Năm: Địa Chi Mộ
Manh Sư Phái xem mộ là một tác dụng trọng yếu của địa chi. Có Thìn, Tuất, Sửu, Mùi bốn mộ. Mộ biểu thị cất giữ, đạt được, thu hoạch, khống chế, chiếm hữu, và nhiều ý nghĩa khác. Mộ hỷ hình xung, xung là khố, không xung là mộ. Mộ là chết, khố là sống. Có khi còn biểu thị tử kỳ. Địa chi mộ có những nguyên tắc sau:
1. Dần, Thân, Tỵ, Hợi tứ trường sinh, thấy mộ của bản thân thì nhập mộ. Tý, Ngọ, Mão, Dậu gặp mộ bình thường không luận nhập mộ mà luận củng cục. Chỉ trong tình huống cực nhược (vô sinh vô lực) thì mới luận nhập mộ.
2. Nhiều mà nhập mộ. Tức là chỉ cần cả thiên can địa chi cùng trụ, có hai chữ hoặc hai chữ trở lên, gặp mộ liền nhập mộ. Như trụ Tân Dậu gặp Sửu thì nhập Sửu mộ mà không luận Dậu Sửu củng cục. Hoặc như hai Dậu gặp một Sửu, luận hai Dậu nhập mộ mà không luận củng cục.
3. Thiên can toạ mộ, thì không luận nhập mộ. Như trụ Tân Sửu, Tân không nhập mộ Sửu.
4. Địa chi thổ là trường hợp tương đối đặc biệt. Thìn là thuỷ mộ mà cũng là thổ mộ. Sửu nhập Thìn mộ, Mùi cũng nhập Thìn mộ. Nhưng khi Sửu Thìn Mùi cùng xuất hiện, bởi vì Sửu Mùi tương xung nên không nhập Thìn mộ. Như trong mệnh cục cùng gặp thuỷ thổ, là thuỷ nhập mộ mà thổ không nhập mộ. Thìn Tuất cùng thấy thì luận xung, không luận Tuất nhập Thìn mộ.
Tóm lại: Thìn là mộ của Hợi, Sửu, Mùi. Tuất là mộ Tỵ. Sửu là mộ Thân. Mùi là mộ Dần.
Càn: Ất Tỵ - Kỷ Sửu – Nhâm Thìn – Tân Sửu
Phân tích: Sửu nhập Thìn mộ. Nhật chủ Nhâm toạ Tỷ Kiếp khố, nguyệt thời Sửu Quan đều nhập Thìn khố, là Quan nhập Thìn khố. Niên trụ Tỵ sinh hợp Sửu Quan, Tài sinh Quan, Tài nhược Quan vượng, lấy Quan luận tài. Nhâm không nhập mộ, nhật chủ toạ mộ, nhất định hỷ hình xung, lúc đó mới hữu dụng. Người này hành vận Bính Tuất, vận Tuất phát tài năm năm, bởi vì Thìn tuất xung khai Thìn khố mà phát tài năm năm, tài sản bốn ức. Nhưng vận Ất Dậu, vận Ất, năm Quý Mùi bị bắt phạt. Ất Thương bị khắc, Thương bị chế chủ ngồi tù. Ất trong ngyên cục đã có ở niên trụ, bị Tân khắc, có quan hệ với Thìn bởi vì Thìn là căn. Vận Ất Dậu, Tân đắc Lộc, Thìn Dậu hợp hoại căn Ất, Ất hư bị Tân khắc.
Khôn: Ất Mùi - Ất Dậu – Bính Tuất – Kỷ Sửu
Phân tích: Dậu tại tại nguyệt lệnh là cha, nguyên cục Dậu Tuất xuyên, niên trụ Mùi giòn xốp, có tượng cha mất sớm. Dậu có khố tại thời trụ (vận Bính Tuất, Đinh Hợi), cha mất tại vận Đinh, mà không phải vận Tuất, bởi vì Đinh hư thấu là Tuất trong nguyên cục đến. Đinh đại biểu cho tượng của Tuất. Quý Sửu, cha mất, bởi vì Sửu là kim mộ, nguyên cục Dậu Tuất xuyên, Sửu liền luận là mộ của Dậu. Vận Sửu, năm Đinh Sửu, bản thân cũng bị nhiễm trùng đường tiểu mà chết. Bính Tuất là căn của nhật chủ, không thể bị hoại căn.
