chọn địa mạch, chọn thiên nguyên, hỷ kỵ thương ghét, hằng ngàn việc không giống nhau. Nếu không bỏ hay giữ, khoan khoái và điều hoà, làm sao thành tạo hoá mà phân chia quý tiện, bàn về tính mệnh mà xác định sống chết?
Vì thế nên mưu tính nghiền ngẫm chi tiết, nhất định tập trung quan sát.

Diệc hữu nguyên trọc nhi lưu thanh, khởi vô căn điềm nhi duệ khổ.
(Cũng có trường hợp nguồn đục mà trong khi chảy, làm sao không có nền tảng tốt đẹp mà con cháu khốn khó).
Như thuỷ, sanh ở lệnh thổ, nguồn của nó vốn là đục. Đi vận tây bắc, thổ hoá kim, kim hoá thuỷ, dòng chảy chẳng phải trong suốt sao? Nếu vậy trước chủ xấu sau chủ tốt.
"Hồng Phạm" nói: giá sắc coi là ngọt, viêm thượng coi là khổ, mộc sanh ở lệnh thổ, đi phương nam, nền tàng tốt đẹp mà con cháu khốn khó. Đó là ý nghĩa của nó vậy. Tuy thương quan có khả năng sanh tài, nhưng mộc không đi phương nam, làm sao để uỷ phái? Có thể hai câu này thích hợp để báo cho biết tóm tắt của ngũ hành vận mệnh, không tập trung chỉ ở thuỷ, hoả. Cũng thông suốt.
Lạc Lục Tử có trước xấu sau tốt, trước tốt sau xấu, sẽ là thí dụ. Đây sẽ là nói thẳng về lý của nó vậy.

Uyên ương bỉ dực kiến giang hồ, tất toại bình sanh
(Uyên ương sát cánh gặp phải sông hồ, nhất định thoả thích một đời).
Như bính tuất tân sửu đinh tỵ nhâm dần,
Bính tân hợp, đinh nhâm hợp, dần tuất hợp, sửu tỵ hợp, giống như uyên ương sát cánh cùng nhau bay. Nhâm thuỷ ở trụ, lại thêm bính tân hoá thuỷ, là tượng của sông hồ, có thể thoả thích nghĩ ngơi. Hoặc nói: uyên ương sát cánh chỉ chọn lấy hai cặp hợp nhau tức là đức hợp song ương cách vậy.

Hồ điệp song phi phùng viên hữu, phương vi đắc sở.
(Hai con bướm cùng bay gặp vườn tược, mới là chỗ thích hợp).
Như tân mùi mậu tuất tân mùi mậu tuất, mùi là khố của mộc,
Nạp âm củ mậu tuất lại là bình địa mộc, chính là chỗ của vườn bao quanh, cho nên hợp cách nên quý.

Nhược vô nhất điểm thủy khí, khởi phi hư danh ứng lợi chi nhân hồ?
Thải tinh kim ư thanh sa hoàng thích, biệt lợi khí ư thác tiết bàn căn.
(Nếu không có một điểm thuỷ khí nào, chẳng phải là người cầu danh lợi vô ích hay sao?
Lựa chọn tinh kim ở cát xanh sa mạc vàng, công cụ khác ở thác tiết bàn căn).
Ngày giáp ngọ gặp giờ kỷ tỵ, ngày ất mùi gặp giờ mậu dần. Bởi giáp ngọ ất mùi là sa trung kim, nên mậu dần là thanh sa (cát xanh), kỷ tỵ chính là hoàng thích (sa mạc vàng) vậy.
Giáp ất sanh tháng mão lúc mộc vượng, trụ có nhâm thân quý dậu kiếm phong kim, chánh hợp cách này. Còn lại kim khác thì không phải.

Ngã sanh giả, khởi nhược sanh ngã chi vi an. Khắc ngã giả, tằng như ngã khắc giả chi vi hiển.
(Người được mình sanh, làm sao nếu sanh mình thì yên ổn. Người khắc mình, từng như người bị mình khắc hiển hiện).
Đây là nói về thương quan không cùng với ấn thụ, dụng sát không bằng dụng tài vậy. Bởi thương quan, thất sát tuy có thể đại quý, nhưng thường dễ mắc tai hoạ, nếu không thuần dụng tài ấn, là tự nhiên hưởng phúc vậy. Có thể nói dụng tài giống như đạt đến giàu có, mà không nói tài vượng sanh quan.

Cố dụng tài giả chế nhân, dụng quan sát giả chế ư nhân.
Như phùng ký tế vị tế, hưu nghi xung tịnh. Hưu nghi vô y.
(Cho nên người dụng tài thì người chế phục, còn người dụng quan sát thì chế phục ở người.
Như gặp ký tế, vị tế, đừng ngờ xung tịnh. Đừng ngờ không chỗ dựa).
Như nhâm tý bính ngọ nhâm tý bính ngọ là cách ký tế vậy.
Như đinh mão bính ngọ bính tuất giáp ngọ là cách vị tế vậy. Hai cách đều là đại quý.
Như lấy mắt thường quan sát, thì một mệnh ở trước gần như là xung tịnh, mệnh ở sau gần như là không có chỗ dựa vậy.
Có thể giải thích vị tế vì hoả ở trên thuỷ ở dưới, mà trong trụ quá vượng, tức là cách tập trung khí lực vậy.

Nội hữu tam chánh tam thiên, bất tất sanh phù, bất tất thấu lộ.
(Bên trong có ba chánh ba thiên, không cần hỗ trợ, không cần lộ ra).
Sáu nhâm sanh tháng tư, mậu trong tỵ là thiên quan, bính là thiên tài, trướng sanh kim là thiên ấn, cho nên gọi là tam thiên (ba thiên). Quý sanh tháng tỵ thì chánh quan, chánh tài, chánh ấn chính là tam chánh (ba chánh) vậy. Thuỷ tuy tuyệt ở tỵ, mà kim trường sanh thì thuỷ không tuyệt mãi, là vì bất tât sanh phù (không cần hỗ trợ) vậy. Tụ tập thì khí tập trung và phát tán, là bất tất thấu lộ (không cần lộ ra) vậy. Có thể lấy sanh phù để chỉ nói về tài quan ấn, nếu can ngày suy yếu, thì không thể không sanh phù.

Bôn đạo đồ nhi tang sanh, cái nhân tú khí phồn loạn.
Tọa linh ngữ dĩ vong mệnh, chỉ vi tỉ kiên tranh đẩu.
(Chạy trên dường mà mất mạng, bởi do tú khí hỗn loạn.
Ngồi trong nhà tù mà vong mạng, chỉ vì tỷ kiên tranh đấu).
Như một giáp ba dần. Một bính ba tuất, một tân ba bính, quan tinh quá nhiều ở lộc khố, không có tú khí. Như ba nhâm một hợi, ba canh một sửu, ba kỷ một giáp tú khí không vượt qua sự chia cắt tranh giành vậy. Còn lại phỏng theo đó.

Nhận trọng quan khinh, nghiệp đồ cô ư thị tỉnh. Mã bì ấn phá, lộng đao bút ư công đường.
Quan tinh đái nhận, bổn cát, quan sát thất thì, nhi nhận dụng sự, tư kì sở dĩ tiện dã.
(Nhận nặng quan nhẹ, nghề giết và bán súc vật ở chợ tỉnh. Ngựa mỏi mệt ấn bị phá, đùa giởn đao bút ở chốn công đường.
Quan tinh đới nhận vốn là tốt, quan sát không đúng thời, nên dùng nhận làm việc, đó là lý do nó thấp hèn).
Hễ gặp cách này, đoán là bán thịt và bán rượu không có sai. Như dần ngọ tuất mã ở thân, có hình xung phá hại thì ngựa mệt mỏi.
Giáp mộc lấy nhâm quý làm ấn, không có canh tân sanh mà có mậu kỷ phá hoại, chính là lũ thơ lại. Có thể nói rằng: mã chỉ về tài; (mệt mỏi) là bệnh; tài tới đất bệnh, gọi là mã bì (ngựa mệt mỏi).
Khảo sát chú thích ngựa mệt mỏi của Lạc Lục Tử, Vương Đình Quang nói ở phần trước là đúng.

Tam kì tái phạm tuất thìn, tác trác tước tài phùng chi tượng.
(Tam kỳ một lần nữa xâm phạm thìn tuất, coi là thợ đẽo gọt, cắt may).
Địa tam kỳ: giáp mậu canh. Thiên tam kỳ: ất bính đinh. Nhân tam kỳ: tân nhâm quý.
Thiên can được tam kỳ, địa chi có thìn tuất xung nhau, chính là xây dựng từ quý trở thành tiện. Người gặp điều này, có thể đoán là thợ mộc cùng với thợ may. Gặp dần và thìn thì không phải, hoặc tuất có hợp, thìn có hợp, mỗi thứ phân chia hai cục. Sẽ là thuỷ hoả ký tế, cũng không phải.

Tứ trụ tẫn quy lộc vị, hưởng mi thọ cảnh phúc chi nhân.
(Tứ trụ hết ở chỗ quy lộc, là người hưởng tuổi thọ và phúc to lớn).
Như bính dần giáp ngọ ất tỵ kỷ mão, bính lộc ở tỵ, giáp lộc ở dần, ất lộc ở mão, kỷ lộc ở ngọ, mỗi thiên can đều có chỗ trở về của mình, người này một đời giàu có mà lại có tuổi thọ. Như "Tiêu Tức Phú" có nghĩa "hưởng phúc do ngũ hành quy lộc, tuổi thọ dài do bát tự cân bằng ổn thoả".

Mộc suy hỏa vượng phục hành tây, thiên niên yểu chiết.
(Mộc suy mà hoả vượng lại đi về phương tây, tuổi trời sớm bẻ gãy).
Như ngày giáp ngọ, sanh tháng tư hay tháng năm, mộc không chạy về phương nam, lại gặp kim chặt đốn, chết trẻ. Đi vận đông bác, thì không phải.

Thủy lãnh kim hàn kiêm củng bắc, thân thế phù trầm.
(Thuỷ lảnh lãnh kim hàn gồm cả củng bắc, một đời thăng trầm).
Kim thuỷ thương quan, chỉ nên đi vận đông nam, tốt.

Giáp xuân ất thu, thiên nghi quan sát trùng điệp.
(Giáp mùa xuân ất mùa thu, nghiêng về thích hợp với quan sát trùng điệp).
Giáp sanh mùa xuân, mộc vượng nhờ kim đẽo gọt mới thành vật dụng. Ất sanh mùa thu, có thể hoá có thể sát đều tốt. Vì thế thích hợp nhiều sát. Giả như giáp sanh mù thu mà bị khắc nặng, nhất định chủ đại hung. Còn ất sanh mùa xuân mà sát nhiều, cũng không thích hợp.

Bính hỏa mão nguyệt, nan tư ấn thụ sanh phù.
(Bính hoả tháng mão, khó giúp đỡ ấn thụ hỗ trợ).
Mộc ẩm ướt không sanh nên không có ngọn lữa, lý đương nhiên vậy. Ất mão, quý mão càng đúng, đinh mão tiếp theo.

Thủy phồn nhi bất chế, bệnh sanh ư bàng quang. Kim phồn nhi bất hóa, tật tại ư hầu thiệt.
(Thuỷ nhiếu mà không chế phục, bệnh sanh ra ở bàng quang. Kim nhiều mà không hoá, bệnh tật ở cuống họng và lưỡi).

Thuỷ thuộc tinh khí, thuỷ mất đê phòng nên không có thổ chế phục, thì người đó dâm, thuỷ nhiều quá trôi nổi vậy.
Kim thuộc âm thanh, kim quá cứng chắc mà không có hoả hoá, thì người đó bị khản cổ hoặc câm, kim đầy không có chỗ trống thì không có tiếng.

Tài quan song mĩ, thấu lộ cực vinh (nhất vân, ngộ ấn cực vinh);
Hỏa mộc thông minh, kiến thổ tắc quý.
(Tài quan cả hai đều đẹp, lộ ra thì rất vẻ vang (lại nói rằng, gặp ấn rất vẻ vang);
Hoả mộc thông minh, gặp thổ thì quý).
Tài quan song mỹ, là sanh tháng thìn tuất sửu mùi, hoặc các ngày nhâm ngọ, quý tỵ. Vốn thích hợp tài quan lộ thiên can thì tốt đẹp. Mộc hoả thông minh cần phải sanh mùa xuân thì rất tốt. Thổ sở dĩ giữ hoả và vun bồi mộc, cho nên phải hiện ra mới là quý.

Nhâm xu cấn, giáp xu càn, tu dĩ tài ấn trợ phúc.
Tý diêu tị, sửu diêu tị, diệc dĩ tài ấn tương thành.
(Nhâm theo cấn, giáp theo càn, phải lấy tài ấn giúp đỡ phúc.
Tý diêu tỵ, sửu diêu tỵ, cũng lấy tài ấn tương thành).
Bốn cách ở trên đều nhờ tài ấn giúp đỡ mà bắt đầu đại quý. Không nên thấy quan sát.

Tam kì phục tuế chi chi hạ, thiểu nhập hàn lâm. Tam kì tại thì vị chi gian, vãn quy thai các.
(Tam kỳ ẩn dưới địa chi năm, tuổi trẻ vào Hàn Lâm. Tam kỳ ở bên trong trụ giờ, tuổi già trở vế đài các).
Như sáu giáp là nhật chủ, gặp năm kỷ sửu là đúng. trong kỷ sửu có tân kim, quý thuỷ, kỷ thổ là tài quan ấn là tam kỳ vậy.
Như sáu ngày đinh, thấy giờ tân hợi, trong hợi có nhâm thuỷ là quan, giáp mộc là ấn, lại thêm tân kim chính là tài, gặp phải làm sao mà không có địa vị cực phẩm?
Từng chỗ của tam kỳ mà phân ra quý ở già hay trẻ, lấy năm ở trước và giờ ở sau, nên năm thì gần mà giờ thì chậm trễ.

Quan tinh đắc lệnh, chế phục chư hung. Quý nhân phù thân; giải thoát bách ách.
(Quan tinh đắc lệnh, chế phục các hung thần. Quý nhân hỗ trợ thân; giải thoát trăm tai hoạ).
Đây là nói về trong mệnh có quan tinh và quý thần, không kỵ hung thần ác sát, là do ở tà không thắng chánh vậy.
Phải được lệnh hỗ trợ thân mới đúng lời của "phú". Nếu quan tinh mất lệnh hay bị thương tổn, quý nhân tản mác sanh ra quở trách, thì không đúng.

Sát nhận lưỡng hiện can đầu, định thụ ngôn trách chi kí.
Nhất ngộ hình xung tuế vận, khủng đạo bất trắc chi nguy.
(Sát nhận cả hai hiện ở thiên can, xác định được nói quý là kỳ lạ.
Một khi gặp hình xung tuế vận, e sợ lao vào nguy hiểm bất ngờ).
Sát và nhận là quyền tinh, hình xung thì rất kỵ.

Bnh lâm tý thân, mậu đương đầu nhi quý nghĩ vương tạ.
Tân kị dương thố, ất thấu xuất nhi phú bỉ đào chu.
(Bính đến tý thân, mậu đương đầu nên quý so với Vương Tạ.
Tân cưởi dê thỏ, ất lộ ra nên giàu sánh với Đào Chu).
Quý lấy thực thần sanh vượng mà nói. Phú, lấy tài tinh và lộc khố mà nói.

Bát nguyệt quan tinh kiến tý thìn, hợp lai ám sát.
(Tháng tám quan tinh gặp tý thìn, hợp ngầm mang đến sát).
Giả như giáp sanh tháng dậu là chánh quan, dưới trụ năm và giờ có tý thìn sẽ có khả năng mang ra thân kim, điều này thành quan sát hỗn tạp.

Tam xuân bính hỏa phùng hầu thử, hóa tác chánh quan.
(Ba tháng mùa xuân bính hoả gặp khỉ chuột, hoá làm chánh quan).
Bính hoả thìn thổ vốn là thực thần, có tý thân hội thành thuỷ cục, chẳng phải là quan hay sao?
Hai câu này không được thấy hình.

Kim thủy cố thông minh, hữu thổ phản thành ngoan nọa.
(Kim thuỷ vốn là thông minh, có thổ ngược lại thành bướng bĩnh và hèn nhát).
Thổ có khả năng làm đục thuỷ, và có thể chôn vùi kim.

Kiêu thực tuy bần yểu, đắc tài hốt biến hanh thông.
(Kiêu và thực thần tuy nghèo và yểu, được tài bỗng nhiên biến thành hanh thông).
Thực thần chính là nguồn tài,lại là thọ tinh, kiếu ấn phá nên nghèo và chết trẻ không nghi ngờ.
Một khi đi dất tài, đuổi bỏ kiêu thần, trong hung trở thành tốt. Mệnh này, thường dựa vào người khác mà làm giàu.

Lục ất thử quý, ái kiến thực thần. Lục âm triều dương, hà phương kiên kiếp.
Kim thần đái sát nhập ô thai, thiên quan đái nhận cư hiến phủ.
(Sáu ất quý chuột, thích gặp thực thần. Sáu âm triều dương, sao mà trở ngại kiên kiếp.
Kim thần đới sát nhập vào nhật chủ, thiên quan đới nhận địa vị hiến phủ).
Kim thần dương nhận đều là sao ác, mừng quan sát chế phục, mệnh người được vậy là hình tượng trừ gian bỏ điều hai, cho nên đoán địa vị ở chức vụ này.

Mậu thổ điệp lâm dần cung, thiện tài nhi bất hỉ ấn.
(Mậu thổ chồng chất lên cung dần, tốt cho tài mà không thích ấn).
Mậu dần tuy ngồi ở sát, thực chất là đất trường sanh, gặp hoả chẳng nệ sát và ấn, là hoả đốt cháy thổ.
Thích tài là vì tài sanh thiên quan, quan trở thành có khí lực.

Nhâm thủy tọa hạ dương thổ, thấu sát thiết vật thấu quan.
(Nhâm thuỷ ngồi trên dương thổ, lộ sát chớ không lộ quan).
Thuỷ xưa nay vẫn nhờ thổ ngăn cản, cũng ghét hỗn tạp.

Thiên tài kiến quan kiêm thực thần, vinh hoa hữu chuẩn. Thân chủ dụng thần hoặc nhập mộ, tiến thủ vô duyên.
Mộc hỏa tương chiếu, hung trung vạn hộc châu ki. Kim thủy tương hàm, bút hạ thiên thiên cẩm tú.
(Thiên tài thấy quan gồm cả thực thần, nhất định vinh hoa. Thân chủ dụng thần hoặc nhập mộ, tiến thủ không có lý do.
Mộc hoả cùng nhau toả sáng, ôm hoài bão vạn hộc châu ngọc. Kim thuỷ bao dung nhau, xuống bút viết ngàn bài tươi đẹp).
Cách này thấy trước, nuôi dưỡng giá trị cao, mai này sẽ là tài hoa xuất chúng.

Tam hình thất hợp, phá tương thương khu. Lục hại đa phùng, cô ân phụ nghĩa.
(Tam hình mất hợp, phá tướng thương tổn thân. Lục hại gặp nhiều, phụ ân nghĩa).
Thường tam hình, nếu có hợp sẽ không thành hình (tham hợp vong hình). Như người tranh đấu mà có hoà giải, không thì khó tránh khỏi tai vạ này. Có mang lục hại nhiều, là người sẽ vì ân mà thành oán. Là dòng quên ơn phụ nghĩa.

Không vong tức tổn ư thê tử, cách giác nan vi hồ huynh đệ.
(Không vong tức là tổn hại vợ con, cách góc khó thành anh em).
Không vong như trong tuần giáp tý không có tuất hợi.
Cách giác như sửu dần, chính là chỗ góc vậy, ngày giờ gặp thì quan trọng.

Nhâm kị long bối đái nhận giả, loại ô hoạch mạnh bí.
Canh tọa tuất chi hỏa đa giả, thị hình hầu ung tử.
(Nhâm cưởi lưng rồng có mang nhận, giống như ô bắt được Mạnh Bôn.
Canh ngồi trên chi tuất có hoả nhiều, là Hình Hầu Ung Tử).
Trong thìn có rồng, người vật dương cương. Gặp thêm dương nhận, thể lực vượt hơn người.
Sách nói rằng: thìn thường thích đánh nhau.
Tuất là hoả khố, ngày canh ngồi ở đó, trải qua hoả lần nữa sẽ là rèn luyện thái quá, nó thành quá vô tình. Hơn nữa trong đó còn ẩn dấu lũ chó vàng, sao này chính là vật tráo trở. Sách nói rằng: tuất thường hay kiện cáo.
Hình Hầu Ung Tử, vào thời Xuân Thu người tranh giành đất đai của bộ tộc mình.

Mãn lộ dị hương, phú nhi hảo lễ.
(Khắp cả đường mùi thơm đặc biệt, giàu mà hiếu lễ).
Thiên can của năm tháng ngày giờ, gặp địa chi bốn chỗ là quý nhân thì đúng.
Như nhâm thân tân hợi kỷ tỵ bính dần, nhâm lấy tỵ làm quý, tân lấy dần làm quý, kỷ lấy thân làm quý, bính lấy hợi làm quý vậy.

Nhất cú hòa khí, nhạc dĩ vong ưu.
(Một câu ôn hoà thân thiện, niềm vui thích làm quên đi sự xuất sắc).
Năm tháng ngày giờ đều xuất từ một tuần, như giáp tý nhâm thân kỷ tỵ quý dậu, đều xuất từ trong tuần giáp tý.

Quy lộc ái tài tinh, kiến quan tắc tổn thọ.
(Quy lộc thích tài tinh, gặp quan sẽ tổn thọ).
Tài là nguồn nuôi dưỡng mệnh, cách quy lộc, thân vượng thích tài. Trực tiếp kỵ quan tinh, vì bòn rút tài khí.

Chánh quan đắc thì lệnh, hữu ấn bất như tài.
(Chánh quan được thời lệnh, có ấn không bằng tài).
Quan ấn kiên cố tốt đẹp cả hai đầy đủ, nếu không có tài tinh, quan mất sức sống, ấn làm sao dùng được đây?

Tòng cách phục xuất hồ tam kì, huyết thực hất thiên niên nhi vị ngải.
(Tòng cách lại xuất ra ở tam kỳ, được cúng tế bằng muôn sinh từ ngàn năm mà chưa dứt).
Can ngày canh tân, địa chi tỵ dậu sửu, hoặc thân dậu tuất có đủ, chính là tượng của tòng cách. Ngày canh lần nữa có can đầu là giáp mậu, ngày tân lần nữa có can đầu là nhâm quý, người đó khi chết nên miếu thực (thức ăn trong đền miếu ý là được thờ cúng) cho đến trăm đời.Sao lại nói vậy? Kim được dùng vì cứng cỏi, mà bản chất thì kiên cố. Người cứng cỏi thì sanh ra nghĩa khí, người kiên cố là đạo có thể lâu bền. Người kiên trì nghĩa khí, sống là trung thần, chết sẽ là thần linh. Nguyên tắc này có thể cùng với đạt sĩ (học giả thành đạt) cùng bàn luận.

Khúc trực kiêm tư hồ ấn thụ, nhân thanh bá cửu hữu dĩ vô cùng.
(Khúc trực cùng lúc giúp đỡ ở ấn thụ, tiếng nhân từ truyền bá có nhiều mà không cùng tận).
Khúc trực là tượng của mộc vậy. Nhật chủ là giáp ất, nếu gặp địa chi dần mão thìn hoặc hợi mão mùi đầy đủ thì đúng, gặp thêm ấn thụ tương sanh, người đó sẽ có tâm nhân từ và nổi tiếng nhân từ. Xét theo lý, người nhân tử là tấm lòng của trời đất sanh vạn vật, ở thời gian là mùa xuân, ở ngũ hành là mộc. Là mộc thì có sức sống của vạn vật. Mà người nhân từ thật thì có đức hiếu sanh. Gặp thêm ấn thụ thì sanh sanh mà không ngưng. Người được vậy mang lại lợi ích cho quần sanh (chỉ chung vật có sự sống), người dân được nhờ ân huệ. Cho nên nói tiếng nhân từ truyền bá có nhiều mà không cùng tận.

Địa thiên thái cố, tư nhân đĩnh sanh; vân lôi truân tắc kinh luân hiển thiết.
(Nguyên nhân đất trời hanh thông, là người kiệt xuất; vân lôi truân sẽ đặt nên địa vị của tài năng trị quốc).
Đây chỉ về người có hai cách trên, đời sống đã có chỗ khởi đầu mà không hư sanh; hiện ra nhất định có cử động mà không tuỳ tiện. Có thể nói: địa thiên thái chính là mậu thân gặp tân hợi. Vân lôi truân chính là nhâm tý gặp ất mão. Tức là chọn lựa khéo léo hai cách địa thiên giao thái (đất trời giao nhau nên hanh thông), lôi vũ nghênh xuân (sấm mưa đón mùa xuân).

Là kiến thức của thuật chiêm bộc thì vô cùng, thực tế thì không bỏ sót đến một lý nào, lời nói trình bày khó mà đầy đủ. Ta đặc biệt đề xuất một khía cạnh, lộ ra cái ảo diệu mở ra điều ẩn kín, kính trọng trí tuệ quá khứ của họ, rút ra những điểm tương đồng với nó và giữ lại cho người đời sau vậy.

Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



金声玉振赋

(玄虚道人着。育吾居士解)

受命之不同也,有如受形。测理之难精也,过於测海。

阴惨阳舒,知盈虚之有数;天高地迥,极覆载之无疆。

或升之云汉兮,而非有所私。或坠之渊泉兮,而非有所恶。其气数定於太初,其培覆譬诸草木。

妙诀不在於多言,至人奚事於强聒。

且如类属从化,格判旺衰,照伏拱遥,局分明暗。

见类属要旺,从化要衰。照伏二者,皆取局於明。

遥拱二者,乃取局於不见之形,故谓之暗。

论用神,论日主,各有所宜。取地脉,取天元,是或一道。

此泛举谈造化者之非一交也。

或曰:此六句,是申明以上八格之意。於义亦通。

游心於去留舒配,决意於喜忌爱憎

此约言造化者之无多术也。中间妙理,则不能一言尽。

如论用神,用日干,取地脉,取天元,喜忌爱憎,万有不同。若不去留舒配,何以成造化而分贵贱,谈性命而决生死?

所以当游心详玩,决意专察也。

亦有源浊而流清,岂无根甜而裔苦。

如水,生於土令,其源本浊。运行西北,土化金,金化水,其流不亦清乎?若此者,先主凶,後主吉。

《洪范》曰:稼穑作甘,炎上作苦,木生土令,行南方,根甘裔苦。之谓也。虽伤官能生财,然木不南奔,何以任之?或调此二句总喻五行命运,不专指水、火。亦通。

珞琭子有初凶後吉,始吉终凶,则是譬喻。此则直言其理耳。

鸳鸯比翼见江湖,必遂平生

如丙戌、辛丑、丁巳、壬寅,

丙辛合,丁壬合,寅戌合,丑巳合,若鸳鸯之比翼联飞也。壬水在柱,又丙辛化水,是江湖之象,可以遂其栖迟之情矣。或曰:鸳鸯比翼,只取其两两相合,即德合双鸯格也。

蝴蝶双飞逢园囿,方为得所

如辛未、戊戌、辛未、戊戌,未为木库,

戊戌纳音又为平地木,乃园围之所,故合格而贵。

若无一点水气,岂非虚名应利之人乎?

采精金於青沙黄碛,别利器於错节盘根。

甲午日见己巳时,乙未日见戊寅时。盖甲午乙未是沙中金,而戊寅则青沙,己巳乃黄碛也。

甲乙生卯月木旺之时,柱带壬申癸酉剑锋之金,正合此格。余金则非。

我生者,岂若生我之为安。克我者,曾如我克者之为显。

此言伤官不及印绶,用煞不如用财也。盖伤官、七煞,虽或大贵,然多有得其祸者,弗若纯用财印,为享自然之福也。或谓用财似止於富,不曰财旺生官耶。

故用财者制人,用官煞者制於人。

如逢既济未济,休疑冲并。休疑无依。

如壬子、丙午、壬子、丙午,既济之格也。

如丁卯、丙午、丙戌、甲午,未济之格也。二者俱大贵。

如以俗眼观之,则前一命嫌於冲并,後一命嫌於无依矣。

或以未济,以火在上水在下,柱中太旺为解,即聚精会神之格也。

内有三正三偏,不必生扶,不必透露。

六壬生四月,巳中戊为偏官,丙为偏财、长生金为偏印,

故谓之三偏。癸生巳月则为正官正财、正印,乃三正也。

水虽绝巳,金长生则水不终绝,是以不必生扶也。

翕聚则气专,发散,是以不必透露也。

或以生扶指财官印言,若日干衰弱,则不可不生扶耳。

奔道途而丧生,盖因秀气繁乱。

坐囹圄以亡命,只为比肩争斗。

如一甲三寅。一丙三戌,一辛三丙,禄库官星太多,无秀气。如三壬一亥,三庚一丑,三己一甲,秀气不胜其分夺也。

余仿此。

刃重官轻,业屠沽於市井。马疲印破,弄刀笔於公堂。

官星带刃,本吉。官煞失时,而刃用事,兹其所以贱也。

凡遇此格,断为屠沽无疑。

如寅午戌马居申,有刑冲破害则马疲。

甲木以壬癸为印,无庚辛生之,有戊己破坏,乃吏胥之徒也。或云:马指财言;疲,病也;财临病地,谓之马疲。

考珞琭子马疲注,王廷光以前说为是。

三奇再犯戌辰,作斲削裁缝之匠。

地三奇:甲戊庚。天三奇;乙丙丁。人三奇:辛壬癸。

干得三奇,地支有辰戌相冲,乃贵反为贱之造。

遇此者,可断为木匠,及裁衣匠矣。

遇寅辰则不然、或戌有合,辰有合,各分二局。

则水火既济,亦不然也。

四柱尽归禄位,享眉寿景福之人。

如丙寅、甲午、乙巳、己卯,丙禄居巳,甲禄居寅,乙禄居卯,己禄居午,天干各有所归,此人一生富而且寿。

即《消息赋》“享福五行归禄,眉寿八字均停”之意。

木衰火旺复行西,天年夭折。

如甲午日,生四五月,木不南奔,又见金砍伐,夭折。

行东北运。则否。

水冷金寒兼拱北,身世浮沉。

金水伤官,只宜东南运行,吉。

甲春乙秋,偏宜官煞重叠。

甲生春,木旺赖金斲削,方成器。

乙生秋,或化或煞,皆吉。是以宜多煞。

假若甲生秋而重受克,必主大凶。乙生春而煞多,亦不宜。

丙火卯月,难资印绶生扶。

湿木不生无焰火,理固然也。乙卯癸卯尤甚,丁卯庶几。

水繁而不制,病生於膀胱。金繁而不化,疾在於喉舌。

水属精,水失堤防而无土制,则其人淫,水多太泛也。

金属声,金太坚刚而无火化,则其人哑,金实无声也。

财官双美,透露极荣(一云,遇印极荣);

火木通明,见土则贵。

财官双美,是辰戌丑未月生,或壬午癸巳等日。

固宜财官,透天为妙。木火通明,须春生最吉。

土所以宿火培木,故须见之方贵。

壬趋艮,甲趋乾,须以财印助福。

子遥巳,丑遥巳,亦以财印相成。

以上四格,皆赖财印辅佐,而始大贵。不宜见官煞。

三奇伏岁支之下,少入翰林。三奇在时位之间,晚归台阁。

如六甲日主,见己丑年者是,己丑中辛金、癸水、己土为财官印之三奇也。

如六丁日,见辛亥时,亥中壬水为官,甲木为印,又辛金乃财也,遇之岂不居极品乎?

