GIẢI PHÀN SẤM TỪ NỘI DUNG BIA “DI NGÔN CHÍ”
貽 言 志
Di ngôn chí
白 雲 還 始 四 百 年
Bạch vân hoàn thủy tứ bách niên
雪 江 墳 嶼 化 左 田
Tuyết giang phần dữ hóa tả điền
適 時 來 生 尋 的 穴
Thích thời lai sinh tầm đích huyệt
清 持 皇 族 墓 復 原
Thanh trì hoàng tộc mộ phục nguyên
傘 神 選 諦 為 心 梵
Tản thần tuyển đế vi tâm phạn
沱 靈 南 替 伯 聖 明
Đà linh Nam thế bá thánh minh
北 狂 西 怒 東 海 變
Bắc cuồng Tây nộ Đông hải biến
戊 戌 新 君 越 建 榮
Mậu Tuất tân quân Việt kiến vinh.
Phần dưới chân bia ghi:
來 緣 為 讖 復 越 族
鎮 宅 兆 吉 地 碑
LAI DUYÊN VI SẤM PHỤC VIỆT TỘC
TRẤN TRẠCH TRIỆU CÁT ĐỊA BI
TẠM DỊCH :
Sấm làm ra vì “Duyên đến đây” để báo đáp cho người dân Việt (Nam)
“ĐỊA BIA” ĐỂ TRIỆU CÁT VÀ TRẤN TRẠCH.
Mặt sau của bia có khắc một câu đối:
去 千 年 丁 還 釘 護 國
來 創 世 越 伯 粵 友 邦
KHỨ THIÊN NIÊN ĐINH HOÀN ĐINH HỘ QUỐC
LAI SÁNG THẾ VIỆT BÁ VIỆT HỮU BANG
Xem hình ảnh :Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn
Tạm dịch:
“Suốt một nghìn năm từ thời Đinh vẫn dõi theo giúp nước
Sáng Thế Chủ đến khi nước Việt xưng bá từ một nước bạn cũng là Việt”
去…還 “Khứ…. hoàn” là cặp từ chỉ thời gian đi qua ở đây nghĩa là một nghìn năm tính từ thời Đinh Tiên Hoàng Đế trở đi.
Chữ “Đinh” 釘 này nghĩa là “dõi theo”.
“創 世” “SÁNG THẾ” là “Sáng tạo Thế giới” chứ không phải là tạo ra một thời thế mới, “Thế giới” là đã được sáng tạo ra rồi, “LAI SÁNG THẾ” là “Sáng Thế Chủ”, “Phật Chủ”, “Vạn Chủ chi Chủ”… đến địa cầu.
Khi Vua Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế Đại Cồ Việt thì từ đó nước ta xác lập quan hệ độc lập với Trung Hoa với vị thế “bang giao”, “友 邦”- “hữu bang” trong chữ Hán nghĩa là “nước bạn”.
Chữ “Việt” - 越 này là chữ “Việt” trong nước Việt, người Việt, Việt Nam.
Chữ “Việt” - 粵 này là chỉ vùng lưỡng Quảng : Quảng Đông, Quảng Tây quá khứ gọi là “Bách Việt” , hàm nghĩa thật sự ở đây là chỉ Trung Hoa, từ sau thời Vua Đinh trở đi thì vùng Lưỡng Quảng hoàn toàn thuộc về Trung Hoa.
“CỒ VIỆT QUỐC ĐƯƠNG TỐNG KHAI BẢO
HOA LƯ ĐÔ THỊ HÁN TRÀNG AN”
Câu đối của Khai Quốc Công Thần Nguyễn Bặc
Sấm Trạng Trình :
“Vừa năm Nhâm Tí đầu xuân
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy Sấm Trời
Từ Đinh đổi dời chí lục thất gian
Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước dân an thái bình”
Nội dung của bia “Di Ngôn Chí” chính là tiết lộ căn nguyên thật sự của việc làm ra “Sấm Trạng Trình”.
Có thể hiểu như sau: Lịch sử 5000 năm lần này của nhân loại là do Sáng Thế Chủ đặt định làm cơ sở cuối cùng cho Chính lại Pháp cứu toàn bộ thương khung vũ trụ đã đi đến bước cuối cùng của quá trình Thành –Trụ -Hoại-Diệt.
Màn diễn lớn của lịch sử “VŨ ĐÀI LỊCH SỬ” lấy đất Trung Hoa còn gọi là Thần Châu làm trung tâm, các dân tộc khác là đóng các vai trò khác nhau. Trong lịch sử Sáng Thế Chủ đã luân hồi chuyển thế nhiều lần tại các dân tộc khác nhau để đặt định văn hóa và “
Kết duyên” với chúng sinh các dân tộc mục đích là để họ có thể đắc ĐẠI PHÁP khi Ông xuất thế truyền Chính Pháp.
Đại Việt là quốc gia sát cạnh Trung Hoa cũng là đóng vai phụ khá chủ yếu trong lịch sử lần này của Trung Hoa gọi là : “Binh chinh thiên hạ, cường giả vi anh hùng, vương giả trị quốc” nên tất nhiên phải có các dân tộc xung quanh đóng các vai phụ.
Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” viết:
“Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập.
cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
Vậy thì có lẽ nào “Sáng Thế Chủ” Ngài cũng đã từng luân hồi chuyển thế làm người Việt?
Theo lý mà xét thì hoàn toàn có thể, mà có thể là mấy lần không phải là 1 lần, bia “Di Ngôn Chí” chính là tiết lộ điều ấy.
“
Lai duyên vi sấm phục Việt tộc”
“
Lai Sáng Thế Việt bá Việt hữu bang”
“
Tản Thần tuyển đế vi tâm phạn
Đà linh Nam thế Bá Thánh Minh”
“己 亥 一起 現 來 生 天 幾 必 達”
“KỶ HỢI NHẤT KHỞI HIỆN LAI SINH THIÊN CƠ TẤT ĐẠT”
“
Lai sinh” có nghĩa là đời sau, “Đạt” là tên chữ “tự” của Trạng Trình.
“
Bạch Vân hoàn thủy tứ bách niên”
“Bạch Vân” trở về ban đầu là trở về đâu?
“Bạch Vân” vốn là ở trên trời “
Bạch vân nhất đóa thượng thanh thiên”- thơ Đường, sau 400 năm “Bạch Vân hoàn thủy” là ẩn ý sau khi hoàn thành tâm nguyện “Chí của mình” thì “Bạch Vân” về trời.
“
Hồng nhật đông thăng tri đại hải
Bạch vân tây vọng thị Tần châu”
Thơ : “Bạch Vân Am thi tập”
“
Như Thần như Thánh diệc như Tiên
Ngã thị Nam bang nhất trạng nguyên
Ngô kiến Ngô dân Ngô vĩnh thán
Ngô gian Ngô địa nhạc Ngô thiên”
“Sấm kí bí truyền”
“
Nam Việt hữu ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Địa giới xỉ vị bạch
Thủy trầm nhi bất kinh”
“Thiên sinh Thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ Đà cách trở
Hậu sinh Thiên tử Bảo Giang môn”
“Dục thức Thánh Nhân hương
Quá kiều cư Bắc phương”
Còn có nhiều câu sấm khác đều có hàm ý như vậy.
Giải đến đây thì có lẽ bạn đọc đã hiểu phần nào lý do lại làm ra sấm, chính là vì muốn tạo “Phúc” cho dân tộc Việt bởi một chữ “Duyên”, Nước Việt chúng ta là có “duyên” cùng Phật Chủ , Sấm được lý giải vào khi nào cũng là đã được đặt định trước đó không phải là do dùng sức người mà nghĩ ra được mà được Thần bài trí đến thời ắt sẽ được cung cấp đủ dữ kiện để lý giải nhưng trên bề mặt thế gian là giống như tự nhiên và ngẫu nhiên hoàn toàn không có gì là bí hiểm hay thần thánh hay mê tín cả hoàn toàn không phải kiểu như vậy. dẫu sao cũng vẫn là ở trong “mê” cũng không thể là nào là thấy được chân lý, vẫn là đòi hỏi người ta phải có niềm tin và ngộ tính vì điều này là “
Thiên lý” chính là ở chỗ con người thì không thể biết được “thực chất”, nhưng tâm ý của tôi là mong muốn hoàn toàn vì lợi ích của mọi người, cá nhân tôi chỉ mong muốn đạt đến chỗ không cầu điều gì nữa giống như câu sấm “Dê không ăn lộc ngoảnh vể tây”.
Thời đại ngày nay “vô thần luận” , “tiến hóa luận” đang ở trên ngôi, vậy liệu các bạn có thể nào thay đổi “thế giới quan” của mình mà tin tưởng những điều này?
Có thể có người còn băn khoăn “
Lục Thất nguyệt gian” là gì?
Nghĩa thật lại rất đơn giản : “
Nguyệt gian” theo tiếng Hán nghĩa là “thời gian giữa các tháng “ hiểu theo tiếng Việt là khái niệm: “
tháng năm” như trong giấy tờ ta hay thấy có dòng thông tin “
Ngày tháng năm sinh”, trong tiếng Việt hiện nay “vừa khéo” số “05” cũng đọc là “
năm”.
“LỤC THẤT NGUYỆT GIAN” dịch ra tiếng Việt là “
Mười ba tháng năm” tức là Ngày 13 của tháng 05.
Ngày 13/05 (Mười ba tháng 05) là ngày PHAP LUAN DAI PHÁP Thế giới (FALUN DA FA Day) để ghi nhớ ngày đầu tiên Đại Pháp được truyền công khai ra công chúng (13/05/1992) tại Trường Xuân, Cát Lâm, Trung Quốc. Cũng là ngày sinh của ngưởi sáng lập PHAP LUAN DAI PHÁP là Sư Phụ Lý Hồng Chí (13/05/1951) tức là ngày Quý Sửu tháng Quý Tị năm Tân Mão. Trong lục thập hoa giáp “Nhâm Tử” hay “Nhâm Tí” có nghĩa là “
em bé trong bụng mẹ”, ngày tiếp sau ngày “Nhâm Tí” ở trên tờ lịch là ngày “Quý Sửu” có lẽ là Thần đã chủ ý làm ra như thế, nên mới có câu sấm : “
Ngưu xuất Lam Điền nhật chính đông”.
Đề tài này đúng là có viết mãi cũng viết được, nhưng cứ dính mắc mãi ở đây cũng có chỗ không tốt nên tôi cũng xin phép dừng lại, hy vọng các bạn có thể tự mình đi tìm hiểu thêm.
Chúc các bạn bình an qua đại dịch!
Sửa bởi catdang: 25/06/2021 - 13:45