Sau đây là ví dụ số 444 trong cuốn Trích Thiên Tủy (trong sách ghi sai là 455):
“455 - Đinh Hợi - Tân Hợi - Tân Mùi – Mậu Thìn (Sai - vì ngày Tân chỉ có giờ Nhâm Thìn)
Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị
Tân kim sinh ở đầu mùa đông, Đinh hỏa khắc khử Tỉ kiên, nhật chủ cô lập không có trợ giúp, Thương quan thấu mà nắm lệnh, thiết khử nguyên thần mệnh chủ, dụng thần ở thổ không ở hỏa vậy. Mùi là căn khố của mộc, Thìn là dư khí của mộc, đều tàng kỵ Ất mộc; năm tháng có 2 Hợi, là là đất mộc sinh, Hợi Mùi củng mộc, kỵ thần này nhập ngũ tạng quy về lục phủ. Như vậy luận, nói tỳ hư thận tiết, bệnh hoạn đầu hoa di tiết, lại thêm nặng ở dạ dày cổ tay đau nhức, không có ngày nào yên. Đến vận Kỷ Dậu, nhật chủ phùng lộc, vào tràng nhập học có con, vận Mậu khắc khử Nhâm thủy được ăn lương thực; vận Thân Nhâm không phùng sinh, thế bệnh càng nặng, vận Đinh nhật chủ thụ thương mà chết”.
Qua đoạn: “Đến vận Kỷ Dậu, nhật chủ phùng lộc, vào tràng nhập học có con, vận Mậu khắc khử Nhâm thủy được ăn lương thực…. vận Đinh nhật chủ thụ thương mà chết”, ta thấy vận Kỷ Dậu và Mậu Thân có can chi là Thổ và Kim chính là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp mà đẹp thì Thân của Tứ Trụ này phải nhược, nhất là thêm vận Đinh quá xấu (chết) mà Đinh là Quan Sát lại là kỵ thần nên Tứ Trụ này Thân nhược là chính xác.
Sơ đồ dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược của VULONG:
(Ví dụ này còn đơn giản hơn ví dụ trước vì không có tổ hợp và các dòng lưu nên không có phép tinh mới nào cần phải giới thiệu cả.)
Ta thấy qua sơ đồ tính toán trên Thân lớn hơn Tài, Quan Sát và Thực Thương mỗi hành trên 1đv nên Thân của Tứ Trụ này là vượng (theo lý huyết của VULONG). Thân vượng là sai vì 3 vận đầu can chi đều là Thổ và Kim đều là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp mà đẹp thì chúng không thể là kỵ thần được.
Từ đây suy ra giờ Nhâm Thìn là sai.
Vậy mà Nhâm Thiết Tiều lại không thể phát hiện ra điều này, thật là một chuyện lạ có thật. Chính vì Nhâm Thiết Tiều xác định Tứ Trụ này có Thân nhược nên ông ta phải “Đẽo, Gọt” là lờ đi Hợi trụ năm khắc trực tiếp Đinh cùng trụ nên Đinh thành vô dụng không thể khắc 2 Tân trở thành Đinh khắc được 2 Tân nên Thân mới nhược. Bằng chứng qua câu: “Đinh hỏa khắc khử Tỉ kiên (là 2 Tân- Tỉ), nhật chủ cô lập không có trợ giúp”. Tức 2 Tân bị khắc không có trợ giúp nên Thân nhược. Ở đây tác giả còn lờ đi Thân có tới 2 Kiêu Ấn là Mùi và Thìn có thể sinh phù cho Thân (Kim).
Không phải chỉ có 1 ví dụ này mà trong 490 ví dụ mẫu trong cuốn Trích Thiên Tủy tác giả phải sử dụng chiêu “Đẽo, Gọt” này quá nhiều, có thể ví như chúng ta ăn cơm hàng ngày.
Vậy thì giờ nào trong các giờ của ngày Tân mà Thân có thể nhược?
Ta thấy giờ Nhâm Thìn, Thân vượng là do 3 Nhâm mặc dù nắm lệnh nhưng bị tới 2 chi Thổ khắc cho lên bờ xuống ruộng (khắc gần và trực tiếp) nên Thân vượng hơn Thủy tới trên 5đv. Vì vậy muốn Thân nhược thì trụ giờ phải có can chi là Thủy và dĩ nhiên không được có can chi Thổ.
Như vậy thì ngày Tân chỉ có có giờ Quý Tị là thỏa mãn điều kiện này còn giờ Mậu Tý và Kỷ Hợi bị loại bỏ vì nó không khác gì giờ Nhâm Thìn. Nếu giờ Quý Tị mà Thân không nhược thì ví dụ này ta đành phải bó tay mà thôi – cũng có nghĩa lý thuyết của tôi không hoàn thiện.
Sơ đồ dùng Toán Học để xác định Thân vượng hay nhược giờ Quý Tị của VULONG:
Qua sơ đồ tính toán trên ta thấy nếu Kiêu Ấn không sinh được 50%đv của nó cho Thân thì Thân là nhược vì nó không lớn hơn Thủy 1đv. Nhưng đáng tiếc rằng nó lại rơi vào trường hợp thứ 5: Kiêu Ấn sinh được 50%đv của nó cho Thân là:
“5 – Thân nhược, khi Nhật can được lệnh mà Kiêu Ấn không lớn hơn Tài tinh hay Thực Thương thì Thân phải lớn hơn Tài tinh, Quan Sát và Thực Thương”.
Nếu sử dụng trường hợp 5 này thì Thân vượng (vì Kiêu Ấn sinh được 50%đv của nó cho Thân) là sai nên ta chỉ còn cách cuối cùng là phải sửa lại nội dung trường hợp 5 cho phù hợp với ví dụ này mà thôi.
Do vậy trường hợp 5 phải sửa lại là:
“5 - Thân nhược, khi Nhật can được lệnh còn nhận được điểm vượng từ chi cùng trụ sinh cho mà Kiêu Ấn nhỏ hơn Tài tinh và Thực Thương thì Thân phải lớn hơn Tài, Quan Sát và Thực Thương (444*/T³ giờ Quý Tị (thuộc giờ khe) vì giờ Nhâm Thìn trong sách sai - dấu * không sinh được vì Kiêu Ấn lớn hơn Tài tinh)”.
Nếu sử dụng câu 5 này thì Kiêu Ấn không sinh được 50%đv của nó cho Thân (vì Kiêu Ấn lớn hơn Tài tinh) nên Thân nhược là đúng.
7 trường hợp Kiêu Ấn sinh được 50%đv của nó cho Thân được sửa và phát biểu lại như sau:
1 - Thân nhược, khi Nhật can được lệnh thì Kiêu Ấn phải lớn hơn Tài tinh và Thực Thương.
2 - Thân nhược, khi Nhật can thất lệnh, không ở trạng thái Tử và Mộ mà Kiêu Ấn lớn hơn Tài tinh và Thực Thương thì Thân phải lớn hơn Tài tinh và Quan Sát, điều này chỉ đúng khi Thân phải có can chi Tỷ Kiếp (ví dụ mẫu số 4 : Lão bán đậu hủ) hoặc Nhật can phải nhận được điểm vượng từ chi cùng trụ sinh cho (ví dụ số 190/T³ giờ Tân Mão, vì giờ Đinh Dậu trong sách sai).
3 – Thân nhược, khi Nhật can không ở trạng thái Tử và Mộ mà can trụ tháng hay can trụ giờ là Kiêu Ấn được lệnh còn nhận được điểm vượng từ chi cùng trụ sinh cho.
4 – Thân nhược, khi Nhật can không ở trạng thái Tử và Mộ mà can trụ năm mang hành sinh cho can trụ tháng, can trụ tháng mang hành sinh cho can trụ ngày với điều kiện 3 can này tạo thành dòng lưu (tức 3 can này không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp) và can trụ tháng phải ở trạng thái Lâm quan hay Đế vượng.
5 – Thân nhược, khi Nhật can được lệnh còn nhận được điểm vượng từ chi cùng trụ sinh cho mà Kiêu Ấn nhỏ hơn Tài tinh và Thực Thương thì Thân phải lớn hơn Tài, Quan Sát và Thực Thương (444*/T³ giờ Quý Tị (thuộc giờ khe) vì giờ Nhâm Thìn trong sách sai - dấu * không sinh được vì Kiêu Ấn lớn hơn Tài tinh).
6 – Thân nhược khi Nhật can thất lệnh ở trạng thái Suy mà Kiêu Ấn lớn hơn Tài và Quan Sát nhưng không lớn hơn Thực Thương thì Thân phải lớn hơn Tài tinh, Quan Sát và Thực Thương (306/T³).
7 -Thân nhược khi Nhật can thất lệnh không ở trạng thái Tử và Mộ mà Kiêu Ấn nhỏ hơn Tài và Quan Sát nhưng lớn hơn Thực Thương thì Thân phải lớn hơn Tài, Quan Sát và Thực Thương (397/T³).
Sửa bởi SongHongHa: 23/04/2022 - 20:15