夫三奇一也。而贵有老少之分,以年先而时後,年近而时迟耳。

官星得令,制伏诸凶。贵人扶身;解脱百厄。

此言命中有官星贵神,不忌凶神恶煞,在邪不胜正也。

须得令扶身,方准《赋》文。

若官失令受伤,贵人散漫生嗔,则否。

煞刃两现干头,定受言责之寄。

一遇刑冲岁运,恐蹈不测之危。

煞刃,为权星,刑冲最忌。

丙临子申,戊当头而贵拟王谢。

辛骑羊兔,乙透出而富比陶朱。

贵,以食神生旺言。富,以财星禄库言。

八月官星见子辰,合来暗煞。

假如。甲生酉月为正官,岁时下有子辰则会出申金,斯为官煞混杂矣。

三春丙火逢猴鼠,化作正官。

丙火辰土,本是食神,有子申会成水局,非官而何?

此二句,乃不见之形。

金水固聪明,有土反成顽懦。

土能浊水,埋金故也。

枭食虽贫夭,得财忽变亨通。

食神乃财源,又为寿星,枭印破之,贫夭无疑。

一行财地,逐去枭神,凶中反吉。此命,多依他人取富。

六乙鼠贵,爱见食神。六阴朝阳,何妨肩劫。

金神带煞入乌台,偏官带刃居宪府。

金神羊刃皆恶星,喜官煞制伏,人命得之,为除奸去弊之象,故断居此之职。

戊土叠临寅宫,善财而不喜印。

戊寅虽坐煞,实长生地也,见火勿泥煞印,是火蒸焦土。

喜财者,财生偏官,官为有气耳。

壬水坐下阳土,透煞切勿透官。

水固赖土止,亦恶混杂也。

偏财见官兼食神,荣华有准。身主用神或入墓,进取无缘。

木火相照,胸中万斛珠玑。金水相涵,笔下千篇锦绣。

此格见前,重举之,以明其才华之卓越。

三刑失合,破相伤躯。六害多逢,辜恩负义。

凡三刑,若有合则不成刑。

如人争斗,而有和解之者,不然难免此患。

带六害多者,为人必以恩为怨。忘恩负义之流。

空亡却损於妻子,隔角难为乎兄弟。

空亡,如甲子旬中无戌亥。

隔角,如丑寅,乃隔角方位也,日时见者重。

壬骑龙背带刃者,类乌获孟贲。

庚坐戌支火多者,是邢侯雍子。

辰中有龙,阳刚之物也。更逢羊刃,膂力过人矣。

经云:辰多好斗。

戌为火库,庚日坐之,再经火则煆炼太过,其为无情甚矣。况其中藏娄金狗,此宿乃狡猾之物。经云:戌多好讼。

刑侯雍子,在春秋时,争部田者也。

满路异香,富而好礼。

年、月、日、时之天干,见地支四位责人者是也。

如壬申、辛亥、己巳、丙寅,壬以巳为贵,辛以寅为贵,己以申为贵,丙以亥为贵也。

一句和气,乐以忘优。

年、月、日、时,共出一旬,如甲子、壬申、己已、癸酉,俱出甲子旬中也。

归禄爱财星,见官则损寿。

财为养命之源,归禄之格,身旺爱财。

直忌官星,窃财气故也。

正官得时令,有印不如财。

官印固妙两全,苟无财星,官失其生意,印亦何用焉?

从革复出乎三奇,血食迄千年而未艾。

日干庚辛,地支巳酉丑,或申酉戌全者,乃从革之象。庚日干头再有甲戊,辛日干头再有壬癸,其人死当庙食於百世矣。何以言之?夫金之为用也刚,而其为质也固。刚者,义气之发,固者可久之道。人之秉义者,生为忠臣,死必为明神矣。此理可与达士论之。

曲直兼资乎印绶,仁声播九有以无穷。

曲直者,木象也。甲乙日主,倘见地支寅卯辰,或亥卯未全者是,更逢印绶之相生,其人必有仁心仁闻矣。以理推之,仁者,天地生物之心,於时为春,於五行为木。是木者,有生意之物。而仁人,实好生之德。更逢印绶,则生生而不息矣。得之者泽被群生,恩沾黎庶。故曰仁声播九有而无穷。

地天泰故,斯人挺生;云雷屯则经纶显设。

此指上两格之人,其生也既有所自而不虚生;其出也必有所为而不苟出也。或云:地天泰,乃戊申见辛亥。云雷屯,乃壬子见乙卯。即妙选地天交泰,雷雨迎春二格。

是知术数无穷,实则不遗至理,言辞难悉。吾特举其一隅,显微阐幽,尊彼往哲,引伸触类,存乎後人也。



.

Thanked by 1 Member:

#400 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 13/12/2024 - 13:36

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhị

Kim đỉnh thần bí phú

(Vạn Dục Ngô soạn)

Đời sống con người có số mệnh, được mất đều đến bất ngờ.
Giàu sang nghèo hèn, sao mà có thể một thể.
Ánh sáng đỏ đầy nhà, ngũ hành đều tụ ở nơi quý.
Khí đẹp tràn nhà, tứ trụ tụ hợp lại ở đất phúc.
Trước nghèo sau giàu, lúc sanh ra gặp lộc mã cùng một nơi.
Trước tốt sau xấu, ngày giờ phạm chỗ không vong, phá.
Cả đời trắc trở, nên tảng mỏng với vận xấu giao tạp.
Một đời vinh hoa, mệnh cao quý gặp vận tốt chồng chất đến.

Kim cứng cỏi phải gặp hoả mới thành vật dụng, quyết định tài năng vượt mọi người.
Hoả vượng gặp thuỷ thành ký tế, đương nhiên vượt hơn mọi người.
Mộc cần kim mà không nhiều quá, tuỷ nhờ thổ nên không tản mác.
Mậu kỷ gặp dần mão, đắc vị ở câu trần.
Nhâm quý ngồi ở tỵ ngọ, nắm quyền ở huyền vũ.
Quý thần nhập mệnh gặp kỳ nghi, nhất định là công khanh (gọi tắt của tam công cửu khanh 三公九卿, chỉ chức quan đại thần thời xưa).
Hoa cái đến trụ giờ gặp cô quả, nhất định là tăng đạo.
Nhậm mệnh làm tể tướng ở cung điện, quyền thế hiển hách nhờ hoả tú ở cung ly.
Kim khuyết (lối đi giữa hai thành) triều nguyên (chầu nhật chủ), thuỷ đức mênh mông ở vị trí khảm.

Gặp nhiều vị trí thuỷ, đoán là tiên của mây nước.
Thêm phạm thuần dương, nhất định là con của cửa không (tức là tu sĩ).
Gặp trường sanh nên thông minh và khôn ngoan.
Gặp tử bại nên nên ngu ngốc và bướng bỉnh.

Cha mẹ khó nương tựa, năm tháng đều hãm không vong.
Vợ con dễ tổn thất, ngày giờ cùng đến cô quả.
Mão dậu sanh gặp khắc chiến, cửa nhà thất bại mà nhiều tai hoạ.
Tý gọ toàn ở tử mộ chạy đến nơi khác làm khách.
Tý ngọ rất ghét tỵ hợi, mão dậu chắc chắn kỵ dần thân.

Mồ mã bị sát, cửa nhà thường bị phá.
Trụ giờ lạc thiên trung (không vong) con ít, hợp gặp can đầu vợ nhiều.
Trong trụ năm vô khí, tuổi thơ tan mất nền tàng nguồn gốc.
Trong trụ tháng gặp không vong, cửa nhà tiêu điều không được thiế lập.
Ngày đến chỗ tuyệt, cho dù vợ không bệnh tật cũng thường chia cách.
Trụ giờ ở trong mộ, đời kế tiếp có lúc cũng không thuận hoà.

Hợp đất tươi tốt thì quý, được thiên thời thì vẻ vang.
Ngũ hành không có khí lực thì nghèo, tứ trụ bị thương tổn thì hèn.
Âm dương thuần nhất thì cô độc, can chi hình hại thì bệnh tật.
Dụng thần hưu tù thì khó tìm kiếm giàu sang.
Tú khí thiển bạc (nông cạn và mỏng manh), phần lớn là nghệ thuật.
Hình khắc gặp nhau, bản thân vượng nhất định binh sĩ.
Thìn tuất thêm vào nhau, có tổn hại đoán là cai ngục.

Kim thuỷ nhàn rỗi và chậm chạp, là người khốn đốn nghèo khổ.
Dịch mã xung kích, là khách hồng trần bôn tẩu.
Khôi cương phạm nhiều lần, sanh ở nhà đồ tể.
Dậu tuất gặp nhiều, bản thân làm nô bộc thấp kém.

Trong trụ tý ngọ song bao, địa vị tôn quý ở tỉnh thành.
Trong mệnh can chi cùng một khí, quý đến vương hầu.

Một chiều thuần dương chỉ khắc mệnh, không chết cũng tổn thương.
Đầy bàn ấn thụ đều sanh thân, không sang cũng giàu.

Năm tháng đều thương tổn, cha mẹ vợ con khó trở thành.
Năm giờ đều thương tổn, ước lượng con thừa kế không nhận lấy trách nhiệm.

Năm xung ngày thì cha mẹ thịnh vượng, vợ và vợ bé khó giữ lại.
Giờ xung năm thì con cái thịnh vượng, cha mẹ dễ tổn hại.

Mệnh bị phá, còn trẻ đã mất song thân.
Tháng bị phá, bậc tôn trưởng khắc con em.
Ngày bị phá, một thân không nơi nương tựa.
Giờ bị phá, già không có kết quả.
Thai bị phá, chỉ họ mẹ chịu trách nhiệm.
Đây là tóm tắt sơ lược, mà còn chưa đủ chi tiết.

Nêu ra trước tiên là quan quý, khác hẵn ngạch trật.
Giáp tuất canh dẫn đến sửu mùi, quý thần có khí lực.
Ất bính đinh hiện ra ở dậu hợi, thiên ất gặp phải.
Kỷ gặp chỗ khảm ất đến nơi khôn. Sau tân thích ở dần ngọ.
Nhâm quý nên ở tỵ mão, đây là trong ám gặp được quý nhân.
Phải xem thêm quan ấn cường nhược.

Giáp gặp vị trí dậu, ất tới nơi thân.
Bính được cung tý sẽ vẻ vang, đinh thêm lên trên hợi vinh xương.
Mậu gặp mão nên có khả năng xinh đẹp, kỷ tới cấn nên tiếng truyền lan ra.
Canh đếncung ly đắc khí, tân đến chỗ tốn bình an vô sự.
Nhâm đến trên ngọ là ký tế, quý hướng về tỵ trong có tài quan.
Đây là chánh quan, chánh ấn, xem thêm lộc mã triều nguyên.

Nếu không có hình xung, khắc phá, nhất định là thần tiên to lớn.
Kế đền luận bàn tài phú (của cải), là nguồn nuôi dưỡng mạng sống.

Trước tiên xem tài và mệnh có khí lực, kế đến xem xét lộc mã không thiếu thốn.
Mộc đến bốn mùa, hướng về lộc tự nhiên sung mãn.
Thuỷ đến chỗ ngọ, tài vượng nhất định dồi dào.
Thổ gặp nhuận hạ, kim gặp khúc trực, hoả gặp kim cục.
Tam hợp gặp lộc khố, thực thần, ngũ hành gặp thiên trù tài khí.

Tứ trụ không có thương tổn, ngày giờ đắc địa.
Bản thân vượng có khí lực, gặp tài hoá làm thành quan tinh.
Bản thân suy lạc thời, tài nhiều trở thành người nghèo.
Nếu ở đất sát, thường là bọn hung ác.

Người có công lại (quan bậc thấp), quân nhung (quân đội), thương cổ (nhà buôn), nghệ thuật, bốn thứ không giống nhau, mỗi thứ có địa vị riêng.
Mệnh của công lại thường có khắc hình. Đông tây đánh nhau, nam bắc xung kích.
Chỗ trường sanh bị phá, chỗ tử tuyệt bắt đầu sanh.Ngũ hành tạp loạn chằng chịt hình tượng không thuần nhất.
Đảo thực gặp tài, kề bên quý nhân gặp phá. Tài ấn hình nhau, dẫn đến dụng thần không có khí lực.
Trong xinh đẹp có mang theo quỷ, quý khí bị tổn thương. Can chi hội tụ, đề võng (nâng lưới lên) huyền châm (treo kim).
Mệnh của các loại này, không xa rời công môn. Cho đến kèm thêm quan lộc có thể thu được phúc.
Gặp quý thần nên có thể tiến bộ, thì lại là người ra làm quan sẽ thành đạt.

Mệnh của binh sĩ với quan lại phần lớn tương đồng.
Trong cục sát nhiều, can chi không bằng nhau.
Trong tượng quý nhẹ, nên chủ bốn bị phá bị thương tổn.
Giáp gặp chi mão, bính tới đất của ba đinh.
Tân hướng về đất hợi, nhâm ở nơi của nhị quý.
Ất đinh gặp rắn, mậu thổ ngựa chạy nhanh.
Đây chính là huyền châm dương nhận, thêm phạm khắc phá hình xung.
Lại có mang theo phúc khí, trong hung có tốt.
Huyền châm gặp cát sát hỗ trợ, dương nhận có quý thần giúp đỡ nhau.
Bởi vì đi theo hàng ngũ nên có quyền lộc, từ binh sĩ trở thành lãnh đạo quân đội.
Tuy nhiên vì sát là quan trọng, sẽ là những người không thể xằng bậy vậy.

Lại xem thương cổ mệnh họ có gì?
Ngày giờ cùng đến tý ngọ, tam nguyên đều gặp dần thân.
Trước mặt mã không có dây cương, trên kiếp gặp tài.
Hoặc thiên tài thân vượng, lại đi vận tài.
Hoặc lục hợp gặp tài, thêm ngồi nơi mã.
Người nhâm đi vận phương nam, người bính vận phương bắc, là người kinh doanh buôn bán.
Người giáp đi phương tây, người canh đi phương đông, những người có hay không có buôn bán di chuyển khắp nơi.
Giáp ất ở khảm phạm nhâm quý, không tránh khỏi như bình ngạnh (bèo và cây có gai) nơi đất lạ.
Huyền vũ gặp hợi không có mậu kỷ, tin chắc người tài giỏi cách hẳn ngoại thổ.
Cho đến việc được lợi hay không được lợi, thì tập trung bàn luận tài vượng với không vượng mà quyết định vậy.

Lại xem nghệ thuật, chẳng phải là thương cổ.
Mệnh gặp đức tú mà phạm hình xung, tiểu đạo có thể quan sát.
Giờ gặp học dường hiện không vong, nhiều tài năng nhưng hèn mọn.
Ất canh hoá kim ở khảm cấn, đinh nhâm hoá mộc ở đoài càn.
Tân bính đến ở tứ quý, mậu quý ở một cung.
Đây chính là tú mà không tú, hoá mà không thành công.
Cách cục bị phá tổn, lộc mã không đủ.
Người ban đầu có bản tính thong minh, phần nhiều do sanh gặp học đường.
Cho đến thành tựu hay không màng danh lợi, chính là mệnh không có gốc rễ.

(Vô căn bổn (không có gốc rễ), tương tự như người thuỷ không có kim, người hoả không có mộc)
Nếu tứ trụ không qua lại với nhau, thêm ngũ hành lại không có khí tượng.
Thiên ất nhàn mạn, hoa cái liên tục gặp.
Không coi là người phiêu bồng tìm kiếm nơi hẻo lánh, sẽ là người cửu lưu nghệ nghiệp (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家).
(Thiên ất nhàn mạn, như giáp mậu canh, nửa năm đầu lấy mùi làm quý nhân không nhàn rỗi. Nửa năm sau lấy sửu làm quý nhân không nhàn rỗi, cùng với sáu nhâm xem ngược lại).

Lại xem tăng đạo, chẳng phải là nghệ thuật.
Ngũ hành ở nơi không có khí lực, mười thiên can đến dất tử mộ.
Năm tháng đều gặp cô quả, ngày giờ toàn gặp nguyên thần.
Thêm phạm không vong, nhiều lần gặp phải hoa cái. Vợ con suy tuyệt, bản thân vượng không có chỗ dựa.
Hoả thịnh nên thân tâm thiền định, thuỷ nhiều nên tự tại ngao du.
Nếu mệnh hợp quý cách mà tử tuyệt, tâm an vui trong sáng.
Mệnh không có quý khí mà sanh vượng, bản tính ưa thích cửa không.

Ngũ hành ở tháng đạm bạc, đạo hạnh cao khiết, giáo môn càng quan trọng.
Ngũ hành ở giờ an tĩnh, hạnh quả bổ trợ nhau, nên số tín đồ nhiều.
Ở tháng có phúc thần trợ giúp, thì pháp quyến tốt lành hoà hợp, nên đồng ý khen ngợi.
Ở ngày có hình xung mang theo sát, ắt đi hoá duyên mà không có duyên phận, nên hành cước (nhà tu đi các nơi tìm thầy học đạo) phiêu lưu.
Thấy sát ấn, thì nắm quyền mà chinh phục quần chúng; gặp tang môn điếu khách thì khổ hạnh tnương tổn bản thân.

Hoa cái, kề bên quý cùng với tam kỳ, tuy nói là cát sát.
Tự tử, tự tuyệt, tự sanh vượng thì không có sự giúp đỡ tốt lành nào.
Nếu sanh vượng thái quá, mà gồm cả can quỷ, thì lòng không quên danh lợi.
Gặp khắc hại quá mức, mà gặp thêm hung sát, thì không tránh khỏi chuẩn tắc đời thường.
Hàm trì là sao của tửu sắc, phạm phải thì đam mê không có kiểm soát.
Dương nhận chính là vật hung ác, gặp phải thì tài lợi là ý muốn.
Tuế vận gặp tang điếu phục phản, ở người thường thì hung, mà tăng đạo thì tốt.
Mệnh gặp cô quả vong kiếp, ở người thường thì có tổn hại, còn tăng đạo thì không có hại gì.

Bài ca xưa hát rằng:
Hai loại cha mẹ gặp sao cô độc, bốn mùa trên trời lộc cũng không có.
Thìn tuất sửu mùi càng hiển lộ, phần nhiều là đạo sĩ cùng với tăng đồ.
Lại nói rằng:
Người sanh tam hợp giờ thìn tuất, nhất định là tăng đạo không cần nghi ngờ.
Nếu trở lại hoa cái cùng nhau đến mộ. Bao túi to lớn nhất định áo tím.
Thường bàn luận tăng đạo, lại thích hợp vì là bản chất sự vật.

(hựu hữu tiên bần hậu phú, tại phú hậu bần, nhị giả cách biệt, toàn khán nguyệt nhật).
Lại có trường hợp trước nghèo sau giàu, đang giàu sau nghèo, hai cách khác biệt nhau, đều là xem tháng và ngày.
Ngày giờ sanh vượng thì phúc tụ lại, cuối đời vinh hoa.
Lệnh tháng có khí lực tích trữ tài, những năm đầu đời phú quý.
Nếu lệnh tháng tốt mà dẫn đến dụng thần yếu nhược, trước giàu sau nghèo.
Ngày cường vượng mà căn gốc không có lợi, trước nghèo sau giàu.
Sanh ra được ân đức che chở, năm tháng ở nời tài dồi dào.
Cuối đời chủ nghèo đói, ngày giờ phạm đất không vong và phá.
Năm tháng gặp tài không có khí lực, tuổi thơ khốn bách.
Ngày giờgap85 thực thần có khí lực, tuổi già vui thích.

tứ trụ suy vi, bình sanh bất toại。 bối lộc trục mã, nhất thế thê hoàng
(Tứ trụ suy yếu, cả đời không vừa lòng. Vác lộc đuổi theo mã, một đời lo lắng không yên).
Nếu can đầu lộ tài, trong địa chi không tàng chứa, vì địa chi đầy thương kiếp.
Lộc mã không thiết thực. Bản thân vượng và ấn trợ, một đời phá bại không giữ được tài.
Bản thân yếu nhược mà tài nhiều, bên ngoài giống như có dư mà bên trong không đủ.
Hoặc tứ trụ vốn không có tài quan, gặp tuế vận hợp bỗng nhiên trở nên thịnh vượng.
Giống như mệnh này có danh mà không thật.

hựu hữu phao hương khứ tỉnh。 quan thổ li gia.
(Lại có trường hợp bó quê bỏ làng. Rời nhà đóng xóm làng).
Chính là năm khắc tháng chế phục nhau, ngày xung giờ ở tý ngọ.
Bốn sát nếu xung thân mệnh, nhất đính ứng vào lang bang đến nơi khác.
Ba hạn lần nửa dụng thần tử tuyệt, không tránh khỏi trôi nổi ở bên ngoài.

Trùng trùng quỷ hại, luy luy hình không.
(Khắp nơi quỷ hại, chồng chất hình không vong).
Vận kém thời gian trái ngược, xa cách xóm làng mà lặn lội trên đường.
Mệnh khập khiễng ngày suy yếu, từ bỏ họ hàng mà qua lại con đường lầm lạc.

Tái luận huynh đệ. Dĩ cập thê tử.
(Lại bàn về anh em. Cùng với vợ con).
Người mộc mùa xuân giáng xuống dần hợi mão, anh em sẽ nhiều. Nếu sanh ở tây nam sẽ ít.
Người mệnh sanh mùa thu đến tỵ thân dậu, anh em đầy nhà. Nếu đi đất hương dông, không nơi nương dựa.
Thuỷ ở chỗ nhuận hạ gặp càn khảm, cùng khí nên thường vẻ vang, qua lại thìn tuất không bị ràng buộc.
Hoả hướng về viêm thượng chỗ ly tốn, địa chi nối liền cùng đẹp. Đến chỗ dậu hợi thì điêu linh.
Thổ đến tứ quý (bốn tháng cuối mùa), chú bác thành hàng (tức là nhiều).

Nếu bàn về hiệu quả hay không hiệu quả, tam nguyên không bị không vong, tứ trụ không phạm cô quả.
Thanh long coi là con trai, ly hôn vì thê có bạch hỗ.
Hoả đức trở thành đàn ông, chớ cưới hợi tý làm vợ.
Thuỷ sanh con nối dõi, mẹ kỵ thổ.
Năm hợp giờ ngày phạm mậu quý, nhất định chủ có ba đời vợ.
Giáp gặp hai kỷ đến tỵ ngọ, không cấm cản hai vợ.
Canh với ất hợp sanh mão ngọ, nhất định có thiên phòng (ý là có vợ bé ở nhà riêng).
Nhâm gặp nhiều đinh ở tỵ dậu, bỏ nhà cưới vợ lần nữa.
Dương cộng với âm mà thịnh thê cả hai cùng tạo dựng; dương cộng với âm mà thê suy cưới vợ lần nữa.

Hựu hữu tử đa vinh quý. Diệc hữu tử thiểu ngu ngoan. Thị lí hà thuyết, yếu đương tường luận.
(Lại có trường hợp con nhiều và thành đạt vẻ vang. Cũng có trường hợp con ít mà ngu ngôc, bướng bỉnh. Lý thuyết này thì thế nào, cần phải thảo luận chi tiết).
Kim ở chỗ ly gặp hoả nóng, con cháu sẽ đầy đàn ở tương lai.
Hoả đến khảm gia đình gặp thuận lợi về sanh đẻ, đời sau thịnh vượng.
Mộc gặp canh tân đến tỵ thân, thổ sanh giáp ất thấy dần mão.
Thuỷ đến tứ quý (thìn tuất sửu mùi), thích gặp mậu kỷ. Giờ ngày sanh gặp không có khắc chế, con cháu thường vẻ vang.
Quan sát gặp lại thấy tài sanh, con nối dõi sẽ quý.
Nếu ngày gặp phải suy mộ tử bại, trai gái đều bị thương tổn.
Trụ giờ phạm không vong có khắc, con cháu sẽ ít.
Mộc là đời sau, kỵ gặp nơi của thân và ngọ.
Hoả nếu là đàn ông, chớ gặp đất dậu hợi.
Kim là chỗ con cái sợ gặp khảm dần.
Thuỷ coi là nam quan kỵ thấy mão tỵ.
Thổ là con cháu đời sau, sợ gặp phải nơi chấn phương đông.

Đàn ông chọn chỗ khắc làm con nối dõi, phụ nữ chọn can sanh làm con trai.
Tứ trụ trở về nơi bại tuyệt, ngũ hành đều ở thương quan.
Tuy có can chi ám hợp, cũng cần con nuôi coi là thừa kế.
Cho dù có thiên xuất (ý chỉ con vợ bé), thất khó xác định họ.

Xưa có trường hợp mượn vợ ổn định con, lý của nó chỉnh huyền (không đáng tin).
Trẻ mộc thấy quỷ, được phương bắc khảm con gái thường tồn tại.
Con thuỷ gặp sát, nhờ phương tây đoài vợ có thể nuôi dưỡng.
Thuỷ chế phục hoả con trai, mượn thanh long làm vú nuôi.
Mộc tổn hại con thổ, tìm chu tước làm mẹ kế.

Ngũ hành hữu tổn, tu tá tương sanh.
Tứ trụ tuy khắc, diệc đa vô hại.
(Ngũ hành có tổn hại, phải nương tựa để sanh nhau.
Tứ trụ tuy khắc cũng thường không có hại gì).
Nếu không yêu quý mẹ để ổn định con. Làm sao có thể không thiếu người thừa kế?

Chí luận nữ mệnh, tối phạ hình phu.
(Cho đến bàn luận mệnh phụ nữ, rất sợ hình chồng).
Ngày sanh là rắn mộc , khó mong mỏi thành hôn phối
Kỷ dụng gà kim, nhất định là vợ mất chồng (ý là goá phụ).
Thổ làm chồng, dần mão thường goá chồng.
Mộc coi là ngày làm lễ cưới, cung ly nên có hại.

Nhiều lần phạm cô loan càng nghiêm trọng, thêm gặp bát chuyên thì nói gì đây.
Cho đến là phụ nữ thanh khiết, sanh mà không phạm hợp quý.
Nếu cần giữ bản tính vững vàng không đổi, lớn lên mà không gặp sát thương tổn.
Đinh nhâm vô khí, sẽ phạm xướng dâm (kỹ nữ).
Mậu quý hưu tù, thường là trọc lạm (đục tuỳ tiện).

Tứ trụ lộc hợp, tam nguyên thuần nhất. Nhật thì hữu hợp, hữu phu bất li tư tình.
Đào hoa kiếp sát, ngũ hành cư mộ. Tài lộc mộc dục, bối phu biệt thành ám ước.
(Tứ trụ hợp lộc, tam nguyên thuần nhất. Ngày giờ có hợp, có chồng mà không xa rời chuyện tình cảm.
Đào hoa kiếp sát, ngũ hành ở chỗ mộ. Tài lộc mộc dục, giấu chồng mà bí mật hẹn hò).
Âm gặp can dương hợp nhiều, không là ca kỹ tức là gái điếm.
Tỷ kiếp chia cắt tranh giành mà bản thân nhược, chẳng phải vợ bé tức là nô tỳ (đứa ở gái).

Đến như trường hợp ngũ hành mất vị trí, tứ trụ hưu tù.
Mười thiên can trên dưới giao chiến, đi vận không có khí lực hay không vong.
Tam nguyên ở trong mộc dục, ngũ hành ở đất tử mộ.
Sống làm nô tỳ (đứa ở gái), lấy ai để oán hận?
Trong có mệnh phạm đảo thực mà không có thực thần, có thể làm thành phúc cho người khác.

Thiên tài gặp tỷ mà thân vượng, cam chịu làm nô bộc cho nhà giàu.
Đàn ông bỏ chỗ ở đi ở rễ họ khác.
Kim ở chổ kim gặp mão dần, mộc đến nơi mộc gặp sửu mùi.
Ngày giờ phạm nguyệt quỷ pha nhà, bính dần bỏ tổ tông nhập mộ.
Khôi cương gặp mệnh thấy hoa cái, một đời theo vợ mà sống.
Sửu mùi trùng phạm gặp quả tú, nửa đời theo vợ vào nhà.

Tứ trụ qua lại hữu tình, nắm tay thành hôn.
Tam nguyên trùng phạm âm hợp, không môi giới mà làm vợ.
Dương suy âm vượng, phụ nữ chọn con trai khác họ làm đàn ông.

Mệnh phối thành hôn, hưu bại khắc chậm trễ; sau xem tương sanh, thường kén rễ không chính thức.
Địa chi nhiều khắc trì trệ, chắc chắn biết bạn gian nan hiểm trở.
Dưới trên không có sanh, một nhà làm sao có thể giữ vững?

Thân như hiển hoá vốn là không có khí lực, hoàn toàn mất họ gốc.
Nếu đúng là giả hợp thành tượng khác, trẻ mồ côi khác họ.
Cả đời khốn bách, làm sao có thể được tài sản của tổ tiên?
Nếu gặp hưng thịnh phong phú, do dựa vào cha mẹ phòng khác.

Đây chỉ bàn luận đại khái, vẫn chưa được tinh thâm vi diệu. Lý của mệnh rất ảo diệu, hiểu ra là do ở kinh nghiệm.
Nếu chồng tật bệnh tử tuyệt, nghèo hèn hung ác, tuế vận mơ hồ, mỗi thứ đều có lý do.

Đã ghi chép trước đây, bây giờ không liệt kê lại.

Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



金鼎神秘赋

(万育吾着)

人生有命,得失顿殊。

富贵贫贱,那能一体。

红光满室,五行都聚於贵乡。

佳气充庐,四柱并集於福地。

先贫後富,生时值禄马同乡。

始吉终凶,日时犯空破之处。

平生坎坷,基薄与凶运交杂。

一世荣华,命高逢好运叠至。

刚金遇火方成器,决定超群。

旺火得水为既济,必然出众。

木须金而不繁,水赖土而不散。

戊己见寅卯,得位於勾陈。

壬癸坐巳午,当权於元武。

贵神入命遇奇仪,必是公卿。

华盖临时值孤寡,定为僧道。

玉堂拜相,炎炎火秀在离宫。

金阙朝元,洋洋水德宅坎位。

重逢水位,断为云水之仙。

累犯纯阳,定作空门之子。

遇长生而聪明智慧。

逢死败而蒙蠢愚顽。

父母难靠,年月俱陷空亡。

妻子易亏,日时并临孤寡。

卯酉生逢克战,败门户而多灾。

子午全居死墓,走他乡而为客。

子午最嫌巳亥,卯酉切忌寅申。

宅墓受煞,门户多破。

时落天中子少,合逢干头妻多。

年中无气,幼而散失元基。

月内逢空,门户消索不立。

日临绝位,纵妻无恙亦多离。

时在墓中,後嗣有时也不顺。

合地秀者贵,得天时者荣。

五行无气者贫,四柱有伤者贱。

阴阳纯一者孤,支干刑害者疾。

用神休囚者,难求富贵。

秀气浅薄者,多是艺术。

刑克互见,身旺定作军徒。

辰戌相加,有损断为狱吏。

金水闲慢,落魄清贫之人。

驿马冲击,驰驱红尘之客。

魁罡重犯,生於屠宰之家。

酉戌重逢,身作奴仆之下。

柱中子午双包,尊居垣省。

命内干支一气,贵至王侯。

一片纯阳独克命,不死也伤。

满盘印绶俱生身,不贵即富。

年月并伤,父母妻妾难为。

年时并伤,估恃继嗣不保。

年冲日兮父母旺,妻妾难存。

时冲年兮儿女旺,父母易损。

破命者,少失双亲。

破月者,长克昆季。

破日者,一身独立。

破时者,老无结果。

破胎者,母氏独当。

此则论其大略,尚未及乎精细。

先提官贵,迥异常流。

甲戌庚引至丑未,贵神有气。

乙丙丁出於酉亥,天乙加临。

己逢坎位乙到坤方。六辛喜於寅午。

壬癸宜於巳卯,此为暗中得贵。

更看官印弱强。

甲逢酉位,乙到申方。

丙得子宫必显,丁加亥上荣昌。

戊见卯而能秀,己临艮而声扬。

庚到离宫得气,辛临巽位安然。

壬投午上既济,癸向巳内财官。

此为正官、正印,更看禄马朝元。

若无刑冲、克破,必作鼎鼐神仙。

次论财富,养命之源。

先看财命有气,次观禄马不贫。

木临四季,向禄自然充裕。

水到午上,财旺必定丰隆。

土逢润下,金遇曲直,火遭金局。

三合逢禄库、食神,五行值天厨财气。

四柱无伤,日时得地。

身旺有气,逢财化作官星。

身衰失时,财多翻为贫汉。

若居煞地,多是凶徒。

人有公吏、军戎、商贾、艺术,四者不同,各有所居。

公吏之命,多带克刑。东西战斗,南北冲击。

长生处破了,死绝处生起。五行错杂,象不纯一。

倒食逢财,夹贵逢破。财印相刑,引用无气。

秀中带鬼,贵气损伤。干支重会,提网悬针。

此等之命,不离公门。至若带官禄而可获福。

遇贵神而可进步,则又有出仕显达者也。

兵卒之命,与吏大同。

局中煞重,而干支不等。

象内贵轻,而主本破伤。

甲见卯支,丙临三丁之地。

辛向亥地,壬居二癸之乡。

乙丁逢蛇,戊土奔马。

此乃悬针羊刃,更犯克破刑冲。

又带福气,凶中有吉。

悬针遇吉煞相扶,羊刃有贵神相助。

由是从行伍而有权禄,自兵卒而任总戎。

然以煞为重,则不可诬焉者也。

再看商贾,其命何凭?