Càn: Quý Mão – Quý Hợi – Canh Ngọ - Canh Thìn
Phân tích: Canh kim không nhìn vượng suy bởi vì địa chi không Lộc. Chủ yếu nhìn toạ tại địa chi Ngọ hoả Quan tinh. Ngọ Hợi ám hợp là Thực hợp Quan, Quan tinh có việc làm, chính là làm Quan tinh tạo công. Thời trụ Canh Thìn có Thìn là thực Thương khố và Ấn, cũng là chủ vị, bởi vì thấu Canh đái tượng, luận là bản thân. Thực hợp Quan lại nhập Thìn khố, trước tiên Thìn là Ấn, Ấn là xí nghiệp. Quý Hợi thuỷ là Thực, Hợi Mão hợp là Thực hợp Tài, sau đó lại nhập Thìn mộ, Thực hợp Tài lại hợp Quan, đều nhập Thìn mộ tại chủ vị, đều là của bản thân mình. Niên trụ Quý Mão là Thực sinh Tài, Thực Tài là làm xí nghiệp. Khố là lớn, cho nên là xí nghiệp lớn. Hợi Mão hợp tài, Ngọ Hợi ám hợp, Quan tại chủ vị Tài, tạo công lớn. Đương số là Phó Tổng một xí nghiệp, quản lý tất cả vật liệu. Thực là tài liệu, là tài nguyên liệu được dùng trong xí nghiệp. Rất có quyền lực.
Càn: Bính Ngọ - Tân Sửu – Kỷ Mùi – Tân Mùi. Đây là mệnh làm quan chức vị lớn nhất mà Hách Kim Dương đã luận khi còn sống. Đương số là thị trưởng Thiên Tân, sinh năm 1950.
Phân tích: Nguyên cục hoả và táo thổ thành thế. Ngọ, Mùi đều là một đảng. Sửu Ngọ xyên, Sửu Mùi xung đều là chế Sửu thổ. Sửu là Thương Thực khố. Trụ Kỷ Mùi không đại diện cho bản thân. Mùi là Sát khố, tức là Quan Sát khố chế Thực Thương khố. Thiên can thấu Tân kim, có Bính Tân hợp chế Tân nguyệt lệnh. Nhưng thời trụ Tân hư thấu vô chế. Sát khố chủ quyền lực, một khi xung thì hoán tượng, thành ra Thương Thực khố lại chủ quyền lực. Hành vận thìn, Sửu nhập Thìn khố nên được bảo hộ, lại hối hoả cục, làm hỏng thần tạo công, nên bị ngồi tù. Manh Sư quyết: Thương Thực nhập mộ không còn tự do, chủ toạ lao.
Mùi không nhập Thìn mộ, bởi vì trong bát tự này Thìn Sửu là một đảng. Mùi và Thìn không phải là một đảng. Sửu Mùi xung không nhập mộ là chi Sửu Mùi trong nguyên cục. Còn trường hợp này Thìn là đại vận, cho nên Sửu vẫn nhập mộ như thường.
Chương năm: Phương Thức Tạo Công
Hệ thống Manh Phái tại sao muốn vứt bỏ lý luận Dụng Thần truyền thống? Bởi vị dụng thần là một thứ không xác định. Nói chính xác căn bản là không có khái niệm dụng thần này, cho nên không cần định nghĩa nó làm gì. Hệ thống Manh Phái sau khi có khái niệm “thể dụng” và “khách chủ’, thì khi luận một bát tự chúng ta chủ yếu cần lý giải ý tứ biểu đạt của nó, cũng chính là luận tạo công. Hoặc có thể nói, ví dụ như uống nước, ta dùng tay cầm cái chén uống nước, uống được nước liền tính thành công. Như vậy tay ta là dụng thần hay nước là dụng thần? Bởi vì trong trường hợp này, tay và nước là hai sự vật có mối quan hệ tương khắc, cho nên định nghĩa tay và nước, cái nào là dụng thần, cái nào là kỵ thần đều không thích hợp. Bởi vì quan điểm của Manh Sư khi đoán mệnh là như vậy, cho nên bọn họ cũng không dùng khái niệm dụng thần, kỵ thần.
Nếu như chúng ta bỏ đi khái niệm dụng thần và kỵ thần, thì mệnh lý lại đơn giản dễ hiểu hơn nhiều. Chúng ta gọi quá trình tay cầm nước uống là tạo công của bát tự. Phàm những thần tham gia quá trình tạo công này được gọi là công thần, còn nước vốn bị tay cầm đến, chúng ta gọi là chế thần. Phía dưới tôi tổng kết các loại hình tạo công trong hệ thống Manh Sư.
Tiết một: Các loại phương thức tạo công.
Một: Tạo công của kết cấu chế dụng
Bát tự thông qua quan hệ chế giữa thể - dụng, khách - chủ mà đạt được cái mà mệnh chủ muốn sử dụng. Bởi vì loại kết cấu này vô cùng phổ biến, lại chiếm đa số bát tự, phía sau có phần chuyên môn phân tích loại kết cấu này.
Hai: Tạo công của kết cấu hoá dụng
Có một số ít bát tự Quan Sát trọng, bát tự lại có Ấn tinh hoá Quan Sát, hình Sát sinh Ấn, Ất sinh thân, đem Quan Sát hung lực chuyển hoá cho mình dùng. Loại kết cấu này tương đối ít, là Sát Ấn cách và Quan Ất cách. Kết cấu loại này đều là làm quan.
Càn: Nhâm Dần – Bính Ngọ - Mậu Dần - Ất Mão
Phân tích: Mậu sinh tháng mùa hạ không phải quá quý, quý ở trên Sát thấu Ấn, ba trụ đầu rất tốt. Thời trụ là kỵ, không hỷ thời trụ Chính Quan. Mậu toạ Dần Sát, niên trụ thấy Sát, Sát vượng. Quý tại nguyệt trụ Bính Ngọ tiết Sát sinh thân. Ấn hoá Sát lại cho mình sử dụng, cho nên là mệnh làm quan. Hai chữ Sát đều bị Ngọ hoá, không hỷ thời trụ Chính Quan thấu xuất, kề bên mà khắc nhật chủ. Chính Quan là bệnh, chữ Quan này không thể bị hoá hết. Hành vận Kỷ Dậu, Mão Dậu xung chế Mão Quan. Vận Dậu bắt đầu thăng quan. Người này là cán bộ lãnh đạo.
Ngôn Minh: Quan Sát khá trọng, dụng Ấn, tức là dùng trụ Bính Ngọ đến hoá mà sinh thân, tiết Quan Sát mà sinh thân, hoá Sát thành cái mà bản thân có thể sử dụng, là mệnh làm quan. Nhưng thời trụ có Quan không bị hoá hết, kề bên khắc nhật chủ là bệnh của bát tự. Vận Kỷ Dậu xung Mão là tốt. Vận Dậu bắt đầu thăng quan. Vận Canh Tuất, Ất Canh hợp, Mão Tuất hợp, ngăn trở Quan, đem bệnh trong bát tự giải quyết. Vận Tân Hợi, Bính Tân hợp, Hợi Mão vượng khắc thân, vận này liền không thể làm quan.
Tiểu Nguyệt Hồ: Mậu thổ đều sợ Ất Mão mộc?
Ngôn Minh: Bình thường sợ Ất, Mão, không sợ Dần.
Càn: Quý Tỵ - Ất Mão – Kỷ Tỵ - Kỷ Tỵ
Phân tích: Mộc hoả có thế, vấn đề là Kỷ thấy Ất Mão là Sát, Sát vượng nhất định muốn nhìn có chế hoặc có hoá hay không. Quý vừa không có nguyên thần, vừa vô căn, nếu như chỉ chế Quý thì hiệu suất không cao, cho nên chân chính tạo công chính là Ấn hoá Sát. Hỷ thấy Tỵ hoá triệt để Sát vượng sinh thân. Quý muốn Sát, cũng không hỷ, cho nên Quý là bệnh của bát tự. Quý Tỵ tự hợp có ý tứ là chế Quý cho nên tốt. Người này là phó cán bộ cấp lãnh đạo. Tại sao làm phó? Bởi ì Mão mộc có thể được hoá triệt để, nhưng Ất mộc hoá không hết. Thiên can như có Bính Đinh hoả thì có thể làm quan cao hơn một chút.
Ngôn Minh: Bởi vì tạo công chủ yếu là niên chi Tỵ, khách vị tạo công, Quý Tỵ tự hợp, cho nên làm phó.
Càn: Mậu Ngọ - Giáp Tý – Đinh Dậu – Nhâm Dần (Hoàng Đế Ung Chính triều Thanh)
Phân tích: Sát có nguyên thần đến sinh, thời trụ lại thấy Nhâm thuỷ, Đinh Nhâm lại hợp Sát, cho nên Sát vượng. Nhâm Dần đái tượng, Đinh Nhâm hợp là Chính Quan hợp Chính Ấn. Dần tuy khó sinh Đinh hoả, Dần có thể hoán tượng Giáp, Giáp có thể sinh Đinh. Chân chính có tác dụng chính là Giáp mộc và Dần mộc. Tý tại nguyệt lệnh, có Tài đến sinh, thời thượng lại thấu Quan. Quan Sát đều vượng. Quý ở chỗ có Giáp mộc và Dần mộc, Ấn tin đến hoá Quan Sát vượng. Có Ấn đến sinh thân, cho nên mệnh này quý. Tý thuỷ sinh Giáp mộc, Nhâm lại sinh Dần, tạo công khá tốt.
Bác Văn: Ấn là truyền từ nguyệt lệnh tới, cho nên truyền cho nó. Trọng điểm là phải nhìn có hoá hay không, nếu hoá thì có thể hay không hoá triệt để. Bát tự loại này trong thực tế không nhiều.
Ba: Tạo công của kết cấu sinh dụng, tiết dụng
Có hai loại hình thức: một loại là Thương Thực sinh Tài, một loại là Thương Thực tiết tú. Loại kết cấu này tỉ lệ không nhiều. Sinh tài bình thường là một loại của nội Thực Thần cách.
Càn: Nhâm Dần – Quý Mão – Nhâm Tý – Nhâm Dần
Phân tích: Đây là bát tự thực của một người bạn của Đoàn sư phụ. Thuỷ mộc thành khí thế, không pha tạp. Thiên can toàn là Nhâm Quý thuỷ, địa chi Dần Mão mộc. Đây là nội Thực Thần cách. Làm xí nghiệp. Trong Thực tàng Tài tinh, Tài không thấu gọi là nội Thực cách. Hành vận cũng tốt. Vận Bính Ngọ phát tài. Đại vận hỷ thấy Tài. Vận Mùi làm quản lý xí nghiệp, bởi vì Thực Thương đều nhập Mùi khố, Mùi lại là Quan. Trụ Đinh Mùi lại là đái tượng, Quan đội mũ Tài. Là chủ tịch của một xí nghiệp lớn.
Ngôn Minh: Loại hình Thương Thực thành cách này hỷ hành vận Tài. Hành vận Tài thì phát tài. Đem ý nghĩ của mình biến thành tài phú, Manh Phái gọi là nội Thực Thần cách. Nội Thực Thần bình thường đều làm quản lí hoặc mở xí nghiệp, công xưởng.
Lâm Dịch Giám: Nội Thực Thần không thấu thì mở xí nghiệp. Thuỷ vượng hỷ mộc tiết. Vận Bính Ngọ phát tài lại làm quan, là chủ tịch một xí nghiệp quốc doanh. Bản thân không ham tiền tài cũng không có nhiều tiền. Trong mệnh không gặp minh Tài, Tài tại bên trong Dần mộc. Nội Thực Thần hỷ thấy Tài, Tài sinh Quan, cho nên làm quan. Vận Đinh Mùi, Đinh Nhâm hợp, Đinh sinh Mùi là tượng tốt, tiếp tục làm qua. Mùi là Quan, Thực Thương khố. Vận Bính Ngọ bắt đầu vận đỏ.
Khôn: Ất Mùi – Bính Tuất – Giáp Tý - Ất Hợi (Lưu Hiểu Khánh)
Phân tích: Giáp Ất thấy thuỷ lại có căn thì là hoạt mộc. Giáp thấy Hợi tại thời trụ là hoạt mộc. Niên là táo thổ. Thuỷ thổ tương đương, hoạt mộc thì không chế thuỷ. Bính toạ tuất thì hoả vượng. Giáp thấy hoả thì khai hoa (trổ bông). Trước tiên người này ngoại hình đẹp. Hoạt mộc muốn dụng hoả. Bính lại sinh Tài, là nội sinh Tài. Mệnh đại phú. Bính hoả lại có nghĩa là nghệ thuật biểu diễn.
Bốn: Tạo công của kết cấu hợp dụng
Nhật chủ hoặc Nhật chi là thể, hợp trụ khách vị là dụng, thì thành kết cấu hợp dụng. Nhật chủ hợp, hoặc là hợp tài hoặc là hợp Quan. Nhật chi gặp lục hợp; hợp Quan, hợp Tài, hợp Thương Thực chính là hợp cái mà nhật chủ đeo đuổi. Có thể để nhật chủ đạt được vật mà mình muốn hay không, thì phải nhìn phối hợp chỉnh thể bát tự. Nếu như vật mà nhật chủ muốn đạt được bị hư tổn thì bát tự liền hỏng.
Chú ý: Nếu hợp Tài thì muốn nhìn thân cường hay nhược. Chỉ có hợp Tài mới nhìn thân cường nhược. Tại sao vậy? Hợp Tài liền giống như đeo một bao quần áo. Thân cường có thể thắng Tài, thân nhược không thể thắng Tài. Cụ thể có các loại tình huống sau. Tình huống A: thân vượng Tài vượng, hợp Tài có thể phát tài lớn. B: thân nhược Tài vượng, hợp Tài khẳng định nghèo khổ. Tình huống C: thân vượng Tài nhược, hợp Tài thì khèo, nhưng cũng có tiền tiêu, là mệnh bình thường. Tình huống D: thân nhược Tài nhược, hợp Tài là có tiền, nhưng không phải đại phú, chỉ không thiếu ăn thiếu uống mà thôi.
Khôn: Canh Tý – Bính Tuất – Nhâm Thân – Đinh Mùi
Phân tích: Nhâm toạ Thân trường sinh, niên trụ lại thấy Canh Tý, đắc cường căn lại có bang trợ nên thân không nhược. Tài cũng không nhược, vì toạ cường căn lại có Bính Tuất. Cho nên thân vượng Tài vượng. Người này khởi nghiệp từ bất động sản, phát tài mấy ngàn vạn. Hành vận Nhâm Thìn phát. Nhâm là bản thân, Thìn xung Tài khố (?).
Càn: Giáp Dần – Mậu Thìn – Mậu Tý – Quý Sửu
Phân tích: Mậu Quý hợp, nhật chủ hợp Tài, nhưng là nhật chủ thân nhược, Tài vượng. Quý Sửu đắc cường căn. Nhật chủ toạ dưới là Tý thuỷ, lại có Thìn khố, là mệnh nghèo. Một đời gặp cảnh khốn cùng. Hành vận Kỷ Tỵ, ngồi tù mười mấy năm. Vì sao? Vận Tỵ xuyên Dần là Sát, còn Tỵ là Lộc, có thể nói là Sát xuyên Lộc. May mắn là tuổi nhỏ, nếu không xuyên như vầy liền chết.
Càn: Canh Tý – Canh Thìn – Canh Ngọ - Ất Dậu
Phân tích: Thân vượng Tài nhược, không nghèo, có tiền tiêu, là mệnh bình thường. Nhật chủ hợp Tài, nhưng Tài tinh hư thấu, chỉ biểu thì có tiền tiêu, không thiếu tiền mà thôi. Bát tự này công không phải ở Ất Canh hợp. Niên trụ Tý Thương chế Ngọ có công. Thương chế Quan, Thương phí trên thấu ra Canh là ta, cho nên Thương là bản thân. Thương chủ kỹ thuật, kỹ năng. Người này là một một nhà nghệ thuật thư pháp. Vì sao không làm quan? Thìn tiết Ngọ hoả, Quan bị tiết rồi. Tuy Thìn là căn của Ất, nhưng Thìn Dậu hợp thì căn Ất hỏng.
Càn: Quý Tỵ - Nhâm Tuất – Canh Thân - Ất Dậu
Phân tích: nhật chủ hợp Tài là biểu tượng. Địa chi tạo công là chủ yếu. Bát tự kim thuỷ thành thế, Quan Sát ở trong trạng thái bị chế phục. Thất Sát có chế là quyền. Tỵ Thân hợp tạo công, chế Sát (Quý Tỵ tự hợp) cũng là nói Quý chế Sát. Tỵ Thân hợp, lại hợp đến chủ vị, biểu thị tự thân có quyền lực. Nhâm Tuất tự hợp là chế Quan (Tuất Dậu xuyên không gọi là khai khố, cho nên chỗ này Nhâm Tuất tự hợp là không thể nào). Tuất Dậu xuyên, Dương Nhẫn xuyên Quan Sát khố, người này là cán bộ thanh tra, chuyên môn xét xử nhân viên công chức. Theo lý thuyết Lộc hợp Quan thì không làm quan, nhưng ở đây có Dậu Tuất xuyên, là Dương Nhẫn xuyên chế Quan khố, cho nên làm quan.
Càn: Nhâm Thìn – Quý Mão – Mậu Thìn – Bính Thìn
Phân tích: Toạ dưới là Tài khố thì hỷ hình xung. Thân nhược hỷ Quý hư thấu. Quý Tài nhược. Vận Mậu Thân, Mậu đến, Thân củng xuất Tài đến, Tài có nguồn từ Thìn khố. Nguyên cục Thìn không khai khố, không có biện pháp nào, nhưng đại vận củng xuất Tài đến, cho nên thông qua nổ lực tự thân (Mậu thổ là tự thân), mà phát tài ở vận Thân. Tài sản người này kiếm được cũng thú vị. Người này chung quanh đều là các ông chủ lớn, ức vạn phú ông (Thìn là Tài khố, mệnh cục Thìn đa). Người này giúp người ta lên kế hoạch kinh doanh, hoặc bán đồ cổ, kiếm tiền từ những đại phú ông đó.
Càn: Kỷ Dậu – Đinh Mão – Canh Tuất – Kỷ Mão
Phân tích: Nhật chi hợp Tài, hai chữ Tài hướng đến hợp thân, tượng phú. Mệnh này còn có một đặc điểm: có hai vợ, vì có hai Tài đến hợp Thê cung, mà người này có cùng lúc hai vợ. Trong hai người vợ đó, một người là nguyệt lệnh Mão, là bạn cùng lớp, nhưng đã ly hôn bởi vì Mão Dậu xung, nhưng ly hôn rồi vẫn còn sống chung. Vợ lớn đã từng bị phẫu thuật, thân thể có bệnh. Vợ nhỏ đối với vợ lớn cũng rất tốt, làm thức ăn ngon cho ăn.
Năm: Tạo công của kết cấu mộ dụng
Nhập mộ cũng là một phương thức tạo công. Mộ ở đây có thể hiểu là đạt được, khống chế, quản lý, có được, chiếm được. Cách luận mộ đã nói ở các chương tiết trước.
Phương thức tạo công mộ dụng: xung là khố, là sống; không xung không hình là mộ, là chết.
Thiên can toạ mộ không luận nhập mộ. Thìn là thuỷ thổ khố. Tuất gặp Thìn luận xung, không luận nhập mộ.
Càn: Kỷ Mùi – Quý Dậu – Nhâm Dần – Canh Tý
Phân tích: Nguyên cục không có công quá lớn. Thực ra bát tự này có tượng. Dần nhập Mùi mộ. Nhâm toạ Thực, Dần Thực nhập mộ tại Mùi. Dần là Thực tại chủ vị, Thực tại chủ vị biểu thị tài hoa, tài nghệ, cho nên mệnh này biểu thị tài hoa hữu dụng, là được người có quan quyền sử dụng, bởi vì nhập đến Mùi mộ tại niên chi, mà Mùi cũng chính là Quan. Dần là nội Thực Thần, thì làm việc tại công ty, nhà xưởng. Cho nên người này làm quản lý công ty, nhưng không phải là chủ công y, bởi vì chủ vì Thực nhập mộ tại khách vị. Như không có Dần mộc, Quan Sát đến khắc thân, là có hại, Quan Sát không chế hoá. Như vậy thì bát tự này không tạo công.
Càn: Nhâm Thìn – Nhâm Dần – Kỷ Sửu – Mậu Thìn (Bát tự này Đoàn sư đã đoán qua)
Phân tích: Kỷ toạ Sửu, Sửu là Thực Thương khố, Sửu tạo công. Thứ nhất, Dần Sửu ám hợp Quan tinh, mà Quan tinh này lại còn đội mũ Tài, là quan chức quản lý xí nghiệp quốc doanh, quản lý tài chính. Thứ hai, Sửu nhập Thìn mộ, là Thực Thương khố nhập Tài khố. Bát tự này có một tượng gọi là Thực Thần không thấy thì làm công ty, nhà xưởng. Thìn là Tài khố lại cũng là Tỷ Kiếp, tại thời trụ có tượng là biểu thị cơ khí. Mậu là Kiếp Tài, Kiếp toạ Tài khố chủ xí nghiệp thuộc sở hữu của người khác, thành ra là mệnh làm công ăn lương. Mà lại người này có hùn vốn kinh doanh, bởi vì tượng Kiếp Tài mộ. Thìn mộ của Sửu, là người khác làm lớn, mình làm nhỏ. Người này làm quản lý một xí nghiệp tư nhân, bản thân cũng có cổ phần. Nguyên do là khi trước là công ty quốc doanh, sau thành công ty tư nhân.
Càn: Nhâm Dần – Kỷ Dậu – Đinh Sửu – Kỷ Dậu
Phân tích: Quan tinh từ niên trụ hợp đến chủ vị, bởi vì Nhâm Dần tại niên trụ, là mệnh bị người có quan quyền quản lý và quản chế. Người này làm nhân viên cho công ty quốc doanh, là quản lý nhà máy điện. Nhâm Dần đái tượng. Dậu nhập Sửu khố toạ dưới nhật chủ.
Tiểu Nguyệt Hồ: Mệnh này Tài nhập Sửu khố tại chủ vị, có phải hay không cần phải khai khố thì mới đắc tài?
Bác Văn: Bởi vì là nội Thực Thần, cho nên không cần khai khố cũng có thể đạt được Tài.
Ái Thuỳ Thuỳ: Sang năm Bính Tuất hình Sửu sẽ như thế nào?
Bác Văn: Không phải quá tốt. Trường hợp này Sửu không hỷ hình. Tuất đến xuyên Dậu. Tài nhập Tài khố toạ dưới nhật chủ, tình nhân nhiều.
Vô danh: Bính Thân – Nhâm Thìn – Nhâm Tuất – Mậu Thân. Xin hỏi mệnh này hành vận Tuất có phải là mở Tài khố không?
Trả lời: Đúng là mở Tài khố.
Sáu: Tạo công kết cấu phức hợp
Phía trên chúng ta luận rất nhiều phương thức tạo công. Trong thực tế chúng ta gặp những bát tự sẽ không chỉ có một phương thức tạo công, mà sẽ có nhiều phương thức tạo công. Đối ứng với thực tế, những mệnh đó cả đời sẽ làm nhiều loại nghề nghiệp. Ứng ta theo đó mà đem mỗi phương thức tạo công đều tìm ra, rồi phân tích từng loại. Cũng có bát tự nguyên cục chỉ có một loại tạo công, nhưng bởi vì đại vận hành vận khác biết, cũng sẽ có nhiều loại phương thức xuất hiện.
Càn: Nhâm Ngọ - Tân Hợi – Canh Thìn – Đinh Hợi
Phân tích: Kim thuỷ thành thế. Niên trụ Ngọ Hợi ám hợp, Nhâm Ngọ tự hợp đều là chế Ngọ hoả. Thời trụ Đinh và niên trụ Ngọ là một người. Đinh Hợi tự hợp, cũng là chế, chính là Hợi tạo công, gọi là Thương chế Quan. Đây là kết cấu chế dụng. Đây là loại tạo công thứ nhất. Ngoài ra, Hợi nhập Thìn mộ là Thương nhập mộ. Thương chế Quan rồi cuối cùng lại nhập chủ vị Thìn mộ, bị Thìn khống chế. Đây là loại tạo công thứ hai, là tạo công mộ dụng. Cho nên mệnh này có hai loại tố công, đại biểu điều gì? Đầu tiên, Thương, Thực đại biểu tư tưởng, đầu não, bởi vì Quan tinh quá nhược, Đinh hư thấu bị chế chủ danh khí, địa vị. Những ý nghĩa phía trên tất cả đều bị Thìn khống chế và tụ tập đến một chỗ. Người này kh6ong làm quan bởi vì Quan tinh quá yếu. Là học giả, nhà khoa học. Kim thuỷ có thế, kim thuỷ chủ lý, Hợi thuỷ chủ số, nên là nhà số học.
Vì sao không làm quan?
Bác Văn: Chủ vị là Quan hư thấu, chủ danh khí. Quan tại niên trụ là khách vị, chủ vị là Thương, vốn Thương là ý hướng của nhật chủ. Nhật chủ không muốn kiến công lập nghiệp, chỉ muốn nghiên cứu học vấn. Quan ở đây chỉ là phụ trợ.
Càn: Giáp Dần – Quý Dậu – Đinh Sửu – Canh Tý
Phân tích: Nhìn toạ Sửu thổ. Thứ nhất, Dần Sửu ám hợp, Thực hợp Ấn. Loại tố công thứ hai là Dậu Sửu bán hợp, là hợp Tài. Thứ ba, Tý Sửu hợp, là Tài khố hợp Quan. Đại biểu có ba loại tạo công, cũng chính là nói người này cả đời làm nhiều loại nghề nghiệp. Dậu Sửu củng Tài cục, là Thực tại chủ vị sinh đến Tài ở khách vị (đương nhiên Sửu cũng có tượng là mộ của Dậu), có ý tứ là vì người khác ma phục vụ. Tý Sửu hợp trói ngăn trở Tý thuỷ Sát tinh, Canh Tý đái tượng, Sát đội mũ Tài, có ý tứ là quản lý tiền. Dần Sửu ám hợp, Dần là Ấn, Ấn tại niên trụ, niên chủ bên ngoài, biểu thị có quan hệ hợp tác với bên ngoài. Tổng hợp phân tích, đầu tiên người này làm nghiệp vụ, sau làm quản lý, còn cùng bên ngoài hợp tác. Thực tế người này là phó tổng nghiệp vụ, lại cùng rất nhiều đơn vị khác hợp tác.
Phân tích nhiều loại tạo công phải có năng lực tưởng tượng phong phú.
Càn: Mậu Thân – Giáp Tý – Giáp Dần – Bính Dần
Phân tích: Giáp là hoạt mộc, kỵ thấy kim. Niên trụ Thân là kỵ, quý ở chỗ có Tý thuỷ hoá Thân kim sinh Dần mộc. Mậu Thân đái tượng là Sát đội mũ Tài. Là Ấn hoá Sát tạo công. Tuy nhiên, hành vận Đinh Mão, vận Mão, Tý Mão tương phá, làm cho Tý thuỷ không thể phát sinh tác dụng. Đương nhiên lúc này còn có Mão Thân ám hợp, bảo hộ Thân kim, nhưng một khi có tượng Mão Thân ám hợp, cũng là hoạt mộc có thể cộng căn. Mão và Giáp là cùng một đảng, biểu tự tự thân đắc Sát (Dương Nhẫn hợp Sát). Vận này có thể làm quan. Đây gọi là kết cấu hợp dụng. Đại vận Mậu Thìn, Tân Tý Thìn tam hợp cục, là loại hoá dụng tạo công, nên làm quan, lại thăng quan. Vận Kỷ Tỵ, thuỷ đến tuyệt địa (Tý thấy Tỵ là tuyệt địa), là Ấn đến tuyệt địa, không thể hoá Sát. Tuy nhiên, Tỵ là Lộc của Bính, hoạt mộc thấy hoả là khai hoa kết quả, tiết tú. Tỵ Thân hợp, là Thực chế Sát. Vận lại này lại chế vận thành công. Chức vị không bị mất. Đại vận Canh Ngọ, Canh thấu xuất, Sát không chế, chức quyền không có. Vận Canh Ngọ về hưu.
Bác Văn: Vận Mậu Thìn đoán chừng có thể làm đến cấp tỉnh, hiện tại mới chỉ là cấp địa phương.
Vấn đề:
Vấn đề 1. Càn: Canh Tý – Canh Thìn – Canh Ngọ - Ất Dậu. Kim thuỷ khí thế chế Ngọ hoả, nhưng không làm quan là lý do làm sao?
Bác Văn: Dụng Thương Quan. Quan chủ tài phú, nhưng không chế tốt Quan. Quan không được chế tốt thì lấy Quan luận Tài chứ không luận quan chức. Tý thuỷ xung xa Ngọ hoả, là không đắc lực thành ra chế không tốt.
Vấn đề 2. Càn: Quý Tỵ - Nhâm Tuất – Canh Thân - Ất Dậu. Vận Mậu Ngọ, Mậu Quý hợp, hoả đắc cường căn, phải hay không phản cục?
Bác Văn: Không có nghiêm trọng như vậy. Không hành vận Tuất thì không gấp. Dậu hỏng thì còn Canh Thân.
Vấn đề 3. Càn: Mậu Thân – Giáp Tý – Giáp Dần – Bính Dần. Vận Canh Ngọ có Bính khắc Canh. Ngọ Thân ám hợp, vì sao mà mất chức?
Bác Văn: Tý Ngọ xung phá Ấn tinh không thể làm quan.
Sửa bởi ThienKhanh: 09/09/2018 - 13:21