VDTT trả lời những câu hỏi về Tử Vi phi tinh
MikeDo
22/01/2019
Vô Danh Thiên Địa, on 22/01/2019 - 15:45, said:
Cụ thể hơn, tứ hóa phi tinh nói nôm na chính là môn học nghiên cứu dáng điệu dòng chảy của khí trong lá số, dụng ngũ vận lục khí và lý thuyết cung khí để phân định cường nhược của khí.
Dùng khí để ngự hình, hình chính là tử vi nam phái.
Sửa bởi MikeDo: 22/01/2019 - 15:58
KimCa
22/01/2019
Vô Danh Thiên Địa, on 22/01/2019 - 15:33, said:
theo cháu, ý anh ta Cung Khí là nạp âm 12 cung trên lá số bác ạ. Dùng để định sự mạnh yếu của Chính phụ tinh trên mỗi cung mà chúng đó vào. Chính phụ tinh là hình, hình thì có khí, khí là ngũ hành hay còn gọi là khí tông, thương ta luận số ta luận cách cục, như Linh Xương Đà Vũ (kiếm tông) là cách dễ bị trầm cảm, tự vẫn (hình)...nhưng ở cung Hỏa khí thì Hỏa (khí) chế tính Âm kim có thể giảm nhẹ sự trầm cảm và có thể cứu giải được ít nhiều.
Còn ngũ vận lục khí là xét theo năm và tháng để định mức của cách cục ở trên, như Linh Xương Đà Vũ ở cung nạp âm Hỏa mà lại ở vận năm Mậu Quý hỏa thì sẽ không sao, ngược lại ở vận năm Bính Tân thủy thì âm kim sinh thủy, là kim chìm tượng cho gieo mình xuống sông tự vẫn, thủy lại quay hồi chế Hỏa là cách trên hung hiểm.
Sửa bởi KimCa: 22/01/2019 - 16:29
V.E.DAY
22/01/2019
KimCa, on 22/01/2019 - 14:43, said:
12 cung trên lá số tử vi, nếu xác định được cung nào là trọng yếu nhất và cũng là điểm yếu nhất thì hạn đến đó cũng giống như dụng thần bị xung phá trong tứ trụ. 12 cung sẽ có 1 cung như thế, nhưng cũng có lá số có 2 hoặc 3 cung.
1/ Tôi muốn lưu ý đoạn văn : "cứ 12 năm lập lại. Các cách xem cũ chẳng thể nào chấp nhận hiện tượng này, nhưng từ kinh nghiệm xem số của cá nhân tôi quả có những người cứ mỗi 12 năm lập lại cùng hiện tượng. "
là tôi trích lại từ lời của anh VDTT nói ở # 29 . Không phải tôi nói . Bạn đọc nếu có theo dõi hãy chú ý điểm này để tránh nhầm lẫn.
2/ Có trường hợp chỉ bị 1 lần , RẤT NẶNG rồi sau đó không lập lại. Nếu cần tham khảo tôi sẽ dẫn chứng.
Vô Danh Thiên Địa
22/01/2019
Đại khái thì phương pháp của Tứ Hoá Phi Tinh giống phương pháp như Chỉ Qui Kỳ Môn.
Từ đâu cậu Mike cho Nam phái là hình ?
Vô Danh Thiên Địa
23/01/2019
VDTT
23/01/2019
Vô Thường, on 18/01/2019 - 17:29, said:
Qua chỗ nghiên cứu của Vô Thường mà nói: Thì nguyên lý của mọi phi tinh chính là: Lộc Khoa và Quyền Kỵ luôn song hành trên mọi thời điểm.
Có Lộc sẽ luôn tồn tại Khoa.
Có Quyền sẽ luôn tồn tại Kỵ.
Tại cùng 1 thời điểm.
Ông Khuyến Học trai chủ, một bậc thầy phi tinh Đài Loan, gọi Khoa là “hóa lộc nhỏ” (tiểu hóa Lộc) và Quyền là “hóa Kị nhỏ” (tiểu hóa Kị); rõ ràng nhìn nhận hai quan hệ Lộc-Khoa và Quyền-Ki. Đó là xét đặc tính của sao.
Liên hệ Lộc-Kị, Khoa-Quyền
Nhưng xét lý âm dương, tức là áp dụng lý “toàn không” thì Lộc-Kị phải là một cặp, cặp kia dĩ nhiên là Quyền-Khoa.
1) Lộc: bắt đầu thì Kị chấm dứt, Lộc duyên khởi thì Kị duyên diệt.
2) Quyền quá độ thì Khoa điều chỉnh, Quyền tạo vấn đề thì Khoa giải vấn đề.
Lý 1) dẫn đến cách xem “Lộc tùy Kị tẩu”. Câu “Lộc tùy Kị tẩu” có thể mang rất nhiều ý khác nhau. (Một thí dụ không phải của phái phi tinh là lý “duyên khởi duyên diệt” của phái Tử Vân).
Một ứng dụng của phi tinh, nhưng không mấy quen thuộc, là của ông Trịnh Mục Đức (TMĐ) thuộc phái Hoa Sơn (“Tử Vi khai quán đích đệ nhất bản thư”, nxb Vũ Hà, Đài Bắc 2002). Dùng lý “Lộc tùy Kị tẩu” ông phối hợp Lộc nguyên thủy và Kị nguyên thủy với nhau.
Một lá số thí dụ có Lộc ở hạn 3 (thê), Kị ở hạn 4 (tử), đại hạn đi nghịch. Ông TMĐ luận:
-Vì “Lộc tùy Kị tẩu” nên (xác xuất cao) kết hôn hạn thứ 4, là nơi có Kị.
-(Quan trọng) Giả như kết hôn hạn thứ 3 thì sẽ có người thứ 3, vì trong trường hợp này Kị ở hạn 4 (tử) ứng với đào hoa.
-Hạn 4 có con (hoặc đào hoa, như bàn trên).
Thí dụ ngược lại có Kị ở hạn 3 (thê), Lộc ở hạn 4 (tử), đại hạn đi nghịch. Ông TMĐ luận:
-Vì “Lộc tùy Kị tẩu” nên (xác xuất cao) kết hôn hạn thứ 3, là nơi có Kị.
-Kết hôn hạn thứ 3 (nhưng) đời sống vợ chồng có vấn đề (VDTT chú: Có lẽ vì Kị cư phối).
-Hạn thứ 3, Lộc tùy Kị tẩu, xác xuất cao vì có con mà kết hôn.
Thí dụ khác Lộc ở tài, Kị ở điền:
-Hiện tượng: Kiếm ra tiền thì mua nhà.
-Hạn: Nếu đi thuận đến hạn điền tất theo nghề phục vụ (vì hạn nô có Lộc), nếu đi nghịch đến hạn tài tất cực khổ kiếm tiền (vì hạn tật có Kị).
Ông TMĐ lại có một cách xem đặc thù không thấy trong các sách phi tinh khác là “tam tượng nhất vật”, luôn luôn phối hợp 3 hóa nguyên thủy để tìm hiện tượng. Phương pháp là tìm trong mệnh tài quan di nguyên thủy các sao tứ hóa nguyên thủy, rồi nếu thiếu thì tìm thêm sao để thành các tổ hợp theo thứ tự ưu tiên như sau:
-Lộc Quyền Kị.
-Lộc Khoa Kị.
-Lộc Kị Quyền.
-Quyền Khoa Kị (hoặc Quyền Khoa Lộc tùy theo Kị hoặc Lộc trong cường cung).
-Quyền Kị Khoa.
-Khoa Kị Lộc
Sao thêm vào là sao định điểm, có ý nghĩa rõ rệt.
Thí dụ: Mệnh Kị, di Khoa, phụ Lộc.
Kị Khoa trong mệnh di nên đi làm cho người khác, đừng tự làm chủ. Lộc là sao thứ 3 nên là sao định điểm, nên làm các nghề dính líu đến văn thư, giảng dạy, tôn giáo v.v… vì các nghề này ứng với cung phụ mẫu.
Tóm lại Lộc-Kị một tổ, Khoa-Quyền một tổ.
Sửa bởi VDTT: 24/01/2019 - 00:59
Atmao75
23/01/2019
1. Quan hệ phi hóa giữa các cung lúc nào thì dừng lại. Nói rõ hơn
A phi Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ sang B; B lại phi Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ sang A, C, D, E. Cư như vậy biết lúc nào thì nên dừng?
2. Một tượng nào đó không có ý nghĩa cát hoặc hung. Vậy câu hỏi là:
- Khi nào thì đoán cát (nhiều lộc quyền khoa, ít kỵ) hoặc phải xem theo thứ tự lớp lang (sao lớn, nhỏ, khí lớn, nhỏ, tượng lớn, nhỏ, nguyên thủy, đại, tiểu, thời...)
minhgiac
23/01/2019
chủ đề của bác nói về phi tinh tức là phi tứ hóa. nên chăng muốn ứng dụng được, hiểu được, sử dụng được ắt phải đi tìm về cái gốc bản thể về nguyên lý và bản chất của tứ hóa là gì? thì việc áp dụng và luận giải sẽ có hiệu quả và rõ ràng. nếu không chúng ta chỉ biết cái ngọn, phi hóa đầy trời rồi dẫn đến những quan điểm tiêu cực, bế tắc. rồi như một số vị đã vô tình phi ra cự, kỵ, không kiếp....
với sự tìm tòi, học hỏi và nghiên cứu của bác, bác có thể giải đáp giúp cháu và mọi người được biết trên phương diện mà bác cho là " khoa học biện chứng" nhất về :
_ bản chất của tứ hóa là gì? (về tượng? về số? là lý?)
_ nguyên lý nào hình thành nên tứ hóa của các sao chính tinh và vài phụ tinh?
_ nguyên lý nào dẫn đến các can niên khác nhau thì chúng hóa ra các sao hóa khác nhau?
_ tại sao một số chính tinh không hóa?
_ tại sao một số sao không hóa lộc, không hóa khoa, không hóa quyền, không hóa kỵ?
khi thỏa mãn và sáng tỏ về bản chất của những câu hỏi trên thì việc kết hợp giữa cách cục của nam phái và phi tứ hóa của bắc phải tự nhiên ăn khớp và hoàn chỉnh không thừa không thiếu.
cảm ơn bác, mong hồi đáp của bác!
Sửa bởi minhgiac: 23/01/2019 - 10:32
MikeDo
23/01/2019
Trích dẫn
https://tuvilyso.org...1c-khua%CC%81t/
Trích dẫn
1 – Tầng này chỉ cần tra cứu từ điển, sách tên sao.
2 – Tầng này thì bắt đầu chú ý đến vẫn đề hội sao và theo các sách thành các cách như Tử Vũ Liêm, Sát Phá Tham…..
3 – Tầng tiếp là xem Hỷ kỵ của các cách, ví dụ Thất Sát thích Kình Đà, Phá Quân ưa Không Kiếp,…..
4 – Tầng tiếp là lý thuyết Mệnh chủ của chú VuiVui ( theo mình là như thế ). Trong thuyết Mệnh chủ này, những là số giống nhau, hoặc gần giống nhau như 2 lá số trên đều được giải quyết.
5 - Thuyết mệnh chủ của vẫn mới nói đến cách, mà chưa nói đến cao thấp. Lý thuyết cung khí vẫn còn mờ ảo? Vẫn chưa thấy được câu khẩu quyết trong truyện chưởng: trọng khí không trọng hình
6 - ..............
=
Sửa bởi MikeDo: 23/01/2019 - 11:49
V.E.DAY
23/01/2019
VDTT
24/01/2019
Tử Phủ Vũ Tướng, on 20/01/2019 - 15:07, said:
1.Trường hợp cung đại hạn (cung điền) hội cả 4 kị ( có cả kị, tự kị) , cái xấu không triệt tiêu được mà xấu thêm rất nhiều phải không ạ?
Điền là một trong những cung “ta” (1, 5, 9, 10 mệnh tài quan điền) nên có Kị có thể chẳng sao cả, vì đó là Kị của mình, ví như mình có súng đã lên đạn trong nhà. Có súng đã lên đạn trong nhà dĩ nhiên là một mối lo, nhưng nếu sinh họa thì ắt là do mình, tự mình; chẳng trách ai được cả.
Tử Phủ Vũ Tướng, on 20/01/2019 - 15:07, said:
Kị xung tử có nghĩa mình vô duyên với con cái (không con, khó có con, có con thì con không hợp mình hoặc sinh ly tử biệt v.v…). Nhưng đó là bàn giản dị. Vào chi tiết có khi phức tạp lên nhiều.
Tử Phủ Vũ Tướng, on 20/01/2019 - 15:07, said:
2. Trường hợp thêm hóa khoa và tự hóa khoa nữa thì có tác dụng gia giảm nữa không, hai hóa khoa này có triệt tiêu mất nhau làm mất tác dụng tốt không ạ?
(ví dụ: cung đại hạn Cơ hóa kị, chiếu có hóa khoa; cung đại hạn có tự hóa kị tự hóa khoa; lưu niên thái tuế năm mậu lại khiến Cơ hóa kị nữa, hạn tháng cơ hóa kị).
Vẫn khó biết tốt xấu, nhiều khi chẳng sao cả. Đừng quên là khi xem năm nào xấu tốt thường chẳng lý đến can năm (trừ khi ứng lý “thiên nhân hợp nhất”). Tương tự khi xem tháng nào xấu tốt thường chẳng lý đến can tháng (trừ khi ứng lý “thiên nhân đồng nhất”).
Nhưng có thể khẳng định rằng cung xung (tử) chẳng thể tốt được.
Tử Phủ Vũ Tướng, on 20/01/2019 - 15:07, said:
Cháu hỏi có gì ngô nghê, lệch chủ đề phi tinh mong chú thông cảm. Cháu cũng chưa nắm về lý thuyết này lắm ạ.
Tử Phủ Vũ Tướng, on 20/01/2019 - 15:07, said:
Ps: cháu đọc ở topic có một vấn đề hấp dẫn chú tiết lộ về tổng hợp kết quả xem lá số của những người đạt giải nobel, liên quan tới KK. Mong bao giờ chú có thời gian chia sẻ cho lớp hậu bối chúng cháu học hỏi.
Cháu chân thành cảm ơn chú
VDTT
26/01/2019
CaspianPrince, on 21/01/2019 - 08:57, said:
Phiền bác cho cháu hỏi mấy câu hỏi sau:
1. Dùng tứ hóa phi tinh có thể biết được khi nào sự kiện diễn ra hay không?
Xét trên lý thuyết thì đây chính là ưu điểm của phái phi tinh so với các phái khác vì có cách xem ứng kỳ lớp lang hơn nên dễ học hơn (nhưng không có nghĩa chính xác hơn, chuyện này tôi chưa đủ tư cách xác quyết).
Chẳng hạn áp dụng lý thiên địa nhân vào lá số nguyên thủy, đại hạn, và năm rồi dùng lý “hướng thượng truy tượng, hạ tầm ứng số” để áp tứ hóa của đại hạn vào lá số nguyên thủy (thượng) và lá số năm (hạ) thì biết được năm nào chuyện xảy ra. Cứ thế đi xuống, thậm chí có thể dùng lý y hệt vào tháng, ngày, giờ để xem giờ nào chuyện xảy ra.
Dĩ nhiên từ lý thuyết đến thực hành là một khoảng cách rất xa.
CaspianPrince, on 21/01/2019 - 08:57, said:
Nhưng sự thật chẳng giản dị như thế.
-Thứ nhất, tôi đồng ý với ông Tử Vân (Đài Loan) rằng “có tín hiệu trên lá số không có nghĩa có tín hiệu ngoài đời”, nên khi dùng lá số đoán dữ kiện tương lai ta chỉ có thể nói “Có xác xuất cao là việc X sẽ xảy ra”.
-Sau khi chấp nhận quan điểm xác xuất, khi đoán việc xảy ra chúng ta phải tìm tín hiệu mạnh, tức là Lộc Kị. Nhưng vẫn còn tùy trường hợp. Chẳng hạn, người thường thì đang kiếm việc cần tìm việc phải xem có Lộc không, nhưng anh hùng áo vải đang muốn khuấy động thiên hạ có khi phải gặp Kị mới là đúng thời.
Từ đó có thể thấy Kị không nhất thiết là chấm dứt, mà thường là một biến chuyển từ chuyện A sang chuyện B. Như đang có việc, đổi sang làm việc khác có thể tín hiệu là Kị mà không phải Lộc, mặc dù việc đổi thay này chẳng có gì xấu.
CaspianPrince, on 21/01/2019 - 08:57, said:
Chủ trương quen thuộc nhất của các phái phi tinh là nếu năm là đơn vị nhỏ nhất của tam tài (thiên=cả đời, địa=đại hạn, nhân=năm) thì cần phân biệt can Thái Tuế và cung can của Thái Tuế. Như năm nay là năm Mậu Tuất thì can của Thái Tuế là Mậu. Giả sử người xem sinh năm Ất Mùi 1955 thì cung Tuất là Bính Tuất, do đó cung can của Thái Tuế là Bính.
-Chỉ đưa tứ hóa theo can của Thái Tuế, tức can Mậu, vào đại hạn để tìm “định số” (tức định tượng).
-Các trường hợp khác dùng cung can của Thái Tuế, kể cả trường hợp thiên nhân hợp nhất. Chú ý rằng ngoài phép “thiên nhân hợp nhất” ra, phái phi tinh không dùng lưu niên tứ hóa để xem hạn năm (chỉ dùng nó để xem hạn tháng, hạn ngày).
Trên đây chỉ nói đến Thái Tuế, và các sách phi tinh đại đa số chỉ xem Thái Tuế. Nhưng một tinh hoa của Tử Vi Việt là cung tiểu hạn, nên tôi chủ trương phối hợp Thái Tuế và tiểu hạn lại mà xem hạn năm.
-Thái Tuế là trời định.
-Tiểu hạn là ta định.
Xem tiểu hạn bằng phương pháp giống như xem Thái Tuế, rồi tùy theo Thái Tuế và tiểu hạn có đồng thuận hay không mà luận ra cách ứng xử hợp lý.
CaspianPrince, on 21/01/2019 - 08:57, said:
Nếu chỉ dùng lý Lộc Kị thì đừng hòng xem sự kiện diễn ra trong nhiều năm.
Xin nhắc rằng phái Tử Vân, tức một cách xem Đài Cảng, có cách giải quyết vấn đề này bằng “cung trọng điểm”. Tiếc rằng cách này mặc dù có lý lại rất khó thực hành. Tôi đã hy vọng trong những sách mới ông Tử Vân đề nghị những cách xem mới, chẳng ngờ ông chuyển hướng thành một phái phi tinh mới, nên chưa biết cách xem “cung trọng điểm” của ông sẽ đi về đâu.
Nhưng tôi hiểu cái lý của cung trọng điểm, nên xin ghi ra đây. Trước hết phải có diễn biến thật xảy ra đã, hẵng xem. Kẻo thành võ đoán. Một khi đã có diễn biến thật xảy ra, ta xem lá số rồi định xem cung nào ứng với diễn biến đó, cách xem là chọn cung rõ nét, tức là nhiều cộng hưởng.
Như kiếm được việc, muốn xem làm được lâu dài hay không thì:
1-Tìm xem cung nào ứng với việc làm ấy. Phải chọn một trong ba cung quan nguyên thủy, hạn quan, lưu quan. Cung nào có cộng hưởng mạnh nhất, bất luận xấu tốt, chọn cung ấy.
2-Sau khi đã chọn cung rồi thì coi cung ấy là cung “công việc” (tương tự cung quan lộc), rồi tùy cách xem mà định những diễn biến tốt xấu theo thời gian ra sao. Cơ bản vẫn là xem ảnh hưởng của đại hạn, của tiểu hạn, của Thái Tuế. Một lý quan trọng ở đây là phải chú ý đến Lộc Kị theo lý “Lộc tùy Kị tẩu” (ông Tử Vân gọi là ”duyên khởi duyên diệt”). Như công việc của ta có vẻ ứng với Tham hóa Lộc; vì Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ. Phải xem Cơ ở đâu, coi chừng khi đến đại hạn hoặc năm có Cơ là lúc công việc có thể chấm dứt.
Cách xem bệnh tật cũng thế. Phải xem cung nào ứng bệnh của mình, rồi xem có gì cứu giải hay không, khi nào. Hoặc không có gì cứu giải thì khi nào có thể ra đi.
Có thể thấy rằng muốn xem diễn biến lâu dài thì phải giỏi xem tượng sao. Đây chính là ưu điểm của Tử Vi Việt.
CaspianPrince, on 21/01/2019 - 08:57, said:
Tương đối mới với phi tinh, tôi quen thuộc hơn với những cuộc tranh luận trong các phái không dùng phi tinh, nên về quan điểm phi tinh tôi chỉ là một lý thuyết gia, chưa có thực chứng về vấn đề này. Nhưng dù sao tôi cũng xin trình bày quan điểm của mình, trong chủ trương Tử Vi hoàn toàn khoa học.
Nhìn nhận, tôi chưa từng thử xem bỏ mùa sinh vào có chính xác hay không, nhưng đây chính là một cách mà nhiều Tử Vi gia Đài Loan, trong đó có ông Phương Vô Kị, đã xử dụng và truyền bá mấy mươi năm trước. Sự thật là cách này đã bị thời gian đào thải. Sau ông Phương Vô Kị chẳng thấy danh gia nào nhắc tới nữa.
Ý kiến của tôi: Một lý lớn của khoa học là dao cạo Occam, phải cắt hết tất cả những gì mà lý thuyết không đòi hỏi phải có. Trong trường hợp Tử Vi chúng ta có một thực thể hết sức đặc thù là cung mệnh, từ cách hình thành có thể nói cung mệnh là “tháng tương đương” do bài toán Tử Vi tính ra (theo tháng thuận giờ nghịch). Nên sinh mùa thu không có nghĩa phải dùng lý của mùa thu, mà sinh bất cứ mùa nào cũng đều dùng lý của mùa ứng với cung mệnh. Nhưng dùng lý của mùa ứng với cung mệnh là việc mà mọi phái Tử Vi xưa nay đã làm, chẳng hạn như “Tham Lang cư Tí như lãng lý hành thuyền”. Thành thử theo tôi khi bỏ mùa sinh vào bài toán Tử Vi là đã vẽ rắn thêm chân rồi.
Câu hỏi là “Thế thì làm sao luận cường nhược?” Thú thật tôi chưa từng coi cường nhược là yếu tố quan trọng; nhưng đó là ngày xưa khi tôi không để ý đến phép phi tinh. Biết đâu tôi sai?
Vì thế tôi xin ghi lại cách xem cường nhược của ông Khuyến Học trai chủ (KHTC), có ghi trong sách “Tử Vi tiến giai”, nxb Tuyền Nguyên, Đài Bắc 1994.
Trước hết phân cung thành âm dương, đếm theo chiều nghịch:
-Từ 1 (mệnh) đến 5 (tài) cứ lẻ dương chẵn âm.
-Từ 6 (tật) đến 12 (phụ mẫu), trừ 5 rồi lẻ dương chẵn âm, kết quả là tật dương, di âm, nô dương, quan âm, điền dương, phúc âm, phụ mẫu dương.
Chú ý rằng 5 cặp xung chiếu đều có 1 âm 1 dương (mệnh dương di âm, bào âm nô dương, phối dương quan âm, tử âm điền dương, tài dương phúc âm) chỉ riêng phụ tật hai cung dương cả.
Sau đó dùng luật hóa của cung A nhập vào cung B, như sau:
1-Dương nhập dương: Cộng hưởng yếu nhì.
2-Âm nhập âm: Cộng hưởng yếu nhất
3-Dương nhập âm: Cộng hưởng rất mạnh.
4-Âm nhập dương: Cộng hưởng khá mạnh, nhưng kém trường hợp 3.
Ông KHTC còn ghi rằng nếu xét tam phương mệnh tài quan thì cung mệnh có thể dương có thể âm (trong khi đó tài dương quan âm), nếu chỉ so sánh mệnh di thì mệnh âm (bất động) di dương (động). Thành thử cách chia âm dương này còn vài điểm chưa rõ ràng.
Ngoài ra, chúng ta cũng có thể xem cường nhược bằng cách áp dụng hai vòng tràng sinh có sẵn trong khoa Tử Vi truyền thống, thí dụ xem sách Vân Đằng Thái Thứ Lang ắt thấy:
-Tứ hóa nguyên thủy cường nhược thế nào? Yếu tố năm tức tài thiên đã có vòng trường sinh dựa theo nạp âm của năm sinh. Vòng này áp dụng được vì năm sinh là một yếu tố hết sức quan trọng trong bài toán Tử Vi, và 12 cung địa bàn quả ứng với chu kỳ 12 năm.
-Chính tinh và cung hóa, hạn hóa cường nhược thế nào? Tất cả các yếu tố này đều ứng tài nhân, đã có vòng trường sinh dựa theo nạp âm của cung an mệnh. Vòng này áp dụng được vì cung an mệnh quan trọng thế nào chúng ta đã biết, và 12 cung địa bàn quả ứng với 12 tháng của năm sinh.
CaspianPrince, on 21/01/2019 - 08:57, said:
Dựa trên sự kiện là cùng lá số đời sống có thể rất khác nhau, tôi cùng quan điểm với ông Khuyến Học Trai Chủ (phi tinh Đài Loan) rằng con người thay đổi theo thời gian, mà không phải là thời gian dần dần lột trần bộ mặt của con người.
Thử nghĩ, một cuộc ẩu đả giữa hai thanh niên vì chẳng ai chịu thua ai trong một chuyện nào đó, kết quả cả hai cùng bị còng tay vào tù. Giả như một bên chịu thua thì có chuyện gì xảy ra không?
Thành thử khi xem Tử Vi cho người khác, ông thầy nên đóng vai trò như bác sĩ, khuyên bệnh nhân phải làm gì cho ứng hợp hoàn cảnh và giảm xác xuất nguy hiểm, tăng xác xuất an toàn, thay vì phán như đinh đóng cột.
CaspianPrince, on 21/01/2019 - 08:57, said:
Xin cảm ơn bác.
Tôi chưa đọc bài này của cụ Hà Uyên, nhưng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm mà cụ muốn đưa ra. Rằng hành động của ta có thể tăng độ tốt xấu của lá số, thậm chí thay đổi cái “mệnh” của ta.
Lời giải thích là luật nhân quả và lý của khoa xác xuất.
Sửa bởi VDTT: 27/01/2019 - 01:27
MikeDo
26/01/2019
Trích dẫn
Trường hợp mà ứng kỳ của Tham Lang-khởi đầu, nó lại diễn ra sau ứng kỳ của Thiên Cơ-kết thúc, thì bác có thấy mâu thuẫn với lý duyên khởi duyên diệt hay không? Vì trên nguyên tắc duyên khởi thì phải trước duyên diệt.
Với thứ hai, cháu xin phép mời bác vào trang chơi, ở đó phi tinh và tứ hóa rất thịnh, và có nhiều cao thủ khá mạnh. Chứ ở trang tvls này, thật sự ngoài bác ra, cháu vào chả biết nói chuyện cọ sát với ai, buồn chết bác ạ, rồi lại thị phi đủ kiểu.
Cháu dự tính đợt nghỉ tết âm lịch này, sẽ bắt đầu đưa quân đội kéo sang đấy tu luyện. Cháu rất mong bác cùng tham gia để chỉ dẫn cháu tu luyện.
Sửa bởi MikeDo: 26/01/2019 - 16:22
VDTT
28/01/2019
VDTT, on 26/01/2019 - 10:39, said:
..Vì thế tôi xin ghi lại cách xem cường nhược của ông Khuyến Học trai chủ (KHTC), có ghi trong sách “Tử Vi tiến giai”, nxb Tuyền Nguyên, Đài Bắc 1994.
Trước hết phân cung thành âm dương, đếm theo chiều nghịch:
-Từ 1 (mệnh) đến 5 (tài) cứ lẻ dương chẵn âm.
-Từ 6 (tật) đến 12 (phụ mẫu), trừ 5 rồi lẻ dương chẵn âm, kết quả là tật dương, di âm, nô dương, quan âm, điền dương, phúc âm, phụ mẫu dương.
Chú ý rằng 5 cặp xung chiếu đều có 1 âm 1 dương (mệnh dương di âm, bào âm nô dương, phối dương quan âm, tử âm điền dương, tài dương phúc âm) chỉ riêng phụ tật hai cung dương cả.
Trong một trang khác cùng sách ông KHTC nói là phụ dương, tật âm. Như vậy có lý hơn. Giả như đây là ý của ông KHTC chủ có 6 cặp đều phân âm dương, (không phải là 5 cặp phân âm dương, riêng phụ tật đều là dương).