日时并临子午,三元都值寅申。

马前无辔,劫上逢财。

或偏财身旺,复行财运。

或六合会财,更坐马乡。

壬人运南,丙人运北,经营买卖之人。

甲人行西,庚人行东,贸迁有无之辈。

甲乙居坎犯壬癸,未免萍梗他乡。

元武遇亥无戊己,谅必龙断外土。

至於得利不得利,则专论财之旺与不旺,而决之也。

再看艺术,又非商贾。

命遇德秀犯刑冲,小道可观。

时逢学堂见空亡,多能可鄙。

乙庚化金於坎艮,丁壬化木於兑乾。

辛丙临乎四季,戊癸居乎一宫。

此乃秀而不秀,化而不成。

格局破损,禄马不全。

原夫秉赋聪明,多因生遇学堂。

至於成就淡薄,乃是命无根本

(无根本,如水人无金,火人无木之类)。

若四柱不相往来,更五行再无气象。

天乙闲漫,华盖叠逢。

不作飘蓬寻幽之士,必为九流艺业之人。

(天乙闲慢,如甲戊庚,上半年以未为贵人不闲。下半年以丑为贵人不闲,与六壬反看)。

再看僧道,又非艺术。

五行在无气之乡,十干临死墓之地。

年月尽逢孤寡,日时全见元辰。

累犯空亡,重临华盖。妻子衰绝,身旺无依。

火盛而身心禅定,水多而自在逍遥。

若命合贵格而死绝,心乐清虚。

命无贵气而生旺,性好空门。

月上五行恬和,道行高洁,而教门增重。

时上五行安静,行果相辅,而徒众数多。

月上福神得助,则善和法眷,而同衣赞美。

日上刑冲带煞,则求化无缘,而行脚飘流。

见煞印,则当权服众,遇丧吊,则苦行伤身。

华盖、夹贵与三奇,虽云吉煞。

自死、自绝、自生旺,则无吉助。

若生旺太过,而兼带干鬼,则名利之心不忘。

值克害太甚,而更遇凶煞,则凡俗之礼不免。

咸池为酒色之星,犯之则耽迷不检。

羊刃乃凶恶之物,遇之则财利是图。

岁运见丧吊伏返,在俗人则凶,而僧道则吉。

元命遇孤寡亡劫,在常人有妨,而僧道无害。古歌云:

两般父母见星孤,四季天上禄也无。

辰戌丑未加临着,多是道士及增徒。又云:

三合生人辰戌时,定为僧道不须疑。

若还华盖并临墓。囊囊丰隆定紫衣。

凡论僧道,又当以是质之。

又有先贫後富,在富後贫,二者隔别,全看月日。

日时生旺聚福兮,晚景荣华。

月令有气储财兮,早年富贵。

若月吉而引用多轻,先富後贫。

日强而本根不利,先贫後富。

生来受荫,年月在财富之乡。

末主孤寒,日时犯空破之地。

年月逢财无气,幼年窘迫。

日时遇食有气,老景欢欣。

四柱衰微,平生不遂。背禄逐马,一世凄惶。

若夫干头财露,支内不藏,伤劫实地。

禄马虚浮。身旺印助,一生破败不聚财。

身弱财多,外似有余内不足。

或四柱原无财官,遇岁运忽合发迹。

似此之命,有名无实。

又有抛乡去井。关土离家。

乃年克月兮相制伏,日冲时兮在子午。

四煞若冲身命,定应游走他乡。

三限再用死绝,未免飘泊外处。

重重鬼害,累累刑空。

运拙时乖兮,别闾里而跋涉程途。

命蹇日衰兮,辞亲戚而往来歧路。

再论兄弟。以及妻子。

木人春降到寅亥卯,昆仲必多。若生西南,必少。

金命秋生临巳申酉,兄弟盈门。若逢东地,不靠。

水居润下遇乾坎,同气多荣,往来辰戌潇洒。

火向炎上居离巽,连枝共美。到於酉亥雕零。

土临四季,伯叔成行。

若论得力不得力,三元不落空亡,四柱不犯孤寡。

青龙作子,休婚白虎之妻。

火德成男,莫娶亥子为妇。

水生子嗣,母忌中央。

年合时日犯戊癸,决主三妻。

甲逢二己到巳午,不止两妇。

丙逢重辛居酉子,多招宠妾。

庚与乙合生卯午,定有偏房。

壬逢重丁在巳酉,重婚别室。

阳合阴盛妻双立,阳合阴衰妻再娶。

又有子多荣贵。亦有子少愚顽。是理何说,要当详论。

金居离位逢炎火,儿孙满前。

火临坎户遇顺下,後代克昌。

木逢庚辛到巳申,土生甲乙见寅卯。

水临四季,喜见戊己。时日生逢无克制,子孙多荣。

官煞重逢见财生,嗣继必贵。

若夫日临衰墓死败,男女须伤。

时犯空亡有克。儿孙必少。

木为後代,忌逢申午之方。

火若为男,休逢酉亥之地。

金为子位,怕见坎寅。

水作男官,忌见卯巳。

土为後嗣,怕临震东。

男取克於为嗣,女取干生为子。

四柱归於败绝,五行都在伤官。

虽有干支暗合,也须螟蛉作嗣。

纵有偏出,实难定姓。

古有借妻安子,其理整玄。

木儿见鬼,得北方坎女多存。

水子遇煞,赖西方兑妻可养。

水制火男,借青龙为乳母。

木损土儿,觅朱雀为继娘。

五行有损,须借相生。

四柱虽克,亦多无害。

若不惜母安子。岂能後嗣不乏?

至论女命,最怕刑夫。

日生木蛇,难成婚配之期。

己用金鸡,定是失夫之妇。

土为夫婿,寅卯多寡。

木作婚期,离宫须害。

再犯孤鸾尤甚,更遇八专何说。

至於为妇清洁,生而不犯贵合。

若要秉性坚贞,长而不逢煞伤。

丁壬无气,必犯娼淫。

戊癸休囚,多有浊滥。

四柱禄合,三元纯一。日时有合,有夫不离私情。

桃花劫煞,五行居墓。财禄沐浴,背夫别成暗约。

阴遇阳干合多,不娼即妓。

比劫分争身弱,非妾即奴。

至有五行失位,四柱休囚。

十干上下交战,运行无气空亡。

三元在沐浴之中,五行居死墓之地。

生为奴婢,将谁怨尤?

间有命犯倒食而无食,能与别人作福。

偏财遇比而身旺,甘为富家干仆。

男子舍居,异姓入赘。

金居金位遇卯寅,木到木乡逢丑未。

日时犯月鬼破门,丙寅别祖宗入墓。

魁罡临命见华盖,一生就妻为活。

丑未重犯遇寡宿,半世从妇入舍。

四柱往来有情,携手为婚。

三元重犯阴合,不媒作室。

阳衰阴旺,女招别姓子为男。

命配成婚,休败克滞;後看相生,多招外婿。

支多克滞,定应知汝波涛

下上无生,一户岂能坚守?

身如显化自无气,本姓全亏。

若是假合别成象,孤儿异姓。

平生窘迫,岂能得祖宗之财?

若得兴丰,因托别房父母。

此只论其大概,尚未得其精微。命之理微,悟在心得。

若夫疾病死绝,贫贱凶恶,岁运晦显,各有道理。

已着以前,兹不重赋。




.

Thanked by 1 Member:

#401 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 13/12/2024 - 14:24

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhị

lạc dịch phú (絡驛 lạc dịch: qua lại không ngớt, liền nối không dứt)

Nghiên cứu tạo hoá không có bí mật, đo lướng diệu ly của ngũ hành.
Đoán được mất của mệnh người, quyết định một đời hưng thịnh hay thất bại.
Phương pháp sẽ chọn lấy can ngày, hưng thịnh hay suy thoái luận ở địa chi tháng.

Giáp ất thuộc mộc, rất thích sanh ớ mùa xuân.
Nhâm quý thuộc thuỷ, rất thích hợp mùa đông vượng.
Bính đinh hoả nên mùa hạ sáng tỏ, canh tân kim nên mùa thu sắc bén.
Mậu kỷ hai can thổ, muốn vượng ở thời gian tứ quý (bốn tháng cuối mùa tức là thìn tuất sửu mùi).

Ngày chính là tự bản thân, phải nghiên cứu mạnh yếu.
Năm là gốc làm chủ, nên suy xét tỉ mỉ.
Can năm là cha và địa chi là mẹ; can ngày là mình và địa chi là vợ.
Can tháng là anh và địa chi là em; địa chi giờ là con gái và thiên can là con trai.

Sát ở đằng sau khắc trụ năm, cha mẹ mất sớm. Sát ở đằng trước khắc ở phía sau, con cái sẽ ít.
Mã vào thê cung, sẽ lấy được vợ tài giỏi.
Sát ở chỗ tử (trụ giờ), nên dẫn tới con trai nổi loạn.
Lộc vào cung thê, ăn lộc của vợ.
Ấn đến chỗ tử (trụ giờ), nhân được vẻ vang của con.
Kiêu thần ở tổ vị (trụ năm), phá hoại nền tảng của tổ tiên.

Tài quan ở trụ tháng vượng, đuọc tài sản của cha.
Kỵ tài thương tổn lộc mỏng manh, rất ghét quỷ vượng mà bản thân suy.
Thực thần hiện ra qua loa, người vật to béo.
Kiêu ấn trùng sanh, tài sản của tổ tiên bị tiêu tan.

Hàm trì tài lộ ra chủ quá xa xỉ.
Hung sát hợp năm đề phòng tự nhận.
Đào hoa nhiếu mang theo hợp thần, hoa nhai (gái đẹp trên phố) liễu hạng (gái ở trong ngõ hẻm).
Dịch mã nếu gặp vật xung, buổi chiều ở Sở buổi sớm ở Tần.

Kim hoả giao tranh, đoán là không có lễ nghĩa.
Cả hai ấn tài đều mất, tuổi trẻ mất cha mẹ.
Đào hoa gặp lộc vì tửu sắc mà mất mạng.
Tài vượng kiêu thần suy, do tài mà mất mạng.

Thân gặp năm mộc dục, e gặp tai nạn về nước.
Chủ vào đất chiến đấu, sẽ gặp thương tổn bởi lửa.

Tài sanh quan dùng hối lộ để cầu quan.
Tài hoại ấn, nắm giữ chức vụ tham lam tiền bạc.
Tài vượng sanh quan, tự bản thân vẻ vang rạng rỡ.
Tài sanh sát đảng, chết trẻ ở tuổi đồng niên (chưa tới tuổi thành niên).

Chỉ sát xung phá phế bỏ người nhàn rỗi, các sát gặp đủ là lũ hung ác.
Thiên can nhiều sát, gặp can năm nên chết trẻ.
Địa chi nhiều quỷ, gặp chi năm sẽ gặp tai hoạ xấu.
Tài sanh quan, quan sanh ấn, ấn sanh thân, cả hai phú quý có đủ.
Thương quan hùa theo tài, tài hùa theo sát, sát khắc thân hung xấu và nghèo túng cùng bức bách.

Dậu dần hình hại, người kế thừa bị thương tổn trong hôn nhân.
Tỵ mão gió và sấm, phần lớn bản tính nóng nảy.

Sát quan gặp lộn xộn, chính là người thuộc trường phái kỹ nghệ.
Tài lộc ngồi ở mã, là người làm nghề buôn bán.

Mã bị không vong, dời đổi chỗ ở, trôi giạt.
Lộc gặp xung phá, xa quê bình (bèo) ngạnh (cây có gai).

Âm nhiều lợi cho phụ nữ, dương thịnh hợp cho đàn ông.
Âm thịnh hơn dương, phụ nữ phụ trách xây dựng gia đình.
Dương thịnh hơn âm, đàn ông nên xây dựng nhà cửa.
Thuần dương đàn ông sẽ cô quả, thuần âm phụ nữ sẽ khốn khổ bần cùng.

Năm sanh là quan quý, hoá hung sát nên danh tiếng truyền lại ngàn sau.
Bào thai gặp phải ngày, gặp ấn thụ nên hưởng bỗng lộc thiên chung (ý nói bổng lộc hậu).

Cùng một khí là gốc, biểu hiện ưu tú trong những người tài năng.
Hai thiên can không lẫn lộn, danh tiếng tổ tiên của người tài đức xuất chúng.

Mộc tươi tốt hoả sáng tỏ, bắt chước làm muối mận tài cán to lớn của khách.
Thuỷ sâu thổ dầy, nên làm mái chèo thuyền to lớn xuyên tài (当为舟楫巨川才: đương vi chu tiếp cự xuyên tài).

Mệnh nguyên sanh sát gặp thân vượng, sẽ chủ thêm quyền lực.
Tuế lâm quan gặp quý nhân, quan trọng thích hợp thăng cấp bậc hay bỗng lộc.

Thương quan rất cần vứt bỏ quan toàn bộ, chế sát không bằng hoá sát mới cao.

Nếu như hoá thần yếu, mà chế thần mạnh, oán giận bì ban ơn không đủ.
Hoá thần mạnh, chế thần suy yếu, gặp việc không có khả năng quyết đoán.

Có sát mà không có ấn thiếu văn chương, có ấn mà không có sát thì thiếu dáng vấp oai nghiêm.
Sát ấn cả hai có đủ, văn võ cùng có đủ.

Vận suy bắt đầu nên vận vượng ngưng, vận vượng bắt đầu nên vận suy thì kết thúc.
Đó chính là xuân thu đại tạ (mùa kia lui đi mùa nọ thay đến), vận tự nhiên hồi quyển (trở lại theo trong vòng tròn), cái lý không thay đổi từ ngàn xưa.

Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



络绎赋

参造化之无机,测五行之妙理。
判人命之得失,决一世之荣枯。
法则取於日干,兴衰论乎月支。
甲乙属木,最喜春生。
壬癸属水,偏宜冬旺。
丙丁火而夏明,庚辛金而秋锐。
戊己两干之土,要旺四季之期。
日乃自身,须究强弱。
年为本主,宜细推详。
年干父兮支母,日干己兮支妻。
月干兄兮支弟,时支女兮干儿。
後煞克年,父母早丧。前煞克後;子息必亏。
马入妻宫,必得能家之妇。
煞临子位,当招悖逆之儿。
禄入妻宫,食妻之禄。
印临子位,受子之荣。
枭居祖位,破祖之基。
财官月旺,得父资财。
所忌财伤禄薄,最嫌鬼旺身衰。
食神略见,人物丰肥。
枭印重生,祖财漂荡。
咸池财露主淫奢。
凶煞合年防自刃。
桃花重带合神,花街柳巷。
驿马若逢冲物,暮楚朝秦。
金火交争,断无礼义。
印财两失,少损爷娘。
桃花会禄,酒色亡身。
财旺枭衰,因财丧命。
身临沐浴之年,恐遭水厄。
主入战斗之地,必逢火伤。
财生官者,用贿求官。
财坏印者,贪财神职。
财旺生官,自身荣显。
财生煞党,夭折童年。
独煞冲破废闲人,诸煞逢周凶狠辈。
天干多煞,遇干年须当夭折。
地支多鬼,遇支年必见凶灾。
财生官,官生印,印生身,富贵双全。
伤党财,财党煞,煞克身,凶穷两逼。
酉寅刑害,继伤婚。
巳卯风雷,多性急。
煞官混逢,乃技艺之流。
财禄坐马,为经商之客。
马落空亡,迁居漂泊。
禄遭冲破,离乡萍梗。
阴多利於女人,阳盛宜於男子。
阴盛於阳,女主兴家。
阳盛於阴,男当建府。
纯阳男必孤寡,纯阴女必困穷。
官贵生年,化凶煞而名垂万古。
胞胎临日,遇印绶而禄享千锺。
一气为根,秀出群英之表。
两干不杂,名出众彦之先。
木秀火明,拟作盐梅调鼎客。
水深土厚,当为舟楫巨川才。
命元生煞逢身旺,必主加权。
临官岁遇值贵人,重宜进秩。
伤官最要去官尽,制煞无如化煞高。
倘若化神弱,制神强,施恩有不足之怨。
化神旺,制神衰,临事无决断之能。
有煞无印欠文彩,有印无煞少威风。
煞印两全,文武兼备。
衰运发而旺运止,旺运发而衰运终。
此乃春秋代谢,天运回圈,万古不易之理也。



.

Thanked by 2 Members:

#402 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 14/12/2024 - 01:34

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhị

kim ngọc phú

Sưu tầm bát tự, tập trung luận về tài quan.
Kế đến nghiên cứu ngũ hành, phải nhìn vào khí hậu.

Luận về tài quan quan trọng ở hướng về hay bỏ lại phía sau.
Quan sát nông sâu, sanh tử của khí hậu.

Hành khác đến khắc mình là quan quỷ, bản thân vượng sẽ là quyền lực.
Mình khắc hành khác là thê tài, thiên can cường mạnh sẽ giàu có.

Năm thương tổn nhật chủ, chính là cha với con không thân thiết.
Giờ khắc nhật thần, là con không nghe lời cha.

Năm khắc ngày là trên có thể xâm phạm dưới.
Ngày khắc năm là dưới đang xâm phạm trên.

Nếu gặp được vật chế phục can ngày, thì có thể hoá ác thành tốt lành.
Hơn nữa nếu chủ bổn gặp hỷ thần, sẽ giúp biến xấu ác thành tốt lành.

Hỷ thần vui mừng tụ hợp, nên biết rằng tài sản dồi dào.
Tứ trụ vô tình, nhất định mầm mối tai hoạ cùng nhau đến.

Có thể gặp bổn chủ xung nhau, tam hình trùng điệp.
Tuế vận lăng nhục, sẽ rước lấy việc ngang ngược.

Ngũ hành thuần khiết hợp cách, lầu đài phong cách thanh khiết.
Bản thân cường mạnh thất sát gặp phục, bờ rào của sở quan bảo vệ.

Không có tài quan mà có cách cục, đường công danh thuận lợi.
Không có cách cục mà có tài quan, giáp vàng trở nên nổi tiếng.

Tài quan và cách cục đều tổn hại, không nghèo đói cũng là người lận đận công danh.
Can ngày và lệnh tháng đều cường mạnh, chẳng phải vì nghèo khốn mà là người vui thú ở ấn.

Bính đinh ngồi ở phương nam ly mà không có chế phục, là người hung ác, không tuân theo lễ nghĩa và pháp luật.
Nhâm quý gặp mậu kỷ đáp ứng nhau, chính là người ôm ấp tài đức, thông minh và trí tuệ.

Tân gặp ất mộc ở nam mộ, tuy giàu có mà không nhân từ.
Bính gặp tân kim ở bắc trần, cho dù nghèo nhưng có phẩm hạnh.

Lệnh năm tháng và giờ có thiên ấn, tốt xấu chưa xảy ra.
Đại vận hay tuế quân gặp thọ tinh, tai ương lập tức ập đến.

Tuổi thơ mất sữa, thực thần gặp cung hình khắc.
Tuổi tráng niên (thời kỳ ba mươi đến bốn mươi) xuất chúng vượt trội, tài quan ở chỗ thuần tuý.

Ngày dương thực thần đắc địa không bị xung tổn, nhưng lại ám hợp quan tinh.
Ngày âm thực thần không bị phá hoại phải phù hợp, chính là bản thân gần gũi ấn thụ.

Thiên tài có thể lợi ích cho tuổi thọ được kéo dài.
Dương nhận giỏi tranh đoạt tài hoá quỷ.

Tài tinh bị phá, bỏ tập tục của tổ tiên hẳn là sống ở nơi khác.
Ấn thụ bị thương tổn, mất tổ nghiệp và rời bỏ quê xưa.

Mệnh người lấy quý thần làm phúc lành, gặp khắc hãm thì tai hoạ xấu không tốt lành.
Ngũ hành hội tụ sao xấu là tai hoạ, mừng hợp sát cùng thực thần thành quý.

Mệnh tổn thất sát cường mạnh, cần thiên xá, nhị đức lộ ra điềm lành.
Thân yếu nhược tài dồi dào, mừng có dương nhận và anh em trợ giúp.

Lệnh tháng gặp thực thần cường mạnh, thích ăn uống mà dáng vấp sung mãn.

Tứ trụ được buổi sáng sớm hỗ trợ, tích tụ vàng ngọc.
Ngũ hành không có hung sát xâm phạm, danh tiếng vẻ vang và rực rỡ.

Dần thân tỵ hợi liến tục phạm, thông minh phát sanh ý niệm.
Tý ngọ mão dậu gặp liên tục, đam mê rượu và sắc đẹp, bỏ bê công việc.

Đào hoa mang theo sát, tâm trí ngông cuồng càn rở.
Nhị đức gặp ấn, đức tính hiền từ thiện lương.

Thực thần nhiều, nên ham thích ăn uống.
Chánh quan vượng, nên thơm lây một chút tư vị.

Kiêu thần hưng vượng, chết trẻ ở những năm đầu đời.
Tước tinh vượng, tuổi thọ càng thêm cao.

Cần biết mệnh phụ nữ khó gã, vận vào chỗ bội phu (quay lưng với chồng).
Muốn biết đàn ông sớm cưới vợ, nhất định là vận hợp tài hương.

Con khắc trùng trùng, sát lặn quan suy mà thương quan thực thần nhiều.
Thương tổn vợ liên tục, tài nhẹ thân vượng, anh em lại nhiều.
Nếu không như vậy, nhất định là chỗ thê thiếp bị hình xung.

Ngầm gặp tài tinh, thê thiếp đông.
Ngày trống rỗng chỗ tài, chủ vợ nhiếu (虚朝财位,主妻多: hư triều tài vị, chủ đa thê).

Tài tinh nhập mộ, nhất định hình vợ.
Dưới địa chi ẩn tài, chìu chuộng vợ bé ở phòng kế bên.
Thê tinh sáng rực rỡ, cây cao dẫn đến nhau.

Đại vận hay lưu niên, tam hợp với tài hương, chắc chắn chủ điềm tốt hồng loan.
Hoặc đến tài bại chi quan, tài sản gia đình suy bại, thương tổn thê thiếp, hôn phối khó thành tựu.

Sao của vợ; chỗ của chồng ở cung nào, phải tìm kỹ càng từ đầu đến cuối.
Quan lộc thiên trù ở chỗ của nó, phải quan sát gốc rễ.

Có trường hợp cách cục thuần tuý, bỗng gặp vật xấu xung lẫn nhau, cũng chủ chết.
Có trường hợp tài lộc ít , có thể gặp tuế vận vượng tướng, cũng đột nhiên phát lên.

Ngày tìm lên cao đúng cách, chỗ thực thần vượng kiếp tài nhiều.
Sanh ra nghèo và yểu, tài và thực thần đắc địa mà kiêu ấn nhiều.

Quan yếu sát mạnh, không có chế phục thì chết trẻ.
Ngày suy tài nhiều, hùa theo sát thì nghèo khốn.
Xem thêm tuế vận, cái nào xấu cái nào tốt.

Dần thân tỵ hợi cậy nhờ lẫn nhau, không dời đổi sẽ đến quê người.
Càn khôn cấn tốn gặp trao đổi nhau, thích rong ruổi tâm không có định chủ.

Trong trụ nếu gặp hoa cái, gặp nhị đức chính là người cao quý liêm khiết.
Quan tinh thất sát có thể bị không vong, đảm nhận chức vụ hão và nhàn rỗi ở cửu lưu (chín học phái ở Trung Hoa, từ thời tiên Tần cho tới Hán sơ, gồm Nho gia 儒家, Đạo gia 道家, Âm dương gia 陰陽家, Pháp gia 法家, Danh gia 名家, Mặc gia 墨家, Tung hoành gia 縱橫家, Tạp gia 雜家 và Nông gia 農家).

Ngũ hành khắc chiến, trừ phi thương tổn trụ ngày sẽ không thành tai hoạ.
Tuế vận cùng nhau đến, nếu tổn hại dụng thần sẽ có hoạ.

Tài tinh nhập mộ, tuổi trẻ kỳ vọng hình xung sẽ phát.
Thương quan thương tẫn, nếu gặp quan tinh sẽ hung xấu.
Có mười tám cách, nên thuận theo thiện ác suy tìm.
Nói chung đều liên hệ đến ngũ hành, mỗi thứ chọn lấy đầu mối suy vượng.

Thân vượng sao còn phiền đến ấn thụ, thiên can suy không thích tài quan.
Trung hoà là phúc lành, hùa theo là tai hoạ.

Nhưng gặp quý thần triều củng, lộc mã phi thiên, diêu hợp hư cách.
Không gặp hình xung hay gặp hợp, tất cả đều kỵ thất sát quan tinh, mỗi thứ ghét bị trói buộc, điền thật sẽ hung xấu.
Bỗng nhiên vận đến nơi quan, nên rút lui và tránh chức vụ.

Mã mệt mỏi quan bị phá, khốn khổ giữ gìn cùng đồ.
Lộc vượng tài dồi dào, con dường làm quan cao ngất.

Như đến nơi tốt lành mà gặp hoạ, là tam hợp mà có ẩn sao xấu.
Hoặc gặp nơi xấu mà trái lại thành điềm tốt lành, chính là cửu cung mà lộ ra sao tốt.

Cần biết chức vị và phẩm tước cao thấp, nên tìm vận thần hướng về hay bỏ lại phía sau.
Thanh kỳ liệu sẽ thành danh khi còn trẻ tuổi, khuyết diểm thì cuối đời mới được địa vị.

Bến đò dường cái hanh thông, quyền thế cao chức tước vẻ vang.
Hành trình gian nan, lộc mỏng quan thấp.
Suy tìm vị trí con, trước tiên hãy xem cung của vợ.

Người tử tuyệt thì đích thứ (chánh hay kế) đều khó tồn tại.
Người quá vượng thì bỏ nhà đi tìm kiếm.

Sao con lộ ra, con cháu sẽ nhiều.
Hình hại tự cung (cung con nối dõi), con cái ít có được.

Nếu hỏi anh em nhiều ít, xem xét kỹ can chi trong tứ trụ.
Lệnh tháng tuy cường vượng, phải xem thêm vận thần hướng tới hay bỏ lại phía sau.

Tử tuyệt hình thương, chim nhạn bay mất thứ tự.
Sanh lẫn nhau gặp việc vui mừng, tình anh em nối tiếp vẻ vang.
Anh em thân vượng, cha mẹ hao tổn.
Cung tài bạch nhiều, tuổi mẹ sớm mất.
Nếu thấy quan quỷ xuất hiện, tuổi mẹ trái lại được kéo dài.
Nếu như gặp thoát khí xếp thành hàng nối dài, cha vẫn có tuổi thọ.

Nhâm đến chỗ ngọ, quý đến chỗ tỵ.
Nắm giữ trung hoà lộc mã cùng một nơi, thối hưu tù cũng là đất tuyệt của thai nguyên.

Bính đến chỗ thân, canh ngồi an nhàn ở dần, kỷ vào tốn càn, ất gặp song nữ (hai cô gái).
Kim ở chỗ hoả, giáp ngồi cung khôn, tên gọi là hưu tù,rất ghét bị khắc chế.

Thất sát kỵ gặp phải nói là mất hồn vía, thọ tinh mừng gặp nói là hoàn hồn.
Mệnh trời có thể thực hành, trí lực khó hiện ra, hộ trì tạo hoá, âm công (âm đức, đức hạnh kín đáo người ta không biết được) có thể giành lấy.

Nghèo đói sắp chấm dứt, có thể được lệnh từ nhà trở thành công khanh (gọi tắt của tam công cửu khanh 三公九卿, chỉ chức quan đại thần thời xưa).
Xa xỉ quá mức, lại khiến chu môn (thời xưa, vương hầu quý tộc đều sơn nhà màu đỏ. Sau phiếm chỉ nhà phú quý là chu môn 朱門) thành bị đói.
Tái sản sắp tiêu hao, nhất định sanh con trai bất tiếu (con không được như cha, chỉ đứa con hư hỏng).
Hôn cấu tự hình, sẽ cưới thê thiếp không lâu bền.

Bốn cung đều bối lộc (bỏ lộc lại ở phía sau), không thể tuỳ tiện tìm kiếm.
Quan sắp không thành tựu, tài đan gặp lãng phí.
Bát tự không có tài, cần phải an phận giữ mình.
Nếu tham lam vượt ngoài phạm vi, sẽ rước lấy việc xấu xa.

Ôi! cam chịu phận nghèo nuôi dưỡng chất phác, chẳng phải là không có tài năng của tiêu chuẩn ban đầu.

Bụng no thổi sáo, đoàn thể sao mà không chán nản!
Có phải số mệnh, hãy cứ theo đuổi nó.

Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



金玉赋

搜寻八字,专论财官。
次究五行,须求气候。
论财官之向背重轻,
察气候之浅深生死。
他来克我为官鬼,身旺必权。
我去克他为妻财,干强则富。
年伤日主,乃父与子而不亲。
时克日辰,是子不遵於父命。
年克日兮,上能淩下。
日克年兮,下去犯上。
若得有物制日干,则可化恶为祥。
更要本主逢喜神,则将变凶为吉。
喜神庆会,当知资产丰隆。
四柱无情,定见祸端并作。
或见本主相冲,三刑重叠。
岁运欺淩,必招横事。
纯粹五行入格,台阁风清。
身强七煞逢伏,藩垣镇守。
无财官而有格局,青云得路。
无格局而有财官,黄甲成名。
财官格局俱损,不贫寒乃功名蹭蹬之夫。
日干月令俱强,非因穷必草茅隐逸之士。
丙丁坐南离而无制,是不遵礼法,凶暴之徒。
壬癸遇戊己之相应,乃怀德抱材,聪慧之士。
辛逢乙木於南墓,虽富而不仁。
丙逢辛金於北镇,纵贫而有德。
年月时令有偏印,吉凶未萌。
大运岁君逢寿星,灾殃立至。
幼年失乳,食神逢刑克之宫。
壮岁峥嵘,财官居纯粹之位。
阳日食神得地无冲损,则暗合官星。
阴日食神无破亏须契合,则身亲印绶。
偏财能益算延年。
羊刃善夺财化鬼。
财星有破,弃祖风别立他乡。
印绶被伤,失祖业抛离故里。
人命以贵神为福,遭克陷则凶祸不祥
五行会凶曜为灾,喜合煞并食神为贵。
命亏煞旺,要天赦二德呈祥。
身弱财丰,喜羊刃兄弟为助。
月令值食神健旺,善饮食而姿质丰盈。
四柱有吉曙相扶,堆金积玉。
五行无凶煞侵犯,名显声扬。
寅申巳亥叠犯,有聪明生发之心。
子午卯酉重逢,耽酒色荒淫之志。
桃花带煞,心意猖狂。
二德逢印,德性慈祥。
食神多,而好贪饮食。
正官旺,而略沾滋味。
枭神兴,早年夭折。
爵星旺,老寿弥高。
要知女命难婚,运入背夫之位。
欲识男儿早娶,定是运合财乡。
子克重重,煞没官衰伤食重。
伤妻叠叠,财轻身旺兄弟多。
若不如斯,定是刑冲妻妾位。
暗会财星,妻妾众。
虚朝财位,主妻多。
财星入墓,必定刑妻。
支下伏财,偏房宠妾。
妻星明朗,乔木相求。
大运流年,三合财乡,必主红鸾吉兆。
或临财败之官,家资淩替,伤妻损妾,婚配难成。
妻星夫位在何宫,要求端的。
官禄天厨居其位,须察根源。
有格局纯粹,忽遇恶物相冲,亦主死亡。
有财禄浅薄,或逢岁运旺相,亦当骤发。
日求升合,食神旺处劫财多。
生来贫夭,财食得地枭印重。
官弱煞强,无制则夭。
日衰财重,党煞则穷。
更看岁运,何凶何吉。
寅申巳亥互依倚,不迁徙必出他乡。
乾坤艮巽遇互换,好驰骋心无定主。
柱中若逢华盖,遇二德乃清贵之人。
官星七煞或落空亡,在九流任虚闲之职。
五行克战,非伤日主不为灾。
岁运并临,若损用神必有祸。
财星入墓,少许刑冲必发。
伤官伤尽,或见官星则凶。
有十八格,当从善恶推求。
总系五行,各取衰旺消息。
身旺何劳印绶,干衰不喜财官。
中和为福,偏党为祸。
但见贵神朝拱,禄马飞天,遥合虚格。
不得刑冲逢合,皆忌七煞官星,各嫌羁绊,填实则凶。
忽然运到官乡,当以退身避职。
马疲官破,困守穷途。
禄旺财丰,峥嵘仕路。
如临喜处以得祸,是三合而隐凶星。
或逢凶处而返祥,乃九宫而露吉曜。
要知职品高低,当求运神向背。
清奇测早岁成名,玷缺则晚年得地。
津路通亨,权高爵显。
程途偃蹇,禄薄官卑。
推寻子位,先看妻宫。
死绝者嫡庶难存。
太旺者别门求觅。
子星显露,子息必多。
刑害嗣宫,男女罕得。
若问兄弟多寡,细简四柱干支。
月令虽强,更看运神向背。
死绝刑伤,雁行失序。
相生庆会,棣萼联荣。
兄弟身旺,父母有亏。
财帛宫多,母年早丧。
若见官鬼出见,母反长年。
如逢脱气排连,父还有寿。
壬临午位,癸坐巳。
秉中和兮禄马同乡,退休囚也胎元绝地。
丙临申位,庚坐燕寅,己入巽乾,乙临双女。
金乘火位,甲坐坤宫,名曰休囚,最嫌克制。
七煞忌逢言丧魄,寿星欣遇曰还魂。
天命能施,智力难出;纲维造化,阴功可夺。
贫寒将尽,能令自屋出公卿。
奢侈太过,还使朱门生饿浮。
家资将费,定生不肖之儿男。
婚媾自刑,必娶无寿之妻妾。
四宫背禄,不可妄求。
官将不成,财当见费。
八字无财,须要本分。
越外若贪,必招凶事。
噫!甘贫养拙,非原宪之无才。
鼓腹吹萧,岂伍员之挫志!
莫非命也,要当顺之而已。



.

Thanked by 1 Member:

#403 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 14/12/2024 - 02:39

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhị

tâm kính ngũ thất phú

Phú quý của đời người đều được định trước, thuật sĩ phải bàn tỉ mỉ.
Các sao trên trời có thể tăng thêm, thuyết này càng không sai.
Giờ cộng với nguyệt kiến gặp mệnh vị, đúng là đất của nguồn phúc.
Nơi hợp của thọ nguyên là chân thật, thuyết này không trình bày rỗng không.
Quan lộc quý mã gặp thai hình, một khi khởi đầu liền thành danh.
(Ba can liên tục nhau).
Ngày gặp đất quý thấy lộc mã, tuổi tráng niên (thời kì từ ba mươi đến bốn mươi tuổi) thi đậu tiến sĩ.
Giờ ngày nếu gặp hay kề bên chỗ lộc, thành quan sẽ cao quý và thanh khiết.

Ngũ hành giờ ngày không hỗn tạp nhau, là quan nhiều thành tựu, có danh vọng vẻ vang.
Dương nhận trùng trùng lại thấy sát, đại quý thi đậu tiến sĩ.
Nếu gặp tam kỳ vận lộc mã, tiếng tốt truyền khắp nơi.
Ngày ngồi ở địa chi thực thần lại hợp thiên can, xem theo cửu khanh (chín chức quan to nhà Chu thời xưa: Thiếu Sư 少師, Thiếu Phó 少傅, Thiếu Bảo 少保, Trủng Tể 冢宰, Tư Đồ 司徒, Tông Bá 宗伯, Tư Mã 司馬, Tư Khấu 司寇, Tư Không 司空) tam công (ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保).
Giáp tý kỷ tỵ lại một thuyết nữa, thiên địa đức hợp quyết (câu nói dễ đọc tụng, dễ nhớ).
Bính tý quý tỵ giống với trước, chức quan được phong đến tam công.
Mộc nếu gặp kim chủ không thương tổn, hai phủ đặt ở trung đường (nhà Đường đặt phòng chánh sự cho tể tướng làm việc ở trung thư tỉnh 中書省, nên gọi tể tướng là trung đường 中堂).
Hoả nếu gặp thuỷ chủ sức mạnh cầm đầu, là tướng thống lãnh quân đội và biên giới.

Kim nếu gặp hoả chủ đại quyền, phương diện (ngày xưa chỉ chức chính yếu trong quân ở một địa phương hoặc trưởng quan ở đó) thứ sử (chức quan Trung Hoa thời xưa, làm giám sát một địa phương. Thời nhà Thanh gọi chung là tri châu 知州) quan.
Thuỷ nếu gặp thổ hợp quan cục, nên làm chức thị tòng (theo hầu).
Thổ nếu được mộc thành chánh lộc, phúc của bát toạ tam thai.
Năm được lộc tháng không là niềm vui, nhật quý chọn lấy làm chủ.
Sanh gặp quý nhân trực cô quả, quyết định là tăng.
Không vong quan lộc gặp quý nhân, áo đen làm cao tăng.
Ngũ hành không có khí lực giữ cô quả, nhất định làm hành giả (ý chỉ người tu hành).
Không vong hình hại lại gặp tú, là tăng cùng với khoả đầu (bó đầu).

Muốn biết mệnh người chủ có sức mạnh, thực thần vượng sẽ có đủ.
Dương nhận cùng sát thương quan hình nhau, sẽ chủ lên pháp trường (chỗ thi hành án tử hình).
Đích sát nếu gặp ngồi xếp bằng, người có hành vi tội lỗi tử hình, tù ngục.
(Địa chi tự toạ là xếp chân vòng tròn).
Kề bên góc gặp lại cộng thêm tuế tinh, đồ lưu nhất định rõ ràng.
Lục hại nắm quyền gặp nhận sát, thiếu niên thường chết non.
Ngày gặp quan quỷ thấy trọng hình, chết độc rất khủng khiếp.
Nhận thần kiếp sát ở cả hai đầu, những năm đầu đời mộng thiên cù (con đường vô cùng rộng lớn).

Lộc mã đều gặp đi đất tuyệt, lao khổ khó trốn khỏi.
Tháng nếu cùng với giờ gặp hình xung, căn cơ nhất định đều trống rỗng.
Giờ gặp quan tinh sanh vượng, con cháu thành hàng.
Hướng về lộc gặp phải tài quan càng thêm tốt, sang trọng có tài sản.
Ngày tháng toàn là quan không có tài, ngược lại chủ không có quan quý.
Mão hình tý, tý hình mão, quý ất sanh phiền nhiễu nhau.
Mùi tới hình sửu, sửu hình tuất, tuất hình mùi cùng một luật.
Lộc mã khắc sanh chủ phát tài, nhân nguyên khắc xuất lai.

(Giáp ất hiện dần mão, lộc mã đều tuyệt. Giáp thân ất dậu không được đưa vào cuộc thảo luận này).
Được một phần ba nhờ thuyết nào, phi thiên lộc mã cách.
Tuế hợp giờ ngày phân hai đầu, cần phải tìm kiếm tỉ mỉ.
Quân tử đúng khi gặp lợi, còn người thường gặp bất hạnh.
Lòng ôm nổi hối hận rút lui do việc gì, lại phạm tội tước bỏ chức quan.
Trong trụ có lộc vận gặp tài, vàng ngọc tự nhiên đến.
Lời nói trên có thể giải thích quý với tiện cũng đều xem ở vận hạn.
Đại khái đi vận gặp lộc mã, phát tích (từ chỗ hèn kém mà đắc chí hiển đạt) thành quan.

Thiên nguyệt hai đức là thần cứu giúp, trăm tai hoạ không hung xấu.
Hướng về lộc gặp tài rất kỳ lạ ít thấy, sang trọng có tư cách quan.
Trong mệnh lộc mã cùng quý nhân, phúc lộc tiến cống ngọc trai.
Quý nhân quân tử ngồi hình sát, tuổi trẻ thành danh.
Âm dương quý tiện nên biến hoá, biết rành ở trong lòng.
Ngày giờ thân mệnh hứa hẹn nhiều loại, nhất quyết ngàn biến hoá để xem.

Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



心镜五七赋

人生富贵皆前定,术士须详论。
天上星辰有可加,此说更无差。
时加月建逢命位,正是福原地。
寿元合处是其真,此说不虚陈。
官禄贵马见台形,一举便成名。
(三干相连。)
日逢贵地见禄马,壮岁登科甲。
时日若逢夹禄位,为官必清贵。

五行时日无相杂,为官多显达。
羊刃重重又见煞,大贵登科甲。
若逢三奇运禄马,名誉扬天下。
日坐食支又合干,九卿三公看。
甲子己巳又一说,天地德合诀。
丙子癸巳与前同,官职拜三公。
木若逢金主不伤,两府坐中堂。
火若遇水主将权,为将镇戎边。

金若逢火主大权,方面刺史官。
水若逢土入官局,宜作侍从职。
土若得木为正禄,八座三台福。
年得月禄不为喜,日贵取为主。
生逢贵人值孤寡,决定为僧也。
空亡官禄遇贵人,缁衣作高僧。
五行无气守孤寡,必定作行者。
空亡刑害又逢囚,为僧及裹头。

欲知人命主有权,食神旺必全。
相刑羊刃并煞伤,必主上法场。
的煞若逢盘足坐,恶鬼死刑狱。
(日支自坐,为盘足。)
夹角相逢共岁星,徒流定分明。
六害当权逢刃煞,少年多夭折。
日逢官鬼见重刑,恶死甚堪惊。
刃神劫煞两头居,早岁梦天衢。

禄马俱逢行绝地,劳困难逃避。
月若与时逢刑冲,根基定一空。
时遇官星生旺位,子孙成行队。
向禄临财官更吉,贵显有家资。
日月纯官无财位,反主无官贵。
卯刑子位子刑卯,癸乙相生挠。
未来刑丑丑刑戌,戌刑未同律。
禄马克生主发财,人元克出来。

(甲乙见寅卯,禄马皆绝。甲申乙酉,不在此论。)
得一分三缘何说,飞天禄马格。
岁合时日分两头,切须仔细求。
君子若逢利奏对,常人主灾晦。
心怀悔退缘何事,重犯剥官位。
柱中有禄运逢财,金玉自天来。
前言能说贵与贱,亦须看运限。
大凡行运逢禄马,发迹为官也。

天月二德为救神,百灾不为凶。
向禄临财甚希奇,贵显有官资。
命中禄马同贵人,福禄进珠珍。
贵人君子坐刑煞,名成少年发。
阴阳贵贱宜消息,熟晓在胸臆。
日时身命许多般,一诀千变看。



.

Thanked by 1 Member:

#404 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 14/12/2024 - 10:06

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhị

tạo vi luận

Lưỡng nghi bắt đầu mở mang. Sáu giáp do đó sanh ra.
Thuận theo tam nguyên làm thành tam tài, xây dựng bốn mùa thành tứ trụ.

Thiên can là gốc của lộc, xác định một đời chức vị cao thấp.
Địa chi là nền tàng của mệnh, xếp đặt từ đầu đến cuối ba hạn và tuổi thọ.

Năm sanh là gốc, nguyệt kiến là mầm non.
Ngày đứng đầu quản trị, đoán phúc lành và tai hoạ của tuổi trung niên.
Giờ là kết cuộc, xác định tuổi cuối đời hưng thịnh hay nghèo nàn.

Trước tiên suy xét thai tức ban đầu, kế nhập đạo biến thông.
Là quan trở thành quý, do trên dưới thuận hoà.
Thường trì trệ thường nguy hiểm, vốn là nguồn gốc khắc nhau. Đó là lý do tại sao:

Cách trong sạch cục ngay ngắn, nên là quan đại thần của thai các.
Ấn vượng quan sanh, sẽ nắm trách nhiệm quân hành.
Mã đầu đới kiếm, uy trấn biên cương.
Ấn thụ gặp tốt đẹp, tôn quý ở Hàn Uyển (nơi gom tụ văn chương).

Lộc tuy nhiều mà có hại, phúc không trở thành tốt lành.
Sát tuy nặng mà không có thương tổn, hung không trở thành tai hoạ.
Tam kỳ không gặp, tài cao mà khó trình bày thành danh.
Lục hợp gặp đúng lúc, nhà giàu lại có khả năng gia tăng tài sản.

Không vong gần nơi trú ngụ, cô độc thất vọng.
Trường sanh rơi vào không vong, nghèo đói gian nan.
Đào hoa nếu gặp đế toạ (chỗ ngồi của vua), vì sắc đẹp mà mất mạng.
Hàm trì gặp cung ngày, nhờ vợ mà giàu.
Gốc rễ nông cạn, gặp sanh vượng mà không vẻ vang.
Bổn chủ hưng thịnh, gặp hưu khốn mà trái lại tốt.

Dương nhận gặp phải ngũ quỷ, nhất định là trọng phạm bị lưu đày.
Câu giảo tới tấp nhiều lần tam hình, nên là luôn luôn bị xếp đặt. Vì thế:
Người ra làm quan chớ gặp thôn đạm (một loại thần sát), chức tước bỗng lộc hao tổn.
Người đang nắm binh quyền, chớ gặp thiên trung (không vong), cả thân và quyền đều mất sạch.

Hoài bão trong sáng, bởi vì thuỷ giúp sông hồ.
Nguồn cội học vấn, vốn là thuỷ ở nhâm quý.
Hiền từ lương thiện vui mừng thân ái, mộc nhân nơi của giáp ất.
Khô ráo tàn ác, hoả thịnh đất của bính đinh.
Danh cao lộc trọng, can kim sớm hội họp canh tân.
Tập quán thối nát thóc lúa khắp nơi, giữ thổ coi trọng mậu kỷ của mình.
Mộc um tùm mà không có kim đẽo gọt, cho dù vẻ vang mà cuối đời cô độc và cùng khốn.
Hoả nóng nực mà không có thuỷ chế tạo đồ gốm, tuy phát mà tuổi đầu đời yểu chiết.

Đất Việt (ngày nay là Quảng Đông) nếu thuỷ tràn ngập, chỉ có thổ làm đê phòng thủ.
Thổ nặng mà không có mộc khai thông, đuổi trở về ngu xuẩn.
Kim cứng mà không có hoả rèn luyện, luôn là hung dữ và ương bướng.
Cho đến vàng giòn xốp hoả nóng, thường sẽ tổn hại mình.
Mộc yếu kim nặng, sắc bén sẽ thương tổn bản thân.

Nước trong không lợi dụng thổ nhiều, thổ yếu không đương nổi mộc thịnh vượng.
Hoả cường mạnh và khô nên nhỏ bé, thuỷ ký tế (đã làm xong) nên khoan hoà.
Phải thuận theo quân phối (xếp đặt đều nhau) thì đẹp, cũng vì quân điều (điều hoà) là trên hết.
Người đại hiển lộ, quý hơn những người ẩn mình sâu sắc. .
Người đại quật cường, quý hơn những người hạ thấp mình.

Tuổi thọ cao, đều là lộc gặp phải đế vượng.
Chức cao có địa vị, là do mã hội quan tinh.
Hoa cái gặp không vong, rất hợp với tăng đạo.
Học dường gặp quý, chỉ lợi cho thầy nho.

Ngũ hành nếu tiêu điều, thê lương, tam mệnh vì thế hèn yếu.
Ngày gặp không vong cô quả, vợ phần lớn đến sanh ly.
Giờ gặp không vong con cho dù có cũng bất hiếu.

Cung tuyệt là sát của cổ bồn (chỉ vợ chết), còn cung thai là thần của bạch hổ.
Thiên không gặp phải nối dõi của quan, cuối đời mất con trai đã lập gia đình.
Vận gặp sao tốt, không có bổn chủ, sẽ không đủ niềm vui.
Hạn dựa vào hung thần, có gốc rễ, thì không phải sợ hãi.

Tuế quân nếu gặp sao ác, một năm gian nan.
Khi sanh nếu gặp hưu tù, một đời buồn bã than thở.
Vốn là thanh thì nó sẽ chảy xa.
Vốn là đục thì có làm gì cũng không thành tựu.
Bát tự vượt qua mọi người, không quý cũng là đại phú.
Ngũ hành lẫn lộn, lúc ở yên có thể không nghĩ đến lúc nguy hiểm.
Hưu tù thì bản tính của ản thân thấp hèn.
Vượng tướng thì danh vị và lợi lộc cường tráng, sung túc.

Trước mạnh sau yếu, nhất định trước tốt lành mà sau hung xấu.
Bắt đầu yếu mà kết cuộc mạnh, cũng là bắt đầu hung xấu mà kết thúc tốt lành. Bởi vậy nếu:

Bắt đầu gặp quý tốt lành, không thể liền coi là quý để suy xét.
Bên trong gặp hung xấu mạnh, làm sao có thể liền coi là điềm xấu.
Nói chung văn quý cần đất trường sanh, còn hình sát thì nên ở cung tử tuyệt.
Vì thế nên lo buồn hay không lo buồn, nghe vui thích hay không vui thích, phải biết rõ gốc và ngọn của nó, quan sát ưu nhược điểm của nó.
Vinh nhục, cùng khốn và hiển đạt, không cần phải nói; tốt xấu hối tiếc, ăn năn, có thể khảo sát mà biết.
Tên gọi "tạo vi" (kiến tạo mầu nhiệm), sao lại nói rằng có lợi ích chút đỉnh?

Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



造微论

两仪肇辟。六甲攸生。
将三元而作三才,建四时而为四柱。
干为禄本,定一生职位高低。
支作命基,布三限寿元终始。
年生为根,月建为苗。
日管经营,断中年之休咎。
时为结果,定晚岁之荣枯。
先推胎息之由,次入变通之道。
为官为贵,缘上下以咸和。
多滞多危,本根元而相克。是故:
格清局正,当为台阁之臣。
印旺官生,必秉钧衡之任。
马头带剑,威镇边疆。
印绶逢华,尊居翰苑。
禄虽多而有害,福不为祥。
煞虽重而无伤,凶不为祸。
三奇弗遇,才高难解成名。
六合正逢,家富又能增业。
空亡亲於其宿,孤独龙钟。
长生陷於空亡,贫寒偃蹇。
桃花若逢帝座,因色亡身。
咸池更会日宫,缘妻致富。
根元浅薄,逢生旺而不荣。
本主兴隆,遇休困而反吉。
羊刃临於五鬼,定须重犯徙流。
勾绞叠於三刑,应是频遭编配。是以:
登仕途者,莫逢吞啗,爵禄亏停。
当兵权者,勿遇天中,身权退失。
胸襟澄澈,盖因水济江湖。
学问渊源,本是水居壬癸。
慈祥恺悌,木乘甲乙之乡。
焦燥暴恶,火盛丙丁之地。
名高禄重,乾金早会庚辛。
贯朽粟陈,镇土重亲戊己。
木繁而无金斲削,纵荣而末岁孤穷。
火炎而无水陶熔,虽发而早年夭折。
粤若水之浮泛,惟凭土以堤防。
土重而无木疏通,逐归愚浊。
金坚而无火锻炼,终是凶顽。
至若金脆火炎,多则损己。
木柔金重,利则伤身。
水清不假土多,土弱不禁木盛。
火强燥而微眇,水既济以宽和。
须将匀配为佳,亦以均调为上。
大显者,贵乎深隐。
大屈者,贵乎卑伸。
寿永年高,皆是禄临帝旺。
职崇位显,为缘马会官星。
华盖逢空,偏宜僧道。
学堂遇贵,惟利师儒。
五行若也萧索,三命因而低弱。
日逢空寡,其妻多致生离。
时值空虚,其子纵有不肖。
绝宫为鼓盆之煞,胎宫为白虎之神。
天空临嗣续之官,末岁损成家之子。
运逢吉宿,无本主,则未足欢娱。
限守凶神,有根苗,则不须畏惧。
岁君若临恶曜,一岁迍邅。
生时若遇休囚,一生愁叹。
源清者,其流必远。
本浊者,所作无成。
八字超群,不贵即当大富。
五行驳杂,居安可不虑危。
休囚者,身性卑微。
旺相者,名利壮实。
先强後弱,必先吉而後凶。
始弱终强,亦始凶而终吉。乃若:
初逢贵吉,未可便作贵推。
中遇凶强,岂可便作凶兆。
大抵文贵要长生之地,刑煞宜死绝之宫。
是以当忧不忧,闻喜不喜,详其本末,察其盈虚。
荣辱穷通,不言而喻;吉凶悔吝,可考而知。
名曰《造微》,岂云小补?



.

Thanked by 1 Member:

#405 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 8383 Bài viết:
  • 6129 thanks

Gửi vào 14/12/2024 - 12:20

Tam Mệnh Thông Hội - 《三命通会》- Quyển Thập nhị

nhân giám luận

Hồng mông (nguyên khí tự nhiên. § Chỉ trạng thái hỗn độn trước khi vũ trụ hình thành) bắt đầu rõ rệt, giáp tý do đó sanh ra.
Hai mươi hai chữ (tức là mười chữ của thiên can và mười hai cùa địa chi) mà dùng không cùng tận, trăm vạn ngàn mệnh người đều có thể khảo sát.

Ngày sanh là chủ, năm lớn là vua.
Trước tiên luận căn bản hư thật, kế luận tuế vận mạnh yếu.

Tam tài xếp đặt đông đúc, khéo léo ở cân nhắc.
Mức độ nghiêm trọng bao gồm cả tám quẻ, vốn là có ý mô phỏng vuông tròn.
Đạo trời vẫn có đầy kém, việc người sao không có biến hoá vô thường.
Hoặc bắt đầu nghèo mà cuối cùng giàu, hoặc trước thì thất bại mà sau lại hưng thịnh.
Nên bỏ cái ngắn mà theo cái dài, chớ chọn cái kia mà bỏ cái này.
Tứ trụ đều ghét một chữ, đại thuần (chất phác) cũng tìm khuyết điểm nhỏ.

Quan sát kỹ càng nguồn gốc của nó, chớ coi thường mà quyết định.
Quan ở nơi lộc, Y Doãn đảm nhiệm vị trí A Hoành.
Thời ở đất quý, Phó Thuyết Hưng trở thành tướng quốc.
Sanh gặp cách quý, hợp đường làm quan là đình đài lầu gác tôn quý.
Lại gặp quỷ cục, Nhạc Đạo có hứng thú cảnh núi rừng. Vì thế biết rằng:

Địa vị quan địa vị quý, ngũ hành thuần nên không có khuyết điểm.
Thường trì trệ thương buồn rầu, bát tự tạp mà lại đánh nhau.
Nguồn gốc ngọt mà con cháu đắng, Cổ Nghị oan ức ở Trường Sa.
Nguồn đục mà dòng chảy trong, Thái Công hưng thịnh ở sông Vị.
Lộc mã cùng một nơi, nên cơ hội trèo lên đài đỉnh (ví dụ với tam công, tể tướng, trọng thần).
Sát ấn trọng vượng, nên sớm có tên tham gia khoa thi.
Tỷ kiên gặp nhiều, nên than thở về sự nghèo khó của Phạm Tử.
Ấn thụ gặp chồng chất, có thể so với tuổi thọ của Lão Bành.

Kề bên quan kề bên quý, ngày giờ gặp phải nên hiên nhà cao, xà nhà chạm trỗ.
Kiếp tài tranh đoạt mã, năm và giờ gặp nhà lợp bằng cỏ bồng cửa sổ bằng võ hủ đập bể.
Nối ngôi gặp khắc tuyệt, bồ câu ở tổ chim khách.
Thê vị trí phạm sát thương tổn, chim loan cô (đơn độc) và chim hộc quả (goá chồng).

Đi vận bối lộc, ngày xưa giàu mà ngày nay nghèo.
Mệnh gặp tài vượng, ngày hôm qua đau buồn mà ngày hôm nay vui cười.
Tứ trụ ngồi trên học đường, quay trở lại cũng không ngu.
Tam nguyên giúp đỡ trong mộ khố, con ham thích học hỏi.

Trụ năm thương quan quý, tài cao chỗ quan lại làm việc đó thành danh.
Giờ gặp thiên quan, nhà giàu lại thêm con hiếu thảo.
Canh đi đất bính, chỉ cầu nguyện cho bạn;
Nâm vào nơi mậu, sao chẳng nhanh chết?

Bá Ngưu có bệnh, do chiến khắc mà dẫn đến bất hạnh.
Tư Mã sao đau buồn, bởi tỷ hoà mà không có địa vị.
Suy nhược trong thân, gặp vận tốt nên thành hung xấu.
Mệnh ngồi nơi vững chắc, gặp năm hoạ nên phản phúc (xoay chuyển điên đảo).

Sát tuy nhiều mà hơp nhiều, làm sao thương tổn ánh sáng của ngày tháng.
Lộc tuy hiển lộ mà bị mất, khó gặp hội gió mây.
Gặp mà không gặp, canh tân ở nơi của nhâm quý.
Buồn mà không buồn, giáp ất đi đất của bính đinh.

Hoặc nếu sanh gặp tuyệt bại, Trịnh Cốc quay lại canh tác.
Lộc mã bệnh suy, Phùng Đường Hạo nhận tội.
Cửu cung vượng tướng, khó tránh mời ta đến chỗ tang trung (chê thói dâm đãng).
Tứ trụ hợp hoà, không tránh khỏi việc đề thơ trên lá.

Tây Thi dáng vẽ đẹp, tự mình mang lại tuổi thọ.
Ngọc trai xanh rơi khỏi lầu, hung ác lại gặp thất sát.
Mệnh có cô loan, chồng khóc vợ và vợ khóc chồng.
Yên hoa (phiếm chỉ cảnh xuân tươi đẹp) ước thúc bản thân, phụ nữ tìm đàn ông và đàn ông tìm phụ nữ.

Thủ lĩnh khuyết điểm nên tứ chi và toàn thân yếu ớt.
Tài sản bị hao tổn, nên ruộng vườn nhà cửa đều có hại.
Khi sanh ra nếu gặp hình xung, một đời thường không có gì cả.
Năm tháng nếu gặp phải kiếp đoạt, trăm tuổi sẽ đơn độc và lạnh lẽo.

Tài vào chỗ tài, không quý tức là rất giàu.
Sát ở thái tuế, lúc yên ổn có thể không lo đến nguy hiểm.
Nhưng nếu quan tinh thấu lộ, không thể liền coi là quý để suy xét.
Sát tinh tấn công, làm sao có thể liền đoán là hung?

Nói chung quý lộc thích gặp ấn thụ, còn hình sát nên gặp chế phục hay hợp.
Vì thế là đang đau buồn mà không đau buồn, nghe vui thích mà không vui thích.
Khảo sát nguồn gốc ủa nó nên hiểu được sự thật, bàn luận khởi đầu của nó nên nghiên cứu kyết thúc.
Vì lẽ đó cung thê có khắc chế, tuổi trẽ không có người cưới vợ sớm.

Trụ giờ gặp thương tổn, cuối đời sẽ mất đứa con đã thành gia.
Cả đời không tốt, nhưng tuổi thọ được coi là cây thông (cây thông đến mùa lạnh vẫn xanh, nên mới ví nó với người có khí tiết hoặc người sống lâu).
Tài lộc manh theo nhiều, mà phúc như bồ liễu (tỷ dụ người thể chất yếu đuối hoặc có thân phận thấp hèn).
Nguồn trong thì dòng chảy sẽ xa. Gốc mạnh mẽ thì là sẽ tươi tốt.

Tam mệnh vượt qua mọi người, không được quý thì cũng là rất giàu.
Cửu cung chìm đắm, sợ vận hung lại sợ năm hung.
Ngàn điều vạn mối, nên tìm hình thể không hiện.
Trăm phái một nguồn, quý gặp được đất của thân sung mãn.

Trình bày chi tiết gốc ngọn, hoàn toàn lý giải đầy đủ và thiếu kém.
Quân tử sau này may mắn chớ nên coi thường.


Link đến bản tiếng Hoa:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



人鉴论

洪蒙肇判,甲子攸生。
二十二字之用无穷,百万千人之命可考。
日生为主,年长为君。
先论根本虚实,次论岁运强弱。
森列三才,妙在权衡。
轻重包罗八卦,自存规矩方圆。
天道尚有盈亏;人事岂无反覆。
或始贫而终富,或先败而後兴。
当舍短而从长,勿取彼而弃此。
四柱俱嫌一字,大醇亦求小疵。
详察其源,勿轻以断。
官在禄乡,伊尹负阿衡之位。
时居贵地,傅说兴作相之臣。
生逢贵格,入仕为台阁之尊。
重遇鬼局,乐道有山林之兴。是知:
居官居贵,五行醇而不疵。
多滞多忧,八字杂而又战。
根甘裔苦,贾谊屈於长沙。
源浊流清,太公兴於渭水。
禄马同乡,而会登台鼎。
煞印重旺,而早入科名。
比肩重遇,宜嗟范子之贫。
印绶叠逢,可比老彭之寿。
夹官夹贵,日时值而峻宇雕梁。
劫财夺马,岁时逢雨蓬门瓮牖。
嗣位逢克绝,鹊之巢而鸠之居。
妻位犯煞伤,鸾之孤而鹄之寡。
运行背禄,昔日富而今日贫。
命遇旺财,昨日悲而今日笑。
四柱坐学堂之上,回也不愚。
三元助墓库之中,子之好学。
年伤官贵,才高那解成名。
时值偏官,家富又添好子。
庚行丙地,祷尔於只;
壬入戊乡,胡不遄死?
伯牛有疾,缘战克以交差。
司马何忧,盖比和而无位。
身中衰弱,逢吉运以为凶。
命坐坚实,遇祸年而反福。
煞虽重而多合,何伤日月之明。
禄虽显而有失,难际风云之会。
遇而不遇,庚辛在壬癸之乡。
忧而不忧,甲乙行丙丁之地。
或若生逢绝败,郑谷归耕。
禄马病衰,冯唐皓首。
九宫旺相,难逃邀我於桑中。
四柱合和,未免题诗於叶上。
西施貌美,自身多带长生。
绿珠坠楼,凶恶又逢七煞。
孤鸾入命,夫哭妇而妇哭夫。
烟花绊身,女求男而男求女。
头目陷,而肢体相亏。
财帛耗,而田宅有害。
生时若遇刑冲,一生屡空。
岁月若临劫夺,百岁孤寒。
财入财窠,不贵即当大富。
煞居太岁,居安可不虑危。
乃若官星透露,未可便作贵推。
煞星下攻,曷可便为凶断?
大抵贵禄喜逢於印绶,刑煞宜值於制合。
是以当忧不忧,闻喜不喜。
考其根而明其实,论其始而究其终。
是以妻宫有克,少年无早娶之人。
儿位逢伤,末岁损成家之子。
平生不吉,而寿算椿松。
财禄带多,而福姿蒲柳。
源清者,其流必远。本壮者,其叶必荣。
三命冠群,不至贵即当大富。
九宫陷溺,怕凶运又怕凶年。
千条万绪,当求不见之形。
百派一源,贵得弥身之地。
详陈本末,备察盈亏。
後之君子,幸勿忽诸。



.

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |