SẤM TRẠNG TRÌNH 2018
#541
Gửi vào 12/03/2020 - 19:08
#542
Gửi vào 12/03/2020 - 19:21
Có được kết quả này tôi xin chân thành cảm ơn Thánh cho số catdang
Sent from my iPhone using Tapatalk
Thanked by 1 Member:
|
|
#543
Gửi vào 12/03/2020 - 20:44
lục là 6, 6 ứng với phương Khảm. Chòm Bắc đẩu có 7 ngôi sao, 7 trong tiếng hớn là thất.
Nên Lục Thất Tuế chính là chòm Bắc Đẩu.
Di Đà đang ở trên chòm Bắc Đẩu cách đây hàng trăm năm ánh sáng. Phải đi bằng tàu của người ngoài hành tinh mới đến được cõi Cực Lạc nơi đức Phật A mi đà đang thuyết pháp.
Nơi các Elohim ngự trị.
Còn không có điều kiện thì tu theo kinh A di đà để được hóa sinh ra trong liên hoa cửu phẩm. NỞ ra từ hoa như nàng tiêng ống tre, hay cô bé hoa hồng, hoặc cậu bé sọ dừa.
#544
Gửi vào 13/03/2020 - 09:13
Tôi không biết chữ Hán nhưng không có ngĩa là không hiểu mình viết cái gì.
Viết có hai chữ "tả hữu" vậy hiểu nó như thế nào? là "bên phải bên trái" là "đúng sai" là "bên đông bên tây" nếu chẳng tra từ điển thì có ai nghĩ nó là " giáng xuống và bên trên", các vị hiểu thế nào chả đúng, tôi hiểu có sai không, "tiên hạ thủ vi cường" tay nào đi trước thì nó thắng.
Có người quen mời các vị đi "thôn hữu" mà ăn cỗ, đi thôn Đông thì có khi được ăn. đi thôn bên phải không khéo gặp đám đánh nhau lại mẻ đầu, chữ nghĩa nó vốn là như thế.
Viết "lục thất tuế" các vị hiểu sao cũng đúng cả : "sáu, bảy năm", "mười ba năm" "42 năm", "năm thứ 6,7" năm thứ 13, năm thứ 42, thậm chí "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuế thứ 42" cũng đúng cả nhưng nếu hiểu là "67 năm" học trò xưa mà hiểu thế thì ăn vọt.
Viết để viết cho đời sau, người có trí tuệ lẽ đâu là cái việc thừa để cho nó có xảy ra rồi người ta "uống trà vỗ đùi" rằng "Trạng sao giỏi thế". Ông khuất núi mấy trăm năm rồi cũng chẳng hưởng cái danh thơm mà người ta tặng, con cháu Ông cũng chẳng hưởng cái đó.
Bây giờ là năm 2020 tiếng Hán họ đọc như thế nào "Nhị thiên thập nhị niên" "nhị linh nhị linh niên" nếu là học trò Trạng Trình mà đọc thế là "ăn roi", "2020 ở đâu ra cho mi đọc" nó phải đọc là "Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuế thứ 45 Canh Tý niên", như thế đấy thưa các bạn, viết Sấm cho các bạn mà lại đúng ngữ pháp nữa thì phải giấu 14 chữ ấy đi đâu?
Biết bao câu Sấm nói Thánh Nhân ở "Khảm phương" nào là "BẮC PHƯƠNG CHÍNH KHÍ SINH RA", "CHÍNH CUNG PHƯƠNG KHẢM VẦN XOAY", "THÁNH NHÂN CƯ KHẢM CHÍNH BẮC", " BẤT TẠI MAN HƯƠNG TẠI ĐỊCH HƯƠNG" .....cái chữ khảm phương nó khó hiểu quá vậy thì sao không đi lên mạng mà xem nó ở chố nào.
Đâu là khảm phương ? Ngồi nhà các bạn chẳng phải cũng có "KHẢM PHƯƠNG" hay sao, làm gì có thánh nhân nào chỉ là "ông hàng xóm tôt bụng" mà biết đâu một ngày đẹp trời ông ấy lại sang "sửa giúp bóng đèn".
Chỗ nào chẳng là khảm phương, đông tây nam bắc là phải lấy vị trí mà xét. Trạng Trình ngồi am Bạch Vân ở Hải Phòng , Ông dạy học trò đi khảm phương mà tìm Thánh Nhân tối thiểu mà lấy Honda chạy lên Móng Cái, Cẩm Phả... thì may ra mới thấy, đằng này nó lại bắt tàu lửa dông tuốt vô Đồng Tháp An Giang để tìm Thánh Nhân không phải nực cười hay sao? Hay là bây giờ vé máy bay rẻ quá nên "ổng vô nam rồi".
Ví như Ông Trạng Bùng mà nghe thầy mình đi "khảm phương" tìm Thánh Nhân thì chí ít ông ấy cũng phải lên mạn Cao Bằng, Hà Giang gì đó, nếu ông vô Thanh Hóa thì chỉ có tìm thấy Vua Lê.
Tôi hôm nay đang ở Vũng Tàu có thằng bạn gọi "ông chịu khó về khảm phương thăm tôi đi" kiếm cái vé giá rẻ ra Hà Nội không phải khảm phương thì là cái chi chi à.
Theo như những cái môn như Chu Dịch, Bát quái gì đấy thì "khảm phương" nó là bắc Trung Quốc, còn Nam Việt là hỏa ly phương. Trung Quốc so với địa lý Việt Nam không phải là khảm phương chính bắc thì là kiền tốn chấn ly gì hay chăng, các bạn có ngồi tai tung của đâu mà nói đông bắc hay tây bắc.
Nếu "Càn khảm cấn tốn...." nó khó hiểu quá thì dang tay ra hữu chỉ mặt trời là Đông, tả là Tây, mặt là bắc, lưng là nam dễ đến như thế mà lại cứ quay vào Nam mà tìm, thât tức cườ i i làm sao không về cùng cười với nhau đi mà lại cứ phải cãi nhau với tôi làm mốc gì.
Nếu cho tôi "tầm chương trích cú" giang hồ giải như thế nào thì tôi túm nó lại như thế này các bạn chớ cười nhé : "Thiên tử tên là "Đào Minh Quân" á. Sao lại họ Đào? là vì theo như ông tiên tri bên Mỹ thì vì bị giang hồ nó xử nên phải đi trốn, đào là trốn ấy, tiềm là lặn ấy, lấy chữ "minh" vì "khẩu" là cái mồm, "đinh" là đọc lên kêu "inh inh" á. Tên là "quân" vì là thiên tử mà, trong tay vạch ra sẽ có chữ vương á bởi vì "thủ túc chánh vương tam lương tự" á. Ông hay mặc áo trắng giống người đạo hồi á vì gọi là "Bạch sĩ" á. Ông sinh ở chùa "răng ngựa trắng" á, quê ông là sông cửu long vì mùa nước ngập có nhiều hoa sen á , gọi là "thủy trung tàng bảo cái" á, ông tuổi sửa á vì là "phá điền thiên tử" á, biêt đâu lại tuổi "canh sửu" cũng nên vân vân và vân vân......
Sửa bởi catdang: 13/03/2020 - 09:21
#545
Gửi vào 13/03/2020 - 09:51
VIẾT NHƯ THẾ LÀ DÂN MÌNH TỰ CHỬI MÌNH !MAN ĐỊCH LÀ TỪ CỦA PHE TÀU CHỬI CÁC PHƯƠNG KHÁC.
THÔI GIỜ LÒI RA TÊN HÁN GIAN ...
ÔNG TRÍCH NGUYÊN VĂN SCAN CÂU ĐÓ TIẾNG NÔM XEM ...
TÔI KHÔNG CHỈ CÓ 1 BẢN SẤM MÀ CÓ TỚI 3-4 BẢN ...BẢN SỞ CUỒNG ; BẢN PHÙNG KHẮC KHOAN ...VÀ VÀI DỊ BẢN KHÁC.
CUỐI CÙNG CON CÁO HÁN GIAN XUẤT HIỆN NHÉ ; ÔNG CHỤP LẠI TÀI LIỆU ...TẤT CẢ TÔI ĐỀU CÓ ĐỦ ĐỂ CÃI VỚI ÔNG NÊN ĐỪNG CẬY TUỔI MÀ THÍCH NÓI GÌ THÌ NÓI.
CÁI NÀY LÀ NÓI KHÔNG CÓ SÁCH ...MÁCH KHÔNG CÓ CHỨNG
#546
Gửi vào 13/03/2020 - 10:02
Ông nói "theo như những môn Chu dịch, Bát quái gì đấy..." tức là ông chẳng có tí kiến thức nào cả, khác nào đứa trẻ con bàn chuyện đời
Luận điệu vừa ngô nghê vừa bừa bãi
Cứ tiếp tục đi, nói chuyện trong tưởng tượng mong loè người, chỉ cần bóc hết cái vỏ ấy cho lộ ra thực chất là xong, cho lòi hết cái ngu ra thì tuyên truyền trở thành vô nghĩa
Sent from my iPhone using Tapatalk
Sửa bởi thanhtung247: 13/03/2020 - 10:05
#547
Gửi vào 13/03/2020 - 10:08
Nước Nam thường có thánh tài (tr.48)
Sơn hà vững đặt mấy ai rõ ràng
Kia Nhị thủy nọ Đao sơn
Bãi ngọc đất nổi âu vàng trời cho
Học cách vật mới dò tới chốn
Chép ghi làm một bản xem chơi
Muôn việc cũng bởi tại trời
Suy thông mới biết sự đời nhường bao
Khéo chẳng sai tơ hào cũng vậy
Truyền hậu thế ai nấy xem cho
Những lời nghiêm ngặt khôn lo
Ai mà biết được trượng phu nên người.
Nay xem chữ một nghĩa mười
Nói xuôi cũng được ngược thời cũng nên
Kể từ Lạc Long Quân dựng nước
Sang Hùng Vương được 18 đời
Tiên Hoàng ngày trước mở ngôi
Cờ lau lập trận thay trời trị dân
Mão được 12 dư xuân (tr.49)
Lê Hoàn kế vị xa gần âu ca
Truyền đã được mười ba rằm lẻ
Đến Ngọa triều nào kể tài năng
(2) Ngôi trời truyền đến Lý nay
Long thành bát diệp đến ngày dực phân
Chiều Hoàng là ả nữ quân
(3) Mê về nhan sắc trào Trần thái tôn
………………………………………………..
……………………………………………….. ……
Trăm bảy mươi in dấu thất niên
Đông A chốn ấy còn bền
Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam
Thái ngu được mười bốn năm
Hậu thập nhị để lại trăm đố hồi49
Suy ra mới biết sự trời
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê gia
Mười đời ngồi ngự ngai vàng
Lại phải Mạc thị thiêu tàn kinh su
Xưa làm lực sỹ đồ du
Trời cho nên trị làm vua một đời
Sáu mươi năm bất tái hồi
Tống Sơn chốn ấy có đời thạch công
Định mưu phù lập Trang Tôn
Phù Lê diệt Mạc anh hùng ai đương
Lại bàn bỉnh chính Sóc Sơn
Trịnh Vương toan chiếm ngai vàng Lê gia
Tây Sơn sừng sực kéo ra
Nghiệm xem thế tục gọi là hiệu chi ?
II
Lại có ngạn rằng:
(tr.50) Đầu cha chắp lấy đầu con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
III
Có thơ rằng:
Cha nhỏ đầu con lại nhỏ chân
Nào ai có biết nguỵ quân cầm quyền
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi
Yêu dê lại phải theo đòi đàn dê
Nọ nào ngang dọc trong huê
Mà cho thiên hạ khôn bề làm ăn
Chó mừng chủ, gà cũng cục tác
Lợn ăn no tha rác, chuột chơi.
IV
Ngạn lại có câu rằng:
Gà bỏ con kêu cục tác
Chó vẩy đuôi mừng thánh chúa
Lợn ăn no ủn ỉn nằm
Mới kể là đời thịnh thế
Mà thiên hạ sao nỡ sẻ làm hai
Bởi Tần Vương u mê chẳng biết
Rồi phen này dê lại giết dê
Tới khi thực tận binh bì
Âm binh ở giữa ai thì biết sao!
Trời cho ta giơ dao giết quỷ
Khắp dưới trời bằng quỷ khư khư
Ai từng cứu con thơ sa giếng
Giốc một lòng chinh chiến đua nhau
Muôn dân chịu thuở âu sầu
Kể dư dôi ngũ mới hầu khoan cho
Chốn đông nam là nơi khổ ải
Lánh cho xa kẻo phải đao binh
Bắc kinh mới thực đế kinh,
Giấu thân chưa dễ dấu danh được nào
Vả mình là đấng anh hào
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày
Bò men lên núi Vu Sơn
Thừa cơ mới nổi một cơn phục thù
Ấy những quân phụ thù thui thủi
Lòng trời xui ai lại biết đâu…
V
Có thơ rằng:
Dần Mão chư dương giai vị cập (tr. 51)
Lai chiêu lục thất xuất minh quân
Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ
Hưng tộ diện trường ức vạn xuân.
VI
Có thơ rằng:
Hầu đáo kê lai khởi chiến qua
Thuỳ tri thiên hạ chuyển như sa
Anh hùng mai thảo mã
Tướng suý tận tiêu ma
Phá điền thiên tử xuất
Tràng vỹ tảo sơn hà
Gà kia bên tường khuya sớm gáy
Chẳng yêu ra áy náy bất bình.
VII
Có thơ rằng:
Một đám mây xanh đứng giữa trời
Ba thằng nho nhỏ đánh nhau chơi
Thiên hạ mười phần còn có một
Bây giờ Bạch Sỷ mới ra đời
Thầy tăng mở nước trời không bảo.
Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau
Chớ có tham của tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu an thân (tr. 52)
Đằng giang chốn ấy cũng gần
Kim ngưu chốn ấy cũng lần tới nơi.
VIII Thơ rằng: Ba thục riêng một góc trời
Thái Nguyên một giải là nơi trú đình
Bốn bề núi đá mọc xanh
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay
Bốn mùa chim núi đá cây
Trời xanh cỏ biếc hoa bay ngạt ngào
Khuyên ai là đấng anh hào
Đợi chờ Nghiêu, Thuấn ngày nào sẽ hay
Bốn bụt xuất thế đã chầy
Chưa chọn được ngày ra cứu muôn dân.52
IX
Thơ rằng:
Ấy là điềm xuất thánh quân
Hễ ai tìm thấy thì thân mới tường
Chữ rằng “Hữu xạ tự nhiên hương”
Có dễ tầm thường thuốc dấu bán rao
Nắng lâu ắt có mưa rào
Vội chi tát nước xôn xao cày bừa
Nắng rồi thì phải có mưa
Buồm đang đợi gió cày bừa đợi cơn
Tuần này thánh xuất khảm phương
Sự thật đã tường chẳng lọ phải say
Tuần này thiên địa chuyển hồi
Thiên sầu địa thảm lòng người chẳng yên
Trời sai quỷ sứ dọn đường
Để cho thánh xuất khảm phương sau này
Vội chi đua sức ra tay
Người vội cày bừa ta sẻ cấy chơi
Suy cho thấu biết sự đời
Sấm ký mấy lời sự thực chẳng ngoa.
X
Thơ rằng:
1- Tích nhất đương lang khởi bộ thuyền
2- Ưng tri hoàng thước tại thân biên (tr.53)
3- Tước bị lạm nhân cung đạn đả
4- Lạp nhân cách tự hổ lang huyên
5- Tuệ tinh xuất long xà
6- Thần xuất cửu cửu gia
7- Ngưu mã thiên hạ động
8- Đinh hạ nãi Đông A.
Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng rằng gặp hội hiển vinh kêu hò
Nhị Hà một giải quanh co
Chính thức chốn ấy cố đô hoàng bào53
Khắp hoà thiên hạ nghêu ngao
Có bến mưa rào có thứ cùng chăng
Nói đến độ Thầy Tăng mở nước
Đánh quỷ sứ xuôi ngược đi đâu
Bấy lâu những cậy phép mầu
Bây giờ phép ấy để đâu không hào ?
Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình chơi vào quận Ngô Tề.
XI
Thơ rằng:
1- Di lặc giáng sinh
2- Sa phù dĩ chỉ
3- Lục thất dĩ thành
4- Kiến long sào kinh
5- Nhật xuất điện thượng (tr.54)
6- Thiên hạ thái bình
XII
Thơ rằng:
Giang Nam nổi trận mạt thù
Bảy mươi hai tướng phò vua ngất trời
Phùng trời nay gặp thái lai
Can qua chiến trận để người phong công
Trẻ già được hết sự lòng
Ghi làm một bản nội phòng mở xem
Rước vua về đến Tràng An
Bao nhiêu nguỵ đảng loài gian diệt tàn
Đời ấy cùng thánh, cùng tiên
Sinh những người hiền giúp nước yên dân.
Này những lúc thánh nhân chưa ra đời
Chó còn nằm đầu khỉ cuối thu
Lợn nằm cũng thấy lợn lo
Thái bình mới động thập thò liền sang
Ngang cung văn vũ khác thường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thuỷ binh cờ xí vừng hồng54
Bộ binh rầm rập như ong kéo đàn
Đứng hiên ngang nào ai biết trước
Bắc kinh sang có việc gì chăng?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ tưng bừng đòi nơi
Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Bỗng khiến người vu vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng giục dân cày bừa
Đã ngu dại Hoàn Linh đời Hán
Đúc tiền ra bán tước cho dân
Xun xoe những cậy thánh thần
Ai ngờ thiên địa xoay vần đã công
Ngẫm hoá công sẵn tay khôn ví
Xưa phục thù ai sửa ngôi cho (tr.55)
Mạc kia cũng muốn nên trò
Dấy binh hai Quảng cơ đồ ghê thay!
Kẻ thì tự xưng Lê nay
Tam phân rồi chẳng được gì cả ba.
Bốn phương cũng có can qua
Mạc thì chẳng được đã ra lại về
Quân hùng binh dấy giang khê
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trị vì…
XIII
Thơ rằng:
1- Hầu đáo kê lai vị chính kỳ
2- Quốc dân hãm nịch quốc dân di
3- Nhàn giãn dục dĩ chu nhi Tống
4- Phong nghỉ tung hoàng thị mạc vi
XIV Thơ rằng (1) Hạ huyền thượng đảo nhân vô thủ
(2) Tài tận dân hao thế lực suy
(3) Huyết chiến dê đầu nhân huyết chiến
(4) Kham tiếu không huyền tiệm thất ky
Xem thấy những sương sam tuyết lạnh
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng
Thành ao cá nước tưng bừng
Kẻ xiêu Đông hải người tàn Bắc lâm55
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất người nằm đầy sông.
Sang thu chín huyết vừng hồng
Kẻ mong ngày hạ người mong mưa nhuần
Trẻ con mang lệnh tướng quân
Ngỡ uy đã sợ ngỡ nhân đã nhường
Dùng uy bát là đường ngũ bá (tr.56)
Cũng tưởng rằng đế tá dân hoan
Cỏ cây lá rụng đầy ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao còn biết có nhà Đà giang
Tả bạch hạc, Hữu thuỷ trường
Kiều môn án trước cao bành tựa sau
Thái nguyên cận bắc đường sau
Hễ mà tìm thấy mới hầu thần cơ
Cùng nhau gặp mặt bây giờ
Trúc mong kỳ úc thung chờ non đông
Vui mừng gặp mặt tam công
Cá được hoá rồng trăm trắm ngôi cao
Mai kia cùng đấng anh hào
Ba người làm bạn ngôi cao lộc lành
Vậy nên một áng phong tình
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng
Bõ khi chém lợn vẽ rồng
Bõ khi vay mượn điều cùng trượng phu
Bõ khi kẻ việt người Hồ
Bõ khi kẻ Sở người Ngô xa đường
Ngày thường trông thấy quyển vàng
Của riêng quốc bảo xé mang xem chơi.
Tinh thái ất giờ đời là thực
Sấm trời xem vô giá muôn phần
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Một đời có một tôi ngoan
Giúp chưng nhà nước dân an thái bình
Thấy đâu bò đái thất thanh
Ấy điềm sinh thánh rành rành chẳng nghi
Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuôn buồn
Đàn ghi nó cũng một môn phù trì.56
XV
Thơ rằng:
Ghê thay thau lẫn với vàng, (tr.57)
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ đuốc sáng rõ ràng mọi nơi
Can qua việc nước bời bời. Trên thuận lòng trời dưới đẹp lòng dân
Lục thất dư ngũ bách xuân
Bây giờ trời mới xoay vẫn nơi nao
Thấy sấm tự đấy chép vào
Một chút tơ hào chẳng dám sai ngoa.
XVI
Thơ rằng:
Quân hùng binh kéo đầy khe
Kẻ xưng cứu nước người khoe trị đời
Bấy giờ càng khốn ai ơi
Quỷ ma chật vật biết trời là đâu ?
Thương những kẻ ăn rau, ăn muối.
Gặp nước buông con cái ẩn đâu ?
Báo thù ấy chẳng sai đâu
Đạo trời chẳng trước thì sau chẳng nhầm
Kia những kẻ hai lòng sự chủ
Thấy đâu hơn thì phụ sở ân
Cho nên phải kiếp trầm luân
Ai khôn mới giữ được thân đời này
Nói cho hay khảm cung ong dậy
Chí anh hùng chiếm lấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới nên anh tài
Hễ nhân kiến là đời đất cũ
Thì phụ nguyên mới trổ binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quân hùng nổi dậy điều hoà làm tôi57
Bấy giờ ruộng mở quy khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vẹn toàn.
Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh
Hoàng phúc kia đã định tay phong
Lồng lộng thế giới rạng trong, (tr.58)
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ Vương
Giời sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng khải thánh
Giốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Trên trời thấy những vì sao lạ
Dùng ở tay phụ tá vương gia
Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch Sỷ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật tượng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Đời này thánh kế vi vương
Thu cả đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác thường
Thác cư một góc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ sẻ mới ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu.
Khắp đâu đâu anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây vẽ rõ vẻ rồng
Thánh nhân cư có thuỷ cung
Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn đừng tú man chi cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết nhẽ cát hung
Biết phương hướng đúng, chớ đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ nhi ngô tưởng gì đợi mong
Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một tý đều không
Ví dù có gặp Ngư Ông
Lưới chăng đầu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đứng trời trung quân tử
Lòng trung nghĩa hãy chứa cho tinh
Âm dương cơ ngẫu ngộ sinh
Thái nhâm, thái ất trong mình cho hay58
Văn thi luyện nghiên bài quyết thắng (tr.59)
Học Tử Phòng cùng với Khổng Minh
Võ thông yên thuỷ thần kinh
Được vào chiến trận mới lành biết cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết trao tay miệng tiếng nói không
Ngộ may gặp hội mây rồng
Công danh rực rỡ chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí tài
Lọ là đâu phải ngược xuôi nhọc mình
Vương lương thực có vĩ kinh
Cao tay mới biết ngẫm tình năm nao.
Trên trời có mấy vì sao
Đủ cả hiền tướng anh hào đôi nơi.
Nước Nam thường có thánh tài
Ai khôn học lấy hôm mai mới tường.
So mấy lề để tàng kim quỹ
Chờ sau này có chí mới cho.
Trước là biết nẻo tôn phù
Sau là cao trí biết lo mặc lòng
Xem đoài cung thiên thời bất tạo
Thấy vĩ tinh thì tháo cho mau
Chớ có tham tước, tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân.
Đôi phen ong dấy rầm rầm
Muông sinh ba góc kéo quân dấy loàn
Man mác một lĩnh Hoành sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là quân phục thù thai thải
Lòng trời xui ai lại biết chi
Phá điền đầu khỉ cuối thu
Tái binh mọi giống thập thò liền sang
Nọ chẳng thương trong nam khôn xiết
Vả lại thêm hung kiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Sang thu chín huyết hồng tứ giã
Nối đàn dê tranh phá đòi nơi (tr.60)
Đua nhau quần thán đồ lê
Bấy giờ thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ thì phải thửa hung hoang
Kẻ thì binh lửa chiến tràng chết oan.59
Kẻ thì mắc phải hung tàn,
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông sinh giông tố cạnh tranh
Điêu thì làm trước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh hành
Ra đâu đánh đấy xuất binh sớm ngày
Bể thành cá phải ẩn cây
Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
Nào ai đã dễ nhìn ru
Thuỷ chiến bộ chiến mặc dầu đòi cơn.
Cây bay lá cháy đôi ngàn
Một làng còn thấy chim đàn bay ra.
Bốn phương cùng có can qua,
Làm sao còn biết nơi hoà bảo thân
Đoài phương thật có chân nhân
Quần tiên dĩ nghĩa chẳng phân hại người.
Hễ đông nam nhiều phen tàn tặc
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật đế kinh,
Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào!
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.
Cấy cày tu dãi thời mùa
Bây giờ cấy ruộng lo chờ mướn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền binh nhọc chẳng phiền lương thêm.
Xem tượng trời biết đường đời trị
Ngẫm về sau họ lý xưa nên
Dòng nhà đã thấy dấu truyền
Ngẫm xem thế giới còn in đời đời
Thần quy có nó ở trời
Để làm thần khí sửa nơi trị trường.
XVII
DÂN BỊ KHỔ CHIẾN TRANH TRONG 10 NĂM
Lại nói sự Hoàng giang sinh thánh, (tr.61)
Sông Bảo giang thiên định ai hay ?
Lục thất cho biết ngày rầy
(1) Phụ nguyên ấy thực ở dầy (rày) Tào khê60
Có thầy nhân thập đi về
Tả hữu phù trì cây cỏ là quân
Dốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài an dân
Nọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
XVIII
Những bài sấm ngắn
Trời sinh thiên tử ở hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử bảo giang môn
Canh tân tàn phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị ngũ dư bình.
Nhân sinh ngọ tuế vi sư
Tị nhân vị tướng
Thìn tuất vị tôn sư
XIX
Thơ rằng
1- Thánh nhân hương
2- Thuỷ chung tàng bảo cái
3- Thánh nhân chu xứ (tr.62)
4- Tử bích hoàn nhiễu, long hổ chầu vào
5- Chỗ thánh nhân sinh ra
6- Cận bảo giang thuỷ
7- Thuỷ nhiễu chu toàn
8- Thánh nhân danh
9- Mộc hạ liên đinh khẩu61
10- Thánh nhân diện bộ đạo đức
11- Nghi quảng tầm chương trích cú
12- Thánh nhân dĩ hữu niên
13- Thuỳ năng thức đắc yên
14- Dãn nhân bất chúc nhĩ
15- Nhập ba thục xuất thái nguyên
16- Thánh nhân sinh ư bách sỉ tự tối linh
17- Thử nhật thiên giáng ngũ sắc vân xích quang màn tự
18- Tự trung dị hương, tam nhật bất tán
19- Thầy tăng tu tại thử, dĩ vị thánh nhân thị
20- Toại chưởng dưỡng chi
21- Thánh mẫu diện xú như lam
22- Niên tam thập lục sinh thánh nhân (tr.63)
23- Hoài nhâm chi nhật
24- Tam nhật thực nhất lý ngư
25- Cư ư giang thượng
26- Quần ngư tranh dược
27- Mối trạch kỳ, mỗi tiểu chữ thục thực chi
28- Hậu thường tầm thực chi vu bạch sỉ.
29.Tự nhi sinh thánh nhân yên.
30- Nhược ấu thời, cư tại nam nhị thuỷ huyện
31- Cận gia quan thời cư ư Thái nguyên viên sơn
32- Thất thập nhị hiền diệc tại thử yên
DỊCH
1- Nơi sinh ra ông Thánh nhân
2- Trong làn nước biếc chứa tàn lọng quý
3- Chỗ trú ngụ của Thánh nhân
4- Long hổ bốn bên chầu cả vào
5- Nơi sinh ra Thánh nhân
6- Gần sông Bảo giang
7- Xung quanh đều có nước
8- Tên hiệu của Thánh nhân
9- Chữ mộc ở dưới chữ đinh là quẻ ly
10- Ông thánh nhân diện mão rất có đạo đức
11- Nên tìm rộng từng bài chọn từng câu
12- Thánh nhân sinh ra đã lâu năm
13- Ai đã dễ biết được
14- Vì người ta chẳng biết vậy
15- Vào Ba Thục, ra Thái Nguyên
16- Thánh nhân sinh ở chùa Bạch sỉ rất thiêng
17- Ngày ấy sinh ra ông thánh nhân trời có năm sắc mây62
18- Đỏ sáng khắp cả chùa
19- Chùa trong có mùi thơm ba ngày không hết
20- Lúc bấy giờ có ông sư tu cho điềm lạ có thánh nhân.
21- Sư bản tự nuôi lớn cho đến trưởng thành
22- Mẹ ông thánh nhân mặt xấu như đổ chàm
23- Bà mẹ 36 tuổi sinh ông thánh nhân
24- Tính từ ngày có thai
25- Trong ba ngày lại ăn một con cá chép
26- Trú ở bên sông
27- Lũ cá tranh nhau nhảy vào
28- Chọn xem con nào bé thì nấu ăn
29- Sau thường đi kiếm ăn quanh chùa Bạch Sỉ
30- Rồi sinh ra ông thánh nhân
31- Lúc nhỏ sinh ở Nam nhị thuỷ huyện
32- Lúc lớn ở Thái Nguyên núi Viên Sơn.
XX
Thơ vận niên bằng tên các súc vật
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho hả dạ
Lợn kia làm quá phải xoay đầu
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh chạy về tàu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về chốn cũ bắt vào tầu
Lợn nằm cũng thấy tên thù
Đại binh đã động phục thù nghênh ngang
Thánh chúa đang ở hang vàng
Khi nào chuột bắc cầu sang mới về.
XXI
Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tân
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An (tr.64)63
XXII
Thục vị lai tại thực vi lai
Nam môn vị toả, bắc môn khai
Phong suy ngọc điện lai lai vãng
Nghĩ tụ kim thành khứ khứ hồi
Bách tính âu ca thiền vũ dạ
Cửu châu hoa thảo mả (?) liên đôi
Thử hồi nhị ngũ thiên chu tống
Hảo bá sơn đầu tửu nhất bôi.
XXIII
Thiên địa tuần hoàn âm phục dương
Tứ phương binh khởi tứ phương cường
Tây dương cảnh giới tây dương chủ
Nam quốc sơn hà, nam quốc vương
Lý đỉnh tương huyền, hiềm đỉnh trọng
Mạc thành dục chúc, khủng thành trường
Hoành sơn lộc tẩu nhân dân cộng
Thái lĩnh long phi thục cảm đương
XXIV
Có thơ rằng
1- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh (tr.65)
2- Can qua xứ xứ khởi đao binh
3- Mã đầu dương cước anh hùng tận
4- Thân dậu niên lai kiến thái bình .
XXV
Thơ rằng
1- Bảo giang thiên tử xuất
2- Bất chiến tự nhiên thành64
3- Lê dân đào bảo noãn
4- Tứ hải lạc âu ca
5- Dục thức thánh nhân hương
6- Quá kiều cư bắc phương
7- Danh vị Nguyễn gia tử
8.Kim tịch sinh Ngưu lang
9- Bắc hữu kim thành tráng
10- Nam tạc ngọc bích thành
11- Hoả thôn đa khuyển phệ
12- Mục giã dục nhân canh
13- Phú quý hồng trần mộng
14- Bần cùng bạch phát sinh
15- Anh hùng vương kiếm kích
16- Minh cổ đổ thái bình .
XXVI
Thơ rằng:
1- Việt Nam hữu Ngưu tinh
2- Quá thất thân thuỷ sinh
3- Địa giới sỉ vị bạch
4- Thuỷ trầm nhĩ bất kinh
5- Kỵ mã khu dương tẩu
6- Phù kê thắng đại minh
7- Trư thử giai phong khởi
8- Thìn mão xuất thái bình
9- Thuỷ trung tàng bảo cái
10- Hứa cập thánh nhân hương
11- Mộc hạ trâm trâm khẩu
12- Danh thế xuất nan lường
13- Danh vị nguyễn gia tử
14- Tinh bản tại ngưu lang
15- Mại dữ liên viên dưỡng
16- Khởi nguyệt hộ đại giang
17- Hoặc kiều tam lộng ngạn
18- Hoặc ngụ kim lăng cương
19- Thiên dữ thần thực thuỵ
20- Thuỵ trình ngũ sắc vân
21- Kim kê khai lực diệp
22- Hoàng cái xuất quý phương
23- Nhân nghĩa thuỳ vi địch
24- Đạo đức thục dữ đương65
25- Tô truyền nhi thập ngũ
26- Vận khải ngũ duyên trường
27- Vận đáo dương hầu cách
28- Chấn đoài cương bất chấn
29- Quần gian đạo danh tự
30- Bách tính khổ tai ương
31- Can qua tranh đấu khởi
32- Phạm địch thán hung hăng
33- Ma vương sát đại quỷ
34- Hoàng thiên chu ma vương
35- Kiến khôn phú tải khôn lường
36- Đào viên đỉnh phú quần dương tranh hùng
37- Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
38- Nẻo Hoành sơn tam liệt ngũ phân
39- Ta hồ vô chủ vô quân
40- Đào viên tan tác ngô dân thủ thành
41- Đoài phương phúc địa giáng linh
42- Cửu trùng thuỵ ứng long thành ngũ vân
43- Phá điền thiên tử giáng trần
44- Dũng sỹ như hai mưu thần nhược lâm
45- Trần công nãi thị phúc tâm
46- Đào Tiềm, xử sỹ giang hồ xuất du
47- Tướng thần hệ xuất y chu
48- Chư cơ phục kiến, đường ngu thị thành
49- Hiệu xứng thiên hạ thái bình
50- Đông tây vô sự nam thành quốc gia
51- Phân phân đông bắc khởi
52- Nhiễu nhiễu xuất đông kinh
53- Bảo giang thiên tử xuất
54- Bất chiến tự nhiên thành
Tên treo ba mối phục thù (tr.68)
55- Khen thay Khắc Dụng bày trò cho con
Ngọn cờ nhô nhấp đầu non
56- Thạch thành mèo lại bon bon chạy về.
Dặm trường lai láng máu dê
Con quay ngã trắng ba que cuộc tàn
Trời nam giở lại đế vương
Thần nhân không phải là phường thầy tăng
Đồng giao đã có câu rằng
57- Non xanh mà mọc trắng răng mấy kỳ
Bấy giờ quét sạch thử ly66
Xin ai nhớ lấy sấm ghi kẻo lầm
Đương khi sấm chớp ầm ầm
Chẳng qua khó số để găm trị bình
Thất phu giám chống thư sinh
Sông ô chấp cả mấy anh thuỷ hoàng
Nực cười những lũ bàng quan
59- Cờ tàn lại muốn toan đường đấm xe
Thôi thôi mặc lũ thằng hề
Gió mây ta lại đi về gió mây
BẢN PHÙNG KHẮC KHOAN
PHÙNG THƯỢNG THƯ KÝ
Thuận Đức niên hiệu (1)
1.Vận trung nguyên lấy năm canh tý (2)
Tiết tiểu hàn vừa thuở đông thiên.
(Thập nhị nguyệt thượng tuần)
Hợi cung sửa việc cầm quyền,
Nhưng sửa một trận mới yên bốn bề.
5. Lộ lộ bóng thỏ nghiêng kề,
Chiêng vàng ló thấy vừa khi mặt rồng.
Tản lửa giăng che thái ất
Thuở tay xe nhật phù lên,
Lậu lậu ngọ chánh đương thiên,
10. Rạng soi thế giới sơn xuyên xa gần.
Vẹn nhà trạch ấm đượm nhuần,
Nghiêng thùng rượu cúc đòi tuần mời khuyên.
Hợp bạn hiền những người tri kỷ,
Mở đồ xem luận lý xưa nay,
15. Những câu châu báu là hay,
Bằng dao chẻ nước bấy nay khôn tìm.
Vàng ấy cao giá dư ngàn,
Càng nhìn, càng thắm càng in càng màu.
Nếm mùi đạo gẫm lâu mới biết,
20.Tạc công lòng mở tiết mở không.
Ai hòa học được thần kinh
Ắt là gặp lối thánh minh tuần này.
Thánh hiền chén chuốc rượu say,
Nước vui bàng bạc vỗ tay reo cười.
25. Lại xem thấy sự đời thượng cổ,
Lạc Long quân là tổ nước ta,
Sửa sang bốn bể gần xa,
Làm vua Nam Việt khắp hòa đâu đâu.
Tuổi già hưởng được sang giàu,
30.Ngàn năm sức khoẻ trị lâu, ngôi dài.
Giản biên nói chưng đời ngoài
Kỷ luân chính thống mới kề từ Đinh.
Tiên hoàng tuổi còn phù sinh
Cờ lau tập trận dụng binh giữa đồng.
35.Ứng điềm từ thuở sang sông,
Ngang sông cao ngự hoàng long thụy lành.
Thiên thư đã định rành rành,
Mộc sơn đồng chữ tập tành nên câu:
39."Mộc căn đạp đạp,(3)
Mộc biểu thanh thanh,
Hòa đao mộc (4) lạc
Thập bát tử (5) thành
Đông A (6) nhập địa
Dị mộc (7) tái sinh,
Chấn cung hiện nhật (8)
Đoài cung ẩn tinh (9)
Lục thất(10) nguyệt gian
Thiên hạ thái bình".
49. Một câu là một hữu tình
50. Đời đời nước có điềm lành đế vương.
Ra tay vỗ trị bốn phương
Đời đời nước có đế vương ở trời.
Hòa đao mộc lạc Lê dân
Thập bát từ thành họ Lý đổi thay.
55. Đông A nhập địa Trần danh,
Họ Trần từ đế đời tay Chiêu hoàng
Trên ngôi vẹn nghiệp Đào Đường,
Giúp tay rủ áo âu vàng đặt an.
Đất Lam sơn vua Lê Thái tổ,
60.Thiên giúp uy cây cỏ dụng binh,
Ấy là kỳ mộc tái sinh,
Ra tay giíp lại đế kinh vẹn toàn.
Sửa sang tám cõi đều an,
Man di củng phục bể thuyền non cao.
65.Sự lạ thay chấn cung hiện nhật,
Bên đông phương giữa đất Cổ Trai
Thái tử bửu vị lên ngôi,
Thần kinh thoắt lại năm đời thánh minh.
Lại nói " Đoài cung ẩn tinh
70. Tây đô Trịnh thị đặc danh tướng tài.
Tướng tinh về ẩn phương đoài.
Tây đô chốn ấy tượng trời định vi
Quỷ ma chật vật đổi dời.
Bây giờ thiên hạ xem ngày bằng đêm.
75. Ngồi thấy những sương nghiêm tuyết lạnh
Loài cừ khôi cậy mạnh hung hăng.
Đua nhau làm sự bất bằng
Giết người lấy của nhung nhăng đã buồn.
Khoe khoang sức mạnh tài khôn,
80. Nào hay nhân nghĩa nào còn ái ân.
Chí toan mưu độc hại nhân.
Trên đầu chẳng hổ trời thần phủ che.
Những xưng xe phù Lê diệt Mạc
Cái oan gia người khác giết nhau.
85. Nào ai đã nhịn ai đâu,
Thủy chiến, bộ chiến mặc dầu sắm sanh.
Đêm ngày tập trận dụng binh,
Làm cho thiên hạ thương sanh hối lầm.
Chưa từng thấy cổ kim sự lạ,
90. Một đứa man giá họa muôn dân,
Cưu toan lòng độc dữ muôn phân.
Đua nhau quái độc muôn dân từ này.
Trăm họ ai chẳng chau mày,
Anh hùng ai chẳng cau mày lăng xăng.
95. Thư đường nhân thuở ngoài hiên,
Chép làm một tập để làm mai ngay.
Tân vị (11) thoáng ấy năm nay.
Truyền lên mây đã che rày về đông.
Nhật cung đoài khuyết giao long,
100. Năm hồ thuyền dạng ( rạng?) khảm cung tịnh đồng.
Sấm ran tự bắc chí đông,
Đà giang nam mộc dưới dòng Nam kha.
Giang nam chốn ấy Vĩnh Gia,
Đà giang chốn ấy tên là Vĩnh Giang.
105. Côn sơn phủ đá thạch sàng ở trên.
Sau đền núi mọc bày ngang,
Bảy mươi hai núi ở liền,
Giang Nam là chốn thánh hiền tiên cung.
Ứng binh sửa trụ làm song,
110. Lò niên lọc thánh liễu trong ai ngờ.
Nối đời vương đế phen xưa,
Đường Ngu tam đại còn chờ đến nay.
Nho, Đạo, Thích cũng biết hay.
Học lấy trường học để nay anh dùng.
115. Ước gặp ông Lữ Thái công,
Cùng Trương Tử Phòng rạng che.
Giả làm thầy Sãi ông nghè,(11b)
Kẻ tôn người báng thị phi chẳng thường.
Dân quê chẳng biết đế vương,
120. Báng kia sàm nọ vua đâu đến mình.
Mặc ai ký ký quyền hành,
Miễn người đắc chi xin xin vui vầy.
Gặp thời, gặp thế, gặp người
Trời cho mới biết được hay sự tình.
125.Trung thu vọng nguyệt đêm thanh.
Ngưỡng lên trông thấy đẩu tinh giữa trời.
Bảng vàng chói chói các bày,
Kim ngưu , Hòang lận ở ngoài âm cung.
Trương đà tự bắc chí đông,
130.Cõi bờ vức vức phò không làu làu.
Nhiệm trao nhân thế biết đâu,
Nhân dân quý tiện nguồn sâu khôn dò.
Nhĩ hà nước chảy quanh co,
Tưởng rằng chốn ấy cố đô hoàng bào.
135. Muôn dân thiên hạ khát khao,
Cá cạn gặp nước ai nào chẳng mong.
Từ ông Phật tử dạy ra,
Hoàng giang chốn ấy ai từng bảo ai.
Tào Khê chốn ấy chẳng xa,
140. Ai ai đến đấy thực là đế vương.
Đến nơi thực biết tỏ tường
Tả biên bạch hạc thủy trường ức muôn.
Hũu biên tam đỉnh ngôi sơn
Ngàn oanh nước chảy áp đường mái sau.
145. Đại Lương số số chư hầu,
Vào ra ấp Vệ thánh quân giúp đời.
Tân quận khởi những mậu dần
Răn bảo người thế giữ thân cho lành.
Ngu dân chẳng biết sự tình,
150. Ngóng trông nào biết thánh quân đâu là.
Gặp thời có tuổi tác già,
Cũng tìm cho đến quốc gia giúp dùng.
Chu môn vinh hiển cao phong,
Muôn đời con cháu nối dòng cân đai.
155.Từ ngu chớ lấy xem chơi,
Dầu ai biết được gặp đời thánh minh.
Biết thời chẳng khá lộ trần.
Thánh ra trị nước, trị dân, trị đời.
Đại Minh, An Nam triều hội.
160. Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thòi tiết khai hoa.
Nghi đáo ngưu đầu quá mã.
Hồ binh bát vạn hồi gia.(12)
Thi vân:
Một áng mây che quáng giữa trời,
165. Nhìn xem đàn trẻ đánh nhau chơi.
Chờ thấy thầy tăng ra mới được,
Bấy giờ Bạch xỉ mới ra đời.
Thi vân
Ngũ thập tam đoài bách mộc khô,
Nguyệt tân ám thố tảo thành đô.
170.Song thiên thạnh mỹ sơn hà uế,
Nhất sĩ nghi hồ nhật nguyệt vô.(13)
Thị vân:
Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu tự đông chinh,
Bửu giang thiên tử xuất
175. Bất chiến tự nhiên thành.(14)
Thi vân:
Thiên khí thương thương địa khí hoành,
Nguyễn gia sanh đắc nhất nam lang.
Quốc quân thời chánh thiên hạ định,
Nhất tịch thạnh sàng lập kỷ cương. (15)
180. Giang thái thủy hồng đa tài tật,
Lục nguyệt huỳnh hoặc tại sửu phương. (16)
Lão viên mẫm ngữ ca:
Bổ thượng thi vân:
Ba góc ruộng, bốn người cày
185. Ngươi hãy cày, ta mạ (17) tranh.
Chữ thiên cơ trời tỏ định,
Đến câu lục thất thị thái bình.
Vận nay minh chánh tiết lành, (Bản Sở Cuồng câu 1)
Thấy trong sấm ký tập tành nên câu.
190. Một câu là một nhiệm màu,
Anh hùng gẫm được mới hầu đứng cao.
Trải khắp sao che mây thái ất, (18)
Thuở tây cung xe nhật phò lên,
Việt Nam khởi tổ gây nền
195. Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường
Một thời là một nhiễu nhương hằng lề.
Vua Ðinh tiên hoàng trong đời cửu ngũ
Mở bảng rủ áo chắp tay
200. Lê đao bỗng liền lại sinh.
Chấn cung nhật xuất đoài cung khoẻ phò.
Khôn chống trường thành bền cho.
Đoài cung vẻ rạng rừng thu,
Ra tay mở lấy đế đô vẹn toàn.
205. Tòa cửu thiên ám vừng hồng nhật
Dưới liền trên ăn vứt nhằm chân.
Sửa sang muôn việc cầm quyền.
Nằm nhưng ai dễ nhận giúp cho
Kìa liệt vương khí hư đồ ủng
210.Mặc quần hùng phong úng tranh khôn.
Trời sinh ra những kẻ gian,
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài.
Áo vàng mặc kẻ bỉ bai
Khi xui đắp núi khi sai mở đường.
215. Lấy độ điền làm công thiên hạ
Cậy mão nên đất nẻ cạn mòn
Con thơ ong óng tranh khôn
Vô già mở hội , Độc tôn mở chùa.
Cơ trời xem đã che mùa
220. Ðã đô lại muốn mở đô cho người.
Ấy trời ý hẳn lòng bất nhẫn
Suốt muôn dân cưu hận cưu hàn
Dưới trên dốc trí lo toan
Những đua bán tước bán quan làm giàu.
225.Lại rủ nhau làm mồi phú quí,
Mấy đấng hiền có chí an dân,
Ðua nhau làm sự bất nhân,
Ðã tuần biển nước lại tuần đầu non.
Quốc đồ chia rẽ càn khôn,
230.Mối giềng man mác làm buồn lòng nhau.
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai suy
Sự làm thất thế lôi thôi,
Lệnh ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ.
235.Xem tượng trời đã như ra trước
Còn hung hăng bạo ngược chẳng xa.
Gió cuồng cả sớm liền đêm
Còn đờn cửu khúc còn thi ngự đề
Ấy Tần hoàng hôn mê bất biết
240. Ðể muôn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật những đi
Âm binh ở giữa nào thì biết cho
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng
Cũng một lòng trời chống khác nào
245. Đêm ngày xem vững chiêm bao
Nào ai còn có ước ao thái bình
Một góc thành lao xao chúng quỷ
Ðều một lòng ích kỷ hại nhân
Bốn phương bời bời hồng trần
250.Làng kinh củi lửa , làng phân điếm tuần.
Quen vốn những suất dân làm bạo,
Khu đòi loài cáo quỷ tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu (Nhân đoài soạn hết tự đâu)
Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
255. (Hùm) Lợn khôn lạc dấu khôn về
Mèo con chi khắp tiêu về quỷ dương.(Mèo non chi chí tìm về cố hương)
Chân dê đầu khỉ leo tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
Nội thành chốn chốn hư kinh
260. Ðầu khỉ leo thành tin sứ đã sang.
Rẽ mậu dần Bắc giang tái mã
Trong hai xuân bỗng phá tổ long,
Quốc trung kinh dụng cáo không
Giữa năm vả lại khiếm hung (hung hoang) mùa màng
265. Gà đâu gáy sớm bên tường
Chẳng yêu thì quái ( cũng) bất tường chẳng không.
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh bát ngát (tấp nập) như ong kéo hàng (SC.84)
Ðứng (ngọ ngang ) hiên ngang đố ai biết trước
270.Ấy Bắc binh sang việc dĩ chi (gì) chăng ?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đòi nay (19)
Chưa từng thấy đời nào sự lạ
Bỗng khiến người vu (giá) họa cho dân128
275. Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng bảo (dục) dân (ruộng) cày bừa.
Ðã nên dại (si) Hoàn Linh đời Hán
Ðúc tiền ra buôn bán nó ăn (bán tước cho dân)
Xưng xe mong khắp đôi quân,(Xun xoe những rắp cậy quân) (SC.95)
280.Chẳng ngờ thiên ý xoay vần đã công
Máy tạo hóa nặng tay dễ nói (hoá công nắm tay dễ ngỏ)
Lòng báo thù ai dễ sửa ngôi ( đã nguôi)
Thung thăng ban bổng (tưởng thấy) đạo trời
Phù Lê diệt Mạc (19b) cắt dời (nghỉ dời ) quân ra
285. Cát lầm bốn bể can qua
Anh (Nguyễn) thì chẳng được hóa( sẽ) ra lại về (20)
Còn (Quân) hùng quân nổi (binh nhuệ) đầy khe
Kẻ xưng cứu khổ (nước) người (kẻ) khoe trị đời
Bấy giờ Lê bấy khó thôi,(Bấy giờ càng khốn ai ôi)
290.Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ?
Thương những kẻ ăn rau ăn quả ( rới) ,(21)
Gặp nước nguy (bung) con cái cậy (ẩn) đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu,
Tìm non có chốn (rẫy) chưng sau mới toàn
295.Chê (Xin) những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Vậy Cho (nên) phải trụy (báo) trầm luân
Ai khôn mới được an thân (bảo thân ) đời này.
Nói cho biết (hay) khảm cung rồng dấy
300. Đấng (Chí) anh hùng gẫm ( xem) lấy mới ngoan.
Sấm (Chữ ) rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan thánh (anh ) tài
Hễ nhân doãn (kiến) ai về ( đã dời) đất cũ
Thì phụ nguyên mới lũ (trổ) binh ra (SC. 120) (22)
305. Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng ong dậy (các xứ ) điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vẹn (vạn) toàn
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
310. Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới rạng (sáng) trong
Lồ lộ râu (mặt ) rồng đầu có chữ vương129
Trỗ (Rõ ) sinh tài lạ khác thường
Thuấn Nghiêu ấy lượng (là trí) Cao Quang ấy (là) tài
315. Xem thiên ý ( trời ) có lòng sinh (khải ) thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Soạn đẩu tinh sanh vị sao (Chọn Đẩu, Thai những vì sao cả)
Cả dùng chưng phụ tá vương gia (Dùng ở tay phụ tá vương gia).
Bắc phương chính khí sinh ra
320.Có ông Bạch sĩ điều hoà sáng ( hôm) mai (Sở Cuồng 136)
Song thiên nhật rạng sáng soi ( Ngôn Quý mão tuế ) (22b
Thánh nhân chẳng biết xem ( thì) coi tỏ ( cho ) tường
Ðời này thánh phục (kế ) vi vương
Đô kiêm (Ðủ no ) đạo đức văn chương trong mình
325. Uy nghi dạng mạo (trạng mạo ) dị ( khác) hình
Thác cư một dải (góc) kim tinh phương đoài
Đêm ngày tinh nhuệ (Cùng nhau khuya sớm) dưỡng nuôi
Ẩn cư sĩ (Chờ cơ sẽ) mới ra tài giúp (cứu) dân
Binh thơ mấy quyển kinh luân
330. Thiên văn địa lý kinh (nhân) luân càng mầu
Lọ là phải mượn tài đâu, (Ở đâu đó anh hùng hẳn biết)
Mới biết vân sắc thức âu long thành.(Xem sắc mây đã biết thánh long)
Thánh nhân ở (cư ) có thụy tinh (cung)
Quân thần đã định chiền (gìn) mình ( lòng) chớ tham
335.Lại khuyên (dặn) đấng chí (tú ) nam hào (chí cả)
Chớ say sưa tham trọng tham lòng (Chớ vội vàng tất tả chạy rông)
Học cho biết lẽ (lý) kiết hung
Biết phương hướng hội chớ nhằm (có dùng) lầm chi.
Hễ trời sinh xuống tế tài (phải thì)
340.Bất kỳ nhi ( chi ) ngộ màng (mòng ) gì tưởng trông (bắc đông)
Chê (Kìa) những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong ( lòng ) mình một thí (tí ) hư (đều) không
Ví dù có gặp ngư ông
(Lưới ) Chài đâu mà vải (sẵn) nên công mà hòng
345. Xin khuyên đấng hiền (thời ) trung quân tử
Hãy mang lòng trung nghĩa (ai nhớ) cho tinh.
Âm dương cơ ngẫu ngô sinh (ngũ hành)
Thiên văn độn giáp (Thái nhâm thái ất) trong mình cho hay
Văn thì luyện tỏ bày ( nghiên bài) quyết thắng
350.Trương (Khen) Tử Phòng , Gia Cát (cũng đấng ) Khổng Minh.(SC.166)
Võ thời thông yên thủy, thần kinh130
Thời (Ðược ) vào trận chiến mới lành (rành) biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Biết lay (ray) tay bẽm miệng nói không
355. Ngõ mai (hay) gặp hội mây rồng
Công danh lừng lẫy ( choi chói) chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ cho (là) đến phải ngược xuôi nhọc mình
Nặng lòng thật có vĩ kinh
360.Cao tay mới gẩm biết tình năm nao (SC.176)
Trên trời ứng (có) mấy vì sao
Tỏ sanh (Ðủ no) hiền thánh ( tướng) anh hào đòi (đôi) nơi
Nước Nam vua ( thường ) có thánh tài
Ai khôn xem lấy hôm mai cho ( mới) tường
365. Đành (So ) mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là có ( cao ) chí biết lo chiền mình (mặc lòng )
Xem đoài cung đến ngày (thời) bất tạo (SC.185)
370.Thấy vĩ tinh thì ( liệu ) tháo cho mau.
(Ngôn hổ tướng tàn ngược, quốc gia bại loạn tại vu thử thủ dã, nhất vu thân niên thân nguyệt, thân nhật
thân thời, vĩ tinh xuất thân phương, thiên hạ đại loạn dã.) (23)
Coi (Nguôi) lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân.
(Ngôn xuất lâm hiếm xứ, nội hữu thiên thời, địa lợi, nhân hòa, khả dĩ ẩn thân dã. Nhất vân Thái Nguyên,
sơn đổng trù ngạn nhất hiểm dã; Vị Khê sinh thánh, nhị hiểm dã;Đoài phương tịnh thất khu hiệu phục
man đắc tam hiểm dã) (24)
Lấy (Trẻ ) con mang mệnh tướng quân
Ngữ (Ngỡ) oai đã dậy, ngữ ( ngỡ ) nhân đã nhường. (SC.190)
(Ngôn chung dụng tiểu nhân bị tái phong hầu, dĩ phòng thất sách dĩ thử phá lỗ dã). (25)
375. Hãy (Ai) lấy gương (vua) U vương thủa trước
Loạn bởi chưng ( ru vì ) tham ngược bất nhân.
Bốn (Ðòi ) phương ong khởi ( kiến ) rần rần (lần lần).
Mông (Muôn ) sinh tam phủ ( ba cốc ) mang quân (cầm binh ) dấy loàn.
(Mạc thị loạn thế cử binh phục thù, tam đạo đồng tiến cố dã)(26)
Man mác một đỉnh Hoành Sơn
380.Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù.
(Ngôn Nguyễn thị tái cử binh phục thù) (27)
Ý những thù binh thảy thảy ( Ấy là những binh thù thái thái)
Lòng trời xui ai (nấy ) biết tân cho ( ru) ?
Phá điền đầu khỉ cuối thu
Ải (Tái ) binh mới tới (động) thập thò liền sang (SC.200)
(Ngôn thân niên đông nguyệt, bắc binh thượng mã xuất tái tam đạo đồng tiến).(28)
385. Lộ (Lọ) chẳng thường trong năm khôn xiết
Vả (Vẻ) lại thêm hung hiểm (hiệt) mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù tối om (đủ năm )
(Ngôn thân tiết tứ phương binh khởi giai bị hỏa tai gia tận khởi thiêu tận tuyệt giả).(29)
Trông (Coi) thấy những sương nghiêm (xâm) tuyết lạnh
390. Loài bất bình cậy (tranh) mạnh hung hăng
Thành gia (câu) cá, lửa tưng bừng
Kẻ xuôi (ngàn ) Ðông Hải người chừng (rừng) sơn ( Bắc) Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
Kẻ nằm đầy đất kẻ chìm (trầm) đầy sông (SC.210)
395.Song thu lạnh tiết hồng trí dã (Sang thu chín huyết hồng tứ giả)
Nỗi (Noi) đàn dê tranh phá càng ghê (đôi nơi)
(Ngôn quần hùng khởi binh trí chiến dã) (30)
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
Kẻ thì bị sửa (phải thửa) hung hoang
400. Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan. (SC.216)
Kẻ thì người (mắc ) thửa hung tàn
Kẻ thì bị (bận) của đa mang (bỗng toan) khốn mình.
(Ngôn hợi niên thiên hạ đại loạn, tử giả thập phần tồn nhất) (31)
Chuột nhâm dựng tổ cắn quàng (Muông vương dựng tổ cắn tranh)
Ðiều thì làm bá (chước) xuất binh ( thủ thành)
(Ngôn nhâm tí thập tánh xưng vi tứ sứ quân, nam phương hữu tứ, bắc phương hữu nhị, tây phương hữu
tam xưng vi trưởng quân dã). (32)
405.Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh tối (sớm) ngày
Bể xoi (thanh) cá phải đội ( ẩn) cây
Ðất bằng núi phẳng (nổi sấm) cát bay bụi ( mịt) mù
Nào ai đã dễ nhịn thua (nhìn u)
410.Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây khô lá héo (bay lá lửa) đòi ( đôi) ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân (SC,230)
415.Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa nào phần hại ai ( chẳng phân hại người)132
Tìm cho biết (được) chốn biềt (được) nơi
Thái nguyên một giải góc nơi trụ đình( lần chơi trú đình)
(Ngôn sơn động kỵ phong khả dĩ dung thân) (33)
Bốn bề núi đá vây đoanh (riễu quanh)
420. Một đường tiểu mạch nương mình ấy (đấy) an
(Ngôn Thái Nguyên đa sơn diệc hiểm, Tản Lĩnh khả dĩ dung thân bảo toàn)(34)
Thấy (Hễ ) Ðông Nam nhiều phen giặc dậy (tàn tặc)
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc phương (kinh ) mới thật đế kinh
Mình chưa dễ giấu, (Giấu thân chưa dễ) giấu danh được nào
425.Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho biết ( được ) chốn mới vào thần cơ (kinh ).
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Đều (Ðua) một lòng tranh chiến (tiếng) đua ( giục) nhau.
Muôn ( Vạn ) dân chịu thửa âu sầu
430.Kể từ (dư) đôi ngũ mới hầu yên ( khoan) cho
Cấy cày tua (thu) đợi (đãi) được (thời ) mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai.
(Phá điền thiên tử xuất, Bất chiến tự nhiên thành). (35).
Nhân ra cận duyệt viễn lai
Chẳng phiền quân nậu (binh nhọc) chẳng nài thêm lương (lương thêm) (SC.250)
435. Xem tượng trời biết lành (đường) đời trị
Gẫm thế nào ( về sau ) họ Lý xưa nên
Giòng nhà bát đấu (để thấy dấu) còn truyền
Gẫm xem tứ bửu ( bốn báu) nả khen (còn in ) đời đời
(Ngôn Lý thị viên tinh thành khỉ kỳ hậu đắc đạo, thu đồng chú An Nam tự khí dĩ vi bửu đồ giả dã) (36)
Thần long (qui) cơ nổ ở trời
440.Cho (Ðể) làm thần khí giúp ( thửa) nơi trị trường (Ngôn quá Cổ Loa đắc thử thần khí) (37)
441.Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang đã (thiên) ai hay
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
(Ngôn Nguyễn thị sanh ư bắc phương, cư tại Sơn Tây xứ)
Phụ nguyên ấy thực ở miền (rày) Tào khê (SC. 260)(38)
445.Có thầy Nhân thập đi về
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
(Ngôn thiên sanh ngọ tuế, tôn vi sư phó chi vị nhậm trọng kinh dinh dĩ thành vương nghiệp).(39)
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp muôn (vạn) dân cho đẹp lòng trời133
Ra tay điều đỉnh hộ mai
450. Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân.
Lọ là phải nhọc cất ( kéo ) quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
(Năm) giáp tý vẽ khuê tinh đã rạng
Lộ Ngũ tinh trinh tượng bình (thái ) hanh (SC.270)
455.Ân trên vũ thí vân hành
Kẻ thi (thơ ) ký tuý kẻ canh Hữu ( xuân ) đài
Bản đồ chảng rốt (sót) cho ai
Ngàn nay (Nghìn năm ) lại lấy phục nay (hội nơi) vẹn toàn.
(Ngôn cử binh phạt Bắc Hồ phục dẫn thể bản cựu) (40)
Vững Hùng (nền) vương cha truyền con nối
460.Duy (Dõi) muôn đời một mối xa thư
Bể tăm kình ngạc bằng tờ (Bể kình tăm lặng bằng tờ)
Trăng đâu (thanh ai ) chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng xưa (khỏe) đặt khỏe (vững) chân
Cương kỳ thế nước muôn xuân hưởng dài (SC.280)
( Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài)
465.Lại xem đứng làm trai quân tử
Xem kẻ đời biết giữ mới khôn,
Tìm cho biết bạn phương viên,
Mới mong có được gia môn vẹn toàn.
Thái sơ của chuốt dầy lên,
470.Dẫn khuyên đấng hiền kẻ có đầy khe.
Chớ nhầm phải bạn u mê,
Luống công ngày tháng có nghề chi đâu.
Lại dạy đấng trượng phu chí khí,
Tua thời lòng trung nghĩa thảo ngay.
475.Vàng bền gan sắt chớ khuây,
Mới nên đấng cả mai ngay anh hùng.
Phòng khi cơ biến mới hòng dậy nhau.
Xin chớ vội giàu sang mặt thấy.
Tua đợi thời lừng lẫy tướng khanh.
480.Trong lòng làu biết ám minh,
Ngàn năm bia tạc miếu linh còn thờ.
Làm người biết lo xa mới khá,
Chớ xem thường nữa họa đến thân,
Chọn người kẻ có tướng tăng,
485.Thử cho có phép biết chừng người sang.
Vàng toàn phải lấy lửa than,
Khôn ngoan thực có được nhân rượu nồng.
Mấy kẻ bao dung lượng rộng,
Càng rủ nhau ra chốn miếu đường
490. Chẳng như trí mọn tài thường,
Quen loài bạo ngược nói cường lấy hay.
Đến khi bấm miệng ra tay,
Xem tài cũng chẳng sánh tày ai đâu.
Biết lánh xa mới nên quý giá,
495.Mấy kẻ nên xem lạ khác vời.
Ngư ông là kẻ thuyền chài
Đã duyên lại lưới đã chài lại câu.
Sớm khuya đã có trí mưu,
Mói nên bộ tróc công thâu vẹn toàn.
500.Dang tay họp bạn hiền tri kỷ.
Tua sửa sang cương kỷ cho bền.
Thuốc thang phòng mãn đựa tiên,
Đã viên ngũ thánh lại viên lục thần.
(Xuất thái ất kinh lục thập tam quyển, trạch đắc Thiên nguyệt đức hướng bắc phương thiết đàn tế thiên
địa thánh thần ngũ tướng các thần, luyện thiên thánh hoàn dĩ tẩy khí giới huựu sanh thập ác cửu xú nhật
hướng bắc phương tế ngũ tướng, tái tự thiên thần, nhất hoàn dĩ tẩy khí giới khả dĩ miễn nhất thân chi
nạn) (41)
Can qua ai khá vệ thân,
505.Thiên văn ,động giáp thâm phân chưa nhầm.
Tay làu biết thất cầm ngũ thánh,
Lòng lầu thông an thủy thần kinh.
Luyện chưng phép ấy cho tinh,
Gặp thời âu ắt nên danh phỉ nguyền.
510. Đời này sanh những người hiền,
Đó dùng dối trá có nên ích gì!
Lại khuyên kẻ tri cơ quân tử,
Chớ thấy thế ngại chí mà buồn.
Chớ nề bạch ốc chu môn,
515.Rồng mây cả hội dành còn về sau.
Hãy công nặng sức đèn dầu,
Hãy công kết nghĩa bạn theo người hiền.
Một mai ra gặp cơ duyên,
Quân thần cả nước bán thiên vui vầy.
520.Tâm truyền chép để cho hay
Suy gẫm mới biết sau này mặc ai
Lại nói sự tướng tài phụ tá
Ứng mỗi vì cửu tọa tam thai.
Đặt làm tứ trụ đầu ngôi
525. Bắc tam nam nhất trong đời dậy danh
(Tiên Du huyện, Núi Nguyên xã; Bảo Lục huyện,Phú Châu xã cư tại Tức Mặc xã; tánh Trần. Đông NGạn,
Uy Nỗ xã, Thanh Trì huyện, Quang Liệt xã, tánh Võ) (42)
Kim Cang , Bát Bộ tướng tinh,
Đem binh ra sức chống thành Việt Nam.
Đồng thời Nguyễn thi, Nam Nghiêm,
Đào thời, Giang Việt, xã Hoàng Châu kim.
530.Lưu Lang, An Lão khác tìm,(Tầm thường dã)
Chàng Chậu, Bạt Lộc ầm ầm dậy vang.
Thiên hương bay nức họ Lương,
Cấu Sanh, Lan Xá, đón chàng Võ Công.
(Đông Di huyện, Lộc xá xã, Nguyễn.
Nam Anh huyện, Haòng Đồng xã, Nghiêm.
An Việt huyện, An Giang xã, Đào.
Kim Đồng huyện, Hoàng Vân xã, Chu.
Lão An huyện, Lão An xã, Lưu.
Bất Bạt huyện, Khang Bảo xã, cải Phùng thị.
Thiên Bản huyện, Cao Hương xã, Lương.
Thanh Lan huyện, Ca xá xã, Võ) (43)
Đến bốn bảy vị trong tinh tú,
535. Đôi mươi tám hiền phụ rập vai.
Giác nguyên sao trước rạng soi,
Lê nay Đông Vệ, Lương ngôi Nam Đường.
(Đông Sơn huyện, Đông Vệ xã, Lê.
Nam Đường huyện, Nam Đường xã, Lương.)(44).
Gia tiên Phùng ,Lý, Đào Dương,
Cơ, Tinh liền sánh mấy hàng Tĩnh, Nguy.
(Gia Lâm, Lý, Phùng nhị tánh; Tiên Du, Đào, Dương nhị tánh) (45)
540. Họ Đoàn Chân Lũng cậy thời, (Nam nhân, Sa Lũng)
Cầm quyền thủ tướng an bề Việt Nam. (45b)
Ứng vị Sâm, An, Nghi nhị huyện (An Lão xá, Nghi Dương huyện, Võ) (46)
Mão nhật kê lương Võ Thủy dao ( Lương Võ huyện, Dao Thủy xã, Võ. (47)
Hư Trương thái rạng đôi sao,
545. Cẩm Lương tài lạ ứng sao điều Trần ( CẨm Giang huyện, Trần; Lương Tài huyện, Trần).(48)
Sao Giao, An Viễn họ Thân, (An Viễn huyện, An Viễn xã) (49)
Khuê tinh giáng khách Tây Chân Nguyễn tài.
Hoàng cùng Nguyễn đôi người cỡi phụng
Sao Nữ Vỹ tương ứng Phàn Long
550. Nguy Chủy ,Châu, Dực, Hoàng, Phòng (Chủy, Dực: Hoàng thị, Châu thị nhị tánh) (50)
Đôi An, Đại Ý càng nồng càng ghê.
Lưu, Lê đều ứng Lâu, Đê,
MỘt quê Hữu Lũng, một quê Na Ngàn. (Ô Sơn huyện HoàngNguyễn; Ý Yên huyện đồng Hoàng; Đại Yên
huyện: Phạm; Hữu Lũng huyệnLưu; Đông NgạnLê (51)
Tâm Nguyệt Cơ Thán Sơn họ Đặng,
555. Quỹ Kim dương thực đáng họ Vương (Kim Sơn huyện: Vương)
Thất Trư Trường Tân họ Hoàng (Trường Tân huyện)
Từ Liêm họ Quách sao Cang.
Lưu Ngưu Na Ngạn, Bích Trừ, Chân Lưu.
Ứng vì sao Đẩu, chàng Châu Lương Tài
(Từ Liêm huyện, Đông Ngạn xã: Quách; Lương Tài, Đich Sứ xã:Châu, Đông Ngạn huyện: Lưu) (52)
560.Sao nhiêu ứng đẩu tinh liệt vị
Cấu tinh anh hùng khí tiền nhân.
Bầy ngôi phụ bật tướng quân,
Nguyễn Lưu Tiên ấp kinh luân mối giềng( giường).
Võ Châu còn ứng vượng phương,
565. Thán thời có Nguyễn cùng Đường Hoàng Lưu.
(Tiên Du huyện: Nguyễn; Thán Sơn: Nguyễn; Đường An huyện Tô Võ Châu)(53)
Võ kia hai Võ tài ưu.
Đếu làm tướng súy giúp phò quốc gia.
(Linh Loại huyện, Võ;Võ Ninh huyện:Võ) (54)
Trần Khiêm cùng Tư Trần là
Một quê Chân Định, một nhà Thanh Lan.
570.Dương Khúc đôi ứng môt đoàn
Lại khen chàng Nguyễn có trang trung thần.
(Nghi Dương huyện, Khúc Xuân xã:Nguyễn) (55)
Đông Tây sao Đẩu xoay vần,
Nam Bắc tàm Lý Trần biệt mặc cố hương.
Một quê thời ở Quế Dương,
575. Một người ở lại miền Trương Hiệp Hòa
(Quế Dương huyện, Hoa Vi xã: họ Trần. Hiệp Hòa huyện, (Quế Dương huyện, Kỳ Sơn xã: họ Lý) (56)
Mỗi người đều ứng một tòa,
Vệ triều Tử Phủ vào ra Cấm Đình.
Bảy mươi hai võ tộc tướng tinh,
Tiên Du nhiều tướng hiển vinh.
580. Trong làm tiền hậu, ngoài kinh trập trùng.
Đào tươi, Dưong tốt thực dòng,
Đôi Lưu, năm Nguyễn, hợp cùng sáu Lê.
Đôi gia đồng chủng một bề
Chủy tinh cùng ứng cùng đều giáng sinh.
585. Ra tay nguyệt phủng thiên kình,
Kẻ đành họ Lý, người đành họ Vương.
Đôi ngàn nhiều cũng khác thường,
Úng chưng thiên mã ,kình dưong mỗi vì.
Hoa Trương thị, Nguyễn Chấn Lê,
590. Sao Cơ họ Lý, sao Kim họ Bùi.
Thả Kim Lộc những tài lương đống,
Hai họ Trần đều chống cả hai.
(Kim Hoa huyện, Mỹ Lộc xã: Trần; La Lộc xã:Trần) (57)
Thanh Đàn, Na ngạn, Thanh Oai
Lưu, Nghiêm, Nguyễn Phạm nên trai anh hùng.
595. U châu Nguyễn ứng Thiên Đồng,
Thiên Lương họ Võ ở dòng Võ Minh.
Thư Trì Phùng Đặng lưỡng khanh,
Ứng sao Thất Sát có tình Tham Lang.
Nguyễn Nam Tinh cùng Hoàng Dao Thủy,
600. Thiên Dũng Thế (Yên Dũng, Yên Thế) đôi phương là thường.
Nghi Dương xã Nguyễn BÙi Vương đắc,
Dương Lương Tạ Thanh Lan Lê Bùi.
Phụng Tiên, Hữu Lũng, Thiện Tài,
Phạm Chu Lý Nguyễn từng trai bày hàng.
605.Tướng Ngạn Sơn ngọ ngang càng lạ
Nguyễn danh công cùng Tạ danh công
Trường Tân sao ứng một dòng
Lê Trần đôi họ cùng thông một đoàn.
Từ Liêm, HƯơng Cát, Âu Lan.
610. Đón chàng Lê Nguyễn có gan mới bền.
Nội nhân diễn võ tương hiền,
Nguyễn miền ở Thẩm, Lê miền ở La.
Hữu tướng, phi tướng ai qua,
Ninh Đông có Phạm, Hợp Hòa có Lê
615. Sao Thiên Mã giáng sinh cấu khí
Độ nhị lang có chí ai qua.
Vác dao có Nguyễn vào ra,
An Lang họ Nguyễn, Nhạc là họ Lê
Lập Thạch cũng đấng hiền Lương
620.Linh tinh hạn thiệt Đào Lang chẳng ngờ.
Thiên Mã tướng tinh mãnh đạn
Thân Đắc Hán cùng Lý Quỳnh Khanh,
Võ thị họ Đào, Cẫm Giang Sơn Vi.
Lại có Trịnh Hoành các khanh,
625. Bấy nhiêu ứng sở vị tinh
Đều làm vương tá thánh minh phù trì.
Cùng nhau những tướng trí nho,
Gặp thời cũng được phong lưu sang giàu.
Ở nhưng chưa dễ nên đâu
630. Có đất, có phước mới hầu mong nên.
Dựa xem chép làm một thiên
Hậu sanh nghiệm trước mới sanh cơ trời.
Ấy lòng trời thái bình mới biết
Điềm tượng trời vốn đã đinh xưa.
635.Tình cờ chẳng phải tình cờ
Ngôi trời đã định lọ cầu thạch bi.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
(Tự thìn niên thập nguyệt chí tị niên tứ nguyệt) (58)
Mã đề túc tận hưu binh. (Tự ngọ niên lục nguyệt chí vị niên thập nhị nguyệt) (59)
Nhất sĩ thị tri anh hùng tận,
640. Thân dậu niên gian hưởng thái bình (Thân niên nhị nguyệt, dậu niên thập nguyệt) (60)
Thi vân:
Ngũ thập tam đoài bách mộc khô,
Tân niên thố ám tảo thành đô
Song luân binh xuất sơn hà uế
Nhất thố nguy khai nhật nguyệt vô.
Thi vân:
645. Lưỡng mộc tương ma hỏa tự sinh
Chi phân... đoạn khởi đao binh
Ngũ hồ đồng tánh thiên nguyên khí
Biến thế nhân gian hưởng thái bình.
Thi vân:
Nhị tam điệt tác diệu thiên công,
650.Tứ hải du niên hỗn nhất đồng.
Nhật nguyệt kê minh thường xuất mão,
Thố trung ta ức phỉ tùng phong.
Thi vân
Hoàng giang phún thủy tại nguyệt thành
Thùy thức thiên tâm dĩ triệu tường.
655. Tây lãnh... nhiên cao kỷ trượng
Khuyên võ kinh khẩu bất thương nhân.
Thi vân:
Thế thường lục thất nguyệt niên gian,
Bất tín tu cầu na sự khan
Thái nhĩ thiên tâm lương nghi
660.Khuynh quỳ xứ xứ cửu nhai hoan.
Huyền cơ thùy thức am minh trung
Chỉ phong nghiêm siêu nhân ý trung.
Chuyển vận tự văn đoài lạc địa
Tuần hoàn hựu kiến khảm cư cung
Hựu:
665. Hữu vô vô hữu thục đa đoan,
Bất tín tu cầu na sự khan.
Đông dĩ hướng khai tùy diệt tác
Tuần hoàn hựu kiến nhật tiền khan.
Thi vân:
Thiên hạ phân phân nhiễu nhiễu nhương,
670. Thùy tri thánh đế tại hà phương.
Hiền nhân dục thức vi thần phụ
Bất tại man hương tại địch hương.
Nhất tự tam nhân đồng,
Nguyệt vô thủy vô hỏa
675.Thử thánh nhân cho danh.
Hữu thi
Giang đông ngạn thượng đản tầm thường
Bị khởi trần lăng tác đế vương.
Thiên hạ đô lai quy nhất thống
Thử niên xuất trị vĩnh diên trường.
Hữu thi
680.Hỏa hiền thố nhân thú mộc dương
Thị thánh nhân thủy cung long đức
Ẩn vi sơn tự phụng hỏa thần,
Trư vận hưng vương thất
Niên gian lục thất tuần
685. Thế truyền thập lục diệp
Tộ lưu ngũ vạn xuân
Hựu:
Huyển trung thập tam khẩu dĩ chủy kiết chi nhân.
HẾT
Sửa bởi babylon: 13/03/2020 - 10:12
#548
Gửi vào 13/03/2020 - 10:15
Tôi không biết chữ Hán nhưng không có ngĩa là không hiểu mình viết cái gì."
---------
Chuẩn đấy, muốn sáng tỏ thì lo mà học đi, dùng cái đầu toàn trí tưởng tượng như đứa trẻ con mơ về siêu nhân ấy thì cùn mà lại còn mẻ
)
Càng bộc lộ càng lòi
Sent from my iPhone using Tapatalk
#549
Gửi vào 13/03/2020 - 10:32
#550
Gửi vào 16/03/2020 - 09:19
PHỤ LỤC “SẤM TRẠNG BÙNG”
Nguồn trang :
Trích : đọc từ dòng thứ 4 từ phải qua.
“詩云
天下紛紛擾擾攘,
誰知圣帝在何方,
賢人欲識為臣輔,
不在蛮鄉在狄鄉
一字三人同,
月無水無火,
此圣人之名.”
Hán-Việt:
“Thi vân:
Thiên hạ phân phân nhiễu nhiễu nhương,
thùy tri thánh đế tại hà phương.
hiền nhân dục thức vi thần phụ,
bất tại man hương tại địch hương.
nhất tự tam nhân đồng,
nguyệt vô thủy vô hỏa ,
thử thánh nhân chi danh.”
Tạm dịch :
“Thơ rằng:
Thiên hạ phân phân nhiễu nhiễu nhương
Ai biết Thánh Đế ở phương nào?
Hiền nhân lòng muốn ra phò tá
Không ở Man hương ở Địch hương.
Một chữ ba người giống
Trăng vô thủy vô hỏa
Ấy là Danh Thánh Nhân”.
“Man”- 蛮 giản thể của chữ “man”- 蠻
Tiếng xưa chỉ chủng tộc ở phương nam Trung Quốc. Vương Bột : “Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt” ” , (Đằng Vương các tự ) Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ, khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
“Địch”- 狄 Một giống dân ở phương bắc Trung Quốc, nên còn gọi là “Bắc Địch” .
Phiếm chỉ các dân tộc thiểu số phương bắc.
“Man hương” và “Đich hương” là chìa khóa để khẳng định Thánh Đế ở tai đất Bắc Địch cổ xưa tức là phía bắc Trung Quốc ngày nay, dùng chữ “Man” và chữ “Địch” chính là cái kim la bàn Bắc-Nam ý tứ là: “không thể nhầm lẫn được nữa”.
“一字三人同”
“Nhất tự tam nhân đồng” là lấy chữ “Mộc” -木 trong chữ “Sâm” ra, chữ “Sâm” 森– mọc dày, xum xuê - là ghép bởi 3 chữ mộc, mỗi chữ “mộc” lại ghép bởi 1 chữ “thập”- 十 và 1 chữ “nhân”- 人, nói cách khác 1 chữ “sâm” là 3 chữ “nhân thập” nên gọi là “một chữ 3 người giống nhau”
“月無水無火”
“Nguyệt vô thủy vô hỏa”
Chữ “nguyệt” - 月- trăng, còn có cách viết khác là囝, chiết tự ra là chữ “tử”- 子 bên trong chữ “khẩu”- 口 .
Chữ “khẩu”- cái miệng, cũng là cửa sông cửa bể “thủy khẩu”, “hải khẩu”, miệng bếp lò, miệng núi lửa. “Nguyệt vô thủy vô hỏa” là lấy chữ “tử”- bên trong chữ “nguyệt” bỏ chữ “khẩu” đi.
“Nhất tự tam nhân đồng
nguyệt vô thủy vô hỏa”
Là ghép chữ “mộc” -木 với chữ “tử”- 子 được chữ “lý” -李
Danh Thánh Nhân là “Lý”- họ “Lý”, “Lí”
CÁC CHỮ Ở BẢN NÀY CÒN RÕ TỪNG NÉT TỪNG NÉT CẦN PHÓNG ĐẠI LÊN BAO NHIÊU ĐỂ MỚI NHÌN THẤY ĐÂY?
"NẮM DAO NHỚ NẮM ĐẰNG CÁN"! Có người nắm cán dao rồi xin chớ túm lấy lưỡi dao kẻo đứt tay, ai cãi lời người xưa ắt chuốc lấy bại vong.
Sửa bởi catdang: 16/03/2020 - 09:38
#551
Gửi vào 16/03/2020 - 09:56
4890 năm trước khi Vua Kinh Dương Dương Lộc Tục làm Vua nước Xích Quỷ thì biên giới nước Xích Quỷ là từ phía nam Động Đình Hồ đến Chân Lạp, Lạc Long Quân là con của Vua Kinh Dương Dương biên giới của Vua Lạc Long Quân là đến đâu không có nói đến trong sử sách.
"Kinh Dương Vương ( : 涇陽王, - ) là một nhân vật truyền thuyết, ông nội của thứ nhất, thuộc dòng dõi vua vốn được suy tôn là thủy tổ của người . Dã sử chép Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục (祿續), là người hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất , đặt quốc hiệu là . Lãnh thổ của quốc gia dưới thời Kinh Dương Vương rộng lớn, phía bắc tới (cả vùng ), phía nam tới nước Hồ Tôn ( ), phía đông là (một phần của ), phía tây là ( , ngày nay). Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là ."
"Hồ Động Đình ( : 洞庭湖; : Dòngtíng hú; : Tung-t'ing Hu) là một hồ lớn, nông ở phía Đông Bắc tỉnh , . Đây là của (hay Trường Giang). Kích thước của hồ phụ thuộc vào mùa, nhưng về tổng thể nó là một trong số bốn hồ nước ngọt có diện tích bề mặt lớn nhất tại Trung Quốc, cùng các hồ như , và . Tên của hai tỉnh và được đặt căn cứ theo vị trí của 2 tỉnh này so với hồ. Hồ Bắc nghĩa là phía bắc hồ và Hồ Nam nghĩa là phía nam hồ."
Nguồn : wikipedia.
Danh từ "ĐỒNG BÀO" sinh ra từ cùng một bào cũng được người Hồ Bắc và Hồ Nam sử dụng chứ không chỉ là người Việt Nam dùng để gọi nhau.
Sửa bởi catdang: 16/03/2020 - 10:07
#552
Gửi vào 16/03/2020 - 10:20
Vậy nên ai nghe thì nghe, vấn đề ở chỗ giải sấm bằng tưởng tượng
Thành quả của tuyên truyền phụ thuộc vào đám đông quần chúng, tiếp tục đi, lôi kéo càng nhiều càng tốt
Tranh luận nó cũng có 2 kiểu cơ bản
Một kiểu nói bằng lý, phân tích biện luận đúng sai, lời lẽ ngắn gọn, rõ ràng
Một kiểu nói bằng được, nói cho nhiều và nói to là thắng
Giá mà màn hình to chắc Font chữ Tàu của ông phải chỉnh lên đến 3 vạn 9 nghìn, cho nó to, nhỉ?
Sent from my iPhone using Tapatalk
Sửa bởi thanhtung247: 16/03/2020 - 10:43
#553
Gửi vào 16/03/2020 - 10:48
"ĐẠI NẠN TỚI RỒI AI ĐỨNG RA GÁNH VÁC
CON NGƯỜI THẾ GIAN HÃY MAU CHÓNG TÌM CHÂN TƯỚNG"
Trích trong bài thơ "Tái tạo" của Sư phụ Lý Hồng Chí ngày : 25 tháng Tư, 2017.
Nguồn trang :
#554
Gửi vào 16/03/2020 - 10:53
-----------------------
LỜI CẢNH TỈNH CHO MÔN ĐỒ .... .... ....
Trong vụ trọng án rùng rợn với 2 thi thể nam giới bị vùi trong khối bê tông ở Bình Dương, theo lời khai ban đầu của các nghi phạm thì mâu thuẫn khi tu luyện .... .... .... là nguyên nhân dẫn tới tội ác. Lời thú tội gây sốc của nhóm “nữ quái” khiến nhiều người không khỏi tò mò về bản chất thực sự của bộ môn này…
“.... .... ....” hay còn gọi “Pháp luân đại pháp” là một giáo phái do Lý Hồng Chí, sinh năm 1952 tại Cát Lâm, Trung Quốc thành lập năm 1992 dưới hình thức tập luyện khí công dưỡng sinh. Giáo lý của môn phái này được cắt ghép từ Phật giáo các bài tập khí công được dàn dựng từ đạo giáo.
“.... .... ....” xâm nhập trái phép vào Việt Nam từ năm 2000. Mấy năm trở lại đây, với sự hỗ trợ của các đối tượng “.... .... ....” ở nước ngoài, số đối tượng cầm đầu các điểm nhóm “.... .... ....” trong nước đã tập trung đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, tán phát tài liệu, lôi kéo người tham gia gây phức tạp tình hình an ninh, trật tự tại nhiều địa phương. Hiện nay, “.... .... ....” đã lôi kéo được khá nhiều người dân Việt Nam tham gia. Phương thức hoạt động chủ yếu dưới hình thức nhóm, câu lạc bộ dưỡng sinh. Ngoài ra, những người theo “.... .... ....” còn lập ra nhiều trang web, facebook, blog, rải tờ rơi phát tán tài liệu tuyên truyền về “.... .... ....”, thường xuyên tụ tập tại những nơi công cộng như công viên, bệnh viên, nhà ga, chợ… để quảng bá và thu hút các đệ tử gây mất ANTT.
Trên địa bàn Quảng Bình, .... .... .... bắt đầu biết đến từ đối tượng L.A.N ở xã Quảng Hòa, TX. Ba Đồn tuyên truyền, giới thiệu cho một số người dân địa phương tham gia. Đến nay, toàn tỉnh có hàng trăm người tham gia, với hàng chục điểm nhóm tập luyện, chủ yếu tập trung tại TX. Ba Đồn, TP. Đồng Hới và các huyện Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy, Tuyên Hóa. Các đối tượng thường xuyên tụ tập tại Công viên Nhật Lệ (phường Đồng Mỹ, TP. Đồng Hới), tại Công viên trung tâm thị xã Ba Đồn với ý định tập luyện .... .... ...., tổ chức thắp nến “tưởng niệm các nạn nhân bị mổ cướp nội tạng…” và thả bóng bay, đánh trống, dùng loa phát, nhằm tạo được sự chú ý của đông đảo người hiếu kỳ, phô trương thanh thế PLC để tiếp tục lợi dụng tình hình tán phát tài liệu có nội dung nhạy cảm tuyên truyền trái pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình ANTT của địa phương.
Bên cạnh một số mặt tích cực của việc tập luyện “.... .... ....” như: rèn luyện sức khỏe, giảm stress, cân bằng xúc cảm, gia tăng năng lượng, thư giãn…, đằng sau đó là rất nhiều tư tưởng mê tín, phản khoa học. Ví dụ học viên “.... .... ....” được tuyên truyền rằng, ai tập “.... .... ....” sẽ được Pháp Thân của Lý Hồng Chí bảo hộ. Hoặc Pháp Thân của Lý Hồng Chí sẽ làm tịnh hóa thân tâm của người tập “.... .... ....”…… Học viên “.... .... ....” tin rằng, cái gì họ làm cũng là nhờ ơn của sư phụ Lý Hồng Chí, ngay cả đến tranh luận với người bên ngoài cũng tin là sư phụ Lý Hồng Chí của họ sắp xếp để họ tranh luận và “Người tập “.... .... ....” làm cho con người đạt đến khai công, khai ngộ, công thành viên mãn, linh hồn bất diệt; ai ngăn cản là ma quỷ”; hoặc “nguyên nhân của bệnh tật là do những việc xấu của kiếp trước, nếu tin tưởng vào luyện công, dừng ngay việc uống thuốc, không cần khám chữa trị tự nhiên có người chữa trị cho…”.
Những người theo .... .... .... thường có xu hướng bỏ bê công việc, gia đình để tham gia tập luyện một cách mù quáng. Nạn nhân Trần Đức Linh (quê Nghệ An) là điển hình khi đã bỏ vợ con, nhà cửa để vào Bình Dương tu luyện .... .... .... với các đối tượng trên trước khi bị sát hại. Hay như trường hợp bà Trương Thị K. (SN1954), trú tại xã Quảng Sơn, thị xã Ba Đồn tử vong khi đang trong tư thế ngồi thiền tập PLC vì cho rằng theo tập .... .... .... thì không cần khám chữa trị tự nhiên có người chữa trị cho.
Nếu chưa tìm hiểu kỹ về .... .... ...., nhiều người trong chúng ta lầm tưởng nó chỉ đơn thuần là môn khí công dưỡng sinh, rất tốt đẹp.
Dĩ nhiên, chịu tập dưỡng sinh điều độ thì ai mà chả khỏe người ra. Giáo lý Chân – Thiện – Nhẫn nghe qua rất tốt đẹp. Với tâm lý là nhiều người tham gia thì .... .... .... phải tốt, nhiều quốc gia tham gia thì .... .... .... phải tốt. Tâm lý số đông, và tâm lý ghét Trung Quốc, bất mãn chế độ nên đa phần đều cho rằng .... .... .... là tốt.
Với sự tuyên truyền của Lý Hồng Chí và tổ chức .... .... .... thông qua hệ thống trang web dày đặc, và các thủ đoạn tẩy não tinh vi, trá hình Phật pháp, trá hình khí công, trá hình đấu tranh nhân quyền, thì những người tập .... .... .... sẽ tin rằng .... .... .... là thật sự tốt đẹp, tin vào những giáo lý của Lý Hồng Chí. Những người tập .... .... .... dần dần sẽ trở thành tín đồ của môn phái này và dần dần bị tẩy não./.
Sent from my iPhone using Tapatalk
#555
Gửi vào 16/03/2020 - 12:53
TẠI SAO TRONG BẢN DỊCH NGUYỄN THIÊN THỤ KHÔNG CÓ BẤT CỨ CÂU NÀO NHƯ PHẦN ÔNG TRÍCH DẪN ; HAY CÁI TRÍCH DẪN CỦA ÔNG CŨNG LÀ HÀNG FAKE TRƯNG RA ĐỂ ĐÓ KHÔNG PHẢI SẤM HỌ PHÙNG ?
TỪ ĐIỂN NÔM TỪ
TRONG CHỮ NÔM CHỈ DUY NHẤT CÓ 1 CHỮ HƯƠNG (NHANG ; THƠM).
CHỨ KHÔNG CÓ CHỮ HƯƠNG( BẢN QUÁN)
NÊN PHẦN DỊCH NÀY HOÀN TOÀN CÓ CƠ SỞ LÀ HÀNG FAKE
CHỮ 蛮(MAN) ÔNG CỐ GÒ VÀO SAO CHẲNG GIỐNG TẸO NÀO ?
LOẠI TỰ GỌI MÌNH LÀ MAN ĐỊCH KHI CÒN SINH SỐNG TRÊN ĐẤT NƯỚC NÀY KHÔNG PHẢI HÁN GIAN CHỨ GÌ NỮA
LƯU Ý TỪ THỜI NGUYỄN TRÃI VỀ SAU CHỮ NÔM LÀ LOẠI CHỮ THÔNG DỤNG CHÍNH THỨC KHÔNG PHẢI CHỮ HÁN
Sửa bởi babylon: 16/03/2020 - 12:59
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Sách Cuộc hành trình đi tìm chữ Việt Cổ, của bác Đỗ Văn Xuyền |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | nonamekhongten |
|
||
Lá cọ Nadi hành trình tìm bản thân (tiếng Hoa) |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Elohim |
|
|
|
DỊCH TRÌNH THEO TỨ TRỤ - THIỆU TƯỚNG MINHDỊCH TRÌNH THEO TỨ TRỤ - THIỆ |
Kinh Dịch - Bốc Dịch - Lục Hào | Romanum |
|
||
Trang Manh Phái (phái người mù thật) bát tự, do 3 ông mù giảng trên youtube có phụ đê· |
Tử Bình | Elohim |
|
||
Pinned Trang nhật ký để ngỏ...(cho mọi người) |
Vài Dòng Tản Mạn... | Tử Phủ Vũ Tướng |
|
17 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 17 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |