Jump to content

Advertisements




LUÂN HỒI DU KÝ


30 replies to this topic

#16 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 09:15

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI CHÍN

RÙA THIÊNG BÀN LUẬN MỘT BÀI VỀ LẼ DIỆU HUYỀN

LƯƠN TU ĐẠO BA LẦN TẮM SẠCH THÂN Ô UẾ

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 9 tháng 7 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Súc đạo luân hồi chuyển vị hưu
Vi phi tác ác linh thần ưu
Thân thành dị loại khuy nhân đạo
Phẩm tính cải lương hướng thiện tu.
Súc đạo tu chân bội khốn nan
Cải đầu hoán diện tẩy tâm can
Thiên khai phổ độ tư tam giới
Nhất điểm nguyên linh cửu chuyển đơn.

Dịch

Súc vật luân hồi chửa được yên
Gian manh tàn ác thánh nhân phiền
Thân thành loài khác quên nhân đạo
Tật xấu lo tu sửa tánh hiền.
Súc vật tu hành thực khó khăn
Thay đầu đổi mặt rửa tâm can
Trời ban ân đức nhuần ba cõi
Một điểm nguyên linh chuyển kiếp tiên.

Tế Phật: Con người được sinh ra ở thế giới tự do giàu có, đã không bị lo thiếu ăn, thiếu mặc mà còn lại hoang phí xa xỉ, tự ý vứt bỏ thiên chức làm người, chạy theo tà đạo, quả là thân sống ở thiên đàng mà chân đi đường địa ngục, tự tìm sự đen tối, thực là đáng tiếc. Cũng may là trời có đức hiếu sinh, ban chính đạo xuống trần, mở rộng cửa cứu độ, nếu như người không biết tu đạo hướng thiện, chỉ chút lỡ lầm sau hối không kịp. Súc vật tuy không cùng một giống với người nhưng tính linh lại là một, trong chốn núi sâu hay ngoài biển lớn nếu như chịu dày công tu luyện đạo thì dẫu là loài vật cũng vẫn có thể siêu thăng cõi cực lạc thiên đàng. Nếu như chẳng tin đêm nay thầy sẽ hướng dẫn Dương Sinh mở rộng tầm mắt để chứng minh là lời thầy nói thực. Con hãy chuẩn bị lên đường.

Dương Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Bữa nay thầy trò mình phải đi hỏi đạo.

Dương Sinh: Thưa hỏi đạo mãi đâu?

Tế Phật: Loài người tu đạo là lẽ thường, nhưng còn giống thú tu đạo mới thật ly kỳ... Đã tới đầm nhật nguyệt, hãy xuống đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa ân sư, khí trời nóng bức lạ thường, tới đầm nhật nguyệt con muốn nhảy xuống bơi cho mát, liệu có được không?

Tế Phật: Trò ngoan quả là quá thực tế, thầy muốn bây giờ mình phải phỏng vấn ngay con rùa mà lần trước con đã phóng sinh. “Rùa, rùa ơi! Hãy ló đầu ra nhìn thử xem là ai đây? Bữa trước được cứu sống, bữa nay khí số hồi, hãy mau lên bờ bàn luận lẽ huyền vi”.

Dương Sinh: Đứng trên bờ nhìn thấy đàn rùa từ từ bơi lại, giống như biết được rằng thầy trò ta tới đây cốt để phỏng vấn chúng.

Tế Phật: Đúng vậy, những con rùa này vốn là những hành giả tu đạo, chúng ở nơi nước trong, hít thở để luyện khí, linh quang tràn đầy do đó được trường sinh. Rùa đã tới trước mặt, ta nên vì chúng mà thuyết pháp: “Rùa ơi, rùa ơi, xa cách bấy lâu, còn nhớ ra vị chủ nhân đang đứng trước mặt ngươi đây, đã cứu mệnh ngươi để ngươi siêu thoát khỏi vòng sinh tử không? Được gần nước sống an toàn, tu đạo luyện chân khí, giờ đây ngươi nên tiết lộ huyền cơ, kể rõ lai lịch của ngươi đi”.

Rùa: Cảm tạ ân nhân, bữa nay được rõ vị cùng ngài Tế Phật tới đầm Minh, lòng tôi vô cùng phấn khởi, tôi vốn sinh nơi đầm Bích thuộc Hà Trung ở Đài Bắc, một bữa bị trẻ con phát hiện, bắt về bán cho vựa cá, khi ấy tôi vô cùng sợ hãi, lệ chảy ròng ròng. Sau đó bị người chủ vựa bán lại cho chợ Kiến Quốc ở Đài Trung thì được vị đạo trưởng Thánh Đức Đường mua về phóng sinh vào ngày giỗ của đức từ mẫu, nên tôi cùng cả trăm đồng bạn được mang về Thánh Đức Đường quy y và được đức bồ tát Quán Thế Âm điểm hóa, tắm gội nước pháp nên giác ngộ bản lai diện mục.

Có được duyên may đó là nhờ kiếp trước tôi là một vị hòa thượng xuất gia tu đạo và trì trai giữ giới. Thời gian đầu hăng say phát tâm, nhưng ba năm sau tâm trần mỗi ngày một tăng, tham tài biển thủ tiền bố thí của thiện nam tín nữ nhét đầy túi riêng, lại còn bán cả đất để xây chùa của Phật tử, vì phản bội giới luật, sau khi chết không những không được lên thiên đàng mà còn bị đày xuống địa ngục, bị Minh Vương trừng phạt. Năm năm trước đây mãn hạn, chuyển kiếp đầu thai mang thân rùa, để tu luyện chuộc lại lỗi lầm. Tôi chỉ sống bằng không khí và nước lã, thân thể phải đày nơi nắng mưa giá lạnh, song nhờ còn có chút thiện căn, nhân duyên chuyển biến nên mới được hưởng ân đức của Thánh Đức Đường phóng sinh, nhờ bồ tát Quán thế Âm cùng Phật Sống Tế Công điểm hóa giúp đỡ, công trình tu đạo của tôi tiến bộ rất nhiều, ơn nghĩa này quả là vô lượng.

Tế Phật: Ngươi vốn là môn đệ của đức Quán Thế Âm, phát nguyện xuống trần cứu độ chúng sinh song chẳng may duyên trần chưa dứt, tái phạm giới luật nên đọa lạc vào nẻo luân hồi. May nhờ gốc huệ chưa dứt, ngày nay tạo thành thiện duyên, mong cố gắng tu trì, ngày sau công quả tràn đầy, tự nhiên thoát xác siêu thăng cực lạc.

Dương Sinh: Rùa này! Ngươi đã biết tu đạo, khiến mọi người quý mến, vậy thì ngươi có thể trình bày ra đây những ấn chứng kì diệu trong thời gian công phu luyện đạo không?

Rùa: Vì con người lòng dục đa tạp nên tính khí nóng nảy, hơi thở gấp gáp do đó thường chết sớm. Nhất là công ăn việc làm người đời thường vội vàng thúc hối khiến sự hít thở không khí chầm chậm từ từ, tim đập loạn máu chảy dồn, chẳng khác nào nước lụt đục ngầu tuôn tới đâu gây tai họa ở đó. Giống như cây nguyên linh to lớn bị nước lũ cuốn trôi từ đầu nguồn xuống cuối sông, sóng đánh, cát đá dập vùi, chà xát tan tành. Lòng dục hoang đàng tâm linh thương tổn nên hình thể cũng biến đổi theo, để rồi một buổi thần hồn phải xa lìa thân xác, có kẻ lúc bị chuyển kiếp chẳng thể ngóc đầu lên nổi, như tôi đây lưng cõng cái mai quá nặng nề nên cứ phải bò, chẳng thể đứng dậy đi đứng thong thả.

Dương Sinh: Rùa ơi! Chớ tự trách mình nữa. Ngươi chuyển kiếp làm thân rùa, huệ trí vẫn còn, lại sớm biết tu tâm sửa tánh thực quả là ân phước quá lớn lao. Mong ngươi trình bày thêm về phương pháp hít thở trong những giờ công phu để người đời rõ, có được không?

Rùa: Được lắm, giờ tôi xin trình bày phương pháp tu đạo của tôi để người đời rõ. Như mọi người đều rõ câu chuyện thỏ và rùa chạy đua, thỏ tượng trưng cho kẻ “tâm dục” không điều hòa làm chủ được hơi thở nên nhảy nhót tung tăng, còn rùa tượng trưng cho người “tâm đạo” trầm ngâm điềm tĩnh. Đường đời mà mọi người phải trải qua chẳng khác nào đường thỏ và rùa chạy đua, ban đầu thấy thỏ tung tăng tưởng thắng, song cuối cùng lại tới đích sau nên rùa thắng cuộc. Rùa mệnh thọ còn sống tại cõi trần, thỏ mệnh yếu đã thác chẳng còn lưu dấu tích. Nguyên nhân cũng tại một đàng thở chậm, tiết dục, trầm tĩnh; còn một đàng thở gấp, phóng dục, nóng nảy, hẳn là mọi người đều rõ lý do. Con người sống cõi hồng trần ô trược, linh khí tiêu hao, do đó phải luyện hơi thở để hút lấy khí hạo nhiên của trời đất để bồi dưỡng cơ thể. Rùa sống bằng nước lã mà được trường sinh là bởi biết pháp hít thở nên linh khí đầy ắp châu thân.

Rùa là lính của thần cõi đất, lưng đeo giáp bảo vệ thân, chăm tu thân dưỡng khí, mỗi cái thở ra hết khí đáy cặn, mỗi cái hít vào, bụng no đầy khí sạch trong, đóng khí dứt bụi hồng, nước chảy khắp châu thân, sức sống tràn đầy. Hãy thử quan sát loại nước chết lâu ngày sẽ bốc mùi hôi thối, sinh ra cung quăng, muỗi mòng, hoặc ngó thứ nước tiết ra từ xác chết sình thúi. Người đời nếu muốn nhục thể hóa thành thánh thể, tục linh chuyển thành thánh linh thì hằng ngày phải thở hết khí đáy cặn ra ngoài, hít đầy bụng khí hạo nhiên, khử trược lưu thanh, thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, nguyên linh sáng suốt, tu đạo tự nhiên thành đạt. Trong thời kỳ công phu chân tay chớ múa may nhiều, luôn cấm khẩu, nhìn thẳng để tránh chiêu tai chước họa, làm nhiều việc thiện, nói điều đạo đức, thở hít khí thanh tịnh. Nguyên linh giữ nhà, nhà yên thần không bấn loạn, tu đạo không lang thang đây đó, thần chẳng lìa nhà vì đạo ở tại nhà mình.

Tế Phật: Ha ha, tu đạo chớ hay động loạn, giữ tính tự nhiên tại gia. Lòng người thường giống như tánh thỏ thích tung tăng, nên kẻ thành đạo tâm phải luôn luôn vắng lặng. Há chẳng thấy Tiên Phật ngồi trầm ngâm không hề động cựa trên bàn sao?

Dương Sinh: Lời dạy của ân sư quả thực hữu lý. Đạo thường nói: “Phải quấy gây ra tại mở miệng, tai họa xảy tới tại ló đầu”. Lời nói trên đây hết sức ý nghĩa, vậy rùa có thể giải thích được không?

Rùa: Miệng nói nhiều hay gặp sự chẳng lành, ít bàn chuyện lăng nhăng hẳn tốt hơn. Chỉ nên chăm tụng niệm kinh, hoặc siêng thở hết khí đáy cặn ô nhiễm ra ngoài thì có ích cho thân thể mình hơn. Kẻ thích làm anh hùng thế nào cũng có lúc gục đầu cúi mặt, thần khí tiêu tan thất bại trở về nhà cũ. Cho nên kẻ hít thở theo kiểu rùa, thường thâu khí sạch vô sẽ giúp tàng trữ được dưỡng khí quý báu bên trong, chỉ thâu mở co duỗi khi cần thanh lọc trược khí bên trong cơ thể mà thôi, còn lúc bình thường tuyệt đối không được ưỡn ngực nghểnh cổ đi nẻo tối, đường âm để dương thần hao tổn một cách vô ích. Những người quá cực nhọc tinh thần, chân khí trong cơ thể cũng tổn hại không ít. Tới lúc linh mệnh mất đi, thân thể suy nhược thì nguyên linh chẳng thể lên nổi cõi trời, bị đắm chìm xuống địa ngục. Do đó kẻ học đạo, muốn thoát lý cảnh khổ luân hồi, trước hết phải cố gắng tu luyện để thân thể trở thành thân kim cương không bị hủy diệt. Bình thường phải chú trọng về phép hít thở, luồng khí vào từ mũi chạy thẳng xuống đơn điền, song tới linh đài, chạy một vòng xong rồi lại trở về linh đài, đó là bí quyết sống lâu. Được vậy thân thể sẽ như mai rùa kim cương chẳng thể hư hoại, có thể trường sinh bất lão. Đó là bí quyết về cách thở của rùa, mong người đời ráng thể nghiệm.

Tế Phật: Phần hướng dẫn phương pháp công phu trên đây đã tiết lộ hết huyền cơ của trời đất, mong người đời dốc lòng nghiên cứu kỹ lưỡng để thực hành cho có kết quả. Đàn rùa tới tấp bò lên bờ, ha ha, ta có một bài kệ:

Linh quy dĩ quán dương đạo sinh
Ngẫu nhi thấp nhuận mạc thâm tình
Thường xâm âm thủy khí thụ tổn
Đạo ngạn khế tức vận công hành.

Sự sống trên bờ rùa đã quen
Đọa đày dưới nước vẫn không phiền
Tổn hao chân khí đời chìm đắm
Lên cạn nghỉ ngơi chuyển pháp luân.

Tế Phật: Thầy trò mình hãy trở lại hồ nước lắng trong Cao Hùng để phỏng vấn đám rùa mà ngày trước Thánh Đức Đường đã phóng sinh.

Dương Sinh: Thưa vâng, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành... Khí trời nóng nực, vượt qua quãng đường này giống như quãng đường nóng bỏng mà ngày xưa Đường Tam Tạng sang xứ Phật đã trải qua. Ban đêm hai bên đường ánh đèn tỏa chiếu sáng ngời, nông phu bày đầy dưa hấu, khách đi đường nhiều người dừng xe, xuống hỏi mua, có kẻ bổ nghiến ngay dưa ra, ăn có vẻ rất ngon lành. Thưa ân sư, con có thể mua được một trái không?

Tế Phật: Đường sang xứ Phật có dưa hấu là loại trái quý của Tây Trúc dùng để giải khát rất tốt, cứ việc mua đi đừng thắc mắc, song hãy để ta ca một bài kệ nói về dưa hấu trước đã:

Tích nhật Đường Tăng quá Lưu Sa
Nhất khứ thiên lí vô nhân gia
Thất trú thất dạ vô trai cung
Phúc trung cơ ngọa loạn như ma
Lộ bàng kiến nhất thanh đằng thảo
Thanh đằng lục diệp khai hoàng hoa
Đường tăng tồn tế lai quan khán
Thanh đằng lý diện nhất tây qua
Phân minh tương đao lai phá khai
Hắc tử hồng tâm tượng chu sa
Ngật tại khẩu trung điềm như mật
Điềm điềm mật mật bất thổ tra
Vấn sư chẩm ma lưu truyền chủng
Vấn sư chẩm ma chủng tây qua
Vấn sư chẩm ma trưởng căn nha
Vấn sư chẩm ma thanh đằng thảo
Vấn sư chẩm ma khai hoàng hoa
Vấn sư chẩm ma sinh nhất cá
Vấn sư chẩm ma kết thành qua
Vấn sư chẩm ma lai quan khán
Vấn sư chẩm ma loạn như ma
Vấn sư chẩm ma tương đao pha
Vấn sư chẩm ma khiếu tây qua
Vấn sư chẩm ma vi hắc tử
Vấn sư chẩm ma tượng châu sa
Vấn sư chẩm ma điềm như mật
Vấn sư chẩm ma bất thổ tra
Vô thủy niên lai lưu truyền chủng
Vô sinh địa thượng chủng tây qua
Trì trai bã tố lai hạ tử
Tam quy ngũ giới trưởng căn nha
Tham thiền ngộ đạo thanh đằng thảo
Tâm hoa nộ phóng khai hoàng hoa
Trí tuệ thông minh sinh nhất cá
Công thành viên mãn kết tây qua
Phân minh đô thị bồ đề tử
Tự kỹ linh quang tượng châu sa
Hầu trung cam lộ điềm như mật
Pháp luân thường chuyển bất thổ tra
Tham bái minh sư lai quan khán
Đa tư đa tưởng loạn như ma
Minh sư khẩu quyết tương đao pha
Đại đạo nguyên lai khiếu tây qua
Tây phương lộ thượng nhất châu qua
Thế nhân bất ngật đáo để soa
Hữu nhân ngật qua đắc từ vị
Đồng đáo Linh Sơn kiến Thích Già.

Dịch

Thuở xưa Tam Tạng vượt Lưu Sa
Đường dài đi mãi chẳng thấy nhà
Bảy ngày bảy đêm không cơm nước
Bụng trống đói lả ruột cồn cào
Thấy dưa bên đường bò chằng chịt
Dây xanh lá biếc nở muôn hoa
Tam Tạng lại gần xem kỹ lưỡng
Trong đám lá xanh thấy trái dưa
Lấy vội dao ra bổ nghiến coi
Hột đen ruột đỏ tựa châu sa
Ăn vào ngọt lịm như đường mật
Vì ngon ăn ráo bã chẳng chừa
Xin hỏi ân sư cách giữ giống
Xin hỏi ân sư cách trồng dưa
Xin hỏi ân sư cách gieo hột
Xin hỏi ân sư cách mọc rễ
Xin hỏi ân sư cách nảy mầm
Xin hỏi ân sư cách nở hoa
Xin hỏi ân sư cách kết trái
Xin hỏi ân sư cách có dưa
Xin hỏi ân sư cách chăm sóc
Xin hỏi ân sư sao tươi tốt
Xin hỏi ân sư sao bổ được
Xin hỏi ân sư sao là dưa
Xin hỏi ân sư sao hột đen
Xin hỏi ân sư sao ruột đỏ
Xin hỏi ân sư sao ngọt lịm
Xin hỏi ân sư bã chẳng chừa
Bao nhiêu ngàn năm vẫn truyền giống
Trên đất muôn đời mãi trồng dưa
Trì trai giữ luật để gieo hột
Tam quy ngũ giới nuôi mầm lớn
Tham thiền ngộ đạo dưỡng cây tốt
Nở rộ hoa tâm thấm hoa dưa
Trí tuệ trở nên cực sáng suốt
Công thành quả đắc kết trái dưa
Rõ rệt đều là bồ đề hột
Linh quang của mình giống châu sa
Cam lồ trong miệng ngọt như mật
Pháp luân thường chuyển bã chẳng chừa
Kính mời ân sư tới quan sát
Nghĩ quanh nghĩ quẩn tâm rối bù
Minh sư nhất quyết đem dao bổ
Đạo lớn giống hệt một trái dưa
Người đời không ăn chẳng uổng sao
Kẻ nào ăn dưa thấy ngon ngọt
Cùng tới Linh Sơn gặp Thích Ca.

Nếu như ngộ đươc bài kệ dưa hấu này, thì mới tự rõ được là thân mình kết bằng trái dưa, trái dưa này cũng còn giảng về cách hít thở, chỉ tiếc rằng người đời không chịu tìm hiểu cặn kẽ thôi. Để rồi trái dưa tự sinh tự diệt, cuối cùng khô héo tàn tạ, há chẳng đáng tiếc lắm sao?

Dương Sinh: Ân sư không thẹn với thiên chức thiền sư, bài kệ trái dưa hấu trên đây bao hàm rất nhiều cơ duyên thiền định, đệ tử khi nghe bài kệ nước miếng dâng tràn trong miệng, tự nhiên thấy hết khát, quả thật là kỳ diệu.

Tế Phật: Đã hết khát rồi thì phải tới hồ lắng trong ngay...

Dương Sinh: Cảnh đêm trên hồ lắng trong thật là mĩ lệ, đêm hè gió mát thổi vi vu cảm thấy tâm thần thoải mái dễ chịu, chốn này ngày trước mình đã phóng sinh rùa đây, đứng trên bờ nhìn xuống còn thấy thấp thoáng cả bóng lươn bơi lội.

Tế Phật: Ta đã từng hướng dẫn con tới đây phóng sinh nhiều lươn, vậy hãy thử phỏng vấn chúng coi.

Dương Sinh: Lũ lươn tự nhiên bơi tới trước mặt, quẫy đuôi mừng rỡ giống như bày tỏ lòng biết ơn.

Tế Phật: Tính linh của loài lươn rất cao, thầy đã ban pháp Phật để hướng dẫn chúng bơi lại gần bờ, hẳn là đã cảm ứng được ơn pháp. Ban pháp Phật lần nữa chắc chắn nguyên linh nó tỉnh ngộ, hẳn là thực hiện nổi cuộc đàm đạo tâm linh. “Lươn ơi! Lươn ơi! Sống dưới ao bùn này hôi hám, thân tanh tưởi, không vượt khỏi ngũ hành. Tỉnh mau tỉnh mau, thân xác ngươi chẳng khác nào thân xác rắn...”. Thầy đã ban pháp, lươn dần dần hiện rõ hình, Dương Sinh có thể phỏng vấn chúng được rồi.

Dương Sinh: Lươn ơi! Có còn nhớ ta không?

Lươn: Mắt không thấy rõ nhưng trí cũng nhớ ra. Vị là người cứu mệnh tôi, cảm ơn đã mời đức Quán Thế Âm điểm hóa, giúp tôi quy y Phật pháp, lại còn đưa tôi tới đây phóng sinh, thoát được hình phạt bị người ta làm thịt.

Dương Sinh: Linh tính còn sáng suốt. Ta là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, bữa nay theo ân sư tới đây phỏng vấn. Ngày trước các đệ tử của Thánh Đức Đường phát tâm từ bi tới chợ cá mua ngươi đem về phóng sinh. Vì phụng ý chỉ trời cao trước tác sách Luân Hồi Du Ký để khuyến hóa người đời, nên bữa nay đặc biệt tới đây phỏng vấn ngươi. Vậy ngươi có thể trình bày rõ lai lịch để người đời có thể được rõ không?

Lươn: Trước tiên xin cảm tạ chư vị đại đức cùng chư tính hữu thuộc Thánh Đức Đường đã bỏ tiền ra để cứu mạng sống của tôi, nên tôi đã thoát được hình phạt bị người làm thịt, ơn này muôn đời ghi nhớ và mong có cơ hội đền đáp. Kiếp trước tôi là một thương gia, chuyên dùng thủ đoạn gian manh để lừa thiên hạ, nên làm giàu rất mau, của cải nhiều như nước. Đời sống vô cùng xa hoa, tửu sắc quá độ, thân thể suy nhược. Ngày nọ bị một thương gia bạn dụ hoặc, mới đầu hút bạch phiến thấy tinh thần sảng khoái gấp bội, được đà cứ thế làm tới, dần dần thành mắc bệnh ghiền, cuối cùng trở nên mê đắm gỡ chẳng ra, sự nghiệp thương mại sụp đổ, tiền thâu vô không bù lại được tiền xuất ra. Để có đủ tiền chi dụng trong việc hút sách, bèn quay qua buôn ma túy, lén lút khai thác việc thương mại này và kiếm được rất nhiều tiền, nên càng ngày hút dữ hơn. Nhưng hút ma túy chẳng khác nào tự sát, gan phổi hư hại, năm bốn mươi chín tuổi tôi không chịu nổi bệnh tật hoành hành nên thác.

Sau khi chết bị quỷ hắc bạch vô thường áp giải xuống địa ngục, xử phạt mười hai năm, phải trải qua khắp các điện để chịu tội, rồi sau mới chuyển kiếp sinh làm loài lươn, sống dưới bùn chui chui nhủi nhủi, mềm cả xương đầu, hàng ngày ăn bùn cùng uống nước đục, giống như kiếp trước hô hấp khí độc vậy, chẳng thấy có mùi vị gì hết. Chỉ nhờ kiếp trước đã từng bỏ tiền ra giúp một thiếu nữ tuyệt vọng đang muốn tự sát khỏi chết nên đã tạo thành nhân duyên kiếp này qua việc được vị nhân sĩ tâm hiền phóng sinh. Giờ đây xin đa tạ mọi người, nhân quả báo ứng sợi tơ, sợi tóc không sai chệch, mong người đời gắng tạo nhân lành, tránh khỏi bị đọa lạc tại chốn này như tôi để tới nỗi hàng ngày phải ngâm mình trong nước tẩy xác thân, trừ khử độc khí cùng tu thân sửa lỗi.

Dương Sinh: Luật nhân quả đáng sợ quá.

Tế Phật: Luật nhân quả muôn đời không thay đổi, người đời nghe lươn tự thuật, cảm nghĩ ra sao? Còn lươn! Hãy ráng dùng nước hồ tẩy sạch thân ô uế, sau khi khí độc bùn lầy trong lắng, kiếp tới hy vọng có thể đầu thai lên làm người.

Lươn: Cảm tạ ơn cứu mệnh của đức Tế Phật cùng thánh bút Dương Thiện Sinh.

Tế Phật: Thời gian đã trễ, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đã lên đài sen.

Tế Phật: Đã tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#17 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 09:30

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI MƯỜI

ĐƯỜNG TRẦN THẾ VẪN VỐN TRUÂN CHUYÊN NHIỀU NỖI,

CHUỘT HOÀNH HÀNH CUỐI CÙNG GẶP HỌA THẢM THƯƠNG

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 8 tháng 8 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Vi lương khí hậu cận trung thu
Phổ độ thương sinh hựu nhất chu
Du ký thiên thu giai ngọc luật
Dụng tâm nghiên độc đạo cần tu.
Chân cơ diệu lý hiện loan đàn
Thánh đức vô phi cứu thế đan
Tạp chí từ san tu phổ hóa
Gia gia bái độc đắc bình an.

Dịch

Tiết trời êm ả sắp trung thu
Cứu độ nhân gian thực nhiệm mầu
Du kí sách trời ban chánh pháp
Gắng công nghiên cứu đạo chăm tu.
Huyền cơ siêu diệu giáng trần gian
Thánh đức cứu đời quả thuốc tiên
Tạp chí từ bi truyền khắp chốn
Nhà nhà lo đọc được bình an.

Tế Phật: Ngày tháng tựa thoi đưa, một năm trôi qua mau lẹ, tết trung thu lại trở về, ngoài vườn hoa nở đẹp, trên trời trăng tròn sáng, nhưng còn tâm của chúng sinh tròn hay khuyết? Hoặc lại giống tựa gió thu lùa thổi, khiến lá rụng tơi bời? Đệ tử Thánh Đức Đường đều là những người tu đạo, tất cả vốn đã gắng công tôi luyện tinh thần, ngày đêm chịu đựng khổ cực, để thực hiện những công tác cứu độ người đời, lòng như trăng sáng, tính giống nước trong, cầu chúc mọi người minh tâm kiến tánh, đạo nghiệp sáng ngời.

Dương Sinh: Cảm tạ lòng lo lắng của ân sư, suốt năm năm trời nay sớm tối được cùng với ân sư giao tiếp với chư vị Thánh Tiên, để hoàn thành nhiệm vụ trước tác hai cuốn sách quý Địa Ngục và Thiên Đàng Du Ký, nhờ vậy trong thời gian này, nguyên linh cùng trí tuệ của con được khai mở vô cùng. Tuy hai cuốn sách được truyền bá khắp thế giới, song con cũng gặp nhiều nguy nan, trong những phút giây tĩnh lặng, thường bình tâm tự kiểm thảo, khi đó mới nhận ra rằng, làm người không phải dễ, nhất là người lãnh trách nhiệm lo các công tác giúp ích nhân quần xã hội, đạo cao đức rộng hiếm hoi vô cùng, bởi vậy nhiều lúc muốn buông bỏ tất cả, trở về ẩn tu, quên mọi việc hồng trần, để tâm hồn được tiêu dao và thanh tịnh. Song nhờ ân huệ trời cao, cùng phước đức ân sư chiếu rọi, nay lại trước tác sách Luân Hồi Du Ký, nhiệm vụ trọng đại, kính xin ân sư ban thêm linh quang trợ lực cho, để con khỏi phụ lòng trời xanh trao phó gánh nặng thiêng liêng.

Tế Phật: Dương Sinh chớ quá lo lắng, tục ngữ có nói: “Có được xác thân người thì dễ song làm việc người thì khó” (Sinh hữu nhân thân di, yêu vi nhân sự nan). Đường đời mà mọi người phải trải qua không bằng phẳng, thẳng tắp mà nó gập ghềnh khúc khuỷu rất khó đi. Chúng ta chỉ biết dốc tâm hoàn thành thiên chức để khỏi phụ lòng trời, dâng trọn nhân, hiến trọn nghĩa, ngồi xe cũ lâu ắt có lúc phải mong bước xuống để đổi xe mới. Người đời gặp gỡ nhau đều là do nhân duyên tựu tán, hợp phân đều do số mệnh định trước, chúng ta đang hoàn thành mục đích lý tưởng, người bò lên cao nước chảy xuống thấp, Tiên Phật cứu độ chúng sinh, mây bay bốn biển, há lại chịu chôn chân tại một nơi, ôm cứng một hình tướng nào đó thôi sao? Phải thiên biến vạn hóa mới là diệu pháp vô cực vậy. Tục ngữ nói: “Tranh lý với quân tử, chớ tranh khí cùng tiểu nhân” (Dữ quân tử tranh lý, vật dữ tiểu nhân tranh khí). Đường đi mới, sứ mệnh mới, gà vàng gáy vang, ba cõi thái hòa, thánh đức ứng vận ra đời, hào quang tỏa chiếu muôn nơi, thầy trò mình hãy khởi hành.

Dương Sinh: Thưa ân sư, bữa nay mình đi đâu?

Tế Phật: Tới Bình Đông phỏng vấn đám chuột.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã tới nơi.

Dương Sinh: Thưa, bữa nay tại sao ân sư lại đậu xuống nóc nhà người ta? Nơi đây hình như là chốn hương thôn nhưng nhà cửa lại xây cất bằng gạch ngói, chủ nhân lại có cả truyền hình để coi.

Tế Phật: Gia đình họ Lâm đã dùng xong bữa tối, cả nhà đang tựu họp coi truyền hình, chẳng hay biết có hai vị hành giả tới thăm và họ đang ở trên nóc nhà.

Dương Sinh: Ân sư thực khéo pha trò, tính linh của thầy và con tới đây thân nhẹ như mưa, do đó mà họ không thấy. Dạo mát nơi này thật là tuyệt diệu.

Tế Phật: Chẳng phải đến nơi này dạo mát mà là để phỏng vấn đám chuột hiện nằm ở trên trần nhà, chúng không dám động đậy, sợ chủ nhân hay biết. Định thần nhìn sẽ thấy chúng hiện đang ở dưới chân thầy trò mình, chúng đang làm tổ ở đó, thầy gỡ một miếng ngói ra, con sẽ nhìn thấy chúng.

Dương Sinh: Xin thầy nhẹ tay, rất cẩn thận kẻo chúng biết.

Tế Phật: Con yên tâm, thầy đối phó với chuột hay lắm... Lấy ngói ra rồi, con nhìn thấy không?

Dương Sinh: Quả thực là kỳ diệu, một cái ổ có bốn con chuột trong đó, chúng nằm yên không nhúc nhích giống như tâm đang lo sợ.

Tế Phật: Chúng nằm đó đợi tới canh khuya mới bò ra lùng kiếm đồ ăn. “Chuột ơi, mi nằm đó để đợi gì vậy? Trộm lớn không làm được, chỉ chuyên lén nhặt nhạnh những đồ ăn vụn vặt trong nhà, bữa nay ta cho các ngươi mấy hạt gạo Bồng Lai, ăn xong tính linh thức giác tới đảo Bồng Lai tu đạo”.

Dương Sinh: Ân sư niệm thần chú, những hạt gạo trắng rơi ngay vào miệng chuột, chúng nhai ngon lành.

Tế Phật: Đó là thực phẩm tiên, chẳng phải bã thuốc độc, đợi một lát bọn chúng sẽ biến thành chuột thiêng, con có thể phỏng vấn chúng.

Dương Sinh: Ăn xong gạo Bồng Lai, chuột nghẹn ngào muốn khóc, giương đôi mắt tội nghiệp nhìn lên, lúc này chúng có thể mở miệng nói năng.

Tế Phật: Ta là Tế Phật, bữa nay hướng dẫn thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung tới đây phỏng vấn các ngươi.

Chuột Giáp: Cảm tạ đức Tế Phật đã ban cho chúng con gạo thiêng, cùng xin cảm tạ Dương Sinh. Vừa rồi ăn gạo thiêng xong, một luồng hơi ấm chạy mạnh trong cơ thể, trước phải ngẩng đầu nhìn lên, sau khôi phục lại được ký ức nên thấy rõ tiền kiếp, những hành vi kiếp trước hiển hiện trước mắt, kính xin đức Tế Phật cứu độ để con được về cõi cực lạc tây phương.

Tế Phật: Mấy hạt gạo Bồng Lai ngươi đã ăn hết rồi, sức của ngươi chỉ có thể bò lên tới nóc nhà, còn ngươi muốn bò lên tận thiên đàng không nổi vì sức có chẳng bao nhiêu. Mong ngươi kể rõ lại những hành động kiếp trước cho người đời được rõ, để lập công chuộc tội cùng cải đổi lốt chuột như ý mong cầu.

Chuột Giáp: Thưa vâng, song e rằng tả không hết nổi những tội ác khi xưa. Kiếp trước tôi ngụ tại Hương Cảng, không tội ác nào không phạm phải, chẳng lo làm ăn lương thiện, chỉ lo trộm cắp, cướp bóc, lường gạt, nhậu nhẹt, ăn hút. Về sau không đủ tiền hút, bèn nhập băng buôn thuốc phiện lậu, kiếm được rất nhiều tiền, ngoài ra còn cưỡng dâm ba thiếu nữ. Vì sống đời mê muội bất lương như vậy, nên luôn luôn sợ cảnh sát bắt bớ. Sau những ngày sống hoang đàng sa ngã, một bữa nọ nhậu nhẹt say sưa xong, gây sự đánh lộn với người, bị người giết chết, hồn phách tôi bị âm binh áp giải xuống địa ngục, lãnh án mười hai năm khổ sai do Diêm Vương xử. Mãn án phải đầu thai làm kiếp chuột đã được nửa năm, còn mấy thân quyến tôi kia, kiếp trước cũng hành động ác độc bất nhân. Làm thân chuột đời sống vô cùng mất tự do, ban ngày nằm ngủ, ban đêm mới dám hoạt động, lại còn phải lén lút tránh né, rất sợ cảnh sát, vì chỉ sơ hở một chút liền bị tóm cổ ngay.

Dương Sinh: Ở đây cũng có cảnh sát sao?

Chuột Giáp: Mèo đen cũng giống như cảnh sát giữ nhiệm vụ tuần thám trong nhà để canh chừng thực phẩm, hành tung của chúng tôi nếu như bị phát hiện mất mạng như chơi, chủ nhân nhà này nuôi một con mèo đen khiến chúng tôi sợ hãi muôn phần, những khi lấy lén đồ ăn đều kinh hồn táng đởm, đời sống hiện giờ vô cùng khổ sở, phải chui rúc những chỗ tối tăm mới tạm sống yên thân. Hối hận kiếp trước phạm nhiều tội ác khiến kiếp này chịu cảnh đọa đày thê thảm, mong người đời chớ phạm vào những lỗi lầm như tôi, để khỏi bị Diêm Vương tống giam nơi cảnh ngục tù đen tối, khổ đau này.

Dương Sinh: Con chuột thứ hai kia có thể kể lại hành động kiếp trước không?

Chuột Ất: Cảm tạ đức Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh, lòng tôi vô cùng bối rối, chẳng biết trình bày cách sao cho được chính xác. Kiếp trước tôi là kẻ sống bằng nghề cờ gian bạc lận, vì có thành tích lâu năm nên trở thành tay giang hồ khét tiếng, mở sòng bài, dùng đủ mọi thủ đoạn gian manh lừa bịp để chiêu dụ con bạc tới đánh. Các thương gia giàu có cùng các gái làng chơi sang trọng lần lượt bị lột sạch tiền bạc, của cải, tán gia bại sản. Về sau có một chúa đảng du đãng tới bắt đóng hụi chết cho y, tôi cự tuyệt chẳng chịu nộp tiền, vì vậy tôi bị hắn truy sát, nên sợ phải dời đi nơi khác. Từ đó đổi tên là đảng Kim Quang chuyên tính chuyện lường gạt, dùng một chàng thanh niên giả vờ muốn tìm bạn gái, rồi đứng làm trung gian kiếm các bà các cô có nhiều tiền giới thiệu là chàng đó giàu có lắm, khi cá cắn câu, kẻ đứng giữa tha hồ trục lợi. Cuối cùng tôi lại đem ngón nghề cờ gian bạc lận cũ ra lừa gạt phụ nữ, nhiều kẻ tham bị tôi lột sạch tiền bạc cùng nữ trang. Một đời chuyên sống nghề lừa gạt, tuy kiếm được nhiều tiền, song cũng ăn nhậu chơi bời hoang phí hết, thành ra sau một kiếp tỉnh lại cũng chẳng còn chi, chẳng được gì, tới năm bốn mươi hai tuổi bị ung thư bao tử thác. Sau khi chết âm binh tới áp giải xuống địa ngục, chịu đủ thứ hình phạt của thập điện Diêm Vương, ba tháng trước đây phải đầu thai làm kiếp chuột, tôi sống tại xó này, thật là khổ sở, khi ăn thì rình mò lén lút, lỡ thấy bóng mèo đen thì hồn vía lên mây. Biết vậy kiếp trước gắng làm người hiền lương thì đời nay đâu đến nỗi phải đày đọa khổ đau đến mức này.

Tế Phật: Kiếp trước không chịu hành động quang minh chính đại, nên kiếp này phải sống chui rúc nơi xó xỉnh tối tăm. Đời trước chuyên lừa đảo kẻ khác để giật tiền giật bạc, gây thù chuốc oán, cạnh tranh giành giựt, nên kiếp này bị mèo theo dõi canh chừng, khiến kiếm miếng ăn thực là khó khăn nguy hiểm. Đã không gắng làm người lương thiện, thì phải vui vẻ làm chuột hiền lành, trời cao vì biết rõ tính ngươi nên mới chuyển kiếp cho ngươi làm chuột, để ngươi thích ứng cùng hoàn cảnh, hãy tự trách mình chớ có trách người.

Dương Sinh: Thưa ân sư, tại sao lại coi là chuột lớn, mà không coi là chuột con?

Tế Phật: Tuy chúng nhỏ con song quá từng trải, quá lão luyện nên phải coi là chuột lớn. Bọn chúng kiếp trước chuyên ăn người, kiếp này coi là chuột vẫn chứng nào tật nấy, vẫn lấy lén của người để ăn mà sống, chẳng chịu tu tâm sửa tính, kiếp trước chẳng hiền lành, kiếp sau khó tránh khỏi nguy khốn. Đám chuột này ăn gạo Bồng Lai của ta, hi vọng kiếp tới được lên làm người. Dương Sinh chuẩn bị đi nơi khác để phỏng vấn loài chuột đồng.

Dương Sinh: Thưa ân sư đi tới đâu mới gặp được loài chuột này?

Tế Phật: Đến vùng quê Đại Nam, lên đài sen mau.

Dương Sinh: Thưa ân sư, con đã sẵn sàng.

Tế Phật: Hai thầy trò vừa lên đài sen thì trời bắt đầu đổ mưa, song nước mưa không làm ướt nổi pháp thân. Vì lượng nước đổ xuống nhiều, nên đồng ruộng ngập lụt, hoa màu hư hại, dân lành thống khổ, ta cảm xúc đọc năm bài thơ với tựa đề là khuyên đời để an ủi:

Quang âm thành dị thệ
Nhất khứ bất trùng lai
Tao thủ không ta thán
Vấn tâm độc cảm hoài
Thiếu niên như quá khách
Mộ cảnh diệc tham ai
Nhược bất tri tu tảo
Uổng tương bạch cốt mai.

Ngày tháng trôi biền biệt
Một đi không trở về
Vò đầu lòng tiếc nuối
Thổn thức dạ u hoài
Tuổi trẻ nay đã mất
Xế chiều giờ thảm thay
Chẳng lo tu sớm sủa
Xương trắng uổng chôn vùi.

Thế sự như xuân mộng
Hoàng lương bất cửu thời
Vô đoan tâm cảm khái
Bất liệu ý hưng bi
Ninh miễn lao khổ số
Nan đào đắc thất kỳ
Minh nhân năng cảm thử
Lập đức tác tư ky.

Việc đời như giấc mộng
Phú quý chẳng bền lâu
Vô cớ tâm hưng khởi
Chẳng dè ý chuốc sầu
Thăng trầm nếu tránh được
Cái chết có chừa đâu
Người trẻ hiểu lẽ đó
Ruộng đức lo cày bừa.

Thiên địa nhất nghịch lữ
Nhân sinh nhược thủy lưu
Đông tây thùy dự liệu
Nam bắc bất trường do
Phú quý hoa gian lộ
Vinh hoa thủy thượng âu
Hà tu đồ bách kế
Lao lực cách chiêu vưu.

Trời đất vốn không thuận
Kiếp người như nước trôi
Đông tây nào liệu được
Nam bắc chẳng còn hoài
Phú quý sương trên lá
Vinh hoa chim đậu bay
Cho nên lo lắm chuyện
Mệt sức chẳng hay gì.

Khám phá thế tình sự
Tự nhiên vạn lự san
Đả khai danh lợi tỏa
Khiêu xuất sinh tử quan
Thương hải thôi tằng
lãng Cô phong tủng diệp sơn
Trường thành Tần đế diểu
Di thính thủy sàn sàn.

Tình đời thấu tỏ được
Nỗi khổ tự tan tành
Đập bể cùm danh lợi
Vượt ngoài cũi tử sinh
Biển xanh sóng lớp lớp
Núi thẳm lớn mông mênh
Mờ mịt thành Vạn Lý
Chỉ nghe nước cuốn quanh.

Sa bàn tàng cẩm tú
Vô tự diệc thành văn
Khấp quỷ kinh hào sĩ
Kính thần phục sứ quân
Hiền năng tham chuyết nhậm
Phụng điểu xuất kê quần
Thành tựu bất phàm khách
Danh thùy bách thế luân.

Đàn cơ giấu gấm vóc
Không chữ cũng thành văn
Quỷ khóc người kinh hãi
Thần mừng và thánh khen
Kẻ hiền cùng dự khán
Chim quý khác gà đàn
Xuất chúng mới nên việc
Tiếng thơm vạn kiếp còn.

Ngâm xong bài thơ khuyên đời thì chúng tôi tới huyện Đài Nam phỏng vấn chuột ở trong các hang hóc ngoài đồng ruộng, cùng tìm hiểu sự sinh hoạt của chúng.

Dương Sinh: Ruộng ở đây quá trũng.

Tế Phật: Gặp khi mưa lớn ngập đầy nước.

Dương Sinh: Thưa, tìm hang chuột ở đâu?

Tế Phật: Không cần tìm xem chuột ở đâu vì mắt Phật của thầy liếc qua biết ngay chúng hiện ở chỗ nào rồi, bên cạnh đống đá kia chắc chắn có hang chuột.

Dương Sinh: Nhãn lực của ân sư quả là tinh, bên đống đá có hang chuột song con không thấy chuột động đậy.

Tế Phật: Có hai con chuột ẩn sâu trong hang, để thầy ban pháp Phật, chúng ắt bò ra: “Chuột ơi! Chuột ơi! Dù ngươi đã ăn đủ loại hoa màu của nhà nông, nhưng chẳng có thứ nào ngon bằng cá tươi, bữa nay ta bắt hai con cá sống tặng ngươi, hãy mau ra đây nhận đi còn không ta thả nó thì tiếc lắm đấy”.

Dương Sinh: Ân sư hóa phép, trong tay có liền hai con cá tươi còn giãy đành đạch, và ném ngay vào miệng hang, chuột ngửi thấy mùi tanh, hai mắt lấm la lấm lét nhìn, con nọ nối đuôi con kia bò ra, chúng chỉ ngó mà chưa dám vồ.

Tế Phật: Hai con chuột mật nhỏ kia ơi, thấy cá sống miệng thèm chảy nước miếng song cớ sao còn sợ hãi không dám vồ lấy ăn. Đã dụ được chuột ra khỏi hang, ta thả cá về nước, chỉ cho chuột ăn gạo Bồng Lai để chúng khỏi phạm giới sát sanh. “Nước trong cá hiện, nước đục cá mất, trước mắt chỉ còn thấy gạo tiên Bồng Lai, thôi ăn đi”.

Dương Sinh: Ân sư đọc xong lời chú, hai con cá tự nhiên biến mất, chỉ thấy hai nắm gạo ở miệng hang, hương thơm xông vào mũi, chuột thèm quá liền ăn lấy ăn để. Lông chúng ướt đẫm, bụng chúng đói meo.

Tế Phật: Mưa lớn mấy ngày liền, ẩn trong hang để tránh mưa, không dám bò ra ngoài kiếm đồ ăn, do đó bụng đói cồn cào, giờ ăn no gạo lát nữa chúng sẽ thoát thai hoán cốt phục hồi linh quang, Dương Sinh có thể phỏng vấn.

Dương Sinh: Chuột vội vàng ăn hết hai vốc gạo xong liền mê đi, một phút sau thân động đậy, dần dần tỏ ra khỏe khoắn, có thể mở miệng nói năng.

Chuột Giáp: Cảm ơn hai vị ân sư đã ban cho tôi thuốc hoàn hồn linh diệu.

Tế Phật: Ta là Phật Sống Tế Công, còn người kia là trò ngoan của ta tức thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, hai thầy trò ta phụng chỉ trước tác sách Luân Hồi Du Kí. Bữa nay đặc biệt tới đây phỏng vấn các ngươi, vừa rồi ta ban gạo tiên, ăn xong các ngươi liền thoát thai hoán cốt, khôi phục linh quang, như vậy là các ngươi có phước lớn. Mong các ngươi hãy thuật rõ lại những hành vi ác đức của kiếp trước cho Dương Sinh hay, để chép vào sách hầu khuyên răn người đời, làm như vậy là các ngươi tạo công chuộc tội, ngày sau có thể chuyển kiếp làm người.

Chuột Giáp: À thì ra nguyên nhân là như vậy thực quá cảm động. Hồi nãy vợ chồng tôi ở trong hang, đột nhiên ngửi thấy mùi tanh vì bụng đói nên miệng quá thèm, trời mưa lớn mấy bữa liền, hang bị ngập nước, chúng tôi ở trong hang tưởng là sẽ bị chết vì nước ngập, song may mắn thoát nạn. Đang lúc bị cơn đói rét hành hạ, lại ngửi thấy mùi cá tươi ngon lành, khiến bụng càng cảm thấy đói hơn, do đó vợ chồng tôi rủ nhau ra xem, vừa ló đầu ra ngoài miệng hang thấy hai con cá còn sống đang cựa quậy, chúng tôi có chút e dè nên không dám nhào tới vồ lấy ăn. Lát sau cá biến mất lại thấy hai nắm gạo hương thơm xông vào mũi, cầm lòng chẳng đặng, do đó vội vàng ăn lấy ăn để. Suốt đời chưa hề bao giờ được ăn thứ gạo ngon như vậy, sau khi ăn no đột nhiên thấy thân mình nóng hực, đầu óc mê mẩn có cảm giác nghẹt thở, rồi lần lần cảm thấy thân thể nhẹ nhàng, nhớ lại được hết những chuyện của kiếp trước, nghe lời pháp của đức Tế Phật dạy mới rõ đó là sự thực.

Tế Phật: Các ngươi bình thường chỉ bò ra khỏi hang, lượm những thức vương vãi của nhà nông ăn, còn loại gạo Bồng Lai ta đã dùng lửa tam muội rang, chỉ để dành cho những ai tu đạo mới được ăn nên các ngươi nhờ ăn gạo này mà được thoát thai hoán cốt, vậy hãy mau thuật hết lại những chuyện kiếp trước.

Chuột Giáp: Kiếp trước chúng tôi là vợ chồng, lúc còn trẻ đã mở động mại dâm chuyên dụ dỗ con gái nhà lành vào đường tội lỗi cùng bán gái vị thành niên cho khách làng chơi. Vợ tôi lại vốn là gái vui đâu chầu đấy, hoang đàng hư thân mất nết, còn tôi thì ham ăn biếng làm thật là xứng đôi vừa lứa nên đã thành duyên chồng vợ, chung sống dưới một mái nhà, cùng mở ngôi hàng buôn phấn bán hương gây ra những tội ác rất ư lịch sử. Đồng tiền bất lương chẳng giữ được lâu, cuối cùng thân mang bệnh, mới đầu tôi bị trúng gió, tay chân cứng đờ, vợ tôi ngựa quen đường cũ, đích thân đem thịt mình bán giữa chợ đời để kiếm tiền nuôi miệng cùng mua thuốc men, cảnh sống ngặt nghèo này tới một lúc không chịu đựng nổi thì vợ tôi ngã bệnh nặng, chẳng còn bán mình nổi nữa, cả tinh thần lẫn thể xác đều vô cùng đau đớn.

Một bữa cả hai chúng tôi đều uống độc dược quyên sinh, thi thể bị bỏ quên trong căn phòng nhỏ hơn mười ngày đã sình thối người ta mới khám phá ra và đem đi chôn. Vợ chồng tôi một đời hại người quá nhiều, việc kinh doanh chuyên dùng thủ đoạn gian manh cùng lường gạt tiền bạc của bao kẻ khác, nên phải xin làm kiếp chuột để trả quả muôn phần thê thảm này. Sau khi chết âm binh áp giải xuống địa ngục chịu nhiều hình phạt đớn đau. Song chúng tôi còn phải đầu thai làm chuột ba kiếp liền, trốn chui rúc trong các hang nhỏ hẹp tối tăm, không hề thấy ánh mặt trời, nhiều khi còn bị rắn độc xâm nhập, nước lớn tràn vào. Để có thức ăn thường phải lén bò ra khỏi hang thâu lượm thóc lúa, hoặc ngô đậu rơi vãi ngoài đồng một cách rất ư là cực khổ. Người đời được sống giàu có sung sướng phải tự biết quý trọng giữ gìn cẩn thận, chớ để mất nó, vì hình phạt ở âm phủ khổ cực muôn phần, lại bị chuyển kiếp đầu thai làm loài thú, phải lén lút đánh cắp thực phẩm để ăn, khó mà sống nổi, chẳng may ăn phải bã của nhà nông, lỡ trúng độc kiếm đâu ra thầy thuốc, chỉ có chết mà thôi, như vậy đời sống vô cùng bấp bênh, mạng sống hết sức mỏng manh. Người đời sống nơi cửa cao nhà rộng, ăn mặc dư thừa, hoang phí quá nhiều, so sánh với loài chuột quả là khoảng cách giữa vực thẳm cùng trời cao.

Tế Phật: Chuột là loài phá hoại xã hội, chuột đồng phá hoại mùa màng của nhà nông, tục ngữ có câu: “Chuột đồng qua đường người người kêu đánh”. Ai bảo các ngươi kiếp trước không ăn ngay ở thẳng, để kiếp này phải chịu quả báo, chỉ nên tự trách mình lầm lỗi. Rất may bữa nay được ta ban gạo tiên kiếp tới đầu thai lên làm người, phải nhớ kỹ là chớ đi đường tối ám quanh co nhỏ hẹp, mới mong tránh khỏi lại bị sa xuống hang này lần nữa.

Chuột Ất: Xin cảm tạ đức Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh, bữa nay đã ban ân huệ cho vợ chồng chúng tôi, những lời vàng ngọc khuyên nhủ đã thấm sâu vào tủy, kiếp sau nguyện lạy Phật tu hành để đền đáp công ơn hai vị.

Tế Phật: Đã thành tâm hối cải, chúc hai ngươi phản bổn hoàn nguyên, từ kiếp chuột được đầu thai làm kiếp người chính trực, ta sẽ tới hóa độ cho.

Dương Sinh: Cớ sao người ta lại gọi những kẻ hèn nhát là loài chuột?

Tế Phật: Vì kiếp trước chuột là loài người mật to gan lớn, chuyên làm chuyện bất nhân ác đức, nên sau khi chết bị đày xuống địa ngục, ngoài việc chịu hình phạt nặng nề lại còn phải đầu thai làm kiếp chuột hèn hạ nhát gan, thấy mèo và người liền lẩn tránh, đã chôn vùi tính thích dương oai diễu võ của kiếp trước, quả là trời xanh đã trừng phạt chúng. Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn ở đây, Dương Sinh lên đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#18 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 09:50

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI MƯỜI MỘT

BÒ SỮA BÒ THỊT NGHIỆP MANG TỪ KIẾP TRƯỚC

QUÊN THÂN NUÔI NẤNG NỢ NẦN NÀO TRẢ ĐỦ

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 22 tháng 8 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Tuế nguyệt như thoa hựu nhất thu
Lương phong tống ý thân phi cựu
Phong y túc thực cư an lạc
Phú quý nhưng tu đạo đức cầu.
Ác tác phi vi tự mã ngưu
Phi mao phụ thể thán vô tư
Nhiệm nhân tể sát không hoài oán
Lộ nhũ trình tư đọa hạ lưu.

Dịch

Ngày tháng thoi đưa đã tới thu
Thân mang áo lạnh loại da cừu
Dư ăn dư mặc đời nhàn hạ
Giàu có phải lo đạo đức tu.
Gian manh lừa đảo giống trâu bò
Lông mọc đầy mình bởi chẳng tu
Sống chết do người không oán hận
Khỏa thân nhảy múa tội càng to.

Tế Phật: Mùa thu đã trở về lòng cảm thấy lành lạnh, chúng sinh phần lớn đã mặc thêm áo ấm, rồi khi đông tới có áo da cừu, áo lông đều phải đem hết ra mặc, có khi còn lấy cả da bò, lông dê để bảo vệ cơ thể cho ấm áp, như vậy sự chống lạnh của người cũng giống tựa bò dê vậy. Thân xác người rét mướt há lại chẳng phát tâm yêu thương nồng ấm được sao? Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh tới một nơi để được thấy tận mắt cảnh đời của bò.

Dương Sinh: Thưa, con đã lên đài sen, kính mời thầy khởi hành...

Tế Phật: Đã tới nơi.

Dương Sinh: Bữa nay ân sư hướng dẫn con tới chốn này, mùi tanh tưởi xông lên nồng nặc, căn nhà này trong ngoài chất đầy từng đống từng đống những thứ gì thế kia?

Tế Phật: Đây là xưởng thuộc da thú, sau khi bò bị giết, lấy da thuộc để làm giầy da, áo da, bao da, túi da, mũ da, bao tay da để bán cho khách hàng mua về dùng.

Dương Sinh: Da bò thực quả có nhiều công dụng.

Tế Phật: Vì da bò dày.

Dương Sinh: Thưa ân sư tại sao da người còn cần phải có da bò bảo hộ?

Tế Phật: Da bò vốn do da người biến hóa ra, không tin thầy sẽ hướng dẫn con tới lò giết bò con sẽ rõ.

Dương Sinh: Thưa vâng.

Tế Phật: Lên đài sen, thầy sẽ hướng dẫn con tới lò giết bò ở Đài Bắc... (khoảng cách không xa, chỉ tíc tắc đã tới nơi).

Dương Sinh: Mùi máu tanh tưởi xông lên, có cảm giác chỉ muốn ói mửa, nhìn qua cửa thấy rất nhiều bò, phải chăng chúng đang đợi tới phiên mình bị giết?

Tế Phật: Đúng vậy, lũ bò đó người ta sắp đem giết.

Dương Sinh: Chúng giống loài bò thịt.

Tế Phật: Chúng được trại chăn nuôi, nuôi làm bò thịt. Để thầy điểm hóa xong, con có thể phỏng vấn chúng. “Bò thịt ơi! Bò thịt ơi! Đứng đó đợi người ta giết, khổ đau chất nặng, lệ chảy khôn ngăn, ai bảo ngươi kiếp trước giết chóc quá nhiều, da mặt mi quá dày, chẳng kể luân thường đạo lí, dao cắt rồi dao cắt, thịt rơi rồi thịt rơi, thời cơ đã tới, ta điểm hóa cho ngươi, mau kể hết hành vi kiếp trước để làm gương khuyên đời”.

Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, bữa nay cùng ân sư Tế Phật phụng mệnh viết sách Luân Hồi Du Ký, hi vọng ngươi thuật rõ lại hết nguyên nhân kiếp trước để làm tài liệu cảnh tỉnh thế gian, để khuyên răn người đời.

Bò Giáp: Vừa rồi được đức Phật Sống Tế Công điểm hóa, đột nhiên tỉnh thức, nhớ rõ kiếp trước, không dám nhìn lại kiếp này. Kiếp trước tôi sinh ra trong một gia đình giàu có, từ bé được cha mẹ chiều chuộng nên hư thân mất nết, vì tiền bạc dư thừa, tập tành thói quen cờ bạc say sưa, khi sa ngã quá, cha mẹ bất bình thường chửi mắng, tôi giận bỏ nhà đi, nhập băng du đãng, chuyên nghề trộm cướp. Một bữa giật tiền của khách đi đường, họ tri hô, tôi liền rút dao đâm vào ngực họ ba nhát, rồi cầm tiền chạy mất dạng, vì vết thương quá nặng, nạn nhân tắt thở tại bệnh viện. Cướp được món tiền đó xong, tôi vừa mừng vừa lo, thường lui tới các quán nhậu nhẹt say sưa cùng kiếm nơi hút cần sa ma tuý, còn tiền bạc tôi đem lại gởi nhà một người bạn gái. Một bữa nọ, tại sòng bài tôi huênh hoang khoe chuyện cướp tiền, bị kẻ khác mật báo với nhà chức trách, liền bị cảnh sát bắt giải tòa, lãnh án tử hình để đền tội, quỷ vô thường hắc bạch đã tới chờ sẵn, để áp giải tội hồn tôi xuống địa ngục cho Diêm Vương trừng trị, và khi ra đối chất với nạn nhân, tôi vô phương chối cãi. Sau ngày mãn hạn tù khổ sai tại địa ngục, tôi còn bị đầu thai làm loài bò thịt liền ba kiếp, kiếp này mới là kiếp thứ hai. Bà con của nạn nhân thường thích ăn thịt bò, kiếp rồi sau khi tôi bị giết, họ ra chợ kiếm mua thịt gặp ngay thịt tôi, họ liền mua về xào nấu ăn thật ngon lành, quả là phải trả nợ thịt cho kẻ bị hại.

Dương Sinh: Nhân quả báo ứng thật là chẳng thể bàn luận. Theo như lời trình bày của ngươi thì phải lấy thịt mình đền khổ chủ, song sức ăn của họ có hạn, mà xác bò thì lại quá to, nên phải để cho nhiều kẻ khác cùng ăn mới hết nổi, vậy thì theo ngươi trường hợp sau có liên hệ tới luật nhân quả không?

Bò Giáp: Người nhà nạn nhân ăn không hết thịt tôi, do đó đồ tể mới bán thêm cho kẻ khác, chính ra thì một người làm ác, muôn nhà đau lòng. Song trường hợp này thì khác hẳn, họ sung sướng lúc nhai thịt tôi, giống như là được quyền thay thế nạn nhân rửa hận vậy.

Dương Sinh: Đúng vậy, đúng vậy, những người ăn thịt ngươi chính là giúp ngươi giải trừ ác nghiệp, không những vô tội mà lại còn có công nữa.

Tế Phật: Nếu vậy thì chẳng hóa ra là khuyến khích người đời sát sinh sao? Người tu đạo phải kiêng ăn thịt. Còn như muốn giúp loài vật giải nghiệp, phải lấy lượng từ bi mà đối xử. Người tu đạo không giết loài vật để lấy thịt ăn, thường niệm Phật tu hành, luôn mở rộng lòng thương xót cầu cho những kẻ phạm tội cùng các loài cầm thú được giải hết oan nghiệp. Có như vậy thì những loài sinh vật khác ở trần gian mới được loài người giúp đỡ giải thoát có phương pháp, không những loài vật được giải tội mà tính linh còn được giác ngộ, sớm có ngày hết khổ đau. Còn vô tình ăn phải thịt những con vật có tội, phải ban ân làm phước giúp nó siêu thăng, tuyệt đối không được ăn không. Ăn một miếng thịt là có một phần trách nhiệm cứu đó, tục ngữ có câu: “Ăn nhân trả quả” đó là nguyên tắc hết sức công bằng, cho nên những kẻ thích ăn ngon, ham ăn thịt hãy suy nghĩ rồi tùy tâm lựa chọn. Còn như ăn rau trái do khí tinh anh của trời đất nuôi dưỡng không phải gánh trách nhiệm siêu độ chúng. Trái lại ăn thịt những loài động vật có tính linh thì phải giúp nó siêu thăng, vì nó đã hiến dâng thân xác cho mình ăn và sống, mới gọi là đối xử với nhau một cách công bình. Bởi lẽ hãy ăn một miếng thịt người thử coi, hẳn là phải đền tội ngay lập tức, huống hồ động vật, thân thể bị lóc da xẻ thịt, nếu như chúng biết nói tiếng người thì những kẻ ham ăn thịt chúng hẳn là nghe rõ những lời nguyền rủa đắng cay của chúng.

Dương Sinh: Giá thịt không quá mắc, mọi người đều có thể mua về ăn.

Tế Phật: Nếu mọi người ăn thịt đều biết có trách nhiệm siêu độ thì cũng là điều hay lắm.

Dương Sinh: Lời dạy của ân sư quả là chí lí. Xin hỏi lại bò, bị đầu thai làm kiếp súc sinh như thế này, bò có cảm tưởng thế nào?

Bò Ất: Bò thịt được nhàn nhã, không giống như bò cày ruộng, phải tắm nắng dầm mưa, đánh đập chửi mắng, song không phải chỉ nuôi trong vòng một năm là bị đem đi giết như bò thịt, tôi nghĩ làm bò cày ruộng tuy khổ cực thân xác nhưng được sống lâu hơn.

Tế Phật: Bò cũng nghĩ tới chuyện sống lâu, kể thì trời xanh cũng xử với các ngươi công bình, không phải kéo cày nặng nhọc, chỉ cần hiến dâng thân xác cho người ta ăn thịt thì cũng là làm việc thiện rồi đấy.

Bò Ất: Đức Tế Phật nói rất nhẹ nhàng mát mẻ, xin ngài hãy dùng thử một miếng để gọi là lưu lại một chút tình.

Tế Phật: Ta ăn chay đã lâu rồi, chẳng thể ăn nổi một miếng thịt đâu, sợ lắm!

Bò Ất: Nếu như đức Tế Phật ăn thịt con thì quả là phước đức, ngài ăn một miếng thịt con, con sẽ đeo dính ngài, để ngài đưa con về cõi tây phương cực lạc. Còn như người thường ăn thịt con, gặp kẻ đầy trược khí, thì thật là bất hạnh quá. Con muốn có chút công đức mà cũng chẳng được nào!

Tế Phật: Lành thay! Lành thay! Ngươi đã có lòng vì đạo, thay vì ăn thịt ngươi ta nhổ mấy sợi lông của ngươi, ngươi muốn được ta ban ân đức thì sẽ trợ điển để tính linh của người được trở về nguồn cội, sớm có ngày siêu thăng.

Bò Ất: Cảm tạ đức Tế Phật đã đoái thương con xin ngài hãy nhổ lông con.

Tế Phật: Ngươi chẳng sợ đau sao?

Bò Ất: Cắn răng chịu đựng, muốn có công đức thì phải kiên gan.

Tế Phật: Được rồi, nhổ của ngươi mấy sợi lông, sẽ ban cho ngươi trăm phần công đức.

Dương Sinh: Người đời thường nói: “Nhiều như lông bò” câu nói đó có ý nghĩa gì?

Tế Phật: Nghĩa là vô giá trị. Dương Sinh hãy tiếp tục phỏng vấn đi.

Dương Sinh: Xin hỏi tại sao ngươi lại đầu thai làm kiếp bò?

Bò Ất: Kiếp trước tôi có tính lẳng lơ trăng gió, ngay lúc còn ngồi ghế nhà trường tôi thường có những hành động khiếm nhã đối với bạn gái cùng lớp, và thường hay chọc ghẹo gái đi đường, nhiều khi còn xâm phạm tiết hạnh phụ nữ một cách trắng trợn chẳng sợ kẻ khác nhòm ngó. Vì mẹ tôi mất sớm cha tôi lại tục huyền, mẹ kế tôi có tính lang chạ khi đó tôi lại là một chàng thanh niên đẹp trai học giỏi, mẹ kế liền đem lòng thèm khát luôn luôn gạ gẫm tôi. Tới khi cha tôi có công chuyện phải đi xa vắng nhà nhiều ngày, mẹ kế nhân cơ hội này đã quyến rũ tôi đi vào con đường tội lỗi. Tánh tôi vốn hiếu sắc đã từ lâu có ý ham muốn cho nên tôi đã phạm tội loạn luân. Rốt cuộc cha tôi hay được vô cùng phẫn nộ, song tôi bề ngoài làm ra vẻ ăn năn hối cải tuân theo lễ giáo nhưng bên trong vẫn chứng nào tật nấy, tiếp tục lén lút làm việc tồi bại. Sau khi chết xuống âm phủ, vì phạm tội gió trăng dâm đãng, làm nhục phụ nữ, đảo lộn luân thường đạo lý cùng gian dâm với mẹ kế, nên bị Diêm Vương trừng phạt nặng nề. Sau khi mãn hạn phải đầu thai làm kiếp gà hai đời, bò hai đời, hiện tại đang làm kiếp bò thứ nhất... Tôi rất hối hận kiếp trước làm người không biết lễ nghĩa, liêm sỉ, ngũ luân, bát đức cho nên phải đầu thai làm kiếp súc sinh.

Tế Phật: Da ngươi dày, ngươi không có liêm sỉ, làm chuyện phản bội luân thường đạo lý xấu xa, lông mọc đầy mình, giống loại người rừng rú dã man, cho nên kiếp này phải đầu thai làm bò, da của ngươi còn bị thuộc làm da giầy, để cho người chà xát tiêu trừ tội nghiệp của ngươi.

Bò Ất: Kính xin đức Tế Phật cứu độ con, để con được đầu thai làm người, con xin giữ luân thường đạo đức, là kẻ tốt lành, không dám sai chệch một li.

Tế Phật: Ngươi đã thành thực khai rõ hết tội kiếp trước, kể đã có công, ban cho ngươi kiếp tới được đầu thai lên làm người. Nay được Tam Tào phổ độ, luân hồi kiếp thú khổ sở muôn phần, cho nên mới phải trước tác sách Luân Hồi Du Ký để răn đời tạo công đức, thoát vòng luân hồi súc sinh khỏi khổ. Người đời nếu như phạm tội hành động súc sinh, hoặc sát sinh quá nhiều, hoặc nhiều kiếp oan nghiệp cũng cần ấn tống sách này để khuyên đời, lo công đức thật nhiều để siêu độ cho các loài cầm thú hầu tiêu trừ tội lỗi. Như trong lò thịt, người ta cũng còn bày bàn thờ vong những con vật bị giết để mồng một, ngày rằm cầu siêu cho chúng, đó cũng là điểm biết tới lẽ đạo vậy. Kẻ sát sinh lo siêu độ hồn cầm thú, người ăn thịt chúng cũng có trách nhiệm. Thầy trò mình tới nơi khác phỏng vấn bò sữa để nghe chúng kể lại chuyện kiếp trước.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường...

Tế Phật: Đã tới nơi.

Dương Sinh: Thưa đây là chốn nào mà phía trong nuôi quá nhiều bò sữa?

Tế Phật: Đây là trại nuôi bò sữa thuộc Đài Bắc, chúng ta hãy vào trong phỏng vấn mấy con bò bị vắt sữa.

Dương Sinh: Thưa ân sư, phỏng vấn bằng cách nào?

Tế Phật: Để thầy điểm hóa chúng trước “Bò sữa ơi, mi sản xuất sữa để cho người đời uống, công đức vô biên, mau mau tỉnh dậy nói rõ chuyện tiền kiếp của ngươi”.

Dương Sinh: Sau khi được ân sư điểm hóa, quả nhiên bò sữa mở miệng nói liền.

Bò Bính: Hai vị là ai, tại sao bữa nay lại tới làm rộn chúng tôi?

Tế Phật: Ta là Tế Công còn người kia là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, bữa nay thầy trò ta phụng chỉ viết sách Luân Hồi Du Ký để khuyên răn người đời, ngươi hãy mau thuật lại những hành vi kiếp trước để tạo công chuộc tội, hầu kiếp tới được đầu thai lên làm người.

Bò Bính: Thưa, thì ra đây là đức Phật Sống Tế Công, đã điểm hóa cho con, nhờ vậy mà con mới nhớ lại hết được những hành vi kiếp trước con đã làm. Để lập công chuộc tội, con xin đem những việc đã làm của kiếp trước kể lại để người đời được rõ. Kiếp xưa, tôi sinh tại Hoa Kỳ sống bằng nghề vũ khỏa thân cho khách coi, khách ngồi coi lòng thích thú, mắt trợn trừng, miệng há hốc vỗ tay hoan nghênh. Sống cuộc đời như vậy tới năm bốn mươi lăm tuổi mới chuyển nghề buôn hột xoàn, song đời sống vẫn hoang đàng bừa bãi sa đọa chẳng hề lo làm ăn lương thiện. Sau khi chết hồn bị đày xuống địa ngục, vì phạm nhiều luật của thượng đế ngăn cấm, phải chịu nhiều hình phạt khắc nghiệt, ngoài ra còn bị đầu thai làm kiếp bò sữa, đó là ác nghiệp của kiếp trước mà kiếp này tôi phải trả.

Dương Sinh: Tại sao ngươi lại bị chuyển kiếp đầu thai làm bò sữa, mà không đầu thai làm loài khác?

Bò Bính: Vì kiếp trước làm người tôi thích phô bày thân thể nên khi chết bị đầu thai làm bò sữa. Vì kiếp trước chẳng chịu dùng nó nuôi dưỡng trẻ thơ, nên kiếp này phải làm bò sữa để chủ nhân vắt nặn sữa cho trẻ con bú, cùng chế thành sữa đặc và bơ... cho người lớn ăn, tất cả đều do nghiệp quả tội lỗi kiếp trước gây nên.

Dương Sinh: Luật chuyển kiếp đầu thai này chính hợp với lòng ưa thích của ngươi ở kiếp trước sự sắp đặt của tạo hóa hiện nay thật quá siêu diệu. Giờ đây phải làm kiếp bò sữa, cảm tưởng của ngươi ra sao?

Bò Bính: Tôi rất hối hận vì kiếp trước đã gây nghiệp, chuyên thoát y khiến tâm thần nam giới dao động, sinh tật dâm đãng hành động tà dâm, thực quả đã phá hoại đạo đức thánh hiền không nhỏ, tội quá lớn. Bò sữa nuôi có nhiều sữa để chủ nhân vắt đem bán, còn bò chẳng được hưởng chút lợi nhỏ nào. Những lúc vú căng chủ chưa kịp vắt vô cùng khó chịu, sau khi vắt rồi cảm thấy rất dễ chịu. Song tự biết mỗi ngày tôi một già, tới lúc vú teo không còn sữa nữa chỉ sợ bị bán cho lò thịt, tôi chỉ biết cày bừa không biết thu hoạch nên chẳng được gì, số kiếp thật là thảm thay.

Dương Sinh: Bò sữa ơi, hãy thuật lại nhân quả kiếp trước của ngươi xem như thế nào đi?

Bò Đinh: Được nghe đồng bạn tự thuật về hành vi kiếp trước, tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng. Kiếp xưa tôi là gái chuyên hành nghề vũ khỏa thân, bỗng nhiên chính phủ ra lệnh cấm, nên cảnh sát lùng bắt gắt gao, do đó chỉ còn trổ nghề lén lút, về sau xin được việc làm tại một hộp đêm có giấy phép thoát y hầu rượu, ngồi gần khách để cho khách mua vui đùa giỡn. Vì ăn ở với nhiều thương gia nên đã phá hoại hạnh phúc gia đình của họ, tạo nhiều tội lỗi. Tới khi chết hồn bị đày xuống âm phủ, Diêm Vương ra lệnh chuyển kiếp đầu thai làm bò sữa. Giờ đây có hối cũng không kịp.

Tế Phật: Đó là lẽ thường tình, kiếp trước lợi dụng nhũ hoa kiếm tiền, kiếp này hiến dâng nó cho chủ nhân vắt sữa bán kiếm lời, đó là luật nhân quả báo ứng vậy.

Dương Sinh: Bò sữa cung cấp bơ sữa cho loài người ăn uống cùng nuôi trẻ thơ hẳn là chúng có công.

Tế Phật: Bọn chúng đã làm điều thiện lành để đền tội kiếp trước. Kiếp này chúng phải nuôi người để tạo công đức chuộc lại lỗi lầm, do đó người đời không được coi thường chúng, chúng là ân nhân của trẻ thơ, những điều vừa nói chỉ là luật nhân quả mà thôi.

Dương Sinh: Trẻ thơ hiện thời phần lớn không bú sữa mẹ mà chỉ bú sữa bò, nguyên nhân tại sao?

Tế Phật: Phụ nữ ngày nay muốn giữ thân hình đẹp đẽ, sợ rằng cho con bú bộ ngực sẽ xấu đi, nên chỉ nuôi con bằng sữa bò. Cũng may những kẻ thích đầu thai làm kiếp bò ngày một đông, nên mới có thể cung cấp đủ nhu cầu dùng bò sữa hiện thời đòi hỏi.

Dương Sinh: Thưa có phải vú bò đều do những loại đàn bà vừa kể trên chuyển kiếp hóa thành không?

Tế Phật: Phần lớn đúng. Phàm những phụ nữ mặc áo hở ngực, để lộ cặp nhũ hoa, cùng những tài tử đóng phim khỏa thân đã làm tổn thương phong hóa, khích động dâm tính phá hoại đạo đức, biếng nuôi nấng con cái đều bị chuyển kiếp làm loài bò sữa.

Dương Sinh: Trẻ con nuôi bằng sữa bò, lớn lên nhiễm tính bò, không hiếu thảo với cha mẹ. Biết làm sao cải thiện đây.

Tế Phật: Cuộc thế đổi thay, đạo hiếu thảo ở các nước ngày một suy đồi, việc uống sữa bò phải hết sức thận trọng, tha thiết khuyên những bà mẹ phải dùng sữa mình để nuôi con, có như vậy mới gây dựng nổi tình mẫu tử thiêng liêng, vì sữa người mang tính người, sữa bò mang tính bò. Đạo hiếu thảo cổ kim khác biệt nhau rất xa, quan trọng rất lớn. Mong các bà mẹ trên đời tỉnh ngộ, trời xanh ban cho mình hai bầu sữa, thiên chức sinh sản để tiếp nối đời sau, nuôi nấng con cháu, nên không được coi thường thiên chức cao quý đó, không được sống thiếu đạo đức, ngược lòng trời. Phải dùng sữa mình nuôi nấng con thơ, cách dinh dưỡng này rất quan trọng vì nhờ nó mà tình mẹ thương con thiêng liêng cao cả mới có thể duy trì và phát huy nổi. Bữa nay tạm kết thúc cuộc phỏng vấn ở đây, Dương Sinh hãy mau lên đài sen.

Dương Sinh: Thưa con đã sẵn sàng, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#19 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 09:54

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI MƯỜI HAI

VỚI NGƯỜI SÚC VẬT KHÁC LOÀI NHƯNG CHUNG TÍNH

LEN ẤM CHE THÂN PHẢI NHỚ ĐẾN ƠN CỪU

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 12 tháng 9 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Đạo đức tu lai phúc đặc đa
Tam dương khai thái xướng sơn ca
Nhân nhân hoan lạc gia viên mãn
Thế giới đại đồng hãi tinh ba.
Súc đạo luân hồi thụ khổ ma
Nhậm nhân tiên đả lệ bàng đà
Khán lai hoàn thị vi nhân hảo
Tự tại tiêu dao niệm Phật Đà.

Dịch

Đạo đức lo tu họa mới yên
Thái hòa ba cõi nhạc vang rền
Người người vui sướng nhà êm ấm
Nhân loại đại đồng sóng biển êm.
Đầu thai kiếp thú khổ muôn vàn
Đánh đập bởi người lệ chứa chan
Ngẫm kỹ làm người mà lại quý
Tiêu dao tự tại niệm Quan Âm.

Tế Phật: Sự cách biệt giữa kiếp thú và kiếp người có thể so sánh cùng vực thẳm với trời cao. Văn minh hiện đại đề cao đời sống con người, loài vật được thương yêu, các giống chó quý đều được những người có tiền nuôi nấng săn sóc vô cùng chu đáo. Song nhìn chung loài vật vẫn ở mức thấp hơn người, bị người cai quản, sự sống chết của loài người do loài người định đoạt, còn loài vật thì bị loài người khống chế, nên chúng thường bị người giết thịt, đó là chỗ loài người thắng loài vật. Mong người đời bảo vệ thiên chức được làm người của mình, để tránh khỏi có những hành vi giống loài cầm thú, vì những kẻ phạm tội sẽ bị đánh đập, đày ải, xử tử hết sức kinh hoàng, bị coi ngang hàng với thú vật, bị tước đoạt quyền làm người. Từ khi trước tác sách Luân Hồi Du Ký đến nay, những ai đọc được đều giật mình tỉnh thức, kẻ ác tâm nhìn thấy vỡ mật, người lương thiện nhìn thấy lòng kính nể chẳng dám đi vào đường tà, sách này có tác dụng khuyên răn đời, tỉnh thức đời, giác ngộ đời, mong người đời chớ cho là tầm thường.

Dương Sinh: Thưa có người hoài nghi cho là loài vật và loài người không liên hệ chi hết, thì làm sao bàn luận với họ được? Họ nghĩ loài vật chỉ là giống xác đi thịt chạy, tính linh chẳng tồn tại. Nếu như đem đề tài này ra bàn luận rồi viết vào sách hẳn là sẽ lưu lại ngàn đời.

Tế Phật: Người đời phần đông thiển cận, xưa có Công Dã Tràng, hiểu được tiếng chim, thường nói chuyện với chim. Chung Tử Kì chỉ nghe tiếng đàn của Bá Nha mà hiểu được tâm sự bạn hiền nên gọi là “tri âm”. Lại nữa, hạc trắng của tiên ông Nam Cực nghe hiểu tiếng tiên, chó trời của nguyên sư Dương Tiễn hiểu đặng tiếng tiên sư. Quán Âm cưỡi rồng, Thiền Sư cưỡi cọp, hai tướng rùa, rắn dưới chân Huyền Thiên Thượng Đế, há chẳng đều chứng minh thần thánh và súc vật cùng chung một thể sao? Nếu như loài vật không có tính linh, thì làm sao chúng có thể lên tới cõi trời, sinh sống trú ngụ cùng với Tiên Phật được? Có những giống thú được huấn luyện, nghe được tiếng người nói, làm việc thay người, giữ nhà, biểu diễn trò chơi, học được những điều người chỉ bảo. Qua những bằng chứng cổ kim vừa nêu trên, hẳn là đã rõ động vật tuy không mang thân người song tính linh giống nhau không thể phủ nhận được. Mỗi loài thú đều có tiếng nói riêng, chỉ tiếc đám phàm phu tục tử nghe chẳng hiểu mà thôi.

Loài kiến cúi rạp đầu xuống đất để truyền tiếng nói, loài chim gặp nạn kêu ran, đồng loại của chúng nghe thấy hiểu ngay. Người hay vật đều có những chỗ mê muội, người không hiểu được tiếng nói loài vật, loài vật nghe loài người đàm đạo với nhau chẳng hiểu được sự kỳ diệu, bèn cho người là loài vật khác giống với mình. Người đời không được bài xích khinh thị loài vật. Ta hướng dẫn Dương Sinh bàn luận được với loài vật là vì ta sử dụng pháp Phật, giúp chúng khôi phục nguyên linh, để chúng nói được tiếng người. Lấy một ví dụ, ta hướng dẫn Dương Sinh tới phỏng vấn một người Mỹ, và ai ai cũng biết rằng nói tiếng Anh thì làm sao có thể đàm đạo? Kì thực, phàm những động vật có tính linh, thì đều có thể học nói mọi loại ngôn ngữ của các quốc gia. Vì ta ban pháp Phật để cho loài vật có thêm tính linh để chúng nói tiếng người, như một kẻ tính linh sáng suốt có thể nói các thứ tiếng Hoa, Anh, Đức, Pháp. Các nước đều có sở thú, có thầy dạy thú, song mỗi nước lại dạy thứ tiếng nói riêng của mình mà loài vật vẫn hiểu như nhau, đủ chứng tỏ các loài động vật đều có tính linh chỉ cần phát triển huấn luyện là chúng thích ứng được liền.

Lấy một ví dụ về khoa học kỹ thuật hiện đại mà nói thì dùng máy ra đa người ta có thể nhìn thấy cơn lốc chuyển động từ xa. Loài người và loài vật đều có đầu óc, làn sóng phát ra từ não bộ, chỉ cần hướng dẫn thêm, thì loài người và loài vật đều có chỗ giống nhau. Làn sóng phát ra từ bộ não là làn sóng điện, những loài động vật tinh anh minh mẫn làn sóng này phong phú hơn người thường gấp ngàn lần, cho nên đạo Phật coi ngả luân hồi của loài vật là một trong sáu ngả, vì sáu ngả luân hồi do một hóa thành sáu, có thể nói: “Một thân mà sáu mặt” (Nhất thể lục diện). Nếu như loài vật chẳng thể giao tiếp bằng ngôn ngữ với người thì hẳn là thuyết lục đạo luân hồi không đứng vững, những động vật dưới chân tòa sen chư Tiên, chư Phật tại cõi tây phương không có thực. Cho nên thánh nhân nói: “Vạn vật với ta là một” (Vạn vật dữ ngã vi nhất) hẳn đã thuyết minh thiên địa vạn vật không phân chia tính linh và tính vật, với tính linh thì lấy thiện đối đãi, với tính vật thì lấy thiện sử dụng.

Một chén cơm làm nên bữa ăn thịnh soạn, một cặp mắt kiếng mang lại ánh sáng, các thứ đó đều là sự biểu hiện của tính vật, là vật của tính vật phải dùng thiện để sử dụng chúng, chớ có coi thường mà vất bỏ chúng. Tính vật đã như vậy, thì tính linh lại có thể phủ nhận được sao? Thánh nhân coi vật như người nên lấy lượng từ bi đối xử với chúng. Như phía nam tỉnh ta có kẻ ham giết nhiều chim để mua vui, các nhân sĩ cùng chính phủ đương nhiệm, lại một lần nữa ra thông cáo cấm chỉ việc bắt và giết chim, bởi ăn một miếng thịt là sát hại một mạng sống, bắt một con chỉ bán được mười đồng, lời quá nhỏ. Chim cũng có quyền được sống, giết chóc chúng bừa bãi không những làm thương tổn tình người mà còn phá hoại đời sống thiên nhiên, hủy diệt đạo bác ái. Những điều vừa trình bày đã luận rõ về thuyết nhân trị, tức lấy đức nhân mà trị, mọi người phải đem lòng từ ái đối xử với loài vật. Trời vốn hiếu sinh, người đời nếu như cảm được lòng trời, phát huy đức nhân, thực hiện những điều trình bày trong sách này thì nó sẽ được khen ngợi là một cuốn kinh quý báu, nhằm triển khai đức từ bi, tâm bác ái vậy.

Kẻ mất con gà nhỏ, tìm kiếm khắp nơi, người bắt gà đem giết lòng sung sướng; đánh người, giết người không gớm tay nhưng khi bị muỗi chích thì lòng căm giận. Đem tâm so sánh với tâm mới thấy tâm mình có tốt hay không? Điểm dẫn chứng vừa rồi cho thấy tâm người vị kỹ bất nhân, tâm động vật phi phàm, đáng được coi là bằng hữu của nhân loại. Chúng hy sinh tính mệnh nuôi sống loài người, loài người chớ vong ân bội nghĩa. Sách Luân Hồi Du Ký chứng minh linh hồn bất diệt, sự chuyển kiếp đầu thai là sự thật. Mong người đời chớ tán tận lương tâm làm điều ác, phải làm người đường hoàng chính trực để tránh khỏi phải đầu thai làm loài thú để cho người ta giết chóc, sai khiến. Tóm lại mục đích của sách này cảnh cáo người đời gần lành lánh dữ, không được hành động dã man như thú vật.

Dương Sinh: Ân sư đã phải nhọc sức mỏi miệng dẫn chứng sự thực để giúp người đời hiểu rõ luật chuyển kiếp luân hồi, loài vật cũng có trời đất riêng của chúng, sách Du Ký này đã trình bày rõ để giúp người đời nhận thức đúng đắn về loài vật, những điều dẫn chứng rất hợp với sự lí luận vậy.

Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen, chuẩn bị di chuyển tới nơi khác phỏng vấn thêm.

Dương Sinh: Thưa ân sư tới chốn nào?

Tế Phật: Ra nước ngoài xem xét tình hình.

Dương Sinh: Thưa ân sư, mình tới nước nào?

Tế Phật: Tới Tân Tây Lan phỏng vấn loài cừu.

Dương Sinh: Nhân dịp này du lịch một phen hẳn là hay lắm, bữa nay khí trời đột nhiên trở lạnh, len của Tân Tây Lan rất nổi danh, chắc phải mua một ít về dệt áo mặc.

Tế Phật: Sự tính toán của con thật là thông minh, thôi thầy trò mình lên đường... Đã tới nơi, Dương Sinh xuống đài sen.

Dương Sinh: Ở đây có nhiều cừu, con nào lông cũng rậm dài so với cừu nước nhà khác nhau xa, không rõ tại sao lông nó lại có thể nhiều đến như vậy được?

Tế Phật: Lông cừu mọc từ thân cừu, nơi đây cỏ hoang nhiều, rất tiện cho việc nuôi cừu, cừu muốn giữ thân ấm áp, thì mình phải mọc nhiều lông, đó cũng là sự xếp đặt kì diệu của tạo hóa vậy.

Dương Sinh: Mùa đông đã tới, người đời muốn khỏi chết lạnh phải mặc áo len, nên việc cung cấp len để đan áo ấm, cừu đã giúp đỡ nhân loại rất nhiều. Thưa ân sư có thể phỏng vấn về đời sống của cừu không?

Tế Phật: Bữa nay tới đây phỏng vấn cốt để hiểu rõ về lai lịch của chúng. “Cừu ơi! Cừu ơi! Mình ngươi mọc đầy lông, ngươi được mặc một tấm áo ấm của tạo hóa ban cho, ngươi hãy thuật lại rõ lai lịch của ngươi coi. Ta ban diệu pháp, đánh thức bản lai tính linh của ngươi để ngươi kể lại chuyện kiếp trước hầu khuyên răn người đời”.

Dương Sinh: Bầy cừu sau khi được ân sư ban pháp Phật đã tỉnh ngộ, con xin phỏng vấn chúng. Xin hỏi cừu hãy cho biết cảm tưởng sau khi bị đầu thai làm kiếp cừu ra sao?

Cừu Giáp: Kiếp trước tôi là kẻ tham nhũng, gây tội giết chết nhiều người cho nên kiếp này bị đầu thai làm cừu.

Dương Sinh: Tham nhũng như thế nào?

Cừu Giáp: Tôi kiếp trước làm quan, được ủy nhiệm trông coi việc xây một cây cầu, vì lợi riêng đã cấu kết với nhà thầu, bớt công, giảm xi măng, đá sỏi, sắt thép... tới một phần ba không xây đúng số lượng vật liệu theo như đồ án thiết kế của kiến trúc sư để lấy tiền bỏ túi. Cầu xây xong, tiền vãng lai của người qua lại thâu được thật nhiều. Có lần mưa lũ từ trên núi đổ xuống, cầu bị sập, khách bộ hành xe cộ trên cầu rớt xuống sông bị nước cuốn dìm chết. Vì tội giết người đó mà kiếp này tôi phải đầu thai làm cừu, toàn thân mọc đầy lông, khi lông dài bị người ta lấy kéo cắt đem bán cho các nước chế thành len dệt áo, một đời chỉ biết mọc lông dài dâng hiến cho người để trả nợ kiếp trước.

Dương Sinh: Tham một sợi lông trả một sợi lông, người tham tiền bạc triệu chẳng rõ sẽ phải trả tới mấy mươi năm?

Cừu Giáp: Phản bội sự chính trực phải đền nợ sự gian trá, còn sống năm nào mọc lông dài năm ấy để trả nợ, chẳng hé răng than thở một lời.

Dương Sinh: Biết sám hối trả nợ, tin rằng món nợ thiếu đó chắc chắn sẽ trả xong.

Tế Phật: Ngươi kể lại việc làm kiếp trước khiến người nghe lạnh hồn, vì ngươi bao kẻ phải làm hà bá, kiếp này gắng tăng áo lông cho người đời chống lạnh, cho thân họ ấm áp, đó là trả ác nghiệp quả báo.

Dương Sinh: Xin hỏi cừu khác, cớ sao ngươi phải đầu thai chốn này?

Cừu Ất: Cảm tạ đức Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh đã lưu tâm tới tôi, cùng giúp tôi tỉnh thức. Kiếp trước tôi là một gian thương chuyên bán len giả, hàng vải nội hóa nói dối là hàng ngoại quốc, khách hàng mua cho là vải quý bằng lòng mua giá mắc, thành họ bị lừa, không những chẳng hay mà lại còn tỏ lòng sung sướng. Suốt đời tôi chuyên bán vải xấu nói vải tốt để kiếm lời nhiều, lấy hai vợ, trọn kiếp hưởng hạnh phúc tràn trề. Lúc sống tôi không tin có nhân quả báo ứng, nhưng sau khi chết đứng trước đài gương soi ác nghiệp mới vô cùng sợ hãi, đã chịu đủ mọi hình phạt đớn đau do Diêm Vương trừng trị lại còn bị đầu thai làm kiếp cừu tại nước ngoài. Lông trên mình tôi cũng là áo mặc thân tôi, ăn cỏ, hấp thụ dinh dưỡng để cho bộ lông mọc dài, vừa đúng lúc thành bộ y phục đẹp đẽ liền bị người ta lột trần để dệt thành len đan áo, nên có thể nói tôi chỉ cày bừa không được thâu hoạch. Quần áo vừa mới mặc vào đã phải cởi ra, thực là bất hạnh muôn phần.

Tế Phật: Không được sinh lòng oán giận, quần áo lông của ngươi chẳng được mặc lâu là vì ngươi bạc phước. Ai bảo ngươi kiếp trước bán vải giả, khiến kiếp này phải thường hàng thật và giá thật một trăm phần trăm len cho người đời mặc để tiêu trừ tội nghiệp.

Cừu Ất: Nghe lời dạy của đức Tế Phật lòng con hối hận vô cùng. Kiếp trước vinh hoa phú quý, song chỉ được hưởng ít chục năm, còn kiếp này phải đày đọa giữa chốn đồng hoang chịu cảnh mưa nắng gió sương để sản xuất len cho người ta bán mà mình không được một cắc, chỉ còn biết tự trách mình thôi!

Dương Sinh: Xin hỏi cừu kia nữa, tại sao ngươi phải chuyển kiếp đầu thai làm cừu?

Cừu Bính: Kiếp trước tôi mở ngân hàng, những kẻ cần tiền tôi đều bắt chẹt cho vay lấy lời thật cao, phàm những ai cần gấp tới vay tiền của tôi đều phải chịu lời cao, nên có thể nói lợi đó là “lợi máu”, ăn của tôi một bữa cơm muốn trào máu họng, giống như bị tôi thọc huyết vậy. Vì gặp cảnh khốn quẫn cần tôi giúp đỡ, thì điều kiện nào họ chẳng chịu, tôi bèn nhân cơ hội này đòi ăn nằm với vợ và con gái họ, họ bị bắt ép trắng trợn, song cũng đành nuốt hận cắn răng chấp nhận. Lợi dụng sự nguy khốn của họ mà cướp đoạt tiền tài nhan sắc, nên đã phạm luật trời, sau khi chết bị đày xuống âm phủ chịu hình phạt khắc nghiệt, cùng chuyển kiếp đầu thai làm cừu, đày đọa tại chốn này thật là thê thảm. Kiếp trước giàu, xe sang gái đẹp, còn giờ tay trắng, đầu thai làm loài khác, mình mọc lông, đầu mọc sừng, xấu xa không chịu nổi.

Dương Sinh: Thưa ân sư cứ cho vay kiếm lời đều phạm tội cả đúng không?

Tế Phật: Không thể kết luận như vậy được. Ngân hàng cho vay lấy lời không có tội, nếu như cho vay để giúp đỡ người, không lấy lời có công, lấy lời nhẹ thì không có tội. Với mục đích giúp người hoạn nạn vượt nguy khốn kể như giúp người một nửa. Còn ngược lại lấy lời nhiều của kẻ nguy khốn kể như làm ác, thuộc hàng bất nhân, lợi dụng kẻ nguy khốn túng thiếu để gian dâm với vợ và con cái họ ắt phạm luật trời. Những điều vừa trình bày đúng là như vậy, tục ngữ nói: “Lông cừu mọc trên thân cừu” coi rẻ người là tự hạ giá mình, hại người là hại mình, bằng chứng trên đây là bài học cảnh cáo người đời, nên gắng làm người đàng hoàng ngay thật, chắc chắn sẽ hái được trái lành. Còn nếu như gian trá lừa gạt, tham ô không những luật đời khó tha mà luật trời còn ghét bỏ. Đã không chịu làm người lương thiện, kiếp sau trời cao sẽ đày đọa, chịu mọi nỗi đắng cay khổ nhục. Các ngươi đã thuật lại hết tội lỗi, khuyên người tạo công, ta ban phước cho các ngươi kiếp sau được đầu thai lên làm người, song chớ quên giữ đạo để tránh lại bị đầu thai làm kiếp thú. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.

Dương Sinh: Thưa, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#20 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 10:00

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI MƯỜI BA

BIẾT ĐAU BIẾT ĐỚN ĐỘNG VẬT LO TÍNH MỆNH

Ở RỪNG Ở NÚI KHÔNG NHÀ HỐI LỖI XƯA

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 24 tháng 9 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Thiên địa hiếu sinh pháp tự nhiên
Hàm linh động vật tính vô thiên
Nhất ban huyết nhục xưng huynh đệ
Lưỡng dạng hình khu bố đại thiên.
Vạn thiện bất tri phát ái tâm
Tế nhân lợi vật cứu thân ngâm
Kim thời cứu vật phóng tha khứ
Hậu nhật hoài ân báo đáp thâm.

Dịch

Trời đất hiếu sinh lẽ tự nhiên
Nguyên linh loài thú vốn ngoan hiền
Cùng nhau máu mủ là huynh đệ
Thân khác lòng chia ấy chớ nên.
Chẳng biết làm lành mở rộng tâm
Giúp người giúp vật khỏi ưu phiền
Đời nay nâng đỡ cùng tha thứ
Kiếp tới đền bù bởi nhớ ơn.

Tế Phật: Gần đây lòng ta thực là cảm thấy khoan khoái khi nghe các trường học phát động phong trào bảo vệ thiên nhiên. Nhà trường ra những đề thi cho học sinh nội dung khuyến khích phát huy lòng thương yêu đối với loài vật, do đó ảnh hưởng lan ra tới mọi gia đình, ai ai cũng mở rộng lòng yêu mến loài vật, lãnh vực sinh tồn của loài vật đương nhiên được mở rộng. Biển rộng trời cao, ta được ngao du khắp chốn, đó là sở nguyện của vật cùng người vậy. Trừ phi động vật có hành vi hại người mới cần phải trừng trị để bảo vệ sư an toàn, còn giết chúng để ăn thịt, để thỏa mãn tính ham chém giết là hành động dã man. Thế giới văn minh phải đề cao đức nhân từ, lòng quảng đại, vả lại nếu không giới sát chắc chắn sẽ có ngày loài vật tuyệt chủng. Ta phụng chỉ cùng Dương Thiện Sinh viết sách Luân Hồi Du Ký để phát huy tình thương của con người đối với loài vật, ta cũng rất vui mừng khi thấy các nhân sĩ hô hào bảo vệ súc vật, đó là hành động “thuận lòng trời, hợp lòng người, vô cùng ích lợi cho loài vật”. Như vậy đủ chứng tỏ sách Luân Hồi Du Ký rất hữu ích cho đời, thế gian chớ coi thường. Dương Sinh chuẩn bị khởi hành.

Dương Sinh: Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Bữa nay thầy trò mình dạo thăm Châu Phi, đường khá xa.

Dương Sinh: Cưỡi đài sen tới Châu Phi miễn phí, kể cũng là chuyện lạ.

Tế Phật: Thế giới tâm linh không xa cõi Phật do đó người đời phải chú trọng tu dưỡng tính linh, để khi nó xuất ra khỏi nhục thể như luồng điện, luồng ánh sáng bay thật lẹ tới cõi thanh cao, và Tiên Phật luôn luôn giúp sức người có năng lực siêu phàm. Tu tới cảnh giới này, tự nhiên sống chết là một, không bị số mệnh luân hồi ràng buộc. Thôi chúng ta mau thẳng tới Châu Phi... Đã tới nơi.

Dương Sinh: Chốn này rừng rậm hoang vu, mới thoạt nhìn đã thấy sợ hãi.

Tế Phật: Yên tâm đi, có thầy đây đừng sợ hãi.

Dương Sinh: Phía trước có một bầy cọp, chúng nhìn trừng trừng, vẻ hung dữ vô cùng, liệu có tránh khỏi bị chúng ăn thịt không?

Tế Phật: Chúng ta tới đây bằng thân pháp, cọp không có cách gì ăn thịt nổi, đừng khiếp hãi.

Dương Sinh: Cọp sinh ở chốn rừng hoang rất hung dữ.

Tế Phật: Chúng sống ở chốn núi sâu không người coi sóc nên đầy tính dã man. Trẻ thơ cũng vậy, nếu như không được cha mẹ, thầy cô dạy dỗ, uốn nắn cũng trở thành đứa con hoang đàng. Bữa nay thầy trò mình phỏng vấn lũ cọp này, để thầy thuyết pháp điểm hóa cho chúng trước: “Cọp, cọp, cọp ơi! Đừng lộ vẻ hung dữ nữa, hãy hiền lành lại đi, không ai dám đến gần ngươi, như vậy há chẳng cô đơn man dại lắm sao? Mau mau sám hối, cải đầu quy chính trở lại làm người, bỏ tính bạo tợn, Tế Phật ban pháp điểm hóa, mau mau kể hết lại những chuyện kiếp trước để răn đời, mới hi vọng thoát thai hoán cốt, đầu thai làm người”.

Dương Sinh: Cọp được ân sư điểm hóa, hiện rõ hình người tiền kiếp, có nam có nữ, vẻ rất hung ác, muốn gây hấn cùng kẻ khác.

Tế Phật: Dương Sinh có thể phỏng vấn họ.

Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, phụng chỉ theo ân sư Tế Phật trước tác sách Luân Hồi Du Ký để khuyên răn người đời. Bữa nay đặc biệt tới đây phỏng vấn, mong quý vị thuật rõ lại nhân quả kiếp trước, khả dĩ tạo công chuộc tội, kiếp sau được đầu thai lên làm người, hết phải còn sống cảnh màn trời chiếu đất giữa chốn rừng rậm núi sâu, hãy thuật mau đi.

Cọp Giáp: Kiếp trước tôi là người thượng du, thuộc bộ lạc sống trong rừng, thân hình thô kệch khỏe mạnh, chuyên săn bắn thú rừng để sống như các dân chưa khai hóa khác. Một lần cãi lộn với người bạn, khí giận xung thiên, liền cầm dao giết cả nhà cùng phóng hỏa đốt chòi họ cháy trụi. Vì không có pháp luật xét xử, nên tôi không bị trừng trị. Sau khi chết xuống âm phủ, thân thể bị chặt nhiều mảnh bỏ vào vạc nấu. Sau đó phải đầu thai làm hai kiếp thú, kiếp trước là sư tử, kiếp này là cọp chuyên sống trong rừng khổ sở muôn phần.

Tế Phật: Tính thú của ngươi quá hung dữ, giết người như giết vật, không có chút nhân tính, hành vi bạo ngược, chuyên ăn thịt các loài động vật, ăn nhiều trở thành thói quen, kiếp này sống trong rừng tiếp tục bắt sinh vật khác ăn là ngươi cũng tạo ác nghiệp. Mong từ nay thức tâm, cởi bỏ thú tính, mau mau bỏ tính cũ lập tính mới, kiếp tới ban phép cho ngươi được đầu thai làm người, song phải chịu nghèo khổ, làm việc cực nhọc để đền tội.

Cọp Giáp: Cảm tạ Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sinh, kiếp tới tôi được làm người nhất định cố gắng tu thân, không dám làm ác để tránh khỏi mãi mãi bị đi đường ác.

Dương Sinh: Xin hỏi một vị khác, kiếp trước làm những việc ác như thế nào?

Cọp Giáp: Kiếp trước tôi là một tướng cướp, chuyên cướp của giết người, hiếp dâm đốt nhà, việc ác nào cũng làm như cơm bữa. Từng giết chết hai người, làm bị thương mười ba người, cướp được hai triệu, phóng hỏa đốt nhà hai lần, cưỡng hiếp phụ nữ ba lần, một đời không lo làm ăn lương thiện, chỉ lo đè đầu bóp cổ, muôn người thống khổ. Đến khi vận tới, vì phạm tội giết người, cảnh sát lùng bắt gay gắt, bỏ chạy vào núi, cướp của dân sơn cước sống. Một bữa đang nằm ngủ dưới gốc cây trong rừng, bị rắn nhào tới cắn, vì không có thuốc chữa trị, lại không dám ra khỏi núi, nhờ người ta chữa, do đó đành chịu nằm chết trong núi. Sau khi chết thần núi áp giải xuống địa ngục, giao cho Diêm Vương xử tội, chịu nhiều hình phạt đớn đau, sau đó còn bị chuyển kiếp đầu thai làm hai kiếp rắn, một kiếp hổ, một kiếp trâu, sau đó mới được đầu thai làm kiếp người. Kiếp rắn đã làm xong, kiếp này làm cọp tại Châu Phi, nghĩ lại vô cùng hối hận.

Tế Phật: Quả là dữ như cọp, chuyên ăn thịt người, tội ác quá lớn. Chết tại núi sâu, xương phơi trắng đất không người chôn cất, hình phạt địa ngục khắt khe cay nghiệt, lại còn phải chuyển kiếp đầu thai làm loài thú. Bữa nay ngươi may mắn được dịp thuật lại những hành động ác độc kiếp trước, đã tạo công chuộc tội, kiếp tới đầu thai lên làm người, không phải làm thân trâu ngựa, sống thiếu chân thiếu tay, phải bò lết ăn xin để tránh làm hại kẻ khác.

Cọp Ất: Cám ơn Phật Sống Tế Công đã giúp con thoát khỏi cảnh khổ.

Tế Phật: Khổ đó mình làm mình chịu, ta đã giúp người không ít, phải biết tự đủ, không được tham lam.

Cọp Ất: Thưa vâng, thưa vâng.

Dương Sinh: Xin hỏi vị kia, kiếp trước phạm phải những tội ác gì? Là phái nữ mà cũng đầu thai làm cọp sao?

Cọp Bính: Xin Dương Thiện Sinh chớ lấy làm buồn cười, tôi đã hối hận song quá trễ, kiếp trước tôi là một phụ nữ hung bạo, vì thuở bé sinh trong một gia đình không có nề nếp, nên tính tôi ngược ngạo kiêu căng, cuối cùng sa đọa vào xã hội đen, chuyên bán ma túy và chứa gái mại dâm kiếm tiền. Con gái con trai nghe lời dụ dỗ của tôi sa đọa rất nhiều, những kẻ nào cưỡng lại tôi đều bị đánh đập giết chóc, giới giang hồ của xã hội đen đặc biệt danh cho tôi là “Hắc Mân Côi” (Đá Ngọc Đen). Là một phụ nữ chúa tàn độc, tôi đã gây tội ác ngập trời, sau khi chết phải chịu hàng trăm hình phạt đớn đau, kiếp này phải đầu thai làm cọp cái, đó cũng là do tội lỗi của tôi gây nên.

Tế Phật: Ngươi không phải là người mà là cọp cái, kiếp này làm cọp du đãng chốn núi sâu, song thần khí vẫn còn nối tiếp với kiếp trước, nếu sám hối tu thân, kiếp sau sẽ được chuyển kiếp đầu thai lên làm người, nhưng thường bị kẻ khác làm nhục để tiêu oan giải nghiệp, mong ngươi kiếp tới sẽ cố gắng làm người lương thiện.

Cọp Bính: Cảm tạ đức Tế Phật đã cứu giúp con.

Tế Phật: Tạm ngưng cuộc phỏng vấn cọp ở đây, tới nơi khác phỏng vấn bầy voi.

Dương Sinh: Thưa vâng, con đã chuẩn bị sẵn sàng, kính mời ân sư khởi hành...

Tế Phật: Đã tới nơi.

Dương Sinh: Ở đây có một bầy voi rất to, có một con nhỏ xíu, giống như là voi con.

Tế Phật: Voi không có người coi chưa phải là voi, tất cả đều thiếu người bên cạnh.

Dương Sinh: Ân sư dạy rất chí lý, những con voi to lớn này, thân mình thô kệch, khỏe mạnh, lai lịch chúng chắc chắn khác xa các loài khác.

Tế Phật: Để thầy điểm hóa cho chúng. “Voi lớn voi nhỏ ơi! Sinh ra không có kẻ chăn dắt, thân hình thô kệch, quả bất tiện, hãy mau mau tỉnh ngộ, lên thuyền từ kể rõ lai lịch”.

Dương Sinh: Sau khi được ân sư điểm hóa, đàn voi này cớ sao lại tỏ ra kiêu ngạo tự đắc?

Tế Phật: Chúng rất khó nhận lãnh, thầy phải hết sức vận dụng Phật lực, song thân voi quá lớn, nhất thời hồi quang phản chiếu, nguyên linh xuất hiện có chút trở ngại. Thân hình quá lớn hoạt động khó khăn, cho nên mới có triệu chứng như vậy.

Dương Sinh: Thì ra nguyên nhân là như vậy. Lúc này bầy voi đã tạm thoạt biến thân hình, hóa thành những tay “quản tượng” tức kẻ chăn voi, kẻ nào kẻ nấy tướng mạo dữ dằn, ngó thấy mà sợ.

Tế Phật: Chúng đều là những đại lực sĩ hóa thân nên thân hình to lớn. Dương Sinh có thể phỏng vấn chúng.

Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, phụng chỉ theo chân đức Phật Sống Tế Công viết sách Luân Hồi Du Ký, phỏng vấn để thấy rõ nhân quả, hầu khuyến hóa người đời. Bữa nay đặc biệt tới đây phỏng vấn quý vị, nếu như tự thuật nguyên nhân kiếp trước để khuyên đời, khả dĩ lập công chuộc tội, quả là cơ hội tốt, chớ có giấu giếm sự thật, kể hết lại lai lịch của mình được chăng?

Voi Giáp: Nhờ đức Phật Sống Tế Công điểm hóa nên tôi vừa tỉnh thức, hoảng hốt nhớ lại trạng thái làm người của kiếp trước, có cơ hội lập công tôi xin thuật rõ lai lịch như sau: Kiếp trước tôi là võ thuật sư, tập võ luyện thân từ bé, do đó mà thân thể cường tráng, vì biết võ nên sinh lòng kiêu ngạo, kết giao với bọn giang hồ tà đạo, giết người không gớm tay. Có lần ban đêm vào nhà hàng ăn nhậu say sưa, lớn tiếng la lối chửi bới, coi thiên hạ như cỏ rác, khách ngồi bàn bên cạnh không chịu nổi, bèn lên tiếng: “Này bạn ơi! Lịch sự một chút đi”. Tôi nghe xong liền nổi giận xông tới đánh đập họ tàn nhẫn khiến người đó bể gan dập lá lách chết tươi. Tôi thấy chuyện không yên, bèn bỏ chạy, về sau bị bắt lãnh trọng hình. Sau khi mãn hạn tù, tánh ác không sửa đổi, vẫn chứng nào tật nấy hung bạo chẳng chừa, hành động gian manh khắp chốn, coi thường đời sống lương thiện, tội ác ngập trời, sau khi chết đã bị Diêm Vương trừng phạt nặng nề, còn bị đầu thai làm voi tại Phi Châu, đó là hành vi kiếp trước của tôi.

Dương Sinh: Bị chuyển kiếp làm voi có cảm tưởng ra sao?

Voi Giáp: Thân hình to lớn kềnh càng, xác mang rất nặng, đi đứng tốn nhiều sức, có cảm giác rất khó chịu.

Tế Phật: Thân xác, chân tay ngươi to lớn nhưng thiếu đất dụng võ.

Dương Sinh: Voi dùng vòi để quắp đồ ăn thảy vào miệng là cớ tại sao?

Tế Phật: Vì kiếp trước được huấn luyện thành thục nên chân tay linh hoạt, co duỗi lẹ làng, cố công khổ luyện thân thể, cho nên kiếp này mới có cái tay lạ lùng, lấy vật bắt người rất ư dễ dàng, mặc dầu coi không đẹp mắt.

Dương Sinh: Tạo vật thần lực phi phàm, mọi việc sắp xếp thật là chu đáo, đường luân hồi muốn bỏ hay muốn đi đều do mình tự chọn, thích trái nào cứ ăn quả nấy. Xin hỏi vị khác, hành vi kiếp trước của vị ra sao mà kiếp này phải đầu thai làm loài voi?

Voi Ất: Tôi kiếp trước sinh trưởng trong rừng, chưa gột rửa hết tính dã man, khí chất hung ác, tâm tàn lực bạo, yêu một người con gái trong họ, bị cha mẹ cô ta phản đối, tôi nổi giận đã giết hết cả nhà còn cắt thịt ăn cho nguôi cơn giận, có thể nói như vậy là hết sức tàn nhẫn. Kiếp trước hành động phản đạo làm người, cho nên kiếp này phải đầu thai làm loài voi.

Dương Sinh: Coi họ giống một người ngoại quốc thuộc bộ lạc bán khai, trên mặt có nhiều đường gạch, trông thực lạ lùng.

Tế Phật: Con voi này là loại voi hai nanh rất lớn, đó cũng là răng ăn thịt người. Răng loài người ngắn nhỏ đều đặn, là loại răng trời ban cho để ăn rau trái, còn loại voi muốn ăn chắc phải mài răng trước đã, chúng lại ham phá hoại khủng bố, người và thú khác biệt nhau, có thể căn cứ vào đó mà phân loại. Răng văn minh ngắn nhỏ đều đặn, răng dã man dài nhọn, sắc như dao bén. Do đó mong người đời hành xử theo trình độ văn minh, không được giấu dao hại người, tránh hành động như dã thú. bữa nay tam ngưng cuộc phỏng vấn ở đây, Dương sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.

Dương Sinh: Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã trở về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#21 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 10:15

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI MƯỜI BỐN

TẾ PHẬT TRỪ TÀ KHUYÊN NGƯỜI QUY CHÍNH GIÁC

TRÊN CÂY THIỀN SƯ GIẢNG PHÁP ĐỂ CHIM NGHE

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 28 tháng 9 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Hồ điệp xuyên lâm bách điểu phi
Nhất đoàn hòa lạc thiểu cương vi
Thiên nhiên sinh hóa thiên luân lạc
Nhất mộ hoàng hôn yến điểu quy.
Điểu phi vũ thoát phục nguyên lai
Thụ thượng an cư thực khoái tai
Nhân trú cao lâu tâm tính đọa
Dục tài sắc hỏa hóa thành hôi.

Dịch

Muôn chim bay lượn bướm vờn hoa
Ràng buộc không dây hưởng thái hòa
Trời đất đổi thay đời đọa lạc
Ngày tàn chiếu xuống én bay về.
Mưa tạnh chim bay cảnh sáng lòa
Cành cây nằm nghỉ sướng đời ta
Người ở nhà vàng đời đọa lạc
Sắc tài dục vọng cháy thành tro.

Tế Phật: Đám bướm lượn bay trong lá hoa, bầy chim bay trên không trung, chẳng có biên cương giới hạn, không bị con người bó buộc, chúng tiêu dao tự tại biết là bao nhiêu. Con người cư ngụ ở cõi trần, nếu như tuân theo pháp luật hẳn là không tham lam, không cướp giật, không gian dâm, không lừa đảo. Tuy nhiên, pháp luật có khắt khe cách mấy cũng chẳng thể bắt tội hết được. Còn nếu như không phạm pháp ắt không có pháp luật, thì hẳn là tiêu dao ở cõi nhân gian giống như Trang Tử hóa bướm, thiền sư hóa chim vậy.

Dương Sinh: Trang Tử mơ thành bướm, cho nên mới có chương Tiêu Dao Du trong sách Đạo Đức Kinh, còn thiền sư hóa chim phải chăng là phút thiền sư nhập định, người và chim là một.

Tế Phật: Đúng vậy, con người cũng cần phải có đời sống tâm linh như thế mới có thể vượt được đời sống ham mê hoan lạc, mất còn coi nhẹ, cơ hội tới không hớn hở nắm ngay lấy ắt có ngày bị mất, nếu như chịu khó tìm hiểu nguyên nhân cái mất hẳn là mất đông có thể bổ tây, cái đáng sợ nhất là “được ý mất hình” hoặc “mất ý quên làm” cho nên khi thành công phải chú ý lúc thất bại thì bại mới không hóa thành hủy diệt. Nay gà vàng cất ba tiếng gáy, đạo lớn phổ truyền, người nào cũng cố chí, biết đem sứ mệnh của trời ban, truyền trao lại cho những kẻ hữu duyên trong bốn bể, hẳn là công đức vô lượng vô biên.

Dương Sinh: Ân sư dạy quả thực là đúng, đệ tử lập chí hành đạo cứu người, đi khắp chốn, thấy đạo giúp đạo, nên đã tự biết được tâm nguyện của mình. Năm năm trước đây, có duyên tới Trung Châu, trước sau thấy trời tuyên hóa, theo thầy viết sách Du Ký Thiên Đàng, Địa Ngục, có thể nói là dốc hết tâm lực nên đã hoàn thành được sứ mệnh giúp người, giúp chùa, giúp đạo. Sau khi viết xong sách Thiên Đàng Du Ký, phụng ý chỉ của đức Dao Trì Kim Mẫu, sáng lập Thánh Đức Đường để phát huy đại đạo, song lòng người khó lường, có một vài vị thiển kiến, cho rằng không có lợi ích, bày điều xuyên tạc, làm khó đệ tử, chẳng rõ ân sư có phương pháp nào giải quyết không?

Tế Phật: Ha ha, tự cổ chí kim trình bày được lẽ huyền vi của vũ trụ một cách trung thực thiết tưởng chỉ có hai cuốn du ký Thiên Đàng và Địa Ngục mà thôi. Trách nhiệm viết sách đã xong, nên phải lo mở mang địa hạt khác, thả thuyền từ, mở đường biển, vì chúng sinh cưỡi gió, vượt trùng khơi, há lại sợ trào dâng sóng đánh sao? Trước mắt thiên khai phổ độ, muôn pháp không lìa nhân duyên, luống nữa trời cao dốc tâm ban phước, mở rộng vô lượng pháp môn, mong mọi nhà lập bàn thờ Phật, người người được giác ngộ. Thánh Đức Đường mới thiết lập chính hợp lòng trời, người đời há lại vì lòng riêng mà sinh ra đố kị được sao? Ngày xưa thiền sư Huệ Minh lòng tha thiết cầu đạo, rời bỏ chùa Đông Thiền, hỏi lục tổ Huệ Năng là: “Huệ Minh sau này đi về đâu?”. Huệ Năng đáp: “Gặp Viên ắt dừng, gặp Mông ắt ở”. Huệ Minh tới tỉnh Giang Tây liền dừng lại Mông Sơn thuộc tỉnh Viên Châu, thiết lập đạo tràng hoằng pháp.

Còn ta nếu ban đầu cứ ở chùa Linh An, hẳn là không ai biết tới. Từ xưa tới nay kẻ học Phật tu đạo là hành giả đều có tâm cứu độ, song việc hoằng hoá chúng sinh còn tùy thuộc ở nhân duyên. Cho nên chủ trì được đạo tràng ở trần gian đều do nhân duyên từ cõi cao vời mịt mờ an bài. Con nên hiểu rõ lẽ đó, đột phá muôn trượng vòng vây, dẹp sạch mọi tệ trạng nơi cửa thánh, ngạn ngữ nói: “Có duyên tới tụ, hết duyên liền tan”. Kẻ không được ban phước đương nhiên xuyên tạc, nói xấu đủ điều. Còn thầy khuyên các “thiện đường” ở đây lãnh sứ mệnh thay trời hành đạo, phải thuận thiên hành sự, đem tâm công bình hoằng dương thánh nghiệp, chớ có mượn đạo tạo đời, đạo nghiệp biến thành oán nghiệp, nếu như còn dung túng những hành vi đó, việc mở “thiện đường” xiển giáo không còn ý nghĩa. Cửa thánh hưng suy, quan trọng ở người ngồi đàn cơ, phàm là kẻ ngồi đàn giáng bút, chớ nghe những kẻ xung quanh xúi giục đem đạo hóa ma, làm như vậy đã đánh mất niềm tin của đời.

Dương Sinh: Theo nhận xét của con, đàn cơ trọng đại, mà cửa thánh sai trái không ngay thật thì phải có những biện pháp nào giúp họ tránh khỏi những lầm lỗi sa đọa?

Tế Phật: Theo nhà Phật, hiện tại là thời kỳ mạt pháp, chính khí trời đất hao mòn, ma quỷ chui luồn cửa đạo, văn từ không thông, cũng xưng là lời của đức Vô Cực Thiên Tôn giáng bút, khiến kẻ thức giả ôm bụng cười lớn. Cơ bút là thần bút, văn chương siêu phàm thoát tục, lý hợp trung dung không thiên, không lệch mới có thể thay trời mà nói, ngược lại ắt như mây đen bay loạn, gió to mưa lớn, nói chính thành tà, nói giả thành chân, chỉ là phàm bút của cõi thế tục, là tác phẩm của thế nhân. Cho nên kẻ thay trời giảng dạy, trước hết phải tinh luyện thân tâm, như thiền nhân nhập định tâm không còn in dấu ngoại cảnh, ràng buộc ngoại duyên, một khối rỗng rang trong trắng, truyền chân thánh tích, lời lời chân lý. Nếu tâm con nhiễm phàm, cơ bút viết không phải là thần ý từ trời ban xuống, hẳn là mỗi chữ mỗi sai, vực thẳm trời cao cách biệt, di họa không ít. Cho nên thầy hy vọng thiên hạ chúng sinh, khi đọc sách đàn cơ giáng bút phải lựa chọn loại có lý hãy tin, loại vô lý liệng đi còn không sẽ mắc bệnh mê tín. Thầy Mạnh Tử nói: “Hoàn toàn tin ở sách chẳng bằng không sách” (Tận tín ư thư bất như vô thư). Cho nên ta khuyên người đời: “Tin bói không bằng tin lý” mong chúng sinh không bị văn tự mê hoặc, phải gạt bỏ những chướng mê lầm để tìm tới tự ngã chân chính, có như vậy mới là người giác ngộ, còn không chỉ là kẻ vô tri tu đạo mà thôi.

Dương Sinh: Thưa, ân sư dạy rất đúng, khai mở rất nhiều lẽ huyền cơ siêu diệu.

Tế Phật: Ha ha, mong mọi người xa lìa chốn sai lầm tà vạy, vượt khỏi vòng danh lợi, tìm tới điện Phật của Tế Công, tu thành pháp thân Phật sống, đi lại tự do, chẳng còn bị ngoại duyên ràng buộc. Dương Sinh lên đài sen, tiếp tục viết sách hoàn thành sứ mệnh của thánh.

Dương Sinh: Thưa, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Trò ngoan ngồi trên đài sen có cảm giác ra sao?

Dương Sinh: Từ năm sáu năm nay, được ngồi trên đài sen bay đi, cảm giác bao giờ cũng nhẹ nhàng thơ thới, muôn phần tiêu dao.

Tế Phật: Ngồi trên đài sen gặp sóng dữ, gió to, mưa lớn mà không bị choáng váng mặt mày, hôn mê tâm trí, thì quả tinh thần can đảm của con giống như nhà thám hiểm, coi thường hoạn nạn mới có thể tìm hiểu nổi tinh hoa của trời đất.

Dương Sinh: Ân sư quá khen, tất cả đều nhờ ơn của thầy và đức của trời giúp đỡ.

Tế Phật: Hai bộ sách Thiên Đàng, Địa Ngục Du Ký truyền bá khắp nơi, tạo thành tiếng vang lớn rộng chưa từng có, người người giành đọc, công lao của thầy trò ta không bị bỏ quên. Trên đường đạo đã thành lập được một hướng đi cho đời, vượt sông mê qua bờ giác lừng danh, hậu thế tôn sùng, mong người đời đừng để vật dục che mờ tâm não, qua sông phá cầu, coi thường Tiên Phật cùng thánh hiền, làm gương xấu cho đám hậu sinh, phụ lòng trời cao đã chịu khó nhọc ban ân phước cùng giáng đạo lành.

Dương Sinh: Chúng ta chỉ lo cày bừa, việc thu hoạch còn do phúc phần. Trồng cây cho người dạo mát cũng là tạo phúc về sau, công đức vô lượng.

Tế Phật: Ha ha, trò ngoan tâm lo khắp chốn, chí rộng bốn phương, thầy cũng thích dạo chơi bốn biển, khắp chốn là nhà, thầy trò mình cùng chung chí hướng, do đó mới có thể cùng dắt tay nhau ra vào ba cõi, thâu lượm những ấn chứng rõ ràng để khuyên răn người, để cảnh giác đời.

Dương Sinh: Đệ tử có thói quen quê mùa đi giày chẳng mang vớ, tánh này nào sửa được, không rõ tại sao? Xin ân sư bắt mạch kê toa chữa trị dùm con!

Tế Phật: Ha ha, chân không mang vớ là chân hạnh la hán.

Dương Sinh: Nhưng con không muốn xuất gia.

Tế Phật: Ngày nay tu đạo không cần xuất gia, làm cư sĩ tại gia, hoằng đạo giúp đời mới càng dễ độ người. Vì Phật pháp hiện phổ truyền, duyên đạo tùy đời, tu đạo ở nhà không quản ngại công tác, nửa thánh nửa phàm, thân quyến là bạn, vợ chồng cùng tu, trong tề gia tu đạo, ngoài lo công tác xã hội từ thiện, như vậy không chỉ lo cho riêng mình mà còn lo cho thiên hạ, tu cả ngoài xã hội lẫn trong gia đình, từ trẻ thơ đến người già cả đều được bình an, xây dựng nhân loại đại đồng.

Dương Sinh: Thưa ân sư dạy rất chí lý, theo như đệ tử thấy thì từ chùa chiền, miếu mạo đến đạo sĩ tu tại gia đều thực tế nhiệt tâm thay trời hành đạo, hoằng pháp truyền bá phúc âm, đã gặt hái được nhiều kết quả trong việc giúp người đời tu tâm sửa tánh.

Tế Phật: Vì thời đại biến thiên, tu đạo tại gia giúp nhiều nhà tránh khỏi lục đục tan vỡ. Chân la hán cũng là chân bước xuống trần hoằng pháp cứu độ chúng sinh. Ta là la hán hóa thân, tục danh là Tu Duyên, giả điên cứu đời, xuất gia nhưng ở trong nhà mọi người, chùa Linh An ở Tây Hồ còn lưu lại nhiều chứng tích kỳ dị. Phải là có duyên cho nên con cũng như thầy đã có được thói quen như vậy. Do đó, đời nay mới cùng chung lưng tạo dựng nổi Địa Ngục, Thiên Đàng Du Ký để cứu nhân độ thế. Song ước nguyện chưa hoàn thành, sứ mệnh thánh đức mới, càng phải hoằng dương thánh mệnh lớn rộng hơn, bởi vậy chúng ta phải hợp lực hoàn thành, tuyệt đối không bị chi phối bởi sự khen chê từ bên ngoài, mà thoái chí hoặc mất mình. Thuyền pháp có khi được thuận buồm xuôi gió, thì cũng có lúc ngược dòng thác lũ, chỉ mong mỗi ngày phải luôn luôn tự cảnh giác, chớ ngại kẻ khác thường sinh lòng phản trắc, ắt sẽ tự nhiên nhẹ nhàng đi trên đường lớn vậy. Thầy trò mình hiện giờ đã tới tây phương cực lạc, trước đây khi viết sách Thiên Đàng Du Ký, con tuy đã trải qua, song chưa thấy được toàn bộ, bữa nay tới đây cảnh vật lạ thường, con hãy ngắm nhìn.

Dương Sinh: Dọc đường mải cùng ân sư đàm đạo, thoáng chốc đã tới nơi đây, cây cối xanh tươi khắp nơi chim hót nghe thật sướng tai. Tại cõi trần chưa từng bao giờ được nghe chim hót véo von thánh thoát đến thế, thực là hết sức lạ lùng.

Tế Phật: Những chim thiên đàng này, dĩ nhiên khác với chim trần thế, song đều là những chim cõi phàm tu thành chính quả, chẳng khác nào người phàm tu thành Thánh Phật, tuy thần khí không giống nhau cho nên tiếng hót của chim thiên đàng không những chỉ thoát tục mà còn có âm hưởng kỳ lạ.

Dương Sinh: Quả là “người này cao còn có người khác cao hơn, trời kia xa còn có trời khác xa hơn, chim này hay còn nhiều chim khác hay hơn. Chẳng rõ chim thánh làm sao tu thành chính quả?”.

Tế Phật: Chúng ta tới bái kiến Điểu Sào Thiền Sư sẽ rõ mọi chuyện. Mau tới tịnh xá Tiêu Dao ra mắt thiền sư.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, ở đây cây mọc rậm biếc như rừng, cỏ xanh êm như nệm thảm, giống như cảnh đào nguyên ngoài cõi thế. Phía trước có một cung điện, trên đề bốn chữ “Tịnh Xá Tiêu Dao” trên rường nhà bầy chim nhảy nhót, có rất nhiều hành giả ra vào, vẻ rất thảnh thơi nhàn hạ, dáng đi thanh thoát nhẹ nhàng, khác hẳn người phàm.

Tế Phật: Họ đều là chim thiên đàng hóa thân, vì quen bay lượn trên không, nên dầu đi bộ dáng vẫn phiêu diêu.

Dương Sinh: Thật chẳng thể bàn cãi nổi, chim cũng có thể hóa thành người.

Tế Phật: Không lạ, không lạ. Người có thể biến thành cầm thú thì chim có thể biến thành người có gì kỳ lạ nhỉ? Chúng ta hãy tiến vào trong tịnh xá.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, theo ân sư vào trong tịnh xá Tiêu Dao, thấy một vị xuất gia tu hành đang ngồi tham thiền nhập định. Trên rường nhà có rất nhiều chim đẹp và lạ bay lượn, nhảy nhót, ca hót véo von, hai bên có hai người đứng dáng vẻ giống tu sĩ xuất gia, thấy chúng tôi liền tiến đến, chấp tay miệng nói: “Nam Mô A Di Đà Phật” để tỏ ý chào chúng tôi.

Tế Phật: Mấy vị này cũng vốn là chim hóa thân thành người xuất gia, đạo lực rất cao. Còn những con bay lượn ca hót véo von kia có ngày cũng sẽ hóa thành người. Vị tăng đang tọa thiền là Điểu Sào Thiền Sư, còn tịnh xá tức là tổ chim.

Dương Sinh: Từng nghe danh thiền sư nhưng chưa được gặp, bữa nay được diện kiến phúc duyên thực quả sâu dày. Đệ tử là thánh bút Dương Thiện Sinh Thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, phụng chỉ theo ân sư Tế Phật viết sách Luân Hồi Du Ký, bữa nay tới tịnh xá Tiêu Dao tây phương cực lạc, xin vái lạy Điểu Sào Thiền Sư để mong thiền sư khai ngộ cho.

Thiền Sư: Lành thay, Nam Chiêm Bộ Châu đảo quý bồng lai, Thánh Đường ở Đài Trung đang phát huy pháp Phật của ta, thầy trò Tế Phật Dương Sinh phụng mệnh viết sách Luân Hồi Du Ký, thuật rõ thực cảnh sáu ngả luân hồi, giáo chủ Như Lai rất mực khen ngợi. Phật pháp vô biên, thánh đức biến hóa, viết sách kì diệu cảnh tỉnh thế gian, diệt mọi mầm ác trên đời, trong sách ca ngợi Phật pháp, lẽ từ bi, giới sát, phóng sinh thuật rõ không bỏ sót, để vãn hồi thế giới hung ác tàn nhẫn, quả là công khuyên tu hành từ bi nhân đạo. Sách này là pháp quý Như Lai, mũi chích cứu đời, ba cõi đều nức lòng khen ngợi, khắp nơi ca tụng. Bữa nay hai vị tới đây, tôi đã sớm hay, trong giấc thiền định nói tiếng chim thiền, tôi quên mất hai vị nên không sớm tới nghênh tiếp, xin hai vị thứ lỗi cho.

Tế Phật: Đang lúc thiền sư nhập định nguyên linh dạo cõi tự nhiên, thầy trò tôi tới đánh thức quấy rầy, xin thiền sư miễn chấp.

Thiền Sư: Tế Phật và tôi cũng là thiền sư, ai nấy đều rõ pháp thiền, xin chớ phân biệt.

Dương Sinh: Thưa, tiếng nói của thiền sư tuy khác về âm thanh song đầy ý nghĩa thiền.

Thiền Sư: Tôi không pháp không đạo, chỉ há mỏ chim líu líu lo lo về thiền mà thôi. Tuy vậy người đời không chê mà còn lắng nghe thích thú, hiện thời người ta rất ham nuôi chim. Nhà cao cửa lớn mọc lên như rừng, cây cối bị chặt quang đãng, chim chóc không nơi làm tổ, có con bay về rừng học đạo, có con bị bắt giam vào lồng, nuôi trong nhà, ngày đêm được ăn no uống say nhưng vẫn nặng lòng nhớ bạn. Tôi ở đây đại diện cho toàn thể loài chim, cảm ơn nhân loại, chim ở trong lồng chẳng được hát bản sơn ca, mà thuận hát ngục ca, tiếc rằng loài người chẳng hiểu nổi tiếng chim, còn không chim đã được phóng sinh cả rồi.

Dương Sinh: Tiếng nói của thiền sư phát ra âm thanh thực là tuyệt diệu, đệ tử rất ưa thích, khi trở lại Thánh Đức Đường sẽ hết lòng khuyên người đời phóng sinh thật nhiều chim.

Thiền Sư: Cảm tạ mối thiện tâm của Dương Sinh, Thánh Đức Đường cũng đã từng phóng sinh rất nhiều loài chim, công đức đó tôi ghi lòng tạc dạ. Chim là loài vật của thiên nhiên không hề làm hại nhân loại thì xin nương tay chớ gài bẫy giăng lưới bắt chim, vì hành vi đó vô cùng bất nhân bất nghĩa không còn chút tình cảm. Nếu như tôi giăng dây ngang đường, người đời chạy xe ngang qua, cả xe lẫn người lật nhào, té lăn xuống đường, rồi tôi lục soát khắp người cướp tiền bạc, của cải, sau đó bắt về giam trong nhà, cho ăn ngày ba bữa no nê, cùng bắt ca hát cho nghe, có khi còn vặn cổ nhổ lông nướng chín ăn thịt, thử hỏi có bằng lòng không?

Dương Sinh: Thiền sư tỷ dụ rất là thâm diệu, người đời nếu được nghe những lời của thiền sư nói về chim chắc chắn sẽ giác ngộ. Đệ tử còn một thắc mắc, kính mong thiền sư giảng giải cho.

Thiền Sư: Dương Sinh cứ hỏi, chớ có ngại.

Dương Sinh: Nước Phật tây phương, chim đùa hót bay lượn nhởn nhơ giữa chốn hoa thơm không hiểu sự ăn uống ra sao?

Thiền Sư: Trên thiên đàng chim không ăn côn trùng, ở thế gian chúng tu hành nhiều năm, công đức khá dày, nên tính linh được siêu thoát về cõi tây phương cực lạc. Lúc ở cõi nhân gian làm giống chim, chỉ ăn trái cây, nhụy hoa cùng uống nước trong, sương ngọt. Vì sống đạm bạc, có phong cách kẻ tu hành, do đó tính linh trong sáng, nên mới siêu thoát khỏi trần gian lên cõi thiên đàng cực lạc. Những chim ở trong điện, công quả mỗi ngày một nhiều, càng lúc càng tu luyện, đã quen không ăn uống, như tằm kéo kén làm tổ, không ăn không uống dần dần biến hóa, chim ở thiên đàng cũng giống vậy. Làm tổ trên cành sống tiêu dao, dần dần đổi lông hóa thân, tục ngữ nói: “Chim sẻ nhỏ nhưng đầy đủ ngũ tạng”. Khi chim không mang bộ lông, hình dáng coi đã giống mình người, trải qua một thời gian, có thể hóa thành hình người, nếu tu luyện thêm, ắt hiện pháp tướng.

Dương Sinh: Quả thực kỳ diệu, kỳ diệu.

Thiền Sư: Ta có chuyện Điểu Sào Thiền Sư (thiền sư tổ chim) độ Bạch Thị Lang truyền tụng viết trong dân gian. Dương Sinh có thể đem sự tích này viết lại trong sách Luân Hồi Du Ký, để phần ấn chứng được phong phú thêm. Người ta có thể tu đạo thì chim cũng có thể tu đạo, thân hình người và chim tuy khác nhau, song tính linh giống nhau. Loài người lại thường kỳ vọng hóa làm chim bay lên trời, chim lượn trên không, tiêu dao tự tại, chốn tiêu dao tức là chỗ tự tại vậy, hoan nghênh chim bay về tổ, cũng mong người đời thả chim về núi rừng.

ĐIỂU SÀO THIỀN SƯ ĐỘ BẠCH THỊ LANG

Ngày xưa đức Phật Tổ ở Tây Trúc, thấy phụ nữ trầm luân nơi thế giới ta bà, tạo nhiều nghiệp quả tội lỗi, không lo trở lại gốc, về lại nguồn là ngôi nhà cũ tại cõi tây phương cực lạc, ngài bèn sai hai vị tổ sư giáng phàm, khuyên đời độ người. Hai vị tổ sư thưa: “Bẩm đức Thế Tôn, đệ tử sợ bị bụi phàm trần cuốn hút, không trở lại cõi cực lạc nổi”. Phật Tổ nói: “Nếu như hai người bị đọa, ta sẽ sai người khác xuống độ về”. Hai vị tổ sư lần lượt giáng phàm, đầu thai làm người, một người vào nhà họ Bạch, được đặt tên là Bạch Lạc Thiên, làm chức Quan Thị Lang. Một người vào nhà họ Mã, được đặt tên là Mã Thiên Chương, làm chức quan Hàm Lâm Viện Đại Học Sĩ. Mã Thiên Chương thường nghiên cứu kinh điển nên giác ngộ, từ quan bỏ nhà vào rừng Đại Song để tu hành, công quả tròn đầy, trở về được Tây Trúc gặp lại Phật Tổ.

Phật Tổ hỏi: “Ngươi giáng phàm độ được bao nhiêu người và bạn đồng hành đâu?”. Mã Thiên Chương đáp: “Thưa, sư huynh của con đầu thai làm nhà họ Bạch, được đặt tên là Bạch Lạc Thiên, làm chức quan Thị Lang, bị hồng trần quyến rũ nên không trở về nổi”. Phật Tổ nói: “Ngươi không độ nổi một chúng sinh, lại còn để thất lạc mất bạn đồng hành, mặt mũi nào trở lại đây nữa? Ngươi phải mau trở lại phàm trần độ Bạch Lạc Thiên mới được khôi phục địa vị cũ”. Mã Thiên Chương khi ấy nghĩ, Bạch Lạc Thiên hiện tại tuổi gần tám mươi, nếu như ta tái đầu thai làm sao ta độ kịp. Tuy nghĩ vậy song cũng vẫn lên đường, khi tới Lục Thủy Kiều ở Tần Vọng Lãnh, thấy bên đường có một cây tùng cổ, trên cây có một tổ chim, nguyên linh Mã Thiên Chương liền nhập vào một trứng chim, đầu thai làm con chim mặt người, gọi là Điểu Sào Thiền Sư (thiền sư tổ chim) suốt ngày ngồi thuyết pháp, khuyến thế độ nhân.

Có một bữa Bạch Thị Lang cưỡi ngựa vào triều, khi qua Lục Thủy Kiều ở Tần Vọng Lãnh, thấy dân chúng tụ họp đông đảo, Bạch Thị Lang bèn kêu kẻ hầu tới xem tại sao dân chúng lại tụ họp ở đó? Kẻ hầu tới coi xong trở về bẩm lại đầu đuôi. Thị Lang nghe xong nói: “Như vậy thực sao?” liền thúc ngựa tới trước, cất tiếng hỏi: “Thưa, thiền sư giảng kinh gì? Hành pháp gì?”. Thiền sư đáp: “Ngươi đi đường ngươi, ta giảng kinh ta, gặp gỡ mà không xuống ngựa thì cứ mỗi người một ngã”. Bạch Thị Lang liền xuống ngựa hỏi tiếp: “Thiền sư sinh ở đâu? Ban ngày hóa độ duyên gì? Ban đêm nghỉ ngơi ra sao?”. Thiền sư đáp: “Ta sinh từ trời vô hình, ngụ tại chốn thông xanh, hóa độ người có duyên nơi ngã tư đường, đêm dĩ nhiên không nơi an nghỉ”. Bạch Thị Lang lại hỏi thiền sư: “Thưa, thế nào là chính giống, thế nào là chính tông, thế nào là quyến thuộc, thế nào là thiên đàng, thế nào là địa ngục?”.

Thiền sư đáp: “Theo ta Tam Tạng kinh điển là chính tông, chư Phật khắp chốn gầm trời là quyến thuộc, gặp người hiền là thiên đàng, gặp kẻ ác là địa ngục”. Bạch Thị Lang hỏi: “Kính thưa tôn sư, thế nào là đạo?”. Thiền sư đáp: “Chỉ làm điều thiện, không làm điều ác, đó là đạo vậy”. Bạch Thị Lang nói: “Lời dạy của tôn sư trẻ thơ ba tuổi cũng hiểu nổi”. Thiền sư nói: “Trẻ thơ ba tuổi hiểu đạo, còn ông lão tám mươi thực hành không được”. Bạch Thị Lang nói: “Thấy thiền sư ở trên cây cao trăm trượng há chẳng nguy hiểm sao?”. Thiền sư làm một bài kệ rằng:

Thân cư cổ thụ ngũ trượng cao
Không trung ký túc vĩnh kiên lao
Thanh phong minh nguyệt thường tác bạn
Tung hoành tự tại lạc tiêu dao.

Ngọn cây ta ở thực là cao
Trời đất làm nhà vững biết bao
Trăng trong gió mát thường làm bạn
Tung hoành tự tại sống tiêu dao.

Thiền sư nói: “Ta thấy Thị Lang nguy hiểm hơn ta gấp bội”. Bạch Lạc Thiên hỏi: “Đệ tử cai quản giang sơn, làm quan chỉ dưới một người, nhưng trên cả vạn kẻ, nguy hiểm nổi gì?”. Thiền sư đáp: “Lá khô gặp lửa, gió lùa không ngớt, há chẳng nguy sao?”. Thiền sư làm bài kệ rằng:

Vi quan tận nhật bạn quân vương
Nhật bạn quân vương bạn hổ lang
Ngũ canh tam điểm triều hoàng đế
Triều hoa diễm dã mạc thê lương.

Làm quan là bạn với quân vương
Bạn với quân vương bạn hổ lang
Sáng sớm mỗi ngày chầu bệ ngọc
Chầu hoa nở đẹp chẳng thê lương.

Bạch Thị Lang nghe xong kệ liền giác ngộ, muốn bái thiền sư làm thầy, nên nói: “Đợi ít tháng nữa đệ tử sẽ tới bái ngài làm thầy để tu hành”. Thiền sư cũng bằng lòng. Bạch Thị Lang lạy chào tạm biệt ra về, nhưng sau lại bị bụi trần cuốn hút, nên chưa tới ra mắt. Một buổi thiền sư thấy Bạch Thị Lang còn bị tình đời cột chặt, nên thân chinh tới phủ đường nhưng không gặp mặt, bèn làm một bài thơ viết trên tường như sau:

Đao bút vi quan tứ thập niên
Thị thị phi phi hữu vạn thiên
Nhất gia bão noãn thiên gia oán
Bán thế công danh bách thế oan.

Gươm bút làm quan bốn chục năm
Sai sai đúng đúng biết bao lần
Một nhà no ấm ngàn nhà oán
Nửa kiếp công danh vẫn kiếp oan.

Một hôm Bạch Thị Lang ra ngoài nhìn thấy bài thơ, chợt giác ngộ, trở vào gặp vợ, Bạch Thị Lang nói: “Ta tuy làm chức quan to, song tương lai nào tránh khỏi chết, khi đó xuống tới âm ty, tám cân tội lỗi nặng nề gánh sao nổi, bởi thế nay ta phát nguyện vào núi tu hành cho nhẹ bớt”. Phu nhân đáp: “Tướng công nghĩ sai rồi, sống chung suốt đời trong một nhà là nhờ phúc một người, thì dù tám trăm hay ngàn vạn cân tội nghiệp đi nữa, cả nhà cũng chen vai vào gánh đỡ tướng công, há còn đáng lo ngại đến nỗi cần phải vào núi tu hành nữa sao?”. Bạch Thị Lang nói với phu nhân: “Đêm nay ta bày một tiệc rượu, chăng đèn kết hoa, cả nhà quây quần cùng nhấp chén”. Tới giữa bữa tiệc, sau khi đã uống xong ba tuần rượu, tướng công liền thổi tắt một ngọn đèn, rồi hỏi mọi người ai là kẻ thổi tắt đèn? Cả nhà đều rõ là Bạch Thị Lang đã tự mình thổi tắt nên chẳng ai dám nhận.

Bạch Thị Lang bèn hỏi đại phu nhân: “Nàng thổi tắt đèn phải không?”. Đại phu nhân trả lời: “Thưa thiếp không biết”. Hỏi nhị phu nhân: “Nàng thổi tắt đèn phải không?”. Nhị phu nhân đáp: “Thưa cũng không rõ”. Hỏi tam phu nhân: “Nàng thổi tắt đèn phải không?”. Tam phu nhân đáp: “Thưa cũng không rõ”. Hỏi tứ phu nhân: “Nàng thổi tắt đèn phải không?”. Tứ phu nhân đáp: “Thưa cũng không biết”. Sau cùng hỏi con: “Mi thổi tắt đèn phải không?”. Con đáp: “Rõ ràng là chính cha thổi tắt đèn còn hỏi mọi người”. Bạch Thị Lang nói: “Giờ ta hiểu rõ lòng mọi người trong nhà, ta chỉ mới thử thổi tắt một ngọn đèn nhỏ mà hỏi cả nhà chẳng ai dám nhận, vậy nếu ta phạm tội ngày sau xuống âm ty gặp Diêm Vương mặt sắt không thân thì sẽ ra sao? Làm thiện tại dương gian, xuống âm phủ có người kính nể, đón đưa khắp chốn. Còn phạm lỗi xuống âm ty có mười tám tầng địa ngục, gánh vác tám trăm cân nặng nề, hỏi ai là người trong nhà chịu ghé vai chia xẻ? Biết rõ đời chẳng thể sống mãi, nên nay ta nguyện vào núi tu hành học đạo”. Bạch Thị Lang làm một bài kệ:

Hội hợp đường tiền nhất trản đăng
Ngã kim suy diệt hữu thùy thừa
Nhất gia đại tiểu vô nhân nhận
Thùy khẳng phân đảm bát bách cân.

Thắp ngọn đèn lên họp một nhà
Ta liền thổi tắt hỏi xem ai
Không người can đảm giơ tay nhận
Thì hỏi ngàn cân gánh được sao.

Bạch Thị Lang nói: “Thí dụ thân mình bệnh hoạn đau đớn, chỉ mình mình chịu khổ, không ai chịu thế được”. Bữa sau Bạch Thị Lang liền tới Bạch Thủy Kiều ở Tần Vọng Lãnh bái Điểu Sào Thiền Sư làm thầy tu hành học đạo. Bốn vị phu nhân thấy tướng công vào núi tu, nhớ tình chồng vợ lệ chảy ròng, lòng đau như cắt. Kẻ hầu bèn thưa với bốn vị phu nhân rằng: “Các phu nhân chớ khổ đau vô ích, để con vô núi mời tướng công về sum họp”. Kẻ hầu bèn tới Lục Thủy Kiều thuộc Tần Vọng Lãnh thưa với Bạch Thị Lang rằng: “Con thừa lệnh phu nhân tới đây mời tướng công trở lại phủ đường, gia đình đoàn tụ”. Bạch Thị Lang nói: “Ta đã xin với tôn sư ở đây học đạo tu hành, sống đời thanh nhàn tiên thánh, không lo không buồn, lòng an lạc vô biên”. Kẻ hầu lại thưa: “Vợ chồng ân sâu tình nặng, quan tước vinh hoa phú quý, tướng công dứt bỏ hết sao? Kính mong tướng công về lại nhà để cùng chung hưởng hạnh phúc”. Bạch Thị Lang nói: “Vợ chồng vốn như chim ở cùng rừng, gặp lúc khốn nguy mỗi con bay một ngả, vinh hoa phú quý có nghĩa gì, chớp mắt tan như bọt nước. Ta nay hiểu rõ tình đời, không muốn trở về, đợi ta thảo một bức thư, ngươi mang về trình để phu nhân rõ”. Kẻ hầu trở lại phủ đường, trước thuật lại cặn kẽ những lời Bạch Thị Lang nói, sau trình thư lên, bốn vị phu nhân liền bóc thư coi thấy một bài kệ như sau:

Vi quan chung nhật tế trầm ngâm
Tử bào vô tâm lãn chỉnh khâm
Tội nghiệp án tình do ngã tác
Âm ti địa phủ hữu thùy thân.
Tức tương quan chức vi tăng chức
Thoát kiếp phàm thân tức Phật thân
Kí ngữ hiền thê hưu tái hội
Tòng kim bất tất vấn lai âm.

Làm quan mà tánh lại u trầm
Áo mão coi khinh chẳng chú tâm
Duyên nghiệp đều do ta tự chuốc
Âm ty địa ngục hẳn đành quên.
Liền đem tăng chức thay quan chức
Thoát kiếp phàm thân tức Phật thân
Nhắn vợ từ đây thôi gặp mặt
Coi như hai kẻ chửa hề quen.

Bốn vị phu nhân xem xong, đại phu nhân nói: “Tướng công quyết chí tu hành như thế này, thì chị em mình có nên phát nguyện tu hành như tướng công không?”. Ba vị phu nhân cùng thưa: “Nguyện cũng tu hành”. Đại phu nhân bèn viết một lá thư giao cho người hầu trình lên để tướng công thấu rõ sự tình. Người hầu vâng lệnh vào núi xin ra mặt tướng công, thưa rằng: “Bốn vị phu nhân đã phát nguyện cùng tu, và xin trình ngài một bức thư”. Tướng công mở ra coi thì thấy một bài thơ như sau:

Giam thư nhất đáo tức khai ngâm
Độc bãi thê nhi lệ mãn khâm
Liệt nữ bất kham trùng tái hội
Phu thê hà tất cánh tương thân.
Quân kim kí ngộ vi tăng khứ
Thiếp diệc vi quân xả sắc thân
Đản nguyện tây phương đồng thiện quả
Cửu liên đài thượng lễ Quan Âm.

Vội vàng thư tới mở xem liền
Lệ nhớ gia đình đẫm áo khăn
Liệt nữ chẳng mong ngày tái hợp
Vợ chồng há lại chuyện chung chăn.
Chàng làm tăng lữ lìa nhân thế
Thiếp cũng làm ni rũ bụi trần
Cõi Phật chung lo tròn đạo quả
Chín tòa sen ngự lễ Quan Âm.

Bạch Thị Lang xem xong thư, liền thầm nói: “Không thể người vợ hiền lại có được đức tin như vậy, ta phải trở lại phủ đường khuyên toàn gia tu hành”. Rồi quay qua bảo người hầu: “Ngươi hãy về trước, ta sẽ về sau”. Người hầu trở lại phủ đường thưa rõ sự tình cho đại phu nhân hay, rồi cả bốn phu nhân đều sửa soạn chỉnh tề nghênh tiếp tướng công. Bạch Thị Lang thấy vậy liền làm một bài kệ như sau:

Kim chi ngọc thể thương nhân kiếm
Đầu thượng châu thúy thích nhân thương
Yên chỉ phấn hoa mê nhân quỷ
Nhãn trung lưu lệ bát nhân thang.

Thân ngọc là gươm hại cõi đời
Trâm vàng là súng giết bao người
Mặt hoa da phấn mê hồn quỷ
Nước mắt đắm chìm tát chẳng vơi.

Đại phu nhân thưa rằng: “Tướng công lìa bỏ bốn chị em thiếp, chẳng ngó ngàng tới phủ đường lầu son gác tía cùng trăm ngàn thứ gấm vóc lụa là”. Bạch Thị Lang đáp một bài kệ là:

Cao lâu bất cửu thuộc hoang mẫn
Cẩm tú do như chỉ phá cừu
Lâu các thiên gian khoa hà dụng
Nan miễn vô thường nhất đán hưu.

Lầu son gác tía được bao đời
Nhung gấm cũng thành giẻ rách thôi
Cửa rộng nhà cao rồi đổ nát
Làm sao tránh khỏi luật ông trời.

Đại phu nhân thưa rằng: “Tướng công lìa bỏ được nhà cao cửa rộng, nhưng còn vàng bạc châu báu liệu có bỏ nổi không?”. Bạch Thị Lang liền đáp bài kệ là:

Hoàng kim bán bích vị thị kim
Đồng sàng cộng chẩm vị thị thân
Song thủ bát khai sinh tử lộ
Chung nhiên kim ngọc phó tha nhân.
Nhị thập niên tiền thị ngã thê
Tức kim phu yêu phân li tán
Trì đao cát đoạn yêu hạ đái
Nễ tại đông lai ngã tại tây.

Châu báu ngọc vàng quý hóa chi
Chung chăn chung gối có ra gì
Cốt sao thoát khỏi vòng sinh tử
Vàng ngọc đem cho kẻ khác đi.
Làm vợ ta từ mấy chục năm
Nay ta xa cách bỏ ăn nằm
Quyết tâm cắt đứt vòng danh lợi
Chia biệt đông tây chẳng hỏi han.

Đại phu nhân thưa: “Tướng công quả dốc tâm tu hành, đáng là bậc nam nhi chí khí, thiếp nay cũng muốn phát tâm tu hành”. Thị Lang trả lời: “Nàng là phận nữ yếu đuối, chẳng rõ có đủ dũng chí tu hành nổi không?”. Đại phu nhân thưa: “Thiếp thấy đời như một cuộc cờ, sắp bày ra để rồi lại xóa đi ngay”. Quả là: “Trong triều tể tướng canh ba mộng. Ngàn kiếp quân vương một cuộc cờ” (Triều trung tể tướng tam canh mộng. Thiên tải quân vương nhất cuộc kỳ). Đại phu nhân làm bài kệ là:

Châu quan bảo bối kim bất yêu
Phu thê ân tình kim nhật hưu
Tiền sinh bất tu kim vi nữ
Thành tâm dụng ý tái trùng tu.
Phu yêu tu lai nô yêu tu
Nhân duyên tùy phận độ xuân thu
Tam giáo thánh nhân nam tử tác
Quan Âm bồ tát nữ nhân tu.

Phú quý vinh hoa dạ chẳng màng
Vợ chồng duyên nghiệp hết đeo mang
Chẳng tu kiếp trước thân ô trược
Quyết gột đời này tánh sạch trong.
Đạo pháp cùng chung lo phụng sự
Cơ trời chuyển biến ắt thành công
Thánh nhân tam giáo chàng đeo đuổi
Bồ Tát Quan Âm ấy thiếp gương.

Thị Lang hỏi: “Đại phu nhân đã muốn tu, nhị phu nhân nghĩ sao?”. Nhị phu nhân đáp: “Thiếp cũng muốn noi gương đại phu nhân tu hành”. Thị Lang hỏi tiếp: “Nàng hiểu tu hành như thế nào?”. Nhị phu nhân đáp: “Thiếp nhớ xưa cư sĩ họ Bàng, đem của cải vàng bạc ném hết xuống biển, người thiếp của họ Bàng an phận thủ thường, bán nấm sống qua ngày, về sau cũng tu thành chính quả, nay thiếp cũng theo cách đó tu hành”. Nhị phu nhân làm bài kệ rằng:

Châu thúy lăng la kim bất yêu
Uyên ương tú chẩm kim nhật hưu
Ngã kim yêu học sùng chiêu nữ
Phương hiển nô gia đạo pháp cao.
Phu yêu tu lai nô yêu tu
Tây phương diệu ý các tự cầu
Thập bát la hán nam tử tác
Văn Thù bồ tát nữ nhân tu.

Vàng ngọc lụa là chẳng thích đâu
Gối chăn hạnh phúc cũng không cầu
Giờ đây chỉ muốn noi gương cũ
Mai mốt tu hành đạo hạnh cao.
Phật đạo chung lưng lo phụng sự
Tây phương hợp lực bắc cây cầu
Lối xưa La Hán chàng rong ruổi
Bồ Tát đường mòn thiếp gắng theo.

Thị Lang hỏi: “Nhị phu nhân đã muốn tu, tam phu nhân nghĩ sao?”. Tam phu nhân đáp: “Thiếp cũng xin noi gương nhị phu nhân tu hành”. Thị Lang hỏi tiếp: “Nàng hiểu tu hành như thế nào?”. Tam phu nhân đáp: “Thiếp nhớ xưa Lương Vũ Đế vứt bỏ giang sơn, đạp đổ ngai vàng, về sau tu thành chính quả. Hoàng hậu họ Đường bỏ trai giới về sau bị đọa, lãnh nghiệp rắn báo oán, Lương Vũ Đế nghĩ tình chồng vợ, nhờ thiền sư Chí Công cứu độ mới được siêu thăng”. Tam phu nhân làm bài kệ:

Phu phụ ân tình kim nhật ly
Mộc dục trai giới kim nhật trì
Ngã kim yêu học Lương Vũ Đế
Thất bảo kim thân trí tuệ minh.
Phu yêu tu lai nô yêu tu
Tây thiên nhất khí các tự cầu
Tam thiên chư Phật nam tử tác
Phổ Hiền bồ tát nữ nhân tu.

Chồng vợ ái ân đã chẳng mong
Trì trai giữ giới gắng chay lòng
Cố theo chí sáng vua Lương Võ
Hầu đạt tâm minh xác hóa vàng.
Chung bước mình cùng lo đạo pháp
Dốc tình ta sẽ tới tây phương
Ba ngàn chư Phật chàng theo gót
Bồ Tát Phổ Hiền thiếp ngắm gương.

Bạch Thị Lang hỏi: “Tam phu nhân đã muốn tu, tứ phu nhân nghĩ sao?”. Tứ phu nhân đáp: “Thiếp tuy là phận nữ lưu, tuổi còn trẻ trung, song cũng muốn theo gương tam phu nhân tu hành”. Thị Lang nói tiếp: “Chỉ sợ nàng bỏ dở nửa chừng”. Tứ phu nhân đáp: “Thiếp nhớ xưa Công Chúa Diệu Thiện, bỏ quên nhan sắc, không cầu phò mã, về sau tu thành Quan Âm Bồ Tát, muôn đời còn truyền tụng, nay thiếp cũng theo gương tam phu nhân tu hành”. Tứ phu nhân làm một bài kệ như sau:

Thập bát thanh xuân tâm ý kiên
Vi trước sinh tử khẩn hướng tiền
Ngã kim yêu học Diệu Thiện dạng
Thành tâm đồng hổ diệc bất huyền.
Phu yêu tu lai nô yêu tu
Trường sinh diệu quyết các tự cầu
Bát động thần tiên nam tử tác
Dao trì vương mẫu nữ nhân tu.

Mười tám tuổi đời quyết trí trì
Coi thường sống chết một đường đi
Không thua người trước quên thân ngọc
Chẳng kém ta nay nguyện dũng bi.
Sát cánh bên nhau lo hiệp lực
Kề vai thân cận gắng cùng tu
Thần tiên chàng có nương theo gót
Vương Mẫu gương trong thiếp tự soi.

Bạch Thị Lang bèn nói: “Một nhà lớn nhỏ đều muốn tu, ngày sau về cõi cực lạc, hẳn không phụ công lao ta tu hành”. Bạch Thị Lang còn đọc tiếp:

Cảm tạ bồ tát ám phù trì
Tứ vị phu nhân đồng quy y
Phàm gian tương hội tri giác tỉnh
Phật bảng tiêu danh chúng nhân tri.
Nhất gia đại tiểu câu hồi đầu
Đa tạ hiền thê giải ngã sầu
Khổ hải trầm mê kim thượng ngan
Tiền sinh tu lai kim hựu tu.

Cảm tạ thần tiên đã độ trì
Bốn nàng đường đạo quyết tâm đi
Trần gian gặp gỡ cùng hành pháp
Tên tuổi đời sau bảng Phật đề.
Lớn nhỏ một nhà đều kính Phật
Hiền thê đức hạnh giúp dùm ta
Trầm luân biển khổ giờ ra khỏi
Kiếp trước đã tu nay lại tu.

Bạch Thị Lang làm kệ xong, liền dẫn cả nhà lên núi xin làm đệ tử Điểu Sào Thiền Sư, ra tới cổng, thấy trên tường có một bài thơ:

Mãn khang tồn trắc ẩn
Phiến niệm tuyệt phấn triền
Hồi tâm tri cảm ngộ
Tham đạo học thánh hiền.

Ray rứt thấu xương tủy
Phút giây sạch bụi trần
Hồi tâm cùng giác ngộ
Theo đạo học tiền nhân.

Bạch Thị Lang bèn làm một bài kệ:

Tử bào kim đái vô tâm yêu
Ma y trụ trượng tụ thiên nhiên
Hữu nhân vấn ngã tu hành lộ
Vân tại thanh sơn ngã tại thiên.

Chức trọng quan to chẳng muốn rồi
Áo gai gậy trúc sống mà thôi
Có người vặn hỏi đường tu đạo
Mây ở núi sâu trăng ở trời.

Bạch Thị Lang đi đến nửa đường gặp người bạn cũ tên là Lý Quan Sát bảo rằng: “Trong nhà có một người từ biển lên, thấy một nơi tiên cư ngụ nói là Bạch Lạc Thiên cũng ở đó, bữa nay chắc chắn sẽ gặp nhau”. Nói xong liền làm một bài thơ tặng Thị Lang. Bài thơ đó như sau:

Cận hữu nhân tòng hải thượng lai
Hải sơn thử xứ kiến lâu đài
Trung hữu tiên phòng khai nhất tòa
Thử xứ yêu đãi Lạc Thiên lai.

Góc biển có người mới tới đây
Lâu đài sông núi chính nơi này
Trong hang Tiên Phật ngồi thiền định
Chốn ấy thiên đàng sống sướng thay.

Bạch Thị Lang xem thơ xong, mỉm cười làm một bài thơ họa lại:

Ngô học chân không bất học tiên
Khuyến quân thử ngộ mạc truyền chân
Hải sơn phi thị ngã cư trú
Quy giả quy khứ cực lạc thiên.

Học hết đạo tiên học đạo trời
Hãy mau giác ngộ hỡi người ơi
Non sông chẳng phải nhà ta ở
Chỉ có thiên đàng chốn ấy thôi.

Bạch Thị Lang họa thơ xong, liền cùng bốn vị phu nhân vào núi bái Điểu Sào Thiền Sư làm thầy, tu hành tinh tấn, về sau cả nhà tu thành chính quả.

Tế Phật: Bữa nay xin cảm tạ thiền sư đã giảng về lẽ đạo siêu diệu qua nhiều thiên sách, ngoài ra còn phụ thêm một chương tả về hành trình tu tiến của Bạch Thị Lang, người đời đọc xong nhất định sẽ giác ngộ, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.

Dương Sinh: Bữa nay nghe được nhiều thiên sách giảng về lẽ đạo siêu diệu của thiền sư, tai mắt sáng rõ, tâm linh thức ngộ, xin đa tạ.

Thiền Sư: Không có chi, chào tạm biệt.

Dương Sinh: Thưa, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#22 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 10:21

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI MƯỜI LĂM

TẠI QUÁN “CÂY CÒN” ĐÀN CHÓ ĐẦY PHẪN NỘ

NƠI NHÀ HỌ TRẦN CHÓ TRẮNG BÁO ƠN XƯA

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 21 tháng 11 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Dạ lai Thánh Đức tả kim tiên
Ân cập phi cầm bố đại thiên
Chính hợp thiên thời khai phổ độ
Thu viên vạn lợi luyện thần tiên.
Hồ thuyết Tế Phật cẩu nhục lương
Gia gia cứu khổ tạo từ hàng
Tâm hoài đại đạo kỳ khuông thế
Khởi cảm tham luân bão đỗ trường.

Dịch

Bút giáng Thánh Đường hiện mỗi đêm
Muôn loài khắp chốn được ban ơn
Trời cao đang lúc ban chân pháp
Mọi giới mau lo luyện thánh tiên.
Thịt chó vu oan Phật Sống ăn
Nhà nhà cứu độ thoát dương trần
Mong đem đạo lớn truyền nhân thế
Thơm nức cầy tơ há dám tham.

Tế Phật: Các loài cầm thú cùng tất cả chúng sinh là một, vì thú và người cùng ở trên mặt đất, chúng lại được trời cao ban cho quyền sống giống như người. Người đời đói biết ăn no, rét biết mặc ấm, biết đau biết đớn, cho nên cũng là loài sinh vật có tình cảm, có giác quan, sinh mệnh quả là có nhiều sinh lực. Người ta lúc không còn sự sống chẳng khác nào là đồ phế thải. Nhân loại có được loài vật thân yêu do trời sinh ra để cùng chung sống quý hóa biết bao, bởi vậy phải biết luật sống hòa đồng để duy trì mối tương quan tương ái. Loài vật hóa trang giúp loài người là những diễn viên trên trái đất, nên loài vật đã trở thành bạn đường thân thiết của loài người. Song có một thiểu số thiên lệch, không chịu nhìn nhận sự thực này, để rồi đưa đến cảnh giết chóc khiến thịt đổ máu rơi. Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh phỏng vấn một số động vật để thâu lượm tài liệu sống khuyến hóa bến mê. Dương Sinh lên đài sen, chuẩn bị khởi hành.

Dương Sinh: Thưa, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã đến nơi, Dương Sinh xuống đài sen.

Dương Sinh: Thưa, vừa lên đài sen lại xuống ngay là tại sao?

Tế Phật: Bán anh em xa mua láng giềng gần, bữa nay chẳng cần đi xa, tới chợ ở Đài Trung cũng gặt hái được kết quả.

Dương Sinh: Thưa gặt hái kết quả gì?

Tế Phật: A, thịt cầy nướng. Con hãy nhìn quán bên đường kia, trên lồng đèn có viết dòng chữ “Mộc Tồn Vương Nhục”.

Dương Sinh: Thưa con đã nhìn thấy cái lều bán thịt chó dựng bên đường, ban ngày đi qua đây không thấy có chợ họp.

Tế Phật: Chợ thịt cầy thường họp vào ban đêm lúc khí trời lành lạnh mới hấp dẫn.

Dương Sinh: Có nhiều chó sủa bên ngoài quán, giống như muốn nhào vô cắn người trong quán, có kẻ nằm lăn ra ngủ, có kẻ ngồi trên ghế không giống khách hàng, hai mắt đỏ ngầu, nắm tay đập xuống bàn rầm rầm, như có ý đòi nợ chủ quán.

Tế Phật: Đó là những nguyên linh chó bị giết thịt, sau khi chết trong lòng uất ức, liền theo máu thịt núp trong quán, khách ăn thịt uống rượu rất khoái chí nhưng không hay phía sau lưng, oan hồn chó sủa không dứt. Những kẻ ngồi trên ghế nắm tay đập bàn rầm rầm cũng là một oan hồn chó bị giết, vì nguyên linh mạnh mẽ nên nó đã hóa thành hình người, lòng vô cùng phẫn uất, khăng khăng đòi nợ kẻ đã giết nó, quả là hồn oan chẳng thể tiêu tan.

Dương Sinh: Người đời thường nói ân sư lúc còn ở thế gian rất thích ăn thịt chó, bữa nay tới đây chắc hẳn thầy cũng sẽ ăn một bữa thật no nê.

Tế Phật: Trò ngoan thật khéo pha trò, ta ăn thịt chó nhưng không phải thứ thịt chó này mà là loại chó trời, thứ đó mới chính hiệu “vương nhục” còn đây chỉ là loại thịt chó phàm tục thì làm sao có thể gọi là “vương nhục” được.

Dương Sinh: Thưa tại sao lại gọi là thịt chó trời? Quả là lần đầu tiên con mới được nghe nói tới.

Tế Phật: Tục ngữ có câu: “Ăn thịt cóc hủi lại ngỡ thịt ngỗng trời!”. Còn ta thì quan niệm kẻ phàm tục không được ăn thịt chó trời, vậy chó trời là gì? Sao lạ vậy? Kì hơn nữa người đời đề phòng trộm cắp, ngoài cổng lại còn đề câu: “coi chừng chó dữ”. Trong các truyện viết về Tế Công soạn giả cho người đọc thấy ta là một hòa thượng chuyên ăn thịt chó, nhiều kẻ liền tin ngay không chịu nghĩ sâu, chẳng lẽ ta đã xuất gia mà lại còn phá giới phá luật được ư! Tiểu thuyết chỉ là giả tưởng như rượu bỏ thêm men, nguyên nhân chỉ tại ta vốn là la hán hóa thân, kiếp trước đạo pháp thâm hậu cho nên lúc ở chùa Linh Ẩn bị nhiều kẻ ghét. Mỗi khi ta làm pháp luân thường chuyển, nước ngọt quỳnh tương tuôn chảy khắp châu thân, tỉnh tỉnh say say quay cuồng cùng trời đất, cho nên họ tưởng là ta say rượu. Rượu tục làm loạn trí, rượu thánh an định trí, biết bao lần ta đã cắn răng co lưỡi, chỉ đôi khi nói ít câu về thiền định, thử hỏi có gì quá quắt lắm đâu?

Mua rượu phải có tiền mà ta thì lại túi rỗng. Mặc dù hai tay trắng, nhưng khi muốn uống rượu bồ đề không phải rượu thường thì ta lại chỉ cần với tay là có, không tiền cũng vẫn trả được vì đó chính là mưa pháp cam lộ tắm gội tâm linh thức tỉnh trong lành. Có những kẻ phàm tục mới uống ít chén đã say sưa ói mửa, nghiêng nghiêng ngửa ngửa ma men hành hạ cả thể xác lẫn tâm hồn. Ta là Phật Sống đồng thời cũng là quỷ say làm sao so sánh được? Còn việc ăn thịt chó thì trong mỗi con người ai chả có một con chó thực ác độc, tham dâm ngang ngược, chuyên cắn trộm chủ nhân, lỡ có thứ chó này không giết mà nhậu quách đi, còn muốn nuôi nó tới bao giờ? Người đời không rõ lẽ đó, nên đã vô tình nuôi một con chó ác độc đó trong người, mỗi lần có cướp trộm tới nó liền cúi đầu quẫy đuôi hân hoan đón tiếp, nhưng khi thấy chủ thì cắn lại liền, loại chó này ta rất thích nhậu thịt nó.

Dương Sinh: Những lời ân sư vừa chỉ dạy, ân sư đã lấy ác niệm trong tâm người đời ra ví dụ. Thứ chó ác độc ấy cũng là nguyên linh của người, vốn trong sáng thuở chưa giáng phàm biến thể thành cho nên còn gọi là chó trời. Ăn thịt chó trời biểu thị giết chết được vọng niệm, trừ khử nổi tư dục, diệt sạch được tà kiến, thưa có phải như vậy chăng?

Tế Phật: Đúng vậy, chúng ta bất kì nằm ngồi đi đứng lúc nào cũng pháp luân thường chuyển thì nước ngọc quỳnh tương tràn đầy, chân khí bay lên như hơi men rượu bốc ngất ngây, trong lòng vô cùng sung sướng, hoàn toàn tự tại. Những tăng ni tâm ưu ý sầu, có hột bồ đề mà không biết đem trồng ở đâu, lòng chẳng nở hoa hôn mê chìm đắm không thể chịu nổi, lối tu khổ hạnh này không thể chịu nổi, lối tu khổ hạnh này vô ích. Ta có quạt bồ, quạt một cái là có gió mát trong lành. Một đôi giày cỏ, đạp khắp chân trời góc biển. Một chiếc mũ nỉ che tai về thăm nước Phật. Chuyên đánh chó dữ khuyên đời, thích nâng chén lành để tâm được tĩnh, có gì chẳng được? Người đời nếu như có lực đạo này tâm tính không điên loạn, chân tay không cuống quýt, học pháp Tế Công ta ắt thành Phật Sống.

Dương Sinh: Thưa ân sư vừa trình bày bí quyết tu đạo, phàm những ai có lòng chắc chắn sẽ lãnh hội được chân lý. Mùa đông lạnh lẽo nhiều kẻ ham ăn thịt chó, vì họ cho rằng thân thể sẽ được nóng ấm cường dương, những người thân thể yếu đuối cũng thường nghĩ vậy, còn ân sư ăn thịt chó trời có cảm giác ra sao?

Tế Phật: Vương nhục, vương nhục tại sao lại hấp dẫn người ta? Vì ăn nó vào thân thể nóng như thiêu như đốt, mà vẫn chẳng hay rằng hồn chó rên siết, quằn quại, giãy giụa, cắn nhai khiến huyết mạch trong người căng thẳng mà còn cho là bổ béo, không biết đó là tính chó hoành hành, lại còn cho là ơn ích, ăn rồi còn nhả ra chi bằng chẳng ăn có hơn không? Người xưa nói: “Tiết dục tốt hơn bồi bổ tinh dịch”. Nếu như người đời không mua thịt chó mà ăn thì ốm o gầy yếu cả hay sao?

Dương Sinh: Thưa, thịt chó không có hương tại sao người đời gọi là “hương nhục” tức thịt thơm?

Tế Phật: Kẻ bán thịt muốn đắt hàng mới gọi thịt chó là “vương nhục” hay “hương nhục” cốt để quảng cáo cho đông khách hàng. Chó hoang suốt đời không tắm, ăn xác chết sình thối cùng phân người, hãy ngửi chó thử coi hẳn là sẽ thấy hôi rình, các chủ quán thịt chó thử quảng cáo là “thịt chó hôi” xem có còn thực khách nào dám tới ăn không? Cho nên họ phải mượn cái tên đẹp đẽ “hương nhục” hay “vương nhục” là lẽ dĩ nhiên. Nếu như họ dùng dầu thơm tắm cho chó trước khi làm thịt thì cái tên “hương nhục” nghe còn có lý đôi chút. Chẳng kể chó hoang, chó có chủ thịt chúng ăn cũng không hợp vệ sinh, bởi lẽ chúng chuyên nằm dưới đất, phần đông mang đầy vi trùng bệnh hoạn. Khuyên người đời chớ ăn là hơn. Còn nếu như muốn ăn thì đừng nói là bắt chước Tế Phật, vì thịt chó mà Tế Phật ăn là thịt chó trời, do chính mình nuôi dưỡng nó, ngày ngày tắm rửa, đánh răng, xức nước bông, thuốc sát trùng thuốc tiêu độc, mỗi bữa đều cho ăn loại rau có tánh dược, hàng ngày dẫn lên núi tản bộ, đêm ngủ nằm chung giường thì đó mới là chó thuần bổ ích ăn thịt mới có lợi. Một khi chó đã thân cận với mình thì tình nghĩa nảy sinh sâu đậm, chưa kể lại còn giữ cửa, coi nhà dùm, lại nỡ lòng giết một người thân cận trung thành để ăn thịt cho bổ béo thân xác, thì chẳng hóa ra là kẻ lòng lang dạ sói sao? Hành động như vậy chỉ ích cho thân mà hại cho tâm, hối hận suốt đời.

Dương Sinh: Thưa, đệ tử thường nghe tăng chúng hay phỉ báng ân sư vì trước kia thầy thích ăn thịt chó, nay lại lớn tiếng thuyết về trai giới giữa đàn cơ khuyên dạy chúng sinh, há chẳng ngược với bản tính của ân sư sao? Hay là trước nhậu nhẹt rượu thịt quá nhiều, nay đã sửa sai, tự mình đổi mới, tạo công chuộc tội, thuyết pháp độ đời?

Tế Phật: Ha ha, tăng khùng tụng chính kinh khiến đám tăng chúng giả kinh nghi ngờ. Ngày xưa ta dùng thân Phật Sống biến hóa hình thể, giễu cợt thế tục, huệ nhãn của họ chưa mở, dùng mắt tục nhìn đời đương nhiên tự dìm mình trong vũng bùn. Chúng sinh đã hân hoan nghe ta giảng chính kinh, hiện tại nếu chẳng muốn thì cớ sao lại còn phỉ báng ta?

Dương Sinh: Bữa nay quán thịt cầy náo nhiệt vì thực khách quá đông.

Tế Phật: Vì thân xác họ suy nhược rồi, không còn cách nào ứng phó nên chỉ còn cách cầu cứu thịt chó thôi.

Dương Sinh: Thưa thịt chó bổ dưỡng cơ thể lắm sao?

Tế Phật: Giết chó không những bị cảnh sát bắt giải tòa vì hành vi thiếu đạo đức, thiếu vệ sinh nên dù cho có bổ đi nữa thì cũng là bổ ác, chẳng phải bổ thiện.

Dương Sinh: Thưa, vậy thì lẽ đạo đó ra sao?

Tế Phật: Chó rất trung thành với loài người, nên chẳng nỡ giết chó ăn thịt, nuôi gà vịt để ăn thịt thì nhiều mà nuôi chó để ăn thịt thì rất ít. Bởi vì hiếm chó cho nên những tay buôn thịt chó thường đánh bả cho chó chết rồi đem về làm thịt, nên thứ thịt chó đó có nhiều độc tố, ăn vào sinh ra nhiều chứng bệnh ngặt nghèo. Chó hoang chuyên lục thùng rác ăn đồ dơ bẩn thối tha, nên nó bị nhiễm nhiều loại vi trùng, có lắm kẻ sau khi ăn phải loại thịt của loài chó này, trúng độc không chữa trị nổi, bởi vậy người đời nên cử thịt chó là hơn.

Dương Sinh: Hiện có nhiều chó đang kêu gào rên siết ở sau quán, thưa ân sư có nên phỏng vấn chúng không?

Tế Phật: Rất cần phỏng vấn chúng, có thể phóng điển để chúng hiện hình thuyết pháp.

Dương Sinh: Kính xin ân sư điểm hóa hầu giúp chúng hiện hình người để cùng đàm đạo.

Tế Phật: “Chó ơi, chó ơi, các mi đều có Phật tánh, thân tuy hôi hám song nhiều người lại nói là thịt mi thơm, hãy ngẩng đầu lên, trước cái chết của thể xác chớ có kinh hoàng, oán giận, bạo tợn. Người ta không sợ thịt mi hôi mà lại còn xưng tụng là thơm, mi nên lấy đó làm hài lòng. Hãy thử nhìn xác con người sau khi chết coi, nó thối rình, không dám lại gần, chỗ thiêu xác chẳng ai bảo chốn đó thơm cả. Vậy thì được làm kiếp chó là điều vinh hạnh, hãy coi nhẹ và vất bỏ cái xác thân đã chết đó đi, mau giác ngộ bản lai tính Phật, không được kêu la rên siết hoài như vậy, mi không cắn thân thịt của họ nổi nên họ chẳng sợ mi. Hãy chấp nhận số mệnh, thịt hôi của mi đã thoát phàm trở thành chả thơm với cái tên đẹp đẽ ‘hương nhục’”.

Dương Sinh: Nghe xong lời dạy của ân sư, tâm linh chúng dường như được điểm hóa nên không còn thấy chúng oán hận sủa vang, mà chạy lại gần thầy trò mình mắt ứa lệ, quỳ gối, dần dần hiện rõ hình người, có nam có nữ, y phục đủ màu, nào trắng nào đen, nào cà phê sữa, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, vẻ rất thê thảm.

Tế Phật: Ta là Phật Sống Tế Công, phụng mệnh hướng dẫn thánh bút Dương Thiện Sinh tới đây phỏng vấn, vừa rồi ta đã ban Phật pháp điểm hóa cho các ngươi, ai nấy hãy thuật rõ lại nghiệp quả của mình để chép vào sách Luân Hồi Du Kí, một là lập công chuộc tội, hai là sinh linh siêu thoát, công đức vô lượng.

Chó Mực: Cảm tạ Đức Phật Sống Tế Công đã độ hóa cùng ân ban linh quang, chúng con chẳng may bị đầu thai làm kiếp chó, ăn cơm thừa, gặm xương gặm xẩu. Mùa đông giá lạnh đã không mảnh vải che thân lại còn bị người ta đem giết, thật là đau đớn không sao tả nổi, hi vọng lời vàng ngọc khuyên can của đức Phật Sống, kẻ lòng đang muốn giết, muốn bán cùng người miệng thèm ăn hẳn tâm sẽ tỉnh, kính xin ngài giải oan nghiệt cho tất cả chúng con!

Dương Sinh: Oan có thể giải không thể buộc. Các ngươi hiện thời thân đâu còn là thân sống mà là giả thân, nên để cho họ lấy xác, làm lông, ăn thịt cho thân họ ấm, há chẳng an nhiên tự tại lắm sao?

Chó Mực: Nói thì dễ mà làm mới khó. Khi bị giết đau đớn vô cùng, lông dựng đứng hết lên. Tôi sinh tại làng Thái Bình huyện Đài Trung, một bữa chạy rong ngoài đường bị một kẻ cầm gậy sắt từ phía sau đập tới trúng đầu, bể sọ, máu chảy lênh láng, nằm lăn ra đất giãy chết. Hắn bèn lượm lên thảy vào cốp xe hơi, trong đó có nhiều đồng loại cũng đang rên la thảm thiết. Chúng tôi bị hắn chở về nhà, ở nhà đã có sẵn thùng nước sôi, chúng tôi từng mạng một bị thảy vào, có kẻ còn đang ngoắc ngoải, gặp nước sôi lửa bỏng, chồm lên kêu bạn chạy trốn, rồi sau đó mới dần dần trút linh hồn, do đó sự thống hận tăng vượt bực. Bị nhúng vào nước sôi cả hồn lẫn xác đau đớn, muốn vỡ tim nứt phổi, sau đó bị lóc da, mổ bụng, lưỡi dao sắc cắt thịt nhức buốt, vô cùng kinh hoàng. Sau khi làm thịt xong người ta đem phân phối cho các quán thịt cầy, kiếm được tiền lời rất nhiều, chúng tôi sẽ tố cáo với Diêm Vương.

Tế Phật: Thôi đừng tố cáo, hãy tự kiểm thảo xem kiếp trước như thế nào?

Chó Mực: Thưa vâng, nghe lời khuyên của đức Tế Phật lòng con lắng dịu hẳn lại. Nhớ lại kiếp trước làm quan hành động chuyện mờ ám, chuyên tham nhũng hối lộ, thấy vợ con của kẻ thuộc cấp có nhan sắc liền thi hành thủ đoạn gian dâm, nếu như không nghe lời liền nghĩ kế hãm hại. Có một người vợ của kẻ dưới quyền con rất đẹp, con muốn mà không được liền nghĩ, trước bỏ tù chồng, sau làm áp lực với vợ bằng cách đòi điều kiện nếu như chịu hiến thân sẽ thả chồng ra. Người vợ vì quá thương chồng nên đành chịu nhục hiến thân. Sau đó con nghĩ nếu thả người chồng ra ắt chẳng còn những dịp may, cho nên lại khép tội chồng nặng hơn, để khỏi có ngày ra tù, rồi nói dối với người vợ là mặc dầu con đã ráng hết sức lo liệu cho chồng nàng, nhưng không thể cứu gỡ nổi, do đó chẳng còn cách nào khác có thể thả chồng nàng ra được. Người vợ thấy rõ kế gian manh của con vô cùng căm phẫn và tuyệt vọng, bèn uống độc dược quyên sinh, vì con phạm tội quá lớn này, sau khi chết bị chuyển kiếp đầu thai làm loài chó.

Tế Phật: Trước đã như vậy, giờ phải hiến thịt cho kẻ khác ăn há còn bất bình được sao? Kẻ ăn thịt ngươi, ngươi không nhận ra họ là ai sao? Đó chính là người vợ bị ngươi bức dâm nên tự sát chuyển kiếp đó, cõi u minh đã xếp đặt để cho người đó ăn thịt ngươi, thôi ngươi quên hết những nỗi giận hờn đi. Ngươi thấy người đó ăn rất ngon lành so sánh với cái thuở mi làm ác chẳng kém nhau đâu, đó cũng là lẽ nhân quả báo ứng, nên người mới ăn thịt ngươi như thế đó. Thời gian ở tại quán thịt cầy này đã lâu, thôi thầy trò mình tới nơi khác để thay đổi không khí.

Dương Sinh: Thưa tới nơi nào?

Tế Phật: Tới nhà số... thuộc hẻm 112 đường Đông Hưng, thôn Đông Hưng, làng Đại Lý, huyện Đại Trung, phỏng vấn một con chó rất có duyên với chủ. Thôi theo ta lên đài sen.

Dương Sinh: Thưa, xin tuân lệnh...

Tế Phật: Đã tới nơi, đây là nhà họ Trần, có nuôi một con chó vá, hàng ngày nó theo chủ đi đây đó, tối về ngủ chung giường với chủ thật quả như hình với bóng chẳng rời nhau. Trước đây có một độc giả của tạp chí Thánh Đức dẫn con chó đó tới Thánh Đức Đường, giới thiệu là con chó đó rất mực kỳ dị, khác hẳn những con chó khác, giờ hi vọng thầy trò mình phỏng vấn để nghe nó thuật rõ lại lai lịch của nó, con có muốn như vậy không?

Dương Sinh: Thưa con muốn lắm. Bữa trước Trần Tiên Sinh và một bạn đồng tu dùng xe chở con chó đó tới bản đường tham bái Tiên Phật cùng để cho các tín hữu phỏng vấn nó, con chó đó rất đẹp đẽ, hiền lành.

Tế Phật: Thầy điểm hóa cho nó để nó hiện hình người rồi phỏng vấn nó. “Tiểu Viên, Tiểu Viên cái tên mà chủ nhân thường thân mật xưng hô, sớm tối được gần nhau, hẳn là có tiền duyên, này chó kỳ dị ở thế gian ơi! Hãy thuật lại chuyện kiếp trước của ngươi”.

Dương Sinh: Ân sư vì chó mà ban pháp điểm hóa, niệm xong câu chú, chó dần dần biến thành một người con gái mặc áo trắng thêu hoa hồng, vô cùng diễm lệ.

Tế Phật: Trò ngoan có thể phỏng vấn.

Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, bữa nay đặc biệt theo thầy Tế Phật tới đây để phỏng vấn cô, vậy mong cô thuật lại chuyện kiếp trước cho tôi được rõ.

Tiểu Viên: À thì ra đức Phật Sống Tế Công điểm hóa cho tôi, nên mới rồi tôi có cảm giác như vừa tỉnh mộng, giống như đương từ nơi tối tăm chợt thấy ánh mặt trời... Tôi xin thuật lại chuyện kiếp trước cũng như kiếp này tôi làm kẻ hầu nhà họ Trần. Từ bé nhà nghèo tôi phải tới giúp việc cho nhà họ Trần, vì tôi làm việc chăm chỉ cho nên được chủ nhân quý mến, tôi họ Trương tên Viên nên cả nhà gọi tôi là Tiểu Viên và tôi lấy làm sung sướng lắm. Chủ nhân đối xử với tôi thật là tốt, đã từng giúp tiền để mua thuốc chữa cho cha mẹ tôi khỏi bệnh. Vì mang ân cứu mạng song thân, dần dần tôi đem lòng cảm phục yêu thương chủ nhà, song vì lễ giáo nghiêm ngặt, tôi chẳng dám hé răng nên mắc bệnh tương tư. Từ đó thân thể suy nhược ốm yếu. Có một bữa trong cơn mê sảng tôi đã âu yếm kêu họ tên chủ nhà, người vợ chủ nhà nghe được thấy vô cùng kỳ quái, âm thầm dò xét tình ý của tôi nên đã rõ sự việc, liền thuật lại với chồng.

Chủ nhà bèn tới an ủi tôi, khuyên tôi không nên nghĩ ngợi vẩn vơ, cố giữ cho tâm được trong sáng, cả nhà đối xử với tôi rất tốt, tôi cứ an tâm dưỡng bệnh mới là hay hơn cả, rồi mua thêm thuốc chữa trị cho tôi. Song vì căn bệnh tương tư của tôi đã lâu ngày, nên phổi bị lao, cuối cùng lìa bỏ cõi trần. Sau khi chết hồn xuống tới âm phủ, mối tình này khó quên, Diêm Vương thấy tôi bệnh tình trầm trọng, nên muốn cắt đứt nghiệp quả, song vì thời cơ chưa tới, đành phải chờ đợi tại âm phủ. Tới khi chủ nhân qua đời chuyển kiếp tái đầu thai làm người, thành gia lập nghiệp xong tôi mới được đầu thai làm chó để đền ơn kiếp trước.

Dương Sinh: Cô đã chung tình đến mức đó, cớ sao Diêm Vương không cho phép cô được đầu thai lên làm người, để cùng người chủ cũ sống đời chồng vợ?

Tiểu Viên: Vì người chủ nhà có nhân duyên chồng vợ với người khác, vả lại ba kiếp nhân quả của tôi tội nghiệp nặng nề, nên dù người chủ nhà đã giúp đỡ tiền bạc để cứu mạng cha mẹ tôi và mặc dù tôi rất chân tình song chỉ đủ làm thân khuyển mã để đền ơn thôi, chứ không đủ tư cách để chuyển kiếp đầu thai lên làm người sống đời chồng vợ.

Dương Sinh: A thì ra nguyên nhân là như vậy.

Tiểu Viên: Tôi ở quán bán chó, chủ nhân họ Trần thấy được, tự nhiên trong lòng vui thích, liền bỏ tiền ra mua tôi đem về. Ở nhà họ Trần mỗi ngày tôi một lớn khôn, hết lòng giữ nhà giữ cửa, luôn luôn làm tròn phận sự. Họ cũng đối xử với tôi rất tốt, hàng ngày tắm rửa cho tôi, vì kiếp trước có nhân duyên nên tôi và chủ nhà rất là thân mật, hình bóng chẳng rời nhau, ban ngày chủ nhân ra ngoài làm ăn buôn bán, đều cho tôi leo lên xe chở đi, mỗi bước có nhau. Ở nhà chủ luôn luôn để tôi leo lên ghế, tối đến cho tôi ngủ chung giường, chủ nhân bảo sao tôi nghe vậy liền, tới giờ đi làm tôi biết đánh thức chủ nhân tỉnh dậy, tuy không phải là vợ chồng thực sự song cũng cảm thấy vô cùng an ủi. Đó là nhân quả kiếp trước của tôi.

Dương Sinh: Thực là câu chuyện kỳ lạ chưa từng được nghe giữa người và súc vật lại có thể có được. Vì hiện tại ngôn ngữ chẳng thông, chẳng rõ có điều gì muốn nói cùng chủ nhân chăng?

Tiểu Viên: Vợ chồng chủ nhân đối xử với tôi rất tốt, nên lòng tôi vô cùng cảm kích, chỉ mong họ bớt bận rộn bởi kế sinh nhai, có dư thì giờ nghiên cứu kinh sách, gần người hiểu đạo tu tâm dưỡng tính, sửa đổi được những thói quen không mấy tốt lành, có như vậy kiếp tới mới có thể phiêu diêu miền cực lạc, hoặc chuyển sinh vào một gia đình tốt đẹp hơn. Nếu như đọa lạc không tu chắc chắn kiếp tới sẽ xuống dốc rất nhiều, khi ấy hẳn là lòng tôi đau đớn lắm.

Dương Sinh: Hoàn cảnh này thực là cảm động, mong chủ nhân thể hiện được đời sống tinh thần trong lành để người con gái si tình kiếp trước khỏi thất vọng.

Tế Phật: Câu chuyện người con gái si tình Tiểu Viên khiến ta xúc động vô cùng, đã thành thực thuật rõ lại hết nhân quả kiếp trước, rất có công trong việc khuyên đời, kiếp tới ban phước cho ngươi được đầu thai lên làm người tại một gia đình phú quý vinh hoa. Bữa nay thời giờ đã muộn, chúng ta chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#23 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 10:28

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI MƯỜI SÁU

TÁNH TRỜI KHÔNG TỐI HÓA THÂN THÀNH HẠC TRẮNG

THEO CHIM TU THÂN LUYỆN ĐẠO CÓ CÁCH HAY

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 14 tháng 11 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Nam cực tinh huy bạch hạc phi
Thiên la địa võng bất năng vi
Tiên cầm tuệ tính thông thần ý
Viễn khứ nhân gian thị dữ phi.
Điểu tri trạch thụ tác lâu thân
Nhân yêu tu chân cận thánh thần
Tự ái vũ mao cần lập đức
Tiêu dao khoái lạc miễn trầm luân.

Dịch

Nam cực sao ngời hạc trắng bay
Lưới trời bẫy đất hết giăng bày
Chim tiên mở huệ thông thần ý
Lìa bỏ trần gian dở với hay.
Chim biết lựa cây dựng tháp thiền
Người nên học đạo gặp thần tiên
Rỉa lông rỉa cánh trui rèn đức
Sung sướng thảnh thơi khỏi đọa trầm.

Tế Phật: Tính cầm thú gần gũi với tính người nên cầm thú cũng có khi trung nghĩa; ngược lại người đời phần đông chôn vùi nhân tính, do đó sánh với cầm thú kém xa. Bộ lông cũng là sự vinh hạnh của con người, có nhiều kẻ trong lúc sống hạnh phúc không biết giữ gìn, đang tâm giỡn lửa tự thiêu cháy đen mặt mày, không còn mặt mũi nhìn ai nữa. Bình thường đầu mỗi người đều xức dầu, mặt thoa phấn, quý mến dung nhan, song sự trang điểm bề ngoài chẳng giúp ích được gì. Trong đám ăn mặc đẹp đẽ có nhiều kẻ là cầm thú hóa thân, nhất cử nhất động đều phản bội luân thường. Nói như vậy có nghĩa là mặt mày vóc dáng trang điểm quá lộng lẫy chỉ là lớp vỏ ngụy trang. Nếu để ta lột mặt nạ đó ra hẳn là thấy ngay bộ mặt thực quỷ ma mới thấy hết hồn, khác hẳn chó mèo hèn mọn, chúng thật là đáng yêu biết mấy, có thể gần gũi hoài hoài. Dương Sinh mau lên đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa bữa nay thầy trò mình tới thăm chốn nào?

Tế Phật: Đến Nam Cực.

Dương Sinh: Thưa Nam Cực chắc lạnh giá lắm?

Tế Phật: Nam Cực tuy lạnh nhưng ta có thể đem sức ấm của đạo tâm ra dung hòa, nếu lòng người lạnh thì ta đem lòng nhiệt thành, chí hăng say ra cảm hóa cái lạnh. Bữa nay thầy trò mình tới Nam Cực để phỏng vấn tiên ông Nam Cực cùng đồng tử Bạch Hạc.

Dương Sinh: Nếu như gặp được đồng tử Bạch Hạc thì quả là ba kiếp may mắn, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đã tới điện Trường Sinh ở Nam Cực mau xuống đài sen.

Dương Sinh: Cảnh tượng ở đây vô cùng mĩ lệ, rừng cây xanh biếc, trăm hoa đua nở, dưới cầu nước chảy, bên hồ hạc trắng tung bay, lòng trắng như tuyết, mắt ngắm nhìn lòng hân hoan vô hạn. Phía trước có một tòa cung điện nguy nga trên đề dòng chữ “Điện Trường Sinh Nam Cực”.

Tế Phật: Đó là cung điện của tiên ông Nam Cực. Tiên ông cũng là vì sao trường sinh, nên còn được gọi là Trường Sinh đại đế. Ngài lãnh đạo chư tiên, tuổi đạo cao nhất, là một vị Hỗn Nguyên Kim Tiên. Dương Sinh hãy theo thầy vào cung điện, lạy chào ra mắt đức ngài.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh (nói dứt liền theo chân ân sư tiến vào trong điện thấy trăng sao vằng vặc tỏa chiếu sáng ngời, quả là phong cảnh kỳ lạ vô cùng, hoàn toàn là cảm giác khoan khoái. Một vị tóc hạc dung nhan đồng tử, râu bạc trắng và dài tha thướt ngồi giữa điện, tay cầm cây gậy, dáng vẻ rất hiền từ, có một tiên đồng bận đồ trắng đứng hầu bên cạnh, vẻ mặt tươi cười nom thật đáng yêu).

Tế Phật: Thưa bữa nay phụng mệnh hướng dẫn đệ tử Dương Sinh tới bái yết tiên ông Nam Cực cùng đồng tử Bạch Hạc, xin tiên ông và đồng tử chỉ dạy nhiều cho.

Tiên Ông: Lành thay, Tế Phật thân gánh mệnh trời, phổ độ Tam Tào, hướng dẫn Dương Sinh dạo khắp ba cõi, trước viết hai cuốn sách du ký Địa Ngục Thiên Đàng mở cửa trời, đóng cửa đất, nay phổ độ súc sinh cõi trần, lại lãnh ý chỉ của Dao Trì hướng dẫn Dương Sinh phỏng vấn loài vật để chúng thuật rõ nhân quả, cứu độ sinh linh súc vật, cảnh giác nhân tâm thế đạo, công nghiệp lớn lao vô tiền khoáng hậu. Bữa nay hai vị tới thăm cõi tiên, lão tiên chuẩn bị bữa tiệc đạm bạc để được cùng nhau ngồi thổ lộ đôi điều tâm sự. (Liền sai đồng tử chuẩn bị trà tiên ngon nhất kính mời Tế Phật cùng Dương Sinh).

Tiên Đồng: Xin tuân lệnh... Đã sửa soạn xong trà tiên và trái tiên ngon.

Tiên Ông: Kính mời Tế Phật và Dương Sinh ngồi, từ sáu năm nay hai vị lặn lội khắp ba cõi, biết bao khổ cực, giờ xin dâng chén trà đạm bạc gọi là để tỏ tấc lòng cảm phục.

Tế Phật: Cảm tạ tiên ông đã đãi đằng long trọng, thầy trò tôi xin phép được ngồi.

Dương Sinh: Ghế bàn tỏa chiếu sáng ngời, ngồi lên trên có cảm giác lạnh toát.

Tiên Ông: Chúng tôi xin phép cùng ngồi.

Tế Phật: Bữa nay tới đây, kính mong tiên ông ban lời vàng ngọc để được chép vào sách Luân Hồi Du Ký.

Tiên Ông: Xin hai vị chớ làm khách, mời dùng trà và trái cây.

Dương Sinh: Cảm tạ sự tiếp đãi nồng hậu của tiên ông, trái tiên hương thơm ngạt ngào, trà tiên ấm ngọt thông cổ hạ đàm, thứ nào mùi vị cũng tuyệt hảo.

Tiên Ông: Người đời gọi Lão Tiên là “Sao Trường Thọ”, trà và trái cây này đều là loại trường sinh. Dương Sinh theo Tế Phật lặn lội khắp ba cõi để trước tác sách quý cứu đời độ thế, giáo hóa quần sinh, công đức vô lượng, song tâm thần cùng thể lực giảm sút quá nhiều, cho nên bữa nay xin dâng vật quý của Nam Cực để bồi bổ, hỗ trợ linh khí.

Dương Sinh: Cảm tạ muôn phần.

Tế Phật: Bữa nay tới đây cốt để nghe tiên đồng Bạch Hạc tự giới thiệu về lai lịch của mình. Vì Bạch Hạc là loài chim tiên, nếu luận theo loài vật thì thuộc về súc sinh, cớ sao lại được sống tiêu dao tại cõi Nam Cực, luôn ở cạnh tiên ông.

Tiên Đồng: Muốn tìm hiểu lai lịch của tôi hãy quan sát kỹ bộ lông trên mình tôi. Lông bạch hạc tinh khiết, không chút bợn nhơ. Phẩm tính của người nếu suốt đời trong sạch như tờ giấy trắng không tỳ vết ắt có giá trị như thân bạch hạc. Bạch hạc lông trắng chân cao, lội trong bùn ô uế nhờ chân dài tất nhiên thân không bị nhiễm trược. Còn người ta đứng ở một vị trí của bất cứ hoàn cảnh nào, chân dĩ nhiên đặt lên nó, song thân tâm vẫn biệt lập, cho nên phải quý mến bộ lông, càng ở chỗ tối tăm càng lộ rõ tâm thân trong sạch thanh cao. Tôi vốn là một đồng tử đạo sĩ trên núi Côn Lôn, theo thầy học đạo hơn mười năm, vì còn tánh trẻ thơ nên thích nô đùa.

Một bữa không cẩn thận lăn xuống sườn núi, gặp lúc tiên ông Nam Cực vân du qua đó, dùng phép tiên đỡ tôi đem về Nam Cực cho làm đệ tử, công phu dạy dỗ ngày đêm luyện tập, do đó tôi thường tâm niệm Nam Cực Tiên Ông là ân sư cứu mạng tôi. Ân sư từng trải nhiều và biết lắm phép tiên trường thọ, nên vào những dịp cầu thọ người đời đều khấn như sau: “Xin đức Thọ Tinh ban phước” bởi vậy ân sư còn có danh hiệu là “Trường Sinh Đại Đế”. Ân sư biểu thị cho đạo cao thần chẳng già, tóc hạc dung mạo hài đồng, cho nên ngài cũng biến đổi hình hài tôi thành bạch hạc, nên thân tôi hài đồng và tóc tôi trắng như lông hạc, do đó mới đạt nổi quả vị tiên “Ấu thanh lão bạch diện mạo”.

Dương Sinh: Tại sao tiên ông Nam Cực biến vị thành hạc trắng?

Tiên Đồng: Câu chuyện ân sư biến tôi thành hạc trắng vô cùng li kỳ. Theo lời ân sư dạy thì: “Ngày trước con té núi, thầy cứu con thoát chết, ngày nay thầy truyền dạy cho con nhiều phép tiên xong thầy muốn thả con về với núi xanh mây biếc, con phải tự mình vận dụng công lực đạo để thoát hiểm sống còn, nếu như con không vượt nổi khó khăn sẽ bị đọa lạc xuống trần đầu thai làm người, chịu luân hồi khổ hải, không mong có ngày cất nổi đầu”. Nghe xong lời dặn dò của ân sư, lòng tôi kinh hoàng khôn xiết, tự nhủ nếu như không thể tự mình vượt thoát nổi khó khăn sợ một đi không trở lại. Ba ngày trôi qua, ân sư liền gọi tôi tới bảo đã tới lúc khởi sự rồi, cho con tấm áo đạo màu trắng này, mau mau mặc vào người, nếu như một niệm trần dấy động, áo trắng ô nhiễm, áo trời rách nát ắt chẳng tránh khỏi bị tiêu diệt.

Tôi thay áo đạo xong thấy tâm thân trở thành rỗng rang trong trắng coi sống chết không có, tôi tự nhủ: Ân sư đã cứu mạng, lại còn bỏ biết bao công sức trong bấy nhiêu năm dạy phép đạo cho ta, hàng ngày tu luyện thân tâm, giờ này phải can đảm vì nghĩa ra đi, chẳng ngại có về được hay không, vì chẳng muốn ân sư thất vọng. Ân sư cưỡi gió đè mây bay tới núi Côn Lôn liền đẩy tôi xuống, thoạt mới đầu thân thể tôi quay tít, song tâm tôi không hề bấn loạn, chỉ một mực niệm thầm: Bay giữa không trung hóa thành hạc trắng mới có thể thoát khỏi bị đọa phàm trần. Vì dốc tâm cầu như vậy, chỉ một sát na, thân thể tức thời nhẹ nhõm, bay lượn trên mây, áo trắng hóa thành lông trắng, xác thân biến thành hạc trắng bay giữa không trung, chẳng bị rớt xuống. Mới đầu tôi có cảm giác sợ hãi liền nghe tiếng ân sư vang vọng giữa trời: “Đồng tử Bạch Hạc bay về, ngươi đã nắm nổi cơ trời, chí đuổi kịp mây, do đó được miễn đọa phàm trần, ngày sau ở gần ta ngươi tự do ra vào giữa chốn trời mây”. Kể từ đó tôi hóa thành đồng tử Bạch Hạc.

Tiên Ông: Tôi tuy già lão cổ xưa, song vẫn còn một đệ tử tiên đồng, thân già mà tâm non trẻ, coi vẻ thiên chân bất lão. Lão Tiên cũng là “Trường Sinh Đại Đế”. Người đời bất kỳ ai cầu sống lâu liền có được tâm non trẻ của Lão Tiên ngay.

Tiên Đồng: Tôi tuy hóa làm Hạc Trắng, song nhờ sau một thời gian dài luyện tập, mà nay diện mạo trở thành hồn nhiên như tiên đồng, cho nên: “Do tâm học đạo, tướng đổi theo tâm” (Đạo do tâm học, tướng tùy tâm chuyển). Đạo lớn đạt thành hình hài biến hóa, đã nhẹ nhàng lại còn dễ dàng hoạt động, đó là nhân duyên may mắn mà tôi đã gặp được.

Tiên Ông: Tiên đồng đã tự thuật xong, sự biến hóa kỳ dị này giúp những người tu đạo trên đời vượt thắng mọi trở ngại do ma quỷ chặn đường cản lối, chỉ một dạ chân thành, phút lìa đời trì trí kiên tâm nguyện rằng: “Chốn ta tới chắc chắn là cõi trời, ta sẽ được bay lượn nơi miền cực lạc”. Điểm tín niệm này phát ra đạo lực sinh sản vô biên con người cũng có thể mọc cánh hóa thành hạc trắng bay tới cõi trời tiêu dao. Điều đó đủ chứng minh rằng một con hạc trắng nếu như biết chăm lo săn sóc bộ lông trắng tinh khiết không để cho ô uế, giữ đúng bổn phận, thì cọp mạnh cũng có thể trở thành thần. Nơi bàn thờ ở các miếu trần gian há chẳng thờ thần hổ đó sao? Hổ dữ mọi người đều sợ, cho nên mới lập miếu thờ hẳn đã chứng minh là muôn loài vạn vật đều có bản tính quang minh, chỉ cần một mực chân thành bỏ ác theo thiện đều có thể đắc đạo. Thế nhân ơi! Các ngươi đều không phải là những kẻ đại gian đại ác, nên muốn đắc đạo, thành đạo chẳng khó khăn đâu. Còn nếu như trở thành hổ được thờ dưới đất theo ta cũng đã hơn người, còn nếu siêu thoát thành tiên, không được về trời thì cũng được đặt lên bàn thờ, như vậy thực là cao thượng cùng quang minh chính đại.

Dương Sinh: Tiên ông thuộc vị sao trường thọ nên người đời có thể cầu sống lâu. Song phần lớn không biết phương pháp dưỡng tính, nên thường giết loài vật để ăn thịt một cách cực kỳ vô nhân đạo. Để tránh cho súc vật khỏi bị cái họa sát sinh, có thể cầu tiên ông ban cho diệu pháp sống lâu không?

Tiên Ông: Đạo tiên là đạo trường sinh, người đời nay đã ưa nhàn hạ ghét khó nhọc, song lại toàn ăn thịt cá có nhiều chất mỡ béo, do đó cơ thể yếu đuối dễ sinh bệnh. Sát sinh để bổ dưỡng thân song vô ích cho thân, sao bằng học cách vận động của các loài cầm thú, tự mình rèn luyện thân thể mình đó mới là đạo trị bệnh tận gốc. Nay trước tác sách Luân Hồi Du Ký đặc biệt đem năm phương pháp tập luyện của loài thú chép vào để trao truyền, mong mọi người dành thời giờ thực hành. Bây giờ đồng tử Bạch Hạc bắt đầu biểu diễn phương pháp:

NGŨ CẦM HÍ (Bắt chước động tác năm loài thú)

Ngũ Cầm Hí là cách bắt chước động tác của năm loài thú là Cọp, Hươu, Gấu, Vượn, Chim do y sư Hoa Đà đời Hậu Hán sáng chế để bảo vệ sức khỏe cùng trị bệnh hầu giúp con người sống được lâu. Đó là phép vun bồi sức khỏe thần tiên, chỉ dẫn rành mạch về cách cử động của năm loài thú là Cọp, Hươu, Gấu, Vượn, Chim, nghĩa là mọi động tác đều phối hợp uyển chuyển giữa lục phủ, ngũ tạng với toàn thể cơ năng trong thân xác con người một cách thật nhịp nhàng, để khí huyết lưu thông nơi các đường kinh mạch được dễ dàng có hiệu quả, nên có thể khỏi bệnh và sống lâu.

I. HỔ KHÍ (Bắt chước cách của cọp) Bắt chước cách của cọp để cho khí phổi sung mãn, tinh lực hưng vượng. Giảng giải: Tính cọp hùng mạnh, thân mình cường tráng, giỏi dùng chân nhảy vồ, tát vả nên phải luyện tập theo cách oai phong lẫm liệt của cọp. Hai mắt tròn sáng có thần uy, khi nhìn trừng con ngươi, gườm gườm áp đảo đối phương. Hai tay khi cử động phải bắt chước hình dáng móng vuốt của cọp, co duỗi mạnh mẽ, sự vận chuyển thân thể phải cứng cỏi vững vàng, tất cả mọi động tác đều phải phát lực từ hai bên hông.

Phương pháp:

1. Trước hết phải bò dưới đất, bò tới ba lần, bò lui hai lần một cách lanh lẹ, lúc bò các đầu khớp xương và gân chuyển động mạnh.

2. Sau đó bò ngửa, cũng bò tới ba lần, bò lui hai lần.

3. Những động tác trên phải làm liên tục bảy lần.

II. LỘC HÍ (Bắt chước cách của hươu) Bắt chước cách của hươu để cho công năng của lá lách, bao tử, gan, thận mạnh mẽ thêm. Giảng giải: Cơ thể của hươu thuần dương nên cử động nhẹ nhàng mau lẹ, giỏi chạy nhảy và dùng sừng húc chọi, lúc luyện tập phải bắt chước các động tác của hươu để cho các đầu khớp xương và gân hoạt động; hông, đùi, bắp chân và gân vận chuyển nhiều, hai tay làm chân, tứ chi phải phối hợp điều hòa.

Phương pháp:

1. Trước hết phải sẵn sàng theo tư thế bò trên mặt đất, nghểnh đầu về phía sau, quay qua trái ba lần, quay qua phải hai lần.

2. Sau đó chân trái co duỗi ba lần, chân phải hai lần.

III. HÙNG HÍ (Bắt chước cách của gấu) Bắt chước cách của gấu để cho gan hạ hỏa, cơ thể tăng thêm sức, tinh thần thanh tịnh, giấc ngủ yên ổn. Giảng giải: Tính gấu dũng cảm, thân thể mạnh mẽ, giỏi dùng hai chân trước đun đẩy mọi vật cùng leo trèo. Trong lúc luyện tập phải học tính dũng cảm, cách đi đứng ngang tàng để cầu tìm được tĩnh trong động.

Phương pháp:

1. Nằm ngửa, cong người lên, hai chân ôm đầu gối, nghểnh cao cổ, vận dụng hết sức lực chuyển động qua trái, qua phải.

2. Sau đó lật sấp mình, chống một tay xuống đất để đỡ thân thể, làm xong tay trái đổi qua tay phải.

IV. VIÊN HÍ (Bắt chước cách của vượn) Bắt chước cách của vượn để cho thần kinh bộ não được linh hoạt, khí lực khai triển, các mạch máu lưu thông. Giảng giải: Động tác vượn linh hoạt tinh anh, lúc luyện tập phải bắt chước tinh thần lanh lợi của vượn, hai tay như móng vuốt ló ra. Điều quan trọng là sự hô hấp cùng động tác nắn bóp.

Phương pháp:

1. Làm động tác đu người lên.

2. Trước tiên hai tay nắm chắc cây gỗ tròn lớn vừa tay nắm bắc ngang cao khỏi đầu, thân mình đu lên thả xuống bảy lần.

3. Sau đó dùng chân thay thế cho tay treo ngược người , làm xong chân phải đổi qua chân trái, lần lượt bảy lần.

4. Hai tay chống xuống đất, hai chân chống ngược lên trời, làm động tác đứng dộng ngược như thế bảy lần.

V. ĐIỂU HÍ (Bắt chước cánh của chim) Bắt chước cánh của chim để cho tim mạch khỏi bế tắc, khí huyết lưu thông. Giảng giải: Trong các giống chim, loài hạc tượng trưng cho sự trường thọ, cho nên phải bắt chước động tác của chim hạc trắng. Thân hạc nhẹ nhàng giỏi bay lượn, lực quân bình rất cao, do đó trong lúc luyện tập phải học cách bay lượn của hạc, cùng phối hợp các loại động tác co duỗi để điều hòa quân bình năng lực, phát triển công năng hô hấp. Đồng thời đầu cổ thân mình, tay chân phải tùy động tác mà hô ứng cho nhịp nhàng. Lúc chim hạc đậu chỉ dùng một chân mà vẫn vững vàng yên ổn. Lưng đổ dốc xuống phía sau, một chân co lên, gót chân và phía sau gáy đối nhau. Lúc bắt chước cách chim bay, các khớp xương gân của phần thân trên phải mềm mại mà vẫn có sức mạnh, mau chậm đều đúng lúc. Hai tay dang thẳng, co một chân lên, duỗi thẳng ra sau rồi lần lượt làm như vậy hết chân trái tới chân phải bảy lần.

Phương pháp:

1. Hai tay dang thẳng, một chân co lên duỗi thẳng ra sau giống như đuôi dài của gà trống.

2. Hai tay đưa thẳng về phía trước, mắt nhìn định thần như mắt chim ưng.

3. Tập trung tinh thần, chân trái chân phải cũng làm động tác như trên bảy lần.

4. Sau đó ngồi xuống, hai chân duỗi thẳng về phía trước, khom lưng dùng hai tay bưng chặt gót chân, làm như vậy bảy lần.

5. Sau đó co duỗi tay để cho khuỷu tay chuyển động, làm như vậy bảy lần.

Phương pháp luyện cơ thể của năm loài thú trên đây, trong thời gian ôn tập, thân xác có thể bị đau nhức, bầm sưng, mồ hôi đổ, ngứa ngáy, đó là phản ứng với sự bình thường lúc chưa tập luyện, chớ có sợ hãi. Cũng không cần luyện đủ các môn mà lựa một trong năm phương pháp thực hành trước rồi tuần tự tiếp theo cho tới hết cũng được. Điều quan trọng là công phu thật đều đặn và kiên trì, hàng ngày chăm luyện tập tới lúc tuổi già mắt vẫn sáng, tai vẫn thính, răng không rụng, thân thể cường tráng. Chưa thể là khách cõi trời, hãy là tiên cõi trần, phải gắng sức làm những việc tốt lành, vun bồi công đức, nếu thân không mạnh thì tính cũng có thể dưỡng để còn hoàn thành đạo vô thượng.

Dương Sinh: Sau khi nghe xong tiên ông giảng về năm phương pháp tập luyện cơ thể của loài thú cùng được coi đồng tử Bạch Hạc biểu diễn cho coi cách thức thực hành thực quả tầm mắt đã được mở rộng, tài liệu quý báu này hẳn làm tăng giá trị của sách Luân Hồi Du Ký lên đến cả trăm ngàn lần.

Tế Phật: Các loài thú đều có phương pháp tu luyện riêng của chúng, người ta nếu như gia công học tập các động tác của chúng tự nhiên sẽ đạt kết quả tốt đẹp không thể ngờ nổi. Gân cốt mệt mỏi, thân thể ốm o, hít chân khí vào, thở uế khí ra, là người tu đạo, phải gắng rèn luyện. Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn ở đây, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.

Dương Sinh: Cảm tạ Tiên Ông Nam Cực và tiên đồng Bạch Hạc đã tận tình chỉ bảo cùng biểu diễn cho coi các phương pháp, vì thời giờ đã trễ, xin cáo từ quý tiên.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#24 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 10:57

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI MƯỜI BẢY

SÁT SINH ĐÃI TIỆC CHUỐC THÊM LÒNG OÁN HẬN

PHÚC THẦN HAM NHẬU BỊ RƯỢU ĐỘC HẠI THÂN

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 24 tháng 11 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Bái Phật kính thần vật sát sinh
Phi cầm đao hạ lệ doanh doanh
Bi ai tẩu thú hô oan uổng
Hại đắc thần tiên biện bất thanh.
Miếu tự thần tiên đa oán hồn
Chỉ nhân mê chúng khẩu trung thôn
Thôi ngôn bái bái đáp thiên ý
Phản đạo vô biên tội nghiệp căn.

Dịch

Lạy Phật thờ thần chớ sát sinh
Thấy dao gà vịt lệ tung hoành
Buồn đau chó lợn kêu oan uổng
Hại cả thánh tiên chuyện chẳng lành.
Chùa miếu thần tiên lắm quỷ hồn
Si mê chỉ bởi miệng tham ăn
Vâng vâng dạ dạ chiều lòng Phật
Phản bội chịu bao ác nghiệp căn.

Tế Phật: Nhờ đời sống dân chúng khá giả, chùa miếu mọc lên khắp nơi. Vào những dịp lễ đều tổ chức lớn lao, nào như giết heo, cá thịt đầy bàn, ruồi nhặng ào ào bay tới, đã không hợp vệ sinh lại còn lãng phí tiền bạc, tập quán này không phù hợp với thời đại mới nữa, cần phải sửa đổi, chỉ nên dâng cúng Thánh Thần, Tiên Phật hương hoa, đèn nến trái cây cũng đủ rồi. Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh đi phỏng vấn linh hồn các con vật bị giết làm lễ tế thần để thấy bằng chứng cụ thể. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Hướng dẫn Dương Sinh tìm kiếm đối tượng để phỏng vấn thì tới trấn Viên Lâm, huyện Chương Hóa. Dương Sinh, thầy trò mình xuống đài sen, con có thể tĩnh tâm quan sát xem thấy được những gì?

Dương Sinh: Trước cửa nhà này có treo tấm chướng hình tám vị tiên cùng đôi câu đối, hình như gia đình có chuyện vui lắm.

Tế Phật: Nhà họ Hoàng cưới vợ.

Dương Sinh: Thưa, ngoài ra con không còn thấy điểm nào khác nữa.

Tế Phật: Ha ha, hồn của heo, gà và vịt đã khóc suốt ba ngày ba đêm khan cả tiếng, để thầy hướng dẫn ra sau nhà, con sẽ phát hiện được nhiều điều mới lạ.

Dương Sinh: Thưa vâng. (Theo ân sư ra sau nhà, quả nhiên thấy khoảng chục con vừa gà vừa vịt cùng hai con heo đang than khóc, tiếng nghe khàn khàn yếu ớt, thật là đáng thương).

Tế Phật: Ngày hôm qua nhà họ Hoàng đã mở tiệc khoản đãi khách, đã giết nhiều gia súc. Đám gia súc bị hi sinh tính mạng để mua vui cho bữa tiệc vô cùng đau đớn bất bình.

Dương Sinh: Nhìn bầy gia súc thật đáng thương, kính xin ân sư siêu độ nguyên linh cho chúng.

Tế Phật: Nhân dịp trước tác sách Luân Hồi Du Kí ta siêu độ cho các ngươi, hướng dẫn linh hồn các ngươi tới phủ hồi hồn ở địa ngục trình báo.

Dương Sinh: Thưa, sau khi chết tại sao chúng lại không thể rời bỏ chỗ này?

Tế Phật: Một số ít oán khí đã sớm bay khỏi đây, còn số lớn khác vì không thấy đường nên còn bồi hồi quanh quẩn ở lại chưa đi nổi. Để thầy điểm hóa giúp nó bay đi: “Này heo, này gà, này vịt, thôi đừng đau khổ nữa, giúp người ta ngon miệng và no bụng là hy sinh cái mình bé nhỏ để hoàn thành cái mình to lớn, đó cũng là nghiệp báo kiếp trước. Người đời vì không có huệ nhãn, nên chẳng thể phân biệt được trong số các ngươi đây cũng có kẻ là thân quyến của họ, để tới nỗi thay đầu đổi mặt ăn thịt người quen, chớ oán trách nữa, hãy nghe lời ta cùng xuống địa ngục báo cáo, để kiếp tới được chuyển kiếp đầu thai lên làm người”.

Dương Sinh: Đám gia súc nhờ được ân sư điểm hóa, hình như đã giác ngộ nên đều cúi đầu lãnh ý.

Tế Phật: Các ngươi hãy ở lại đây, chờ tới lúc ta kết thúc việc viết sách, sẽ dẫn các ngươi xuống địa ngục trình diện. Vì việc lễ tân hôn ta chưa phỏng vấn xong, vấn đề này là tập tục của trần gian, phải cử hành lễ này là bởi trai gái mong sau khi thành vợ chồng sẽ sống với nhau tới thuở bạc đầu, có con để nối dòng. Vào các dịp lễ này ta khuyên người đời phải giới sát phóng sinh, để vạn vật cùng vui, khách tới dự nên hân hoan dùng tiệc chay. Ngày xưa hai vị đạo sĩ ở Hàn Sơn thấy con gái một nhà nọ lúc đi lấy chồng, đánh trống gõ phèng la, sát sinh mở tiệc đãi khách, hai ngài bèn dùng huệ nhãn nhìn, thì thấy từ vật dụng đến gia súc làm thịt đều là gia nhân quyến thuộc từ ba đời, bèn làm một bài kệ như sau:

Đường thượng đả cổ đả ông bì
Oa nội liệt chữ thị cô di
Tam thế tổ ma thú vi phu
Ngã kim bất tiếu đẳng hà thời.

Da ông làm trống đánh trong nhà
Nồi chảo nấu chiên nấu cả cô
Bà nội ba đời thành vợ mới
Giờ đây há đợi hãy cười chê.

Bài kệ trên đây ý nghĩa thâm sâu cực kỳ siêu diệu mong người đời đọc nó để sớm giác ngộ. Dương Sinh mau lên đài sen, chúng ta mau tới trạm thứ hai.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.

Tế Phật: Đây là làng Lôn Bối huyện Vân Lâm, phía trước có một ngôi miếu nhỏ thờ Thổ Địa. Thầy trò mình hãy xuống đài sen tới phỏng vấn.

Dương Sinh: Thưa hay lắm, được đàm thoại cùng thổ địa thực là hứng thú.

Tế Phật: Thổ Địa ơi! Bữa nay không báo trước bất chợt tới thăm mong thứ lỗi cho. Từ lâu đã nghe danh Thổ Địa linh thiêng hiển hách, được dân làng hương khói phụng thờ nghi ngút, mồng một mười rằm rất đông thiện nam tín nữ tới chiêm bái, gà vịt thịt cá ăn không hết. Bữa nay ta hướng dẫn Dương Sinh tới thăm, mong được uống cùng Thổ Địa một vài chén, không rõ ý của người ra sao?

Thổ Địa: Đức Tế Phật dẫn Dương Sinh tới đây thăm mà tôi không biết trước để sửa soạn việc nghênh tiếp, thực là thất lễ quá. Còn những điều đức Tế Phật vừa dạy chân tình hay giễu cợt?

Tế Phật: Cách xa cả ngàn dặm đã ngửi thấy mùi rượu thịt thơm ngon báo hại nước miếng ta chảy dài ba thước, thèm quá không chịu nổi nên ta tính chuyện bỏ chay phá giới. Vả lại chỉ có ba chúng ta ở đây, nếu bưng chén cầm đũa lùa đầy miệng, nhai ngồm ngoàm nói chẳng ra hơi cũng không ai biết.

Thổ Địa: Đức Tế Phật khéo khôi hài quá, xin mời vô trong ngồi có rượu đế rượu cao lương, uống vài chén cũng không sao.

Dương Sinh: Trong này mùi tanh xông lên nồng nặc cảm thấy nặng nề, thật quá lạ lùng không rõ nguyên nhân tại sao? Dưới gầm bàn chất đầy rượu cùng cá thịt đã nướng qua bằng hương đốt, lần đầu tiên trong đời nhìn thấy, quả thực không hiểu nổi?

Thổ Địa: Vì thần của tôi linh thiêng hiển hách, hễ cầu là ứng ngay, do đó thiện nam tín nữ các nơi đem rượu thịt tới tạ lễ tôi rất nhiều, ăn không hết nổi, lại cũng không có tủ để chứa, cho nên mới chồng đống dưới gầm bàn, sợ nó thiu thối, lấy hương hơ đốt để phòng hư thối.

Dương Sinh: Kỳ lạ quá, kỳ lạ quá. Tại sao không kêu thiện nam tín nữ mua tủ lạnh đem tới cúng dường để chứa thịt?

Thổ Địa: Sợ không tiện. Tiểu thần chỉ thích dùng cách này cốt sao lúc nào cũng được no bụng là thích rồi.

Tế Phật: Xin tạm ngắt lời, Thổ Địa có hiểu tại sao tôi tới đây không?

Thổ Địa: Đức Tế Phật khỏi cần nhắc, tôi xin mạn phép tiếp khách. Dương Sinh thích ăn đồ tươi, thịt này lại sấy bằng hương đốt, liệu có hợp khẩu vị không?

Tế Phật: Tục ngữ nói: “Không cá tôm càng tốt thành tâm uống nước lã cũng thấy ngọt” quả chẳng sai.

Thổ Địa: Nếu không chê, mời hai vị ngồi, để tôi sửa soạn rượu thịt.

Dương Sinh: Thưa, tại sao bữa nay ân sư lại chỉ thích khôi hài?

Tế Phật: Hừ, nói nhỏ thôi, làm như vậy là thầy muốn mượn sự chế giễu này để ám chỉ ý nghĩa sâu xa khác. Bữa nay vì muốn độ vị Thổ Địa này, mình phải trước dùng thái độ thân thiện đối xử, để tỏ ra chí đồng đạo hợp, rồi sau mới hạ thủ, như con vật đã chui vào hũ chỉ việc thò tay bắt, há chẳng dễ dàng sao?

Dương Sinh: Kế của ân sư thật là tuyệt diệu, tuyệt diệu.

Thổ Địa: Bữa nay tiết trời thật lạnh lẽo, chẳng rõ thịt lạnh, rau lạnh hai vị có ăn nổi không? Chẳng ngại, cũng may còn ba bình rượu cao lương, thứ rượu mạnh này uống vào nóng ran khắp mình, ấm lắm. Hai vị là thượng khách, kính mời đức Tế Phật một ly... Tại sao ngài lại không uống?

Tế Phật: Thứ rượu này vô vị, uống chẳng ra gì.

Thổ Địa: Tôi còn thứ rượu ngoại quốc, chắc ngon lắm.

Tế Phật: Bữa nay chúng tôi tới đây với tấm lòng thành, chỉ một chén nước trà cũng đủ.

Thổ Địa: Ý kiến hay biết mấy, tôi cũng có trà ngon. Vì hàng ngày có người pha trà mang tới đây, bình nước trà còn nguyên, để tôi mang ra mời hai vị.

Tế Phật: Cảm tạ Thổ Địa.

Thổ Địa: Để mình tôi uống rượu, mời hai vị dùng trà, tôi xin thất lễ.

Tế Phật: Chớ khách sáo, cứ tự nhiên (mọi người cùng nâng chén).

Thổ Địa: Trời ơi! Cổ họng tôi như bị lửa đốt đau đớn không chịu nổi. Thứ rượu mạnh này, tôi đã uống nhiều năm, nhẹ hều như nước lạnh, cớ sao bữa nay vị nó lại khác hẳn thế này? Trời ơi! Bụng dạ ruột gan quặn đau hoài không dứt, chịu sao thấu. Nguyên nhân vì đâu chẳng biết, kính mong đức Tế Phật ra tay cứu độ, nhức nhối tới mức chỉ muốn chết...

Tế Phật: Này Thổ Địa ơi, hãy bình tâm tĩnh trí ta sẽ trị liệu cho... Bình rượu này là tất cả vấn đề, hãy lợi dụng phương pháp khoa học để phân tích sẽ biết ngay... Đúng rồi, người ta đã dùng các chất hóa học chế thành rượu giả, Thổ Địa tham lam uống vào bị trúng độc rồi.

Thổ Địa: Thưa, từ lâu đã biết Phật pháp của đức Tế Phật vô cùng siêu diệu, xin ngài mau mau cứu giúp con.

Tế Phật: Vì không mang theo thuốc Phật, làm cách nào chữa trị được đây?

Dương Sinh: Thấy Thổ Địa bụng quặn đau, thân lăn lộn trên đất thật là khổ sở, kính xin ân sư mở rộng lượng từ bi ban phép chữa trị dùm.

Tế Phật: Trò ngoan nói như vậy thì ta cũng ráng ban pháp cứu Thổ Địa coi. Dùng nước trà không ngờ lại tốt. Thôi để ta niệm chú coi: “Trời sinh ra nước, nước nhuần thấm đất, đất ngấm sương, muôn vật hồi sinh, úm ma ni bát di hồng”. Ban pháp xong liền vội vàng bành mồm Thổ Địa ra đổ nước phép vào rửa ruột mới hy vọng cứu sống.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Con đã bành rộng mồm Thổ Địa ra rồi, mời ân sư rửa ruột dùm.

Tế Phật: Ai biểu nhà ngươi tham chén, chẳng kiêng cữ rượu giả, may nhờ có ta ở đây, còn không sợ rằng Thổ Địa đã biến thành quỷ tham ăn tham uống rồi.

Dương Sinh: Trước đây toàn thân Thổ Địa xám ngắt, hơi thở yếu ớt lại bị đứt quãng, sau khi được ân sư đổ nước phép hơi thở đã dần dần điều hòa, mặt mũi thấy tươi tỉnh trở lại rồi.

Thổ Địa: Trời ơi! Đau đớn quá, vừa rồi ngũ tạng tưởng nát nhừ, cổ họng bỏng rát giống như đang bị lửa thiêu đốt, khổ sở vô cùng, may nhờ đức Tế Phật đổ nước phép bây giờ thấy mát mẻ dễ chịu hẳn rồi.

Tế Phật: Dương Sinh hãy nâng Thổ Địa ngồi dậy.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Mời Thổ Địa ngồi dậy nào, tôi đỡ lên ghế nhé, thật hối hận quá, chỉ vì tiếp đãi thầy trò tôi mà đến nỗi trúng độc như thế này.

Thổ Địa: Không phải lỗi tại hai vị, có lỗi chăng là tại các thiện nam tín nữ. Tôi sẽ kêu mấy người dâng cúng rượu giả tới hành hạ khốn khổ xong nhét rượu vào tay bắt mang về uống.

Dương Sinh: Không phải lỗi tại người đời, họ không biết rượu đó là rượu giả, chỉ biết có tấm lòng thành kính dâng cúng Thổ Địa mà thôi, có lỗi chăng chỉ tại Thổ Địa tham ăn tục uống mà thôi.

Tế Phật: Các vị thiện nam tín nữ có phước lớn, lúc nhận các bình rượu giả đó để đem về nhà, nhờ trời có mắt khiến họ tuột tay đánh bể, thoát khỏi tai nạn.

Thổ Địa: Tránh được tai nạn, như vậy kể cũng hay, còn không đem về nhà uống trúng độc chết, dân làng lại nghĩ là Thổ Địa không bảo vệ nổi mạng sống của họ, từ đây về sau không cúng lễ nữa thì sao?

Tế Phật: Tự hại mình không quan hệ, tuyệt đối không được hại kẻ khác, Thổ Địa cảm thấy lúc này trong mình ra sao?

Thổ Địa: Thưa rất dễ chịu, nhưng bụng đói lắm.

Tế Phật: Vì dùng nước phép tẩy ruột, các chất nhờn trong ruột được rửa sạch, do đó lúc này cảm thấy bụng trống rỗng, hãy lấy thịt cá ăn đi để giúp cho bộ tiêu hóa trở lại trạng thái hoạt động bình thường, bữa khác ta lại tới thăm.

Thổ Địa: Thưa đức Tế Phật đã dạy như vậy tôi cũng không dám cưỡng, vả lại lúc này bụng tôi lại đói cồn cào.

Dương Sinh: Thổ Địa này, là chủ nhân hãy lo cho mình trước đi, bữa nay tôi cùng ân sư được Thổ Địa mời uống trà cũng đầy đủ và quý hóa lắm rồi.

Thổ Địa: Tại sao tôi lúc này lại cảm thấy bụng khó chịu vô cùng, quả là bất hạnh, bắt đầu quặn đau dữ dội chịu không thấu, trời ơi! Trời ơi!

Dương Sinh: Bệnh cũ của Thổ Địa lại tái phát không rõ nguyên nhân tại sao?

Thổ Địa: Xin cứu mạng, cứu mạng! Đức Tế Phật mau cứu tôi, không rõ bữa nay tại sao lại bị khảo đảo tới mức này, đau đớn chịu không nổi, xin Tế Phật ban pháp để cứu mạng tôi.

Dương Sinh: Thổ Địa lại nằm lăn ra đất, ôm bụng quằn quại rên la.

Tế Phật: Vì còn mắc bận nhiều chuyện quan trọng khác không thể giúp thêm được, khuyên Thổ Địa giữ thật kĩ khối đất đó.

Thổ Địa: Đức Tế Phật xuất gia, tại sao lượng từ bi lại hẹp quá vậy, thấy người sắp bị chết mà chẳng cứu?

Tế Phật: Không phải tại ta không cứu, vì bệnh trúng độc của Thổ Thần quá nặng, không thể cứu nổi.

Thổ Địa: Tha thiết cầu khẩn Tế Phật cứu thêm lần nữa, tôi nguyện sẽ nghe lời chỉ giáo.

Tế Phật: Ta thấy khó mà cứu nổi ngươi.

Thổ Địa: Dương Thiện Sinh hãy xin với đức Tế Phật cứu mạng tôi.

Dương Sinh: Phật lấy từ bi làm gốc, xin ân sư cứu Thổ Địa thêm lần nữa.

Tế Phật: Vì có lời cầu khẩn của trò ngoan Dương Sinh, ta cứu ngươi thêm một lần nữa, song ngươi phải giữ lời hứa.

Thổ Địa: Phải hứa như thế nào tôi cũng xin hứa hết.

Tế Phật: Phải như vậy ta mới cứu ngươi. Từ nay về sau chỉ nên nhận lễ cúng trà và trái cây, tĩnh tâm hưởng hương thơm, cố gắng tu luyện. Thổ Địa chỉ là chức thần nhỏ nhoi, ngươi tham lam mưu đồ lễ vật thịnh soạn, uống máu nhân gian, tới khi hết phúc sẽ bị đọa làm kiếp súc sinh, luân hồi không dứt. Kiếp ngươi là một vị lý trưởng, phục vụ dân chúng trong làng, có chút công đức nên sau khi chết được bổ nhậm làm chức Phúc Thần. Bởi lúc sống không cầu đạo học pháp, vì phép tu tâm dưỡng tính hoàn toàn không hay biết nên còn chấp thân thịt kiếp trước, chẳng hay xác phàm giả tạm có rồi không, chỉ tính linh mới trường tồn, thịt cá rượu rau là ảo cảnh, ngươi lấy giả làm thực thành kẻ mê muội. Nay nhờ Tam Tào phổ độ khắp hết thần người quỷ ma cùng súc sinh, nên ta tới đây độ ngươi tu thành chính quả, không được tham lam uống máu nhân gian thêm nữa, lễ vật đã hưởng nhiều, rượu thịt đã ăn lắm khiến bản tính ngươi tiêu tan, đọa lạc luân hồi. Nếu biết hối cải, ta sẽ dùng nước pháp của Phật cứu ngươi, Dương Sinh hãy cạy miệng Thổ Địa cho hả lớn ra.

Dương Sinh: Thưa, xin tuân lệnh... Miệng Thổ Địa đã hả lớn.

Tế Phật: Được. Để ta rót nước pháp của Phật vào. Vì ăn phải thịt cá ruồi nhặng bu nhiễm trùng nên bụng Thổ Địa bị đau, những lễ vật không hợp vệ sinh này từ nay chớ ăn nữa.

Dương Sinh: Thổ Địa uống nước pháp của ân sư đã hồi tỉnh lại rồi.

Thổ Địa: Đa tạ ơn cứu mạng của đức Tế Phật cùng sự giúp đỡ của Dương Sinh, từ nay tôi xin quy y Tế Phật, trì trai tu đạo, cầu mong Tế Phật độ về phương tây cực lạc.

Tế Phật: Dương Sinh hãy đỡ Thổ Địa ngồi dậy để ta điểm hóa.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa con đã nâng Thổ Địa ngồi dậy rồi, sau khi bị cơn bệnh hiểm nghèo hành hạ, sức khỏe giờ đây yếu lắm.

Tế Phật: Chớ có lo, để ta điểm hóa cho Thổ Địa, Thổ Địa nghe thấy như sau: “Trên đầu có Linh Sơn, dưới chân có đất đai, thân người từ đất mọc ra, đất là cửa ngõ sống chết, chỉ đầu bản tính sáng, chỉ đất đất nở hoa, thân pháp là gốc hình tướng, thân thịt là bụi trở về đất, nhớ lại thuở chưa sinh, trước mắt là cõi hư không, cũng là chốn ở hỗn độn ban đầu. Vì người ta chỉ rõ, máu huyết vốn hư ảo, tượng gỗ cũng không thực, hãy giác ngộ đường vĩnh cửu, về sống cõi tây phương”.

Dương Sinh: Ân sư chỉ đường sáng cho Thổ Địa, Thổ Địa dường như đã giác ngộ.

Thổ Địa: Đa tạ đức Tế Phật đã khai mở trí huệ dùm cho, từ nay xin phát nguyện tu thân luyện tính, trợ đạo cứu nhân.

Tế Phật: Lành thay, lành thay! Nếu tu được đúng như vậy ba năm sẽ thành, có thể trở về tây phương tu luyện thêm nữa để chứng ngộ chính quả. Ta ban cho ngươi một bài kệ:

Chính môn dĩ khai tỏa
Tiểu miếu phi cơ sở
Đại đạo hảo cầm tu
Kim tiên phú đức tố.

Cửa chính đã mở khóa
Miếu con chớ nên ở
Đạo lớn gắng lo tu
Thần Tiên ban phước đức.

Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn tại đây, Dương Sinh mau trở lại Thánh Đức Đường.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa con đã lên đài sen.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#25 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 11:05

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI MƯỜI TÁM

PHÁP SƯ CHỬI ĐẠO BỊ ĐỌA LÀM LOÀI THÚ

THÁNH MẪU NHÂN TỪ CHỈ NHẬN LỄ VẬT CHAY

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 5 tháng 12 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Luân hồi kỹ độ phục nhân thân
Thủ ác lợi đao nộ mục sân
Súc đạo ai thanh tần khiếu khổ
San trung huyết nhục ám thương thần.
Động vật đồng nhân hữu cảm tình
Kê năng báo hiểu khuyển minh thanh
Dương tri quy nhũ nha phản bộ
Thế thượng vi nhân ứng tự kinh.

Dịch

Bao thuở luân hồi mới có thân
Tay cầm dao sắc mắt bừng sân
Thảm thương súc vật hoài rên siết
Máu thịt người ăn tủi mảnh hồn.
Loài vật vốn luôn sống cạnh ta
Gà thường báo thức chó coi nhà
Dê quỳ bú mẹ chim nuôi nấng
Cảnh ấy con người há ngó lơ.

Tế Phật: Gà vàng báo thức, trời đất thái hòa Thánh Đức Đường ứng vận được thành lập cùng phụng chỉ trước tác sách Luân Hồi Du Ký để phổ độ Tam Tào. Năm tháng như vó câu qua cửa sổ, thấm thoát công việc viết lách tới nay đã gần một năm, một năm mới tạo sứ mệnh mới, tác phong mới, sách quý mới, tuy nhiên việc truyền bá sách mới không phải là không gặp trở ngại. Lấy chuyện gà mà luận thì gà trống gáy là việc làm tốt song nếu “gió mưa tăm tối, gà gáy không dứt!”. Gà mái đẻ trứng, ấp con để di truyền thêm một cuộc sống mới, đó là cái lẽ tự nhiên của trời đất. Những bậc làm cha mẹ hiện tại trước đây cũng đã từng làm con, những kẻ ngày nay làm con ngày sau sẽ làm cha mẹ, từ xưa tới nay, đạo truyền giống đời nọ nối tiếp đời kia mãi không dứt mới đạt được sứ mệnh duy trì chúng sinh.

Cho nên ta nay hô hào các tôn giáo, các đàn cơ hãy vứt bỏ tư kiến, ôm ấp hoài bão từ bi lớn lao, đoàn kết hợp tác với nhau. Chớ thấy sự thành công của người mà sinh lòng ghen ghét phá hoại, đạo lớn chí công vô tư, trời cao muốn chúng sinh sống có đạo đức, có chí hướng thượng, cùng chung lo phát huy đạo lớn. Nay thấy các tôn giáo đều cho là đạo của mình đúng còn đạo khác sai, không ngừng phỉ báng nói xấu nhau, đã chôn vùi mất tinh thần tôn giáo, xa lìa chân lý để rồi cuối cùng đều đi đến chỗ bế tắc, quả là bất hạnh cho cửa thánh. Nay ta có lời nhắn nhủ những kẻ tu đạo, lo việc đạo phải giữ tâm thiện lành, coi mọi chi phái tôn giáo như nhau, hẳn là đạo sẽ hưng, chúng sinh sẽ được độ.

Sách Luân Hồi Du Ký phải trình bày như trên là vì sợ chúng sinh vô tình hành động trái với đạo làm người, sẽ bị sa đọa làm kiếp thú, há chẳng tự hại người hại mình sao? Suốt một năm qua, ta cùng Dương Sinh dạo cõi nhân gian để phỏng vấn các loài cầm thú là vì sinh linh mở con đường sống, vì chúng sinh chặn nẻo ác tà, có thể nói là đã dốc hết tâm lực, mâm cát bút thánh của đàn cơ kết tinh, lòng nhiệt huyết của thiện nam tín nữ đã giúp sách quý có được hào quang tỏa chiếu. Để đánh dấu thành quả việc vâng lệnh ý chỉ của đức Dao Trì Lão Mẫu, dự định vào mùa xuân tới sau khi cho đăng tải hàng tuần trên tạp chí Thánh Đức xong sẽ in thành sách, ta rất lấy làm mừng vì chúng sinh dưới gầm trời lại có được một cuốn sách quý rõ về mặt thực của thế giới loài cầm thú.

Cõi nhân gian đã tỏ rạng lẽ huyền vi, đã ngập tràn lẽ đạo, đường luân hồi súc sinh cận kề, song người nhìn rõ thức tâm lại quá ít, giữa người với người ở cõi trần bàn luận với nhau dễ dàng, nhưng cũng có một số người không thông cảm, lại nói ngược là “Sao không độ người lại độ cầm thú” hoặc “sao không cứu người lại cứu sâu bọ”. Những lời tuyên bố này biểu lộ lòng lang dạ sói ác độc, mong rằng nó sẽ bị tiêu diệt để không thể tác yêu tác quái. Do đó phải viết sách Luân Hồi Du Ký để giúp tính linh nhân loại tỉnh thức và thanh tĩnh lại. Người xưa nói: “Phải nhìn vào gương để thấy rõ sự hưng suy của cổ kim, lấy tâm làm gương mới có thể soi tỏ được sự thiện ác của người”. Còn ta nói: “Hãy lấy sách này làm gương mới phân biệt được sự bất đồng giữa người và súc vật”. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, được nghe lời chỉ dạy của ân sư từ cao truyền xuống, khi hay tin mừng sách Luân Hồi Du Ký mùa xuân tới sẽ in thành sách, sở nguyện khi đó ắt hẳn chu toàn.

Tế Phật: Thầy trò mình đồng tâm hiệp lực gắng thực hiện cho kì được đường đạo mới, kinh báu mới thì thành tích thực là đẹp đẽ, Thánh Thần Tiên Phật khắp ba cõi đang thiết tha kì vọng, nếu như chúng ta đem hết tâm huyết ra phục vụ hẳn là sẽ hoàn thành được công trình quý giá vô cùng đó.

Dương Sinh: Thưa, tại sao đêm nay ân sư lại hướng dẫn con tới chốn núi sâu hoang vu này? Phía trước có một cái hang cỏ dại mọc đầy, coi vẻ âm u thật là đáng sợ!

Tế Phật: Nơi đó chính là địa ngục, con dám tới coi không?

Dương Sinh: Thưa, vì trách nhiệm thâu thập tài liệu để viết sách khuyên đời, nguy hiểm mấy con cũng không được phép thoái chí, tục ngữ có câu: “Không vào hang cọp sao bắt nổi cọp”.

Tế Phật: Đương nhiên là như vậy, để thầy hướng dẫn con vào trong hang quan sát sự tình.

Dương Sinh: Ôi cha! Có mãng xà, heo rừng, hươu núi, chó sói... nhìn mà khiếp hãi, cớ sao chúng lại tụ họp nhau tại động này đông như vậy mà không tàn sát lẫn nhau.

Tế Phật: Con không rõ, đây là sự tụ họp rất kỳ quái, thầy ban cho con một viên thuốc thông linh, sau khi uống vào tự nhiên con hiểu rõ chúng tụ họp tại đây để bàn luận về việc gì? Để tiết kiệm thì giờ chẳng cần phải điểm hóa cho chúng hiện hình người rồi mới phỏng vấn. Con uống viên thuốc này đi.

Dương Sinh: Cảm tạ ân sư. Uống viên thuốc vào lỗ tai nghe lùng bùng như trống đánh, thứ âm thanh chát chúa vang rền.

Tế Phật: Đợi một lát con sẽ nghe tiếng các loài thú nói với nhau. Dương Sinh: Quả nhiên đúng như vậy, hai tai tự nhiên khai thông, đã nghe rõ tiếng các loài thú nói chuyện với nhau trong động.

Mãng Xà: Bữa nay chúng ta tìm tới động này tụ họp, chia nhau ăn thịt con gấu rừng này. Kiếp trước chúng ta cùng là đoàn viên trong một đảng cướp, mặc dù chết phải chuyển kiếp đầu thai thành nhiều loại thú mang hình dáng khác nhau song tinh thần đoàn kết của chúng ta bất diệt, có phúc cùng hưởng, hãy mau cùng chia nhau ăn.

Heo Rừng: Lão đại đã ra lệnh cho chúng ta ăn thịt con thú rừng săn được này, mời các bạn dùng. Tôi kiếp trước đã thay thế lão đại hy sinh tính mệnh, kiếp này đầu thai làm heo rừng đời sống thực là cực khổ, thợ săn giăng lưới gài bẫy khắp nơi, không làm người chẳng những không được ăn ngon mà còn bữa no bữa đói, thức ăn hết cỏ lại vỏ cây, chẳng thể ngờ hôm nay lại có được bữa ăn thịnh soạn tới mức này.

Hươu Núi: Cảm tạ lão đại đã ban cho các tiểu đệ bữa tiệc thật thịnh soạn này, song riêng tiểu đệ thì ăn cỏ còn ngon hơn, thịt gấu tiểu đệ chẳng thể nào ăn nổi.

Dê Núi: Tiểu đệ với huynh hươu giống nhau vì cùng quen ăn cỏ, vả lại không nỡ nhẫn tâm ăn thịt đồng loại, và nhất là thứ thịt đó lại chẳng ngon lành gì.

Chó Sói: Như vậy là các huynh đã phản bội lời thề kiếp trước sao? Có thịt ăn thịt, có rau ăn rau, có rượu uống rượu, cần giết là giết, cần đánh là đánh, nếu như nay ăn chay tức là coi khinh lão đại sợ rằng các huynh sẽ bị trừng trị đích đáng.

Mãng Xà: Mấy đứa bây là đồ phản phúc, chê thịt không ăn còn nói bá xàm bá láp, nếu như cưỡng lệnh ta khi ra khỏi động tụi bay sẽ bị giết ngay lập tức.

Hươu Núi: Phải lo cứu nguyên linh chứ. Chúng tôi đã cải tà quy chính, ăn chay tu hành, tại sao bảo chúng tôi không ăn thịt là phản bội, lại còn hăm dọa giết chúng tôi nữa là cớ gì?

Mãng Xà: Câm miệng ngay để ta ăn thịt ngươi xong rồi hãy nói, kiếp tới ta bị đầu thai làm gì cũng được.

Dương Sinh: Xin ân sư cứu mạng dê núi và hươu núi. Mãng xà đã nổi giận phùng mang trợn mắt nhe nanh độc, lo le lưỡi đỏ sắp sửa ăn thịt mấy con thú hiền lành.

Tế Phật: Bữa nay mình tới đây thực quả là may mắn, mãng xà đã không biết hối hận lại còn giở thói hành hung bạo tợn, không biết rằng đá ở trên nắp hang đổ xuống bất kì lúc nào. Nếu như có kẻ nổi loạn nói càn lập tức đá sẽ rơi xuống đè nát thây, vùi xác trong hang đen này, vạn năm chẳng được siêu sinh, giờ ta dùng pháp Phật chế phục mãng xà hung bạo này.

Dương Sinh: Ân sư niệm chân ngôn xong, liền lấy rượu trong bầu đổ lên đầu mãng xà, mãng xà lăn ra bất động, các con thú khác trông thấy đều kinh hãi.

Tế Phật: Ta đã chế phục được mãng xà, các con vật khác hãy mau ra khỏi hang, trốn đi nơi khác, gắng lo tu thân để kiếp sau được đầu thai lên làm người. Giờ ta đặc biệt điểm hóa cho các ngươi để các ngươi tu tâm sửa tính.

Dương Sinh: Những con vật đó khi nghe ân sư ban pháp điểm hóa, đều cúi đầu cảm ơn cứu mạng xong mới kéo nhau rời khỏi hang.

Tế Phật: Con mãng xà này quá hung ác, kiếp trước lập bè lập đảng, là tay anh chị dưới trướng có nhiều đàn em, chuyên làm chuyện bất lương, hà hiếp kẻ yếu, hoang đàng dâm đãng, cướp của giết người tội ác ngập trời. Sau khi chết cả bọn bị chuyển kiếp đầu thai làm dã thú trong chốn rừng hoang, có kẻ thức tâm tu hành, có kẻ còn si mê, vì ác khí quá mạnh nên tính linh hãy còn, bữa nay tính ác xưa trổi dậy liền săn mồi đưa tới đây chia nhau ăn, vì có kẻ không chịu ăn đã khiến mãng xà nổi giận. Hiện tại xã hội loài người cũng có hiện tượng này và đã gây nhiều cảnh hại người, nếu như không sớm hối cải chắc chắn sau khi chết sẽ bị đầu thai làm loài thú. Thầy sẽ xin với đức Huyền Thiên Thượng Đế để ngài thu hồi mãng xà hung ác này về.

Dương Sinh: Ân sư niệm chân ngôn xong hướng về phương bắc phất tay một cái, Huyền Thiên Thượng Đế quả nhiên từ trên trời giáng xuống, toàn thân uy dũng, nhìn thấy phải kính sợ.

Huyền Thiên Thượng Đế: Cám ơn Phật Sống Tế Công đã mời ta xuống.

Tế Phật: Xin ngài thu hồi mãng xà về làm kẻ hầu để tránh di hại cho kẻ nhân gian.

Huyền Thiên Thượng Đế: Ta độ về bắc cực trị tội, sau đó sẽ sung vào quân đội làm lính hầu.

Tế Phật: Nơi này đã dẹp yên, thầy trò mình tới chốn khác.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Cảm hứng dâng tràn, ta đặc biệt ngâm một bài thơ:

Vị độ thế nhân nhật dạ mang
Vân du tam giới tạo từ hàng
Loan môn phổ chủng bồ đề thụ
Thánh đức hân thành tuyển Phật tràng.

Sớm tối cứu đời bận chẳng ngưng
Thuyền từ tạo dựng khắp muôn trùng
Bồ đề cửa pháp mang trồng khắp
Thánh Đức Đường nay chọn đạo tràng.

(Trong lúc ngâm thơ bất chợt đã tới trấn Bắc Cảng...)

Dương Sinh: Tới đây đột nhiên nghe tiếng gà gáy, xin hỏi ân sư là gà thường gáy sáng, cớ sao gà ở chốn này lại gáy tối?

Tế Phật: Tất nhiên là có nguyên do của nó, phải phỏng vấn mới rõ. Con gà này là gà của nhà họ Lâm nuôi, hãy tiến lại gần chuồng gà.

Dương Sinh: Đàng sau nhà có một chuồng gà, nuôi khoảng chừng mười con gà. Thưa ân sư, đêm tối lần tới chuồng gà nhà người ta, con sợ rằng người ta la lên là mình tới ăn cắp gà của họ thì thật là thê thảm lắm.

Tế Phật: Con quên là mình tới đây bằng thân pháp chứ đâu phải bằng thân thịt mà họ có thể nhìn thấy mình, con chớ bận tâm.

Dương Sinh: Gà trống gáy thêm, thật là lạ lùng, tiếng gáy nghe đau khổ hết sức, giống như kêu cứu vậy.

Tế Phật: Lúc ở trong núi con uống thuốc thông linh, hơi thuốc còn mạnh cho nên con hiểu nổi tiếng gà gáy, đúng là gà muốn được cứu mạng. Để thầy điểm hóa trước, rồi con phỏng vấn sau. “Gà trống, gà trống ơi! Tại sao ngươi lại gáy đêm? Có phải tại tâm phiền ý loạn, đau đớn chịu chẳng nổi phải không? Ai biểu mi kiếp trước lắm lời, mở miệng ra là chửi bới, tự cho là đắc ý, ăn của người lại vong ân bội nghĩa, nên kiếp này làm gà tiếng gáy nghe đau đớn, bữa nay ta tới đây đặc biệt độ mi, hãy thuật lại rõ quá khứ”.

Dương Sinh: Gà trống nghe ân sư thuyết pháp xong liền ngưng gáy, lại còn cúi đầu giống như giác ngộ.

Tế Phật: Dương Sinh, con hãy phỏng vấn gà đi.

Dương Sinh: Xin hỏi gà trống, cớ sao lại bị chuyển kiếp đầu thai làm gà?

Gà Trống: A Di Đà Phật, tội lỗi quá, tội lỗi quá, kiếp trước tôi là một kẻ xuất gia, người đời kêu tôi là pháp sư..., đọc nhiều sách, giảng đạo, thuyết pháp, viết sách phê bình tôn giáo khác cho là thuyết của mình đúng hơn cả, nên lời lẽ lý luận hăng say, bác bỏ mọi thuyết của các tôn giáo khác, dạy mọi người không tin thì chớ thờ lạy, cho hình thức cơ bút là tà ma quỷ quái, chỉ có đạo của mình là chính đạo mà thôi. Tuy suốt đời tu hành, niệm Phật, chỉ vì gươm bút quá bén nhọn, sát khí đằng đằng nên đã phạm vào giới thứ nhất của nhà Phật là giới sát. Sau chết mới rõ là pháp Phật bao trùm tất cả, không hề quan niệm người khác mình là ma, tôn giáo không giống mình là quỷ, cho nên về sau hối chẳng kịp. Thấy nhiều vị cao tăng đại đức hàm dưỡng thâm sâu, quý ngài đều “tự giác điều sái quấy của chính mình” cũng không còn kịp, lấy thì giờ đâu để phê bình cái sai của người khác.

Nhờ vậy mà các ngài đều được độ về nước Phật tây phương, tôi vì sát khí quá nặng cho nên mới bị đọa lạc đầu thai là kiếp gà, ngày ngày phải lớn tiếng gáy để sám hối, vì thiện căn còn nông, lại biết đức Tế Phật tạt qua đây nên kêu cứu. Bữa nay đã thuật hết lỗi lầm quá khứ, hi vọng các nhân sĩ thuộc các giáo phái nên lấy tâm quảng đại mà đối xử với các nhân sĩ của tôn giáo bạn. Nếu như phạm tội phỉ báng công kích là xa lìa giáo nghĩa Phật Đà, là chỉ thuyết giảng cái pháp của riêng mình, tương lai nhất định đọa lạc tam ác đạo. Tôi đã thuật xong tiền kiếp của tôi, kính xin đức Tế Phật cứu độ cho.

Tế Phật: Lành thay, đã biết giác ngộ thì có thể cứu được. Kiếp trước phần lớn ngươi được các nhân sĩ đạo khác giúp đỡ nuôi nấng, song lại coi các vị ân nhân đó là ma quỷ, miệng thích nói xàm, kiếp này có cơ hội để ngươi phát huy ưu điểm. Tính Phật bình đẳng, các tôn giáo đều dạy người đời “Chớ làm điều ác, hãy chăm làm điều thiện”. Phải tôn trọng sự bình đẳng, nhất là kẻ xuất gia cần phải lấy từ bi làm gốc, đối với một con kiến còn muốn phóng sinh thì tại sao lại nỡ dùng gươm bút sát phạt tôn giáo khác, làm mất hết tư cách của nhà Phật, mong chư đệ tử chốn cửa thiền suy ngẫm kỹ. Thế giới ngày nay, tôn giáo và học thuật đã bước vào thời kì trao đổi qua lại, không còn độc tôn đóng cửa như xưa, cũng sẽ không còn cảnh chỉ mình ta siêu việt, dưới đất trên trời chẳng có ai hơn, phải tích cực giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau nỗ lực phát huy tinh thần tín ngưỡng của nhân loại, người biết là sai lầm có thể sửa chữa.

Chỉ nội trong ba ngày nữa là ngươi thác một cách tự nhiên chủ nhân bỏ xác ngươi không dám ăn thịt, như thế là ngươi được miễn hình phạt dao sắc xẻ thây, chảo dầu chiên thịt, được chuyển kiếp đầu thai làm người, có duyên trở lại cửa Phật tu đạo. Song kiếp tới chẳng thể hành động khua môi múa mỏ gây thành khẩu nghiệp, xuất gia mà tính tình khờ khạo, nói năng ấp úng, chỉ chăm dọn dẹp chùa chiền, tụng kinh gõ mõ tu hành tránh gây ác nghiệp.

Gà Trống: Xin cảm tạ đức Tế Phật đã độ hóa cho.

Tế Phật: Chúng ta chuẩn bị tới “Cung Triều Thiên” tham bái Thánh Mẫu.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh. Thưa, tại sao ân sư lại nghĩ tới việc bái lạy Thánh Mẫu?

Tế Phật: Thánh Mẫu đã cứu quá nhiều người, do đó ta phải tới phỏng vấn mới biết được nhiều hoàn cảnh éo le để chúng sinh học hỏi.

Dương Sinh: Ân sư thực là quá chu đáo, thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành...

Tế Phật: Đã tới cung Triều Thiên ở Bắc Cảng, đêm đã về khuya, các thiện nam tín nữ tới chiêm bái đã về hết, chúng ta hãy vào trong lạy chào ra mắt ngài.

Dương Sinh: Con đã tới cung Triều Thiên hai lần, vì thần linh hiển hách, bình thường dân chúng tới lễ bái rất đông, trong cung có nhiều bàn thờ hương khói nghi ngút... Theo ân sư vào nội điện, thấy Thánh Mẫu ngồi trên ngai, hai vị tướng quân Thiên Lý Nhãn và Thuần Phong Nhĩ đã tiến lại.

Tướng Quân: (Hai vị tướng quân đồng thanh nói) Hoan nghênh đức Tế Phật cùng thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường tới thăm, xin mời ngồi.

Tế Phật: Cảm tạ hai tướng quân đã trọng đãi.

Dương Sinh: Hai tướng quân tiếp đãi nồng hậu quá, thực cảm kích không ít.

Thiên Lí Nhãn: Thưa, đã thấy hai vị từ ngoài ngàn dặm, đêm nay hai vị thân hành tới thăm bản cung hết sức hoan nghênh.

Thuần Phong Nhĩ: Thưa, đã nghe thấy tiếng cưỡi gió đè mây của hai vị từ ngoài ngàn dặm, rất hoan nghênh được thấy hai vị tới thăm.

Dương Sinh: Phép thần thông của hai ngài quả là cao siêu.

Tế Phật: Đức Thánh Mẫu chính là Quán thế Âm Bồ Tát, sở dĩ hai bên có hai tướng quân Thiên Lí Nhãn cùng Thuần Phong Nhĩ chầu hầu là để nghe tiếng kêu cứu cùng nhìn cảnh khổ đau của cõi đời.

Dương Sinh: À thì ra là như vậy. Kính thưa Thánh Mẫu, đệ tử là thánh bút Dương Thiện Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, bữa nay theo bóng ân sư Tế Phật tới quý cung tham bái đức Thánh Mẫu.

Thánh Mẫu: Miễn lễ. Hoan nghênh Tế Phật cùng Dương Sinh tới thăm bản cung.

Tế Phật: Thưa hai thầy trò phụng chỉ trước tác sách Luân Hồi Du Kí, mặc dù được biết quý cung thiện nam tín nữ tới chiêm bái rất đông, song để cải thiện thêm tập tục tín ngưỡng dân gian, kính xin Thánh Mẫu ban lời vàng ngọc chỉ giáo cho.

Thánh Mẫu: Các thiện nam tín nữ khắp nơi đổ về bản cung lễ bái thật là đông, chứng tỏ đời sống của dân chúng ở tỉnh này được tự do cùng no ấm, nên mới được thảnh thơi, tới các đình đền chùa chiền lễ bái, và lễ vật chỉ có hương hoa, không có rượu thịt. Hình thức sinh hoạt tính ngưỡng này rất bổ ích cho thân tâm, thanh điển được thanh tịnh, đã hợp vệ sinh lại không lãng phí. Kính thần trọng Phật phải biết ngưng việc sát sinh, chỉ dâng hương hoa bông trái không những tiết kiệm được tiền bạc phải đổ mồ hôi mới có, mà còn được thần thánh dễ dàng chứng giám cho. Ngoài ra phải lưu ý câu: “Thánh Mẫu ăn chay, xin đừng sát sinh cúng đồ mặn” treo trên tường rất hợp ý cùng tiêu biểu nhất cho tấm lòng trong của Thánh Mẫu. Dương Sinh hãy lấy một bản “Trần Tình Văn” đem về in vào trong sách Luân Hồi Du Ký hầu giúp đám gia súc khỏi thác oan vì phải làm vật tế thần.

Dương Sinh: Cảm tạ Thánh Mẫu đã ân ban lời chỉ dạy vô cùng quý báu, chắc chắn sách Luân Hồi Du Ký sẽ có được nhiều luồng hào quang sáng chói.

THƯ TRẦN TÌNH VỀ LOÀI THÚ

Thánh Mẫu ăn chay xin chớ cúng mặn

Thánh Mẫu sinh quán ở làng Mi Châu huyện Bồ Điền tỉnh Phúc Kiến vào đời Tống, họ Lâm tên húy Mặc Nương, ăn chay trường, dốc tâm tu hành từ bé, về sau công quả viên mãn, phụng ngọc chiếu siêu thăng, vì thành đạo nên được coi là Thánh Mẫu cõi trời. Ngài thường hiển hóa một cách uy linh để cứu độ dân chài mỗi khi họ gặp nạn ngoài khơi, do đó được toàn dân duyên hải thuộc vùng đông nam Trung Quốc và Việt Nam sùng bái. Ngài đại từ bi, có cầu là có chứng, ẩn hiện dị kỳ, không thấy hiển lộ mà vẫn ứng nghiệm, được nhân gian lưu truyền bao thế kỷ, đền thờ được xây cất khắp nơi, dân đánh cá đều kính trọng ngài, phong ngài là thần biển. Ít năm gần đây kinh tế Đài Loan phát triển mau lẹ, nhân dân phú cường, tuy đời sống văn minh khoa học vật chất tiến bộ vượt bực, song tất cả các giới sĩ, nông, công, thương đều thờ ngài.

Nhờ phương tiện giao thông tiện lợi, hàng năm các thiện nam tín nữ từ khắp nơi đổ xô về những nơi có đền thờ ngài để chiêm bái đông như nước chảy, nhất là trước và sau ngày thánh đản 23 tháng 3 âm lịch, chung quanh đền ngài ngựa xe đông nghẹt, mọi lòng nao nức lạ thường. Song sự kính thờ Thánh Mẫu của mọi người lại có sự sai lầm lớn lao là vì từ bé ngài đã phát nguyện trì trai giữ giới ăn chay trường, mà ngày nay các thiện nam tín nữ lại dâng cúng ngài đồ mặn, thịt cá tanh tưởi. Thánh Mẫu là bậc linh tri linh giác, không những chẳng chấp nhận, mà còn đau lòng sa lệ thương xót những con vật bị giết để cúng dường ngài, đó là nguyên nhân chính khiến mọi người phải vứt bỏ tập tục cúng mặn hủ lậu đó đi, chỉ nên dâng cúng Thánh Mẫu các thứ lễ vật chay tịnh mà thôi.

Thánh Mẫu từ bi chính trực, sở dĩ ngài hiển hóa cứu đời là muốn chúng sinh thoát khỏi vòng nguy khốn khổ hải, không hề mong chúng sinh cúng bái ngài. Ngày nay chúng sinh muốn bày tỏ lòng sùng bái thì nên trì trai tu thân, hành thiện lập đức, giúp đỡ kẻ khó, tạo phúc cho xã hội, hẳn là hợp ý ngài hơn cả. Các thiện nam tín nữ mỗi khi tưởng niệm công ơn vĩ đại của Thánh Mẫu hoặc muốn cầu khẩn điều gì thì chỉ cần trai giới, tắm rửa sạch sẽ, thanh tịnh thân tâm, tư thế cung kính trang nghiêm, tới đền ngài vái lạy cùng dâng hoa hương cũng đủ bày tỏ tấm lòng thành kính của mình rồi, chẳng cần phải sát sinh để lấy thịt làm đồ mặn cúng dường. Thánh Mẫu là bậc đại giác, thần thông trí minh, kẻ công đức ngài ban phước quả. Còn như muốn trả ơn ngài thì chỉ nên gắng làm nhiều việc thiện, tu thân tích đức hẳn là Thánh Mẫu hài lòng, chẳng cần phải đốt giấy vàng giấy bạc tốn tiền vô ích. Tương truyền thuở Thánh Mẫu còn tại thế, ngài là người con rất hiếu thảo với cha mẹ, ngày mẹ gặp nạn ngài tụng kinh lễ Phật để cầu cho cha mẹ được bình an trường thọ.

Ngày nay mỗi khi làm lễ mừng tuổi thọ cho cha mẹ, người đời lại giết gia súc làm cỗ mặn bày đầy bàn cúng lạy thì thực là hành động ngược lại hẳn ý Thánh Mẫu, cũng chỉ tại không biết nên làm vậy, lòng thương xót chúng sinh của Thánh Mẫu bao la, tuy không quở phạt song lòng ngài hẳn là buồn lắm. Khổ thay! Trời muốn nói mà không mở miệng, thần muốn bàn mà chẳng nên lời, có ai biết được rằng buổi lễ Thánh Mẫu chiều qua, khi ngài nhìn thấy chúng sinh không biết hành thiện tu thân, chỉ biết gian xảo cướp bóc, chẳng biết tích đức tạo phúc, chạy đôn chạy đáo, không độ một đời chịu khổ muôn đời luân hồi mãi mãi. Thánh Mẫu nhìn cảnh tượng này lòng đau xót vô biên, ngài thấy mình được sống đời thiện lành, trong khi chúng sinh phải chịu hoạn nạn tai ương, không giải nổi nghiệp quả báo ứng, dùng xác chết thú vật dâng cúng thần thánh để cầu phúc thọ lợi lộc, có lúc ngài đã nhỏ lệ xót thương. Vậy thời nếu như ai còn có lòng tôn kính Thánh Mẫu thì hãy sống hợp lòng trời để phát huy đức hiếu sinh, hành pháp thánh từ bi cứu thế đền ơn Tiên Phật, lo làm việc thiện, lấy thân làm thiện, không sát sinh, trộm cướp, gian dâm, cần phải gần người thiện, đi đường thiện, làm việc thiện, lấy tâm hành thiện, không tham sân si, kính trọng trời đất, thần linh, cha mẹ, người hiền.

Miệng nói điều thiện, không ác khẩu, hai lưỡi, nói càn nói bậy, chỉ bàn điều lành giảng đạo lí, khuyên người hành thiện tu thân, tích âm đức, cho gạo, tặng áo quan, sửa cầu cống đường xá, lợp chùa miếu, sửa sang tượng, ấn tống kinh sách, bỏ tiền không tiếc, bỏ sức không mệt, chẳng cầu đền ơn, chẳng cần người biết, trọn đời hành thiện mà vẫn cảm thấy còn thiếu bổn phận. Khi lễ bái chỉ dâng hương hoa, trái cây...Còn như muốn làm cỗ cúng thì phải cúng cỗ chay, tuyệt đối không sát sinh. Thực hành được như vậy thì dầu không cầu xin trời Phật cũng ban ân phước, Thánh Mẫu cũng phù hộ độ trì. Nếu như có lòng thành Xin dâng lễ cúng chay. Có chủ nhân nào lại đi mời một thực khách ăn chay trường tới nhà, rồi dọn đồ mặn thịt cá mời khách ăn mà khách dám ăn không? Và làm như vậy chủ nhân có còn là người biết giữ phép lịch sự xã giao không? Cửa đạo cũng thế, chúng ta đều rõ Thánh Mẫu ăn chay mà lại cúng dường đồ mặn thịt cá thì thử hỏi ngài có nhận không? Có nhiều người nghĩ rằng thần tướng, thần binh của Thánh Mẫu ăn mặn thì họ cúng mặn, nhưng thử hỏi khi lễ chúng ta niệm Thánh Mẫu hay niệm chư thần? Vả lại nếu đã là thần linh ắt đều chê đồ mặn.

Những thần linh chính trực đều muốn các thiện nam tín nữ trì trai giới sát để đền đáp đức hiếu sinh của trời đất. Việc ăn chay của Thánh Mẫu là tấm gương sáng cho các đồ đệ cùng bộ thuộc của ngài noi theo, nếu không sẽ chẳng còn xứng đáng gần ngài để thọ hưởng phúc lộc của ngài ban phát. Do đó, nếu đã thành tâm chỉ dâng cúng đồ chay mới được trời ngó tới, được thánh thần phò trợ. Quẻ không chứng vì lễ vật không xứng. Khoảng hai năm trước đây có nghe nói gia đình họ Hoàng, gia đạo êm ấm, tổ đức thơm danh, hai người con dâu đều trì trai giữ giới tu Phật, vì trong nhà còn nhiều người ăn mặn, ngày lễ Thánh Mẫu năm ấy, hai người con dâu họ Hoàng liền đem đồ mặn tới cung Thiên Hậu ở Lộc Cảng lễ. Theo thói quen họ gieo quẻ để hỏi xem lễ vật có làm vừa lòng Thánh Mẫu không? Thì quả nhiên quẻ gieo nhiều lần không chứng, chẳng phải ít giấy vàng giấy bạc, quên mang rượu, thiếu gà hấp ngon, nhìn lại lễ vật quả không thiếu một món gì, tìm hiểu mãi cũng chẳng hiểu nguyên do, chính lúc nỗi nghi hoặc không giải nổi, hốt nhiên linh cơ lay động, liền hỏi Thánh Mẫu: “Thưa có phải tín nữ ăn chay mà lại dâng cúng Thánh Mẫu lễ mặn phải không? Nếu đúng vậy kính xin chứng quẻ cho”.

Hỏi xong gieo quẻ được chứng ngay lập tức. Tín nữ trong lòng vui khôn xiết liền hứa với Thánh Mẫu là từ nay về sau, hàng năm tới ngày kỷ niệm Thánh Mẫu sẽ chỉ dùng hương hoa trái cây dâng cúng. Bởi vậy đã từ hai năm nay, mỗi kỳ lễ Thánh Mẫu hai người con dâu nhà họ Hoàng chỉ mang đồ chay tới đền ngài mà thôi. Đầu heo gà vịt cá mú bày đầy bàn Thần linh chỉ giáng chốn cúng đồ chay. Ở Chương Hóa có gia đình họ Tăng, từ ông bà cha mẹ đến con cháu, ba đời đều ăn chay, sống hòa thuận, phước thiện lòa trời. Có một bữa, nhằm ngày thánh lễ mùa thu, một số thiện nam tín nữ tới đền mang theo lễ vật thịt cá bày đầy bàn. Cuối cùng tới lượt Tăng Thái Thái, vì trong nhà trì trai giữ giới để tu nên chỉ có chút đồ chay làm bằng đậu, vì các bàn bày đầy lễ vật không còn chỗ trống, nên phải để đỡ ở góc bàn, Tăng Thái Thái lại thấy các người khác mang lễ vật đầu heo, gà hấp, vịt quay còn mình thì chỉ có chút đồ chay, trong lòng cảm thấy vô cùng áy náy. Nhưng sau đó khi thần linh giáng lâm thì ngài chỉ thích đồ chay. Do đó, thần linh luôn luôn khuyên người giới sát, chỉ muốn chúng sinh cúng dường lễ vật chay tịnh, vì cõi trời thanh khiết mà đồ mặn cá thịt thì ô trược tanh tưởi.

Tế Phật: Thiên Trần Tình Văn này thật là kỳ diệu, chúng sinh xem xong chắc chắn sẽ cảm động và giác ngộ, khi lễ thần bái Phật sẽ không còn sát sinh như trước nữa. Bữa nay tạm ngưng việc viết sách ở đây, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.

Dương Sinh: Cảm tạ sự chỉ giáo của Thánh Mẫu đệ tử xin cáo từ.

Thánh Mẫu: Các tướng quân hãy đánh trống khua chiêng đưa tiễn.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#26 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 11:16

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI MƯỜI CHÍN

QUAN ÂM CỨU KHỔ DỰNG NHIỀU TÒA SEN ĐÁ

NHÂN LOẠI LÀM LÀNH GIỚI SÁT LO PHÓNG SINH

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 8 tháng 12 năm Tân Dậu 1981

Thơ

Độ thế vô từ thế lộ ngoan
Đăng cao vọng viễn tục tình san
Du thư tự tự ngưng cam lộ
Đức trạch kham dung Tu Di Sơn.
Thu viên vạn loại phản tây thiên
Lão Mẫu từ bi nhãn dục xuyên
Súc Đạo Luân Hồi thành bảo giám
Lưu truyền cảnh thế nhất giai thiên.

Dịch

Chẳng ngại gian nan quyết cứu đời
Lên cao nhìn rộng chỉ ta thôi
Mỗi trang du ký nhuần sương ngọt
Ân đức cao sâu sánh bể trời.
Muôn giống thâu tròn trở lại trời
Từ bi Lão Mẫu mắt trông vời
Luân Hồi Du Ký thành gương sáng
Truyền tụng nhân gian sửa trị đời.

Tế Phật: Người ta sống ở trên đời đáng lý phải tuân theo đạo làm người của thánh hiền răn dạy, song không hiểu tại sao xã hội lại có rất nhiều kẻ ngang ngược không chịu nghe lời, bỏ đạo làm người là phản bội thiên lý, mà thiên lý tức lương tâm, nhân đạo tức thiên đạo. Do đó, kẻ muốn tu thiên đạo trước hết phải tu nhân đạo, Tam Tào phổ độ rất chú trọng đạo lớn “ngũ luân” tức năm giềng mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Bởi vì lòng người băng hoại, thế đạo xa rời, chính khí trời đất tan biến, trời cao muốn cứu độ các nguyên linh nên mới ban ân đạo lớn, cho nên những kẻ tu đạo lớn trước hết phải bắt đầu tu từ nhân đạo, vì cái lớn tức người đạt cái một, nên nhân đạo là đại đạo. Trời là sự hợp hôn của đạo lớn, đạo lớn đạt cái một gọi là thiên đạo, vậy thiên đạo là gì? Phải chăng là giữ được cái bản tính, lương tâm trong lành.

Đức Khổng Tử chuyên giảng về đạo làm người, hết sức chú trọng tới tam cương, tức mối liên hệ giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, cùng ngũ thường tức năm điều giới cấm, mọi người phải giữ là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, tin dầu chết cũng không bỏ. Những kẻ tu đạo ngày nay phần lớn đều là cư sĩ tại gia, đương nhiên phải tu tròn nhân đạo, có hiếu thảo với cha mẹ, vợ chồng hòa hợp, anh em hòa thuận, bằng hữu tín nghĩa, nói lời thiện lành. Làm việc thiện lành thực hành được những đức tính đó trong hoàn cảnh đó, tự nhiên gây dựng nổi cho mình tư cách vẹn toàn, dễ dàng tu thành Tiên thành Phật; vì tại thế gian đã có người đạt tiêu chuẩn hoàn toàn, thì cõi thiên đàng cực lạc đương nhiên dành sẵn chỗ ngồi cho mình. Sau khi rũ bỏ xác phàm, được phiêu diêu cõi trời, đó là một loại pháp môn tự nhiên thành tựu. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen, bữa nay chúng ta phỏng vấn đức Phật Nam Hải.

Dương Sinh: Được thăm rừng trúc tía đệ tử trong lòng sung sướng vô biên.

Tế Phật: ...Đã tới rừng trúc tía, đức Quán Thế Âm đang ngồi trên sen vàng, thấy thầy trò mình tới, vẻ mặt vui tươi, miệng mỉm cười.

Dương Sinh: Thưa, trước đây khi thầy cùng con viết sách Thiên Đàng Du Ký, từng đến chốn này bái yết Bồ Tát, bữa nay may mắn được thăm lại rừng trúc tía thuộc cõi tây phương, lòng cảm thấy hân hoan. Trúc tía vốn tươi thắm lại càng tươi thắm hơn, nước chảy mây trôi man mác, không khí thanh nhẹ lạ kỳ. Trúc thắm bên cạnh Bồ Tát Quan Âm có chim xanh đậu, miệng ngậm chuỗi ngọc Phật ban thực là kỳ diệu.

Tế Phật: Chúng ta trước hết hãy làm lễ ra mắt Bồ Tát.

Dương Sinh: Thưa tuân lệnh, đệ tử xin lạy chào ra mắt Nam Hải Bồ Tát.

Quán thế Âm Bồ Tát: Tế Phật cùng Dương Sinh hãy đứng lên. Hai vị đã trải bao khổ cực gian lao mới viết xong hai cuốn du ký Thiên Đàng và Địa Ngục, nay lại phụng chỉ trước tác sách Luân Hồi Du Ký, phước ân trải khắp mọi loài cầm thú. Hẳn là phải có nhân duyên vô thượng thì sứ mệnh vô cực mới được trao tận tay hai vị, bữa nay tới đây, lòng ta vui mừng khôn xiết. Thiện Tài Long Nữ đâu, hãy mau dâng trà cam lộ mời hai vị quý khách.

Thiện Tài Long Nữ: Xin tuân lệnh... kính dâng hai chén nước trà cam lộ.

Dương Sinh: Ân sư ngồi trên ghế đá xanh bên hồ sen, có cảm tưởng rất lạ lùng mới mẻ, chẳng rõ những thứ đó làm bằng gì.

Tế Phật: Bồ Tát ngồi trên hoa sen, đó là hoa sen nước có tên là Thủy Liên Hoa, còn thầy trò mình hiện cũng đang ngồi trên hoa sen nhưng là hoa sen đất, được gọi là Thạch Liên Hoa.

Dương Sinh: Hoa sen mọc trong nước con có nghe qua, còn hoa sen trồng trên đất lần đầu tiên con mới thấy. Tại sao lần trước tới thăm con không gặp cảnh lạ lùng này?

Tế Phật: Kỳ trước đáp thuyền pháp đi trên biển, bữa nay đi trên đất không dùng thuyền pháp nên khác nhau.

Dương Sinh: Thưa như vậy nghĩa là sao?

Bồ Tát: Lành thay. Thấy hai vị luận đạo, ta cũng nhân cơ hội bàn rộng thêm để vấn đề được sáng tỏ hơn. Hoa sen mọc trong nước, nếu như không có bùn nhơ nuôi dưỡng, hẳn là hoa không tinh khiết. Do đó người tu đạo, nếu như cứ sống ở một hoàn cảnh bình thường, ăn ở đi lại nằm ngồi không lo không phiền, thì hoàn cảnh đó không thể có được môi trường tốt, chẳng thể sinh nổi bông hoa diễm lệ. Người ta nếu như suốt đời không gặp nghịch cảnh éo le, thì dầu có thành công đi nữa cũng chỉ là việc bình thuờng, vì người ta như quả bóng da, da thịt bao bọc xác thân, còn trong rỗng rang đầy ắp khí, trái bóng da này để trên đất đứng yên bất động, thì chỉ là trái banh chết, song nếu ném trên đất hẳn là lăn qua lăn lại, đó chỉ là trái bóng bình thường. Còn nếu là bóng nẩy, dùng sức thảy mạnh xuống đất, sẽ thấy đất không động đậy, còn bóng nẩy cao khỏi đầu người, nếu có ai bất mãn với mình thì mình chớ có cạn tàu ráo máng tuyệt tình với họ, mà hãy chừa cho họ một lối thoát, còn không hại người mà thành hại mình. Những kẻ thành công trên đời đều gặp khó khăn nguy khốn, rồi sau mới đạt nổi mục đích. Hoa sen không nhờ bùn chẳng có được nhụy thơm, cánh mướt, hoa sen mọc dưới nước tới khi nước cạn, thì ao sen há chẳng biến thành vườn sen sao? Có nước gọi là bùn nhơ, không nước trở nên đất sạch, bởi vậy mà Dương Sinh lúc này mới thấy hoa sen trên đất lành, vì thân hóa cứng cho nên gọi là sen đá, có như vậy mới giúp chúng sinh phương tiện đài sen để tu đạo.

Dương Sinh: Thưa tại sao không giúp chúng sinh tọa thủy liên đài (đài sen nước) mà chỉ cho họ ngồi tòa thạch liên đài mà thôi?

Bồ Tát: Hiện tại là lúc cứu độ chúng sinh giữa thời mạt pháp, mọi người đều học Phật tu đạo tại gia, nửa thánh nửa phàm, ít có gối thiền để ngồi, hàng ngày phải ngồi trên ghế gỗ, nên phải giúp phương tiện để các tu sĩ tại gia tu đạo, trên đất cũng có thể thành Phật, cho nên ở cõi tây phương cực lạc, thạch liên hoa bừng nở khắp mọi nơi.

Dương Sinh: Bồ Tát đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn, muốn chúng sinh có phương tiện tu đạo nên đã tận tâm, tận lực ban thạch liên đài để tất cả mọi chúng sinh tùy nghi sử dụng, đệ tử xin thay mặt người đời tạ ơn Bồ Tát.

Tế Phật: Ha ha, trời cao vốn từ bi vô lượng, chỉ mong chúng sinh tại thế gian “Ngồi trên ghế được ngay ngắn, tu trong tâm được tốt lành”. “Trần thổ” hóa thành “tĩnh địa” “ghế tục” tức là “đài sen” cõi tây phương cực lạc mọi người đều được dự phần.

Dương Sinh: Thưa, như vậy thì tất cả chúng sinh đều có thể thành Phật được hay sao?

Bồ Tát: Đúng vậy, chúng sinh dưới gầm trời thành Phật thì những chỗ ngồi mới được sửa sang ngay ngắn, những con tim mới được gột rửa trong lành. Đã có được cơ duyên may mắn, chúng sinh khỏi cần vượt biển trèo non, ngàn dặm xa xôi tìm kiếm minh sư cầu chỉ dạy, Tiên Phật hóa thân đến tận nhà ban pháp hóa độ. Chỉ mong mọi người nương theo đường đạo tu tâm sửa tính, hành vi đoan chính, trong nhà ngoài cửa, trong tâm ngoài thân dọn dẹp lau chùi sạch sẽ, rồi mới có thể ngồi trên đất và nằm trên cỏ, trần gian biến thành thiên đàng cõi tiên, cõi Phật.

Dương Sinh: Thưa, tại sao những chiếc ghế đá sen kia hào quang lại tỏa chiếu sáng ngời, cùng hiện rõ tên tuổi của người? Đệ tử thấy có cả phương danh của một bạn đạo Thánh Đức Đường.

Bồ Tát: Lành thay những đệ tử của Thánh Đức Đường thiện căn đều thâm hậu, chăm chỉ nghiên cứu kinh điển, đại đạo chân tu lập công, lập đức lớn lao, trong ngoài như một, nhẫn nhục tinh tiến, do đó cõi tây phương cực lạc đã chiếu theo công đức của họ mà an bài quả vị đài sen. Những đài sen lớn nhỏ kia còn tùy tâm tùy công đức của mỗi người mà thay đổi, cho nên nói: “Muốn có chỗ ở cõi trời, phải tu đức ở cõi người”. Thế mới hay: “Việc do người làm”.

Dương Sinh: Trúc biếc xanh cạnh chỗ ngồi của Bồ Tát tại sao lại có chim xanh đậu, miệng ngậm vòng ngọc Phật, vừa hót líu lo, vừa lần chuyển xâu chuỗi, chẳng khác nào người đời niệm Phật lần tràng hạt vậy, quả là thích thú, song chẳng rõ chim nói điều chi?

Bồ Tát: Lành thay, con chim xanh này là chim thần, còn gọi là chim loan, miệng vừa lần xâu chuỗi vừa niệm Phật, điều đó chứng tỏ rằng loài chim cũng có con siêu thoát. Còn người đời ai ai cũng có miệng có tay, song lại chẳng niệm Phật, chẳng lần tràng hạt. Miệng họ toàn dành để nói điều gian xảo, trá ngụy, độc ác quả là thua kém loài chim, vì chim biết nói tiếng êm dịu nhẹ nhàng nghe đã vui tai, lại còn tiêu sầu giải muộn, diệt trừ hỏa khí. Chim thiêng trong rừng trúc biếc, tâm trí đã nương theo pháp nên miệng không ngớt niệm danh hiệu Phật và đạt thành chính quả, còn người đời há lại không mau mau tu tâm sửa miệng sao? Rừng trúc biếc là một cảnh tiên thánh tự nhiên ở bên ngoài chốn phàm trần, màu trúc biếc hòa nhập màu trời, thảm cỏ xanh êm như nệm, dòng nước trôi man mác, sống một ngày trên đó bằng cả năm hạnh phúc dưới trần. Đài sen đá, thảm cỏ xanh nằm ngồi êm ái thảnh thơi, đã vì chúng sinh chuẩn bị chỗ ngồi đệ nhứt hạng như vậy, mong tất cả người đời hãy bước lên thuyền pháp.

Dương Sinh: Thiện căn của chim loan quả thực sâu dày. Thưa Quán thế Âm Bồ Tát, sách Luân Hồi Du Ký sắp hoàn thành, Bồ Tát phát nguyện rằng “không cứu độ chúng sinh, thề không thành Phật” và còn dạy rằng “cầm thú dễ tu, người đời khó độ”. Từ muôn ngàn kiếp trước tới giờ chúng sinh oan nghiệp trùng trùng, xương trắng chất thành non, có kẻ muốn tu đạo thiện lành song vì thân thế lắm bệnh hoạn gia đình xào xáo, con cháu ngược ngạo, nghịch cảnh không dứt, khiến kẻ tu đạo tâm có thừa mà sức chẳng đủ. Bồ Tát đã nguyện cứu độ hết chúng sinh, vậy xin ngài chỉ giáo cho ngả đường đi tới đích, hầu giúp mọi người thân tâm thường an lạc, vạn sự như ý, mới có thể chuyên chú tu đạo để tính linh mau có ngày thành Phật.

Bồ Tát: Ta tuy phát nguyện cứu độ chúng sinh song chúng sinh si mê chưa thể diệt dục tu tâm sửa tính, nên càng lúc càng đắm chìm sâu thêm, biển khổ lại mênh mông, trôi dạt không biết đâu là bờ bến nên chưa thành Phật, có thể nói: “Phật chẳng thể độ người, mà người phải tự độ mình”. Bữa nay tạm mượn một chương sách Luân Hồi Du Ký để trình bày “cái đạo chúng sinh tự độ mình thành Phật”. Từ ngàn xưa tới nay, chúng sinh trên đời thường cá lớn nuốt cá bé, người giết chóc người, người tàn sát thú để ăn thịt uống máu, nên tính linh của người và thú lẫn lộn, khiến thân tâm người càng ngày càng biến đổi. Vì trong cơ thể người có máu thịt các loài cầm thú, huyết khí của người và thú không thể điều hòa, tự nhiên sinh bệnh tật. Cho nên những kẻ ăn thịt, tính linh họ và thú dễ bị hỗn độn, ảnh hưởng tới tâm tính người, khiến lòng người đời nay không bằng người đời trước, khắp nơi thấy toàn hiện tượng mặt người dạ thú.

Nhất là con người sống ở xã hội văn minh, lại còn có nhiều hành vi dã man hơn đâu hết, đã từ lâu con người đã xâm phạm lãnh vực đời sống loài vật, làm tổn hại sinh linh chúng quá nhiều, cho nên mối tương quan của đạo sống giữa người và vật không còn tốt lành đẹp đẽ, tính linh của người bị ảnh hưởng nghiệp lực hạ cấp, đọa lạc vô cùng, ngày đạt đạo thành Phật quá xa. Bởi vậy người muốn thành đạo phải đoạn tuyệt ác nghiệp với loài vật, cữ ăn mặn, giới sát sinh, chỉ lo phóng sinh để hoàn thành nhân tính thanh tịnh, lo thực hiện trách nhiệm giúp đỡ loài vật thành đạo, tự nhiên ngày càng gần Phật.

Dương Sinh: Kính mong Bồ Tát giảng dạy rõ thêm về phương pháp giới sát, ăn chay, phóng sinh cùng giúp đỡ loài vật thành đạo để chúng sinh theo đó mà tuân hành.

Bồ Tát: Được, ta sẽ thuyết minh từng điểm một như sau:

1. Giới sát: Tất cả động vật đều có tính linh có máu lệ, có khổ đau, có tình cảm, căn cứ theo tinh thần từ bi bác ái thì không nên giết hại chúng. Mạnh Tử nói: “Người quân tử tránh xa bếp núc” tức là không nên sát hại, không nên nhìn sự chết chóc, nhân loại đã có lòng yêu mến bảo vệ loài vật, thì giữa người và người không còn hành vi tỵ hiềm chém giết, do đó sự giới sát động vật là nền tảng bồi dưỡng đức nhân của người quân tử.

2. Giới thực: Ngoài việc giới sát ra còn phải cữ ăn mặn, bởi vì có ăn chay mới tự giúp mình bớt sát sinh, ngũ cốc rau trái rất tốt đối với cơ thể con người. Vì các loài súc sinh không tắm rửa, thân xác dơ dáy đầy vi trùng, ăn thịt chúng dễ mắc các chứng bệnh ngặt nghèo, thầy thuốc bó tay, cuối cùng chịu thác. Vả lại ăn xác thú dễ bị hồn thú nhập vào mình, khiến tinh thần bất an, cơ thể bệnh hoạn. Mong người đời bỏ ăn mặn chỉ ăn chay, càng giảm thiểu sự ăn uống bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Không còn cảnh cá lớn nuốt cá bé, thì lòng người cũng hết còn tham ô xảo trá, chiếm đoạt.

3. Phóng sinh: Thực hành được giới sát ăn chay không chưa đủ, mà còn lo phóng sinh loài chim cá khi chúng gặp họa chết chóc, phải nghe theo tiếng gọi của lòng từ bi trắc ẩn mua chúng về phóng sinh, để chúng được sống lại cuộc đời tự do, cứu những con vật sắp bị giết, ơn cứu mạng của chúng đối với mình vô lượng. Có kẻ nói, bọn chúng chuyển kiếp đầu thai làm loài thú là vì kiếp trước nghiệp quá nặng, nên giết chúng cũng phải, quan niệm như vậy là sai, bởi người có lòng nhân bao giờ cũng sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của kẻ khác, loài khác, hơn nữa ta thấy kiếp này chúng chẳng còn khả năng cùng ý muốn hãm hại một ai. Đã biết lo phóng sinh, cùng cứu sống loài vật, thì khi đối xử với người lượng từ bi cũng tự nhiên mở rộng, sự nhẫn nhục sẽ khuất phục được cá tính không tốt lành. Sự bàn luận về tính linh thanh tịnh vừa rồi, cho thấy sự quan trọng là phải bồi dưỡng đạo tâm, muốn bồi dưỡng đạo tâm thì phải tu đạo, kiêng sát sinh, cữ ăn mặn nhất là phải phóng sinh.

Phương thức giúp loài vật thành đạo đề cập tới trong sách Luân Hồi Du Ký, chan chứa tình thương yêu đùm bọc, tiếng kêu trầm thống của loài vật càng vang dội xa, càng có cơ hội giúp chúng tạo công chuộc tội. Chúng sinh muốn sạch nghiệp thành Phật, phải phát nguyện ấn tống sách Luân Hồi Du Ký để khuyên răn người đời, để người đời được rõ loài vật vốn từ người biến hóa ra, chúng có quyền được sống bình đẳng ngang loài người trên trái đất. Có thực hiện được lẽ công bằng này mới trừ sạch được bạo lực cùng giết chóc, biến thế giới ta bà thành nước Phật hoa sen, người và vật chung hưởng thái hòa, là bầu bạn với nhau, vật giúp người làm việc, cùng được sống bình an, cõi trần là cõi tiên, có như vậy nguyện ước cứu độ tất cả chúng sinh của ta mới mau chóng hoàn thành.

Tế Phật: Lời dạy của Bồ Tát quả là những tiếng chuông từ bi hỷ xả vọng về từ cõi Phật xa xôi.

Bồ Tát: Cũng may các đệ tử của cửa Phật hiện nay đang hô hào giới sát, chúng sinh mỗi lúc một đông, bài văn giới sát của đạo sư Liên Trì giúp ích rất nhiều cho chúng sinh, Lý Viên Tĩnh một đệ tử của Phật, qua bài Hộ Sinh Thống Ngôn (Tiếng kêu cứu sống thương đau) đã cảnh tỉnh đời không ít, quả đã có công cải tử hoàn sinh.

Dương Sinh hãy chép vào sách Luân Hồi Du Ký để được rộng đường khuyên răn người đời.

HỘ SINH THỐNG NGÔN

Tiếng kêu cứu sống đau thương

I. Đức lớn của trời đất gọi là “cứu sống”, ác lớn của người đời gọi là “giết chóc”. Hai câu nói của người xưa nhắn lại với người sau nghe thực là thống thiết. Chúng ta đều biết rằng sinh mệnh là cái quý nhất trên đời, sát sinh là sự bi thảm vô cùng của thế gian. Chúng ta đọc sách, đọc tới hình phạt thứ năm trong số ba ngàn, thì tội chết là lớn nhất, thế mới biết kẻ gian phạm là kẻ ác tột đỉnh, tội chúng ngập trời, chỉ còn đổi mạng sống mới đền nổi tội mà thôi, ngoài ra không còn cách nào khác. Song ngược lại trường hợp phạm tội sát sinh loài vật vẫn vô hại, vẫn không phải đền mạng, được luật trời bao dung, luật nước không nói tới, khiến con người tàn sát dã man để lấy xác ăn, để làm trò chơi vui mắt.

Thương ôi! Trần gian tội ác ngập tràn, không sớm phát huy công lý, hẳn là còn mãi gia tăng. Các loài vật ở thế gian tất cả đều có sự sống, từ người đến muôn loài, từ dưới nước bơi lội, trên cạn chạy nhảy, giữa trời bay lượn, tuy thân mình to nhỏ không đều, song tính linh cùng một loại. Hoặc nói khác đi, loài vật không giống hình người song tính vật chẳng khác tính người, loài nào cũng biết yêu sự sống, biết sợ cái chết. Bởi vậy được may mắn làm người thì phải biết xử với vật như xử với người, chớ có thấy vật khác người mà sinh lòng phân biệt. Căn cứ ở điểm này ta thấy rằng cần phải có một nguyên tắc căn bản tối thiểu, đối với sinh vật trên trái đất, bởi lẽ tất cả đều hít thở sinh khí của trời đất như nhau, thì tuyệt đối không được kỳ thị.

Thử nghĩ khi ta nhổ một cọng lông thì toàn thân rúng động, lấy ngải đốt châm vào da thịt toàn thân đau đớn, hẳn rõ rằng một mà là tất cả, tất cả mà chỉ là một, sự sống của muôn loài là sự sống của ta, huyết khí hoàn toàn tương đồng thì đau đớn, há chẳng tương quan sao? Người là loài linh thiêng của muôn loài. Mới hay trời đất sinh ra một giống thông minh biết quý trọng mạng sống gọi là “người”, sinh ra nhiều loài ngu xuẩn khinh rẻ mạng sống gọi là “vật”, cùng hưởng sinh khí cùng sống trên đời, cũng như người ta sinh con cả, con thứ và con út, tuy có sự phân biệt cả, thứ, út song cùng chung cốt nhục, cùng chung dòng máu thắm thiết. Chỉ vì trí lực của người đủ khống chế đời sống vạn vật, khiến nhiều kẻ mê lầm nghĩ rằng trời sinh ra vạn vật cốt để cho người giết chóc ăn thịt, hẳn là vô lý chẳng cần bàn cãi. Hổ lang gặp người liền ăn thịt, há cũng tin được là trời sinh người để hổ lang ăn thịt chăng?

Sự dinh dưỡng của con người có ngũ cốc rau trái quả là đầy đủ, trời ban cho người như vậy không lẽ không hậu đãi hay sao, mà lại còn đi ăn thịt loài vật, chỉ hoàn toàn lợi dụng tính mệnh của vạn vật vào vấn đề dưỡng sinh của người sao? Nói tất cả chúng sinh đều cùng một thể, người đời phần đông cho rằng không đúng, vì nghĩ rằng người ta ai ai cũng có cá thể, làm sao có thể tin là một thể được. Kỳ thực người trong gia đình là một thể, mẹ con là một thể, sự kiện này chứng minh một cách vô cùng xác thực, chẳng chối cải nổi, tất cả chúng sinh là một thể. Người mẹ thấy con vui thì mình cũng vui, thấy con buồn thì mình cũng buồn, thậm chí con bệnh, con chết mẹ cũng muốn bệnh muốn chết thay con. Tất cả những bà mẹ dưới gầm trời này, ai cũng nghĩ con mình và mình là một thể, khiến nó thương nhà yêu nước cũng bởi tại lẽ đó, đến cả đạo thương người yêu chúng sinh chẳng khác chút nào, thầy Mạnh Tử nói: “Người đời có kẻ chết chìm tức là mình chết chìm, người đời có kẻ đói tức là mình đói vậy”.

Bồ Tát Địa Tạng nói: “Còn một chúng sinh chưa thành Phật, ta nguyện không thành Phật”. Tinh thần này chẳng khác nào tình người mẹ chân thành nghĩ tới con mình, có quan hệ mật thiết một hồn, một xác chẳng thể tách rời. Người này với người kia, người kia với toàn thể chúng sinh, tính chất vốn là một, chẳng qua túi da đựng ít chục cân khiến nó chia cách, trở thành ta của ta, nó của ta. Nhưng khi túi da đựng thịt không còn phân chia, gặp cơ hội sự đồng tính chất của cái ta này, cái ta kia liền hợp ngay làm một, ngoài cái gốc ta bé nhỏ của một cái ta lớn lao, càng lớn lao càng hội hợp, rồi cứ lớn lao hội hợp hoài hoài, cho tới bao giờ tràn ngập hư không thì tất cả cái ta hợp thành một thể, khi đó cái ta mới toàn vẹn, mới chân thực. Còn sự phân biệt cái ta nhỏ bé, cùng nhân cách đạo đức cao thấp qua cái nhìn của kẻ nhỏ mọn, cái ta đó chỉ là cái ta vỏn vẹn trong vòng túi da đựng ít chục cân thịt, do đó mà hành vi của họ trở thành cực đoan, ích kỷ chỉ nghĩ tới lợi lộc của riêng mình, khiến tội ác nẩy mầm đâm nhánh. Tội ác giết chóc hoành hành nguyên nhân chỉ tại thiếu tình đồng tâm. Tình đồng tâm sở dĩ không có nổi là bởi không có quan niệm được, là tất cả chúng sinh vốn cùng chung một thể.

II. Không kể loài nào giết loài nào, đều là việc không nên. Song người đời lại thường không nghĩ như vậy, nên chẳng chịu giới sát, nào như cảnh người giết người, người giết cầm thú, rồi cầm thú giết người, vậy thử phân tích ba cách sát sinh này, người đời cho người giết người là quan trọng nhứt, hung bạo nhứt, song người giết cầm thú lại cho là việc đương nhiên, còn cầm thú giết người thì cho là kỳ quái. Tôi mong mọi người hãy tự xét lương tâm mình, rồi thử suy ngẫm về ba cách giết chóc vừa kể trên, hẳn câu trả lời sẽ cho thấy tội giết loài cầm thú là tội lớn nhất so với hai tội kia, như vậy nghĩa là tại sao? Bởi lẽ người giết nhau thì có pháp luật phân xử hoặc có sự chống trả tự vệ, sức lực tương đương. Còn cầm thú giết lẫn nhau thì hẳn là hổ báo không thể hại nổi chim bay, cá không thể hại nổi các giống trên bờ, thì việc cầm thú hại nhau kể như cũng còn có giới hạn. Chỉ có người giết vật là không biên giới, dù là trên không, dưới biển, trong chốn núi rừng, đồng hoang bãi vắng, bất luận ở đâu con người cũng có thể giăng bẫy buông lưới.. để bắt các loài cầm thú một cách dễ dàng.

Lớn là bò dê chó lợn, nhỏ là tôm cua cá mú, tất cả đều bị người giết để ăn thịt, khiến chim mất bạn bay cao, thú bỏ bầy sống cô độc quả là tội ác lòa trời. Song vì pháp luật không can thiệp nên người ta lại càng ham hành động một cách thích thú, ca ngợi hết mình, thế mới hay người hại người còn có giới hạn, song người hại vật thì không biên giới. Xem ra như vậy thì tội giết hại cầm thú còn lớn lao hơn cả tội giết người, vậy thì tội cầm thú giết người còn coi là hung bạo chăng? Đã tự coi mình là loại linh thiêng nhất trong muôn loài, há lại còn tàn nhẫn ham giết chóc được nữa hay sao? Tiếc thay người đời từ nhỏ tới lớn, từ lớn tới già luôn luôn tạo nghiệp ác sát sinh. Người mẹ mới thụ thai ăn mừng cũng sát sinh, khi con đầy tháng cũng sát sinh, lúc con đầy năm cũng sát sinh. Lễ cưới hỏi cũng sát sinh, cúng bái thần thánh cũng sát sinh, đón khách cũng sát sinh, tiễn khách cũng sát sinh.

Ham ăn thì lắm bệnh, chỉ vì miệng lưỡi và bao tử mà đến nỗi phải sát sinh, một đời giết rồi lại giết, vui cũng giết, buồn cũng giết, những sinh mệnh bị mình hủy diệt lên tới con số ngàn vạn mới thôi, nọc độc không giải trừ ắt hẳn có lúc lâm trọng bệnh, vì muốn cầu được sống mà hành động lại hủy diệt sự sống, lễ mừng tuổi thọ là muốn được sống lâu mà lại sát sinh, lễ cưới hỏi muốn được đoàn tụ mà phải giết chóc. Sinh con trai vốn là để nối dõi tông đường mà lại đi giết gà mẹ gà con, như vậy còn nghĩa lý gì? Theo lẽ thường tình, mỗi khi ăn mừng việc lành thì phải cữ sát sinh mới đúng. Như mừng sinh nhật chỉ nên kể chuyện rùa hạc sống lâu, mừng sinh con trai thì kể chuyện loài sinh nhiều trứng, chớ nên trong lúc có chuyện vui mừng mà lại bày trò giết chóc. Chớ hại sự sống lâu của loài khác để làm vui cho sự sống lâu của mình, loài khác phải tuyệt giống để mình mừng có nhiều con trai. Cùng trong một ngôi nhà mà phía trước có tiệc tùng vui vẻ, phía sau là lò sát sinh, bên trên mừng vui chúc phúc, bên dưới kêu thương thảm thiết, quả khó mà chịu nổi.

Lại còn có kẻ lấy sự sát sinh làm trò chơi, lấy sự giết chóc làm khoái chí cùng chứng tỏ là mình quyền uy. Ôi! Thực quả là kỳ quái. Thế mới biết người đời chỉ vì một bữa ăn mà thành ham chém giết, cả mười con chim sẻ bị bỏ mạng mới đủ một bữa ăn, như ngao sò ốc hến phải giết bao trăm con mới đủ một bữa nhậu. Xác loài vật vốn đã ngon miệng song vì tính ham thích vị lạ, lại còn chế biến thành trăm ngàn món để thỏa mãn sự khoái khẩu, chỉ có vậy mà cầm thú bị họa. Người đời ăn sống nuốt tươi, mổ cả bụng chửa để kiếm ăn bào thai, lột da lóc xương, có cả trăm ngàn phương cách sát hại loài vật. Ăn cho no say rồi dương dương tự đắc, hơi chậm mang đồ ăn ra đã mắng bồi bếp, không biết rằng những vật thực trong mâm đều oán hận mình vô cùng, vì bắt chúng phải khổ đau để cho mình sướng miệng, vậy mà vẫn đang tâm nuốt trôi được nữa hay sao? Không cần phải luận về báo ứng, chỉ cần có suy nghĩ một chút, hẳn là sẽ thấy việc làm của mình tàn ác nào có khác chi loài lang sói. Chỉ vì người đời bị miệng lưỡi và bao tử đòi hỏi nên mới đang tâm làm chuyện ác độc như vậy mà thôi.

Trên cõi đời này, mỗi ngày có biết bao nhà trở thành lò sát sinh, chứa đầy dao sắc, chỉ trong khoảnh khắc trên toàn thế giới hàng vạn ức sinh linh đầu lìa khỏi mình, xác chất cao hơn núi, máu chảy thành sông biển, cảnh tượng bi thảm bày ra ngập đất, tiếng rên la hờn oán như sấm dậy rung trời, từ sớm tới tối, chỉ thấy dao sắc mổ bụng, dao nhọn moi tim, lột da lóc thịt, cứa cổ cắt họng, nhúng nước sôi, quay trong lò lửa, thái nhỏ ướp muối tiêu hành tỏi. Than ôi! Khổ nạn đáng thương biết mấy, đau đớn sức nào chịu thấu, tạo nghiệp ác ngợp trời kiếp này, kết thành mối hận nghìn đời kiếp này muôn kiếp về sau chung quy chỉ tại miệng lưỡi và bao tử mà ra cả, quả là tội quá lớn lao.

III. Nhân lễ nghĩa trí tín là những điều làm thân con người phải lo tu bổ. Có giữ được ngũ thường tức năm điều vừa nói trên mới không thẹn là mang tấm thân con người bảy thước, đầu đội trời chân đạp đất, cao lớn bằng trời đất, cùng trời đất thành ba ngôi, gọi là tam tài. Chúng ta hãy tìm hiểu cứu cánh cuối cùng của cuộc đời là gì? Người là loài linh thiêng nhất trong muôn loài, thử hỏi nhờ cậy được gì? Bởi lẽ là người đều có năm đức tốt đẹp là ngũ thường tức nhân lễ nghĩa trí tín, cho nên không thẹn mà nói rằng mình to lớn sánh cùng trời, là một trong ba ngôi. Không hổ với danh hiệu là loài linh thiêng nhất trong muôn loài, vậy mà còn phạm luật sát sinh thì chẳng hóa ra đem năm đức tốt đẹp đó chôn vùi đi mất hay sao? Xả thân kẻ khác để nuôi mình béo mập là điều bất nhân, chia lìa quyến thuộc của kẻ khác để bày tiệc khoản đãi thân bằng của mình là bất nghĩa, đem thịt da kẻ khác cúng bái thần thánh là vô lễ, thân phước đức lại ăn đồ tanh hôi là bất trí, bày mưu thiết kế để kẻ khác rơi vào bẫy sập là kẻ bất tín.

Thương ôi! Người ta sống trên đời hoàn toàn nhờ cậy ngũ thường là năm đức tốt lành, điều kiện để làm người đã mất, con người có khác chi loài cầm thú, có phải là cùng loài với chúng không? Chu Ân Sĩ nói: “Nhân là đầu của ngũ thường, từ là ngọn của vạn đức” nếu như chúng ta còn muốn khôi phục thiên chức làm người, thì trước hết phải lo thức tỉnh lòng nhân từ. Thế nào gọi là lòng nhân từ? Tức là phải đem tâm mình, cảm thông cùng muôn loài, nghĩ tới vạn vật khiến kẻ hung ác cùng cực cũng phải động tâm. Đã không tàn nhẫn với vật thì hẳn chẳng thể ác độc với người, do đó tự cổ chí kim, kẻ đã mến vật ắt yêu người, kẻ yêu người ắt thương vật. Tôi sở dĩ không ngại khó nhọc nói về vật chính vì muốn quảng bá lòng nhân từ để mọi người từ bỏ việc sát sinh, chung hưởng thái hòa. Xin những ai ham giết chóc hãy hồi tâm suy nghĩ, nhớ lại cảnh cầm thú kinh hoàng muốn tìm đường thoát thân, giận trời không giúp thang, hận đất không bẻ khóa.

Khi chúng bị ta lùng bắt hồn tan phách lạc như ngây như dại, phải nghĩ tình đồng loại cũng là chúng sinh, chỉ giết một con gà cả đàn gà kinh hãi, chẳng khác nào khi đất nước chúng ta bị giặc hoành hành bày cảnh tử biệt sinh ly kinh hồn táng đởm, thử hỏi khi đó lòng ta tan nát tới mức nào? Nghĩ tới phút chúng sinh bị giết kêu khóc than gào, mong tha mạng sống, huyết tuôn xối xả, tiếng rên la còn hoài văng vẳng, nào có khác chi khi ta bị lên đoạn đầu đài, chỉ mong thần Phật cứu độ, thần thức phân ly, so lúc sống thử hỏi còn phân biệt được gì? Nếu như kẻ ăn thịt nghĩ loài cầm thú không biết nói song há lại nhẫn tâm giết kẻ câm sao? Cho cầm thú là không có lễ nghĩa, há lại đành lòng giết đứa nhỏ đó sao?

Cho cầm thú là không ơn huệ, há lại đang tâm giết một người say điên rồ hay sao? Cho cầm thú là có ác nghiệp nặng phải đọa lạc, phải trả quả, há lại nhẫn tâm giết một kẻ bần tiện hay sao? Thương ôi! Người đời thường trách cứ các loài khác là mạnh hiếp yếu, lớn ăn thịt nhỏ, song hãy thử nhìn lại mình xem nào có khác chi, vậy thì loài người liệu có tránh khỏi bị loài vật trách cứ không? Khi người ăn thịt loài vật đương nhiên người mạnh vật yếu, nếu như ta tha chết cho chúng hẳn là chúng ca ngợi ta không ngớt. Thế mới biết dù người hay vật cũng đều ham sống sợ chết, tình thương yêu đối với người thân dù vật hay người chẳng khác, lúc bị giết người và vật đều đau đớn như nhau. Điểm bất đồng có chăng là người có trí còn vật vô tri, người biết nói vật không biết nói, người khỏe mạnh vật yếu đuối mà thôi. Người cho rằng loài vật vô tri không biết nói không thể tố cáo, yếu đuối chẳng thể thắng nổi ta, mà cho rằng ta hơn vật kém, ta trên vật dưới, để rồi mặc tình ăn thịt chúng, thì cái lý đó chẳng phải cái lý của trời, càng không phải cái lý của người, thương ôi! Còn biết nói sao đây.

Người ta mỗi khi gặp tai nạn xảy tới, ai ai cũng mong được cứu mạng, mắt chưa nhắm hẳn là miệng còn cầu xin, gặp gươm súng, đạo tặc thân xác run rẩy, tóc dựng ngược, hai hàm răng lập cập đánh vào nhau, mặt biến sắc, táng đởm kinh hồn, nếu như có người tới giải cứu, hẳn là vô cùng cảm kích ghi nhớ tới chết không quên. Còn như khi bắt được loài vật thì người lại quên ngay, chẳng còn biết đau đớn buồn thương thống khổ là gì, giống như chưa từng nghe từng thấy bao giờ! Thật đáng trách những người khi bị kiến hoặc muỗi cắn liền tức giận ra tay tàn sát chúng. Mới vừa nhức đầu đau mắt liền tới ngay bác sĩ, dược sĩ, lỡ bị thương nào như giải phẫu băng bó để cầu thoát chết. Yêu cái thân xác của mình tới mức đó, tại sao vô tình không chút đoái hoài tới cầm thú nỡ lòng tàn sát chúng, quả là không hề nghĩ tới lẽ trời báo ứng, pháp Phật giới cấm, chỉ biết yêu mình một cách hoàn toàn ích kỷ, không biết yêu vật, hoàn toàn bất nhân bất nghĩa, hành động mưu cầu lợi ích riêng tư, không biết tới sự tự trọng mà người quân tử cần phải có.

Người đời phải đối xử với những loài yếu đuối hèn mọn bằng tình thương yêu đùm bọc, tuy giặc cướp tàn nhẫn, hổ lang dữ tợn cách mấy đi nữa song vẫn còn hy vọng chúng biết phát tâm từ bi, huống nữa con người so với loài vật có nhiều ưu điểm hơn mà lại thua kém chúng sao? Không chịu yêu thương đùm bọc các loài yếu đuối dại khờ thật đáng chê cười, vì đã bỏ thiện theo ác, nếu tâm dễ dàng cảm kích nhất định phải coi trọng chúng, chỉ tại mình suốt đời không chịu làm thiện nên tình thương yêu mới bị thui chột, mới không chế phục nổi tánh ác, do đó mới đàn áp coi thường loài vật. Ỷ mạnh hiếp yếu, cậy đông đè ít, hành động ác độc đê hèn đó là mầm móng gây ra tất cả những tội lỗi trên cõi thế gian này. Căn cứ vào đó mà quan sát nhân loại, thì mới thấy rằng nếu như không sửa đổi cách cư xử đối với loài vật chắc chắn có ngày tư cách của người không được bằng chúng, khi đó loài người sẽ bị sỉ nhục biết là bao.

Sở dĩ thánh nhân ban bố giáo pháp là vì coi trọng nhân nghĩa, nhân nghĩa sẽ giúp mình tiến bộ bằng người, khuyến khích mình đem lòng yêu thương loài vật. Gần đây thế giới có xuất hiện một thiên sách làm rung động nhân loại do hội bảo vệ loài vật công bố, nội dung chủ trương “Hãy mở rộng tình thương đối với loài vật”. Lương tâm con người đã bị băng hoại, vì vậy cần phải mau mau phục hoạt, để loại trừ tính bất nhân, vị anh hùng vô danh đó đã phát tâm từ bi vô lượng để mở những cánh cửa lòng bằng sắt khép kín, sức mạnh của quý vị đó vô cùng lớn lao khi nêu ra mười vấn đề:

1) Những năm chiến tranh trước đây chúng ta đã trốn lánh, may nhờ trời đất che chở mới sống còn. Giả thử khi đó bị giặc đuổi gắt, sắp bắt được ta, nếu như ta tránh được khỏi tay giặc thì ta sẽ nghĩ sao, liệu có khỏi kinh hoàng sợ hãi không?

2) Giả sử ngày ấy giặc bắt được, trói ta như heo dê, biết chắc sẽ bị giết, thì ta sẽ nghĩ sao? Liệu có tránh khỏi loạn óc không?

3) Giả sử ngày ấy nhìn thấy bạn ta bị giặc tàn sát, máu đổ thịt rơi, ta sẽ nghĩ sao, liệu tinh thần có khỏi khủng hoảng thất kinh không?

4) Giả sử ngày ấy nhìn thấy người thân bị giặc trói lại lấy dao đâm mà không cứu nổi thì ta sẽ nghĩ sao, liệu có tránh khỏi thống khổ không?

5) Giả sử ngày ấy, cái chết đến với ta, chân tay rụng rời, lớn tiếng kêu cầu, cứ ngoắc ngoải hoài chẳng được chết ngay, ta sẽ nghĩ sao, liệu có khỏi oán hận chăng?

6) Giả sử ngày ấy, gần gũi cái chết, chợt giặc tha không giết ta, thử hỏi ta sẽ nghĩ sao, có vui mừng được thoát chết hay không?

7) Giả sử ngày ấy, không thù không hận mà giặc cứ muốn giết ta, thử hỏi ta sẽ nghĩ sao, có khỏi oán giận giặc không?

8) Giả sử ngày ấy, giặc tha ta sống, chỉ bắt làm tù binh, đương hy vọng được cứu thoát chết, chợt có một tên giặc lại tuyên bố là ta đã tới lúc tận số rồi, đem ra xử tử, thử hỏi ta sẽ nghĩ sao, có oán hờn không?

9) Giả sử ngày ấy, trong đám bạn hữu bệnh hoạn, đáng lý là phải được phóng thích, song lại có một tên giặc kết án các bạn ta là những đồ phế thải, phải đem giết đi, chẳng để chúng sống làm gì, thử hỏi ta sẽ nghĩ sao, có khỏi phẫn nộ chăng?

10) Giả sử ngày ấy, trong hàng quyến thuộc của ta phần lớn là những trẻ thơ, đáng lý phải được phóng thích, song có một tên giặc lại tuyên bố là những trẻ nít không giết cũng chết, chi bằng hãy ăn thịt chúng, thử hỏi ta sẽ nghĩ sao, có khỏi oán giận không?

Ta hãy thử suy nghĩ lại những điểm nêu trên một cách thật kỹ càng đi. Nếu như tất cả mọi người đều tự vấn lương tâm để tìm hiểu, thì hẳn đều rõ là mình chỉ vì cái miệng và bao tử mà nỡ lòng giết cầm thú cùng các loại cá mú tôm cua, đặt chúng nằm trên thớt, lấy dao băm vằm mổ xẻ bỏ vào nồi. Thử nghĩ chính thân mình quyến thuộc mình, bằng hữu mình mà phải lâm vào cảnh ấy thì hẳn mình khổ sở biết bao, nói chẳng nên lời, thoáng giây hồn lìa khỏi xác, thử hỏi lúc đó mình sẽ nghĩ sao đây! Hãy đem tâm so sánh với tâm, cùng những điều vừa trình bày. Thêm một cái ví dụ khi bị giặc bắt chín phần chết chỉ còn một phần sống, may mắn vừa được lệnh ân xá, song lại bị giặc bác liền, đem đi xử tử, trước cảnh tượng này sẽ nghĩ sao đây? Chắc hẳn mọi người sẽ đồng thanh trả lời: "Chúng ta thề sẽ giới sát, không làm phước chắc chắn gặp nạn vì chính thân mình biết sợ khổ, sợ chết thì trí mình hẳn là đã sáng, việc mượn thân xác loài khác để nuôi mình béo mập chẳng hề suy nghĩ kỹ càng quả là bất nhẫn. Tâm này nguyện giữ gìn trong sáng, làm được như vậy linh hồn chúng ta đã hoàn toàn thức tỉnh rồi đó".

#27 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 11:23

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI (TIẾP THEO)

QUAN ÂM CỨU KHỔ DỰNG NHIỀU TÒA SEN ĐÁ

NHÂN LOẠI LÀM LÀNH GIỚI SÁT LO PHÓNG SINH

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 8 tháng 12 năm Tân Dậu 1981

IV. Người trần nếu như một đời tâm không dấy niệm giết chóc chỉ lo phóng sinh loài vật sẽ bảo vệ chính mình sống còn một cách chân chính; cứu được một con vật khỏi chết chẳng khác nào mình được cứu tử, làm như vậy tất cả chúng sinh tự nhiên không còn sợ hãi. Mỗi ngày mười hai giờ, mỗi giờ sáu mươi phút chúng ta phải lo phóng sinh cứu tử, chớ chậm trễ, sợ rằng loài vật không kiên nhẫn chịu đựng nổi sự nguy khốn; chẳng thể phó thác cho kẻ khác, sợ rằng loài vật sẽ bị hại bởi họ; không được hẹn lần sợ kẻ lòng tham bắt mất loài vật; không thể tin là chỗ đó yên ổn, sợ rằng kẻ ham ăn thịt loài vật dò la thấy được. Gặp trước mắt phải mua liền và phóng sinh ngay; ở chốn đồng hoang phải thả thật xa, kẻo trước sau cũng bị người ta bắt giết, thì cơ hội sống sót mới tăng dần. Bầu khí thái hòa không chỉ ở ngoài vũ trụ mà còn chan chứa trong cái mình nhỏ bé của chính ta. Chớ nghĩ rằng giết một thân xác nhỏ bé như con sâu cái kiến là vô hại hay cứu sống con giun con dế là vô ích.

Chớ sợ phiền toái mà ngại làm việc thiện, chớ thấy vật giá mắc mỏ mà phế bỏ thiện duyên, phải biết một vật nhỏ mọn cũng không phải là nhỏ, tất cả chúng sinh cũng không phải nhiều, ruồi muỗi không bé, trâu bò không lớn, một xu cũng đủ, ngàn vàng không dư, chỉ tại tâm mình còn tham muốn mà thôi. Chúng ta càng không lưu ý tới loài vật thì sự tàn ác càng xảy ra nhiều, bởi vậy ta phải luôn luôn khuyên nhủ hàng xóm láng giềng, kẻ thân người thuộc bỏ dần tính sát sinh, nuôi dưỡng lòng trắc ẩn, nếu như khiến được mọi người lưu tâm, hẳn là ta đã lập được công đức lớn lao. Người đời thường quan niệm chỉ cần tâm hiền chẳng cần ăn chay, thử hỏi lòng lang dạ sói ngập trời đầy đất, ăn cả thịt họ thì họ nghĩ sao? Tâm hiền của họ có giải quyết nổi vấn đề không? Đại khái tâm bất nhẫn đã là người ai cũng có, vì vậy khi nhìn thấy đồ tể giết chóc mà không kinh hãi, là vì ý nghĩ những con vật đó mình cũng sẽ ăn, chung quy chỉ tại người đã chẳng chịu bỏ tật ăn mặn, đổ tội cho người khác gánh, cốt sao mình được no béo sướng miệng mà thôi.

Đâu có phải chỉ một mình kẻ bán mà cả người ăn cũng mang tội, phải biết là nguồn thực phẩm của trời đất cung cấp cho người ăn như các loại ngũ cốc, trái cây, rau đậu dưới nước cũng như trên cạn hiện thời nhiều vô số kể. Người đời lại còn có phương pháp chế biến rất tinh vi khoa học để có được những món đồ chay ngon lành bổ dưỡng không kém đồ mặn, mà tại sao lại còn giết chóc những loài cũng có khí huyết, có tình mẹ con, có tri thức, cảm giác như mình để ăn thịt! Tàn sát biết bao sinh mệnh cốt chỉ để ăn cho sướng miệng, nhưng sau khi buông đũa bỏ chén, sự khoái khẩu đó cũng chẳng còn, mà nghiệp sát sinh thì phải đeo mang mãi mãi, há không phạm tội sao? Người đời ăn đồ mặn mắc tiền bị nhiễm độc phải trả giá mạng sống cũng chẳng rẻ nào, nên lấy chay thay mặn, lấy sống thay chết, một được một mất, sự sai đúng khác nhau muôn phần. Ăn chay đương nhiên tâm ta được yên ổn vô cùng, lợi ích cho thân ta vô hạn. Những năm gần đây việc ăn chay ở các nước coi có vẻ đã thịnh hành, tìm hiểu nguyên nhân thì thấy các nền khoa học đều tiến bộ, đã chứng minh rằng giữa việc ăn thịt với ăn rau thì việc ăn chay có lợi hơn, đã cảnh giác người đời rất nhiều.

Mạng sống mình ai mà chẳng quý, nên việc ăn chay ngày càng phổ biến, nhất là tại Hiệp Chủng Quốc sự ăn chay cũng rất thịnh hành, các khóa giảng giải về việc ăn chay tuy chưa được triệt để song cũng đã trở thành hiện tượng, cải biến được nhiều hủ tục tập quán. Để bảo vệ sinh mệnh ta chủ trương nhất định không ăn thịt, phải bất bình trước vấn đề ăn mặn là thiếu vệ sinh, nếu cần bàn cãi có nên ăn thịt hay không ăn thịt thì phải lý luận thật đanh thép để chứng minh cho thấy là ăn thịt rất có hại, ăn chay rất có lợi, thì nền tảng giới sát mới được xây dựng, tiếng kêu gọi giới sát bi thiết sẽ đánh động lương tâm mọi người. Trình bày một cách khoa học cho người ta thấy về cái hại của sự ăn thịt, để giảng giải thêm về sự độc hại của việc ăn mặn xin trình bày một cách vắn tắt như sau:

a) Một hóa học gia người Pháp đã khám phá ra rằng trong thịt của các loài cầm thú đều có ít nhiều loại vi sinh vật độc hại, lúc cầm thú bị đau đớn tột cùng, tiết ra độc tố rất nhiều, trong khoảnh khắc lan tràn khắp cơ thể, nếu như ăn phải thứ thịt này, ắt hẳn bị tai hại lớn. Một tâm lý gia người Mỹ tuyên bố: “Lúc tâm lý con người biến đổi mạnh thì có các loại vật chất hóa học tương ứng tiết ra ngoài cơ thể, như khi giận dữ mồ hôi toát ra, còn lúc bi ai thì chất toát ra lại là khác, cũng giống như khi mở miệng than gào thì luồng khí trong cơ thể toát ra, mỗi trường hợp biến hóa đều khác nhau. Lúc bình thường ta lấy một ống thủy tinh lạnh hà hơi vào, hơi đó ngưng đọng thành nước trong suốt, không có màu sắc, nhưng khi phẫn nộ lại khác hẳn. Khi giận dữ khí thổi ra trong năm phút đã ngưng đọng thành sương trong ống thủy tinh, lại còn có màu sắc và đóng cặn. Người ta dùng phương pháp đó thí nghiệm các loại tình cảm của con người. Kết quả cho thấy sự giận dữ hóa thành loại vật chất có sắc chim diều hâu, sự bi thảm hóa thành thứ vật chất màu tro, sự hối hận hóa thành thứ vật chất màu đá”.

Về sau hóa học gia đó lại thực nghiệm một cuộc thí nghiệm khác, bằng cách lấy chất nước của một kẻ đang giận dữ chích vào một vật khác, tinh thần nó liền có sự phản ứng kịch liệt cùng nổi giận ngay. Lại lấy chất nước đó của một kẻ chuyên đố kỵ chích vào mình heo, mình chuột chỉ ít phút sau chúng liền lăn ra chết. Căn cứ theo kết quả của những cuộc thí nghiệm, thì sự giận dữ làm hao tổn tinh lực trong mình rất nhiều vì chất nước tiết ra rất phức tạp, rất độc địa. Cho trẻ con bú vú mẹ lúc người mẹ đang phẫn nộ thì thật quả là bất hạnh bởi đứa nhỏ có thể sinh bệnh do tình cảm bất mãn của người mẹ đã là nguyên nhân chính sinh ra độc tố. Xem như vậy thì sự oán hờn của một bát canh thịt quả thật sâu như biển, miếng thịt gắp trên đũa nỗi hận thật khó mà phê phán, song ngày ngày theo thói quen không ngớt nuốt vào đầy bụng. Ôi! Còn biết chạy chữa cách nào, nguy hiểm thay, nguy hiểm thay!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hiện tại có một số y học gia dùng kính hiển vi tìm thấy trong thịt của các loài cầm thú đều có ít nhiều loại vi sinh vật độc hại, do đó kẻ ăn thịt thường bị nhiễm các loại vi trùng đó, nhẹ thì bệnh hoạn, nặng thì vong mạng. Trong thịt heo, thịt bò đều có nhiều vi trùng, giới y học Mỹ quốc mở cuộc thí nghiệm để điều tra tuyên bố kết quả như sau: “Người ăn thịt phần đông mắc bệnh” nhất là bệnh phổi, thổ tả, thực khách thường hay bị nhất. Bên Anh quốc trước đây bệnh đau nhức khớp xương cho là tại rượu, song hiện nay thì đã biết rõ là tại thịt. Chúng ta phải biết rằng ăn thịt cơ thể sẽ có nhiều độc tố, khiến máu lưu thông chậm chạp, não bộ sinh hoạt bất bình thường nên dễ sinh chứng bệnh đau thần kinh. Ăn thịt sức đề kháng trong cơ thể bị tiết giảm nên bị bệnh phù thũng, ăn thịt uống rượu quá nhiều dễ khiến thận nóng. Tóm lại tôi chẳng muốn dài dòng luận bàn cùng quý vị về y học, mà chỉ muốn nêu một số bằng chứng cụ thể để quý vị rõ ăn thịt quả đúng là có hại nhiều hơn có lợi, điều đó hoàn toàn chính xác. Ngày hè nóng nực, đồ mặn dễ bị thiu thối, thịt đóng hộp lại càng dễ bị rỉ sét, tất cả đều cho thấy ăn thịt rất nguy hiểm.

Đây chỉ nêu một số ví dụ thông thường, tôi chẳng cần phải nêu nhiều bằng chứng, song cũng đủ thấy rằng kẻ ăn thịt vô hình trung đã tự chuốc biết bao loại vi trùng thối tha tanh tưởi vào trong cơ thể của mình. Than ôi! Thế mới biết kẻ băng rừng, vượt suối thường gặp nhiều cọp dữ, quả là đáng sợ, đáng sợ. Tôi xin phép tiếp tục trình bày thêm về lợi ích của việc ăn chay, mục đích của sự ăn uống là để dưỡng sinh, sở dĩ chúng ta phải dùng đồ ăn là cốt mong có tinh lực, mà tinh lực do ánh sáng mặt trời tạo ra, chỉ có loại thực vật sống trong khoảng trời đất là biết lợi dụng nhiệt độ của ánh sáng mặt trời mà hấp thụ nguồn tinh lực đó một cách trực tiếp. Nên chỉ có hạt mầm cây cỏ là thừa hưởng được nhiều kho trời chung vô tận đó mà thôi. Nếu đem phân tích chất bổ dưỡng trong thịt, ắt thấy thịt có chất gì thì rau cỏ ngũ cốc cũng có đầy đủ các chất đó, song có cái lợi lớn hơn là dễ tiêu hóa. Ví dụ nếu đem phân chất loại đậu nành thì thấy chất đản bạch chiếm tỉ lệ tới bốn chục phần trăm, còn trong thịt chỉ có hai chục phần trăm mà thôi.

Chất đản bạch của thịt lại khó tiêu hóa là vì cơ cấu tổ chức cơ tạng của động vật đã sử dụng mất một phần nên chất đản bạch đã bị giảm thiểu. Bởi vậy đem đồ mặn sánh với đồ chay mới thấy chất đản bạch trong đồ chay rõ ràng là phong phú hơn. Thực vật sinh trưởng giữa trời đất, được gió sương mưa nắng cùng ánh sáng mặt trời tưới tắm nuôi nấng rất đầy đủ chất dưỡng sinh cho người dùng, thì cớ sao ta lại để máu thịt dơ bẩn thối tha của loài động vật làm hại cơ thể mình. Nếu như so sánh giữa việc ăn mặn và ăn chay, chúng ta sẽ thấy rõ ràng có sự phân biệt là ăn chay được trường thọ, ăn mặn chóng chết; ăn chay thị dục lợt, ăn mặn thị dục đậm; ăn chay thần trí trong, ăn mặn thần trí đục; ăn chay đầu óc mẫn tiệp, ăn mặn thần kinh trì độn; ăn chay sức lực được dồi dào, ăn mặn sức khỏe yếu kém. Ăn chay huyết dịch trong, sức đề kháng mạnh mẽ, ăn thịt huyết dịch đục, dễ bệnh hoạn. Những hội thể dục quốc tế khi tranh tài, kẻ ăn chay phần đông thắng cuộc, đó là một chứng minh đã cho thấy rõ. Vậy thời muốn xây dựng sự nghiệp, bất luận cá nhân hay quần chúng, không phải chỉ những kẻ khí huyết thô bạo mới nắm chắc phần thành công. Người xưa nói rất đúng: “Kẻ ăn thịt thô bỉ”. Vậy muốn lập chí để trở thành người đường đường chính chính, trước hết phải bỏ ăn thịt, tập ăn chay, không những ích lợi cho cơ thể mà còn cho cả tâm hồn nữa. Tóm lại chắc chắn kẻ ăn chay thân tâm thường an lạc.

V. Đây là chương sau cùng, tôi là một tín đồ Phật giáo nên chỉ luận bàn về điểm quan trọng của việc cấm sát sinh theo pháp Phật chủ trương. Giới sát ăn chay, vốn không phải chỉ Phật giáo quan niệm, phàm những chủ thuyết coi trọng nhân đạo đều đề cập tới, và bao gồm cả lý thuyết lẫn thực hành. Những điều trình bày ở trên, đều bàn theo lập trường chủ nghĩa nhân đạo, song Phật giáo cấm sát sinh còn có lý do quan trọng khác, theo giới luật của Phật giáo thì ngũ giới, thập giới, hai trăm năm mươi giới tỳ khưu, bồ tát giới đều lấy giới sát làm đầu, nếu muốn làm thiện đều phải bắt nguồn từ đó. Người đời đều nghĩ rằng mình ăn thịt có ai hài tội đâu, cớ sao lại sợ? Than ôi! Thứ tâm địa đó chẳng thể nào bàn cãi nổi, bởi vì lòng họ vốn đã điên đảo coi thường luật lệ, khinh rẻ sinh mệnh. Còn chúng ta là người biết giới sát để bảo vệ mạng sống cũng chỉ vì có chút lương tâm chớ có phải vì luật này luật nọ cấm đoán đâu.

Giờ đây nếu như không xét lại bản tâm, buông bỏ tất cả tới lúc cơ duyên mất đi muốn cải đầu hoán diện, thân xác tuy còn không làm sao thực hiện nổi? Đã có mắt tai thử hỏi nhìn nghe được gì? Đã có lục phủ ngũ tạng thử hỏi nhìn nghe được gì? Thưa quý vị, chớ cậy có thân trăm năm, vì cái chết tới chỉ trong chớp mắt, thật là rợn mình! Ai ai cũng biết rằng kiếp này làm người, song đều quên kiếp trước mình từng là loài gì! Kiếp sau mình là giống gì! Phật có dạy: “Những chúng sinh bị ta giết kiếp này, phần lớn là người thân của ta kiếp trước”. Quả là lời thống thiết, đúng là lí chân xác. Phật còn dạy tiếp: “Người nào cũng có tâm thức là ruộng, một niệm thiện ác dấy lên là hạt giống, nếu như tâm giới sát dấy lên một niệm thảy đều hạt gieo vào ruộng, thành mầm luân hồi muôn kiếp”.

Các chúng sinh bị giết, niềm phẫn uất dấy động cũng là hạt giống gieo vào ruộng thức, thành mầm oán hận luân hồi muôn kiếp, đời nọ nối tiếp đời kia vay trả trả vay không bao giờ dứt. Đại sư Liên Trì nói: “Nay ta buồn đau mà bày tỏ với thế nhân rằng, ta chẳng dám bắt các người ăn chay, chỉ khuyên các người giới sát thôi, vì hễ nhà nào giới sát được, thần thánh liền bảo hộ, tai họa tiêu trừ, sống lâu trăm tuổi, con cháu hiếu thảo thuận hòa, phước lộc vô biên không thể tả nổi”. Lời dạy về lẽ nhân quả trên đây thực là chí lý, mọi người phải ghi nhớ kỹ để rồi nghiêm chỉnh thực hành. Thế nào gọi là nhân quả? Tôi xin trích dẫn hai đoạn dưới đây để trả lời và đồng thời cũng để thay thế phần kết cho bài này. “Tất cả các sự vật trên đời đều bị chi phối bởi luật nhân quả tuần hoàn, sự sống chết thọ yểu, phúc lộc họa hoạn, gặp gỡ thịnh suy của người cùng sự hưng phế của một quốc gia đều không phải ngẫu nhiên xảy tới, từ không mà có.

Người xưa nói: “Tích thiện hưởng phước, tích ác chịu họa” đó là lẽ nhân quả vậy. Lẽ nhân quả này với lẽ số mệnh là một, như một cộng một là hai, ba nhân ba là chín, đều có một kết số nhất định, nhân nào quả nấy. Nhân đã thành hình thì quả đương nhiên xuất hiện, quả nặng nhẹ bao nhiêu chắc chắn nhân cũng y như thế. Lẽ nhân quả đơn giản này người đời ai ai cũng hiểu, còn lẽ nhân quả phức tạp cũng khó trình bày. Một cái nhân gieo xuống nếu như không tương ứng nhất định sẽ tạo một nhân khác cộng với cơ duyên trước đó tất nhiên sẽ được tương ứng, lẽ nhân quả này thực chẳng đơn giản mà là phức tạp vậy. Sự biến đổi phức tạp muôn phần ở cõi thế gian hoàn toàn tương ứng với sự biến đổi phức tạp muôn ngàn trong nội tâm con người, bởi vậy mới có cảnh sáu ngả luân hồi, muôn ngàn khác biệt bày ra, và bởi tâm niệm của người không một phút giây lắng đọng là nhân nên mới phát sinh thiện ác là quả. Sở dĩ có hiện tượng ân đền oán trả dài ngắn trước sau là do nghiệp nhân chuyển biến. Nghiệp nhân đã có cơ hội biến đổi theo thời khắc thì quả báo cũng tự nhiên có khả năng biến đổi theo thời khắc. Sự vật biến đổi muôn hình vạn trạng, nhân nhân quả quả, như chủ nợ đuổi theo con nợ, kẻ mạnh nắm lấy, thiện ác cuối cùng đều báo đáp, chỉ sớm hay muộn mà thôi.

Giống như trồng dưa được dưa, trồng đậu chắc chắn đúng y như vậy”. “Phật dùng mắt huệ nhìn thấy mười phương ba cõi, cho nên khi giảng về nhân quả báo ứng, mỗi lời mỗi đúng, cái nhìn cái biết của Phật vượt hẳn thời đại, bao quát muôn ngàn kiếp, giống như chúng ta nhìn thấy sự việc đang diễn ra trước mắt hết sức rõ ràng. Song mắt chúng ta là mắt thịt, chỉ nhìn thấy những gì thuộc về vật chất giữa không gian, chẳng thấy nhìn thấy nhân quả siêu thời gian. Mắt thịt thấy vật, chẳng cần bàn rõ ra sao, như bị tờ giấy che ngăn, không thấy được những gì phía bên kia tờ giấy. Còn như nhân quả siêu thời gian, càng chẳng thể nói rõ nổi. Vì chúng sinh sống trong cảnh luân hồi, sống chết ràng buộc, thần thức biến dịch, ngũ uẩn bưng bít, giống như con ngựa bịt mắt, chỉ biết đời này, chẳng rõ tiền kiếp hậu kiếp ra sao. Chúng ta phải biết là đạo trí tuệ và tri thức khác nhau, trí tuệ tự nhiên đại giác, chiếu sáng cùng khắp, tất cả các pháp xuất thế của thế gian đều rõ ràng, thấu triệt. Còn phạm vi tri thức chỉ có thể suy nghĩ tính toán những việc trước mắt thuộc về đời, người thường cũng hiểu nổi, vì sờ thấy, nghĩ tới được.

Những môn học hiện giờ trên thế giới như khoa học, triết học, chúng ta là đệ tử của Phật không phản đối mà còn khuyến khích, đến như đem lại tri thức này phê bình đánh giá cùng phỉ báng thuyết nhà Phật thì không thể được. Chúng ta hiểu phương pháp khoa học là tự nhiên trong thực nghiệm, thái độ của nhà khoa học là phải thực tế chứng minh được rồi sau mới tin, song biết dùng phương pháp thực nghiệm nào? Hay là lại đem ngũ quan ra làm công cụ để thí nghiệm chăng? Bất cứ dùng phương pháp nghiêm mật cùng khí cụ tinh xảo tới đâu tất cả đều không thể vượt qua phạm vi của ngũ quan. Thử hỏi ngũ quan có thực chính xác không? Có thể xác định được tiêu chuẩn bất di bất dịch không? Ví dụ như phân, người ta cảm thấy thối chẳng thể gần nổi thì chó lại có thể ăn, cái mà lưỡi có thể nếm thì không có tiêu chuẩn, cũng như dấu chân của người đi đường, chó có thể đánh hơi mà người chẳng phân biệt được, còn ngoài ra đều có thể tìm kiếm sự tương đồng.

Xem như vậy thì mọi kết quả của khoa học đều phải dùng ngũ quan làm công cụ tìm kiếm, nói là vạn năng thì ai có thể tin nổi? Nếu lùi mười ngàn bước thừa nhận khoa học cầu là được, là lẽ tuyệt đối đi, song vũ trụ vốn lớn vô cùng, còn vị trí của nhân loại dĩ nhiên là khó mà có thể hình dung nổi, vả lại sự kiến giải của nhân loại thật là rất giới hạn, nên sự kiến giải rất giới hạn đó chẳng thể tin cậy được! Bởi vậy chỉ có trí huệ mới có thể thấu triệt tất cả các pháp thế gian vượt thế gian thôi, còn như trông cậy vào tri thức thì chẳng thể đạt tới nổi. Có một số người không tin thuyết luân hồi nhà Phật, luôn luôn giữ ý kiến có chứng nghiệm được thì họ mới chịu tin, song nói tới chứng nghiệm là phải nghĩ tới việc dùng tai mắt để tìm hiểu, phải đem cái xa cái lớn ra làm chứng. Phải đem những thuyết của các bậc hiền triết cổ kim ra làm bằng cớ. Đem những chứng nghiệm xưa nay ra để cho chúng ta thấy, nếu như còn nghi hoặc, liền đem sự hiểu biết gian dối của chính mình ra chứng nghiệm để tin tưởng, đã chứng nghiệm mà còn nghi ngờ không tin, hiện tại có chứng không tin, không chứng cũng không tin.

Pháp sư Ấn Quang nói: “Nhân quả báo ứng trong kinh chữ nho rất nhiều, tiếc rằng các nhà nho không chiêm nghiệm nhiều về sống chết, cho nên thấy cũng như chưa thấy, do đó người có thiện căn nhân duyên chẳng cần có chứng nghiệm rồi mới tin, còn kẻ nghiệp chướng nặng tuy có chứng nghiệm song họ vẫn không tin. Tin hay không tin là việc của cá nhân họ, còn sự chứng nghiệm vẫn là sự chứng nghiệm, sự thực nhân quả tương ứng vẫn không vì những kẻ không tin mà thay đổi. Người đời phần đông vì những chuyện bất bình trước mắt mà sau tránh không khỏi ác nghiệp của quả báo, há chẳng đáng thương sao!”.

Tế Phật: Chúng sinh đọc xong bài “Hộ Sinh Thống Ngôn” tức tiếng kêu cứu sống đau thương do Lý Viên Tĩnh thuật hẳn là sẽ động lòng trắc ẩn, rất mực thương yêu đùm bọc các loài động vật có thân xác máu thịt như người. Sát sinh nhiều dĩ nhiên không tốt, khoa học kỹ thuật phát đạt, y học tiến bộ, y viện tối tân, hàng ngày dùng dao kéo mổ xẻ con bệnh không biết bao nhiêu mà kể, về phía bệnh nhân khi tới đó cũng đành phó thác thân xác của mình. Từ cõi vô hình nhìn xuống mới thấy đời nay người ta bị mổ xẻ cắt bao tử, ruột già ruột non, lóc thịt cạo xương, cưa chân cưa tay, lục phủ ngũ tạng bấy nhầy, nguyên nhân tạo cảnh này bởi kiếp trước sát sinh nhiều quá nên giờ đây lại diễn lại tấn tuồng thịt đổ máu rơi. Nhất là đám ghiền ma tuý thân thể bị tàn phế, nào như xương mục, tủy rỗng, khi y sĩ mạnh tay xuống dao té đái lòi phân. Những oan hồn đứng bên thấy chủ nợ máu thịt của mình bị mổ xẻ cắt thiến đau đớn như vậy thì lại vỗ tay reo hò: “Sướng thay! Sướng thay!”. Thế mới hay luật tàn sát sinh linh ở cõi thế gian thật là khắc nghiệt, miệng càng thích hưởng sung sướng bao nhiêu thì càng phải trả quả đau đớn trên bàn mổ bấy nhiêu.

Bồ Tát: Tế Phật nói rất chí lý, ở vào thời đại dân chúng giàu có này, trừ những kẻ cơ thể suy nhược bệnh hoạn không kể, còn có biết bao người thân thể khỏe mạnh mà cũng bệnh rề rề, trị hết thuốc này tới thuốc kia, bệnh nọ vừa dứt bệnh khác lại tới liền, để rồi trước sau gì cũng lên bàn mổ chịu hình phạt đau đớn. Bởi kiếp trước nghiệp sát sinh quá nặng, tham ăn tục uống thịt máu quá nhiều nên kiếp này phải trả sạch nợ nần, đó cũng là sự xét xử công bình của trời xanh, “có phúc cùng hưởng có họa cùng gánh”. Hiện tại là thời kỳ phổ độ chúng sinh nên trời đất đại xá, có oan kêu oan, có nợ đòi nợ, cho nên phải hứa cùng Táo Quân hoặc Tiên Phật ấn tống sách Luân Hồi Du Ký để giải trừ oan nghiệp, để những oan hồn sớm rời xa, nếu như không tiêu trừ được nghiệp chướng thì việc tu đạo kiếp này hẳn là gặp nhiều trở ngại.

Trời cao phổ độ chúng sinh, ân phước ban khắp mọi loài cầm thú, vì sứ mệnh mở đường sống cho tất cả sinh linh, nên mới có cuốn sách vô cùng quý giá này. Mỗi khi trong gia đình hoặc họ hàng có người thân qua đời, phải mở rộng tâm từ bi ấn tống sách này cùng giảng giải khai mở vô lượng cửa thiện cho họ, phải độ mình độ người, độ tổ tiên, độ linh hồn cầm thú, lợi người lợi mình, công đức vô lượng. Mong chúng sinh trước hãy ngẫm nghĩ cho kỹ những điều ta nói, rồi sau phát đại nguyện. “Độ hết chúng sinh mới mong thành Phật” thì hẳn là rừng trúc biếc cõi tây phương cực lạc sẽ dành sẵn cho mình một đài sen Phật.

Dương Sinh: Tấm lòng từ bi của Bồ Tát Quan Âm Đại Sĩ khiến muôn loài chúng sinh cảm động sâu xa, đệ tử nguyện học tập đạo Bồ Tát cùng nỗ lực phổ hóa thật rộng rãi.

Bồ Tát: Lành thay, lành thay, đồng tử chim loan bên cạnh Kim Mẫu tức là chim loan xanh trong rừng trúc biếc hóa thân độ thế, trước tác sách quý phát huy cơ bút cứu đời, thuyền Phật phổ độ, công quả lớn lao, siêu huyền bạt tổ, hãy gắng sức lên.

Tế Phật: Bữa nay tạm ngưng viết sách ở đây, xin cảm tạ những lời chỉ giáo ngọc vàng của Đại Sĩ, Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.

Dương Sinh: Lạy chào từ biệt đức Quán Thế Âm Bồ Tát.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#28 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 11:35

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI MỐT

XEM MINH VƯƠNG XỬ PHẠT TRƯỚC ĐÀI CHUYỂN KIẾP

THẤY TỘI HỒN SI MÊ TỰ NGUYỆN ĐẦU THAI

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 13 tháng 1 năm Nhâm Tuất 1982

Thơ

Quang âm dịch thệ khổ luân hồi
Súc đạo thành hình bách niệm hôi
Nghi tạ nhân thân tu Phật thể
Âm dương lộ thượng mạc bồi hồi.
Huyền quan chính khiếu thấu tiên thiên
Chính pháp nhãn tàng tại mục tiền
Du ký kham tham chỉ nguyệt lục
Bảo thu hiệt hiệt lộ chân thuyên.

Dịch

Thời gian trôi chảy hận luân hồi
Cầm thú đầu thai khổ một đời
Tu dưỡng thân phàm thành xác Phật
Âm dương đôi ngả hết bồi hồi
Diệu huyền cửa chính thấu tiên thiên
Mắt huệ chơn như tỏ mọi miền
Du ký tốn nhiều ngày với tháng
Từng trang sách quý hiện tâm hiền.

Tế Phật: Việc viết sách Luân Hồi Du Ký đã tới phần cuối, mong rằng tiếng kêu trầm thống này của loài cầm thú là tiếng kêu cuối cùng, hy vọng kiếp tới chúng đều được đầu thai lên làm người, không còn phải chịu cảnh khủng bố hy sinh đau khổ. Xin dẫn chứng kinh “Pháp Cú Tỷ Dụ”. Thuật lại chuyện đớn đau của loài cầm thú. Thuở trước có một vị tì khưu trí rất tinh anh, chuyên ngồi thiền định dưới gốc cây trong chốn núi sâu, được các loài chim, rắn, hươu, nai rất kính trọng nên hàng ngày chúng đi kiếm vật thực về cúng dường ngài. Một buổi tối nọ chúng kéo tới ngồi bên cạnh tì khưu, cùng bàn luận với nhau để xem nỗi khổ nào lớn nhất trên đời? Có một con quạ nhận xét rằng: “Theo tôi nỗi khổ lớn nhất trên đời là sự đói khát, chỉ cần một ngày đói không có thức ăn, khát không có thức uống, tự nhiên mắt hoa, đôi cánh bủn rủn, kêu chẳng thèm nghe, trạng thái tâm thần lúc đó hoàn toàn bấn loạn.

Tri giác đã bị mất thì dễ dàng lọt vào lưới và bẫy sập, để rồi bị thợ săn bắt đem về giết, vì vậy mà tôi thấy đói khát là sự khổ đau nhất trên đời”. Tiếp đến là chim cưu phát biểu: “Quạ đen nói rất đúng, đói khát quả nhiên là sự thống khổ phi thường, song tình yêu trai gái còn khổ hơn đói khát. Căn cứ theo nòi giống chúng ta thì thường vì tình dục nhất thời quấy động nên lý trí mất kiểm soát, thị phi phán đoán không còn minh bạch, dần dần bị đẩy đưa vào hoàn cảnh nguy nan, cuối cùng mạng sống quý báu cũng chẳng còn. Một khi tình yêu bộc phát không cách nào chế ngự nổi, vì vậy tôi quan niệm sự đau đớn nhất trên đời là tình yêu trai gái”. Tới phiên mình phát biểu, rắn tuyên bố: “Theo loài rắn của tôi thì sự khổ não nhất trên đời là tâm sân hận, vì mỗi khi bọn tôi nổi giận liền không còn phân biệt thân sơ, cắn nhau tới chết, cuối cùng cả hai bên đều mất mạng, chính vì chúng tôi tính tình quá sân si nên răng có nọc độc, vì răng có nọc độc nên loài người hễ gặp là giết ngay, không hề tha chết để chúng tôi được sống. Đó chẳng phải là nỗi thống khổ nhất trên đời sao?”.

Cuối cùng hươu nói: “Nỗi thống khổ lớn nhất theo tôi là lòng kinh hãi, mỗi khi thấy chúng tôi sài lang hổ báo liền vồ lấy nhai sống nuốt tươi, nên chúng tôi chỉ còn cách tìm đường chạy trốn. Nhất là thợ săn, vì chúng tôi như cái đích của họng súng họ, do đó hễ thấy bóng họ là chúng tôi bỏ chạy liền. Hươu mẹ dễ dàng trốn thoát song còn hươu con mới thật khó khăn, bởi vậy mỗi khi gặp nạn mẹ con thường phải chịu cảnh âm dương đôi ngả, mãi mãi chẳng còn được hưởng lộc trời, quả thực là nỗi khổ đau nhất đời”. Sau khi nghe bọn chúng tôi thổ lộ hết tâm can, tỳ khưu mới bắt đầu khai khẩu từ tốn nói: “Thưa bần tăng đã nghe xong những lời trình bày của chư vị, nguồn cội của các nỗi khổ đau đó, theo tôi nghĩ đều do ta có xác thân, nên túi thịt là món đồ dung chứa mọi nỗi khổ đau trên đời.

Trần gian là biển khổ, song biển khổ không ở ngoài xác thịt. Do đó khi chán ghét đau khổ hãy chán ghét thân xác mình trước, nếu như không còn xác thân này thì khổ đau cũng tiêu tan hết, và mục đích sự tu hành của tôi cũng chỉ mong là sao tiêu trừ được thân tâm để chứng ngộ niết bàn, đạt cứu cánh giải thoát diệt trừ phiền não. Phải biết rằng khổ đau có tuyệt diệt thì mới thực hiện nổi sự bình yên và tự tại”. Sau khi nghe tỳ khưu thuyết giảng xong, tất cả bọn chúng đều cúi đầu, chứng tỏ trí tuệ đã khai thông, chân lý đã giác ngộ, nhờ vậy mà tâm hồn chúng được an tịnh. Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh xuống thăm địa ngục để xem Diêm Vương xử những tội hồn phải chuyển kiếp đầu thai làm loài cầm thú để viết vào sách Luân Hồi Du Ký. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen.

Dương Sinh: Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã tới ngã ba biên giới âm dương, chúng ta hãy tạm dừng chân quan sát.

Dương Sinh: Thưa, đã lâu không trở lại đây, tại ngã rẽ này người lên thiên đàng thì ít, kẻ xuống địa ngục lại đông, không rõ tại sao?

Tế Phật: Địa ngục náo nhiệt vì người đời tánh họ hiếu kỳ thích tìm tới chốn ồn ào, họ không biết rằng nơi đó là nơi giam giữ những tội hồn do đó mới hành động giống như ruồi nhặng thích bu đồ ngọt nên đôi cánh lại dính lấy keo của người giăng bẫy, bởi vậy mới thành Phật ngay tại đó.

Dương Sinh: Thưa, thành Phật ngay tại đó là nghĩa thế nào?

Tế Phật: Bởi khi đôi cánh bị dính lấy keo ruồi liền cải tà quy chính, không còn tái phạm tội ác gieo rắc vi trùng truyền nhiễm nữa là buông được dao đồ tể để thành Phật ngay lập tức.

Dương Sinh: Ân sư ví dụ thật hay.

Tế Phật: Sách Luân Hồi Du Ký viết gần xong, nhiều loài rất có cảm tình với ta, vì mấy ai có thể nói lên được nỗi lòng của cầm thú, cùng ban lời cứu khổ thanh tịnh để hóa độ chúng? Pháp Phật vô biên, mong phổ độ khắp nẻo luân hồi, song tiếc rằng người đời chỉ nói nơi cửa miệng, chẳng chịu thực hành. Ta nay vâng mệnh trời, trên mở cửa thiên đàng, dưới độ hồn địa ngục, giữa khuyến hóa người đời làm lành lánh dữ, giúp cầm thú thoát li cảnh khổ bị con người tàn sát, để chúng được sống đời tự nhiên an bình, sứ mệnh đó ta đã hoàn thành. Nếu có kẻ không tin phỉ báng, lời nói đó nếu như phát ra từ miệng đứa phàm phu tục tử thì ta bỏ qua, còn nếu như từ cửa nhà Phật thì ta xin đáp: “Đáng thương, đáng thương” bọn họ đã không chịu thuyết pháp dạy đạo để phổ độ quần sinh lại còn tự tôn tự đại, dần dần xa lánh chúng sinh.

Hào quang Phật chiếu rọi khắp nơi không đâu không tới, pháp Phật tám vạn bốn ngàn pháp môn, ta chọn pháp giáng bút đàn cơ là pháp hợp làm một cảm ứng linh thiêng thông suốt, để trước tác ít kinh sách quý giúp đời, cùng dốc hết tâm lực cứu độ chúng sinh. Mong chúng sinh phát huy lương tri mạnh mẽ, bỏ tánh tranh chấp về hình tượng. Dương Sinh, thầy trò mình hãy tới thăm thập điện Diêm Vương. Thầy trò nắm tay nhau, chỉ sát na qua chính điện, tới điện thứ mười được quan sát cảnh phân linh chuyển kiếp, tái đầu thai làm loài cầm thú nơi đài chuyển bánh xe pháp luân. Thập Điện Chuyển Luân Vương vì sớm biết hai thầy trò Dương Sinh và Tế Phật sẽ tới thăm nên đã chuẩn bị đầy đủ nghi lễ đón tiếp.

Dương Sinh: Đệ tử xin lạy chào ra mắt đức Chuyển Luân Vương.

Chuyển Luân Vương: Miễn lễ, Dương Sinh hãy đứng dậy, hai vị trải qua biết bao gian lao khổ cực, trước đây khi phụng chỉ trước tác sách Địa Ngục Du Ký đã từng tới thăm bản điện, phần lớn những điều bí mật của bản điện đã được tiết lộ với người đời, nay lại muốn thuyết giảng thêm về nhân đạo. Tôi xin hướng dẫn hai vị đi thăm cảnh chuyển kiếp đầu thai làm loài cầm thú, để thâu thập tài liệu quý hầu cảnh cáo người đời thức tâm. Trước hết tôi xin mời hai vị tới coi đài Chuyển Luân.

Dương Sinh: Thấy quán cháo lú bà Mạnh nằm bên trái đài Chuyển Luân, người nào người nấy đang xếp hàng đi lên đài để chuyển kiếp đầu thai.

Minh Vương: Những người đó đã húp cháo lú nên thần trí tỉnh táo, họ đều phải lên đài Chuyển Luân, chờ bánh xe pháp quay hồn mới miên man bất tỉnh và chuyển kiếp. Những vong linh này phải đầu thai làm súc vật!

Dương Sinh: Dung mạo những tội hồn này hầu hết đều hung bạo, không có một chút gì là từ bi cả. Không rõ họ đã chịu hình phạt ở địa ngục chưa?

Minh Vương: Các tội hồn đã phải chịu hình phạt ở địa ngục rồi, nên bữa nay mới được thả ra để đầu thai làm loài khác.

Dương Sinh: Thưa Minh Vương họ phải được sống đời tự do mới đúng, vì các tội hồn đã chịu đủ thứ hình phạt ở địa ngục rồi, nên theo lí mà nói thì hiện giờ họ vô tội, cớ sao còn bắt họ lại phải đầu thai làm loài thú, như vậy há chẳng bất nhân lắm sao?

Minh Vương: Nhờ trời có đức hiếu sinh, cho nên họ mới được đầu thai, như vậy là luật rất công bằng. Các tội hồn này vì thiếu nhân đạo cho nên được làm người song không chịu làm người tốt, thực quả là uổng phí. Kiếp tới bắt họ đầu thai làm loài cầm thú là chỉ cốt giúp họ có cơ hội học hỏi thêm, để biết rõ thế nào là cuộc sống phi nhân trái đạo làm người, và có thể nghiệm một cách chân thực thì sự cảnh cáo mới có hiệu quả chắc chắn, kiếp tới nữa mới được thăng tiến lên cấp cao hơn. Tục ngữ nói: “Có mất tự do mới biết tự do là quý” quả là lời giáo hóa vô cùng thực tế, không thể tìm ở đâu hơn. Trời vốn hiếu sinh nên đã mở cho những kẻ súc sinh một con đường sống, chớ nghĩ là trời đất bất công! Dù phải chuyển sinh cách nào đi nữa, khi đầu thai dung nhan hoàn toàn đổi khác. Giống như kẻ phạm tội đại ác ở thế gian bị kết án khổ sai chung thân, sau khi ở tù ra trở lại nơi xưa chốn cũ hẳn là mọi việc đã đổi khác, có khi đến cả vợ con cũng tứ tán, chẳng còn biết tìm kiếm ở đâu, thì một tội hồn ở âm phủ sau khi chịu hình phạt bị chuyển kiếp đầu thai làm loài thú cũng giống y hệt vậy.

Dương Sinh: À thì ra nguyên nhân là như vậy. Những người này đã chẳng phải là kẻ lương thiện tại sao Minh Vương còn thả họ ra?

Minh Vương: Đã trở thành cầm thú, sống trong một hoàn cảnh lí tưởng, hẳn cũng được hài lòng.

Dương Sinh: Đường luân hồi xem ra hoàn toàn do mình lựa chọn, chẳng phải quỷ thần sắp xếp.

Minh Vương: Đúng vậy, muốn làm người hay làm gà vịt trâu bò đều tại mình lựa. Quyền lực của con người rất lớn, bánh xe pháp của đài chuyển kiếp ở địa ngục chỉ cung cấp phương tiện giao thông chuyên chở họ tới một nơi lý tưởng, nên hiện tại tôi cũng chỉ làm công việc mở đường khai lối mà thôi.

Dương Sinh: Minh Vương ngồi trên án, hai tướng quân Ngưu Mã đứng hầu bên cạnh, các phán quan văn võ lần lượt an tọa) Thưa đệ tử chợt nghĩ đến một vấn đề, kính mong Minh Vương chỉ giáo cho.

Minh Vương: Có vấn đề gì cứ hỏi.

Dương Sinh: Ở địa ngục có tướng quân Ngưu Mã là do hóa trang, còn trâu ngựa thuộc hệ thống thú vật thì âm phủ sao có nổi để làm đầu trâu mặt ngựa?

Minh Vương: Ha ha, câu hỏi của Dương Sinh thật là chí lý, kẻ ác nhân đã không chịu làm người tốt thì có khác gì trâu ngựa, chỉ để cho người ta đánh đập, khi xuống tới địa ngục thấy cảnh quỷ đầu trâu mặt ngựa hành hạ người mới rõ là cánh dùng trâu ngựa trị trâu ngựa thật quả là hay. Chức tướng quân của trâu ngựa ở địa ngục cũng giống như chức cai ngục ở thế gian. Thôi, đã tới giờ tôi xử án. Các tội hồn hãy lắng nghe, nhân có thánh bút Dương Thiện Sinh tại Thánh Đức Đường ở Đài Trung phụng chỉ theo ân sư Phật Sống Tế Công trước tác sách Luân Hồi Du Ký để khuyên đời. Bữa nay đặc biệt tới đây sưu tầm các bản án, các tội hồn đều đã trải qua những hình phạt ở các điện rồi mới giải giao qua bản điện để đưa lên đài bánh xe pháp để chuyển kiếp đầu thai, song chẳng rõ các tội hồn muốn đầu thai nơi nào? Bữa nay nhân có người trần ở đây, bản điện đặc biệt mở rộng cửa một lần, để các tội hồn được tùy ý lựa chọn chốn đầu thai, vì các tội hồn đã húp cháo lú nên mặc dầu còn tỉnh song sẽ dần dần chìm vào hôn mê, quên hết dĩ vãng, bởi vậy phải lợi dụng lúc lý trí còn đang sáng suốt này mà lựa chọn ngay đi.

Dương Sinh: Minh Vương tuyên bố xong, các tội hồn nhiệt liệt hoan nghênh, lớn tiếng cảm tạ Minh Vương ân đức lớn bằng trời bể, rồi tất cả tội hồn đều nghĩ: Bữa nay kể như được thấy mặt trời, đã phải chịu nhiều hình phạt khổ đau, kiếp tới muốn được chuyển kiếp sinh vào các nhà giàu có để hưởng thụ vinh hoa phú quý một phen.

Minh Vương: Nhân dịp đại ân xá, mọi người được tự do lựa chọn chốn đầu thai, bản điện nhất định thi hành đúng như lời hứa hẹn. Hiện tại tội hồn Giáp muốn bày tỏ ý kiến về việc chuyển kiếp đầu thai, hãy nói mau.

Hồn Giáp: Thưa, con đã chịu nhiều hình phạt khổ sở đớn đau ở địa ngục, vì kiếp trước chuyên sang đoạt lừa đảo khắp nơi, dâm đãng lưu manh khắp chốn, kiếp tới mong được đầu thai làm con trai nhà giàu có, để hàng ngày hát xướng, nhậu nhẹt, nhảy nhót sung sướng một đời.

Minh Vương: Thần trí của ngươi còn rất tỉnh, không thẹn làm chủng tử phong lưu, bản điện cho phép ngươi được đầu thai như ý muốn, quan văn ghi chép vào sổ, quan võ cùng tướng quân trâu ngựa dẫn tội hồn lên đài, lại còn cho thêm một bộ đồ vía láng nháy làm bằng để tội hồn chuyển sinh làm chim bay trên núi.

Dương Sinh: Thưa, tại sao Minh Vương không thi hành theo ý tội hồn là muốn đầu thai làm người?

Minh Vương: Dương Sinh không rõ nếu cho chuyển sinh làm người sẽ di hại xã hội, nên mới đặc biệt cho đầu thai vào hoàn cảnh tốt đẹp đúng như ý tội hồn mong cầu, được ở “nhà cao cửa rộng”, sống trên cây, mình mặc áo năm màu, bộ lông cực kỳ mỹ lệ. Hàng ngày miệng hót líu lo, nhảy nhót múa may trên cành, lá xanh hoa đỏ, lộng lẫy khoan thai dưới ánh đèn màu. Cả đàn bạn gái chim muốn ai được nấy, khát có nguồn cam lộ vô tận cùng suối nước trong, uống vào chẳng say, loại rượu trong đặc biệt này khó kiếm trên đời. Bản điện sắp bày cảnh sống như vậy hẳn là rất thích hợp với tội hồn.

Dương Sinh: Cảnh Minh Vương sắp bày cực kỳ xảo diệu, đệ tử tâm cũng như khẩu đều hết sức kính phục.

Minh Vương: Tội hồn Ất hãy mau trình bày ý muốn được đầu thai đi.

Hồn Ất: Thưa, vì con đã phải chịu nhiều hình phạt ở địa ngục, kiếp tới xin được đầu thai lên làm người, để được sống những ngày nhàn hạ, toàn thân da dẻ hồng hào, ngủ có giường êm nệm ấm, ngày ba bữa cơm bưng nước rót dâng tận miệng, bạn hữu đầy nhà, vui chơi suốt ngày, tản bộ tiêu dao, chẳng phải làm việc, được sống một đời như vậy tôi rất lấy làm mãn nguyện.

Minh Vương: Hay lắm, hay lắm, ngươi kiếp trước phỉ báng người trì trai tu đạo, khuyên kẻ khác bỏ chay ăn mặn mới có thể siêu độ được thú vật, đặt điều xuyên tạc là những kẻ ăn chay hành động thường thất bại, khiến người thân vừa mới ăn chay đã phá giới. Lại còn thiêu hủy kinh Phật và sách quý răn đời, cũng thường gạt tiền bạc của kẻ khác rất nhiều. Quan võ và tướng quân ngưu, mã hãy cho y một chiếc áo đen rồi dẫn lên đài pháp chuyển luân để bánh xe pháp chuyển kiếp thành heo.

Dương Sinh: Minh Vương truyền lệnh chuyển sinh tội hồn thành heo như vậy là bởi tại sao?

Minh Vương: Địa vị đó rất tốt cho một chủng tử phong lưu, thiết nghĩ cách đó sẽ giúp thân mình tội hồn mọc đầy lông, ngày ba bữa được người dâng đồ ăn tận miệng, đã không muốn làm việc thì hãy làm heo lười biếng thì thích hợp vô cùng. Thịt heo để cho mọi người ăn, đó cũng là điều mà tội hồn thường khuyến khích người đời bỏ chay ăn mặn. Nhân quả báo ứng thật là kỳ diệu, chẳng thể nghĩ bàn.

Dương Sinh: Minh Vương xét tội quả như thần.

Minh Vương: Tội hồn Bính hãy nói lên nguyện vọng chuyển kiếp đầu thai của mình mau.

Hồn Bính: Thưa vì con đã phải chịu những hình phạt quá nặng nề tại âm phủ, nên được thấy rõ hai tướng quân Ngưu Đầu, Mã Diện cùng âm binh uy phong lẫm liệt trong lòng lấy làm thích thú lắm, con muốn được đầu thai làm người, trở thành kẻ chuyên môn bắt bớ những ai phạm pháp để có dịp chứng tỏ là mình anh hùng.

Minh Vương: Hay lắm, kiếp trước ngươi đã là người trộm cướp lại còn giết người, giờ có lòng muốn trị an xã hội tức là đem công chuộc tội, song ta chỉ muốn người vì dân trừ hại, chứ không phải để ngươi kiêu hãnh, nếu như không làm tròn trách nhiệm, sợ rằng sẽ bị mất chức và đói khổ. Quan võ và tướng quân Ngưu, Mã hãy đưa cho tội hồn bộ áo lông để đầu thai làm mèo.

Dương Sinh: Thưa, Minh Vương xử tội hồn làm mèo là tại sao?

Minh Vương: Vì tội hồn muốn làm thần bắt bớ, nên chuyển sinh làm mèo rất thích hợp. Kẻ ăn cắp vặt, ác xấu kêu là chuột, mỗi khi gặp mèo liền chạy trốn, mèo thần khí mạnh, song nếu một ngày lười biếng sẽ bị đói ngay.

Dương Sinh: Minh Vương dạy rất đúng.

Minh Vương: Hồn Đinh muốn chuyển kiếp như thế nào hãy cho biết?

Hồn Đinh: Thưa, con muốn được đầu thai làm đàn bà, mặc quần áo đẹp, mang nữ trang đầy mình, có nhiều đàn ông bu quanh, hẳn là được sung sướng.

Minh Vương: Sự lựa chọn của ngươi không phải là không chính đáng.

Hồn Đinh: Vì kiếp trước con bị nam giới khinh bỉ quá nhiều, kiếp tới muốn trả thù.

Minh Vương: Theo nguyện vọng chuyển kiếp của ngươi sợ rằng đời còn sẽ khổ hơn. Bản điện thương ngươi kiếp trước lỡ lầm đọa lạc vào chốn yên hoa bị người chà đạp, đã mất thân còn mất của, bởi vậy không thể nhẫn tâm để ngươi đọa lạc chốn đó lần thứ hai.

Tế Phật: Tam Tào phổ độ là mong cầm thú sớm có ngày hết tội được chuyển kiếp đầu thai lên làm người, xin Minh Vương xử tiếp.

Minh Vương: Thưa vâng, quan võ và tướng quân Ngưu, Mã hãy cấp cho tội hồn một bộ quần áo hai màu vừa trắng vừa đen loang lổ để tội hồn đầu thai làm bò sữa Mỹ Châu, chuyên sản xuất sữa tươi nuôi trẻ thơ để tiêu trừ nghiệp chướng.

Dương Sinh: Thưa, có phải bò sữa sản xuất sữa để cung cấp cho người có công đức lớn lao không?

Minh Vương: Đúng vậy, nếu căn cứ theo ý nguyện của tội hồn thì phải đầu thai là chó cái nuôi con, song vì bản điện không muốn để tội hồn bị đọa lạc nên mới cho chuyển kiếp làm bò sữa.

Dương Sinh: Minh Vương tính tuy nghiêm khắc song lại có lòng từ bi thực đáng kính phục.

Minh Vương: Tội hồn Mậu hãy mau nói rõ ý nguyện đầu thai của ngươi xem.

Mậu Hồn: Thưa, con muốn được đầu thai làm kẻ nhà ở có sắt thép bùn nước, ngày ba bữa có người dâng đồ ăn tận miệng, thân thể cường tráng khỏe mạnh, xưng hùng xưng bá một cõi, ai nhìn thấy cũng phải sợ uy, để mong giải trừ mối hận kiếp trước bị người ta giết.

Minh Vương: Ngươi còn dũng khí lại mong xưng hùng xưng bá, võ quan và tướng quân Ngưu, Mã hãy ban cho tội hồn một bộ áo có vằn, rồi giải tội hồn tới đài chuyển luân để đầu thai làm cọp.

Dương Sinh: Nhìn mặt tội hồn dữ dằn quá, nếu như đầu thai làm cọp há chẳng giúp thêm nanh vuốt sao?

Minh Vương: Không phải vậy, tội hồn tuy hung dữ song sẽ bị nhốt trong chuồng sắt nơi sở thú để khách du lịch thưởng lãm, tính bạo ngược hẳn là không còn đất dùng. Tội hồn này kiếp trước là tay cường hào ác bá, chuyên hút máu dân lành, vô lương bất nghĩa, giết người chẳng gớm tay, cuối cùng bị kẻ khác hại, nên giờ đây muốn được báo thù. Hồn Kỷ hãy mau trình ý nguyện muốn được đầu thai của ngươi.

Hồn Kỷ: Thưa, con đã chịu đủ mọi hình phạt khổ đau nơi địa ngục, hiện tại nỗi bi thương không chịu nổi, kiếp trước con rất nghèo, không được hưởng phước, kiếp tới con chỉ muốn ăn chay học đạo tu thân, song vẫn còn ý mong cầu riêng tư là muốn có một ngôi biệt thự tại chốn núi xanh suối biếc để hưởng thú thanh nhàn, được như vậy là con rất mãn nguyện.

Minh Vương: Được, võ quan và tướng quân Ngưu, Mã ban cho tội hồn một áo da tro rồi hướng dẫn tới đài chuyển luân để chuyển kiếp làm dê.

Dương Sinh: Thưa tại sao lại như vậy?

Minh Vương: Tội hồn này kiếp trước thần tan phách lạc, sống hoang đàng bừa bãi trong căn nhà nhỏ, có bữa gặp một thiếu nữ si tình trong trắng đã nẩy tật gian dâm, đưa nàng vào đường sa ngã vô cùng bất hạnh, tội ác quá lớn lao song may mắn biết cải tà quy chánh được chuyển kiếp làm dê, ăn cỏ non, ở nhà tranh ở cảnh núi xanh nước biếc là ngôi biệt thự huy hoàng, từ nay được tự do ăn chay tu đạo rất ư thoải mái.

Dương Sinh: Sự sắp xếp của Minh Vương quả là thần diệu.

Tế Phật: Vì thời gian có hạn, việc quan sát tình hình được chuyển kiếp đầu thai tới đây kể như đã hoàn thành được một phần. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.

Minh Vương: Quan võ và tướng quân Ngưu, Mã sửa soạn lễ tiễn hành.

Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương đã chỉ giáo cho những lí đạo siêu diệu, giúp đệ tử giác ngộ được chân ý nghĩa “Muôn pháp do tâm mình tạo”. Xin bái từ Minh Vương. Thưa, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.

Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#29 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 11:40

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI HAI

THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG BÀN LẼ ĐẠO CHUYỂN KIẾP

BỐN LOÀI CHÚNG SINH NƠI CỬA HẸP ĐẦU THAI

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 15 tháng 1 năm Nhâm Tuất 1982

Thơ

Súc đạo khiếu khổ thán cơ hàn
Lân mẫn thương tình cảm tỵ toan
Thụ thủ thân lai ly hỏa nhiệt
Phi thăng cực lạc mộng hồn an.
Dạ bút huy sa Thánh Đức Đường
Huề đồ phỏng đạo quá sơn trang
Vân du mỗi bão từ bi nguyện
Khổ hải hành châu độ thập phương.

Dịch

Cầm thú cô đơn lạnh oán than
Tình thương cay đắng muốn chu toàn
Xa rồi lửa nóng buông tha hết
Cực lạc siêu thăng phách mới an.
Đem bút giáng cơ Thánh Đức Đường
Dẫn trò hỏi đạo chốn rừng hoang
Dạo thăm tình cảm buồn man mác
Biển khổ chèo thuyền độ thập phương.

Tế Phật: Hôm nay là ngày lễ Thiên Quan ban phước đầu năm, đồng thời cũng là tiết Nguyên Tiêu rằm tháng giêng, Thiên Quan không những chỉ ban phước cho loài người, mà còn cho cả loài vật. Người lớn treo đèn kết hoa khắp chốn, trẻ con rước đèn khắp nơi, đêm tối bỗng sáng trưng, những linh hồn ẩn náu chốn tối tăm được dịp thấy lại ánh sáng hy vọng. Sách Luân Hồi Du Ký hoàn thành được là nhờ trời cao ban phước, đêm nay nhân cơ hội này thắp ngọn đèn Phật cùng mang theo chìa khóa vạn năng dạo thăm chốn đồng ruộng thôn quê.

Dương Sinh: Tiết Nguyên Tiêu vân du mang theo đèn quả là thích hợp, còn chìa khóa vạn năng ân sư cầm trong tay thì đệ tử không hiểu để làm gì?

Tế Phật: Ha ha, có đèn thì không khóa, ta đánh chẳng mở đuổi chẳng đi, họ thì đánh chẳng mở ra chẳng được.

Dương Sinh: Thưa, ban đêm ân sư mang chìa khóa lén mở cửa nhà người là quân tử đường hoàng hay trộm đạo gian manh.

Tế Phật: Ha ha, người đời ở nhà có cửa đóng then cài thêm khóa sắt, có khác gì tự nhốt mình trong ngục thất, nếu như không có chiếc chìa khóa vạn năng này thì làm sao mở được cửa chính nhà họ. Sở dĩ thầy mang theo đèn Phật và chìa khóa pháp chẳng phải là kẻ trộm mà là hành giả, là quân tử đường hoàng, đêm nay ta sẽ mở cửa một số nhà đóng kín.

Dương Sinh: Thưa, ân sư hành đại đạo như vậy hẳn là có can đảm lớn.

Tế Phật: Đêm rằm tháng giêng thầy trò viết câu đố lên lồng đèn chơi, thật là tâm tâm tương ứng, đêm nay ta rọi đèn mở khóa tâm người đời giúp họ sáng mắt, đúng là “canh ba thắp đèn canh năm gà gáy”. Đem đèn đi khắp xóm làng mở cửa chuồng, lồng nhốt cầm thú cứu mạng những sinh linh đang chờ giờ đem ra thịt. Vì tất cả chúng sinh đều có Phật tính, có khi đức tính của cầm thú chẳng kém người, đôi khi lòng ta đầy trắc ẩn vì thấy có người mở lượng từ bi tế độ. Trước đây có Trương Đạo Hiển làm chức huyện lệnh tại Thanh Đài thuộc Loan Phụng Sơn để khuyên giải sự tranh chấp sản nghiệp giữa văn sinh Trầm Trọng Nhân và võ sinh Trầm Trọng Nghĩa, đã làm bài văn dưới đây: “Chim phụng khóc con, chim quạ mớm con là nhân; nai thấy cỏ rủ bầy, kiến được mồi kêu bạn là nghĩa. Ong có vua tôi, nhạn bay có hàng ngũ là lễ; chim trong tổ kêu mà biết có gió, ếch kêu ran mà biết có mưa là trí. Én bay về biết thời tiết, gà gáy lúc trời gần sáng là tín.

Chim chóc côn trùng còn biết ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín huống con người lại không biết tới được sao? Đường Ngu thoái vị, thiên hạ trị bình; Di Tề nhường nước chết đói ở Thủ Dương. Các ngươi tâm chưa hủ bại, còn giữ chí Việt Ngô. Từ xưa tới nay, bởi chỉ vì nghe lời vợ xúi mà tình anh em cốt nhục chia lìa. Trầm Trọng Nhân chẳng phải là bất nhân, Trầm Trọng Nghĩa chẳng phải là bất nghĩa. Anh thông kinh sử sao chưa dạy em, em có tài thao lược vì đâu nuôi chí hại anh. Bất nhân bất nghĩa thương tổn luật trời; không anh không em dứt tuyệt nhân luân, khuyên các ngươi đối xử với nhau sao cho trên thuận dưới hòa”. Sau khi nghe xong hai anh em Trọng Nhân, Trọng Nghĩa ôm chầm lấy nhau khóc ròng, nguyện đối xử với nhau trên kính dưới nhường. Huyện lệnh Trương Đạo Hiển bèn làm thêm những vần thơ khác để hai anh em họ Trầm lưu giữ như sau:

Tổ tông gia nghiệp bất tu tranh
Đồng bào huynh đệ nhất khí sinh
Nhất hồi tương kiến nhất hồi lão
Năng đắc kỷ thời vi đệ huynh.
Đệ huynh đồng cư nhẫn tiền an
Mạc nhân hào mạt khởi tranh đoan
Nhãn tiền sinh tử hựu huynh đệ
Lưu dữ huynh tôn tác dạng khan.

Cha ông sản nghiệp chớ tranh giành
Một dạ anh em được mẹ sanh
Trẻ mới thấy đây già đã đến
Liệu em mấy thuở được gần anh.
Chung sống anh em nhẫn trước tiên
Chớ vì lợi lộc hại tâm hiền
Sinh con nếu muốn thành người tốt
Phải sống làm gương để chúng tin.

Qua kinh nghiệm thực chứng này, hẳn đã thấy được rằng người với cầm thú chẳng khác nhau là mấy. Trên đời có lắm gia đình ngay cả anh em ruột thịt, chỉ vì tranh giành tiền của mà nỡ nhẫn tâm sát hại lẫn nhau, khác nào súc sanh quỷ đói uống máu không tanh. Loài người phải biết thương yêu và coi trọng loài vật thì sự đối xử giữa người và người mới tốt đẹp hơn. Sở dĩ xã hội loài người còn chém giết nhau là vì đối với loài vật ta chưa dứt khoát dẹp bỏ được ý niệm ham sát hại chúng, để không còn cảnh loài thú thấy người là trốn tránh hoặc quá sợ hãi tới nỗi chết giấc. Giờ tôi xin họa bài thơ xin anh em đừng tranh giành của vị huyện lệnh để thức tâm người đời vun bồi tình yêu thương để khỏi thẹn với tình anh em còn thua cả loài vật.

Luân hồi lục đạo bất tương tranh
Vạn loại đồng nguyên nhất khí sanh
Đa thực huyết tinh nhân dị lão
Nghi tư cốt nhục ngã đệ huynh.
Đại địa đồng cư nhẫn tiện an
Mạc nhân khẩu phúc khởi tranh đoan
Ngật nhân bị ngật khi huynh đệ
Bất tín lai sinh nhất dạng khan.

Luân hồi cầm thú chớ tương tranh
Cùng gốc muôn loài một khí sanh
Ăn mặn tuổi già càng chóng đến
Thịt xương loài khác cũng em anh.
Đất rộng sống chung nhẫn trước tiên
Chớ dùng miệng lưỡi hại tâm hiền
Giết qua giết lại thành không tốt
Kiếp tới chẳng tin cũng phải tin.

Bài thơ đã ngâm xong, Dương Sinh chuẩn bị lên đường.

Dương Sinh: Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành... Vừa mới ra khỏi cửa Thánh Đức Đường thấy chung quanh toàn là cầm thú, mà những chỗ đó không có một trại nuôi súc vật, không rõ tại sao lại như vậy?

Tế Phật: Thấy được cảnh đó là vì thầy trò mình phụng chỉ trước tác sách Luân Hồi Du Ký, loài vật được nhờ ân phước lớn nên bọn chúng đều hân hoan vui mừng, sách viết sắp xong, Thánh Đức Đường lại đang lo chuẩn bị cử hành đại hội. Các sinh linh loài vật được tin này kéo nhau tới nghe ngóng để cầu mong thánh tiên ba cõi, thần Phật mười phương cứu giúp, cho nên trong suốt thời gian chư vị ba cõi về đây hội họp là để siêu độ sinh linh cầm thú, phải lo tụng kinh để giúp chúng sớm thoát khỏi vòng khổ hải, có như vậy mới ứng hợp với sứ mệnh ba cõi Tam Tào phổ độ.

Dương Sinh: Quả là chẳng thể bàn cãi. Đệ tử xin kính cẩn vâng lời, sẽ cùng chư vị tín hữu tụng kinh siêu độ cùng cầu xin chư Thánh Tiên Phật đại xá tội nghiệp cho các sinh linh cầm thú, để chúng bay về cõi cực lạc.

Tế Phật: Ý nghĩa kỳ đại hội này vô cùng trọng đại, không chỉ để người cầu an lạc mà còn giúp cho siêu thăng, sau khi sách này xuất bản, chắc chắn loài vật dần dần được giúp đỡ che chở cùng giảm bớt tội nghiệp, thoát ly khổ hải. Thôi thầy trò mình hãy đến thăm điện thứ mười... Đã tới nơi.

Dương Sinh: Chuyển Luân Vương tại điện thứ mười đã ra khỏi điện ...Đệ tử Dương Sinh xin lạy chào ra mắt đức Chuyển Luân Vương.

Minh Vương: Miễn lễ, bữa trước vì thời giờ eo hẹp nên chưa trình bày được cặn kẽ về tình hình chuyển kiếp súc sinh tại điện thứ mười, bữa nay có dịp may tái ngộ sẽ trình bày thực rõ ràng hết mọi khía cạnh.

Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương đã ban ân phước lớn.

Minh Vương: Xin mời hai vị đi theo tôi.

Dương Sinh: Theo chân Minh Vương chớp mắt đã tới đài chuyển kiếp, thấy trong sông đỏ có một một bánh xe cực lớn đang xoay tròn...

Minh Vương: Phía trước là đài chuyển bánh xe pháp.

Tế Phật: Bánh xe trong sông đỏ chính là bánh xe pháp xoay không ngừng nghỉ, được làm người hay phải làm quỷ, thành Tiên hoặc thành Phật đều bởi đó mà ra. Dương Sinh: Thưa, thành Tiên thành Phật có phải qua đài chuyển luân không?

Tế Phật: Mặc dù không phải qua đài chuyển luân, song cõi phàm trần cũng là một cái đài chuyển luân vậy. Bánh xe trong sông đỏ chuyển động như một ống trúc vạn hoa, tâm tính kẻ tu đạo còn mê hoặc thì bánh xe sông đỏ làm sao có thể biến thành thuyền pháp để hành giả tiêu dao nổi, có chăng chỉ để cho các tội hồn chuyển sinh thành các loài cầm thú. Khi các vong linh tội lỗi bước vào bánh xe sông đỏ, tức thì đầu óc u mê tăm tối giống như xe mê thuyền mê, trước tiên ói mửa, trường hợp nặng hơn ói ra cả máu, cứ mơ hồ mê mẩn như vậy rồi chuyển kiếp đầu thai.

Dương Sinh: Thưa, lời dạy của ân sư và sự chuyển kiếp đầu thai cực kỳ siêu diệu.

Minh Vương: Những tội hồn kia đang bị các âm sai đẩy lên đài chuyển luân, tiếp tục đi hết những đoạn đường còn bỏ dở.

Dương Sinh: Thưa, những tội hồn này sẽ đầu thai làm người hay súc vật, họ có được tự ý lựa chọn đường đi không?

Minh Vương: Không phải, mới đầu chỉ cần để người đời biết về trạng thái si mê của tội hồn, nghiệp đã quá nặng mà còn muốn trở lại trần gian hưởng phước thì đó chỉ là ảo tưởng. Tất cả các tội hồn sau khi chịu các hình phạt ở chính điện xong liền bị giải giao qua điện thứ mười, rồi căn cứ theo ác nghiệp kiếp trước, cùng ba kiếp nhân quả mà bị chuyển kiếp đầu thai làm loài cầm thú, chứ không thể tự do lựa chọn.

Dương Sinh: A thì ra nguyên nhân là như vậy, chẳng còn lấy làm lạ khi thấy các tội hồn khóc than mếu máo, vì biết rằng kiếp tới sẽ phải chịu muôn phần khổ cực. Đệ tử còn có điều nghi ngờ, xin Minh Vương chỉ giáo cho. Thưa đệ tử thường gặp một số vị rất có lòng tu đạo thiện đức, song không rõ tại sao thân mình lắm bệnh và gia đình gặp nhiều tai biến. Trong khi đó có những kẻ không tin thần Phật, gian manh xảo trá thân thể lại khỏe mạnh, gia đình lại bình an?

Minh Vương: Ha ha, người hiền lương thì lâm bệnh vì kiếp trước nghiệp họ quá nặng, sau khi chịu hình phạt ở các điện, đã phát nguyện kiếp tới tu hành chăm chỉ để trở thành người tốt, bị mắc nhiều bệnh tật và tai nạn là vì nghiệp lực kiếp trước gây ra. Chớ nên oán trời trách người, phải ăn năn sám hối, tạo công lập đức, một sớm nghiệp chướng giải trừ tự nhiên sạch nợ thân thể nhẹ nhàng. Còn kẻ gian ác lại được hưởng phúc là nhờ kiếp trước tu nhân tích đức. Minh Vương không xử phạt, họ cũng không phát nguyện kiếp tới tu thân để trở thành người hiền lương, do đó kiếp này chạy theo đường ác mà lại được hưởng phước lộc, song khi phước lộc hết, kiếp tới chắc chắn sẽ bị ác báo. Cho nên có câu nói: “Họa phước không có cửa chỉ do người tự chuốc. Thiện ác quả báo như bóng theo hình”. Người đời chớ căn cứ một kiếp hiện tại mà kết luận rằng không có nhân quả báo ứng. Quả kiếp này đều do nhân kiếp trước tạo thành, cho nên nếu gặp cảnh nghèo hèn bệnh hoạn cũng đừng oán trời trách người, mà phải tu nhân tích đức, cải thiện nhân quả. Kẻ kiếp này được hưởng phước lộc lại càng phải tu nhân tích đức nhiều hơn, còn không tới khi phước hết họa tới, đương nhiên phải đền tội.

Dương Sinh: Cảm tạ Minh Vương đã khai thị, người đời đều là những phàm thai mắt thịt thì làm sao biết nổi tổ tiên cùng thân bằng quyến thuộc chuyển kiếp đầu thai tới chốn nào?

Minh Vương: Muốn biết rõ số kiếp người ta thì phút lâm chung hãy quan sát ngũ quan biến hóa, thân xác cứng cỏi hay mềm mại, vẻ mặt có đoan chính không, hẳn là sẽ rõ kẻ đó có được tiêu dao miền cực lạc hay sẽ bị đọa lạc địa ngục.

I. Nếu như phút lâm chung, ngũ quan đoan chính, thân thể mềm mại, vẻ mặt tươi tắn như khi sống kể là đắc đạo, siêu thăng miền cực lạc.

II. Nếu như phút lâm chung, thân xác cứng đơ, nét mặt và ngũ quan lộ vẻ kinh hoàng sợ sệt, hẳn là tính linh sẽ bị đọa lạc địa ngục.

III. Nếu như phút lâm chung, thân xác cứng đơ, sắc diện và ngũ quan lộ vẻ kinh hoàng sợ hãi sẽ ảnh hưởng tới cơ thể trở thành “biến tướng” sẽ bị đầu thai làm loài cầm thú. Tai mắt mũi miệng sẽ là tai mắt mũi miệng thú, vì mắt có nước mắt, tai có ghét, mũi có nước mũi, miệng có nước miếng, bốn cửa đó phút lâm chung không đóng kín nổi hẳn là sẽ bị đầu thai làm loài cầm thú hoặc cá tôm sâu bọ.

1) Mắt ham nhìn sắc đẹp quá độ, phút lâm chung trong mắt mở lớn, tính linh thoát ra từ mắt kiếp tới đầu thai làm các loài chim như hạc, yến, nhạn... Mắt ngó bốn phương, bay lượn khắp chốn.

2) Tai thích nghe những lời điêu ngoa, phút lâm chung tai vểnh cao, tính linh thoát ra từ tai, đầu thai làm loài thú như trâu, bò, lừa, ngựa hiểu được tiếng người để cho người sai bảo.

3) Miệng là huyệt chôn phẩm giá của kẻ khác vì thích nói xấu người, phút lâm chung miệng há hốc, tính linh thoát ra từ miệng, đầu thai làm tôm, cá, cua, cáy, miệng thường ăn những đồ dơ dáy bùn sình cuối cùng bị người bắt làm thịt.

4) Mũi ngửi nhiều hương lạ, thích tiền bạc tanh tưởi, phút lâm chung hai lỗ mũi phồng to, linh tính thoát ra từ mũi, đầu thai làm ruồi nhặng thích ngửi mùi hôi thối. Phàm những loài côn trùng, sâu, bọ kiếp trước vì nghiệp chúng quá nặng, phút lâm chung hồn phách tiêu tan hết. Người ta lúc chết hồn đều thoát ra từ bốn cửa mắt, tai mũi, miệng là bởi phước ít họa nhiều. Bốn cửa này vốn giúp đỡ chủ nhân hay chủ tính linh là cửa chính huyền quan để lo phận sự, nếu như dùng sự nhìn ngó, nghe ngóng, hít hà, nói năng vào việc thiện lành là “tứ chính” thì cả bốn đều nghiêm chỉnh, còn như dùng vào việc gian tà là “tứ tặc” tức bốn tên giặc làm hại bản tính. Lúc sống đã quen chạy theo đường tà dua nhập bàng môn tả đạo, lúc hết đương nhiên hồn thoát ra từ bốn cửa phụ này, đọa lạc đầu thai làm trâu bò, lừa ngựa, gà vịt, chim muông, cá tôm, côn trùng, sâu bọ... Cho nên đức Khổng Tử chủ trương thiếu lễ không nhìn, thiếu lễ không nghe, thiếu lễ không nói, thiếu lễ không động là cốt để khuyến giới người đời. Căn cứ vào bốn tướng của Phật mà nói thì:

• Mắt: Chủ bố thí, nếu như có thể yên lặng quan sát chúng sinh, coi chúng sinh như con đẻ, không lựa chọn thân sơ, bình đẳng tế độ, xử sự công bằng, không phân biệt ta và người, không coi rẻ kẻ khác, đó không phải là tướng người thường.

• Tai: Chủ tĩnh lặng, nếu như biết thân này là ảo, gặp thế sự vô thường hành xử theo giáo pháp của đạo lớn, thấy việc nghĩa hăng hái làm, không tiếc mạng sống để hoàn thành đại ngã tức cái ta lớn rộng, vì người vì nước hy sinh tiểu ngã tức cái ta nhỏ bé, được vậy gọi là “vô ngã tướng” tức cái tướng cá nhân không còn.

• Mũi: Chủ nghe ngóng, hành động không thức thần, chỉ nương theo phương tiện nguyên lực hành trì, không bị trầm luân khổ hải, không vọng tưởng, sống lâu trăm tuổi.

• Miệng: Chủ ban bố, nếu như diệt trừ được hết phàm tâm tục tánh, không còn tham luyến buộc ràng, giải thoát khỏi ách luân hồi. Tóm lại bốn cửa không đóng, bốn tướng không tịnh, ắt tạo nghiệp vô biên, không giữ gìn không thành đạo, phút lâm chung ắt sẽ đầu thai làm loài cầm thú sâu bọ, vĩnh viễn chẳng thể phục hồi bản lai diện mục. Mong người đời mau lo tu đạo, đi cửa chính huyền môn, hành động theo lương tâm ắt sẽ “Lúc sống không làm chuyện bất nhân, nửa đêm chẳng sợ quỷ gõ cửa".

Phật tại linh sơn mạc viễn cầu
Linh sơn chỉ tại nể tâm đầu
Nhân nhân hữu cá linh sơn tháp
Hảo hướng linh sơn tháp hạ tu.

Phật ở linh sơn há kiếm xa
Linh sơn ở tại đáy tim ta
Linh sơn tháp báu người người có
Mau tới linh sơn tháp đó tu.
Mong người đời sớm giác ngộ.

Dương Sinh: Chỉ cần nghe đức Chuyển Luân Vương chỉ giáo một lần còn hơn mười năm đọc sách. Sự trình bày về các kiếp luân hồi vừa rồi cho thấy phút lâm chung cứ quan sát ngũ quan là biết rõ.

Minh Vương: Ha ha, chỉ cần “tứ quan” không cần tới “ngũ quan”. Tứ quan bất chính thì ngũ quan làm sao đoan chính nổi, quan sát sắc diện lúc lâm chung là có thể đoán được linh hồn đó sẽ bị đầu thai làm kiếp gì rồi, còn nếu cẩn thận hơn nữa thì mới cần tham khảo thêm mà thôi. Vì có tới ba kiếp nhân quả cho nên thiện ác, công tội được phân xử rõ ràng, số phận mỗi người đều có nguyên nhân kết quả cực kỳ chính xác, bởi vậy qua sắc diện phút lâm chung mới biết rõ được là nẻo luân hồi của kẻ đó tốt xấu, phước họa ra sao. Sự luân hồi của con người đều ghi dấu nơi cơ thể, mắt Phật nhìn rõ hết mong người đời đi nẻo chính đường ngay, tránh lối quanh co, kiếp tới mới mong thuận buồm xuôi gió.

Dương Sinh: Thưa, đệ tử thấy báo chí thường thông tin đăng hình những quái thai trên thế giới, nào như thân thể hai trẻ sơ sinh dính liền nhau hoặc mình người mà đầu heo... như vậy việc này có quan hệ gì đối với việc chuyển kiếp đầu thai không?

Minh Vương: Nói về quái thai, theo y học thì người mẹ thụ thai đã lạm dụng thuốc men, khiến bào thai phát triển lệch lạc. Còn nói theo nhân quả thì cơ thể người mẹ cảm ứng tự chuốc tội nghiệp, tạo thành bào thai ngũ quan bất chính, tứ chi bất toàn; cảm ứng tự chuốc hồn thú tạo thành bào thai mang hình thú vật, tất cả đều do nguyên hình đầu thai chưa thoát hóa. Còn các bào thai dính liền nhau đều do duyên kiếp trước tạo thành như trai gái yêu nhau, các tay anh chị kết bè lập đảng hành động bất chính, tạo thành nghiệp quả thân thể dính liền, suốt đời chẳng lìa nhau, nếu để nguyên thì cử động rất bất tiện, còn giải phẫu tách rời ra thì cũng máu đổ thịt rơi, thật là đau đớn. Có làm người đường hoàng mới mong sinh con lành lặn, khi người mẹ thụ thai cần phải hết sức lưu tâm, không được lạm dụng các thứ thuốc men để tránh các hậu quả tai hại cho bào thai.

Tế Phật: Vì thời giờ eo hẹp, bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn tại đây, sách Luân Hồi Du Ký đã viết xong, cảm tạ Chuyển Luân Vương đã tận tình chỉ giáo. Kể từ lúc viết sách Luân Hồi Du Ký tới ngày mồng tám tháng hai này là đúng một năm tròn, đệ tử Thánh Đức Đường phải chuẩn bị năm mâm trái cây, đức Dao Trì sẽ khai mạc Thánh Hội để chúc mừng sách Luân Hồi Du Ký hoàn thành, ta cùng trò ngoan Dương Sinh sẽ tham gia thánh điển, đức Dao Trì Lão Mẫu sẽ khai yến, ban phép nhiệm mầu, kẻ có phước sẽ được hưởng.

Dương Sinh: Cảm tạ đức Chuyển Luân Vương đã ban cho đệ tử biết bao điều diệu lý chân ngôn, xin cáo từ.

Minh Vương: Các đệ tử của Thánh Đức Đường chịu khổ cực nhiều, công lao thực là to lớn, chúc hoàn thành được tác phẩm Luân Hồi Du Ký để thánh đức sáng chói phổ chiếu toàn thiên hạ.

Dương Sinh: Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư trở về Thánh Đức Đường.

Tế Phật: Phụng hành thánh chỉ mới, phải trải qua biết bao gian nan khổ cực, tắm gội gió sương mưa nắng, ngoài song giông bão, trong lòng lắng tĩnh, giờ đây trách nhiệm hoàn thành trở về, mong đem thành quả này dâng hiến người đời... Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.

#30 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 04/09/2011 - 11:46

LUÂN HỒI DU KÝ

HỒI HAI MƯƠI BA

LUÂN HỒI DU KÝ VIẾT XONG THÀNH SÁCH QUÝ

DAO TRÌ LÃO MẪU BÀY TIỆC CHÚC CÔNG THÀNH

Phật Sống Tế Công

Giáng ngày 8 tháng 2 năm Nhâm Tuất 1982

Thơ

Súc đạo xuất đầu hướng Phật tu
Luân hồi lộ thượng đoạn nguyên lưu
Tòng kim tỉnh ngộ quy gia khứ
Khổ hải vô ba bất tái du.
Vạn giáo quy tông Thánh Đức Đường
Kì thư tạo tựu hóa mê phương
Nguy nga đạo nghiệp hoằng đồ triển
Phổ tế quần sinh bổ khang trang.

Dịch

Cầm thú cúi đầu hướng Phật tu
Luân hồi nẻo cũ đã xa lìa
Từ nay tỉnh ngộ về nhà mới
Biển khổ sóng êm hết có lo.
Vạn giáo quy tông Thánh Đức Đường
Hoàn thành sách quý cứu muôn phương
Hoằng dương đạo lớn thêm cao cả
Hướng dẫn chúng sinh tiến chẳng ngừng.

Tế Phật: Ha ha, hôm nay là ngày vui mừng vì sách Luân Hồi Du Ký gồm cả thảy hai mươi hai hồi vừa hoàn tất. Đã lâu trời không mưa, giờ đây đột nhiên mưa lớn, ao khô chớp mắt nước đầy tràn, cá vùng vẫy bơi lội thật là sung sướng. Loài vật sinh tồn tại thế gian, trừ một số ít được người che chở, hưởng đặng lòng nhân đạo, còn phần lớn vô phước số mệnh bị đày đọa khổ đau muôn phần, cả đời chúng chẳng hề được tắm rửa, chỉ lúc bị đem làm thịt mới xối nước sôi nhổ lông cho dễ, loài vật lúc đó quả là bất hạnh. Bữa nay, việc Thánh Đức Đường phụng chỉ viết sách Luân Hồi Du Ký đã xong, ta đặc biệt hóa phép để mưa pháp cam lộ tuôn tràn, tắm mát muôn loài sinh vật, giúp tính linh chúng thanh tịnh hầu sống được lâu. Được mưa pháp xối ướt, loài vật rất lấy làm sung sướng, nhất là lũ gà vịt không những không phản đối mà còn tỏ ra vô cùng thích thú. Vì đã từ lâu chúng chỉ được uống nước vũng sình hôi thối, giờ đây cổ nghểnh cao, mỏ há lớn để mong uống được nhiều nước mưa trời. Trâu vùng vằng để trút sạch bùn đất bám trên mình, hổ, báo, sư tử và voi cũng nhân dịp này tắm rửa sạch sẽ.

Dương Sinh: Thưa, bữa nay con thấy tinh thần ân sư nhẹ nhàng thoải mái, còn phần con cũng cảm thấy lòng dạ hân hoan, vì sứ mệnh mới của trời giao phó đã hoàn thành.

Tế Phật: Thuyền pháp mới không dính hạt bụi, ngồi nghỉ muôn phần thích thú, tuy có chút sóng gió song chỉ vừa đủ để con thuyền bồng bềnh giúp mình khoan khoái. Nhìn năm mâm trái cây tươi bày trên bàn thờ trong chánh điện Thánh Đức Đường ta thèm quá chỉ muốn ăn, song nghĩ đó là lộc để ban cho những tín hữu đạo quả tròn đầy, còn ta phước đức đâu mà hưởng. Ta chỉ xin trình bày về ý nghĩa của năm mâm trái cây tươi cùng các tín hữu mà thôi:

1) Thảo môi: Trái thảo môi đỏ thắm thật đáng yêu, đầu có núm giống hình đức Phật, ăn chua chua ngọt ngọt tượng trưng cho kẻ tu đạo vừa khổ vừa vui, có bị mưa dập gió vùi, lửa đỏ nấu nung mới có thể tu thành quả Phật.

2) Liên vụ: Trái liên vụ phấn đỏ đáng yêu, hình giống trái chuông treo giữa trời sương gió. Thả xuống đất giống tựa bông sen nên có tên gọi là liên vụ, tức bông sen sương khói. Ăn vị ngọt mát, đó là trái mở lòng người tu đạo, ăn trái này mới có thể ngồi tòa sen bay giữa trời mây khói.

3) Tảo tử: Trái táo hình tròn giống như quả trám là đạo quả tranh thủ được, tu đạo cũng như chơi banh, phải sứt tai bể đầu máu chảy mới thắng nổi. Nếu phải tranh thắng cùng ma đạo, chánh đạo chẳng thể nhường, vì trên trận địa đạo đức nếu như trái banh đạo bị ma quỷ sút vô gôn, thì kẻ tu đạo kể như là bại tướng tại trận tiền rồi vậy.

4) Bồ đào: Thứ trái cây nhập cảng từ Hoa Kỳ, kẻ tu đạo dùng thứ trái cây này rất tốt. Bồ đào tượng trưng cho ngọc Phật, ai thấy cũng ưa thích. Chùm bồ đào ngọc Phật này vừa niệm vừa ăn quả là thiết thực, nếu chúng sinh không rời xa Phật ắt hẳn bồ đào cầm chắc trong tay. Còn bỏ Phật không được ăn trái bồ đào miệng sẽ đắng ngắt, để rồi than thở: “Tây phương xa quá đi chẳng tới, đào tiên ở mãi trên trời ăn chẳng được”. Cõi tây phương mười vạn tám ngàn dặm xa, bồ đào Mỹ quốc chẳng thể với tới, do đó không thể nói là không có khả năng.

5) Thích ca: Đó là mâm trái cây quý báu và kính trọng nhất được đặt ở giữa bàn, chúng sinh một đời khổ cực vắt cạn não tủy khiến đầu óc hôn mê, héo hắt cuối cùng vong mạng. Song còn đức Thích Ca đầu to lại mọc thêm đầu nhỏ, cũng như một người hóa thành vô số người, một đầu trở thành vô lượng đầu, đầu đầu là đạo, nên có thể thành tựu quả vị Phật một cách huy hoàng, đó là thứ trái cây cao quý nhất, kẻ có duyên mới nhận được. Điều đó nói lên ý nghĩa khi lễ Tiên Phật chỉ nên dâng trái cây tươi, vả lại sau khi cúng xong kẻ ăn lộc đó mới không phạm giới. Sau khi chúng sinh xem xong sách Luân Hồi Du ký, chắc chắn trên các bàn thờ sẽ chẳng còn thấy bày đồ mặn tanh tưởi như trước nữa (thịt gà, thịt vịt quăng vội xuống gầm bàn. Ha ha).

Dương Sinh: Thưa, lời dạy ân sư rất chí lý, con đã từng được đọc một bài thơ trong sách đạo với tựa đề là “Khuyên Ăn Chay” ý nghĩa cực kỳ sâu xa, xin ghi vào đây để tặng người đời.

Cầu thần bái Phật giáng cát tường
Tiên hoa thủy quả lễ tối đương
Tam sinh tửu lễ khai sát giới
Bất năng đắc phúc phản họa ương
Lục đạo luân hồi quân bất tín
Quan thích bằng hữu chuyển ngưu dương
Mỗ giáp sát kê nguyên sát tử
Ất quân đồ trư cánh đồ nương
Quán Âm nhự tố hà dụng tửu
Phật Tổ tối kỵ bái trư dương
Thần linh đa thị nhân từ tâm
Khởi hữu tham phúc bão đỗ trường
Chỉ hữu tà đạo tham khẩu phúc
Vị kiến chính thần hoại cương thường
Khuyến quân mạc tín tam sinh tế
Nhất phiến thành tâm tam trụ hương
Đa hiến tài bạch tế bần khổ
Thế đại tử tôn đắc an khang
Tố thực bất hại vô cô mệnh
Nhất niên tứ quý bảo bình an.

Cầu xin Tiên Phật trải tình thương
Trái ngọt hoa tươi lễ cúng dường
Chớ có một đời dâng rượu thịt
Phúc lành chẳng hưởng hưởng tai ương
Luân hồi cầm thú không lo tránh
Đọa kiếp trâu dê thật khó lường
Giết vịt giết con mà chẳng biết
Giết heo giết mẹ lại không tường
Quán Âm chay tịnh đâu thèm rượu
Phật Tổ thịt thà há vấn vương
Thần thánh vốn giàu tình bác ái
Dạ nào chỉ muốn được no lòng
Tham ăn chỉ bọn chuyên buôn thánh
Chửa thấy thần tiên phá kỷ cương
Khuyên chớ vội tin ba kiếp trước
Nếu cần khấn khứa đốt tâm hương
Bạc tiền bố thí người nghèo khổ
Con cháu nối đời được kiện khang
Bỏ mặn theo chay lành chẳng hại
Mỗi mùa mỗi tuổi sống bình thường.

Tế Phật: Bài thơ khuyên ăn chay này hay lắm, sự chỉ dạy về cách thờ thần kính Phật chay tịnh đầy ý nghĩa sâu xa, mong người đời thể ngộ được lời khuyên chân thành này. Dương Sinh y phục chỉnh tề, bữa nay Dao Trì cử hành Thánh Hội, Lão Mẫu muốn được thấy lại thầy trò mình, chuẩn bị lên đài sen.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư khởi hành...

Tế Phật: Bữa nay con lãnh phận sự chỉ huy, tự tay lèo lái tòa sen này.

Dương Sinh: Thưa con chẳng dám, còn tòa sen bữa nay lại to lớn gấp bội, hào quang lấp lánh tỏa chiếu sáng ngời, trong suốt tựa pha lê vô cùng quý giá, trò ngu không có can đảm lãnh tránh nhiệm điều khiển.

Tế Phật: Tòa sen này chở thầy trò mình đi dạo khắp ba cõi, viết xong ba cuốn sách trời quý báu, đối với trời, đất, người và cầm thú mình đã tạo lập được mảnh vườn đẹp đẽ, nhờ vậy mà tòa sen mỗi ngày một to lớn sáng đẹp hơn. Vô số chúng sinh đọc xong ba cuốn sách quý liễu ngộ nhân sinh, chân tu đại đạo cũng được đáp tòa sen này nên đạo lực phi phàm, bởi vậy con chớ có lo sợ, tâm niệm nhất động, nghĩ tới cõi Vô Cực Dao Trì Lão Mẫu, tòa sen tự nhiên bay vút tới nơi.

Dương Sinh: Thưa ân sư có được nổi sự kiện này sao?

Tế Phật: Đương nhiên, lúc mê thì có thầy có trò, khi ngộ thì tự độ, giờ phút này tự ngộ tự độ.

Dương Sinh: Ân sư đã dạy như vậy thì con xin niệm chân ngôn: “Đài sen, đài sen, ta và ân sư muốn tới Dao Trì tham dự Thánh Hội, mong người hãy khởi hành...”. Quả là kỳ diệu, niệm xong chân ngôn, đài sen như phi thuyền cất cánh bay vút lên trời, vượt qua bao tầng mây, hướng nẻo Dao Trì phóng tới... Tốc độ quá mau, mắt không mở nổi.

Tế Phật: Con có thể nhắm mắt tĩnh thần dưỡng khí, chỉ sát na tới Dao Trì.

Dương Sinh: Thưa, xin tuân lệnh, con tạm nhắm hai mắt... Hào quang phía trước chói lòa, chắc chắn đây là cõi trời vô cực.

Tế Phật: Đã tới Dao Trì, để thầy ngưng lại, Dương Sinh xuống đài sen. Hội trường đã ngồi đầy chư Thánh Tiên Phật cõi trời, mau tới trước lạy chào ra mắt đức Lão Mẫu.

Dương Sinh: Dao Trì bày tiệc linh đình, khách khứa tấp nập là thường.

Thuần Dương Đại Đế: Hoan nghênh Tế Phật cùng thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung đã tới. Tôi đảm nhận chức trưởng ban nghi lễ buổi Thánh Hội hôm nay, xin mời hai vị theo tôi.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, cảm tạ sự hướng dẫn của Lã Tổ Sư.

Thuần Dương Đại Đế: Đây là hàng ghế danh dự, mời Tế Phật cùng Dương Sinh ngồi.

Dương Sinh: Cảm tạ Lã Tổ Sư. (Thấy một chiếc bàn tròn cực lớn phủ vải đỏ, trên bày nhiều thứ trái cây tươi cùng rượu quỳnh tương. Đức Quán thế Âm cũng vừa an tọa). Đệ tử Dương Sinh xin lạy chào ra mắt bồ tát.

Quán thế Âm: Miễn lễ, bữa nay hai vị là thượng khách, mời ngồi.

Dương Sinh: Xin tuân lệnh, cảm tạ bồ tát ban ân.

Thuần Dương Đại Đế: Bữa nay là ngày mừng sách Luân Hồi Du Kí viết xong Dao Trì Lão Mẫu đặc biệt mở Thánh Hội này, bày một trăm lẻ tám bàn tiệc mời đại biểu Thánh Tiên Phật khắp ba cõi. Lão Mẫu cùng Ngọc Đế thân hành tới dự.

Tế Phật: Dương Sinh mau lạy chào ra mắt.

Dương Sinh: Đệ tử xin lạy chào ra mắt đức Lão Mẫu cùng đức Ngọc Đế.

Lão Mẫu: Lành thay, miễn lễ, mau đứng lên về chỗ ngồi.

Dương Sinh: Cảm tạ đức Lão Mẫu đã ban ơn phước. (Ngồi trên ghế nhìn phong cảnh Dao Trì bên ngoài cực kỳ mỹ lệ, chẳng khác nào cảnh đào nguyên nơi cõi tiên, các bậc Thần Thánh Tiên Phật khắp nơi tấp nập đổ về dự Thánh Hội, trên đầu vị nào vị nấy các vòng hào quang tỏa chiếu sáng ngời khiến cảnh hội trường vô cùng rực rỡ).

Thuần Dương Đại Đế: Để chúc mừng Thánh Đức Đường Vô Cực Đài Trung đã phụng chỉ trước tác xong sách Luân Hồi Du Ký, Dao Trì khai mạc Thánh Hội, mời chư vị đứng lên lạy ba lạy để kính chào đức Lão Mẫu cùng đức Ngọc Đế. Tiên Cô Ma Nương hướng dẫn các tiên nữ cung Dao Trì tấu nhạc tiên, cùng biểu diễn vũ khúc Nghê Thường. Mời chư vị an tọa để khai tiệc.

Lão Mẫu: Dương Sinh chớ làm khách, bữa nay cử hành Thánh Hội là hoàn toàn vì con, chư Tiên Thánh Phật thuộc ba cõi vốn là khách ngoài chốn dương gian, sớm hưởng tiêu dao cõi trời nên Thánh Hội này đối với chư vị đó không quan trọng, chỉ cốt giúp con mở rộng tầm mắt, thấy được cảnh tiên an lạc siêu diệu này để con trình bày lại cho người đời được rõ, hầu hướng dẫn họ hướng về cõi trời, do đó cõi Dao Trì mới mở Thánh Hội này, các vị giáo chủ các tôn giáo đều tích cực hỗ trợ Mẫu, Dương Sinh và Tế Phật cả hai đều gian nan và khổ cực vô cùng.

Tế Phật: Thưa, đó là nhiệm vụ trời trao phó.

Dương Sinh: Con có phước được Mẫu thương, ban cho trách nhiệm theo ân sư dạo cõi nhân gian, phỏng vấn các loài cầm thú để viết sách quý khuyên đời, lộc trời vô lượng, ơn thầy cao sâu, biết làm sao đền đáp nổi?

Lão Mẫu: Dương Sinh chớ lo báo đền ơn phước, chỉ cần gắng gỏi nhiều hơn để đi hết đường đạo chông gai dài muôn ngàn dặm, ngày sau đạo quả ắt sẽ tròn đầy. Hãy nhận trái tiên quý báu này của Mẫu ban.

Tế Phật: Dương Sinh đừng làm khách, đó là lộc Mẫu ân ban.

Dương Sinh: Cảm tạ đức Lão Mẫu, số trái tiên này vừa đào vừa lê, ăn ngon vô cùng, hương vị ngọt ngào vô kể. Trên bàn còn bày năm mâm nữa, nhưng tại sao lại giống hệt năm mâm trái cây do Thánh Đức Đường dâng cúng?

Lão Mẫu: Lành thay, Dương Sinh có điều chưa tỏ, năm mâm trái cây này là lễ vật của Thánh Đức Đường cúng dường, Dao Trì mở đại tiệc, Thánh Đức Đường cũng khai tiểu yến, trời và người phút này hợp nhất, con để ý quan sát hẳn sẽ thấy hình ảnh Thánh Đức Đường hiển hiện trước cung Dao Trì. (Giờ đây nơi miệng của các đệ tử nhiều công quả của Thánh Đức Đường đầy ắp nước pháp cam lộ). Mẫu hướng dẫn toàn thể nguyên linh các đệ tử của Thánh Đức Đường nhiều công quả lên đây dự Thánh Hội, song điển nguyên linh của họ thuộc tầng giới khác không giống ở đây.

Dương Sinh: Thực quả chẳng thể bàn cãi nổi. Đâu có ngờ được là các tín hữu phát tâm công quả của Thánh Đức Đường cũng tới đây dự tiệc.

Lão Mẫu: Con hãy uống cạn chén rượu quỳnh tương này.

Dương Sinh: Cảm tạ đức Lão Mẫu, uống xong rượu quỳnh tương con có cảm giác toàn thân nhẹ lâng lâng bay bổng, mát mẻ nhẹ nhàng. Kính hỏi đức Lão Mẫu, trên hàng ghế danh dự ngoài các vị giáo chủ thuộc các tôn giáo, Tam Quan Đại Đế, Quán thế Âm, tiên đồng Dao Trì ra còn có sáu vị trưởng lão khác, đức hạnh cao dày không rõ chư vị đó là ai?

Lão Mẫu: Nhân gian luân hồi gặp mặt mà quên, sau khi Dương Sinh viết xong hai bộ sách du ký Thiên Đàng và Địa Ngục, khuyến hóa được vô lượng chúng sinh, tạo được công đức vô thượng, ngay khi con dâng nộp sách Thiên Đàng Du Ký, Mẫu đã ban ân để cho cửu huyền thất tổ của con siêu thăng, bởi vậy các vị đó chính là tổ tiên của con đã nhờ công đức con che chở vậy. Một năm trước đây được phiêu diêu các cõi trời tu luyện, có vị tại Thiên Phật Viện, có vị tại Tử Trúc Lâm, có vị tại cung Dao Trì, bữa nay lại đặc biệt mời các vị đó tới đây tham dự Thánh Hội để gặp mặt con từ cõi dương gian tới.

Dương Sinh: Cảm tạ Lãu Mẫu từ bi đã đề bạt ông nội và cha đẻ của con, vì phải ngồi theo thứ tự trên dưới nên vừa rồi con đã không nhận ra, con cũng kính mong ông nội và cha tha lỗi cho con.

Lão Mẫu: Giờ ông nội Tái Thiêm của Dương Sinh hãy phát biểu.

Tái Thiêm: Bữa nay phước đức được gặp lại cháu ngoan tại Dao Trì, trong lòng vui mừng khôn xiết, ông kiếp trước vị quốc tận trung, đã thác vì giao tranh cùng quân Nhật, khi đó cha của con mới ba tuổi, gia cảnh lại cực kỳ nghèo khổ. Tới khi cha của con trưởng thành phải nhẫn nại chịu đựng mọi đắng cay. Vừa cày ruộng vừa làm thuê, tuy khổ cực nhưng không hề tham lam, giúp đỡ làng xóm láng giềng, cứu người thoát khỏi cơn nguy khốn, lòng dạ hiền lành, rất chăm lễ bái thần Phật. Nhờ tổ tiên nhà họ Dương nối đời tu thân tích đức, con cháu dầu gặp cảnh khổ song trời Phật cũng ban ơn cứu độ. Ngay từ ngày còn nhỏ cháu đã biết theo cha tới chùa lễ bái Phật, dần dần giác ngộ được pháp Phật huyền vi, nhờ vậy được Phật khai khiếu thông linh nên đã xả thân thay trời hành đạo, viết xong hai cuốn du ký Thiên Đàng, Địa Ngục, tuyển trích biết bao ý đạo thâm sâu từ nhiều kinh sách quý báu lập công lập đức, nhờ ơn đức ấy mới có thể giúp cha ông siêu thăng. Ông vì quốc tận trung, thân xác mất song tính linh được làm tướng tại cõi Nam Thiên, nay được chứng quả vị vô cực, đức Lão Mẫu phong cho tước vị Phổ Đức Chân Nhân, mong cháu tiếp tục gia sức thế thiên tuyên hóa, ngày sau tổ tiên cùng được hưởng phước báu.

Dương Sinh: Con xin kính cẩn vâng lời. Cảm tạ Lão Mẫu ban ân khiến tổ tiên của con mới có được quả vị phước đức này.

Lão Mẫu: Có công cày bừa có ngày gặt hái. Tiếp tục dùng đào tiên cùng thức ăn của cõi trời.

Dương Sinh: (Tiên Cô Ma Nương đang hướng dẫn các tiên nữ tới để vũ khúc nghê thường, hát nhạc tiên, cùng dâng đào tiên lên đức Lão Mẫu).

Lão Mẫu: Hãy đem đào tiên này ban cho Dương Sinh.

Dương Sinh: (Quả nhiên Tiên Cô Ma Nương mang đào tới tặng).

Tiên Cô Ma Nương: Xin tặng Dương Sinh đào tiên Dao Trì, chúc sự nghiệp hoằng dương đạo pháp ngày càng sáng chói.

Dương Sinh: Cảm tạ Tiên Cô Ma Nương đã phụng chỉ ban đào tiên.

Tiên Cô: Xin chớ làm khách.

Dương Sinh: Đệ tử sẽ mang đào tiên này về Thánh Đức Đường để toàn thể tín hữu cùng chung hưởng. Bữa nay hoàn thành được sách Luân Hồi Du Ký là nhờ sự đồng tâm hiệp lực của tất cả các bạn đạo ngày đêm công quả mới đạt được sự thành công này, quý vị đó là những người dâng hiến công lao mà chẳng cần nêu tên, song được phước thì phải cùng hưởng.

Lão Mẫu: Đúng vậy, các đệ tử của Thánh Đức Đường đã tham gia việc thực hiện sách quý, ngày đêm chịu nhiều khổ cực, công đức lớn lao. Mẫu có một hũ rượu quỳnh tương tặng Dương Sinh mang về, để toàn thể đệ tử Thánh Đức Đường cùng hưởng.

Ngọc Đế: Nguyên linh các chúng sinh vốn do Mẫu sinh ra, cầm thú bữa nay đặc biệt được đức Lão Mẫu hóa độ, chỉ mong giác ngộ tiền duyên, tự tu tự tiến, không còn sát hại đồng loài, tương lai đầu thai lên làm người. Thế nhân cũng cần phải tu tiến hơn nữa mới mong tránh khỏi đọa lạc xuống hàng cầm thú, đó là sở nguyện của Trẫm vậy.

Đạo Tổ: Cúng thần lễ thánh chớ có sát sinh, nơi thờ tự cần phải thanh tịnh, hoa thơm trái ngọt hương trầm rừng núi đều do linh khí trời đất kết tinh, dùng làm lễ vật cúng dường thần thánh tiên Phật rất quý, mong chúng sinh gắng lo tu thiện, người và cầm thú đều được siêu thăng.

Đức Phật: Lành thay, Phật vốn từ bi độ hết chúng sinh mới mong thành Phật. Cầm thú hưởng phước bữa nay đều được siêu sinh, mong người đời che chở tính linh các loài động vật. Có nhiều tính linh là quyến thuộc đời trước của chúng sinh, do đó phải nuôi dưỡng tâm từ bi mới có thể đối xử tốt với họ. Mong mọi người cố gắng thi hành, chăm chỉ học Phật tu thiện, đạo quả sẽ thành.

Đức Khổng Tử: Kẻ yêu vật chẳng sát sinh, người không phải là thánh, lỗi lầm có thể sửa, đức thiện chẳng lớn sao?

Đức Chúa: Thượng Đế thương yêu loài người cùng các loài động vật có tính linh và sinh mệnh. Loài vật thường giúp đỡ người như chó giữ nhà, gà báo thức, bò cày ruộng vắt sữa, bởi vậy loài người phải hết lòng thương yêu loài vật. Không được bắt loài vật có máu lệ thịt xương đóng đinh trên thập tự giá, bởi lẽ chúng sẽ tái sanh trở lại trần gian làm người.

Mục Sư: Hãy buông dao đồ tể, rửa sạch tay ngươi ướt đẫm máu tươi, ăn chay thanh tịnh mới là người hết lòng vâng ý Chúa.

Quán Thế Âm: Lành thay, thuyền từ thánh đức chở đầy chúng sinh, người tới gà vịt cùng tới, sách Luân Hồi Du Kí đã viết xong, muôn nhà sinh Phật, gà chó siêu thăng.

Tiên Đồng Dao Trì: Đức thánh biến thành trúc thánh, Quán Âm ban thuyền từ, trúc tía che chở chúng sinh, mong chúng sinh quán tự tại bồ tát, phát tâm bát nhã ba la mật đa.

Lão Mẫu: Dương Sinh hãy dùng trà tiên, Thánh Hội sắp kết thúc tròn đầy. Thánh Đức Đường phụng chỉ của Mẫu phát huy đạo giáo, vì Dao Trì trực thuộc thuyền pháp vô cực, truyền ban diệu lý vô cực, đại thừa Phật pháp. Bữa nay viết xong sách Luân Hồi Du Ký nên đặc biệt mở Thánh Hội để ban phát phẩm vật cao quý của đức Dao Trì cho Dương Sinh cùng các chư vị khác tại buổi tiệc đoàn viên ở Ao Ngọc này. Mong mọi người gắng đọc sách, tha thiết việc giác ngộ, mau xa rời nẻo ác, tránh ngả luân hồi, đầu thai tại chốn đồng hoang núi vắng, hoặc bị giam trong cũi sắt lồng tre. Hoặc bị chìm đắm giữa chốn bể khổ bao la, giữa nơi giếng sâu vực thẳm, sống để người giết chóc, chết để người ăn thịt, một lần mất thân, muôn kiếp khó phục hồi. Dương Sinh hãy gắng gỏi thêm, Mẫu ban hào quang thánh đức, băng đường đạo lớn ngàn dặm, khen Tế Phật công đức vô lượng, cùng cứu độ thế gian lượng Phật vô biên.

Tế Phật: Cảm tạ đức Lão Mẫu đã ân ban lời vàng ngọc, bần đạo nguyện lấy thiên hạ làm nhà, thề không làm Phật cõi trời, mong chúng sinh noi theo tinh thần cứu độ của bần tăng, học đạo tu thân thì công lao trước tác ba cuốn sách quý của bần tăng cùng Dương Sinh mới không uổng phí.

Thuần Dương Đại Đế: Thánh Hội bữa nay đã kết thúc tốt đẹp, mời toàn thể quý vị đứng lên lạy chào tạm biệt đức Lão Mẫu cùng đức Ngọc Đế.

Lão Mẫu: Miễn lễ, Mẫu ban đào tiên, rượu quỳnh tương cùng năm mâm trái cây để Dương Sinh mang về cho các đệ tử Thánh Đức Đường cùng hưởng, đài sen của Dương Sinh được nâng cao thêm ba bậc.

Dương Sinh: Cảm tạ đức Lão Mẫu đã ân ban, con sẽ mang phẩm vật này về Thánh Đức Đường để tất cả các tín hữu cùng chung hưởng. Xin từ biệt đức Lão Mẫu, đức Ngọc Đế cùng chư vị tiên thánh Phật cao minh.

Tế Phật: Cảm tạ đức Lão Mẫu cùng chư vị cao minh đã ân ban cho trò ngu của Thánh Đức Đường nhiều phẩm vật quý giá. Dương Sinh mau lên đài sen chuẩn bị trở lại dương gian.

Thuần Dương Đại Đế: Mời chư vị tiễn đưa Tế Phật cùng Dương Sinh...

Tế Phật: Cưỡi đài sen dạo thăm ba cõi để hoàn thành cuốn kinh báu cứu đời, cùng làm món ăn tinh thần cho chúng sinh. Bữa nay cõi trời ban rượu quỳnh tương để thân thể khỏe mạnh, tinh thần tỉnh táo, tuổi thọ thêm cao. Nhờ dạo cõi nhân gian tế độ vô lượng chúng sinh, loài cầm thú cũng nương nhờ chiếc xe pháp đài sen này. Có chí cùng chung chớ phân biệt thân ta với thân người, vô lượng thọ Phật, chớ có bàn luận tính linh cao thấp. Chúng ta đều là con của Lão Mẫu, đồng tâm hiệp lực kiến lập đất lành tại cõi nhân gian, mong mọi người từ nay hướng thiện tu thân, cầm thú bắt đầu cải tà quy chánh, tu tâm sửa tánh để chuẩn bị đầu thai làm người. Ghi nhớ thanh âm tha thiết của Tế Phật, mãi mãi còn văng vẳng kêu gọi mọi người... Đã tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.






Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

2 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |