Mã Đắc Khoa Viết Linh Tinh
#16
Gửi vào 07/09/2021 - 21:13
1.Kiệt nhân vùng Sơn Tây - Hà Nội
Mai là ngày sinh của ông, một người nổi tiếng, ghi dấu ấn trong lịch sử Việt Nam, giai đoạn 1825- 1944. Đại niên vận Thất Sát tại Tý địa của Đất Nước Việt.
Như các bài trước tôi đã phân các khu vực địa lý theo phương vị của Trời, nay ta xác định vùng của Địa lại 1 chút, rõ ràng và cụ thể hơn.
Một đường phía bên trái ( Thanh Long): nối điểm Tiền Hải ( Thái Bình) chạy thẳng 1 đường chéo lên điểm Tam Sơn ( Hà Giang). Có điểm cửa biển Ba Lạt ( Nam Định) làm dấu
Một đường bên phải ( Bạch Hổ): nối Bình Minh ( Ninh Bình) chạy thẳng lên điểm Văn Sơn ( Trung Quốc). Có cửa biển Cửa Đáy ( Nam Định) làm dấu.
Đường Bạch Hổ trong phạm vi gần đúng sẽ lấy điểm: Nối đường thẳng điểm Đền Hùng ( Phú Thọ) đi xuyên tâm Đình Viên Châu, đình Tây Đằng, đình Ngũ Sơn đến chùa Tiểu( Hoà Bình). Dãy núi bên cạch là cường Long chạy dọc từ Vùng Đại Lý ( Trung Quốc) xuyên qua Việt Nam rồi đổ ra biển Đông.
Vùng đất Sơn Tây nằm gần trọn trong mạch Bạch Hổ này. Điểm giao thoa hợp dòng Sông Hồng và Sông Lô phía Tây Bắc, ra phía Đông Bắc, Phía Tây Nam, và Nam là dãy núi Ba Vì, thủy tụ bao bọc như hồ Suối Hai, Hồ Đường, hồ Xuân Khánh, hồ Đồng Mô...
Tiếc là dòng sông Hồng chảy như dao kề cổ vùng này, thành ra nhân tài tán tụ thất thường. Và vùng này có Ông Nguyễn Cao Kỳ được nhiều người biết tiếng. Đời ông cũng nhiều điều lạ như tên ông vậy.
Ông Nguyễn Cao Kỳ - chính khách, phó tổng thống VNCH.
*Hôm trước viết hơi quá tay, quên mất quê bác CẢ ( Đông Anh) cũng thuộc phương vị này.*
Ông Kỳ sinh ngày 8/9/1930 dương lịch, giờ Dần. ( tức 16/7/1930 âm) - năm Canh ngọ, tháng ất Dậu, ngày Tân Dậu, giờ canh dần.
-Mệnh nam dương thổ, lập mệnh tại Ngọ địa có Sao Thái Dương ( miếu).
-Sinh giờ dần là thân cư Quan Lộc tại Tuất địa( công việc, sự nghiệp là con đường tiến thân).
-Cung Tài Bạch tại DẦN địa :không có sao ( tức Vô chính diệu) lấy tính chất từ cung đối xung Sao Thiên Cơ - Thái Âm tại cung Phúc Đức ở Thân địa hoá ra hay. Đủ bộ Tam Thái, có cả song Lộc Chiếu, có Thiên lý mã giao hội với Hổ- Phi.
-Tuổi Canh Ngọ thổ dương nam an cung mệnh tại Ngọ ( dương): là âm dương thuận lý, rất tốt.
-Mệnh thổ lại có cách ( hoàn cảnh) Mộc Tam Cục: cục mộc khắc thổ mệnh, thành ra phải chiến đấu với hoàn cảnh mới được việc của mình.
2.Hoàn cảnh số mệnh cá nhân với đất nước.
Ông Kỳ sinh năm 1930, tới năm 1933 mới bắt đầu vào vận số ( vì mộc Tam cục). Tức ông sinh trong vận ( 1925- 1934) của Nước Việt có sao Liêm Trinh ( vượng địa) giai đoạn này đất nước sinh ra nhiều người tài giỏi, nhân tài lãnh đạo vì có bộ ( Tử -Phủ -Vũ - Tướng- Liêm).
Chồng hai lá số ông Kỳ và Việt Nam lên nhau. Mệnh ông Kỳ ứng với cung Nô Bộc của nước Việt có Sao Vũ Khúc - Thiên Phủ, cũng trong thế Tử - Phủ - Vũ - Tướng - Liêm.
- Tiền kiếp thì xét cung Bào: có Vũ Khúc _ Phá Quân: Thì thủa nhỏ hay nghịch, lắm tài đa tật
- Thủa niên thiếu: từ 1933- 1942: có nhiều điểm về tính cách chịu ảnh hưởng từ nên giáo dục cũ của gia đình nhà Nho trọng lễ, nghĩa và có tư tưởng tiến bộ ( Phụ Mẫu có Thiên Phủ, giáp Âm - Dương nhị hợp, cùng ngũ hành với mệnh).
- Giai đoạn đại vận thứ 3 Phúc Đức cung: (1953 - 1962) đại vận nền tảng quan trọng cuộc đời và sự nghiệp ứng với Đại Vận 1 của nước Việt ( 1951 - 1960): mệnh Vô Chính Diệu bơ vơ, chia đôi ngả Âm - Dương bị tác động bên ngoài ( Thiên Di).
- Giai đoạn đại vận 4 Cung Điền Trạch ( 1963 - 1972) đầy biến động, sóng gió chính trường thời đó ( Tử Tham tại Dậu - Không - Kiếp - Hỏa - Linh). Cũng ứng với đại vận 2 của Việt Nam ( 1961 - 1970) cuộc chiến huynh đê tương tàn ( Bào: Thất Sát ).
Vậy ông là người có sức ảnh hưởng đến đất nước Việt xét theo hoàn cảnh lịch sử.
Mặt khác người tuổi Canh làm quan, chính trị ơi nước Việt thường bị thua thiệt, vì cung quan Lộc đất nước có Thiên Đồng, mà tuổi Canh thì Hoá Kỵ ( mây đen). Mà tên ông là Cao Kỳ ( tức cao cờ, cao kỵ) có lẽ cái Đồng - chung ( của xã hội chủ nghĩa ) không hợp khi số phận an bài sau này, nhưng về già ông vẫn cố, cố gắng hàn gắn vết thương lòng.
2.Đôi nét về cuộc đời ông
Tên: Nguyễn Cao Kỳ sinh năm Canh Ngọ, nam mệnh thuộc quẻ Đoài, tên được quẻ Khôn, đồng Tây tứ mệnh, vậy là tên hợp mệnh.
Sinh vào tháng 7, quẻ Khôn hợp mệnh quẻ đoài.
Ngày 16, giờ Dần lúc Âm - Dương giao thái, dương tăng, âm giảm.
Người tuổi Ngọ, mệnh an tại Ngọ địa thì Thái Tuế tại Mệnh, tức số mệnh có bộ Thái Tuế- gắn liền với trách nhiệm đặc biệt với đời:
- Năm 1952: học khoá không quân đầu tiền của quân đội quốc gia Việt Nam.
- Cuối tháng 10 năm 1955, sau khi nền Đệ Nhất Cộng hòa ra đời, ông được thăng cấp Trung úy giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Phi đoàn 1 Vận tải.
-Đầu năm 1956, ông kiêm trách nhiệm Chỉ huy trưởng căn cứ 3 Trợ lực Không quân. Đến đầu năm 1958, ông được thăng cấp Đại úy và được cử đi du học lớp Chỉ huy và Tham mưu Không quân tại Tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ.
- Năm 1960, ông được thăng cấp Thiếu tá, giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên đoàn 1 Vận tải C.47. Ngày Quốc khánh Đệ Nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1962, ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.
Đảo chính năm 1963: ông giữ vai trò quan trọng trong cuộc đảo chính lật đổ chế độ Đệ Nhất Cộng Hoà. Cuối năm này ông nắm quyền Tư lệnh binh chủng Không Quân.
-1964: thăng làm thiếu tướng dưới thời Đệ Nhị Cộng Hoà.
-1964-1965: ông Kỳ dàn xếp, đứng ra thỏa hiệp 2 cuộc đảo chính của các quan chức quân đội.
-1965: nắm cương vị thủ tướng.
-1967: là phó Tổng thống ( ông Thiệu làm tổng thống), sau khi đồng sỹ lập liên minh bầu cử.
Sau năm 1968 thì bị tổng thống Thiệu gạt ra, hạ thấp tầng ảnh hưởng của ông Kỳ.
-8/1971: Ông Kỳ chấp nhận rút đơn tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 1971- 1975.
-Sau biến cố 1975: ông sống lưu vong tại Hoa Kỳ.
-Mất năm 2011, trong chuyến công tác vận động quỹ du học tại Mã Lai.
Mệnh ông có sao Thái Dương tại Ngọ, tượng trưng mặt trời giữa trưa thì sáng mạnh mẽ lắm. Thái Dương chủ về công danh. Tuổi Canh: Thái dương hoá khí thành Lộc. Nên có danh sẽ sinh ra Lộc.
Mệnh Ông Kỳ đủ bộ cách đẹp: Cự Nhật tại Ngọ - Tuất.
Thái Dương có đủ bộ hợp cách: đã trí tuệ, hơn người lại thêm đủ trợ cách, xa lánh các sát tinh, số ông vẫn ung dung tự tại từ khi trẻ đến khi về già, luôn có người trợ giúp, có sức ảnh hưởng lớn trước và sau năm 1975.
+ Khôi - Việt, Xương - Khúc, Tả - Hữu, Quang - Quí, Long- Phượng - Cái ( chủ về Quý Cách).
+ Đủ bộ Tam Thái tại cung Tài Bạch ( bọc lộ tài năng hơn người): Thái Dương (mệnh )- Thái tuế ( mệnh)- Thái Âm ( phúc Đức).
+ Khoa - Lộc Tồn - Hoá Lộc- Thiên Mã - Bạch Hổ- Phi Liêm: Trí tuệ, hiểu biết, suy tính , nghị lực và hành động.
Sự nghiệp gắn liền tiếng Tướng không quân: Thiên Cơ - Hổ-Phi - Khoa - Tam Thái.
Ông rất được lòng, uy tín lớn các thuộc cấp, tiếng nói của ông có sức ảnh hưởng, tác động mạnh đến cuộc đảo chính năm 1963, khi ông nắm giữ Không Lực của thời đệ nhất Cộng Hoà.
Bước vào đại vận: 1963 -1972 đầy biến cố lịch sử đất nước và cuộc đời ông.
( Mã Đắc Khoa- còn tiếp).
#17
Gửi vào 08/09/2021 - 00:00
Sau Ông được gởi đi học Phi công ở một Trường bên Pháp . Do đó có người vợ đầu tiên là người Pháp .
===============
Về lá số Tử vi thì tôi không nhớ đúng với lá số của Ông Hoa-Cái đưa ra không . Với lá số trên thì tôi có đọc trong "lyso.vn" năm 2010 đúng là giờ Dần.
Thanked by 1 Member:
|
|
#18
Gửi vào 08/09/2021 - 01:37
Đinh Văn Tân, on 08/09/2021 - 00:00, said:
Sau Ông được gởi đi học Phi công ở một Trường bên Pháp . Do đó có người vợ đầu tiên là người Pháp .
===============
Về lá số Tử vi thì tôi không nhớ đúng với lá số của Ông Hoa-Cái đưa ra không . Với lá số trên thì tôi có đọc trong "lyso.vn" năm 2010 đúng là giờ Dần.
Năm: tháng 12/ 1952 DL ( Năm Nhâm Thìn): Trúng tuyển Không Quân.
Đại vận cung Thân ( Cơ - Âm). Tiểu hạn tại Dần. Tuế niên cung Thê.
Cung thê có Hóa Kỵ ở Thìn không đến nỗi tệ.
Giai đoạn quan trọng Cuộc Đời Ông Nguyễn Cao Kỳ ( Phần sự kiện lịch sử lấy trên Wiki, chứ tôi không có tài liệu nào cụ thể hơn). Viết ra sự tình cũng lắm cái bi ai và chẳng kém gì truyện Tam Quốc. Việc này cần viết kỹ, để dùng cho sau này, liệu Việt Nam giai đoạn 2041 -2050 có thế này ?
Giai đoạn: 23 tuổi – 32 tuổi: từ năm 1953( Quý Tỵ) – 1962 ( Nhâm Dần): Mệnh Thái Dương đi vào đại vận tại Cung Phúc Đức ở bản cung Giáp Thân có sao Thiên Cơ – Thái Âm ( miếu) rất đẹp đủ bộ Tam Thái, hợp cả Xương - Khúc, chủ về thời cơ hiếm có để thăng tiến với đời, trợ cách chủ về học thức:
- Hóa Khoa ( tri thức)- Văn Xương – Thiên Mã ( nghị lực, đa năng, tháo vát).
- Tam hợp có: Tướng - Ấn ( Tướng quân được trao ấn) – Khốc – Hư ( vang danh)– Hổ - Phi (Hổ mọc thêm cánh), thêm Phượng – Mã – Quý – Tả : trợ giúp đi xuất ngoại, thành danh.
-25 tuổi ông đã là Trung Úy chức chỉ huy trưởng Phi Đoàn 1 Vận Tải. năm 1956.
-26 tuổi Ông kiêm luôn chức chỉ huy trưởng Căn cứ 3 trợ lực Không Quân.
-Năm 32 tuổi Ông Kỳ thăng chức Đại Tá, giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên đoàn 1 Vận tải C.47.
*Giai đoạn năm 1963- 1972 ( từ 33 tuổi – 42 tuổi): Đại vận tại cung Điền Trạch có Tử Vi – Tham Lang tại dậu địa. Tuần Giáp Thìn làm chủ ( Ứng vị cung Thê)
Như viết tiểu sử ở phần trên, giai đoạn này cũng là lúc ông đỉnh cao của sự nghiệp, giữ chức Thủ Tướng ( 35 tuổi), Phó Tổng Thống ( 37 tuổi), thăm hàm Thiếu tướng khi mới 34 tuổi. Nhưng cũng lắm điều trái ngang và mầm móng sinh tử.
- Mệnh Thái Dương bước vào đại vận tại Dậu có Tử Vi – Tham Lang giao tranh giữa bộ (Tử Vi – Phủ - Vũ – Tướng ) bị thiếu quân số với phe Thất Sát – Phá Quân – Liêm Trinh – Tham Lang ( đủ bộ).
- Lại có đủ : Địa Không – Địa Kiếp ( đệ của Phá Quân) – Kình Dương ( đêh của Thất Sát) – Hỏa Tinh – Linh Tinh ( đệ của Tham Lang). Bộ Lục Sát thì đại vận này đã có 5/6.
- Thế lực bạo động, cách mạng Sát – Phá – Liêm – Tham làm chủ, ăn đứt Phe Tử Vi – Vũ Khúc đơn lẻ. Mà thế Tử Vi sợ nhất gặp Địa Không ( Vua không thực quyền, vua mong mạng).
- Tại cung Điền Trạch là đất nước binh biến, khói lửa, đầy bất trắc.
Tính chất của Thái Dương của ông Kỳ vào thế bất lợi, ngả về phe nào ? có bạo động hay không?.
Trước và sau chính biến lật đổ Đệ Nhất Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963.
- Trước chính biến lẽ có nhiều nguyên nhân sẽ có thời gian phân tích sau dựa trên lá số của cá nhân liên quan.
- Châm ngòi là sự kiện mùa lễ Phật Đản năm 1963 ( khi Phật Giáo đã nhuộm màu chính trị thì sẽ có máu và nước mắt). Liên tiếp các sự vụ biểu tình dẫn đến bạo động của dân chúng, sự tựu thiêu của các tăng ni đã làm dấy lên sóng gió của công luận quốc tế, đặc biệt dân chúng và các nghị sĩ Hoa Kỳ. Miền Nam Việt Nam làm tiêu điểm trong cuộc tranh cử tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 1964 – 1967.
- Sự bất mãm trong cách vận hành đất nước của giới Tướng lính và sĩ quan trẻ của Việt Nam cộng hòa. Trong thời gian này cơ quan CIA báo cáo có ít nhất 10 nhóm âm mưu đảo chính. Nổi cộm là nhóm Tướng Dương Văn Minh
*Để đối phó, Chính quyền Ông Diệm ra lệnh thuyên chuyển các tướng lãnh Tư lệnh các Vùng chiến thuật.
- Tướng từ Vùng II chuyển về Vùng III.
- Tướng Huỳnh Văn Cao được đưa về Vùng IV.
- Tướng Nguyễn Khánh được đưa ra Vùng II,
- tướng được đưa ra Vùng I.
- Những tướng bị nghi ngờ thì được triệu về Sài Gòn giữ những chức vụ không có quân trong tay. Tướng làm cố vấn quân sự cho Phủ Tổng thống.
- Hai lực lượng hùng hậu nhất mà chính quyền ông Ngô Đình Diệm tin cậy là do Đại tá làm Tư lệnh và do Trung tá Nguyễn Ngọc Khôi làm Tư lệnh, được bố phòng chặt chẽ nhằm sẵn sàng đối phó.
- Tướng Dương Văn Minh: những năm 1959 nắm quyền 3 quân khu ( I, V, Thủ Đô Sài Gòn). Đầu năm 1960, ông được cử làm Tổng Thư ký Thường trực Bộ Quốc phòng, đầu năm 1961, giữ chức vụ Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân tại Bộ Tổng Tham mưu, Phụ tá cho ông là Thiếu tướng .. Sang năm 1962 thì Bộ Tham Mưu giải tán, Tướng Minh về làm cố vấn quân sự cho Tổng Thống. Thành ra sức ảnh hưởng trong chính giới và quân sự giảm sút.
- Chủ đích, chớp thời cơ,lên kế hoạch lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm vào ngày 1/11/1963 là nhóm tướng Dương Văn Minh. Sau đó Ông Diệm và em trai ông là Ngô Đình Nhu bị sát hại vào 8h tối ngày 1/11/1963.
Ngay sau đó, ngày 4/11/1963 tướng Dương Văn Minh thành lập Hội đồng Quân nhân Cách mạng với 20 thành viên, Tướng Minh làm chủ tịch, phó là tướng Đôn, ông NVT ( thiếu tướng) làm ủy viên trong ban này.
Ngày 6/11/1963: Hội đồng Quân Nhân của Tướng Minh thành lập chính phủ dân sự Thủ tướng là ông Nguyễn Ngọc Thơ.
Nhưng chỉ sau đó 3 tháng, nửa đêm về sáng ngày 30 tháng 1 năm 1964 được sự ủng hộ của và "nhóm các tướng trẻ", ông đã cầm đầu cuộc , cướp quyền và truất phế các tướng lĩnh chủ chốt cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 là Tướng Dương Văn Minh, tướng Trần Văn Đôn và chính phủ
Sau đó ông làm chủ tịch hội đồng Quân Đội Cách Mạng nắm quyền hành quân đội, nhưng do tình hình quân đội như rắn mất đầu, mạnh ai người đó có quyền, đất nước bất ổn, uy tín của Tướng Khánh dần suy giảm, không được lòng chung trong giới quân sự và dân sự.
Hội đồng Quân Lực gồm nhóm tướng lĩnh trẻ ( thành lập ngày 18/11/1964 giải tán 14/6/1965) hình thành trong giai đoạn chuyển giao chính quyền Quân Sự sang Dân Sự trong cuộc tổng bầu cử năm 1967. Hội đồng này cùng thống nhất, phế truất ông, ngày 21/2/1965 Tướng Khánh bị tước mọi quyền hành và chức vụ, ngày 22/2/1965 nhận chức Đại Sứ tại nước ngoài.
Trong 2 ngày 13 và 14 tháng 6 năm 1965, Đại hội đồng Quân lực gồm 50 thành viên tướng lãnh họp liên tục tại trại Phi long trong Bộ Tư lệnh Không quân ở Tân Sơn Nhất. Bầu ra Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ Tướng quốc gia, Tướng NVT làm Chủ Tích nước Việt Nam Cộng Hòa.
Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1967. Ông Nguyễn Cao Kỳ tranh cử chức Tổng Thống. Sau do tác động của hội đồng Quân Lực, giữ đoàn kết trong nhóm quân sự. Ông Kỳ xin rút. Sau được mời đề nghị liên danh, ứng viên chức Phó Tổng Thống, cho ông Thiệu.
3/9/1967: Liên minh 2 ông Thiệu – Kỳ thắng cử. Ông Kỳ làm Phó Tổng Thống.
Sửa bởi kietbiz: 08/09/2021 - 01:44
#19
Gửi vào 08/09/2021 - 12:16
1. Xét hoàn cảnh thời cục:
Năm 1963 vận nước Việt Nam vào đại vận thứ 2 cung Bào ( Huynh Đệ) gặp Thất Sát (từ năm 1961 -1970) thời gian anh em tương tàn.
*Năm Quý Mão có:
-Lưu Thái Tuế tại Mão địa là cung an Thân – Phúc Đức Vô chính diệu.
-Tiểu hạn năm Mão: tại cung Mệnh ở Sửu địa cũng Vô Chính Diệu.
Lưu Niên đại vận cung Bào – Thất Sát tại đối cung Nô có Vũ – Phủ ( to lớn, tày đình) gặp Địa Kiếp ( kiếp nạn).
-> Vậy luận là sự việc tại Việt Nam trong năm này rối loạn, không có định hướng ( Vô chính diệu), thời điểm thay đổi cái cũ, lập cái mới ( tiểu hạn tại mênh gốc, Thái Tuế lưu niên tại Thân – cung Phúc Đức).
2 Năm 1963 ( Quý Mão): năm ông Kỳ 34 tuổi.
*Quý Mão là năm cuối cùng thuộc năm tuần Giáp Ngọ, sức ảnh hướng tại Mệnh nắm vòng Giáp – 10 năm vẫn còn.
*Lưu niên đại vận Tử - Tham tại dậu ( từ 33t – 42t): tại cung Tử Tức ( con cái) ở Mão địa cũng trùng vời lưu Thái Tuế không có sao đóng tức cách Vô Chính Diệu. Vậy Cung Mão này đặc biệt quan trọng với ông Kỳ.
->Lại có các sao như: Hỏa Tinh ( nóng nảy, vũ khí nóng) – Thiên Hình ( hình phạt, ép buộc) – Lưu Thái Tuế ( thời thế ). Thêm vào Song Hỷ ( Thiên – Thần Hỷ) + Đào + Hồng ( lấy đối xung): bộ Tam minh chỉ sự rõ ràng, xua tan sự ngờ vực.
*Tiểu hạn năm mão vào cung Tật Ách ( ách nạn) tại Sửu địa có Liêm Trinh – Thất Sát ( dò xét, thám thính- cướp đoạt): có Địa Kiếp ( cướp, bắt lấy) – Linh Tinh ( chớp nhoáng) lại thêm Lưu Kình Dương ( có sẵn vũ khí Kinh Dương trong tay).
* Bộ sao Tứ Hóa can Quý của năm Quý Mão của Ông Kỳ.
-Phá Quân hóa khí thành Lộc tại cung Bào ( Huynh đệ): gốc có Quyền - Mã -Đại - Tiểu hao- Lưu Mã năm tại đây thể hiện sự chuyển giao, thay đổi, điều động binh, tướng, thiết bị chiến đấu.
-Thái Âm hóa khí thành Khoa tại cung Phúc Đức: gốc có đủ cách đẹp, lại thêm riêng ông ( Lộc Tồn- Cô Thần) nắm Không Lực ( Thiên Cơ – Thái Âm Khoa – Mã – Hổ - Phi)
-Cự Môn hóa khí ra Quyền ( vào cung Quan Lộc ông Kỳ): Tiếng nói ông rất có giá trị trong năm này.
-Tham Lang hóa khí ra Kỵ ( tại gốc đại Vận Tử Vi – Tham Lang tại Dậu). Vậy thành ra đại vận bị rung lắc mạnh bởi các yếu tố sau:
+Tử Vi – Tham Lang tại Dậu: chủ về tín ngưỡng tôn giáo bị dính Hóa Kỵ, điều tiếng ( cái này là hoàn cảnh thời cuộc không phải của chính ông Kỳ).
+Như bàn ở trên bộ Lục Sát (Không – Kiếp- Kình – Đà- Hỏa – Linh): đại vận này có tới 5/6 vậy đủ nguy rồi.
+Trục Mão – Dậu của đại vận có: Thiên Hình - Hỏa Tinh– Kình Dương – Địa Không được kích hoạt bởi Lưu Thái Tuế ( năm Quý Mão) – Hóa Kỵ
+ Tiểu hạn trục Mão – Dậu có: Địa Kiếp – Linh Tinh – Đà La – Thiên Không có lưu Kình Dương gia vào.
->Vậy coi như đủ yếu tố bất ổn lớn: bộ quyền biến, bạo động Chính tinh: Sát – Phá – Liêm – Tham. Bộ Lục Sát: Không – Kiếp- Kình- Đà- Hỏa- Linh làm ngòi nổ. Châm lửa chính là Lưu Thái Tuế - Hóa Kỵ - Thiên Hình.
*Ngày 1/11/1963 dl ( 16/9/1963 âm lịch): Nguyệt hạn tháng 9 ( Nhâm Tuất) tại cung Huynh Đệ, lưu Tuế nguyệt- Tuất tại cung Quan Lộc. Ngày 16 ( Nhâm Thân), lưu nhật tại cung Thân, Tuế Nhật tại cung Thân.
Ông Kỳ không tham gia vào cuộc binh biến năm này. Phe Tướng Minh mới vai chính trên sân khấu.
“Gốc rễ vấn đề Chính Biến ở sự việc là cách: Tham Lang ( tham lam)- Kình Dương ( Cây súng)- Hồng Loan ( loan báo, máu chảy, họa từ Phụ Nữ- ứng bà Vợ ông Nhu)- có cả Không – Kiếp – Hỏa – Linh: Do vua Tử Vi: tham quyền, tham nhũng, lúc chánh, lúc tà thành ra kết cục như vậy. “
----
Vậy các năm Mão quan trọng trong cuộc đời ông có thể lược qua:
- 1951 ( Tân Mão): Nhập ngũ.
- 1963 ( Quý Mão): chính biến của tướng Minh lật đổ chính quyền Ông Diệm, sau đùn đẩy thế nào ông được thăng cao cho tới năm 1968.
- 1975 ( Ất Mão): thì ông lưu vong.
- 2011 ( Tân Mão): Ông mất tại Mã Lai.
Hôm này ngày sinh của ông Kỳ, viết đôi dòng về ông !
(Mã Đắc Khoa)
Sửa bởi kietbiz: 08/09/2021 - 12:18
#20
Gửi vào 12/09/2021 - 16:42
-Lên ngôi ngày 12/12/1225 ( ất dậu) lúc 8 tuổi, sau cuộc soán ngôi nhà Lý êm thấm bằng 1 cuộc hôn nhân chính trị.
-Năm 1237: ( Đinh Dậu) Lập công chúa Thuận Thiên ( vợ của anh trai Hoài Vương Trần Liễu) làm Hoàng Hậu, phế bỏ Chiêu Thánh ( Hoàng hậu Chiêu Hoàng làm công chúa do không sinh được con).
Khi Công chúa Thuận Thiên và Vương Trần Liễu đang có mang 3 tháng Quốc Khang ( anh cùng cha khác mẹ với Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn). Quốc Khang sau này được vua Trần Cảnh nuôi dưỡng, được phong là thứ bậc là con trưởng, tước hiệu là Đại Vương.
( Cung Thiên Di tại Tý địa: Cách Tham Lang – Kiếp – Khách- Thai – Hỷ. Hoàng hậu Thuận Thiên tuổi Bính Tý, hơn 2 tuổi so với vua Trần Cảnh, hợp cung Thê có Thất Sát ( hãm) – vợ hơn tuổi, vợ chết sớm, hoặc có sự hình khắc với hôn phối).
Vương Trần Liễu đem quân tới đánh, xong lực lượng ít, yếu thế hơn nhiều so với quân của Thái Sư Trần Thủ Độ. Sau Trần Liễu xin hàng, vua giảng hòa, cắt đất, lập ấp cho Vương Liễu.
-Năm Canh Tý ( 1240): Hoàng Hậu Thuận Thiên sinh thái tử Hoảng lập làm Đông cung Thái Tử ( tức Vua Trần Thánh Tông) ngày 25/9 al giờ ngọ. Nhân xưa, vua Thái Tông ( Trần Cảnh) chiêm bao thấy thượng đế trao cho gươm báu, ít lâu sau thì hoàng hậu Thuận Thiên có mang.
-Năm Tân Sửu ( 1241): Hoàng tử Quang Khải ( danh tướng Trần Quang Khải) sinh
-Năm Mậu Thân ( 1248): tháng 6, Hoàng hậu Thuận Thiên băng hà.
- Năm Tân Hơi ( 1251) Gả trưởng nữ công chúa Thiên Thành cho Trung Thành Vương ( người trong họ Trần), nhưng bị Trần Quốc Tuấn ( Hưng Đạo Vương) cướp làm vợ. Nhân quả tiền kiếp.
Vua Trần Cảnh cướp vợ của anh Trần Liễu, nay con gái bị cướp bởi Trần Quốc Tuấn, con của Vương Trần Liễu.
Chắc lúc đó tuổi Hưng Đạo Vương còn trẻ, nông nổi và đẹp trai lắm ( tên tự Quốc Tuấn).
-Năm Nhâm Tý (1252) tháng giêng đem quân đi đánh Chiêm Thành, đến mùa đông chiến thắng về kinh.
-Năm Ất Mão (1255) sinh hoàng tử thứ 6 là Nhật Duật ( danh tướng Trần Nhật Duật).
Trước đó đạo sĩ cung Thái Thanh tên là Thậm cầu tự cho vua. Đọc sớ xong đạo sĩ tâu vua: “Thượng đế đã y lời sớ tấu, sắp sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh, ở trần thế 4 kỷ “( 1 kỷ là 12 năm). Thế rồi Vương phi có mang, sau quả nhiên sinh con trai, hai cánh tay có chữ “ Chiêu Văn đồng tử”, vì thế đặt hiệu là Chiêu Văn ( tức là Nhật Duật).
Đúng đến năm 48 tuổi, bị ốn hơn 1 tháng, các con ông làm chay, xin giảm tuổi thọ của mình để kéo dài tuổi thọ cho cha. Đạo sĩ đọc sớ xong, đứng dạy nói: Thượng đế xem sớ xong, cười bảo: : sao hắng quyến luyến trần tục muốn ở lại lâu thế, nhưng các con hắn thực lòng hiếu tháo, cũng đang cho. Thôi cho thêm 2 kỷ nữa”
Bệnh liền khỏi, sau Vương Nhật Duật thọ 77 tuổi, ffut 6 kỷ lẻ 5 năm.
-Năm Đinh Tỵ ( 1257): mùa đông, vua truyền lệnh cả nước sắm sửa vũ khí. Ngày 12, Tháng 12 vua Trần Cảnh – Trần Thái Tông đích thân đánh giặc, may có tướng Lê Phụ Trần cứu nguy, vua – quân phải lui quân.
Ngày 24/12 thì Vua và Thái tử đón đánh, cản phá quân giặc. Quân Nguyên thua to. Thời diểm này quân Nguyên chiếm và kéo quân xuống tận Vân Nam ( Trung Quốc), tướng Nguyên là Ngột Lương Hợp Đài xua quân cướp phá, chứ không đánh tổng lực, nên thế giặc không nguy cấp lắm.
Tháng 2 năm 1257: Hoàng Bính ( viên quan nhà Tống, chạy sang nước Việt), dâng con gái vào cung hầu hạ vua. Vua đồng ý phong là Huệ Túc phu nhân. ( bà Huệ Túc này cũng rất giỏi).
Nhà Trần thời vua Trần Cảnh ( Thái Tông) chống quân Nguyên lần 1.
-Năm Mậu Ngọ ( 1258): ngày 24/2 nhường ngôi cho Hoàng thái tử Hoảng ( Trần Thánh Tông).
-
Năm Kỷ Mùi ( 1259) tháng 1, phu nhân Trần Thủ Độ là Linh Từ quốc mẫu ( tức Trần Thị, hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông, cô của vua Trần Cảnh- Thái Tông) mất.
-Năm Giáp Tý ( 1264) tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ mất ( thọ 71 tuổi), ông và Trần Thị có công lớn trong quá trình gây đế nghiệp nhà Trần, cũng nhiều tội với nhân gian.
-Năm Đinh Sửu ( 1277): ngày 1/4 mất Thượng hoàng Trần Thái Tông
Trước đó Thượng hoàng, đến ngự đường, thấy con rết bò trên áo ngự. Thượng hoàng sợ lấy tay phủ, nó rơi đánh tiếng “ Keng” xuống đất, nhìn xem thì hóa ra cai đinh sắt, đoán điểm năm Đinh.
Có lần đùa sai Minh tự - Nguyễn Mặc Lão dùng phép dự đoán điểm lành dữ. Hôm sau, Mặc Lão tâu:” Thấy một chiếm hòm vuông, bốn mặt đều có chữ nguyệt” , trên hòm có một cái kim, một chiếc lược.
Thượng hoàng lại đoán: “ Hòm tức là quan tài, chữ Nguyệt – tháng, ở 4 bên tức là tháng 4, cái kim có thể cắm vào vật , tức là nhập vào quan tài, chữ “ sơ” là chiếc lược, đồng âm với “ sơ” là xa, tức xa rời các ngươi”.
---Cái tài đoán điềm, và mộng thấy điềm lành dữ: Có lẽ Cung Tài Bạch có bộ: Thiên Tướng - Hỏa - Linh- Hình - Thái Tuế.
Lưu ý: nhiều môn huyền học như Tử Vi Đẩu Số thành trường phái riêng của Nhà Trần, rất nổi tiếng gọi là Tử Vi Đông A.
Môn phong thủy, kinh dịch, tướng số, kỳ môn, thái ất ... cũng dùng rộng rãi trong việc tuyển chọn người tài làm quan, mưu lược quân sự...
*Tổng kết đầu thời Trần Vua – Trần Cảnh ( Thái Tông):
- Tập trung quyền lực, vị trí quan trọng vào các người thuộc thân thích họ Trần.
- Gây dựng lại các chính sách quản lý dân cư, phát triển nông nghiệp
- Xây dựng và coi trọng nền giáo dục đào tạo nhân tài, tuyển lựa các quan văn, tướng võ qua các kỳ thi tuyển.
- Năm nào cũng bị thiên tai, lũ lụt, vỡ đê, núi lở, Nhật – Nguyệt thực di thường. Có lẽ ông Triều Lý và ông trời cũng oán trách việc hôn nhân lộn lạo của Nhà Trần.
- Có vài biến cố nhỏ về quân sự nhưng không đáng kể.
( Trích Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)
Sửa bởi kietbiz: 12/09/2021 - 16:54
Thanked by 1 Member:
|
|
#21
Gửi vào 19/09/2021 - 22:08
"Kết Hôn và Lập Vua Triều Trần"
----
Lệ cả triều Trần khi lập đến khi suy, Hoàng thái tử là người được chọn làm vua sau này thường được nuôi dậy kỹ càng, kết hôn với người trong nội tộc gần của nhà Trần. Sau khi lên ngôi Vua, Thái Thượng Hoàng vẫn đóng vai trò quan trọng trong triều, có thể phế lập vua khác nếu không có tài trí. Điểm qua góc cạnh hôn nhân và kế lập thấy cái đặc biệt hiếm có trong các triều đại phong kiến ở nước ta.
( Phần 1)
-Vua TRẦN THÁI TÔNG (tên húy: Trần Cảnh) lấy bà Chiêu Hoàng công chúa nhà Lý mà được nước. Vì không có con bị phế làm công chúa, cướp bà Thuận Thiên – Lý Oánh ( chị của bà Chiêu Thánh) đang có mang con trai 3 tháng, dùng cách " Trộm long, tráo phượng"- để bảo toàn quyền lực của Trần Thủ Độ, Quốc Mẫu Trần Thị Dung ( hoàng hậu nhà Lý, sau lấy Thủ Độ) và ngôi vị của vua Trần Cảnh.
*2 bà công chúa nhà Lý Chiêu Hoàng, Thuận Thiên là con gái của quốc mẫu Trần Thị Dung với vua Lý Huệ Tông triều trước. Theo vai vế 2 bà Chiêu Hoàng, Thuận Thiên gọi vua Thái Tông – Trần Cảnh là anh họ.
Sau này Vua Thái Tông và bà Thuận Thiên sinh: Trưởng nam Trần Hoảng ( vua Thánh Tông), Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải.
*Về Bà Chiêu Hoàng sau khi bị phế làm công chúa, lưu ở hậu cung. Vua Thái Tông ban thưởng bà Chiêu Hoàng cho tướng Lê Phụ Trần, đã có công cứu giá khi đánh quân Nguyên lần 1. Chiêu Hoàng khi đó đã ngoài 40 tuổi, sinh cho Lê Phụ Trần 1 trai và 1 gái. Thọ đến 61 tuổi mới mất ( năm 1278).
*Chính sử chép, Công chúa Thuận Thiên đã lấy anh vua là Yên Vương – Trần Liễu, sinh ra Trần Tung, Trần Doãn, Trần Quốc Tuấn và khi có mang 3 tháng Trần Quốc Khang. Thành ra Vương Trần Liễu có mối cừu thù với tộc họ Trần và với em trai Trần Cảnh. Sau Vương Trần Liễu lấy bà khác sinh ra nữ thứ Trần Thiều làm hoàng hậu
Vương Trần Liễu cố công tìm các thầy giỏi, từ văn chương đến binh gia, yếu pháp dạy cho Quốc Tuấn. Khi chết vẫn căn dặn báo lấy thù cho cha.
Trong các con của Trần Liễu có Quốc Tuấn thành tài, danh tướng kiệt xuất cho muôn đời và con gái là Trần Thiều làm Thiên Cảm Hoàng Hậu vợ vua Thánh Tông.
( hết p1)
Thanked by 1 Member:
|
|
#22
Gửi vào 10/10/2021 - 09:18
Nếu cứu xét bằng tử vi thì thời này Âm - Dương đồng lâm tại Mùi địa, lắm điều trái ngang, thiên tai cũng lắm. Trước thống kê ông vua đầu Trần Thái Tông - Trần Cảnh thì có phạm vào điều hôn phối nghịch thiên. Nay thống kê các đời vua còn lại.
2.*Vua Trần Thánh Tông ( tên húy: Trần Hoảng ) năm sinh 1240- mất năm 1290. lấy Thiên Cảm Hoàng Hậu, bà là con của Yên Sinh Vương Trần Liễu, tức em lấy chị họ ( con chú, con bác ruột). Rồi sinh ra hoàng thái tử Trần Khâm.
3*Đời Trần Nhân Tông ( tên húy: Trần Khâm) năm sinh 1258 mất năm 1308. Ông lấy 2 con của Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn ( tức lấy chị họ) là bà Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng Hậu là con bà cả của Hưng Đạo Vương và Tuyên Từ là con bà thứ. Bà Khâm Từ sinh ra trưởng nam Trần Thuyên. Trước có 3 sinh người con trai cũng đều chết cả.
4*Vua Anh Tông ( tên húy Trần Thuyên), sinh năm 1276 mất năm 1320, trước khi lên ngôi thì lấy bà chị là Văn Đức Phu Nhân, sau lên làm vua phế bỏ bà Văn Đức mà lập em gái Bảo Từ làm Hoàng Hậu 2 bà là con gái Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng ( cháu nội Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn) nhưng rồi không có con trai. Sinh được 3 người con trai lần lượt chết cả.
Bà Chiêu Hiến ( có chỗ ghi Chiêu Từ) làm phi, sinh ra trưởng nam duy nhất là hoàng thái tử Trần Mạnh tức vua Minh Tông sau này còn lại là công chúa.
Bà Chiêu Hiến là con gái Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng và công chúa Thụy Bảo ( Con gái của vua Trần Thái Tông – Trần Cảnh. Theo vai vế trong họ là cháu lấy cô.
Trần Bình Trọng là danh tướng nhà Trần, ông thuộc dòng dõi Đại Hành Hoàng Đế- Lê Hoàn ( thời Tiền Lê), sinh ở xã Bảo Thái, nay thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Vợ Trần Bình Trọng là công chúa Thụy Bảo, con gái của Trần Thái Tông ( Trần Cảnh). Công chúa đã có một đời chồng trước là Uy Văn vương Trần Toại, sau khi Toại mất thì công chúa được gả cho Bình Trọng.
5*Vua Trần Minh Tông ( tên húy Trần Mạnh) sinh năm 1300 mất năm 1357, lấy Hiển Từ Tuyên Thánh, bà là con gái Huệ Vũ Đại Vương Trần Quốc Chẩn. Bà Hiển Từ gọi vua Nhân Tông là ông nội, gọi vua Anh Tông là bác, gọi vua Minh Tông là anh họ.
Năm vua Minh Tông trị vì 15 năm, 29 tuổi mới lập Hoàng Thái Từ là Trần Vượng ( Vua Hiến Tông) con trưởng của Vua với bà Minh Từ quý phi họ Lê. Việc này không đúng phép tắc của nhà Trần, chỉ lập Hoàng Thái Tử là con trưởng của vua và hoàng hậu.
Ngặt nỗi bà Hoàng hậu Hiển Từ mãi chưa sinh con trai. Đến mãi sau này, khi đã lập Hoàng thái tử Trần Vượng, được vài năm mới sinh ra Trưởng nam Cung Tức Vương – Trần Nguyên Dục và Trần Hạo ( vua Dụ Tông sau này).
Sau khi Trần Vượng ( Hiến Tông) lên ngôi đến 23 tuổi thì mất. Nguyên Dục là người ham chơi, không trí nên vua Minh Tông không lập, mà lập vua là Hạo khi mới 5 tuổi.
Cậu chuyện xoay vần triều Trần cũng từ giai đoạn này !
6*Vua Hiến Tông lên ngôi đến 23 tuổi thì mất (năm 1319- năm 1341), không có con. Tuy Vua thông minh, nhân từ, được Thượng hoàng Minh Tông hỗ trợ, quyết sách việc triều chính. Tiếc cho vua hiền mà mất trẻ !
Nhưng phải chăng đến đây đời Đế Vương nhà Trần bị đứt mạch. Bà Minh Từ quý phi không thuộc tôn thất, anh em nội tộc nhà Trần.
Thanked by 1 Member:
|
|
#23
Gửi vào 17/10/2021 - 10:06
Bàn Sử Triều Trần Và Tử Vi vận Đất Nước Việt
Thiết nghĩ chuyện thế sử cũng làm ta phải suy xét, việc lành dữ, tốt xấu cũng thiên ứng, sắp đặt sẵn mà có. Tôi lấy mốc nhà Trần để nghiên cứu bởi lẽ:
Nơi đền thờ trang nghiêm, rất coi trọng nhà Trần, xã hội hiện nay cũng coi Triều Trần là giai đoạn vang danh sử sách.
- Đại niên vận ( 120 năm) nhà Trần ứng cung Thiên Di ( hình ảnh, giao tế, biểu dương), tức từ năm 1225 đến 1344 của Mệnh nước Việt ở đại niên vận hiên tại từ năm 1945 đến 2064. Nên xét đi chiều thuận, hay nghịch theo vòng Thái Tuế đại niên vận vẫn đúng.
-Trước tôi cũng hay tự hỏi vai trò của bộ máy nhà nước hiện nay theo cách thức nào ? bạn sẽ thấy điểm tương đồng: Tổng Bí Thư tựa Thái Thượng Hoàng, Chủ Tịch Nước làm Vua, Thủ Tướng ứng chức Tể Tướng vậy, so sánh thì khập khiễng, nhưng cách vận hành cũng na ná như mô hình thời Trần.
*Quay ngược trở lại thế Sử mà xét việc đời:
-Giả như không có ông Trần Thủ Độ và Trần Thị Hoàng Hậu sắp đặt cướp ngôi nhà Lý, có lẽ không bị Lê Quý Ly cướp ngôi sau này. Điểm chung cũng vì tôn thất trọng người Ngoại Tộc. Nhà Lý dùng người ngoại tộc của hoàng hậu Trần Thị mà mất. Nhà Trần dùng người ngoại tộc của Lê thị mà mất.
-Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông thắt cổ trong chùa mà chết. Đời sau Lê Quý Ly ép giết vua Giản Hoàng ( Trần Phế Đế), treo cổ vua Thuận Tông, rồi cướp ngôi.
-Lại nếu không có sự cướp vợ của Vương Trần Liễu, thì Thái Tông - Trần Cảnh không sinh được vua hiền, tài trí Thánh Tông, đại vương Trần Khánh Dư bảo vệ đất nước trước quân Nguyên Mông, rồi xuất thánh hiền Nhân Tông, Anh Tông sau này. Thế nên Hưng Đạo Vương- Quốc Tuấn khi còn trẻ cướp vợ ( Công chúa - con vua Trần Cảnh) đã hứa hôn sẵn với người trong nội tộc, cũng là báo ứng, nên vua cũng không trách phạt.
-Không có việc hôn phối nội tộc Nhánh - chi của Vua Trần Cảnh ( Thái Tông ) với chi - nhánh Trần Liễu ( anh của vua Cảnh) thì nước sao yên. Chuyện loạn hôn dung túng thời Trần là có, nhưng có lẽ là chuyện " Lời nguyền mộ táng miệng cá". Sau này không giữ được nhánh chi gốc, đất cũng suy, vua cũng phế.
-Thủ Độ có công lớn gây nghiệp nhà Trần, Quý Ly có công lớn lập đế họ Hồ. Vận thế suy cần tay sát phát và bạo loạn. Thủ Độ hơn Quý Ly là tài, trí, quyền biến, công bình. Quý Ly hơn Thủ Độ là quỷ kế. Phải chăng Thủ Độ có sao Tử Vi - Phá Quân tại Mùi ở mệnh số. Quý Ly có sao Tử Vi - Thiên Tướng ở thìn ?
Năm 1225 lập triều Trần đến năm 1344 đủ 120 năm đại niên vận tại Mùi có Thái Dương - Thái Âm đắc cách mà gặp Tuần Không thành ra là hay, thời gian này là thời thịnh của triều Trần. Đánh dấu điểm kết này là vua Hiến Tông chết trẻ vào năm 1341.
Sang năm 1345 đến năm 1399: Triều Trần suy vi ứng đại niên vận tại cung Thân địa có Tham Lang đắc cách ( từ 1345 - 1464). Đại niên vận này cũng ứng vận 10 năm của nước Việt Nam hiện nay ( từ 2001 - 2009). Lại giải thích phần nào Tham Lam - tham nhũng phát triển mạnh, bạo ở nước ta trong giai đoạn này.
-----
#24
Gửi vào 02/02/2022 - 17:12
Tử Vi Hoa Kỳ năm Nhâm Dần - 2022.
1. Hoa Kỳ năm 2022 - Nêu cao tinh thần nước Mỹ, cho 1 năm biến động !
Năm Nhâm Dần đối với Hoa Kỳ là một năm rất quan trọng đối với Hoa Kỳ và phần còn lại bởi lý do sau:
- Năm Dần cần lưu ý:
+ Vấn đề cốt lõi thuộc về nền dân chủ Mỹ, giá trị tinh thần, văn hóa, bản sắc giá trị truyền thống của người Mỹ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Vì Thái Tuế Năm Dần di chuyển tới Cung Phúc Đức của nước này.
Mặt khác sao Tham Lang ở cung Phúc Đức cũng nói lên bản chất người Mỹ thực dụng, thực tế, đầy tham vọng, tham gia, mọi sân chơi toàn cầu.
Và năm nay Thái Tuế năm + Tham Lang + Đại + Tiểu Hao+ Thiên Mã thì chắc chắn phải có động binh, điều quân hơn rất nhiều.
Vì có Phượng Các + Đại Hao và Thiên Mã + Tiểu Hao thì chủ yếu dùng không lực, sau mới đến bộ binh.
+ Vấn đề quan trọng hơn cả: sự bất đồng trong giới chính trị, cách điều hành kém hiệu quả của Tổng thống Binden, gây tranh cãi lớn từ các giới đến dân thường.
+Năm tiểu hạn năm Dần động vào cung Quan Lộc có Tử Vi + Thiên Tướng + Tuần + Triệt + Linh+ Xương+ Đà + song Kỵ ập vào thì rối ren, đen tối dễ dẫn đến những cách thức nhầm lẫn tai hại trong quyết định, điều hành đối nội, đối ngoại:
->Đối nội: Năm Nhâm thì Vũ Khúc có hóa Kỵ tại ngay cung mệnh gốc của US. Mệnh gốc có Vũ Khúc tài năng + Thiên Phủ - kho tàng của trời đất thì giàu có và trù phú, cũng chỉ doanh nghiệp, tập đoàn đa quốc gia hùng hậu có sức ảnh hưởng đến toàn cầu như Face, Amazon, Apple, Ford, GM ... Thì năm nay các doanh nghiệp lớn, nhỏ, nhà đầu tư nhỏ lẻ đều chịu tác động lớn từ chính sách điều hành đất nước.
Bởi Vũ Khúc năm Nhâm có Hóa Kỵ + mà gốc hóa Kỵ lại ở cung Tài Bạch + Sao Đà La ở cung Quan Lộc gốc tiểu hạn của năm. Nếu Dân Chúng ( cung Nô) có biểu tình bạo loạn ( Không + Kiếp) thì có Riêu vào hùa thành ra Tứ Ám nhập mệnh, tình thế căng như dây đàn.
+Về đối ngoại: Xét cung Huynh Đệ ( anh, em) các nước đồng minh thân cận luôn có Hóa Lộc gốc, nên Hoa Kỳ rất biết chọn bạn mà chơi, đồng tiền gắn liền với lợi ích. Thiên Đồng là đắc cách nên hóa ra đông đảo. Lại có Lộc Tồn ở cung Nô có Không - Kiếp Đắc Cách, thành ra câu chuyện Nam Việt, A Phú Hãn, hay Đài Loan, Nam Hàn cũng có kết cục kẻ khóc, người cười.
Năm nay 2022, trục số Huynh Đệ ( Thiên Đồng - đồng minh) và cung Nô Bộc: có cách Song Lộc niên + Song Lộc Gốc + Không + Kiếp thì chủ về TÀI CÁCH thay đổi bất ngờ, không nhất quán trong chi viện trợ hoặc bơm viện trợ gấp cho các đồng minh quan trọng.
( Mã Đắc Khoa)
Thanked by 1 Member:
|
|
#25
Gửi vào 23/04/2022 - 16:28
1. Lịch sử nước Trung Hoa 3070 năm qua các triều đại bằng tử vi đẩu số.
- Từ năm 1051 trước công nguyên ( Tcn) - 812 ( Tcn): Triều nhà Chu. ( trải qua các cung Sửu, Dần): Triều nhà Chu thời từ năm 1046 Tcn khởi đầu bằng việc diệt vua Trụ, Cơ Xương- Chu Văn Vương dành được thiên hạ. Thế sử chép liên quan các nhân vật Đát Kỷ - Trụ Vương, Chu Văn Vương là người sáng lập ra hậu thiên bát quái phổ biến hiện nay.
- Từ năm 811 Tcn - 690 Tcn: triều nhà Chu vào thời Xuân Thu ( cung Mão).
- Từ 691 Tcn - 572 Tcn: triều nhà Chu vào thời Xuân Thu ( cung Thìn). Xuất hiện Lão Tử đặc trưng bởi bộ sao Cơ - Lương trong thời đại này.
- Từ năm 571Tcn - 476 Tcn: Triều nhà Chu vào thời Xuân Thu ( cung Tỵ). Xuất hiện nhà triết học Khổng Tử, Tôn Tử về quản trị đất nước, tư tưởng quân sự đặc sắc bởi bộ Tử Vi - Thất Sát. Cũng có thể lý giải vì sao giai đoạn năm từ 476 Tcn - đến năm 452 Tcn khởi đầu cho thời kỳ Chiến Quốc.
- Thời kỳ Chiến Quốc các nước phân tranh: trải dài gần 240 năm chấm dứt bằng việc Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ vào năm 221 Tcn tức ở cuối cùng của vận Mùi ( trải qua cung Quan Lộc tại ngọ và cung Tật tại Mùi).
- Triều nhà Hán được sáng lập bởi vua Lưu Bang sau khi thắng được Hạng Vương vào năm 206 Tcn, suýt bị mất nước vào tay họ Lã ( Lã Hậu vợ của Lưu Bang- ứng với Triệt đương đầu). Triều nhà Hán kéo dài đến năm 220 sau công nguyên ( trải qua cung Thân, Dậu, Tuất, đến Hợi) thị bị họa Đổng Trác.
- Sau đó là giai đoạn Tam Quốc Ngô - Ngụy - Thục phân tranh nổi bất các anh hùng hào kiệt nổi lên như mây ( Cung Hợi có Thiên Phủ ) từ năm 220- 268.
- Cuối cùng tam quốc thu về tay nhà Tấn - Tư Mã Viêm cháu của Tư Mã Ý trước phò tá cho Tào Tháo. Triều Tấn phát triển qua giai đoạn Đông Tấn & Tây Tấn hưởng trọn bình yên ở vận Tý có Đồng Âm miếu vượng tươi đẹp.
( Còn tiếp).
KHÁI QUÁT VỀ TRUNG HOA QUA TỬ VI ( P2)
Lịch sử luôn có sự lặp lại theo nguyên tắc nhất định, cái sau kế thừa cái trước, bánh xe lịch sử luôn quay thi thoảng lặp lại những vết xe cũ, hay còn gọi là quán tính vô hình, hay còn gọi là nghiệp quả. Ở mỗi cá nhân, hay một dân tộc, một quốc gia cũng giống nhau ở điểm này.
Xét lịch sử Trung Hoa trên bánh xe thời gian có 12 phần bằng nhau ứng với 12 cung của địa chi: tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất và hợi.
Trong vòng lặp từ năm 1051 Tcn khởi tại cung Sửu chạy qua các cung theo thứ tự chiều thuận ( chiều kim đồng hồ) mỗi địa chi ứng 120 năm, kết thúc một tuần hoàn tại cung Tý ứng giai đoạn năm 268 đến năm 388 Scn. Tương ứng là khởi đầu thời nhà Chu kết thúc thời kỳ Đông Tấn như đã thống kê bài trước.
Tiếp tục vòng lặp thứ 2:
*TẠI SỬU CUNG: thời kỳ cuối của Đông Tấn ( năm 389 – năm 420) và khởi đầu giai đoạn Nam Bắc triều.
Ngay thời Tấn suy phải chạy từ Tây sang Đông mới gọi là Đông Tấn. Phía bắc Trung Hoa khi đó bị nội chiến bởi 16 vương quốc nhỏ đánh chiếm lẫn nhau ( từ năm 304- năm 439).
Cuối cùng của giai đoạn này: phía Bắc nhà Ngụy ( gọi Bắc Ngụy) diệt 15 vương quốc còn lại. Phía Nam nhà Đông Tấn bị Nam Tống diệt.
Khi đó nước Việt vẫn chìm trong giai đoạn đồng hóa lần 2 ( từ năm 43 đến năm 544)
Đây đúng cách cục Tham Lang – Vũ Khúc tranh hung ( Vũ Khúc tài năng + Tham Lang tham gia, tham chiến).
*TẠI DẦN CUNG: thời kỳ Nam – Bắc triều ( 509 – 589), thời nhà Tùy giai đoạn ( 581 – 618) và thời nhà Đường ( 618 – 628)
- Giai đoạn Nam – Bắc triều:
+ phía Bắc sau bắc Ngụy suy tàn đến thời Tây Ngụy, Đông Ngụy, rồi đến Bắc Chu và Bắc Tề.
+ Phía Nam: sau Nam Tống đến thời Nam Tề, tiếp là nhà Lương ( Nam Lương), nhà Lương bị diệt lại phần đôi một là nhà Trần, một bên là Tây Lương.
Năm 544: Lý Bí ( Lý Nam Đế) đánh bại quân Lương giành độc lập cho đất Việt. Kém may mắn Lý Phật Tử ( em trai Lý Bí) thua quân nhà Tùy ( năm 602).
Cung Dần là cung vận mệnh của đất nước Trung Hoa nên các thời đại, vận 120 năm, 10 năm, hay 1 năm đi qua đây đánh dấu nhiều sự kiện quan trọng. Phụ thêm cho mệnh là các cung tam hợp với cung Dần là Ngọ ( cung quan lộc) và Tuất ( cung tài bạch).
Dấu ấn ở đây là thời nhà Tùy ( năm 581 – 618) tuy tồn tại ngắn ngủi nhưng có nhiều cải cách hành chính, giáo dục và phật giáo làm nên tảng quan trọng cho nhà Đường kết thừa giai đoạn sau.
Nhà Tùy suy yếu và sụp đổ, Lý Uyên cùng con trai Lý Thế Dân lật nhà Tùy lập lên nhà Đường.
Triều đại nhà Đường là thời kỳ hoàng kim của nền văn minh Trung Quốc , một thời kỳ thịnh vượng, ổn định và sáng tạo với những bước phát triển đáng kể về văn hóa, nghệ thuật, văn học, đặc biệt là thơ ca và công nghệ. Phật giáo trở thành tôn giáo chính của người dân thường. Trường An ( Tây An ngày nay ), thủ đô quốc gia, là thành phố lớn nhất thế giới trong thời kỳ đó
Nhà Đường (năm 618 – 628) vào cuối của thời kỳ vận tại cung Dần, nhưng tồn tại đến năm 907, tức tới gần 300 năm lịch sử. Trải dài từ cung Dần, Mão, Thìn đến đầu cung Tỵ đồng trùng tương đối với thời nhà Chu giai đoạn nhà Chu, Đông Chu, Đông Chu trong thời chiến quốc.
#26
Gửi vào 24/04/2022 - 01:53
Sửa bởi tripooh1: 24/04/2022 - 02:06
Thanked by 1 Member:
|
|
#27
Gửi vào 27/04/2022 - 09:28
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ TRUNG HOA QUA TỬ VI - P3
-------
Phần trước đang xét dở tại cung Tỵ - có Tử Vi Thất Sát, cách này là cướp đoạt địa vị, anh hùng tranh bá là giai đoạn từ năm 869 đến năm 988 sau công nguyên, có thể tóm tắt:
- Từ năm 869 đến năm 907: giai đoạn cuối nhà Đường suy tàn.
- Từ năm 907 đến năm 960: giai đoạn Ngũ Đại Thập Quốc phân tranh, thời này mỗi vùng lập một nước riêng, phía bắc chia ra 5 nước gồm: Lương, hậu Đường, hậu Tấn, hậu Hán, hậu Chu. Phía nam chia 10 nước nhỏ cát cứ một vùng riêng.
- Từ năm 960: Triệu Khuông Dận viên tướng cấm cung của vua nhà hậu Chu ở phía Bắc cướp ngôi lập lên nhà Tống, bình định cả vùng phương Bắc, 10 nước phương nam tự chiến tranh nhau dần cũng suy yếu, nhà Tống chiếm được phương Nam, sự tồn tại nhà Tống kéo dài đến năm 1279 sau khi quân Mông Cổ xâm lược Trung Quốc.
*Cung Ngọ- Vô chính diệu ( tức cung Quan Lộc:) giai đoạn năm 989 đến năm 1108
- Thời kỳ này Trung Quốc dưới thời Nhà Tống, là bình định các vùng còn lại sau thời nhà Đường, mở rộng mối quan hệ bang giao, phát triển thương nghiệp giao dịch, giáo dục, khoa bảng, thơ phú… đây là thời kỳ thịnh trị của Trung Quốc đỉnh cao về văn hóa và kinh tế, tuy đánh giá chung về quân sự có sự yếu kém.
-> cung Quan Lộc không có sao chủ, gọi là không vong, may có Tuần câu hút Âm - Dương ( có Thái Âm- Thái Dương chiếu về) nên được cách huy hoàng. Vì tam hợp Mệnh - Tài - Quan nên thời kỳ này thừa hưởng, phát huy nền văn hóa phương đông: Phật Giáo, Đạo Lão, Khổng, nhà Nho được coi trọng…
Sảy ra xung đột, yếu thế với các tộc người Khiết Đan, Cửu Chân phía cực Bắc, Tây Bắc, xâm lược nước Đại Việt lần 2 ( năm 1075- năm 1077) bị thất bại.
* Cung Mùi - Vô chính diệu ( tức cung Nô Bộc) giai đoạn năm 1109 - năm 1228.
Vì cung Nô Bộc hiểu là bạn bè và tôi tớ, phía bên ngoài của chủ thể, cái cốt gốc người Hán. Ở đây nhấn mạnh Triều Kim uy hiếm Triều Tống. Quân Mông Cổ xâm lược Trung Quốc toàn diện.
- Năm 1125: Tộc người Nữ Chân đánh bại tộc người Khiết Đan, thành lập nhà Kim thủ đô là Bắc Kinh ở vùng Cực Bắc ( mạn giáp Nga, Mông Cổ, Triều Tiên). Khi đó thủ đô nhà Tống là Khai Phong tỉnh Hà Nam. Triều Kim của tộc Nữ Chân, uy hiếp đánh chiếm, đất đai nhà Tống ( tộc Hán). Tộc Nữ Chân này thời sau lập nên Triều Thanh vào thời cận đại.
- Năm 1127: Nhà Tống thua quân Kim phải dời đô xuống phương nam, đóng đô ở tỉnh Giang Tô, nên gọi là Nam Tống (giai đoạn 1127 - 1279), cuối cùng thì bị diệt bởi quân Mông Cổ, thời này xuất hiện các danh tướng như Nhạc Phi, Hàn Thế Trung
- Năm 1211: Quân Mông Cổ chinh phạt, đại thắng Triều Kim, bắt triều Kim thành chư hầu đế quốc Mông Cổ,
* Cung Thân - Vô chính diệu ứng cung Thiên Di: Thiên Di là thể hiện thời đại di dời, thay thế, hoặc chủ về ngoại xâm chiếm đóng. Giai đoạn từ năm 1229 đến năm 1348.
- Thời gian khoảng 1229 - 1233: Triều Kim bỗng dưng dời đô lại chạy về Khai Phong kinh đô cũ của nhà Tống. Đại Hãn của Mông Cổ coi đó là sự bất tuân phản nghịch của trư hầu, đem quân thâu tóm toàn bộ đất đai Kim và vùng Tây Bắc Trung Hoa ( khi đó Tộc Khát Chân đang nắm giữ vùng này). Triều thần nhà Kim chạy về Khai Phong thì bị diệt hoàn toàn bởi quân Nam Tống từ phương Nam kéo lên.
- Từ năm 1234: Quân Mông Cổ vây hẵm, giáp công các mặt của nhà Nam Tống, đến năm 1279 thì Nam Tống bị diệt hoàn toàn kết thúc hơn 300 năm lập triều.
- Quân Mông Cổ chính thức xây dựng triều đại Mông cai trị tại Trung Quốc từ năm 1271 và kéo dài đến năm 1368, tức hết vận ở cung Thân - Nô Bộc.
( tiếp)
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
10 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 10 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |