

LUÂN HỒI DU KÝ
Viết bởi hiendde, 04/09/11 07:48
30 replies to this topic
#1
Gửi vào 04/09/2011 - 07:48
LUÂN HỒI DU KÝ
Tiểu Sử PHẬT SỐNG TẾ CÔNG
Phật Sống Tế Công người đời Nam Tống 1150-1209, nguyên quán thuộc huyện Thiên Thai, tỉnh Triết Giang, họ Lý tên Tu Duyên quy y tại chùa Linh Ẩn ở Tây Hồ thuộc Hàng Châu, pháp danh Đạo Tế, vì thường dùng kế giả điên để cứu đời nên thế nhân thường gọi đùa là Tế Điên. Thân Phật Sống là Kim Thân La Hán hóa thân, là Giáng Long Tôn Giả, thông hiểu sâu xa tam muội, tức là chính định, điều tâm tĩnh tọa để đạt trạng thái trực giác vô tư lự hầu thấu triệt cùng liễu ngộ Phật pháp, ý là: “Muôn pháp vốn xuất hiện bởi tâm”. Và tu thẳng tâm Phật không nhờ phương tiện, nên nói: “Tu tâm không tu miệng để trở thành Phật sống” vì lẽ các tăng ni thời đó chỉ “giới khẩu” không “giới tâm” cho nên Phật Sống nói lên tiếng cảnh tỉnh để giúp họ giác ngộ.
Ngài thần thông quảng đại, cứu nhân độ thế, trượng nghĩa phò nguy, đối với bọn giả thiện chuyên làm điều ác ngài thường giễu cợt để khiến bọn đó giác ngộ. Nhưng riêng đối với lũ làm ác không biết hối cải ngài thẳng tay đả kích không ngần ngại, khiến người đời rất ư khoái trá, bởi vậy mọi người gọi ngài là thánh tăng, tôn ngài là Phật Sống hẳn chẳng phải do sự ngẫu nhiên. Phật Sống từng ở chùa Tịnh Từ, chùa gặp hỏa hoạn, cần gỗ để trùng tu, Phật Sống hành hóa tới Nghiêm Lăng, dùng áo cà sa trùm các núi, nhổ trụi cây đem thả sông cho trôi về Hàng Châu. Ngài về báo cho chúng tăng trong chùa là “gỗ ở trong giếng Hương Tích” chúng tăng chạy ra coi thì quả nhiên có thực, những chuyện lạ như vậy đời truyền tụng rất nhiều. Khoảng năm Gia Định 1209 ngài viên tịch, an táng tại tháp Hổ Bào, phút lâm chung có làm một bài hát:
Ca viết
Lục thập niên lai lang tạ
Đông bích đả đảo tây bích
Ư kim thu thập quy lai
Y cựu thủy liên thiên bích.
Hát rằng
Sáu mươi năm đời ta tan tác
Tường phía đông xô tường phía tây
Góp nhặt mãi vẫn về tay trắng
Nước liền trời biếc một màu mây.
Sau khi nhập diệt, có vị tăng gặp Phật Sống dưới chân tháp Lục Hòa, trong thư gởi về có đính kèm một bài thơ như sau:
Thơ
Ức tích diện tiền đương nhất tiễn
Chí kim do giác cốt mao hàn
Chỉ nhân diện mục vô nhân thức
Hựu vãng Thiên Thai tẩu nhất phiên.
Dịch
Nhớ xưa trước mắt chắn tên bay
Xương thịt cớ sao lạnh lúc này
Mặt mũi hỏi ai còn nhớ nổi
Thiên Thai ta lại tới vui vầy.
Như vậy là Bồ Tát đã hứa hẹn sẽ trở lại trần gian. Phật Sống suốt đời cứu độ hành hóa, dạo cõi nhân gian để chọc tức chọc cười, không lo lắng ngại ngùng tu “hạnh đầu đà” tức là tu khổ hạnh, hành đạo Bồ Tát, một manh áo cà sa rách rưới, vui cảnh đời thoát tục. Đôi giày rách sũng nước ngập bùn, tay cầm quạt Bồ chẳng sợ trên cao dưới thấp, đỉnh đầu sáng chói hào quang, gió chẳng dập, mưa chẳng vùi há còn cần nón lá? Chân không, lạnh nóng chẳng xâm phạm, cần chi áo mặc? Không khất thực vì chẳng đói khát. Lười trang nghiêm vì thiếu da lông, khôi hài cười cợt, kết thiện duyên rộng rãi, trần thế chẳng lánh mặt, tìm tiếng cứu khổ, trăm họ giành nhau tôn kính, từ bi vô lượng, thánh đức tuyệt vời, không một tăng sĩ lánh đời ẩn tu nơi chốn thâm sơn cùng cốc nào sánh nổi.
Mỗi lời mỗi tiếng như gai nhọn dao sắc châm chọc, lìa nhà từ miền Ngũ Nhạc tri thức vốn khoan dung, cho nên đời sau chốn cửa Phật nào tự cho mình là thanh cao ắt tránh né không bàn tới. Vì vậy mà một bực cao tăng thánh đức bị mai một không hiển lộ nổi, may mà Phật tôi từ bi không than oán, không chán nản, sống siêu thoát ngoài vòng tục lụy, thể hiện pháp thiền khắp chốn, thực hành Phật pháp mang đầy sắc thái vui tươi, cho nên đại danh “thiền sư” vang dội khắp nơi. Tinh thần xuất thế vĩ đại chuyển thành công lao nhập thế tích cực, thực quả là gương sáng cho những ai ngày nay học Phật tu đạo, cho nên khi được đời tặng thánh danh “Phật Sống” kể cũng hữu lý lắm vậy.
Nay gặp thời mạt pháp, chúng sinh bị lửa dục thiêu đốt, đắm chìm biển khổ, Phật Sống quyết tâm cứu độ người đời cho nên diệu pháp thần thông ngày trước lại tỏ ngời, phát nguyện hiện thân trở lại, giáng lâm Thánh Hiền Đường, hướng dẫn nguyên linh Dương Sinh dạo thăm âm phủ, sưu tầm những bằng chứng xác thực để răn đời. Từ đấy những điều bí mật tại địa ngục được tiết lộ, tạo thuyền từ để cứu độ chúng sinh. Những ai có phước được tắm mưa pháp, vĩnh viễn xa lìa đường ác. Vĩ đại thay, tác phẩm lớn lao đã hoàn thành, còn lưu lại muôn đời, ghi nhớ hoài đức lớn.
TỤNG VIẾT
Đương đầu hát bổng, hoán hồi thế thượng mê đồ
Nhất tiếu niêm hoa, bản thuộc thiền môn diệu quyết
Nhân sinh như hý, diễn đắc xuất thần nhập hóa
Vạn pháp quy tâm, biến du địa ngục thiên đường.
LỜI TỤNG
Đem đạo vào đời, kêu gọi mọi người tỉnh ngộ
Cầm hoa mỉm cười, cửa thiền diệu pháp bí truyền
Một vở tuồng đời, đóng vai vào Thần ra Phật
Nhập tâm muôn pháp, dạo khắp địa ngục thiên đường.
Tiểu Sử PHẬT SỐNG TẾ CÔNG
Phật Sống Tế Công người đời Nam Tống 1150-1209, nguyên quán thuộc huyện Thiên Thai, tỉnh Triết Giang, họ Lý tên Tu Duyên quy y tại chùa Linh Ẩn ở Tây Hồ thuộc Hàng Châu, pháp danh Đạo Tế, vì thường dùng kế giả điên để cứu đời nên thế nhân thường gọi đùa là Tế Điên. Thân Phật Sống là Kim Thân La Hán hóa thân, là Giáng Long Tôn Giả, thông hiểu sâu xa tam muội, tức là chính định, điều tâm tĩnh tọa để đạt trạng thái trực giác vô tư lự hầu thấu triệt cùng liễu ngộ Phật pháp, ý là: “Muôn pháp vốn xuất hiện bởi tâm”. Và tu thẳng tâm Phật không nhờ phương tiện, nên nói: “Tu tâm không tu miệng để trở thành Phật sống” vì lẽ các tăng ni thời đó chỉ “giới khẩu” không “giới tâm” cho nên Phật Sống nói lên tiếng cảnh tỉnh để giúp họ giác ngộ.
Ngài thần thông quảng đại, cứu nhân độ thế, trượng nghĩa phò nguy, đối với bọn giả thiện chuyên làm điều ác ngài thường giễu cợt để khiến bọn đó giác ngộ. Nhưng riêng đối với lũ làm ác không biết hối cải ngài thẳng tay đả kích không ngần ngại, khiến người đời rất ư khoái trá, bởi vậy mọi người gọi ngài là thánh tăng, tôn ngài là Phật Sống hẳn chẳng phải do sự ngẫu nhiên. Phật Sống từng ở chùa Tịnh Từ, chùa gặp hỏa hoạn, cần gỗ để trùng tu, Phật Sống hành hóa tới Nghiêm Lăng, dùng áo cà sa trùm các núi, nhổ trụi cây đem thả sông cho trôi về Hàng Châu. Ngài về báo cho chúng tăng trong chùa là “gỗ ở trong giếng Hương Tích” chúng tăng chạy ra coi thì quả nhiên có thực, những chuyện lạ như vậy đời truyền tụng rất nhiều. Khoảng năm Gia Định 1209 ngài viên tịch, an táng tại tháp Hổ Bào, phút lâm chung có làm một bài hát:
Ca viết
Lục thập niên lai lang tạ
Đông bích đả đảo tây bích
Ư kim thu thập quy lai
Y cựu thủy liên thiên bích.
Hát rằng
Sáu mươi năm đời ta tan tác
Tường phía đông xô tường phía tây
Góp nhặt mãi vẫn về tay trắng
Nước liền trời biếc một màu mây.
Sau khi nhập diệt, có vị tăng gặp Phật Sống dưới chân tháp Lục Hòa, trong thư gởi về có đính kèm một bài thơ như sau:
Thơ
Ức tích diện tiền đương nhất tiễn
Chí kim do giác cốt mao hàn
Chỉ nhân diện mục vô nhân thức
Hựu vãng Thiên Thai tẩu nhất phiên.
Dịch
Nhớ xưa trước mắt chắn tên bay
Xương thịt cớ sao lạnh lúc này
Mặt mũi hỏi ai còn nhớ nổi
Thiên Thai ta lại tới vui vầy.
Như vậy là Bồ Tát đã hứa hẹn sẽ trở lại trần gian. Phật Sống suốt đời cứu độ hành hóa, dạo cõi nhân gian để chọc tức chọc cười, không lo lắng ngại ngùng tu “hạnh đầu đà” tức là tu khổ hạnh, hành đạo Bồ Tát, một manh áo cà sa rách rưới, vui cảnh đời thoát tục. Đôi giày rách sũng nước ngập bùn, tay cầm quạt Bồ chẳng sợ trên cao dưới thấp, đỉnh đầu sáng chói hào quang, gió chẳng dập, mưa chẳng vùi há còn cần nón lá? Chân không, lạnh nóng chẳng xâm phạm, cần chi áo mặc? Không khất thực vì chẳng đói khát. Lười trang nghiêm vì thiếu da lông, khôi hài cười cợt, kết thiện duyên rộng rãi, trần thế chẳng lánh mặt, tìm tiếng cứu khổ, trăm họ giành nhau tôn kính, từ bi vô lượng, thánh đức tuyệt vời, không một tăng sĩ lánh đời ẩn tu nơi chốn thâm sơn cùng cốc nào sánh nổi.
Mỗi lời mỗi tiếng như gai nhọn dao sắc châm chọc, lìa nhà từ miền Ngũ Nhạc tri thức vốn khoan dung, cho nên đời sau chốn cửa Phật nào tự cho mình là thanh cao ắt tránh né không bàn tới. Vì vậy mà một bực cao tăng thánh đức bị mai một không hiển lộ nổi, may mà Phật tôi từ bi không than oán, không chán nản, sống siêu thoát ngoài vòng tục lụy, thể hiện pháp thiền khắp chốn, thực hành Phật pháp mang đầy sắc thái vui tươi, cho nên đại danh “thiền sư” vang dội khắp nơi. Tinh thần xuất thế vĩ đại chuyển thành công lao nhập thế tích cực, thực quả là gương sáng cho những ai ngày nay học Phật tu đạo, cho nên khi được đời tặng thánh danh “Phật Sống” kể cũng hữu lý lắm vậy.
Nay gặp thời mạt pháp, chúng sinh bị lửa dục thiêu đốt, đắm chìm biển khổ, Phật Sống quyết tâm cứu độ người đời cho nên diệu pháp thần thông ngày trước lại tỏ ngời, phát nguyện hiện thân trở lại, giáng lâm Thánh Hiền Đường, hướng dẫn nguyên linh Dương Sinh dạo thăm âm phủ, sưu tầm những bằng chứng xác thực để răn đời. Từ đấy những điều bí mật tại địa ngục được tiết lộ, tạo thuyền từ để cứu độ chúng sinh. Những ai có phước được tắm mưa pháp, vĩnh viễn xa lìa đường ác. Vĩ đại thay, tác phẩm lớn lao đã hoàn thành, còn lưu lại muôn đời, ghi nhớ hoài đức lớn.
TỤNG VIẾT
Đương đầu hát bổng, hoán hồi thế thượng mê đồ
Nhất tiếu niêm hoa, bản thuộc thiền môn diệu quyết
Nhân sinh như hý, diễn đắc xuất thần nhập hóa
Vạn pháp quy tâm, biến du địa ngục thiên đường.
LỜI TỤNG
Đem đạo vào đời, kêu gọi mọi người tỉnh ngộ
Cầm hoa mỉm cười, cửa thiền diệu pháp bí truyền
Một vở tuồng đời, đóng vai vào Thần ra Phật
Nhập tâm muôn pháp, dạo khắp địa ngục thiên đường.
#2
Gửi vào 04/09/2011 - 07:50
LUÂN HỒI DU KÝ
NGỌC CHỈ
Kim Khuyết Nội Tướng họ Từ
Giáng
Thơ
Ngọc Chỉ ban lai Thánh Đức Đường
Kỳ thư nhất bộ huệ âm dương
Thiên đường địa ngục vân du tận
Súc đạo độ trì bồ tát trường.
Súc đạo vô nhân diệc chúng sinh
Tương tri nguy loạn báo thân tình
Khuyển năng thủ nghĩa trung gia chủ
Báo hiếu kim kê tín cử thanh.
Dịch
Ngọc Chỉ ban cho Thánh Đức Đường
Một pho sách quý phước âm dương
Thiên đàng địa ngục từng qua lại
Cứu hết muôn loài Phật xót thương.
Người vật đều là kiếp chúng sinh
Giúp nhau tránh nạn tỏ thâm tình
Chó thường trung nghĩa cùng gia chủ
Gà báo rạng đông dạ chí thành.
Đức Thánh dạy:
Đêm nay ta phụng mệnh tuyên đọc Ngọc Chỉ, thần nhân kính cẩn cúi đầu không thể thất lễ. Vâng lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế răn dạy: “Trẫm ngự tại điện Linh Tiêu, lòng hằng lo lắng cho thế đạo, khoa học kỹ thuật phát triển, vật dục dâng cao; tội phạm lan tràn, bọn súc sinh áo mũ nghênh ngang, hành động làm tổn thương cả lẽ trời, bị mọi người xa lánh, bị trời trừng phạt. Bởi lưới pháp luật khó tránh, nên phải đem thân vào tù, nhận lãnh nhân quả báo ứng. Trẫm không nỡ nhìn mãi cảnh nguyên linh vạn vật cùng nhân cách bị chôn vùi, lầm lỡ lạc nẻo đường tà. Cho nên phụng mệnh Dao Trì Kim Mẫu ban sắc chỉ để ra lệnh cho Vô Cực Thánh Đức Đường ở Đài Trung trước tác một bộ sách kỳ diệu với tựa đề là “Súc Đạo Luân Hồi Ký”, nội dung chép lại chuyện luân hồi của các loài cầm thú.
Cùng cho phép Phật Sống Tế Công hướng dẫn Dương Sinh dạo cõi trần hoàn phỏng vấn sinh linh các loài cầm thú, để được nghe trả lời rõ về nhân quả của kiếp trước, cùng hoàn cảnh, tâm trạng của kiếp này, để làm tấm gương cảnh tỉnh người đời. Dương Sinh trước đây đã viết xong hai bộ sách du ký Thiên Đàng, Địa Ngục quảng độ bến mê, không phụ lòng trời, vì vậy Lão Mẫu lại ban cho trách nhiệm lớn lao mới này, hy vọng dưới sự hướng dẫn của Tế Phật, Dương Sinh sẽ lại thành công trong việc hoàn thành bộ sách thần kỳ tuyệt diệu. Một là để cảnh giác người đời không được hành động thất đức, vi phạm pháp luật, để khỏi đọa lạc thành loài cầm thú. Hai là để giúp loài cầm thú giác ngộ thăng tiến, được đầu thai kiếp khác khôi phục lại bản lai diện mục, hành động quảng độ từ bi, cùng lên cõi vô cực, hoàn thành ước nguyện cứu đời lớn lao của đức Lão Mẫu cùng chư Tiên Phật thuộc các tầng trời.
Kể từ ngày nhận được Ngọc Chỉ, mỗi khi lập đàn cơ trước tác, phải viết cho xong mới được ngưng. Hy vọng các đệ tử hết sức chăm chỉ, cùng dốc tâm hoàn tất sách quý, ngày sách viết xong, luận công tưởng thưởng, chớ cãi lệnh Trẫm”.
Kính vâng không xao nhãng, cúi đầu tạ ơn.
Vận trời ngày 8 tháng 2 năm Tân Dậu 1981
NGỌC CHỈ
Kim Khuyết Nội Tướng họ Từ
Giáng
Thơ
Ngọc Chỉ ban lai Thánh Đức Đường
Kỳ thư nhất bộ huệ âm dương
Thiên đường địa ngục vân du tận
Súc đạo độ trì bồ tát trường.
Súc đạo vô nhân diệc chúng sinh
Tương tri nguy loạn báo thân tình
Khuyển năng thủ nghĩa trung gia chủ
Báo hiếu kim kê tín cử thanh.
Dịch
Ngọc Chỉ ban cho Thánh Đức Đường
Một pho sách quý phước âm dương
Thiên đàng địa ngục từng qua lại
Cứu hết muôn loài Phật xót thương.
Người vật đều là kiếp chúng sinh
Giúp nhau tránh nạn tỏ thâm tình
Chó thường trung nghĩa cùng gia chủ
Gà báo rạng đông dạ chí thành.
Đức Thánh dạy:
Đêm nay ta phụng mệnh tuyên đọc Ngọc Chỉ, thần nhân kính cẩn cúi đầu không thể thất lễ. Vâng lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế răn dạy: “Trẫm ngự tại điện Linh Tiêu, lòng hằng lo lắng cho thế đạo, khoa học kỹ thuật phát triển, vật dục dâng cao; tội phạm lan tràn, bọn súc sinh áo mũ nghênh ngang, hành động làm tổn thương cả lẽ trời, bị mọi người xa lánh, bị trời trừng phạt. Bởi lưới pháp luật khó tránh, nên phải đem thân vào tù, nhận lãnh nhân quả báo ứng. Trẫm không nỡ nhìn mãi cảnh nguyên linh vạn vật cùng nhân cách bị chôn vùi, lầm lỡ lạc nẻo đường tà. Cho nên phụng mệnh Dao Trì Kim Mẫu ban sắc chỉ để ra lệnh cho Vô Cực Thánh Đức Đường ở Đài Trung trước tác một bộ sách kỳ diệu với tựa đề là “Súc Đạo Luân Hồi Ký”, nội dung chép lại chuyện luân hồi của các loài cầm thú.
Cùng cho phép Phật Sống Tế Công hướng dẫn Dương Sinh dạo cõi trần hoàn phỏng vấn sinh linh các loài cầm thú, để được nghe trả lời rõ về nhân quả của kiếp trước, cùng hoàn cảnh, tâm trạng của kiếp này, để làm tấm gương cảnh tỉnh người đời. Dương Sinh trước đây đã viết xong hai bộ sách du ký Thiên Đàng, Địa Ngục quảng độ bến mê, không phụ lòng trời, vì vậy Lão Mẫu lại ban cho trách nhiệm lớn lao mới này, hy vọng dưới sự hướng dẫn của Tế Phật, Dương Sinh sẽ lại thành công trong việc hoàn thành bộ sách thần kỳ tuyệt diệu. Một là để cảnh giác người đời không được hành động thất đức, vi phạm pháp luật, để khỏi đọa lạc thành loài cầm thú. Hai là để giúp loài cầm thú giác ngộ thăng tiến, được đầu thai kiếp khác khôi phục lại bản lai diện mục, hành động quảng độ từ bi, cùng lên cõi vô cực, hoàn thành ước nguyện cứu đời lớn lao của đức Lão Mẫu cùng chư Tiên Phật thuộc các tầng trời.
Kể từ ngày nhận được Ngọc Chỉ, mỗi khi lập đàn cơ trước tác, phải viết cho xong mới được ngưng. Hy vọng các đệ tử hết sức chăm chỉ, cùng dốc tâm hoàn tất sách quý, ngày sách viết xong, luận công tưởng thưởng, chớ cãi lệnh Trẫm”.
Kính vâng không xao nhãng, cúi đầu tạ ơn.
Vận trời ngày 8 tháng 2 năm Tân Dậu 1981
#3
Gửi vào 04/09/2011 - 07:52
LUÂN HỒI DU KÝ
Lão Mẫu Dao Trì Vô Cực
Giáng
Thơ
Thấp hóa noãn thai giai chúng sinh
Cao đê linh tính tổng hàm tình
Đồng quy tĩnh thổ tu chân đạo
Viễn khứ luân hồi tội nghiệp khinh.
Dịch
Thai noãn yếu hèn cũng chúng sinh
Tính linh cao thấp cũng tâm tình
Cùng về đất tĩnh tu chân đạo
Tránh khỏi luân hồi nghiệp giảm khinh.
TỰA
Con người sinh ra đời, tuy thân xác nghênh ngang nhưng có khác nào hạt cát giữa biển khơi, con kiến giữa cõi trần sở dĩ được kêu là “vạn vật chí linh” tức loài linh thiêng nhất của muôn loài, là bởi trời phú cho tính người, sùng thượng đạo đức, gìn giữ luân thường. Song gần đây bị gió mưa Âu Mỹ tiêm nhiễm, những phong tục tập quán hay của người dân bị phế bỏ, tính tình họ trở thành đen tối, dấy loạn, dâm đãng, trộm cướp, tham ô, tồi tệ, khiến sở năng kiệt quệ. Lòng khỉ ý ngựa dục vọng đảo điên, khác chi loài cầm thú! Tuy luật pháp nghiêm ngặt song người ta chẳng sợ nào! Bởi lẽ người ta đã chôn vùi mất cái phần sáng suốt ở trong tâm mình rồi. Họ cho rằng trời đất, thần hồn vũ trụ không có luân hồi, nên mới dám cả gan làm tổn thương tới lẽ trời, không sợ thần thánh luôn luôn theo dõi bên mình, thuyết vô thần hại người ta không ít.
Mẫu là thủy tổ nguyên linh của các chúng sinh đã trải qua muôn ngàn kiếp nuôi dưỡng các tánh linh. Ngạn ngữ nói: “Thương thay lòng cha mẹ dưới gầm trời”. Ai mà không muốn con cái mình ăn hiền ở lành, tránh xa đường tội lỗi trụy lạc, trời đất hiếu sinh, cha trời mẹ đất rất xót thương con đỏ. Tính linh chính trực được làm người, gian tà làm súc vật đó là cái lý ngay thật của trời đất, cái nguyên tắc không sai của luân hồi. Nhìn thế đạo ngày nay, lòng người không phép tắc, tạo nghiệp đa đoan, ngó những kẻ đi ngoài đường phố thấy chẳng khác chi loài vật mặc áo quần, nhân cách chôn vùi mất cả, một sớm chết đi đọa lạc đầu thai làm loài khác mọc lông mọc sừng bất hạnh biết là bao nhiêu.
Bởi Mẫu không nỡ ngồi nhìn các nguyên linh đọa lạc, cho nên mới ban chỉ thị cho Vô Cực Thánh Đức Đường ở Đài Trung, cùng ra lệnh cho Tế Phật hướng dẫn Dương Sinh dạo cõi phàm trần, phỏng vấn các loài cầm thú, đem những tình huống sinh hoạt thực ghi chép thành sách, lấy tên là “Súc Đạo Luân Hồi Ký” hay “Luân Hồi Du Ký”. Cõi trần gian tuy nhiều khổ nạn, song sinh mạng của kiếp luân hồi cầm thú còn chịu uy hiếp đau đớn gấp bội phần. Phàm những ai còn mang máu huyết tính tình người trong mình, sau khi đọc sách này mà động lòng ăn năn thì hãy sám hối những lỗi lầm quá khứ, để tránh khỏi bị đầu thai làm kiếp súc sinh, vì nếu đường luân hồi này không hiểu rõ, sau này có hối hận cũng chẳng kịp nào. Trải suốt một năm bôn ba tìm hỏi, Tế Phật và Dương Sinh làm tròn sứ mệnh viết xong sách quý, nay bắt đầu bước qua giai đoạn xuất bản để sự phổ biến được rộng rãi hầu giúp ích cho đời nhiều hơn.
Sách lại in thêm phần phụ lục tập tranh Từ Ái, lòng Mẫu rất vui mừng, mới đặc biệt giá lâm Thánh Đức Đường giáng cơ bút, mong rằng chúng sinh sẽ xa lánh đường ác, ra sức thực hành thánh đức ắt sẽ được sinh vào đời thịnh vượng, vô ưu cực lạc thiên đàng, thì hẳn là không phụ lòng trông mong của Mẫu vậy. Nay có đôi hàng làm lời tựa.
Vô Cực Dao Trì Kim Mẫu
Bài tựa giáng cơ bút tại Thánh Đức Đường Đài Trung.
Vận trời ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất 1982
Lão Mẫu Dao Trì Vô Cực
Giáng
Thơ
Thấp hóa noãn thai giai chúng sinh
Cao đê linh tính tổng hàm tình
Đồng quy tĩnh thổ tu chân đạo
Viễn khứ luân hồi tội nghiệp khinh.
Dịch
Thai noãn yếu hèn cũng chúng sinh
Tính linh cao thấp cũng tâm tình
Cùng về đất tĩnh tu chân đạo
Tránh khỏi luân hồi nghiệp giảm khinh.
TỰA
Con người sinh ra đời, tuy thân xác nghênh ngang nhưng có khác nào hạt cát giữa biển khơi, con kiến giữa cõi trần sở dĩ được kêu là “vạn vật chí linh” tức loài linh thiêng nhất của muôn loài, là bởi trời phú cho tính người, sùng thượng đạo đức, gìn giữ luân thường. Song gần đây bị gió mưa Âu Mỹ tiêm nhiễm, những phong tục tập quán hay của người dân bị phế bỏ, tính tình họ trở thành đen tối, dấy loạn, dâm đãng, trộm cướp, tham ô, tồi tệ, khiến sở năng kiệt quệ. Lòng khỉ ý ngựa dục vọng đảo điên, khác chi loài cầm thú! Tuy luật pháp nghiêm ngặt song người ta chẳng sợ nào! Bởi lẽ người ta đã chôn vùi mất cái phần sáng suốt ở trong tâm mình rồi. Họ cho rằng trời đất, thần hồn vũ trụ không có luân hồi, nên mới dám cả gan làm tổn thương tới lẽ trời, không sợ thần thánh luôn luôn theo dõi bên mình, thuyết vô thần hại người ta không ít.
Mẫu là thủy tổ nguyên linh của các chúng sinh đã trải qua muôn ngàn kiếp nuôi dưỡng các tánh linh. Ngạn ngữ nói: “Thương thay lòng cha mẹ dưới gầm trời”. Ai mà không muốn con cái mình ăn hiền ở lành, tránh xa đường tội lỗi trụy lạc, trời đất hiếu sinh, cha trời mẹ đất rất xót thương con đỏ. Tính linh chính trực được làm người, gian tà làm súc vật đó là cái lý ngay thật của trời đất, cái nguyên tắc không sai của luân hồi. Nhìn thế đạo ngày nay, lòng người không phép tắc, tạo nghiệp đa đoan, ngó những kẻ đi ngoài đường phố thấy chẳng khác chi loài vật mặc áo quần, nhân cách chôn vùi mất cả, một sớm chết đi đọa lạc đầu thai làm loài khác mọc lông mọc sừng bất hạnh biết là bao nhiêu.
Bởi Mẫu không nỡ ngồi nhìn các nguyên linh đọa lạc, cho nên mới ban chỉ thị cho Vô Cực Thánh Đức Đường ở Đài Trung, cùng ra lệnh cho Tế Phật hướng dẫn Dương Sinh dạo cõi phàm trần, phỏng vấn các loài cầm thú, đem những tình huống sinh hoạt thực ghi chép thành sách, lấy tên là “Súc Đạo Luân Hồi Ký” hay “Luân Hồi Du Ký”. Cõi trần gian tuy nhiều khổ nạn, song sinh mạng của kiếp luân hồi cầm thú còn chịu uy hiếp đau đớn gấp bội phần. Phàm những ai còn mang máu huyết tính tình người trong mình, sau khi đọc sách này mà động lòng ăn năn thì hãy sám hối những lỗi lầm quá khứ, để tránh khỏi bị đầu thai làm kiếp súc sinh, vì nếu đường luân hồi này không hiểu rõ, sau này có hối hận cũng chẳng kịp nào. Trải suốt một năm bôn ba tìm hỏi, Tế Phật và Dương Sinh làm tròn sứ mệnh viết xong sách quý, nay bắt đầu bước qua giai đoạn xuất bản để sự phổ biến được rộng rãi hầu giúp ích cho đời nhiều hơn.
Sách lại in thêm phần phụ lục tập tranh Từ Ái, lòng Mẫu rất vui mừng, mới đặc biệt giá lâm Thánh Đức Đường giáng cơ bút, mong rằng chúng sinh sẽ xa lánh đường ác, ra sức thực hành thánh đức ắt sẽ được sinh vào đời thịnh vượng, vô ưu cực lạc thiên đàng, thì hẳn là không phụ lòng trông mong của Mẫu vậy. Nay có đôi hàng làm lời tựa.
Vô Cực Dao Trì Kim Mẫu
Bài tựa giáng cơ bút tại Thánh Đức Đường Đài Trung.
Vận trời ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất 1982
#4
Gửi vào 04/09/2011 - 07:53
LUÂN HỒI DU KÝ
Quán Thế Âm Bồ Tát
Giáng
TỰA
Trâu cày ruộng, chó giữ nhà, gà báo thức, dê vắt sữa, vịt làm thịt đó là kiếp súc sinh. Lười canh tác, không giữ nhà, không tin cẩn, không hiếu đễ, không nhân từ, những tội lỗi trên hiện nhiều vô kể ở cõi đời này, vì loài người đã từ lâu sống vô đạo. Trong hàng chúng sinh, chỉ loài người là khó độ hơn cả, nên dễ bị đọa lạc đầu thai làm kiếp súc sinh, khiến lòng ta thương xót vô cùng. Mình mọc lông, đầu lú sừng bị loài người sát hại không biết bao nhiêu mà kể, phàm những ai có huyết tính đều động lòng trắc ẩn, phát tâm từ bi, đề xướng ăn chay, giới sát phóng sinh. Tinh thần nhân ái cứu khổ cứu nạn đó đã động lòng trời đất, cảm hồn muôn loài. Nay Thánh Đức Đường thuộc Đài Trung phụng mệnh Dao Trì lập đền phát huy đạo giáo, ta đặc biệt ban thuyền từ phổ độ, cùng trao truyền thánh tông tâm pháp. Vạn linh sẽ được nhuần gội hào quang, hấp thụ lộc trời vô lượng qua việc Tế Phật hướng dẫn thánh bút Dương Sinh phỏng vấn các loài cầm thú, viết thành cuốn sách “Súc Đạo Luân Hồi Ký” tức “Luân Hồi Du Ký”.
Trải suốt một năm gian lao khổ cực bôn ba, vì lí tưởng nâng cao đạo lí, mở rộng từ tâm, thần và người đều nhất mực hi sinh dâng hiến không quản công lao, nhờ vậy cuối cùng bộ sách đã được hoàn thành tốt đẹp. Nội dung của sách ghi chép đầy đủ những bằng chứng tội lỗi do chính loài cầm thú tự thuật, tin rằng sau khi đọc xong, người đời chắc chắn sẽ mủi lòng. Làm thiện làm ác được tự do lựa chọn theo ý mỗi người; làm người hay làm thú, hoàn toàn tùy thuộc nơi tâm. Loài cầm thú may mắn gặp được kỳ phổ độ hưởng phước huệ vô biên, có được cơ hội bày tỏ nỗi khổ đau thật là khó khăn, đủ chứng tỏ muôn loài vạn vật vốn sẵn có tính Phật bình đẳng, chỉ vì bị chìm đắm trong cảnh mê lầm mà thôi. Nay vì sự sống muôn loài mong người đời buông dao đồ tể, vứt bỏ lòng lang dạ thú tham lam, để đổi lấy tâm Phật thanh tịnh, từ nay thoát ly hành vi cầm thú, đem lòng từ ái đối đãi với người, xử sự ngay thẳng, miệng lưỡi bụng dạ không tham, diệt sạch tâm giết chóc ắt nhân gian hòa thuận yên vui, sinh linh tiêu dao, hết còn phân tranh, thế giới ta bà biến thành nước Phật hoa sen.
Có như vậy người mới được hưởng thanh tịnh, vật mới được an nhiên, tạo thành một vườn lạc thú vô biên tại cõi trần hoàn. Sách Du Ký viết xong, Tam Tào khen thưởng cùng sốt sắng trình tâu; sáu ngả luân hồi hoan hỷ hăng say truyền tụng, vô lượng sinh linh có ngày hết khổ, tạo được kỳ công, lập được đức lớn khôn kể xiết. Đại nguyện cứu độ sinh linh của ta cũng tạm thấy có kết quả, mong chúng sinh dưới gầm trời phát tâm in tặng cùng truyền tay nhau đọc để phổ hóa đạo mầu thì công đức cứu giúp chúng sinh thật là vô lượng. Nhân khi sách lên khuôn, xin trân trọng có đôi lời tán dương công đức.
Quán Thế Âm Bồ Tát
Bài tựa giáng cơ bút tại Thánh Đức Đường Đài Trung.
Quán Thế Âm Bồ Tát
Giáng
TỰA
Trâu cày ruộng, chó giữ nhà, gà báo thức, dê vắt sữa, vịt làm thịt đó là kiếp súc sinh. Lười canh tác, không giữ nhà, không tin cẩn, không hiếu đễ, không nhân từ, những tội lỗi trên hiện nhiều vô kể ở cõi đời này, vì loài người đã từ lâu sống vô đạo. Trong hàng chúng sinh, chỉ loài người là khó độ hơn cả, nên dễ bị đọa lạc đầu thai làm kiếp súc sinh, khiến lòng ta thương xót vô cùng. Mình mọc lông, đầu lú sừng bị loài người sát hại không biết bao nhiêu mà kể, phàm những ai có huyết tính đều động lòng trắc ẩn, phát tâm từ bi, đề xướng ăn chay, giới sát phóng sinh. Tinh thần nhân ái cứu khổ cứu nạn đó đã động lòng trời đất, cảm hồn muôn loài. Nay Thánh Đức Đường thuộc Đài Trung phụng mệnh Dao Trì lập đền phát huy đạo giáo, ta đặc biệt ban thuyền từ phổ độ, cùng trao truyền thánh tông tâm pháp. Vạn linh sẽ được nhuần gội hào quang, hấp thụ lộc trời vô lượng qua việc Tế Phật hướng dẫn thánh bút Dương Sinh phỏng vấn các loài cầm thú, viết thành cuốn sách “Súc Đạo Luân Hồi Ký” tức “Luân Hồi Du Ký”.
Trải suốt một năm gian lao khổ cực bôn ba, vì lí tưởng nâng cao đạo lí, mở rộng từ tâm, thần và người đều nhất mực hi sinh dâng hiến không quản công lao, nhờ vậy cuối cùng bộ sách đã được hoàn thành tốt đẹp. Nội dung của sách ghi chép đầy đủ những bằng chứng tội lỗi do chính loài cầm thú tự thuật, tin rằng sau khi đọc xong, người đời chắc chắn sẽ mủi lòng. Làm thiện làm ác được tự do lựa chọn theo ý mỗi người; làm người hay làm thú, hoàn toàn tùy thuộc nơi tâm. Loài cầm thú may mắn gặp được kỳ phổ độ hưởng phước huệ vô biên, có được cơ hội bày tỏ nỗi khổ đau thật là khó khăn, đủ chứng tỏ muôn loài vạn vật vốn sẵn có tính Phật bình đẳng, chỉ vì bị chìm đắm trong cảnh mê lầm mà thôi. Nay vì sự sống muôn loài mong người đời buông dao đồ tể, vứt bỏ lòng lang dạ thú tham lam, để đổi lấy tâm Phật thanh tịnh, từ nay thoát ly hành vi cầm thú, đem lòng từ ái đối đãi với người, xử sự ngay thẳng, miệng lưỡi bụng dạ không tham, diệt sạch tâm giết chóc ắt nhân gian hòa thuận yên vui, sinh linh tiêu dao, hết còn phân tranh, thế giới ta bà biến thành nước Phật hoa sen.
Có như vậy người mới được hưởng thanh tịnh, vật mới được an nhiên, tạo thành một vườn lạc thú vô biên tại cõi trần hoàn. Sách Du Ký viết xong, Tam Tào khen thưởng cùng sốt sắng trình tâu; sáu ngả luân hồi hoan hỷ hăng say truyền tụng, vô lượng sinh linh có ngày hết khổ, tạo được kỳ công, lập được đức lớn khôn kể xiết. Đại nguyện cứu độ sinh linh của ta cũng tạm thấy có kết quả, mong chúng sinh dưới gầm trời phát tâm in tặng cùng truyền tay nhau đọc để phổ hóa đạo mầu thì công đức cứu giúp chúng sinh thật là vô lượng. Nhân khi sách lên khuôn, xin trân trọng có đôi lời tán dương công đức.
Quán Thế Âm Bồ Tát
Bài tựa giáng cơ bút tại Thánh Đức Đường Đài Trung.
#5
Gửi vào 04/09/2011 - 07:55
LUÂN HỒI DU KÝ
Tổ Sư Thuần Dương
Giáng
TỰA
Loài người được coi là loài sinh vật cao thượng và siêu việt. Song niềm vinh dự ấy hiện nay đã bị chôn vùi mất hết, mọi người đang giành nhau sống đời hạ đẳng, nên mọi hành vi hèn yếu lan tràn khắp chốn, cơ cấu đời sống xã hội nếu không hỗn tạp như chuồng gà thì cũng như chuồng vịt. Toàn cảnh nhà tối lòng điên đảo, phố đêm cướp giật gian dâm, bán buôn lừa đảo, tán tận lương tâm, không còn chút tình người. Những hành động đó đã tạo thành nguyên nhân ác nghiệp đày đọa sáu nẻo luân hồi. Nhìn cảnh thân mang lốt thú, tứ chi bò lết trên đất, thật là phản bội lẽ trời, sống nơi hoang dã chịu cảnh khổ gió mưa vùi dập, sống nơi chuồng cũi nhà người, lặn lội dưới vũng lầy, thân xác bị đày đọa, bị cắt cổ thọc huyết, nấu nướng chiên xào, nhai thịt gặm xương, giống như huyết hận thâm thù, đau đớn không tả nổi. Kêu rên cầu cứu chẳng ai đáp lời, bị chết dưới dao đồ tể, tình cảnh thật thảm thương. Tính linh của loài người vốn là một, song vì tội hồn phải chuyển kiếp đầu thai tại cõi trần, chịu hình phạt há chẳng thống khổ lắm sao! Đào Vọng Linh đời nhà Minh có thơ rằng:
Vật ngã tòng lai bổn nhất chân
Ảo hình phân xứ bất phân thần
Như hà cộng tước nương sinh nhục
Đại địa ai hào thảm cấp nhân.
Dịch
Người vật vốn cùng chung tính linh
Chung thần chung phách khác thân hình
Cớ sao nhai xác con cùng mẹ
Đất rộng gào than rợn cả mình.
Nội dung bài thơ trên cho ta thấy người và vật cùng chung tính linh, song chỉ người hiền lương thân được tự do mới giữ tròn nhân tính, còn kẻ ác độc thân bị tù tội giam cầm, trong người mang đầy thú tính, thân phận khác nhau, sinh ra không cùng một hoàn cảnh sống. Song căn cứ nơi lòng từ bi nhân ái, thì đối với những sinh vật không phải là người, chúng ta không được bắt bớ, giam cầm hoặc sát hại ăn thịt chúng. Còn đối với kẻ tu đạo cần phải ăn chay để giữ thân thanh tịnh ngõ hầu bồi dưỡng tính linh siêu phàm. Thánh Đức Đường vâng lệnh Ý Chỉ của đức Dao Trì Lão Mẫu trước tác sách “Luân Hồi Du Ký”, để trình bày rõ cảnh súc sanh luân hồi để cảnh giác người đời, cảnh cáo ba giới ngăn ngừa tội ác, sửa sang thói tục cho được tốt lành. Trong thế giới tâm linh, sách này có danh xưng là “Tính Linh Muôn Loài Động Vật” chỉ mong loài người tin tưởng sâu xa nơi thuyết “Linh hồn bất diệt” để cứu nguy tinh thần đạo đức đang trên đà sụp đổ. Công việc trước tác sách này vô cùng khó khăn.
Do thánh bút siêu phàm Dương Sinh có nhân duyên vô thượng, đã từng theo chân ngài Tế Phật vào ra ba cõi mới có thể phỏng vấn các loài súc sinh, để viết thành cuốn sách quý vô cùng kỳ diệu này. Ta từ cõi tiên nghe tin, đặc biệt giáng cơ bút, trân trọng có đôi câu chúc mừng để làm lời tựa.
Lã Tổ Thuần Dương
Giáng cơ bút tại Thánh Đức Đường thuộc Đài Trung.
Vận trời ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất 1982
Tổ Sư Thuần Dương
Giáng
TỰA
Loài người được coi là loài sinh vật cao thượng và siêu việt. Song niềm vinh dự ấy hiện nay đã bị chôn vùi mất hết, mọi người đang giành nhau sống đời hạ đẳng, nên mọi hành vi hèn yếu lan tràn khắp chốn, cơ cấu đời sống xã hội nếu không hỗn tạp như chuồng gà thì cũng như chuồng vịt. Toàn cảnh nhà tối lòng điên đảo, phố đêm cướp giật gian dâm, bán buôn lừa đảo, tán tận lương tâm, không còn chút tình người. Những hành động đó đã tạo thành nguyên nhân ác nghiệp đày đọa sáu nẻo luân hồi. Nhìn cảnh thân mang lốt thú, tứ chi bò lết trên đất, thật là phản bội lẽ trời, sống nơi hoang dã chịu cảnh khổ gió mưa vùi dập, sống nơi chuồng cũi nhà người, lặn lội dưới vũng lầy, thân xác bị đày đọa, bị cắt cổ thọc huyết, nấu nướng chiên xào, nhai thịt gặm xương, giống như huyết hận thâm thù, đau đớn không tả nổi. Kêu rên cầu cứu chẳng ai đáp lời, bị chết dưới dao đồ tể, tình cảnh thật thảm thương. Tính linh của loài người vốn là một, song vì tội hồn phải chuyển kiếp đầu thai tại cõi trần, chịu hình phạt há chẳng thống khổ lắm sao! Đào Vọng Linh đời nhà Minh có thơ rằng:
Vật ngã tòng lai bổn nhất chân
Ảo hình phân xứ bất phân thần
Như hà cộng tước nương sinh nhục
Đại địa ai hào thảm cấp nhân.
Dịch
Người vật vốn cùng chung tính linh
Chung thần chung phách khác thân hình
Cớ sao nhai xác con cùng mẹ
Đất rộng gào than rợn cả mình.
Nội dung bài thơ trên cho ta thấy người và vật cùng chung tính linh, song chỉ người hiền lương thân được tự do mới giữ tròn nhân tính, còn kẻ ác độc thân bị tù tội giam cầm, trong người mang đầy thú tính, thân phận khác nhau, sinh ra không cùng một hoàn cảnh sống. Song căn cứ nơi lòng từ bi nhân ái, thì đối với những sinh vật không phải là người, chúng ta không được bắt bớ, giam cầm hoặc sát hại ăn thịt chúng. Còn đối với kẻ tu đạo cần phải ăn chay để giữ thân thanh tịnh ngõ hầu bồi dưỡng tính linh siêu phàm. Thánh Đức Đường vâng lệnh Ý Chỉ của đức Dao Trì Lão Mẫu trước tác sách “Luân Hồi Du Ký”, để trình bày rõ cảnh súc sanh luân hồi để cảnh giác người đời, cảnh cáo ba giới ngăn ngừa tội ác, sửa sang thói tục cho được tốt lành. Trong thế giới tâm linh, sách này có danh xưng là “Tính Linh Muôn Loài Động Vật” chỉ mong loài người tin tưởng sâu xa nơi thuyết “Linh hồn bất diệt” để cứu nguy tinh thần đạo đức đang trên đà sụp đổ. Công việc trước tác sách này vô cùng khó khăn.
Do thánh bút siêu phàm Dương Sinh có nhân duyên vô thượng, đã từng theo chân ngài Tế Phật vào ra ba cõi mới có thể phỏng vấn các loài súc sinh, để viết thành cuốn sách quý vô cùng kỳ diệu này. Ta từ cõi tiên nghe tin, đặc biệt giáng cơ bút, trân trọng có đôi câu chúc mừng để làm lời tựa.
Lã Tổ Thuần Dương
Giáng cơ bút tại Thánh Đức Đường thuộc Đài Trung.
Vận trời ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất 1982
#6
Gửi vào 04/09/2011 - 07:56
LUÂN HỒI DU KÝ
Kim Khuyết Chủ Bí Lạc
Vận trời ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất (1982)
Giáng
PHÀM LỆ
I. Sách vốn vâng lệnh Ý Chỉ của đức vô cực Dao Trì Lão Mẫu cùng Ngọc Chỉ của đức Kim Khuyết Ngọc Hoàng Thượng Đế mà sáng tác, văn tuy thô thiển song nội dung hàm chứa chân lý, nên là sách quý có thể cảm hóa, cùng giúp người đời tu thân ngộ đạo.
II. Trong sách nếu như có chữ sai là do sự in lầm, mong độc giả lượng thứ cho.
III. Sách vốn hao phí nhiều tâm lực của thần và người, suốt một năm trời mới hoàn thành tác phẩm cự phách này. Nội dung của sách hoàn toàn viết lại tình hình sinh hoạt tính linh luân hồi của thế giới loài vật để trình bày ý nghĩa: “Vạn vật và ta là một” để tẩy trừ ám khí hung tàn, bạo ngược nơi xã hội, cùng là sách quý hô hào bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, giúp đỡ chúng sinh coi trọng và phát huy tình thương yêu.
IV. Phàm những ai cầu thọ, cầu công danh, trừ bệnh hoạn, giải oan nghiệt, tu công quả, chuộc lỗi lầm cùng người cầu tổ tiên ở cõi âm được phước siêu thăng, trước hết phải phát tâm từ bi sám hối rồi sau đó thắp nhang khấn với chư thần, táo quân cùng trời đất, hứa sẽ ấn tống sách này để khuyên người đời lánh dữ làm lành sẽ tự thấy linh ứng.
V. Sách này được thánh thần mười phương gia hộ, xem xong phải bày trên bàn thờ, thư án, cùng truyền tay cho người thân đọc, thì công đức sẽ vô lượng. Nếu như không giữ gìn phải chịu tội cùng trời, chẳng thể cầu xin tha thứ.
Kim Khuyết Chủ Bí Lạc
Vận trời ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất (1982)
Giáng
PHÀM LỆ
I. Sách vốn vâng lệnh Ý Chỉ của đức vô cực Dao Trì Lão Mẫu cùng Ngọc Chỉ của đức Kim Khuyết Ngọc Hoàng Thượng Đế mà sáng tác, văn tuy thô thiển song nội dung hàm chứa chân lý, nên là sách quý có thể cảm hóa, cùng giúp người đời tu thân ngộ đạo.
II. Trong sách nếu như có chữ sai là do sự in lầm, mong độc giả lượng thứ cho.
III. Sách vốn hao phí nhiều tâm lực của thần và người, suốt một năm trời mới hoàn thành tác phẩm cự phách này. Nội dung của sách hoàn toàn viết lại tình hình sinh hoạt tính linh luân hồi của thế giới loài vật để trình bày ý nghĩa: “Vạn vật và ta là một” để tẩy trừ ám khí hung tàn, bạo ngược nơi xã hội, cùng là sách quý hô hào bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, giúp đỡ chúng sinh coi trọng và phát huy tình thương yêu.
IV. Phàm những ai cầu thọ, cầu công danh, trừ bệnh hoạn, giải oan nghiệt, tu công quả, chuộc lỗi lầm cùng người cầu tổ tiên ở cõi âm được phước siêu thăng, trước hết phải phát tâm từ bi sám hối rồi sau đó thắp nhang khấn với chư thần, táo quân cùng trời đất, hứa sẽ ấn tống sách này để khuyên người đời lánh dữ làm lành sẽ tự thấy linh ứng.
V. Sách này được thánh thần mười phương gia hộ, xem xong phải bày trên bàn thờ, thư án, cùng truyền tay cho người thân đọc, thì công đức sẽ vô lượng. Nếu như không giữ gìn phải chịu tội cùng trời, chẳng thể cầu xin tha thứ.
#7
Gửi vào 04/09/2011 - 07:57
LUÂN HỒI DU KÝ
Dao Trì Tiên Đồng Đăng đài
Thơ
Kỳ thư nhất bộ độ quần sinh
Súc đạo bạn nhân hữu cảm tình
Ái vật từ tầm lưu hậu đức
Tử tôn hiếu thuận lạc doanh doanh.
Dịch
Sách quý một pho độ chúng sinh
Vật người cùng tạo mối thâm tình
Muôn loài thương xót lưu nhân đức
Con cháu thảo hiền hưởng phước linh.
TỰA
Đối với xã hội văn minh ngày nay, đem chuyện cao thượng ra bàn, cùng coi trọng loài vật, đề cao việc ăn uống đạm bạc, chắc chắn sẽ khó thích hợp với quan niệm của những kẻ theo đời sống mới, chuyên ăn đồ bổ béo, cao lương mỹ vị bụng dạ no nê. Song hãy xin buông chén buông đũa hỏi thử các sinh linh loài vật bị lấy thịt làm đồ ăn nơi mâm chén xem sao? Chắc chắn sẽ nhận được câu trả lời là: “Quý vị ngồi ở bàn ăn đã dùng bữa, tôi biết nói sao đây? Tôi nguyện hy sinh cái ta bé nhỏ để hoàn thành cái ta lớn lao, chỉ hi vọng sau khi quý vị ăn uống no say có thể lo liệu mọi việc tốt đẹp, giúp ích nhiều cho gia đình và xã hội, còn nếu như chỉ tham lam miếng ăn, ham mê dâm dục, coi rẻ những thứ chung quanh, thì bữa ăn này có thịnh soạn cách mấy cũng trở thành vô nghĩa”.
Loài vật nuôi sống nhân loại là hành vi xả thân vì đạo, công đức cao dày. Tóm lại sách Luân Hồi Du Ký giúp cơ hội để cho loài vật thổ lộ tâm sự, mong người đời lắng nghe những lời chân thành thốt ra từ đáy lòng này, ngõ hầu phát tâm từ bi, buông dao đồ tể, còn không loài vật bị tàn sát, chúng sẽ tiếp tục duy trì lòng thù hận, lời oán than thì sự sống của con người sẽ khó bảo toàn vậy. Hy vọng loài người phải đem lòng nhân từ đối đãi với nhau, không được lừa dối giết hại, hoang đàng bất chấp mọi luật lệ, gian dâm loạn luân, thua cả loài cầm thú. Nếu như vậy thì chẳng hóa ra là mình đã tự phủ nhận ơn phước trời ban để làm thân con người lắm sao. Thánh Đức Đường thành lập, chỉ trong vòng một năm ở giai đoạn đầu, đã không phụ trọng trách trời cao phó thác. Tế Phật Dương Sinh cùng cưỡi đài sen vân du phỏng vấn các loài cầm thú, viết thành sách Luân Hồi Du Ký này là món ăn tinh thần hợp khẩu vị, khiến mọi người đều thích thú, chắc chắn tin tưởng rằng sau khi xuất bản phát hành sẽ có công hiệu thay đổi phong tục.
Mong các loài hổ, báo, lang, sói hãy mau mau ẩn mình núp bóng, tự mình sám hối tu luyện, thay đầu đổi mặt để bốn biển trở thành anh em một nhà. Thế đạo từ nay ắt yên bình, khắp chốn hang cùng ngõ hẽm xuất hiện đầy dãy những bậc hiền nhân quân tử. Tất cả vạn vật đều được an vui, trời đất yên lành, muôn cảnh hồi xuân, cuốn sách thánh xuất chúng này sẽ trưng bày trong mọi gia đình, hạnh phúc sẽ tràn trề. Nhân ngày sách Luân Hồi Du Ký lên khuôn ta lấy làm vô cùng sung sướng, đặc biệt giáng đàn cơ có đôi lời khen ngợi.
Tiên Đồng Dao Trì giáng cơ bút bài tựa này tại
Thánh Đức Đường thuộc Đài Trung.
Vận trời ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất 1982
Dao Trì Tiên Đồng Đăng đài
Thơ
Kỳ thư nhất bộ độ quần sinh
Súc đạo bạn nhân hữu cảm tình
Ái vật từ tầm lưu hậu đức
Tử tôn hiếu thuận lạc doanh doanh.
Dịch
Sách quý một pho độ chúng sinh
Vật người cùng tạo mối thâm tình
Muôn loài thương xót lưu nhân đức
Con cháu thảo hiền hưởng phước linh.
TỰA
Đối với xã hội văn minh ngày nay, đem chuyện cao thượng ra bàn, cùng coi trọng loài vật, đề cao việc ăn uống đạm bạc, chắc chắn sẽ khó thích hợp với quan niệm của những kẻ theo đời sống mới, chuyên ăn đồ bổ béo, cao lương mỹ vị bụng dạ no nê. Song hãy xin buông chén buông đũa hỏi thử các sinh linh loài vật bị lấy thịt làm đồ ăn nơi mâm chén xem sao? Chắc chắn sẽ nhận được câu trả lời là: “Quý vị ngồi ở bàn ăn đã dùng bữa, tôi biết nói sao đây? Tôi nguyện hy sinh cái ta bé nhỏ để hoàn thành cái ta lớn lao, chỉ hi vọng sau khi quý vị ăn uống no say có thể lo liệu mọi việc tốt đẹp, giúp ích nhiều cho gia đình và xã hội, còn nếu như chỉ tham lam miếng ăn, ham mê dâm dục, coi rẻ những thứ chung quanh, thì bữa ăn này có thịnh soạn cách mấy cũng trở thành vô nghĩa”.
Loài vật nuôi sống nhân loại là hành vi xả thân vì đạo, công đức cao dày. Tóm lại sách Luân Hồi Du Ký giúp cơ hội để cho loài vật thổ lộ tâm sự, mong người đời lắng nghe những lời chân thành thốt ra từ đáy lòng này, ngõ hầu phát tâm từ bi, buông dao đồ tể, còn không loài vật bị tàn sát, chúng sẽ tiếp tục duy trì lòng thù hận, lời oán than thì sự sống của con người sẽ khó bảo toàn vậy. Hy vọng loài người phải đem lòng nhân từ đối đãi với nhau, không được lừa dối giết hại, hoang đàng bất chấp mọi luật lệ, gian dâm loạn luân, thua cả loài cầm thú. Nếu như vậy thì chẳng hóa ra là mình đã tự phủ nhận ơn phước trời ban để làm thân con người lắm sao. Thánh Đức Đường thành lập, chỉ trong vòng một năm ở giai đoạn đầu, đã không phụ trọng trách trời cao phó thác. Tế Phật Dương Sinh cùng cưỡi đài sen vân du phỏng vấn các loài cầm thú, viết thành sách Luân Hồi Du Ký này là món ăn tinh thần hợp khẩu vị, khiến mọi người đều thích thú, chắc chắn tin tưởng rằng sau khi xuất bản phát hành sẽ có công hiệu thay đổi phong tục.
Mong các loài hổ, báo, lang, sói hãy mau mau ẩn mình núp bóng, tự mình sám hối tu luyện, thay đầu đổi mặt để bốn biển trở thành anh em một nhà. Thế đạo từ nay ắt yên bình, khắp chốn hang cùng ngõ hẽm xuất hiện đầy dãy những bậc hiền nhân quân tử. Tất cả vạn vật đều được an vui, trời đất yên lành, muôn cảnh hồi xuân, cuốn sách thánh xuất chúng này sẽ trưng bày trong mọi gia đình, hạnh phúc sẽ tràn trề. Nhân ngày sách Luân Hồi Du Ký lên khuôn ta lấy làm vô cùng sung sướng, đặc biệt giáng đàn cơ có đôi lời khen ngợi.
Tiên Đồng Dao Trì giáng cơ bút bài tựa này tại
Thánh Đức Đường thuộc Đài Trung.
Vận trời ngày 18 tháng 2 năm Nhâm Tuất 1982
#8
Gửi vào 04/09/2011 - 08:02
LUÂN HỒI DU KÝ
HỒI MỘT
CHÚNG SINH VỐN DO MỘT KHÍ SINH RA
KIẾP TRƯỚC CHẲNG TU ĐỌA LẠC THÀNH LOÀI KHÁC
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 10 tháng 3 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Vạn vật tùy duyên ảo hóa hình
Quy căn vô cực phú nguyên linh
Thiên khai phổ độ tư cầm thú
Đoan chính y quan độc thánh kinh.
Trung Thổ nan sinh kim dĩ sinh
Chân kinh nan đắc hạnh trì minh
Tu tuần thiên lý tu thiên đạo
Miễn tác phi cầm dã thú minh.
Dịch
Vạn vật tùy duyên biến đổi hình
Cội nguồn vô cực giúp nguyên linh
Trời cao phổ độ sinh cầm thú
Áo mũ chỉnh tề đọc thánh kinh.
Đất tốt khó sinh giờ đã sinh
Chân kinh khó hiểu cũng may rành
Phải theo thiên lý tu thiên đạo
Tránh kiếp chim muông kêu hót rinh.
Tế Phật: Ha ha, viết xong hai cuốn Thiên Đàng, Địa Ngục Du Ký ta cùng Dương Sinh tưởng rằng đã hoàn tất xong được công việc lớn lao, thật quả là không phụ sứ mệnh trời cao giao phó, cũng chính nhờ cung cấp được món ăn tinh thần vô cùng quý báu cho loài người trên mặt đất, và mở rộng cánh cửa thần bí thiên đàng địa ngục, nên hiện nay thấy mọi người đều lo lắng chăm chỉ tu hành. Hai nẻo thiên đàng, địa ngục hiển hiện rõ ràng trước mắt, muốn lựa ngả nào cũng dễ cả. Ta đã lao tâm khổ trí, hết lòng nhân nghĩa, hy vọng chúng sinh thể ngộ được ý nghĩa siêu diệu nơi hai cuốn sách quý báu này, để trở thành người lương thiện. Thiết nghĩ ta nói nhiều để rồi cuối cùng được gì? Vẫn không hoàn không, chỉ có hai ống tay áo nong đầy gió. Bữa nay lạc tới Thánh Đức Đường, ha ha! Quả là trời ban lệnh mới, ta lại hướng dẫn thánh bút Dương Sinh cưỡi đài sen vân du, viết sách, bộ Luân Hồi Du Ký trình bày sự thanh khiết của vật thực.
Vì hải sản, sơn sản, đặc sản mà mọi người thường ăn, tưởng là ăn đồ tinh khiết, thực ra tuy nó thích hợp với khẩu vị nhiều người, song chính con người vào nẻo luân hồi súc sinh. Chúng sinh vì mải ham thưởng thức vị ngon của thịt cá, nên đã không nghe thấy tiếng rên la đau đớn của các linh hồn súc sinh khi thân xác bị con người đem ra làm thịt, vì chúng sinh chỉ mới uống máu mà chưa uống linh hồn loài vật. Ta nay hướng dẫn Dương Sinh phỏng vấn các loài động vật như chim bay, thú chạy, cá lội... Trong khoảng trời đất để hiểu rõ trạng huống sinh hoạt của chúng, để người đời mở rộng tầm mắt, cùng gia tăng sự hòa hợp đối với tính linh các loài động vật, để thấu tỏ sâu thêm về thế giới vô hình, huyền bí cũng như thế giới khoa học mới ngày nay. Muôn loài đều có linh hồn và sự sống, đó là sự thực không thể phủ nhận, còn Dương Sinh con nghĩ sao?
Dương Sinh: Thưa, từ năm năm nay con được may mắn học đạo ân sư, tính linh con ngày một giác ngộ sâu thêm,và cũng chính nhờ vậy con mới có thể hoàn thành hai cuốn quý Địa Ngục và Thiên Đàng Du Ký để dâng nộp đức Thiên Tôn. Tuy trải qua nhiều gian lao khổ cực song con rất đỗi vui mừng khi thấy hai bộ sách được ấn tống phổ biến khắp thế giới, nên những nỗi nhọc nhằn trước kia giờ đây đều nguôi ngoai, từ nay về sau kính mong ân sư tận tình chỉ giáo cùng giúp đỡ con trên nẻo đường học đạo, con xin ghi nhớ mãi công đức của ân sư. Bữa nay lòng con vô cùng sung sướng vì lại được trời cao đoái tưởng ban lệnh mới, tiếp tục hoàn thành sứ mệnh cứu độ chúng sinh, sang giai đoạn mới nhờ nhiều thì giờ, con nguyện phản tỉnh và gắng gỏi nhiều hơn. Con xin cảm tạ ơn trên đã phù hộ, cùng ân sư ngày đêm khuyến khích, con cầu xin trọn đời được đi trên đường thánh đạo, cùng đạt tới cảnh giới đại giác, đại ngộ mới không phụ công của trời cao, của ân sư và toàn thể bạn đạo đã kỳ vọng ở nơi con.
Tế Phật: Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ. Liễu ngạn hoa minh hựu nhất thôn: Núi hết sông khô đường dứt tuyệt. Liễu bờ hoa thắm xóm bày ra. Thế đạo ngửa nghiêng càng giúp thầy trò ta có cơ hội trui rèn gặp khốn vẫn vui, được may tu thiện, nước ngược dùng thuyền vẫn có thể vượt nổi khó khăn, buông trôi theo dòng nước, bị nước cuốn phăng, biển khổ đắm chìm chẳng hay. Thánh Đức là khuôn phép phong hoa của Thánh Đạo, trách nhiệm nặng nề mà đường thì xa, nước chảy xuống thấp, người bò lên cao, đó là ý nghĩa của kinh sách đất trời. Nếu không phải là kẻ có đại căn duyên thì chắc chắn không thể trồng sen trong lửa nổi, bơi thuyền ngược dòng nước, hào quang thánh đức đã tỏa chiếu sang ngời hư không, thầy luôn luôn ở sát bên con, đem tinh thần can đảm vô biên hoàn thành công tác vì xã hội, vì nhân loại, nguyện hy sinh hiến dâng tất cả. Đề xướng đạo đức, hoằng dương từ thiện, đó là nhu cầu cấp thiết trước mắt của xã hội, thầy trò ta phải tận lực hoàn thành. Ánh hào quang đại đạo luôn soi chiếu cho chúng ta, chớ phụ lòng trông đợi của chúng sinh, đi đường thiện lành chúng ta phải kiên trì giữ vững chí đạo.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư đã ban lời chỉ bảo, con xin hứasẽ tuân hành nghiêm chỉnh, song thưa cùng ân sư, con phải sử dụng phương cách nào để phỏng vấn các loài động vật?
Tế Phật: Chúng ta không chỉ phỏng vấn bốn loài cầm thú như giống sinh con, giống đẻ trứng, giống sống dưới nước, giống chui trong đất, vì những loài mà của sách Luân Hồi Du Ký đề cập tới, hình dáng chúng tuy khác nhau, song tinh thần cũng giống như nguồn điện năng, có tác dụng gây ảnh hưởng giống như ánh sáng của đèn, cùng sự vận chuyển của máy móc. Vũ trụ vạn vật tuy có các loài động vật, thực vật,... song kỳ thực nguyên linh chúng đều bắt nguồn từ vô cực “nhất bản tán vạn thù” một gốc chia thành muôn cái khác. Nhưng nếu đào sâu cội rễ thì hẳn sẽ thấy đầu mối của nó là “nguyên linh” là “điện năng”. Chỉ tiếc rằng người đời tiêu phí năng lượng quá đỗi, khiến cho các sinh hoạt vượt ra khỏi chính đạo, nên ngày càng chạy theo vật dục xa hoa, tinh thần mòn mỏi, khiến cho vật chất hao tổn quá nhiều, cung không đủ cho cầu, nguy cơ thiếu hụt năng lượng ngày một đe dọa. Các khoa học gia chuyên nghiên cứu về năng lượng, hiện cũng đã lên tiếng hô hào tiết giảm sử dụng năng lượng, điều đó đã cho chúng ta thấy rõ rằng, nguyên linh năng lượng của nhân loại nếu như không tiết giảm sự tiêu xài hoang phí, cùng tu dưỡng bồi bổ thêm, cuối cùng sẽ bị vật dục hủ hóa, tâm trí nếu không điều tiết sẽ bị thương tổn, không thể sử dụng, tạo thành các chứng bệnh thần kinh điên khùng. Khoa học càng tiến bộ, thần kinh càng suy nhược, nên bệnh viện tâm trí ngày càng bành trướng. Do đó phải cứu vãn nguyên linh năng lượng của nhân loại đang trên đà suy giảm, để khôi phục tâm trí lành mạnh trở lại, vấn đề công quả hun đúc nhân tài cùng tu dưỡng tánh linh là một trong những việc làm cấp thiết của tôn giáo.
Trâu bò, gà vịt, cá tôm, giun dế cùng chim bay thú chạy... chúng đã mất đi hình thể con người, chúng chỉ có phần linh tính còn quan hệ với nhân loại, là bạn đường dài của nhân loại trong đời sống, như chó nghĩa, dê hiếu, trâu thành, gà đức, đã có những hành vi hy sinh hiến dâng cao cả đối với nhân loại,do đó có thể chứng minh là thân thể chúng tuy khác con người, song chúng cũng có linh tính, máu mủ và nước mắt. Chúng ta đứng ở lập trường loài người còn cầu hiểu biết rõ thêm thì hẳn loài vật tất nhiên chúng cũng dò tìm cứu cánh vậy, đó không phải là điều mê tín, chỉ mong mọi người cùng thừa nhận là loài vật cũng có linh tính, thì tự nhiên cuốn Luân Hồi Du Ký này có giá trị nghiên cứu vậy. Tiên Phật là những vị thuộc cõi linh thiêng tiên tri, tiên giác, lànhững bậc đại biểu cho linh tính tối cao, muốn tìm hiểu về sinh hoạt tính linh của loài vật rất dễ dàng như trở bàn tay. Động vật có nhiều chuyện lạ để bàn, do đó chúng rất hữu ích cho sự tìm hiểu. Kẻ tìm hiểu đời sống tinh thần của loài vật cũng giống như nhà khoa học dùng kính hiển vi để xem xét những hoạt động của các loài vi khuẩn. Cái nhìn của mắt thịt chúng sinh chỉ thấy nổi những hoạt động ngoại vi của cơ thể động vật, còn như sinh hoạt về tinh thần của chúng, nếu không phải là kẻ có được tính linh siêu phàm hoặc Tiên Phật có năng lực siêu giác thì chẳng thể hiểu nổi. Vì vậy sách Du Ký này có thể gọi là “sách ghi chép những điều quan sát được về sinh hoạt tinh thần của loài vật”. Đó là những sự quan sát đột phá của tôn giáo. Thời đại khoa học văn minh, phải tìm hiểu trạng huống sinh hoạt của một thế giới khác, các khoa học gia đã tạo vệ tinh, phi thuyền, các hành giả thuộc tôn giáo cũng phải dùng pháp nhãn, thông linh pháp để tìm hiểu chứng minh. Hành trình đi vào thế giới linh thiêng của tôn giáo, với mục đích nâng cao tính linh nhân loại để nhân tính khỏi bị đọa lạc xuống hàng thú tính, tiến thì nâng cao nhân tính thành Thần, Phật tính, khiến xã hội đại chúng giữ gìn được tâm bồ tát, tâm từ bi, mọi người cùng vui vẻ, cởi mở giúp đỡ lẫn nhau, không được lớn hiếp nhỏ, có như vậy mới mong thực hiện được thuyết thế giới đại đồng của đức Khổng Tử từng đề xướng. Kẻ nhân đức yêu cả muôn loài, kẻ thiện lành ân huệ trải khắp muôn nơi, bác ái, đại nhân, từ bi, hỷ xả phủ trùm nhân loại, như vậy há chẳng tạo thành nổi bức tranh “Muôn loài cùng ta là một” sao?
Dương Sinh: Thưa, lời dạy của ân sư vừa rồi rất chí lý. Đó quả là chân kinh diệu ngữ, sau khi chúng sinh nghe xong chắc chắn ơn ích sâu dày, giác ngộ lớn lao.
Tế Phật: Hành vi của người đời hiện nay thậm chí có kẻ thấp hèn hơn cả thú vật, nên bia miệng thế gian thường nói: “Y quan cầm thú” mũ áo súc sanh để hạ phẩm giá con người, xưng tụng chó ngựa trung nghĩa, sở dĩ ngày nay trời cao phổ độ, chân đạo giáng thế, không những độ nhân loại trở về vô cực mà còn độ nguyên linh các loài động vật đã lỡ đánh mất hình hài, vóc dáng người trở lại bản vị. Cho nên việc ban lệnh trước tác sách Luân Hồi Du Kí, một làđể cảnh cáo thế nhân, hai là để giác ngộ sinh linh hoàn thành sứ mệnh Tam Tào phổ độ. Hy vọng những lời nói của ta sẽ được chúng sinh thể ngộ, kẻ ác mau mau cải tà quy chính, để tội ác khỏi tràn đầy, luân lạc đầu thai làm loài khác, thì thật là may thay.
Dương Sinh: Tâm thánh nhân với muôn loài là một, Phật dạy từ bi, đức Khổng dạy tha thứ, đức Lão dạy thanh tịnh,đức Chúa dạy bác ái, đạo Hồi dạy trong sạch. Những điều dạy trên đều có ý khuyên không được ỷ mạnh hiếp yếu, phải giữ gìn tính trời ban không hoen ố để mọi người kính nể, đức hiếu sinh của trời cao tức là tinh thần nhân ái lớn rộng, chúng ta phải phát huy tinh thần đạo pháp đó.
Tế Phật: Trò ngoan nói rất đúng, vua Thành Thang đời nhà Thương xưa, cai trị thần dân, hàng năm nhiều lần dạo thăm, hỏi han dân, tìm hiểu rõ nguyên nhân khiến dân đau khổ, rồi thuyết pháp cải tiến. Một hôm giữa lúc gió mát trời êm, muôn chim đua hót, bầy thú nhởn nhơ thì vua Thang tới, ngài thấy bọn thợ săn mặt mày hớn hở, tay giăng lưới gài bẫy miệng lớn tiếng tuyên bố: “Kẻ từ trời xuống, kẻ từ đất lên, kẻ từ bốn phương tới, tất cả đều lọt vào lưới của ta, không một kẻ nào thoát nổi”. Vua Thang không đặng cầm lòng, bèn tiến tới tháo gỡ ba mặt lưới, chỉ để chừa một mặt, rồi ngài ban bố lời dạy bảo: “Muốn qua bên trái thì qua bên trái, muốn sang bên phải thì sang bên phải; muốn đi lên thì đi lên, muốn đi xuống thì đi xuống, còn nếu như không muốn sống thì mới chui vào lưới”. Thợ săn nghe xong rất là cảm động. Giai thoại lưới mở ba mặt cuối cùng loan truyền khắp thiên hạ. Người đời bây giờ, những kẻ lòng dạ ác độc tánh quen sát sinh cướp đoạt, thấy gương hiếu sinh này của vua Thang hẳn là cảm động. Người cùng động vật vốn là một, là loài có tính linh của vạn vật, đứng chung một vị trí thì cần phải bảo vệ lẫn nhau, các nhân sĩ giàu lòng từ ái ở nhiều nước trên thế giới, đã thành lập hiệp hội bảo vệ súc vật là cũng cùng một ý hướng vừa nêu trên vậy. Sở dĩ ta bày tỏ gan ruột bồ tát, cùng hướng dẫn Dương Sinh phỏng vấn các loài động vật là cốt để trình bày trạng huống sinh hoạt của các loài động vật, là có ý khuyến khích người đời nuôi dưỡng tâm từ bi, làm lành tránh dữ, đem thuyết luân hồi nhân quả bốn loài động vật ra chứng minh cho lời nói xác thực, mong chúng sinh chớ cho đó là điều mê tín.
HỒI MỘT
CHÚNG SINH VỐN DO MỘT KHÍ SINH RA
KIẾP TRƯỚC CHẲNG TU ĐỌA LẠC THÀNH LOÀI KHÁC
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 10 tháng 3 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Vạn vật tùy duyên ảo hóa hình
Quy căn vô cực phú nguyên linh
Thiên khai phổ độ tư cầm thú
Đoan chính y quan độc thánh kinh.
Trung Thổ nan sinh kim dĩ sinh
Chân kinh nan đắc hạnh trì minh
Tu tuần thiên lý tu thiên đạo
Miễn tác phi cầm dã thú minh.
Dịch
Vạn vật tùy duyên biến đổi hình
Cội nguồn vô cực giúp nguyên linh
Trời cao phổ độ sinh cầm thú
Áo mũ chỉnh tề đọc thánh kinh.
Đất tốt khó sinh giờ đã sinh
Chân kinh khó hiểu cũng may rành
Phải theo thiên lý tu thiên đạo
Tránh kiếp chim muông kêu hót rinh.
Tế Phật: Ha ha, viết xong hai cuốn Thiên Đàng, Địa Ngục Du Ký ta cùng Dương Sinh tưởng rằng đã hoàn tất xong được công việc lớn lao, thật quả là không phụ sứ mệnh trời cao giao phó, cũng chính nhờ cung cấp được món ăn tinh thần vô cùng quý báu cho loài người trên mặt đất, và mở rộng cánh cửa thần bí thiên đàng địa ngục, nên hiện nay thấy mọi người đều lo lắng chăm chỉ tu hành. Hai nẻo thiên đàng, địa ngục hiển hiện rõ ràng trước mắt, muốn lựa ngả nào cũng dễ cả. Ta đã lao tâm khổ trí, hết lòng nhân nghĩa, hy vọng chúng sinh thể ngộ được ý nghĩa siêu diệu nơi hai cuốn sách quý báu này, để trở thành người lương thiện. Thiết nghĩ ta nói nhiều để rồi cuối cùng được gì? Vẫn không hoàn không, chỉ có hai ống tay áo nong đầy gió. Bữa nay lạc tới Thánh Đức Đường, ha ha! Quả là trời ban lệnh mới, ta lại hướng dẫn thánh bút Dương Sinh cưỡi đài sen vân du, viết sách, bộ Luân Hồi Du Ký trình bày sự thanh khiết của vật thực.
Vì hải sản, sơn sản, đặc sản mà mọi người thường ăn, tưởng là ăn đồ tinh khiết, thực ra tuy nó thích hợp với khẩu vị nhiều người, song chính con người vào nẻo luân hồi súc sinh. Chúng sinh vì mải ham thưởng thức vị ngon của thịt cá, nên đã không nghe thấy tiếng rên la đau đớn của các linh hồn súc sinh khi thân xác bị con người đem ra làm thịt, vì chúng sinh chỉ mới uống máu mà chưa uống linh hồn loài vật. Ta nay hướng dẫn Dương Sinh phỏng vấn các loài động vật như chim bay, thú chạy, cá lội... Trong khoảng trời đất để hiểu rõ trạng huống sinh hoạt của chúng, để người đời mở rộng tầm mắt, cùng gia tăng sự hòa hợp đối với tính linh các loài động vật, để thấu tỏ sâu thêm về thế giới vô hình, huyền bí cũng như thế giới khoa học mới ngày nay. Muôn loài đều có linh hồn và sự sống, đó là sự thực không thể phủ nhận, còn Dương Sinh con nghĩ sao?
Dương Sinh: Thưa, từ năm năm nay con được may mắn học đạo ân sư, tính linh con ngày một giác ngộ sâu thêm,và cũng chính nhờ vậy con mới có thể hoàn thành hai cuốn quý Địa Ngục và Thiên Đàng Du Ký để dâng nộp đức Thiên Tôn. Tuy trải qua nhiều gian lao khổ cực song con rất đỗi vui mừng khi thấy hai bộ sách được ấn tống phổ biến khắp thế giới, nên những nỗi nhọc nhằn trước kia giờ đây đều nguôi ngoai, từ nay về sau kính mong ân sư tận tình chỉ giáo cùng giúp đỡ con trên nẻo đường học đạo, con xin ghi nhớ mãi công đức của ân sư. Bữa nay lòng con vô cùng sung sướng vì lại được trời cao đoái tưởng ban lệnh mới, tiếp tục hoàn thành sứ mệnh cứu độ chúng sinh, sang giai đoạn mới nhờ nhiều thì giờ, con nguyện phản tỉnh và gắng gỏi nhiều hơn. Con xin cảm tạ ơn trên đã phù hộ, cùng ân sư ngày đêm khuyến khích, con cầu xin trọn đời được đi trên đường thánh đạo, cùng đạt tới cảnh giới đại giác, đại ngộ mới không phụ công của trời cao, của ân sư và toàn thể bạn đạo đã kỳ vọng ở nơi con.
Tế Phật: Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ. Liễu ngạn hoa minh hựu nhất thôn: Núi hết sông khô đường dứt tuyệt. Liễu bờ hoa thắm xóm bày ra. Thế đạo ngửa nghiêng càng giúp thầy trò ta có cơ hội trui rèn gặp khốn vẫn vui, được may tu thiện, nước ngược dùng thuyền vẫn có thể vượt nổi khó khăn, buông trôi theo dòng nước, bị nước cuốn phăng, biển khổ đắm chìm chẳng hay. Thánh Đức là khuôn phép phong hoa của Thánh Đạo, trách nhiệm nặng nề mà đường thì xa, nước chảy xuống thấp, người bò lên cao, đó là ý nghĩa của kinh sách đất trời. Nếu không phải là kẻ có đại căn duyên thì chắc chắn không thể trồng sen trong lửa nổi, bơi thuyền ngược dòng nước, hào quang thánh đức đã tỏa chiếu sang ngời hư không, thầy luôn luôn ở sát bên con, đem tinh thần can đảm vô biên hoàn thành công tác vì xã hội, vì nhân loại, nguyện hy sinh hiến dâng tất cả. Đề xướng đạo đức, hoằng dương từ thiện, đó là nhu cầu cấp thiết trước mắt của xã hội, thầy trò ta phải tận lực hoàn thành. Ánh hào quang đại đạo luôn soi chiếu cho chúng ta, chớ phụ lòng trông đợi của chúng sinh, đi đường thiện lành chúng ta phải kiên trì giữ vững chí đạo.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư đã ban lời chỉ bảo, con xin hứasẽ tuân hành nghiêm chỉnh, song thưa cùng ân sư, con phải sử dụng phương cách nào để phỏng vấn các loài động vật?
Tế Phật: Chúng ta không chỉ phỏng vấn bốn loài cầm thú như giống sinh con, giống đẻ trứng, giống sống dưới nước, giống chui trong đất, vì những loài mà của sách Luân Hồi Du Ký đề cập tới, hình dáng chúng tuy khác nhau, song tinh thần cũng giống như nguồn điện năng, có tác dụng gây ảnh hưởng giống như ánh sáng của đèn, cùng sự vận chuyển của máy móc. Vũ trụ vạn vật tuy có các loài động vật, thực vật,... song kỳ thực nguyên linh chúng đều bắt nguồn từ vô cực “nhất bản tán vạn thù” một gốc chia thành muôn cái khác. Nhưng nếu đào sâu cội rễ thì hẳn sẽ thấy đầu mối của nó là “nguyên linh” là “điện năng”. Chỉ tiếc rằng người đời tiêu phí năng lượng quá đỗi, khiến cho các sinh hoạt vượt ra khỏi chính đạo, nên ngày càng chạy theo vật dục xa hoa, tinh thần mòn mỏi, khiến cho vật chất hao tổn quá nhiều, cung không đủ cho cầu, nguy cơ thiếu hụt năng lượng ngày một đe dọa. Các khoa học gia chuyên nghiên cứu về năng lượng, hiện cũng đã lên tiếng hô hào tiết giảm sử dụng năng lượng, điều đó đã cho chúng ta thấy rõ rằng, nguyên linh năng lượng của nhân loại nếu như không tiết giảm sự tiêu xài hoang phí, cùng tu dưỡng bồi bổ thêm, cuối cùng sẽ bị vật dục hủ hóa, tâm trí nếu không điều tiết sẽ bị thương tổn, không thể sử dụng, tạo thành các chứng bệnh thần kinh điên khùng. Khoa học càng tiến bộ, thần kinh càng suy nhược, nên bệnh viện tâm trí ngày càng bành trướng. Do đó phải cứu vãn nguyên linh năng lượng của nhân loại đang trên đà suy giảm, để khôi phục tâm trí lành mạnh trở lại, vấn đề công quả hun đúc nhân tài cùng tu dưỡng tánh linh là một trong những việc làm cấp thiết của tôn giáo.
Trâu bò, gà vịt, cá tôm, giun dế cùng chim bay thú chạy... chúng đã mất đi hình thể con người, chúng chỉ có phần linh tính còn quan hệ với nhân loại, là bạn đường dài của nhân loại trong đời sống, như chó nghĩa, dê hiếu, trâu thành, gà đức, đã có những hành vi hy sinh hiến dâng cao cả đối với nhân loại,do đó có thể chứng minh là thân thể chúng tuy khác con người, song chúng cũng có linh tính, máu mủ và nước mắt. Chúng ta đứng ở lập trường loài người còn cầu hiểu biết rõ thêm thì hẳn loài vật tất nhiên chúng cũng dò tìm cứu cánh vậy, đó không phải là điều mê tín, chỉ mong mọi người cùng thừa nhận là loài vật cũng có linh tính, thì tự nhiên cuốn Luân Hồi Du Ký này có giá trị nghiên cứu vậy. Tiên Phật là những vị thuộc cõi linh thiêng tiên tri, tiên giác, lànhững bậc đại biểu cho linh tính tối cao, muốn tìm hiểu về sinh hoạt tính linh của loài vật rất dễ dàng như trở bàn tay. Động vật có nhiều chuyện lạ để bàn, do đó chúng rất hữu ích cho sự tìm hiểu. Kẻ tìm hiểu đời sống tinh thần của loài vật cũng giống như nhà khoa học dùng kính hiển vi để xem xét những hoạt động của các loài vi khuẩn. Cái nhìn của mắt thịt chúng sinh chỉ thấy nổi những hoạt động ngoại vi của cơ thể động vật, còn như sinh hoạt về tinh thần của chúng, nếu không phải là kẻ có được tính linh siêu phàm hoặc Tiên Phật có năng lực siêu giác thì chẳng thể hiểu nổi. Vì vậy sách Du Ký này có thể gọi là “sách ghi chép những điều quan sát được về sinh hoạt tinh thần của loài vật”. Đó là những sự quan sát đột phá của tôn giáo. Thời đại khoa học văn minh, phải tìm hiểu trạng huống sinh hoạt của một thế giới khác, các khoa học gia đã tạo vệ tinh, phi thuyền, các hành giả thuộc tôn giáo cũng phải dùng pháp nhãn, thông linh pháp để tìm hiểu chứng minh. Hành trình đi vào thế giới linh thiêng của tôn giáo, với mục đích nâng cao tính linh nhân loại để nhân tính khỏi bị đọa lạc xuống hàng thú tính, tiến thì nâng cao nhân tính thành Thần, Phật tính, khiến xã hội đại chúng giữ gìn được tâm bồ tát, tâm từ bi, mọi người cùng vui vẻ, cởi mở giúp đỡ lẫn nhau, không được lớn hiếp nhỏ, có như vậy mới mong thực hiện được thuyết thế giới đại đồng của đức Khổng Tử từng đề xướng. Kẻ nhân đức yêu cả muôn loài, kẻ thiện lành ân huệ trải khắp muôn nơi, bác ái, đại nhân, từ bi, hỷ xả phủ trùm nhân loại, như vậy há chẳng tạo thành nổi bức tranh “Muôn loài cùng ta là một” sao?
Dương Sinh: Thưa, lời dạy của ân sư vừa rồi rất chí lý. Đó quả là chân kinh diệu ngữ, sau khi chúng sinh nghe xong chắc chắn ơn ích sâu dày, giác ngộ lớn lao.
Tế Phật: Hành vi của người đời hiện nay thậm chí có kẻ thấp hèn hơn cả thú vật, nên bia miệng thế gian thường nói: “Y quan cầm thú” mũ áo súc sanh để hạ phẩm giá con người, xưng tụng chó ngựa trung nghĩa, sở dĩ ngày nay trời cao phổ độ, chân đạo giáng thế, không những độ nhân loại trở về vô cực mà còn độ nguyên linh các loài động vật đã lỡ đánh mất hình hài, vóc dáng người trở lại bản vị. Cho nên việc ban lệnh trước tác sách Luân Hồi Du Kí, một làđể cảnh cáo thế nhân, hai là để giác ngộ sinh linh hoàn thành sứ mệnh Tam Tào phổ độ. Hy vọng những lời nói của ta sẽ được chúng sinh thể ngộ, kẻ ác mau mau cải tà quy chính, để tội ác khỏi tràn đầy, luân lạc đầu thai làm loài khác, thì thật là may thay.
Dương Sinh: Tâm thánh nhân với muôn loài là một, Phật dạy từ bi, đức Khổng dạy tha thứ, đức Lão dạy thanh tịnh,đức Chúa dạy bác ái, đạo Hồi dạy trong sạch. Những điều dạy trên đều có ý khuyên không được ỷ mạnh hiếp yếu, phải giữ gìn tính trời ban không hoen ố để mọi người kính nể, đức hiếu sinh của trời cao tức là tinh thần nhân ái lớn rộng, chúng ta phải phát huy tinh thần đạo pháp đó.
Tế Phật: Trò ngoan nói rất đúng, vua Thành Thang đời nhà Thương xưa, cai trị thần dân, hàng năm nhiều lần dạo thăm, hỏi han dân, tìm hiểu rõ nguyên nhân khiến dân đau khổ, rồi thuyết pháp cải tiến. Một hôm giữa lúc gió mát trời êm, muôn chim đua hót, bầy thú nhởn nhơ thì vua Thang tới, ngài thấy bọn thợ săn mặt mày hớn hở, tay giăng lưới gài bẫy miệng lớn tiếng tuyên bố: “Kẻ từ trời xuống, kẻ từ đất lên, kẻ từ bốn phương tới, tất cả đều lọt vào lưới của ta, không một kẻ nào thoát nổi”. Vua Thang không đặng cầm lòng, bèn tiến tới tháo gỡ ba mặt lưới, chỉ để chừa một mặt, rồi ngài ban bố lời dạy bảo: “Muốn qua bên trái thì qua bên trái, muốn sang bên phải thì sang bên phải; muốn đi lên thì đi lên, muốn đi xuống thì đi xuống, còn nếu như không muốn sống thì mới chui vào lưới”. Thợ săn nghe xong rất là cảm động. Giai thoại lưới mở ba mặt cuối cùng loan truyền khắp thiên hạ. Người đời bây giờ, những kẻ lòng dạ ác độc tánh quen sát sinh cướp đoạt, thấy gương hiếu sinh này của vua Thang hẳn là cảm động. Người cùng động vật vốn là một, là loài có tính linh của vạn vật, đứng chung một vị trí thì cần phải bảo vệ lẫn nhau, các nhân sĩ giàu lòng từ ái ở nhiều nước trên thế giới, đã thành lập hiệp hội bảo vệ súc vật là cũng cùng một ý hướng vừa nêu trên vậy. Sở dĩ ta bày tỏ gan ruột bồ tát, cùng hướng dẫn Dương Sinh phỏng vấn các loài động vật là cốt để trình bày trạng huống sinh hoạt của các loài động vật, là có ý khuyến khích người đời nuôi dưỡng tâm từ bi, làm lành tránh dữ, đem thuyết luân hồi nhân quả bốn loài động vật ra chứng minh cho lời nói xác thực, mong chúng sinh chớ cho đó là điều mê tín.
#9
Gửi vào 04/09/2011 - 08:07
LUÂN HỒI DU KÝ
HỒI HAI
CHÓ MỰC BUỒN RẦU GIẬN MÌNH TỰ TẠO ÁC NGHIỆP
GIA SÚC ĐAU KHỔ HẬN KIẾP TRƯỚC HOÀNH HÀNH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 11 tháng 2 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Giới sát phóng sinh thọ mệnh diên
Từ bi dưỡng tính khả thành tiên
Tam san ngư nhục tuy giai vị
Tố thái thanh tâm cánh khiết tiên.
Súc sinh tu đạo hữu công phu
Nhẫn khổ tùy duyên bách niệm vô
Hoàn trái báo ân tam thế nghiệp
Ty hào nhân quả biệt hiền ngu.
Dịch
Giới sát phóng sinh sống vạn niên
Từ bi dưỡng tính để thành tiên
Miếng ăn cá thịt tuy ngon miệng
Song kém rau tươi giữ sạch tâm.
Súc sanh tu đạo phải gia công
Nhẫn nhục tùy duyên vạn niệm không
Trả nợ đền ơn ba kiếp trước
Tóc tơ nhân quả ứng muôn lòng.
Tế Phật: Loài vật tuy không còn mang xác thân của người, song tính linh của chúng với người là một, cùng sống chung trong thế giới này, chỉ vì kiếp trước nghiệpquá nặng, chôn vùi mất “nhân cách” nên đời này mới biến hóa dưới một hình dáng khác, để xuất hiện ở cõi trần, phàm những ai mở huệ nhãn, hay những bậc đạo sĩ tâm từ bi, đều không nhẫn tâm sát hại sinh linh. Kinh Phật nói: “xuẩn động hàm linh” có ngọ nguậy là có nguyên linh, hẳn đã xác định vật gì có rung động bên ngoài chắc chắn bên trong có tính linh. Quan sát kẻ hấp hối, khi điểm thánh linh ly khai nhục thể thì kẻ đó không còn năng lực, chẳng thể sinh động trở lại được nữa. Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh dạo cõi trần gian, phỏng vấn nguyên linh các loài động vật, để nghe chúng thổ lộ tâm sự hầu giúp người đời thấu tỏ. Dương Sinh hãy chuẩn bị lên đường.
Dương Sinh: Lên thiên đàng, xuống địa ngục đều cỡi đài hoa sen, còn bữa nay dạo cõi trần gian, chẳng rõ sẽ sử dụng phương tiện giao thông nào?
Tế Phật: Đài sen đã bay trên không, lội dưới nước, hiện tại lại có thể lướt trên mặt đất, tuy nhiên tro bụi mờ mịt, song cũng không thương tổn nhiều, vì hoa sen vốn mọc trong bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Dương Sinh: Thưa, ân sư dạy rất đúng, không có nước mà hoa sen vẫn mọc thì hoa sen đó mới đích thực là hoa sen lạ.
Tế Phật: Đúng vậy, không có nước mà hoa sen vẫn mọc, là vì có mưa pháp cam lồ thấm nhuần, hãy coi thầy hóa phép cho mưa pháp cam lồ đổ xuống.
Dương Sinh: Đột nhiên mưa pháp từ trời rơi xuống tẩy rửa hoa sen trong sạch, sức sống nẩy nở mạnh mẽ, lại còn giống như đang mỉm cười. Thưa ân sư, đường đi ngập bùn lầy, đầy ổ gà cùng bụi nhơ, làm sao vượt qua nổi?
Tế Phật: Ha ha, hoa sen vốn sinh ra trong chốn bùn nhơ, những vũng lầy đó há chẳng phải là ao sen nhơ sao? Con hãy coi mỗi đoạn đường là một hố sen, những kẻ cao thượng khi gặp trời mưa đều không chạy trốn, mà ngồi lại nghỉ ngơi, có chăng chỉ một số nông phu vì bảo vệ hoa màu, phải mặc áo mưa lội xuống đồng ruộng canh tác. Tiên Phật cũng giống như nhà nông, chuyên đi trên đường lầy lội, thay thế chúng sinh giải trừ khổ nạn, nguy hiểm, bệnh tật, phiền não, khi gặp nguy khốn, các ngài quyết tâm xông tới chứng tỏ tinh thần Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, dầu phí sức cùng không được người ưa, song sẽ được bề trên ban phước. Hoa sen cũng do Tiên Phật hóa thân, hàng ngày chìm đắm trong chốn hồng trần khổ hải để cứu độ chúng sinh. Đường đạo gập ghềnh khó đi là để khảo nghiệm ý chí người tu đạo nếu như gặp hoạn nạn khốn khổ mà không nản chí vẫn dũng mãnh tiến tới, đạp đổ mọi trở ngại, cuối cùng mới đạt đạo quả vô lượng, vô cực. Thôi Dương Sinh hãy lên đài sen, chúng ta bắt đầu khởi hành.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, kính mời ân sư lên đường ,được ngồi cùng ân sư trên đài sen, lòng nhẹ nhàng vô kể. Cảnh trí ban đêm rất là thích hợp, đèn mọi nhà đều thắp sáng nơi nơi, nhà cửa thấp thoáng ẩn hiện, sứ mệnh mới, đường đi mới, vì cứu độ chúng sinh khuyến hóa bến mê, thần và người phục tòng mệnh lệnh, không dám bê trễ,gây nỗi khổ tâm cho ân sư.
Tế Phật: Chúng sinh phải tâm tâm niệm niệm, vì ai khổ cực vì ai nhọc nhằn? Và lòng ta tràn trề cảm xúc, nên đặc biệt làm một bài ca để khuyên đời: “Có người hy sinh cả tinh thần lẫn vật chất, phúc chẳng hưởng, ngày đêm miệt mài đề cao đạo đức, khiến mọi người xúc động, làm ta cũng mủi lòng. Hạnh phúc của chúng sinh không hai mặt, chúng ta phải cùng nhau đáp thuyền từ, tỏ rõ đạo tâm cùng lẽ trời, mau mau tu thân hướng thượng, chớ khoe khoang ầm ĩ, đừng phô trương ồn ào, nên làm việc nghĩa để chứng tỏ là tay hảo hán, để khỏi thẹn với Tiên Phật cùng trời xanh. Cởi bỏ lớp áo tư dục, xé toang màn lưới mây mờ bao phủ, đồng tâm hiệp lực hỗ trợ Thánh Đức Đường. Ngồi đàn cơ tả văn chương, viết sách khuyên đời, dắt chúng sinh lên thuyền pháp. Người an khang ta hân hoan, hạnh phúc, sung sướng muôn đời.
Dương Sinh: Lời dạy của ân sư thật là chí lý, trò ngu nghe xong thật là xúc động.
Tế Phật: Chúng ta đã tới nơi mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa ân sư đây là đâu?
Tế Phật: Đây thuộc vùng ngoại ô Cao Hùng.
Dương Sinh: Tối nay tới gõ cửa nhà, người chủ nhân hiện còn thức, đang ngồi coi truyền hình tại phòng khách, ân sưvà con tới đây không hiểu có làm phiền họ không?
Tế Phật: Chúng ta tới bằng linh thể chớ không phải bằng xác phàm nên họ không thấy, con khỏi bận tâm, hiện con thấy những gì?
Dương Sinh: Con thấy con chó mực gần cửa, thưa ân sư có đúng như vậy không? Bên cạnh hình như có một người đàn ông nữa? Nhìn thấy thật là sợ hãi quá.
Tế Phật: Chớ có sợ, người đó chính là con vừa nhìn thấy nguyên linh của chó, bởi vì con dùng linh nhãn nhìn nó, do đó mới nhìn thấy nhân ảnh, song không thực rõ ràng vì nhục thể của con còn tồn tại, nên linh thể bị trở ngại, thầy sẽ khai quang điểm nhãn để giúp hai mắt con nhìn rõ nguyên linh súc vật, hầu được tự do đàm đạo với chúng.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư.
Tế Phật: “Mắt trái mặt trời, mắt phải mặt trăng, mặt trời mặt trăng đối chiếu nhìn thấu vạn vật không gì có thể che giấu, khai quang điểm nhãn chướng ngại không còn, nhìn rõ tất cả, Úm Ma Ni Bát Di Hồng”.
Dương Sinh: Ân sư Phật pháp vô biên, niệm xong câu thần chú, quả nhiên cảnh vật trước mắt con hoàn toàn biến đổi, con chó mực nằm yên không nhúc nhích khi nãy đã hiện rõ hình người, lại còn phủ phục dưới đất là tại cớ sao?
Tế Phật: Vì phạm tội nên không cất đầu nổi, nằm phủ phục dưới đất là nghĩa ôm đầy bùn đất dơ bẩn. Chân người đi trên đất, mặc dầu có mang dày dép song một ngày không rửa, mùi hôi bốc lên cũng còn khó ngửi, kẻ này kiếp trước đôi chân đen đúa, hôi hám đã không biết giữ gìn lại còn để đôi chân bị nhúng chàm. Do đó kiếp này phải đầu thai làm kiếp chó, bốn chân đi trên đất, thế là cả tứ chi đều đi trên đất bẩn, đầu cúi gầm sám hối. Lưng chầu trời là vì kiếp trước phản trời nên không thể đi đứng bằng hai chân, vô phương làm giống người, như vậy đáng thương hay không đáng thương? Hãy quan sát những kẻ phạm tội ngoài xã hội lúc bị các ký giả chụp hình đều cúi đầu giấu mặt chẳng dám ngó ai. Lúc bị còng tay dẫn đi thử hỏi dáng vẻ khi đó ra sao? Ha ha, ta từ bi chẳng thể tưởng tượng nhiều để khỏi đụng chạm lòng tự tôn của ngươi. Vả lại người ta cũng chỉ tạm thời không cẩn trọng, nếu trượt chân vấp ngã, nên tha thứ cho họ, có như vậy mới gọi được là người xuất gia, tích âm đức.
Dương Sinh: Nhìn dáng dấp người đó rất đáng thương, xin ân sư cho họ đứng lên để họ thoát khỏi nạn lớn.
Tế Phật: Được, thầy sẽ điểm hóa cho họ, người đó kiếp trước kêu là “Vân Sinh” chỉ vì không chịu cố gắng làm người lương thiện, ngày nay mới phải đọa đày như vậy. “Ta là Phật Sống Tế Công vì người điểm hóa... đã tỉnh ngộ chưa? Vân Sinh, ngươi có thể đứng dậy được rồi”.
Vân Sinh: Than ôi! Xương sống của con đã bị liệt, co duỗi chẳng được nên không đứng nổi, kính xin đức Phật Sống Tế Công giải cứu.
Tế Phật: Bữa nay nhà ngươi có phước, ta phụng chỉ hướng dẫn Dương Sinh tới đây phỏng vấn, hãy mau thuật lại những điều lầm lỗi đã phạm phải kiếp trước, khiến ngày nay nên nông nỗi này, để khuyên người đời tránh dẫm phải vết chân ngươi, có làm như vậy ngươi mới có thể tạo công chuộc lỗi, sớm có ngày thoát thai hoán cốt trở lại làm kiếp người.
Vân Sinh: Thưa vâng, nhưng kính xin đức Phật Sống giúp con co duỗi xương sống, còn không khi con cử động đứng dậy vô cùng khó khăn khổ sở.
Tế Phật: Được, để ta hoán cốt cho ngươi, ta sẽ đổi cốt thú của ngươi thành cốt người, để ngươi có thể đi đứng dễ dàng.
Vân Sinh: Con xin kính lạy ngài vạn lạy.
Tế Phật: Ngươi phải kiên nhẫn chịu đau đớn, lúc đổi xương không bóp rượu thuốc, vết thương mới chóng lành. Ta bắt đầu ra tay...
Vân Sinh: Ối cha đau! Con chết mất, hãy mau hoán cốt cho con vì toàn thân con hầu như tê liệt.
Tế Phật: Quả là xương thiếu khí, ta đổi cho ngươi bộ xương nhân tạo, hiện tại có thể đứng. Hầu hết xương người sinh thời nay đều xấu, vì trong xương chứa đầy tà khí, gặp lúc thời tiết không mưa thuận gió hòa rất đau nhức, đó cũng là hình phạt vậy.
Vân Sinh: Con xin đa tạ đức Phật Sống đã hoán cốt cho con, hiện thời con có thể đứng vững nổi, song lưng con vẫn còn nhức nhối, thưa con có thể dùng thêm thuốc “thống tiêu viêm” để cho bớt đau đớn, nhức nhối không?
Tế Phật: Không được dùng thuốc, ta dùng quạt Bồ quạt mấy cái tự nhiên tiêu hàn, tiêu nhiệt hết đau ngay. “Ha ha, quạt Bồ sinh gió mát, đã hết đau lại hết cả sưng... không đau không nhức như vậy đó”.
Vân Sinh: Cảm tạ đức Phật Sống, quả nhiên toàn thân con khoan khoái giống hệt kiếp trước được làm người vậy.
Dương Sinh: Cớ sao nhà ngươi lại bị đày đọa ở chốn này?
Vân Sinh: Nói ra càng thêm mắc cở, thà chẳng nói còn hơn.
Dương Sinh: Ngươi chớ có e ngại, đức ân sư Phật Sống đã giải thoát cho ngươi, hãy mau đem những việc làm kiếp trước thuật rõ lại để làm gương cho người đời thì hẳn là công đức vô lượng.
Vân Sinh: Thưa, nếu được như vậy tôi xin kể đoạn đời đã khiến tôi đọa lạc đầu thai làm kiếp chó để người đời được rõ, hầu tránh khỏi những lầm lỗi mà tôi đã phạm phải. Kiếp trước tôi là kẻ bất lương, chuyên cầm đầu du đãng, mượn tiếng bảo vệ an ninh rồi bắt các chủ phòng trà, khiêu vũ trường cùng động mãi dâm nộp tiền. Vì vậy tôi đã trở thành tay đàng điếm ham mê tửu sắc, đôi khi vì quá tham tiền tôi lại cả gan dụ dỗ, uy hiếp cả con gái nhà lành bán minh. Trong thời gian này có một nàng bán phấn, buôn hương tên là Tú Liên tức sen đẹp, ban đầu tôi cướp đoạt tiết trinh rồi sau đó lập kế bán nàng cho làm kiếp gái giang hồ. Nàng đã tin tưởng trao thân gởi phận cho tôi, song tôi lại coi nàng như một thứ đồ chơi. Nàng đã dại dột tin vào sự giả vờ yêu thương của tôi nên suốt năm sáu năm trời bán thịt lấy tiền để cho tôi cờ bạc, tiêu xài, đồng tiền máu xương của nàng bị tôi hoang phí, một sớm nhan sắc tàn phai, tôi không còn lợi dụng được nữa thì liền bị tôi vắt chanh bỏ vỏ, để rồi tôi lại dễ dàng tiếp tục thủ đoạn yêu quái đó với những thiếu nữ khác đồng cảnh ngộ.
Một đời sở khanh tôi kiếm chác được quá nhiều tiền tài nhan sắc, hại con gái đàn bà cùng phá hoại gia cang nhà người không ít. Tú Liên tức sen đẹp bị lừa gạt như vậy thì làm sao sống nổi, còn tôi cuối cùng vì mắc bệnh hoa liễu, không thuốc nào chữa khỏi cuối cùng đành chịu chết. Sau phút lìa đời tôi bị quỷ sứ hắc bạch vô thường áp giải xuống âm phủ, Diêm Vương xử án đã phán quyết hình phạt nặng nề, sau khi bị hành hạ khắp các cửa ngục, cuối cùng tôi bị giải qua thập điện Minh Vương, ở đây tôi bị kết án đầu thai làm kiếp chó nhân gian. Vì trần gian là chốn tôi đã làm lắm điều ác độc, nên phải trở lại đền tội, suốt đời chịu khổ sở để tự sửa mình. Tôi đã bị chuyển kiếp làm chó hai lần, kiếp này đầu thai làm chó nhà họ Trần, quả là lâm vào cảnh tuyệt mệnh, vì gia đình này rất nghèo khổ dơ dáy, họ đổ lên mình tôi biết bao thứ hôi thối. Bị con cái họ đánh đập, mỗi khi bước vào trong nhà liền bị đuổi ra, tôi phải ở ngoài giữ cửa, cùng dọn phân trẻ, ăn đồ dơ chẳng thú vị gì mà cũng phải cố gắng nuốt, không ăn còn phải chịu khổ sở hơn nhiều. Lần đầu bị chuyển kiếp làm chó khi bị ông già làm thịt quả là rùng rợn, chày gỗ đập đầu, nước sôi xối mình, dao sắc mổ xẻ, băm vằm nồi nóng xào chiên, hầm nấu với cái tên “hương nhục” thịt thơm, tôi hiện thời lòng dạ đau đớn.
Song tội tôi quá nặng không biết có biện pháp nào giải quyết được chăng? Mong người đời chớ phạm vào lỗi lầm như tôi đã mắc phải, vì phản bội lại lẽ trời thì chắc chắn sẽ bị đày ải khổ đau. Phải nhớ rằng hành động ác báo không rõ tôi ngày nào mới được đầu thai làm kiếp người? Nếu như được chuyển kiếp mang xác người, tôi nguyện làm kẻ đầu đội trời chân đạp đất, đường đường chính chính không dám có hành động vô lương, bất nghĩa. Kiếp trước vì cố ý làm cho phụ nữ thịt đổ máu rơi khiến kiếp này tôi gặp nạn lớn, bị người làm thịt vì người đời thích ăn thịt thơm, cho rằng rất bổ dưỡng. Kiếp trước tôi cũng chăm lo tẩm bổ cho mình, nên ngày nay làm vật bổ béo cho người, quả là hết đường than oán.
Dương Sinh: Thưa ân sư hắn đã ăn năn hối cải xin ân sư cứu độ dùm.
Tế Phật: Ta đã hoán cốt cho nhà ngươi rồi, đợi tới ngày tận số, lúc tới Minh Phủ tự nhiên thoát thai, ngươi cứ kiê nnhẫn trả sạch nợ kiếp này, lo tu công đức cùng đợi kiếp tới. Người đời thấy cảnh này, hẳn đã tỉnh ngộ, vì tiền bạc của cải lường gạt, cướp bóc của người đều là của mượn, chẳng phải là của lương thiện thì ắt có ngày phải hoàn trả. Một sợi tơ, sợi tóc cũng không thiếu nổi. Tự nhiên kẻ thật thà chất phác muốn uống gió tây bắc, người xưa nói: “Thiên tài với rồ dại giống nhau”, hại người là họa, cứu người là phước, câu danh ngôn này thật chí lý, người đời nên lấy đó làm gương. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Thưa con đã sẵn sàng, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI HAI
CHÓ MỰC BUỒN RẦU GIẬN MÌNH TỰ TẠO ÁC NGHIỆP
GIA SÚC ĐAU KHỔ HẬN KIẾP TRƯỚC HOÀNH HÀNH
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 11 tháng 2 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Giới sát phóng sinh thọ mệnh diên
Từ bi dưỡng tính khả thành tiên
Tam san ngư nhục tuy giai vị
Tố thái thanh tâm cánh khiết tiên.
Súc sinh tu đạo hữu công phu
Nhẫn khổ tùy duyên bách niệm vô
Hoàn trái báo ân tam thế nghiệp
Ty hào nhân quả biệt hiền ngu.
Dịch
Giới sát phóng sinh sống vạn niên
Từ bi dưỡng tính để thành tiên
Miếng ăn cá thịt tuy ngon miệng
Song kém rau tươi giữ sạch tâm.
Súc sanh tu đạo phải gia công
Nhẫn nhục tùy duyên vạn niệm không
Trả nợ đền ơn ba kiếp trước
Tóc tơ nhân quả ứng muôn lòng.
Tế Phật: Loài vật tuy không còn mang xác thân của người, song tính linh của chúng với người là một, cùng sống chung trong thế giới này, chỉ vì kiếp trước nghiệpquá nặng, chôn vùi mất “nhân cách” nên đời này mới biến hóa dưới một hình dáng khác, để xuất hiện ở cõi trần, phàm những ai mở huệ nhãn, hay những bậc đạo sĩ tâm từ bi, đều không nhẫn tâm sát hại sinh linh. Kinh Phật nói: “xuẩn động hàm linh” có ngọ nguậy là có nguyên linh, hẳn đã xác định vật gì có rung động bên ngoài chắc chắn bên trong có tính linh. Quan sát kẻ hấp hối, khi điểm thánh linh ly khai nhục thể thì kẻ đó không còn năng lực, chẳng thể sinh động trở lại được nữa. Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh dạo cõi trần gian, phỏng vấn nguyên linh các loài động vật, để nghe chúng thổ lộ tâm sự hầu giúp người đời thấu tỏ. Dương Sinh hãy chuẩn bị lên đường.
Dương Sinh: Lên thiên đàng, xuống địa ngục đều cỡi đài hoa sen, còn bữa nay dạo cõi trần gian, chẳng rõ sẽ sử dụng phương tiện giao thông nào?
Tế Phật: Đài sen đã bay trên không, lội dưới nước, hiện tại lại có thể lướt trên mặt đất, tuy nhiên tro bụi mờ mịt, song cũng không thương tổn nhiều, vì hoa sen vốn mọc trong bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Dương Sinh: Thưa, ân sư dạy rất đúng, không có nước mà hoa sen vẫn mọc thì hoa sen đó mới đích thực là hoa sen lạ.
Tế Phật: Đúng vậy, không có nước mà hoa sen vẫn mọc, là vì có mưa pháp cam lồ thấm nhuần, hãy coi thầy hóa phép cho mưa pháp cam lồ đổ xuống.
Dương Sinh: Đột nhiên mưa pháp từ trời rơi xuống tẩy rửa hoa sen trong sạch, sức sống nẩy nở mạnh mẽ, lại còn giống như đang mỉm cười. Thưa ân sư, đường đi ngập bùn lầy, đầy ổ gà cùng bụi nhơ, làm sao vượt qua nổi?
Tế Phật: Ha ha, hoa sen vốn sinh ra trong chốn bùn nhơ, những vũng lầy đó há chẳng phải là ao sen nhơ sao? Con hãy coi mỗi đoạn đường là một hố sen, những kẻ cao thượng khi gặp trời mưa đều không chạy trốn, mà ngồi lại nghỉ ngơi, có chăng chỉ một số nông phu vì bảo vệ hoa màu, phải mặc áo mưa lội xuống đồng ruộng canh tác. Tiên Phật cũng giống như nhà nông, chuyên đi trên đường lầy lội, thay thế chúng sinh giải trừ khổ nạn, nguy hiểm, bệnh tật, phiền não, khi gặp nguy khốn, các ngài quyết tâm xông tới chứng tỏ tinh thần Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, dầu phí sức cùng không được người ưa, song sẽ được bề trên ban phước. Hoa sen cũng do Tiên Phật hóa thân, hàng ngày chìm đắm trong chốn hồng trần khổ hải để cứu độ chúng sinh. Đường đạo gập ghềnh khó đi là để khảo nghiệm ý chí người tu đạo nếu như gặp hoạn nạn khốn khổ mà không nản chí vẫn dũng mãnh tiến tới, đạp đổ mọi trở ngại, cuối cùng mới đạt đạo quả vô lượng, vô cực. Thôi Dương Sinh hãy lên đài sen, chúng ta bắt đầu khởi hành.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, kính mời ân sư lên đường ,được ngồi cùng ân sư trên đài sen, lòng nhẹ nhàng vô kể. Cảnh trí ban đêm rất là thích hợp, đèn mọi nhà đều thắp sáng nơi nơi, nhà cửa thấp thoáng ẩn hiện, sứ mệnh mới, đường đi mới, vì cứu độ chúng sinh khuyến hóa bến mê, thần và người phục tòng mệnh lệnh, không dám bê trễ,gây nỗi khổ tâm cho ân sư.
Tế Phật: Chúng sinh phải tâm tâm niệm niệm, vì ai khổ cực vì ai nhọc nhằn? Và lòng ta tràn trề cảm xúc, nên đặc biệt làm một bài ca để khuyên đời: “Có người hy sinh cả tinh thần lẫn vật chất, phúc chẳng hưởng, ngày đêm miệt mài đề cao đạo đức, khiến mọi người xúc động, làm ta cũng mủi lòng. Hạnh phúc của chúng sinh không hai mặt, chúng ta phải cùng nhau đáp thuyền từ, tỏ rõ đạo tâm cùng lẽ trời, mau mau tu thân hướng thượng, chớ khoe khoang ầm ĩ, đừng phô trương ồn ào, nên làm việc nghĩa để chứng tỏ là tay hảo hán, để khỏi thẹn với Tiên Phật cùng trời xanh. Cởi bỏ lớp áo tư dục, xé toang màn lưới mây mờ bao phủ, đồng tâm hiệp lực hỗ trợ Thánh Đức Đường. Ngồi đàn cơ tả văn chương, viết sách khuyên đời, dắt chúng sinh lên thuyền pháp. Người an khang ta hân hoan, hạnh phúc, sung sướng muôn đời.
Dương Sinh: Lời dạy của ân sư thật là chí lý, trò ngu nghe xong thật là xúc động.
Tế Phật: Chúng ta đã tới nơi mau xuống đài sen.
Dương Sinh: Thưa ân sư đây là đâu?
Tế Phật: Đây thuộc vùng ngoại ô Cao Hùng.
Dương Sinh: Tối nay tới gõ cửa nhà, người chủ nhân hiện còn thức, đang ngồi coi truyền hình tại phòng khách, ân sưvà con tới đây không hiểu có làm phiền họ không?
Tế Phật: Chúng ta tới bằng linh thể chớ không phải bằng xác phàm nên họ không thấy, con khỏi bận tâm, hiện con thấy những gì?
Dương Sinh: Con thấy con chó mực gần cửa, thưa ân sư có đúng như vậy không? Bên cạnh hình như có một người đàn ông nữa? Nhìn thấy thật là sợ hãi quá.
Tế Phật: Chớ có sợ, người đó chính là con vừa nhìn thấy nguyên linh của chó, bởi vì con dùng linh nhãn nhìn nó, do đó mới nhìn thấy nhân ảnh, song không thực rõ ràng vì nhục thể của con còn tồn tại, nên linh thể bị trở ngại, thầy sẽ khai quang điểm nhãn để giúp hai mắt con nhìn rõ nguyên linh súc vật, hầu được tự do đàm đạo với chúng.
Dương Sinh: Cảm tạ ân sư.
Tế Phật: “Mắt trái mặt trời, mắt phải mặt trăng, mặt trời mặt trăng đối chiếu nhìn thấu vạn vật không gì có thể che giấu, khai quang điểm nhãn chướng ngại không còn, nhìn rõ tất cả, Úm Ma Ni Bát Di Hồng”.
Dương Sinh: Ân sư Phật pháp vô biên, niệm xong câu thần chú, quả nhiên cảnh vật trước mắt con hoàn toàn biến đổi, con chó mực nằm yên không nhúc nhích khi nãy đã hiện rõ hình người, lại còn phủ phục dưới đất là tại cớ sao?
Tế Phật: Vì phạm tội nên không cất đầu nổi, nằm phủ phục dưới đất là nghĩa ôm đầy bùn đất dơ bẩn. Chân người đi trên đất, mặc dầu có mang dày dép song một ngày không rửa, mùi hôi bốc lên cũng còn khó ngửi, kẻ này kiếp trước đôi chân đen đúa, hôi hám đã không biết giữ gìn lại còn để đôi chân bị nhúng chàm. Do đó kiếp này phải đầu thai làm kiếp chó, bốn chân đi trên đất, thế là cả tứ chi đều đi trên đất bẩn, đầu cúi gầm sám hối. Lưng chầu trời là vì kiếp trước phản trời nên không thể đi đứng bằng hai chân, vô phương làm giống người, như vậy đáng thương hay không đáng thương? Hãy quan sát những kẻ phạm tội ngoài xã hội lúc bị các ký giả chụp hình đều cúi đầu giấu mặt chẳng dám ngó ai. Lúc bị còng tay dẫn đi thử hỏi dáng vẻ khi đó ra sao? Ha ha, ta từ bi chẳng thể tưởng tượng nhiều để khỏi đụng chạm lòng tự tôn của ngươi. Vả lại người ta cũng chỉ tạm thời không cẩn trọng, nếu trượt chân vấp ngã, nên tha thứ cho họ, có như vậy mới gọi được là người xuất gia, tích âm đức.
Dương Sinh: Nhìn dáng dấp người đó rất đáng thương, xin ân sư cho họ đứng lên để họ thoát khỏi nạn lớn.
Tế Phật: Được, thầy sẽ điểm hóa cho họ, người đó kiếp trước kêu là “Vân Sinh” chỉ vì không chịu cố gắng làm người lương thiện, ngày nay mới phải đọa đày như vậy. “Ta là Phật Sống Tế Công vì người điểm hóa... đã tỉnh ngộ chưa? Vân Sinh, ngươi có thể đứng dậy được rồi”.
Vân Sinh: Than ôi! Xương sống của con đã bị liệt, co duỗi chẳng được nên không đứng nổi, kính xin đức Phật Sống Tế Công giải cứu.
Tế Phật: Bữa nay nhà ngươi có phước, ta phụng chỉ hướng dẫn Dương Sinh tới đây phỏng vấn, hãy mau thuật lại những điều lầm lỗi đã phạm phải kiếp trước, khiến ngày nay nên nông nỗi này, để khuyên người đời tránh dẫm phải vết chân ngươi, có làm như vậy ngươi mới có thể tạo công chuộc lỗi, sớm có ngày thoát thai hoán cốt trở lại làm kiếp người.
Vân Sinh: Thưa vâng, nhưng kính xin đức Phật Sống giúp con co duỗi xương sống, còn không khi con cử động đứng dậy vô cùng khó khăn khổ sở.
Tế Phật: Được, để ta hoán cốt cho ngươi, ta sẽ đổi cốt thú của ngươi thành cốt người, để ngươi có thể đi đứng dễ dàng.
Vân Sinh: Con xin kính lạy ngài vạn lạy.
Tế Phật: Ngươi phải kiên nhẫn chịu đau đớn, lúc đổi xương không bóp rượu thuốc, vết thương mới chóng lành. Ta bắt đầu ra tay...
Vân Sinh: Ối cha đau! Con chết mất, hãy mau hoán cốt cho con vì toàn thân con hầu như tê liệt.
Tế Phật: Quả là xương thiếu khí, ta đổi cho ngươi bộ xương nhân tạo, hiện tại có thể đứng. Hầu hết xương người sinh thời nay đều xấu, vì trong xương chứa đầy tà khí, gặp lúc thời tiết không mưa thuận gió hòa rất đau nhức, đó cũng là hình phạt vậy.
Vân Sinh: Con xin đa tạ đức Phật Sống đã hoán cốt cho con, hiện thời con có thể đứng vững nổi, song lưng con vẫn còn nhức nhối, thưa con có thể dùng thêm thuốc “thống tiêu viêm” để cho bớt đau đớn, nhức nhối không?
Tế Phật: Không được dùng thuốc, ta dùng quạt Bồ quạt mấy cái tự nhiên tiêu hàn, tiêu nhiệt hết đau ngay. “Ha ha, quạt Bồ sinh gió mát, đã hết đau lại hết cả sưng... không đau không nhức như vậy đó”.
Vân Sinh: Cảm tạ đức Phật Sống, quả nhiên toàn thân con khoan khoái giống hệt kiếp trước được làm người vậy.
Dương Sinh: Cớ sao nhà ngươi lại bị đày đọa ở chốn này?
Vân Sinh: Nói ra càng thêm mắc cở, thà chẳng nói còn hơn.
Dương Sinh: Ngươi chớ có e ngại, đức ân sư Phật Sống đã giải thoát cho ngươi, hãy mau đem những việc làm kiếp trước thuật rõ lại để làm gương cho người đời thì hẳn là công đức vô lượng.
Vân Sinh: Thưa, nếu được như vậy tôi xin kể đoạn đời đã khiến tôi đọa lạc đầu thai làm kiếp chó để người đời được rõ, hầu tránh khỏi những lầm lỗi mà tôi đã phạm phải. Kiếp trước tôi là kẻ bất lương, chuyên cầm đầu du đãng, mượn tiếng bảo vệ an ninh rồi bắt các chủ phòng trà, khiêu vũ trường cùng động mãi dâm nộp tiền. Vì vậy tôi đã trở thành tay đàng điếm ham mê tửu sắc, đôi khi vì quá tham tiền tôi lại cả gan dụ dỗ, uy hiếp cả con gái nhà lành bán minh. Trong thời gian này có một nàng bán phấn, buôn hương tên là Tú Liên tức sen đẹp, ban đầu tôi cướp đoạt tiết trinh rồi sau đó lập kế bán nàng cho làm kiếp gái giang hồ. Nàng đã tin tưởng trao thân gởi phận cho tôi, song tôi lại coi nàng như một thứ đồ chơi. Nàng đã dại dột tin vào sự giả vờ yêu thương của tôi nên suốt năm sáu năm trời bán thịt lấy tiền để cho tôi cờ bạc, tiêu xài, đồng tiền máu xương của nàng bị tôi hoang phí, một sớm nhan sắc tàn phai, tôi không còn lợi dụng được nữa thì liền bị tôi vắt chanh bỏ vỏ, để rồi tôi lại dễ dàng tiếp tục thủ đoạn yêu quái đó với những thiếu nữ khác đồng cảnh ngộ.
Một đời sở khanh tôi kiếm chác được quá nhiều tiền tài nhan sắc, hại con gái đàn bà cùng phá hoại gia cang nhà người không ít. Tú Liên tức sen đẹp bị lừa gạt như vậy thì làm sao sống nổi, còn tôi cuối cùng vì mắc bệnh hoa liễu, không thuốc nào chữa khỏi cuối cùng đành chịu chết. Sau phút lìa đời tôi bị quỷ sứ hắc bạch vô thường áp giải xuống âm phủ, Diêm Vương xử án đã phán quyết hình phạt nặng nề, sau khi bị hành hạ khắp các cửa ngục, cuối cùng tôi bị giải qua thập điện Minh Vương, ở đây tôi bị kết án đầu thai làm kiếp chó nhân gian. Vì trần gian là chốn tôi đã làm lắm điều ác độc, nên phải trở lại đền tội, suốt đời chịu khổ sở để tự sửa mình. Tôi đã bị chuyển kiếp làm chó hai lần, kiếp này đầu thai làm chó nhà họ Trần, quả là lâm vào cảnh tuyệt mệnh, vì gia đình này rất nghèo khổ dơ dáy, họ đổ lên mình tôi biết bao thứ hôi thối. Bị con cái họ đánh đập, mỗi khi bước vào trong nhà liền bị đuổi ra, tôi phải ở ngoài giữ cửa, cùng dọn phân trẻ, ăn đồ dơ chẳng thú vị gì mà cũng phải cố gắng nuốt, không ăn còn phải chịu khổ sở hơn nhiều. Lần đầu bị chuyển kiếp làm chó khi bị ông già làm thịt quả là rùng rợn, chày gỗ đập đầu, nước sôi xối mình, dao sắc mổ xẻ, băm vằm nồi nóng xào chiên, hầm nấu với cái tên “hương nhục” thịt thơm, tôi hiện thời lòng dạ đau đớn.
Song tội tôi quá nặng không biết có biện pháp nào giải quyết được chăng? Mong người đời chớ phạm vào lỗi lầm như tôi đã mắc phải, vì phản bội lại lẽ trời thì chắc chắn sẽ bị đày ải khổ đau. Phải nhớ rằng hành động ác báo không rõ tôi ngày nào mới được đầu thai làm kiếp người? Nếu như được chuyển kiếp mang xác người, tôi nguyện làm kẻ đầu đội trời chân đạp đất, đường đường chính chính không dám có hành động vô lương, bất nghĩa. Kiếp trước vì cố ý làm cho phụ nữ thịt đổ máu rơi khiến kiếp này tôi gặp nạn lớn, bị người làm thịt vì người đời thích ăn thịt thơm, cho rằng rất bổ dưỡng. Kiếp trước tôi cũng chăm lo tẩm bổ cho mình, nên ngày nay làm vật bổ béo cho người, quả là hết đường than oán.
Dương Sinh: Thưa ân sư hắn đã ăn năn hối cải xin ân sư cứu độ dùm.
Tế Phật: Ta đã hoán cốt cho nhà ngươi rồi, đợi tới ngày tận số, lúc tới Minh Phủ tự nhiên thoát thai, ngươi cứ kiê nnhẫn trả sạch nợ kiếp này, lo tu công đức cùng đợi kiếp tới. Người đời thấy cảnh này, hẳn đã tỉnh ngộ, vì tiền bạc của cải lường gạt, cướp bóc của người đều là của mượn, chẳng phải là của lương thiện thì ắt có ngày phải hoàn trả. Một sợi tơ, sợi tóc cũng không thiếu nổi. Tự nhiên kẻ thật thà chất phác muốn uống gió tây bắc, người xưa nói: “Thiên tài với rồ dại giống nhau”, hại người là họa, cứu người là phước, câu danh ngôn này thật chí lý, người đời nên lấy đó làm gương. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Thưa con đã sẵn sàng, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đã tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
#10
Gửi vào 04/09/2011 - 08:13
LUÂN HỒI DU KÝ
HỒI BA
ANH VŨ VÉO VON CHỈ NHỜ MÔI MỀM LƯỠI DẺO
NHẠN ÉN ĐỐI THOẠI THỨC TỈNH LÒNG NGƯỜI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 12 tháng 2 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Thiên chi vạn diệp bản đồng căn
Nhất điểm nguyên linh vạn cổ tồn
Vô cực phân hình toàn thế giới
Vạn gia sinh Phật tạ thiên ân.
Tu thân bảo thể luyện nguyên thần
Miễn giáo vong hồn đọa thú thân
Mạc vị lão lai phương học đạo
Phi vi đô thị thiếu niên nhân.
Dịch
Muôn cành ngàn lá vốn chung nguồn
Một điểm nguyên linh vạn thuở còn
Vô cực chia hình toàn thế giới
Nghìn nhà sinh Phật cảm thiên ân.
Sửa mình quý xác luyện tinh thần
Hình thú vong hồn khỏi đọa thân
Chớ nghĩ để già rồi học đạo
Ác căn thường tạo lúc thanh xuân.
Tế Phật: Thế nhân may được làm người, được tôn xưng là loài linh thiêng trong vạn vật, hiện tại vô cùng vinh hạnh. Tự mình biết may vá áo quần, xây cất nhà cửa, chế tạo xe hơi, máy bay, tàu thủy, truyền hình, thâu thanh, những nhu cầu vật chất không những ngày một phong phú, mà lại còn sửa đổi cho tinh tế đẹp đẽ hơn. Còn loài vật từ lúc sinh ra đời, bộ lông mang trên mình tới lúc chết cũng chỉ có vậy, không hề thay đổi mảy may. Do đó được sinh làm kiếp con người thực là may mắn, song nếu không sống cho nên người, hành động phi pháp, hại kẻ khác, chôn vùi nhân cách, cuối cùng sẽ có ngày tự mình thay đổi đầu mặt, đầu thai làm kiếp thú. Bữa nay ta hướng dẫn trò ngoan Dương Sinh đi phỏng vấn các loài thú vật thì thật là độc đáo, bởi lẽ người đời chẳng thể chuyện trò cùng loài vật, chẳng những vậy lại còn không tin, cho là chuyện hoang đường, những điều nói ra đều cho là chẳng thể có thực. Bởi vậy cần phải tìm hiểu cách hướng dẫn loài vật hàng ngày của các nhà động vật học nơi các vườn bách thú. Ngựa nhảy vòng, cá heo biểu diễn, trong số những loài này cá hiểu được chút tiếng người, biết được người ra dấu, nên mỗi động tác của chúng đều tỏ ra thật minh mẫn, kỹ thuật thật là cao, đôi khi phải thành thực nhận rằng con người có tập luyện đi nữa cũng còn thua kém chúng!
Chúng với người giống nhau ở điểm là đều có tính linh, người đời chớ nên coi thường chúng! Cuốn du ký này cũng muốn người đời tôn trọng người bạn tốt của mình là các loài động vật, một khi muốn mình tiến bộ thì chớ nên kìm hãm chúng. Cũng chớ hành động bất nhân ác đức, gây rối loạn tạo sự bất hạnh cho xã hội. Nếu như chỉ nghĩ tới phá hoại, đả thương, lừa đảo, cướp bóc, gian manh, mạ lỵ, giết chóc, mê hoặc, ấu đả, tiêu diệt thì chẳng còn xứng đáng làm kiếp con người! Loài người trên là phường bất nhân, bất nghĩa, vô luân, mặt người dạ thú, bề ngoài hiền lương mà bụng dạ hiểm sâu, bị dư luận lên án sẽ có ngày gặp cảnh khốn nạn, đọa lạc đầu thai làm kiếp thú. Thế gian nếu như khắp nơi thương yêu, giúp đỡ, cưu mang, khuyến khích lẫn nhau thì hẳn là mọi người đều được hưởng ơn phước. Nếu tâm người là tâm bồ tát thì hẳn là sau khi bỏ xác ắt thành Thánh, thành Tiên, thành Phật, vì tâm trong lành thì lên cao, tâm ác trược thì chìm đắm, ranh giới giữa thú và người ở chỗ đó. Người đời muốn mỗi bước đi lên hay đi xuống? Quý vị đều rất thông minh, lẽ nào lại muốn làm chim trong lồng? Ai mà chẳng muốn được tự do tự tại, không bị trói buộc, do đó chớ có phạm tội để khỏi bị sa chân vào ngụ ctối. Dương Sinh mau lên đài sen để thầy trò mình còn kịp phỏng vấn một án chứng tân kỳ.
Dương Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, không rõ bữa nay ân sư hướng dẫn con tới phỏng vấn nơi nào?
Tế Phật: Đợi một lát con sẽ rõ, thôi chúng ta lên đường...Đã tới nơi, đây là cửa hàng bán chim.
Dương Sinh: Quang cảnh ở đây giống như cảnh phố xá ở Đài Trung.
Tế Phật: Đúng, con hãy quan sát các loài chim nhốt đầy trong lồng sắt, đủ các loài chim, vô cùng ồn ào.
Dương Sinh: Mỗi lồng giống một gia đình, chúng sống hệt như cảnh vợ chồng, con cái đoàn tụ, có một số giống như bạn bè, cớ sao lại quy tụ nhau lại một nơi như vậy?
Tế Phật: Vì có duyên nghiệp quan hệ với nhau, con hãy nhìn kỹ lại đi, sẽ thấy rõ sự lạ, thầy đã điểm hóa, khôi phục lại ký ức kiếp trước của chúng để con phỏng vấn...
Dương Sinh: Quả là kỳ diệu, sau khi ân sư ban phép, lồng chim biến thành ngôi nhà có các phòng, những người ở trong đó mặc đồ đẹp đẽ, có kẻ đang dùng bữa, có kẻ nghỉ ngơi, song nhà không có ghế mà chỉ có cành trúc treo lơ lửng, cóng nước cùng chén đựng ngũ cốc. Vì không có cầu nên bài tiết bừa bãi, không được vệ sinh.
Tế Phật: Lồng chim này là nhà của họ, vì không được ngăn nắp vệ sinh nên thường bị vi trùng xâm nhập vào cơ thể, khiến sinh bệnh mà thác. Đời sống loài người đầy đủ tiện nghi, ăn uống hợp vệ sinh không giống như chim chóc, thức ăn thường lộn với phân. Chốn ở của người thì có phòng, giường ghế bọc nệm êm, nằm ngồi thoải mái, còn chim chóc ngủ trên cành cây trong chốn rừng rậm hoặc nơi bờ suối, tha cỏ làm tổ, ăn, ở bài tiết cùng một chỗ, đời sống đó quả là đời sống của kẻ phạm tội, của tù nhân. Bữa nay ta hướng dẫn trò ngoan tới đây phỏng vấn chim chóc để nghe tiếng lòng của chúng rên siết, Dương Sinh hãy đặt câu hỏi đi.
Dương Sinh: Này chim, tại sao ngươi lại bị nhốt trong lồng như thế này? Có thể nói rõ lý do để tạo cơ hội lập công chuộc tội được không?
Anh Vũ: Thưa, tôi mặc áo màu xanh, mang mép và mỏ đỏ của chim anh vũ, tôi thực không ngờ được là ngày nay lại tới nông nổi này. Kiếp trước tôi là đàn bà, có tật lắm lời, châm chọc thị phi, gây thù chuốc oán, suốt đời chuyên tạo hiềm khích với hàng xóm láng giềng, khi họ có chuyện xích mích nhỏ nhặt tôi đều chế dầu thêm để cho họ ấu đả nhau. Có lần chị hàng xóm về thăm mẹ thì có người bạn gái tới thăm, tôi thấy chồng chị ta có vẻ thân mật với người bạn đó, lại còn mời ở lại dùng bữa, hôm sau chị ta về, tôi liền kể lại với chị ấy rằng: “Chị đi vắng, chồng chị đem bạn gái về nhà, để rồi có những hành vi ái ân ám muội”. Vì vậy vợ chồng nhà họ đã gây lộn rồi đi tới việc ly dị nhau.
Về sau người chồng buồn rầu sinh bệnh đau gan thác. Không những vậy, tôi lại còn tính chuyện buôn bán, cuối cùng bị thất bại, tôi liền trách trời chửi đất, đời tôi quả thật là tạo quá nhiều nghiệp chướng. Sau khi thác Minh Vương quá tức giận, mắng tôi là kẻ phá hoại hôn nhân, nói điều bịa đặt, mắng trời rủa đất, phải chịu tội hơn mười năm. Sau khi mãn hạn phải đầu thai làm kiếp chim anh vũ, mang mỏ đỏ, học nói tiếng người, miệng lưỡi choen choét tối ngày. Bị nhốt trong lồng, tuy được ăn no nhưng không được bay lượn giữa trời, tâm hồn thật là buồn tủi, bữa nay đức Phật Sống tới đây, xin hãy mở lượng từ bi cứu con thoát khỏi cảnh lồng sắt giam giữ này.
Tế Phật: Ha ha, ngươi sống trong lồng đã quen rồi, hiện tại khắp nơi cất toàn cao ốc, có thả ngươi ra, ngươi cũng chẳng thể sống nổi, là Phật từ bi chẳng thể thả ngươi ra để cho ngươi chết, ngươi hãy cam phận như vậy đi, cố sống ở đây cho tới hết đời. Ngươi đã có công trong việc thuật lại những lỗi lầm kiếp trước để chép vào sách Luân Hồi Du Ký làm gương cho người đời, thì chắc chắn sau khi ngươi quá vãng, sẽ được chuyển kiếp đầu thai lên làm người, hãy gắng tu thêm nữa đi, chớ có bất mãn với hoàn cảnh hiện tại.
Dương Sinh: Thưa ân sư, còn quá nhiều loài chim, không rõ vì phạm phải tội gì mà lại bị chuyển kiếp làm thân chim như thế này?
Tế Phật: Đại khái, giống chim không hoàn toàn do người chuyển kiếp thành, mà có loại lại do tinh hoa của mặt trời, mặt trăng cấu tạo nên, do đó chúng mới có thể bay lượn trên không trung. Bởi mặt trời và mặt trăng là hai khối năng lượng vô biên, khi khí thái dương, thái âm gặp gỡ, thì trong khoảng trời đất có thể sinh sôi nẩy nở rất nhiều tính linh. Có rất nhiều nguyên linh của loài chim nhờ hấp thụ được khí thiêng của nhật nguyệt dần dần tiến hóa thành nguyên linh của người, tu luyện lại thành đạo. Rất nhiều Tiên Phật vốn gốc từ loài thú đi lên, vì loài vật có thể cùng Tiên Phật tồn tại, chứng tỏ muôn loài đều linh, chỉ cần gắng công tu luyện là có thể lên tới cõi siêu phàm, nhập thánh. Hiện tại nhân loại càng ngày càng sinh sản nhiều, do đó nước nào cũng kêu gọi hạn chế sinh đẻ, có người hỏi: “Con người từ đâu tới mà mỗi ngày một đông?”. Bữa nay ta giải thích như sau: Mầm mống sinh nở vạn linh ngày càng tiến hóa, rất nhiều loài động vật trên thế giới bị tiêu diệt.
Trí tuệ của con người ngày một tiến bộ, lãnh vực sinh hoạt mỗi ngày một rộng lớn, do đó đất sống của những sinh linh bé nhỏ, yếu ớt bị nhân loại xâm chiếm, cuối cùng chỉ còn cách chuyển kiếp để đầu thai làm người, mới có thể tồn tại nổi, đó là nguyên do tại sao loài người mỗi ngày một đông. Vì con người phần đông vừa mới từ các loài cầm thú đầu thai đi lên, chưa kịp gột rửa hết bản tính cũ, khiến thế giới ngày nay đạo đức suy đồi, rất nhiều kẻ mặt người dạ thú, có những hành vi thú tính làm hại lẽ trời. Nhân khẩu tăng mau, nguy cơ thiếu hụt năng lượng của thế giới thường xuyên đe dọa, do đó có nhiều người đề xướng tu đạo luyện tính, để có thể bay hẳn lên cõi thanh,mà tôn giáo thường gọi là cõi thiên đàng, tây phương. Song muốn được vậy tính linh con người phải tuyệt đối thanh tịnh mới có thể đạt tới mục đích đó nổi.
Dương Sinh: Thưa ân sư, a thì ra nguyên nhân là như thế.
Tế Phật: Giờ hãy ghi thêm ấn chứng “Công Trị Trường nghe én nhạn đối đáp về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” vào sách Luân Hồi Du Ký để khai mở hóa độ chúng sinh. Học trò của Khổng Tử là Công Trị Trường nghe hiểu được tiếng nói của các loài chim. Có một bữa Công Trị Trường dạo chơi ngoài vườn, khi đi tới nhà mát cạnh bờ ao, thấy một con chim nhạn đang đậu bên mé nước. Lát sau lại thấy một con chim én bay tới đậu trên cành cây và cất tiếng hỏi chim nhạn: “Này anh nhạn ơi, mình xa cách nhau đã lâu rồi, giờ đây mới được gặp lại, anh có được mạnh giỏi không?”. Chim én hỏi xong, chim nhạn vẫn lặng thinh chẳng thèm trả lời. Chim én thấy vậy vô cùng giận dữ nói: “Anh nhạn thật là vô lễ, tôi chào hỏi anh, cớ sao anh lại chẳng đáp?”. Chim nhạn sau khi ngưng một chút bèn trả lời: “Thụ thượng thiền thanh tiểu. Đường hạ hùng ngữ đê. Thủy thanh lưu mạn xuất. Nhân quý ngôn ngữ trì” (Ve bụi tiếng kêu nhỏ. Gấu nhà lời lẽ thanh. Nước trong chảy chầm chậm. Người quý nói không nhanh). Chim én nói: “Anh sống nơi bờ cỏ, ăn thóc gạo vương vãi, miệng lớn cổ nhỏ, anh với tôi giống nhau chẳng quý hơn tôi điểm nào”.
Chim nhạn trả lời: “Tôi tuy không quý, song hiểu rõ tam cương tức ba mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ. Vua đối bề tôi phải giữ lễ, bề tôi đối với vua phải giữ trung; cha đối với con phải hiền, con đối cha phải hiếu; chồng phải quý vợ, vợ phải nghe chồng. Thời xưa vua Trụ vô đạo, dân chúng lầm than, về sau vua Võ nhờ có Khương Tử Nha trừ được hôn quân, trăm họ vui mừng dựng nên nhà Chu, triều đại tồn tại được hơn tám trăm năm. Đó là mối quan hệ vua tôi. Xưa có Cam Thế Diễn, làm quan tại triều, dân chúng bị hạn hán ba năm liền. Một hôm đột nhiên trời đổ mưa lớn, vua liền hỏi Thế Diễn: “Trận mưa lớn bữa nay đáng giá bao nhiêu?”. Cam Thế Diễn không trả lời nổi, vua giận dữ đuổi Cam Thế Diễn ra khỏi triều, Cam Thế Diễn về nhà lòng buồn rầu không tả xiết, chẳng nói chẳng rằng. Người con trai tên Cam La thấy vậy hỏi: “Thưa cha, cớ sao cha buồn khổ quá vậy? Xin cha hãy nói rõ cho con được biết xem con có thể giúp cha giải nỗi u sầu này chăng?”.
Cam Thế Diễn nói: “Con ơi! Vì sớm nay cha vào chầu vua, vua hỏi về việc trời mưa đáng giá bao nhiêu, ngay lúc đó cha không trả lời được, nên vua đã nổi giận đuổi cha về, sớm mai phải vô thưa lại, do đó mà cha buồn khổ”. Cam La đáp: “Thưa cha đó là việc nhỏ, xin cha chớ bận tâm ưu phiền”. Cam Thế Diễn nói: “Con ơi! Sớm mai nếu như chakhông trả lời được, tính mạng toàn gia mình khó tránh nổitội chết, đây chẳng phải là chuyện nhỏ, con có ý kiến vềcâu trả lời không?”. Cam La đáp: “Cớ sao cha không nói tường cao tưới ướt sũng, đất dày thấm ướt sâu, hoa trái mọc tươi màu, vàng bạc trải đầy đất, trận mưa này vô giá”. Thế Diễn nghe xong trong lòng vô cùng sung sướng nói: “Con của cha quả là thông minh tài giỏi, phải mẫn tiệp như vậy mới giải nổi mối lo của cha”. Sáng hôm sau Cam Thế Diễn vào chầu tâu lên vua: “Bề tôi Cam Thế Diễn vâng lệnh tìm hiểu xem trận mưa hôm qua đáng giá bao nhiêu, giờ bề tôi xin thưa:
“Tường cao tưới ướt sũng, đất dày thấm ướt sâu, hoa trái mọc tươi màu, vàng bạc trải đầy đất”. Nhà vua rất vui mừng nói: “Bữa qua khanh không biết, cớ sao bữa nay khanh lại hiểu?”. Cam Thế Diễn tâu: “Bữa qua thần không biết, bữa nay thần biết là vì thần có con trai tên là Cam La hiểu được lẽ này”. Nhà vua rất đỗi vui mừng nói: “Con trai của khanh bao nhiêu tuổi mà trí óc mẫn tiệp đến như vậy?”. Cam Thế Diễn tâu: “Thưa bệ hạ, con trai của hạ thần mười hai tuổi”. Nhà vua hết sức vui mừng liền truyền lệnh dẫn Cam La vào chầu. Cam la vâng lệnh vào ra mắt nhà vua, nhà vua hỏi Cam La về việc trị quốc, Cam La tâu: “Thưa, đối với vua và cha, kẻ bề tôi và con phải trung hiếu, là vua là cha phải có lòng từ ái, nước với nhà cũng vậy, vua với cha cũng thế phải tôn sùng đức độ, duy trì trung hiếu, vinh quý không cần mời cũng tới, sỉ nhục chẳng cần đuổ icũng lui”.
Nhà vua nghe xong cả mừng đặc cách cho Cam La làm thừa tướng. Đó là giềng mối cha con. Vào thời Xuân Thu, Tề Vương tới hội họp tại Lâm Đồng Quan, cùng mười tám nước chư hầu dâng lễ vật, nước Tần dâng cây đàn cỏ, nước Ngụy dâng ngọc trừ bụi, nước Sở dâng ngọc soi đêm tối. Tề Vương lấy một cung phi tên là Vô Diệm Thị, trí tuệ tài năng siêu quần, đoan chính hiền đức, diện mạo khôi ngô tuấn tú, lại còn có khả năng dùng đức độ cảm hóa cùng chế phục người khác, mười tám nước cùng tới hàng phục và xin triều cống. Người đời sau xưng tụng là giềng mối vợ chồng tốt đẹp”. Chim én nói: “Đã trình bày xong về tam cương tức ba giềng mối nhưng còn ngũ thường tức năm điều dạy không lúc nào thiếu được”. Chim nhạn đáp: “Ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Chim én hỏi: “Xin giải nghĩa rõ hơn”.
Chim nhạn đáp: “Người quân tử nghe thấy tiếng kêu than không nỡ ăn thịt, chỉ nhìn sự sống chứ không dám nhìn cái chết, như vậy là có lòng nhân vậy. Nếu chồng chết sớm mà vợ giữ tiết nghĩa, suốt đời không lấy ai, như vậy là có nghĩa. Lớn nhỏ giữ trật tự, lớn cất cánh trước nhỏ cất cánh sau thành hình chữ nhất tức một vạch thẳng nằm ngan gbay trên không mà chẳng rối loạn, như vậy là có lễ. Khi bay lượn, kêu hót, ngủ nghê, ăn uống, luôn ghi nhớ hai chữ sống chết, chăm lo tu tâm hướng thiện, đó là có trí vậy. Xuân đi Thu về, đến đi không chậm trễ cùng có thể truyền thư tín, đó là tín vậy. Tôi với các anh không giống nhau vì các anh là hợp đàn, miệng ăn sâu bọ, không có lòng từ bi há còn có lòng nhân sao? Nếu chồng chết sớm, vợ không đợi hết tang đã lấy chồng mới, như vậy là có nghĩa chăng? Ở nơi kèo cột dưới mái nhà người nhìn vợ, nhìn con gái đẹp như vậy là có lễ nghĩa ư? Chỉ biết làm bạn vui chơi cùng trẻ nhỏ, chẳng ngộ luân hồi báo ứng, tu tâm hướng thiện, chỉ lưu luyến gia đình, không biết tu tỉnh há có trí sao?
Đi đi lại lại mơ mơ hồ hồ, không rõ thời tiết ra sao há còn tín sao? Tam cương ngũ thường đã không hề biết tới, lại còn chẳng chịu sám hối học hỏi là cớ tại sao?”. Chim én nghe hỏi xong chẳng thể nói thêm vội vã bay đi không lời từ giã. Chúng sinh nghe xong cuộc đối thoại giữa chim nhạn và chim én chắc hẳn sẽ cảm xúc sâu xa, những điều vừa thuật lại ở trên sẽ mở trí người đời, tam cương ngũ thường là đạo lập thân, là thang lên trời há người ta chẳng học tập sao? Tin rằng mọi cá nhân đều nghĩ tới chuyện làm kẻ lương thiện để được người đời khen, hãy gắng đi lên.
Dương Sinh: Thưa ân sư, kể lại chuyện xa xưa, ngụ ý rất sâu, loài chim còn biết tranh luận, người đời ham chuyệ nthị phi, bản thân còn dở mà lại thích dạy điều hay lẽ phải, khác nào nhạn én đấu lý vừa rồi.
Tế Phật: Tục sĩ hỷ hoan thuyết thị phi. Bất tri phản tỉnh muội tâm vi.Vi nhân ưng thủ khẩu trung đức. Miễn đọa điểu thân ngữ loạn phi: Kẻ tục ham mê chuyện thị phi. Chẳng lo phản tỉnh dạ ngu si. Làm người phải nói điều nhân đức. Khỏi đọa làm chim tiếng loạn bay. Người đời phải tu khẩu đức, để tránh dùng lời nói để hại người, tạo ác nghiệp ngợp trời, tương lai bị đọa làm kiếp chim, ríu ra ríu rít, lời nói nhẹ như bay, giống như chim anh vũ bị nhốt trong lồng, sống đời khổ sở. Muôn việc phải chu toàn. Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn ở đây, chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh...
Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI BA
ANH VŨ VÉO VON CHỈ NHỜ MÔI MỀM LƯỠI DẺO
NHẠN ÉN ĐỐI THOẠI THỨC TỈNH LÒNG NGƯỜI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 12 tháng 2 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Thiên chi vạn diệp bản đồng căn
Nhất điểm nguyên linh vạn cổ tồn
Vô cực phân hình toàn thế giới
Vạn gia sinh Phật tạ thiên ân.
Tu thân bảo thể luyện nguyên thần
Miễn giáo vong hồn đọa thú thân
Mạc vị lão lai phương học đạo
Phi vi đô thị thiếu niên nhân.
Dịch
Muôn cành ngàn lá vốn chung nguồn
Một điểm nguyên linh vạn thuở còn
Vô cực chia hình toàn thế giới
Nghìn nhà sinh Phật cảm thiên ân.
Sửa mình quý xác luyện tinh thần
Hình thú vong hồn khỏi đọa thân
Chớ nghĩ để già rồi học đạo
Ác căn thường tạo lúc thanh xuân.
Tế Phật: Thế nhân may được làm người, được tôn xưng là loài linh thiêng trong vạn vật, hiện tại vô cùng vinh hạnh. Tự mình biết may vá áo quần, xây cất nhà cửa, chế tạo xe hơi, máy bay, tàu thủy, truyền hình, thâu thanh, những nhu cầu vật chất không những ngày một phong phú, mà lại còn sửa đổi cho tinh tế đẹp đẽ hơn. Còn loài vật từ lúc sinh ra đời, bộ lông mang trên mình tới lúc chết cũng chỉ có vậy, không hề thay đổi mảy may. Do đó được sinh làm kiếp con người thực là may mắn, song nếu không sống cho nên người, hành động phi pháp, hại kẻ khác, chôn vùi nhân cách, cuối cùng sẽ có ngày tự mình thay đổi đầu mặt, đầu thai làm kiếp thú. Bữa nay ta hướng dẫn trò ngoan Dương Sinh đi phỏng vấn các loài thú vật thì thật là độc đáo, bởi lẽ người đời chẳng thể chuyện trò cùng loài vật, chẳng những vậy lại còn không tin, cho là chuyện hoang đường, những điều nói ra đều cho là chẳng thể có thực. Bởi vậy cần phải tìm hiểu cách hướng dẫn loài vật hàng ngày của các nhà động vật học nơi các vườn bách thú. Ngựa nhảy vòng, cá heo biểu diễn, trong số những loài này cá hiểu được chút tiếng người, biết được người ra dấu, nên mỗi động tác của chúng đều tỏ ra thật minh mẫn, kỹ thuật thật là cao, đôi khi phải thành thực nhận rằng con người có tập luyện đi nữa cũng còn thua kém chúng!
Chúng với người giống nhau ở điểm là đều có tính linh, người đời chớ nên coi thường chúng! Cuốn du ký này cũng muốn người đời tôn trọng người bạn tốt của mình là các loài động vật, một khi muốn mình tiến bộ thì chớ nên kìm hãm chúng. Cũng chớ hành động bất nhân ác đức, gây rối loạn tạo sự bất hạnh cho xã hội. Nếu như chỉ nghĩ tới phá hoại, đả thương, lừa đảo, cướp bóc, gian manh, mạ lỵ, giết chóc, mê hoặc, ấu đả, tiêu diệt thì chẳng còn xứng đáng làm kiếp con người! Loài người trên là phường bất nhân, bất nghĩa, vô luân, mặt người dạ thú, bề ngoài hiền lương mà bụng dạ hiểm sâu, bị dư luận lên án sẽ có ngày gặp cảnh khốn nạn, đọa lạc đầu thai làm kiếp thú. Thế gian nếu như khắp nơi thương yêu, giúp đỡ, cưu mang, khuyến khích lẫn nhau thì hẳn là mọi người đều được hưởng ơn phước. Nếu tâm người là tâm bồ tát thì hẳn là sau khi bỏ xác ắt thành Thánh, thành Tiên, thành Phật, vì tâm trong lành thì lên cao, tâm ác trược thì chìm đắm, ranh giới giữa thú và người ở chỗ đó. Người đời muốn mỗi bước đi lên hay đi xuống? Quý vị đều rất thông minh, lẽ nào lại muốn làm chim trong lồng? Ai mà chẳng muốn được tự do tự tại, không bị trói buộc, do đó chớ có phạm tội để khỏi bị sa chân vào ngụ ctối. Dương Sinh mau lên đài sen để thầy trò mình còn kịp phỏng vấn một án chứng tân kỳ.
Dương Sinh: Thưa con đã sửa soạn xong, không rõ bữa nay ân sư hướng dẫn con tới phỏng vấn nơi nào?
Tế Phật: Đợi một lát con sẽ rõ, thôi chúng ta lên đường...Đã tới nơi, đây là cửa hàng bán chim.
Dương Sinh: Quang cảnh ở đây giống như cảnh phố xá ở Đài Trung.
Tế Phật: Đúng, con hãy quan sát các loài chim nhốt đầy trong lồng sắt, đủ các loài chim, vô cùng ồn ào.
Dương Sinh: Mỗi lồng giống một gia đình, chúng sống hệt như cảnh vợ chồng, con cái đoàn tụ, có một số giống như bạn bè, cớ sao lại quy tụ nhau lại một nơi như vậy?
Tế Phật: Vì có duyên nghiệp quan hệ với nhau, con hãy nhìn kỹ lại đi, sẽ thấy rõ sự lạ, thầy đã điểm hóa, khôi phục lại ký ức kiếp trước của chúng để con phỏng vấn...
Dương Sinh: Quả là kỳ diệu, sau khi ân sư ban phép, lồng chim biến thành ngôi nhà có các phòng, những người ở trong đó mặc đồ đẹp đẽ, có kẻ đang dùng bữa, có kẻ nghỉ ngơi, song nhà không có ghế mà chỉ có cành trúc treo lơ lửng, cóng nước cùng chén đựng ngũ cốc. Vì không có cầu nên bài tiết bừa bãi, không được vệ sinh.
Tế Phật: Lồng chim này là nhà của họ, vì không được ngăn nắp vệ sinh nên thường bị vi trùng xâm nhập vào cơ thể, khiến sinh bệnh mà thác. Đời sống loài người đầy đủ tiện nghi, ăn uống hợp vệ sinh không giống như chim chóc, thức ăn thường lộn với phân. Chốn ở của người thì có phòng, giường ghế bọc nệm êm, nằm ngồi thoải mái, còn chim chóc ngủ trên cành cây trong chốn rừng rậm hoặc nơi bờ suối, tha cỏ làm tổ, ăn, ở bài tiết cùng một chỗ, đời sống đó quả là đời sống của kẻ phạm tội, của tù nhân. Bữa nay ta hướng dẫn trò ngoan tới đây phỏng vấn chim chóc để nghe tiếng lòng của chúng rên siết, Dương Sinh hãy đặt câu hỏi đi.
Dương Sinh: Này chim, tại sao ngươi lại bị nhốt trong lồng như thế này? Có thể nói rõ lý do để tạo cơ hội lập công chuộc tội được không?
Anh Vũ: Thưa, tôi mặc áo màu xanh, mang mép và mỏ đỏ của chim anh vũ, tôi thực không ngờ được là ngày nay lại tới nông nổi này. Kiếp trước tôi là đàn bà, có tật lắm lời, châm chọc thị phi, gây thù chuốc oán, suốt đời chuyên tạo hiềm khích với hàng xóm láng giềng, khi họ có chuyện xích mích nhỏ nhặt tôi đều chế dầu thêm để cho họ ấu đả nhau. Có lần chị hàng xóm về thăm mẹ thì có người bạn gái tới thăm, tôi thấy chồng chị ta có vẻ thân mật với người bạn đó, lại còn mời ở lại dùng bữa, hôm sau chị ta về, tôi liền kể lại với chị ấy rằng: “Chị đi vắng, chồng chị đem bạn gái về nhà, để rồi có những hành vi ái ân ám muội”. Vì vậy vợ chồng nhà họ đã gây lộn rồi đi tới việc ly dị nhau.
Về sau người chồng buồn rầu sinh bệnh đau gan thác. Không những vậy, tôi lại còn tính chuyện buôn bán, cuối cùng bị thất bại, tôi liền trách trời chửi đất, đời tôi quả thật là tạo quá nhiều nghiệp chướng. Sau khi thác Minh Vương quá tức giận, mắng tôi là kẻ phá hoại hôn nhân, nói điều bịa đặt, mắng trời rủa đất, phải chịu tội hơn mười năm. Sau khi mãn hạn phải đầu thai làm kiếp chim anh vũ, mang mỏ đỏ, học nói tiếng người, miệng lưỡi choen choét tối ngày. Bị nhốt trong lồng, tuy được ăn no nhưng không được bay lượn giữa trời, tâm hồn thật là buồn tủi, bữa nay đức Phật Sống tới đây, xin hãy mở lượng từ bi cứu con thoát khỏi cảnh lồng sắt giam giữ này.
Tế Phật: Ha ha, ngươi sống trong lồng đã quen rồi, hiện tại khắp nơi cất toàn cao ốc, có thả ngươi ra, ngươi cũng chẳng thể sống nổi, là Phật từ bi chẳng thể thả ngươi ra để cho ngươi chết, ngươi hãy cam phận như vậy đi, cố sống ở đây cho tới hết đời. Ngươi đã có công trong việc thuật lại những lỗi lầm kiếp trước để chép vào sách Luân Hồi Du Ký làm gương cho người đời, thì chắc chắn sau khi ngươi quá vãng, sẽ được chuyển kiếp đầu thai lên làm người, hãy gắng tu thêm nữa đi, chớ có bất mãn với hoàn cảnh hiện tại.
Dương Sinh: Thưa ân sư, còn quá nhiều loài chim, không rõ vì phạm phải tội gì mà lại bị chuyển kiếp làm thân chim như thế này?
Tế Phật: Đại khái, giống chim không hoàn toàn do người chuyển kiếp thành, mà có loại lại do tinh hoa của mặt trời, mặt trăng cấu tạo nên, do đó chúng mới có thể bay lượn trên không trung. Bởi mặt trời và mặt trăng là hai khối năng lượng vô biên, khi khí thái dương, thái âm gặp gỡ, thì trong khoảng trời đất có thể sinh sôi nẩy nở rất nhiều tính linh. Có rất nhiều nguyên linh của loài chim nhờ hấp thụ được khí thiêng của nhật nguyệt dần dần tiến hóa thành nguyên linh của người, tu luyện lại thành đạo. Rất nhiều Tiên Phật vốn gốc từ loài thú đi lên, vì loài vật có thể cùng Tiên Phật tồn tại, chứng tỏ muôn loài đều linh, chỉ cần gắng công tu luyện là có thể lên tới cõi siêu phàm, nhập thánh. Hiện tại nhân loại càng ngày càng sinh sản nhiều, do đó nước nào cũng kêu gọi hạn chế sinh đẻ, có người hỏi: “Con người từ đâu tới mà mỗi ngày một đông?”. Bữa nay ta giải thích như sau: Mầm mống sinh nở vạn linh ngày càng tiến hóa, rất nhiều loài động vật trên thế giới bị tiêu diệt.
Trí tuệ của con người ngày một tiến bộ, lãnh vực sinh hoạt mỗi ngày một rộng lớn, do đó đất sống của những sinh linh bé nhỏ, yếu ớt bị nhân loại xâm chiếm, cuối cùng chỉ còn cách chuyển kiếp để đầu thai làm người, mới có thể tồn tại nổi, đó là nguyên do tại sao loài người mỗi ngày một đông. Vì con người phần đông vừa mới từ các loài cầm thú đầu thai đi lên, chưa kịp gột rửa hết bản tính cũ, khiến thế giới ngày nay đạo đức suy đồi, rất nhiều kẻ mặt người dạ thú, có những hành vi thú tính làm hại lẽ trời. Nhân khẩu tăng mau, nguy cơ thiếu hụt năng lượng của thế giới thường xuyên đe dọa, do đó có nhiều người đề xướng tu đạo luyện tính, để có thể bay hẳn lên cõi thanh,mà tôn giáo thường gọi là cõi thiên đàng, tây phương. Song muốn được vậy tính linh con người phải tuyệt đối thanh tịnh mới có thể đạt tới mục đích đó nổi.
Dương Sinh: Thưa ân sư, a thì ra nguyên nhân là như thế.
Tế Phật: Giờ hãy ghi thêm ấn chứng “Công Trị Trường nghe én nhạn đối đáp về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” vào sách Luân Hồi Du Ký để khai mở hóa độ chúng sinh. Học trò của Khổng Tử là Công Trị Trường nghe hiểu được tiếng nói của các loài chim. Có một bữa Công Trị Trường dạo chơi ngoài vườn, khi đi tới nhà mát cạnh bờ ao, thấy một con chim nhạn đang đậu bên mé nước. Lát sau lại thấy một con chim én bay tới đậu trên cành cây và cất tiếng hỏi chim nhạn: “Này anh nhạn ơi, mình xa cách nhau đã lâu rồi, giờ đây mới được gặp lại, anh có được mạnh giỏi không?”. Chim én hỏi xong, chim nhạn vẫn lặng thinh chẳng thèm trả lời. Chim én thấy vậy vô cùng giận dữ nói: “Anh nhạn thật là vô lễ, tôi chào hỏi anh, cớ sao anh lại chẳng đáp?”. Chim nhạn sau khi ngưng một chút bèn trả lời: “Thụ thượng thiền thanh tiểu. Đường hạ hùng ngữ đê. Thủy thanh lưu mạn xuất. Nhân quý ngôn ngữ trì” (Ve bụi tiếng kêu nhỏ. Gấu nhà lời lẽ thanh. Nước trong chảy chầm chậm. Người quý nói không nhanh). Chim én nói: “Anh sống nơi bờ cỏ, ăn thóc gạo vương vãi, miệng lớn cổ nhỏ, anh với tôi giống nhau chẳng quý hơn tôi điểm nào”.
Chim nhạn trả lời: “Tôi tuy không quý, song hiểu rõ tam cương tức ba mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ. Vua đối bề tôi phải giữ lễ, bề tôi đối với vua phải giữ trung; cha đối với con phải hiền, con đối cha phải hiếu; chồng phải quý vợ, vợ phải nghe chồng. Thời xưa vua Trụ vô đạo, dân chúng lầm than, về sau vua Võ nhờ có Khương Tử Nha trừ được hôn quân, trăm họ vui mừng dựng nên nhà Chu, triều đại tồn tại được hơn tám trăm năm. Đó là mối quan hệ vua tôi. Xưa có Cam Thế Diễn, làm quan tại triều, dân chúng bị hạn hán ba năm liền. Một hôm đột nhiên trời đổ mưa lớn, vua liền hỏi Thế Diễn: “Trận mưa lớn bữa nay đáng giá bao nhiêu?”. Cam Thế Diễn không trả lời nổi, vua giận dữ đuổi Cam Thế Diễn ra khỏi triều, Cam Thế Diễn về nhà lòng buồn rầu không tả xiết, chẳng nói chẳng rằng. Người con trai tên Cam La thấy vậy hỏi: “Thưa cha, cớ sao cha buồn khổ quá vậy? Xin cha hãy nói rõ cho con được biết xem con có thể giúp cha giải nỗi u sầu này chăng?”.
Cam Thế Diễn nói: “Con ơi! Vì sớm nay cha vào chầu vua, vua hỏi về việc trời mưa đáng giá bao nhiêu, ngay lúc đó cha không trả lời được, nên vua đã nổi giận đuổi cha về, sớm mai phải vô thưa lại, do đó mà cha buồn khổ”. Cam La đáp: “Thưa cha đó là việc nhỏ, xin cha chớ bận tâm ưu phiền”. Cam Thế Diễn nói: “Con ơi! Sớm mai nếu như chakhông trả lời được, tính mạng toàn gia mình khó tránh nổitội chết, đây chẳng phải là chuyện nhỏ, con có ý kiến vềcâu trả lời không?”. Cam La đáp: “Cớ sao cha không nói tường cao tưới ướt sũng, đất dày thấm ướt sâu, hoa trái mọc tươi màu, vàng bạc trải đầy đất, trận mưa này vô giá”. Thế Diễn nghe xong trong lòng vô cùng sung sướng nói: “Con của cha quả là thông minh tài giỏi, phải mẫn tiệp như vậy mới giải nổi mối lo của cha”. Sáng hôm sau Cam Thế Diễn vào chầu tâu lên vua: “Bề tôi Cam Thế Diễn vâng lệnh tìm hiểu xem trận mưa hôm qua đáng giá bao nhiêu, giờ bề tôi xin thưa:
“Tường cao tưới ướt sũng, đất dày thấm ướt sâu, hoa trái mọc tươi màu, vàng bạc trải đầy đất”. Nhà vua rất vui mừng nói: “Bữa qua khanh không biết, cớ sao bữa nay khanh lại hiểu?”. Cam Thế Diễn tâu: “Bữa qua thần không biết, bữa nay thần biết là vì thần có con trai tên là Cam La hiểu được lẽ này”. Nhà vua rất đỗi vui mừng nói: “Con trai của khanh bao nhiêu tuổi mà trí óc mẫn tiệp đến như vậy?”. Cam Thế Diễn tâu: “Thưa bệ hạ, con trai của hạ thần mười hai tuổi”. Nhà vua hết sức vui mừng liền truyền lệnh dẫn Cam La vào chầu. Cam la vâng lệnh vào ra mắt nhà vua, nhà vua hỏi Cam La về việc trị quốc, Cam La tâu: “Thưa, đối với vua và cha, kẻ bề tôi và con phải trung hiếu, là vua là cha phải có lòng từ ái, nước với nhà cũng vậy, vua với cha cũng thế phải tôn sùng đức độ, duy trì trung hiếu, vinh quý không cần mời cũng tới, sỉ nhục chẳng cần đuổ icũng lui”.
Nhà vua nghe xong cả mừng đặc cách cho Cam La làm thừa tướng. Đó là giềng mối cha con. Vào thời Xuân Thu, Tề Vương tới hội họp tại Lâm Đồng Quan, cùng mười tám nước chư hầu dâng lễ vật, nước Tần dâng cây đàn cỏ, nước Ngụy dâng ngọc trừ bụi, nước Sở dâng ngọc soi đêm tối. Tề Vương lấy một cung phi tên là Vô Diệm Thị, trí tuệ tài năng siêu quần, đoan chính hiền đức, diện mạo khôi ngô tuấn tú, lại còn có khả năng dùng đức độ cảm hóa cùng chế phục người khác, mười tám nước cùng tới hàng phục và xin triều cống. Người đời sau xưng tụng là giềng mối vợ chồng tốt đẹp”. Chim én nói: “Đã trình bày xong về tam cương tức ba giềng mối nhưng còn ngũ thường tức năm điều dạy không lúc nào thiếu được”. Chim nhạn đáp: “Ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Chim én hỏi: “Xin giải nghĩa rõ hơn”.
Chim nhạn đáp: “Người quân tử nghe thấy tiếng kêu than không nỡ ăn thịt, chỉ nhìn sự sống chứ không dám nhìn cái chết, như vậy là có lòng nhân vậy. Nếu chồng chết sớm mà vợ giữ tiết nghĩa, suốt đời không lấy ai, như vậy là có nghĩa. Lớn nhỏ giữ trật tự, lớn cất cánh trước nhỏ cất cánh sau thành hình chữ nhất tức một vạch thẳng nằm ngan gbay trên không mà chẳng rối loạn, như vậy là có lễ. Khi bay lượn, kêu hót, ngủ nghê, ăn uống, luôn ghi nhớ hai chữ sống chết, chăm lo tu tâm hướng thiện, đó là có trí vậy. Xuân đi Thu về, đến đi không chậm trễ cùng có thể truyền thư tín, đó là tín vậy. Tôi với các anh không giống nhau vì các anh là hợp đàn, miệng ăn sâu bọ, không có lòng từ bi há còn có lòng nhân sao? Nếu chồng chết sớm, vợ không đợi hết tang đã lấy chồng mới, như vậy là có nghĩa chăng? Ở nơi kèo cột dưới mái nhà người nhìn vợ, nhìn con gái đẹp như vậy là có lễ nghĩa ư? Chỉ biết làm bạn vui chơi cùng trẻ nhỏ, chẳng ngộ luân hồi báo ứng, tu tâm hướng thiện, chỉ lưu luyến gia đình, không biết tu tỉnh há có trí sao?
Đi đi lại lại mơ mơ hồ hồ, không rõ thời tiết ra sao há còn tín sao? Tam cương ngũ thường đã không hề biết tới, lại còn chẳng chịu sám hối học hỏi là cớ tại sao?”. Chim én nghe hỏi xong chẳng thể nói thêm vội vã bay đi không lời từ giã. Chúng sinh nghe xong cuộc đối thoại giữa chim nhạn và chim én chắc hẳn sẽ cảm xúc sâu xa, những điều vừa thuật lại ở trên sẽ mở trí người đời, tam cương ngũ thường là đạo lập thân, là thang lên trời há người ta chẳng học tập sao? Tin rằng mọi cá nhân đều nghĩ tới chuyện làm kẻ lương thiện để được người đời khen, hãy gắng đi lên.
Dương Sinh: Thưa ân sư, kể lại chuyện xa xưa, ngụ ý rất sâu, loài chim còn biết tranh luận, người đời ham chuyệ nthị phi, bản thân còn dở mà lại thích dạy điều hay lẽ phải, khác nào nhạn én đấu lý vừa rồi.
Tế Phật: Tục sĩ hỷ hoan thuyết thị phi. Bất tri phản tỉnh muội tâm vi.Vi nhân ưng thủ khẩu trung đức. Miễn đọa điểu thân ngữ loạn phi: Kẻ tục ham mê chuyện thị phi. Chẳng lo phản tỉnh dạ ngu si. Làm người phải nói điều nhân đức. Khỏi đọa làm chim tiếng loạn bay. Người đời phải tu khẩu đức, để tránh dùng lời nói để hại người, tạo ác nghiệp ngợp trời, tương lai bị đọa làm kiếp chim, ríu ra ríu rít, lời nói nhẹ như bay, giống như chim anh vũ bị nhốt trong lồng, sống đời khổ sở. Muôn việc phải chu toàn. Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn ở đây, chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh...
Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
#11
Gửi vào 04/09/2011 - 08:17
LUÂN HỒI DU KÝ
HỒI BỐN
GÀ TRỐNG GÁY VỐN VÌ TU KHẨU ĐỨC
LỪA NGỰA CHỞ NẶNG BỞI TRẢ NGHIỆP TRẦN
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 19 tháng 2 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Nhân kỳ lục súc vượng thành quần
Tư ủy tam san dụng lực cần
Phụ mẫu thâm tình đa đạm vọng
Sinh tài động vật giá cân cân.
Lung kê hữu thực thăng oa cận
Giã hạc vô lương thiên địa khoan
Phạ tử tham sinh nguyên nhất lý
Thành nhân thụ nghĩa nghiệp chướng hoàn.
Dịch
Nhân khi lục súc hợp thành đàn
Ba bữa cho ăn làm việc chăm
Cha mẹ tình thâm thường nhạt nhẽo
Kiếm lời động vật lợi muôn phần.
Gà nhà thực phẩm kề môi miệng
Hạc nội không lương rộng đất trời
Sợ chết tham sinh cùng một lẽ
Tu nhân tích đức nghiệp xa rời.
Tế Phật: Người đời nuôi súc vật đều mong nó sinh sôi nẩy nở thành đàn thành lũ, cho nên đã hết lòng hết sức chăm sóc chúng, một là để giúp đỡ công việc canh tác, hai là có thể bán lấy tiền. Cho nên sự hiếu thảo đối với cha mẹ nhiều khi còn thua kém, ngày ba bữa chăm lo đầy đủ, khi đau ốm liền được chạy chữa thuốc thang, nơi ăn chốn ở đều được sửa soạn sạch sẽ hợp vệ sinh. Khi cha mẹ đau ốm con cái liệu có lo lắng bằng không? Người đời nuôi gà, vịt, heo, bò đều mỗi ngày ba lần đúng giờ đúng giấc cho chúng ăn uống no nê, lỡ chúng bệnh hoạn, lập tức mời ngay thú y đến chữa trị. Chốn ở được dọn dẹp sạch sẽ, cùng rắc thuốc sát trùng, tất cả được phục vụ chu đáo. Còn đối với cha mẹ nếu như không làm được như vậy hẳn là phạm tội bất hiếu. Do đó những ai trót đã lầm lỗi, phải mau mau phản tỉnh sửa đổi tánh tình. Con người đều ham sống sợ chết, bị muỗi đốt cũng không chịu nổi, phải đập chết nó bằng được mới thôi.
Bị chê bai lòng đau như dao cắt, đùng đùng nổi giận, nhìn nhân loại đều thấy mọi người rất quý trọng sự sống củ amình, đó là lẽ đương nhiên. Kinh Hiếu có nói: “Thân thể tóc da, nhân từ cha mẹ, không được gây thương tổn, đó là đầu mối của đạo hiếu vậy”. Song ngược lại nếu vì quốc gia tận trung, vì dân tộc tận hiếu, hy sinh tính mạng, thì đó là đại trung đại hiếu, hy sinh cái ta bé nhỏ, hoàn thành cái ta to lớn. Một người xả thân có thể cứu hàng vạn sinh linh, cái chết này tuy chết mà không chết, nên gọi là “tái sinh” và linh hồn lên cõi trời, tiêu dao miền cực lạc, ngàn năm dân chúng hương hoa dâng cúng. Loài vật nhỏ bé, bị người giết làm thịt cũng là nghĩa cử hy sinh, cho nên người đời phải luôn luôn tỏ lòng biết ơn, chớ có lo ăn cho đầy bao tử rồi quên mọi sự. Dương sinh chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh, thưa bữa nay ân sư dẫn con tới phỏng vấn nơi nào?
Tế Phật: Năm nay là năm gà, chúng ta phải tới trại gà phỏng vấn.
Dương Sinh: Thưa hay lắm... Ngồi trên đài sen thuận chiều xuôi gió, trong đêm thanh vắng chẳng rõ nhà ai nuôi gà?
Tế Phật: Chúng ta tới trại nuôi gà Thái Bình Hương thuộc khu ngoại ô Đài Trung.
Dương Sinh: Chớp mắt đã tới nơi, chuồng nuôi gà thực to lớn. Đêm đã khuya, gà ngủ cả, chỉ còn lác đác ít con đang ăn.
Tế Phật: Những con đó ăn đêm là bởi thói quen, cho nên trong đêm tối vẫn kiếm thấy thực phẩm.
Dương Sinh: Thưa tại sao không nhìn thấy hình dạng người ở nơi chúng?
Tế Phật: Vì muốn giải tỏa sự mê lầm của đời nên thầy mới ra lệnh cho gà giữ nguyên hình, chỉ dùng lời nói của người để đàm đạo thôi, và có làm như vậy mới tăng thêm sự ly kỳ.
Dương Sinh: Thưa, gà có thể nói tiếng người?
Tế Phật: Đương nhiên có thể, ví như khi gà gáy sáng, mọi người nghe thấy đều ra khỏi giường đủ chứng tỏ người hiểu tiếng nói của gà.
Dương Sinh: Thưa ân sư dạy rất đúng.
Tế Phật: Hãy coi thầy ban pháp Phật giác ngộ chúng để chúng có thể nói chuyện bằng tiếng người... “Gà trống, gà trống cớ sao buổi sáng ngươi đều gáy?”.
Gà Trống: Thưa ngài, con đại biểu cho chuông sớm, vì con phải trả nghiệp nên mỗi buổi mai phải làm công việc kêu mọi người thức dậy. Bởi trời sinh như vậy chỉ trừ khi bị cúm, cổ ngứa cuống họng đau mới không gáy mà thôi.
Dương Sinh: Quả là có ý nghĩa, không gáy thì chẳng còn cảm thấy khoan khoái. Lai lịch của ngươi như thế nào, có thể tự giới thiệu để chúng sinh được rõ không?
Gà Trống: Thưa, thứ miễn cho tôi được không?
Dương Sinh: Tiếng gáy của ngươi hay lắm, cớ sao lại chố itừ ?
Gà Trống: Dẫu không được tha tội, tôi vẫn xin khai thực. Kiếp trước tôi là người làm ruộng, tính tình ngược ngạo, mỗi khi gặp chuyện bất bình đều lớn tiếng chửi bới, chẳng kể cha mẹ, người lớn tuổi cùng thân bằng quyến thuộc. Sách Tam Tự Kinh của thánh hiền tôi đã không chịu học lại còn dùng lời lẽ bất nhã bài xích. Cha mẹ thường rầy la tôi vì tội không giữ phép ngũ luân, tức năm mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè và cho là tôi không được bằng cầm thú, song tôi đã chẳng chịu hối cải lại còn nguyền rủa. Bản tính như vậy thực là khó sửa đổi. Chỉ vì ác khẩu một đời phạm tội với mọi người ở khắp nơi. Sau khi chết Diêm Vương phán đày tôi xuống địa ngục chịu hình phạt cắt lưỡi để rèn luyện lại tính linh tôi ,chịu hình phạt xong, cho tôi chuyển kiếp đầu thai làm gà trống, mà gà trống thì bản tính là hay chọi nhau.
Bởi không tu khẩu đức, chửi mắng cha mẹ và các bậc trưởng thượng nên phải chuyển kiếp làm gà trống, vào buổi sớm, lúc trời rạng đông, là phải hả họng gáy, nghểnh cao mãi cổ, dùng sức hô lớn: “Người đời ơi, thức dậy mau!”. Xin chớ bắt chước đời sống của tôi. Hàng ngày tôi báo thức mọi người, để họ trở dậy đi làm, tôi lập đức tạo công như vậy để chuộc tội kiếp trước. Bởi khi xưa không tôn trọng ngũ luân, nên giờ đây chuyển sinh làm kiếp gà trống, lúc xưa tôi nhìn thấy gà mẹ mắt hoa lên, không biết là gà mẹ đã sinh ra tôi, chỉ biết tận hưởng tình thương cùng sự chăm sóc của mẹ, bởi vậy người đời mới thường mắng là “quân súc sinh, chẳng giữ luân thường đạo đức”. Bị nghiệp lực dẫn dụ, khiến tôi không thể tự chủ, mới có những cử chỉ cùng hành động giống như cầm thú vậy. Hy vọng người đời chăm tu khẩu đức, chẳng thể nói năng bừa bãi, để rồi giống như tôi vào mỗi sáng sớm lại phải đưa cổ hả họng gáy o. o... Khi đó mới hối hận e chẳng kịp.
Tế Phật: Bị chuyển kiếp làm gà, chịu khổ vì lẽ báo ứng của nhân quả, ngươi chớ buồn rầu tuyệt vọng. Gà có năm đức: đầu có màu là “văn”, chân có cựa là “võ”, ngón có thể đấu là “dũng”, sáng sớm có thể gáy là “tín”, thấy đồ ăn kêu kẻ khác cùng ăn là “nghĩa”. Gà có năm đức này, còn ngườinhững ai có nổi? Gà tuy là một trong sáu loài gia súc người nuôi trong nhà, nhưng có nhiều tính tốt, mong người đời coi những đức tính đó là tấm gương.
Dương Sinh: Nghe gà trống thuật lại xong, thật là có nhiều điều răn đời thật ý nghĩa, không rõ lúc chúng bị bắt đem ra làm thịt cảm giác ra sao?
Tế Phật: Việc này phải phỏng vấn một gà mái khác, đã từng bị chuyển kiếp làm thân gà hai lần. Để thầy điểm hóa trước, sau đó mới có thể nghe gà mái thuật lại kinh nghiệm lúc bị giết cảm giác ra sao?
Dương Sinh: Xin nhà ngươi kể lại cuộc đời đầu tiên bị chuyển kiếp làm gà mái, khi bị bắt đem làm thịt cảm giác ra sao?
Gà Mái: Thưa khó mà thuật lại nổi, vì chỉ mới thoáng nghĩ tới thôi là tôi đã vô cùng kinh hãi rồi. Song tôi cũng cố gắng hết sức, kiếp trước tôi ở trong trại của một nhà nông, mà hiện thời người ta thích ăn thịt gà nuôi tự nhiên hơn là gà nuôi bằng thực phẩm chế biến bằng hóa chất. Lúc tôi phá vỏ trứng chui ra thấy ánh mặt trời, chủ nhân cho ăn gạo trắng, ít lâu sau đó mẹ tôi dẫn bảy anh chị em chúng tôi ra ngoài ruộng kiếm ăn trải hơn nữa năm thì chúng tôi khôn lớn. Một hôm có một người lái gà tới, họ đem theo nhiều chiếc lồng và hỏi chủ tôi có gà bán không? Chủ tôi trả lời: “Có có, song gà nuôi theo cách tự nhiên gi ámắc hơn”. Lái gà nói: “Đương nhiên, đương nhiên”. Thế là mạng sống chúng tôi kể như đã kết liễu từ đây. Lái gà tung lưới bắt, chúng tôi kinh hoàng chạy trốn, song chẳng thể kịp nào do đó bị vướng lưới và bị lái gà bắt bỏ vô lồng.
Chủ nhân nhận tiền trong lòng vui sướng, không hề nghĩ tới sự sống chết của chúng tôi. Chúng tôi bị đem ra chợ và lái gà rao với người bán rau là: “Gà nuôi theo tự nhiên một trăm phần trăm, thịt ngon lắm không đúng như vậy trả lại tiền”. Cứ như vậy từng con một phân tán tới mỗi nhà. Riêng tôi bị một bà mua về, bà ta rất lấy làm sung sướng mua được gà nuôi theo cách tự nhiên. Sau khi đem tôi về nhà liền đun nước sôi, dùng dao sắc cắt cổ tôi, tôi kêu thất thanh cùng giẫy giụa, máu tươi chảy xối xả, lực kiệt dần, bị thảy vào chậu nước sôi toàn thân nóng bỏng, hôn mê, hồnlìa khỏi xác. Khi được hướng dẫn tới âm phủ, vì nghiệp chướng còn phải trả nên tôi lại bị chuyển kiếp làm gà một lần nữa, kiếp này sau khi trả hết tội, sẽ được chuyển kiếp làm người.
Dương Sinh: Nghe lời gà mái thuật lại thực quả là thương tâm, song không rõ những người thích làm thịt gà ăn họ sẽ có cảm nghĩ thế nào?
Gà Mái: Loài người chỉ ăn được thịt tôi mà không ăn nổi hồn tôi. Kẻ giết tôi thì lúc bị giết vì kinh hoàng, linh hồn tôi bay loạn và nhào tới sau lưng họ. Nếu như sát sinh quá nhiều, các linh hồn chưa chuyển kiếp sẽ bu quanh kẻ sát sinh, thời gian sau, thân hình kẻ đó bị đồng hóa, nên vẻ mặt và dáng dấp hao hao giống loài vật đã bị họ giết chết.
Dương Sinh: Xin lỗi tạm ngắt lời, những điều vừa trình bày có đúng như sự thật vừa xảy ra không?
Tế Phật: Những điều gà mái trình bày đúng như sự thực, ví dụ như một kẻ cắp sách tới trường, thời gian sau sẽ có dáng dấp thư sinh, kẻ buôn bán có dáng dấp thương gia, kẻ làm ruộng có dáng vẻ nông phu, kẻ làm việc chân tay có dáng vẻ công nhân, đồ tể thân xác mang mùi tanh tưởi. Thân mẫu thầy Mạnh Tử phải dời nhà ba lần là muốn con mình được sống gần trường học, làm quen với tính hiế uhọc. Chơi với kẻ đánh bạc, sau sẽ trở thành người ham mê đỏ đen, giao du với người hiền sẽ trở thành lương thiện. Đó là tác dụng của sự thói quen bị nhiễm, tâm tính và hình dáng dung hòa, thường thân cận Thánh Phật tâm sẽ thành tâm Thánh, mặt sẽ thành mặt Phật, muôn sự cùng một lẽ cả.
Dương Sinh: Câu nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” quả là có ý nghĩa. Gà mái này, còn kẻ ăn thịt gà thì sao?
Gà Mái: Trình độ sinh hoạt của loài gà tuy có liên hệ vớisự tiến bộ của văn minh loài người, song về vệ sinh, ăn uống, chốn ở đều trong phạm vi một cái chuồng, nên mắc bệnh cúm rất nhiều, vì vậy mà thân thể bị nhiễm đầy chất độc của bệnh cúm. Bởi hình thể khác biệt, đau ốm không nói được, không thể chạy chữa thuốc thang, nên đành mang bệnh trong mình, song người đời lại dùng thịt đó nấu thức ăn, tưởng là ngon không ngờ rằng ăn thứ đó là mang bệnh vào thân. Tôi không đủ năng lực kêu gọi loài người đừng ăn thịt loài gà, chỉ mong rằng khi ăn thịt, phảichú ý tới vấn đề vệ sinh, tục ngữ có nói: “Bệnh tòng khẩu nhập” bệnh vào từ miệng, nếu như thích ăn gà, nghe nói ăn gà bệnh mà không ghét chúng tôi thì là điều hay lắm.
Dương Sinh: Gà mái nói rất thành khẩn, trong kinh sách thường nói: “Ăn tám lượng, trả nửa cân”. Há chẳng đúng với những điều vừa trình bày ở trên sao?
Gà Mái: Thưa tôi không dám nghĩ như vậy, song ăn thịt nhiều thì có hại, đó là sự thực. Có khi không chỉ trả nửa cân, mà còn phải trả cả mạng sống, thì biết nói sao đây? Nhiều người ăn đủ mọi thứ thịt, chất mỡ thừa nhiều, độc chất chứa lắm, máu bị nhiễm trược, cơ thể bị trúng phong, cao áp huyết, ung thư, cuối cùng các thứ thuốc không còn công hiệu, há chẳng phải là đền mạng sao?
Tế Phật: Đúng như vậy, người xưa ít có cơ hội ăn thịt, hiện tại đời sống vật chất cao, bữa ăn nào trong ngày cũng có thịt, vì ăn quá nhiều, dinh dưỡng quá tốt, do đó mà cái họa của bệnh giàu có của loài người càng ngày càng nhiều, các bác sĩ lắm khi đành chịu bó tay.
Dương Sinh: Xin ân sư điểm hóa cho con gà nhỏ này, giúp ký ức nó nhớ lại được, để con phỏng vấn.
Tế Phật: Được, ta ban pháp Phật... “Gà con, ngươi mới lìa đời, hãy mau khai rõ tại sao kiếp trước không tu để tới nỗi bữa nay phải sống trong lồng này?”.
Gà Con: Kiếp trước tôi là đứa trẻ bất lương, hàng ngày không chịu làm ăn lương thiện, chỉ say mê hút sách, lập bè kết đảng, trộm cướp, sách nhiễu cùng đè đầu bóp cổ kẻ hiền lương ở khắp nơi. Năm năm trước đây, vì đánh cướp tiền bạc ngay trên đường phố, bị cảnh sát bắt đưa ra tòa lãnh án tử hình. Sau khi chết linh hồn tôi bị quỷ hắc bạch vô thường áp giải xuống địa ngục, Diêm Vương xử hình phạt phải chuyển kiếp làm năm đời gà và vì mới đổi đời nên tất cả còn mơ mơ hồ hồ. Hiện tại phải sống trong trại gà này cũng là một hình phạt, thôi thì tới đâu hay tới đó, tôi chẳng còn biết nói gì hơn.
Tế Phật: Làm người mà đè hầu, siết cổ kẻ khác thì sẽ bị quả báo. Tuy nhiên Diêm Vương đã sớm cho ngươi đầu thai, cũng được sống qua ngày trong lồng sắt này, vậy phải gắng tu đi.
Dương Sinh: Đây là loại gà nuôi bằng thực phẩm chế tạo sẵn, mỗi ngày ba lần được chủ nhân đưa tới tận miệng cho mà ăn, thực là sung sướng, giống hệt như được nhân loại cung phụng vậy. Loại gà này vì bị nghiệp quả ác báo nên mới tới đây, sau khi nuôi lớn chủ nhân sẽ bán cho các lò thịt, theo lý mà nói như thế là tự chuộc hình phạt quả báo, chứ chẳng riêng trách người đời ham sát sinh.
Tế Phật: Hãy tạm đơn cử một trường hợp điển hình, thí dụ như có một kẻ thiếu nợ mình, mình không thể giết kẻ đó để đòi nợ, mà phải nhờ luật pháp giải quyết, hoặc dùn gphương pháp của pháp luật để đòi. Thánh Phật là nền tảng của tình nghĩa, nhân đức, không nỡ nhìn cảnh sinh linh bị hại, như đối với kẻ tàn ác vẫn đem lòng thương xót vậy. Vì đối với kẻ tu đạo, phải nuôi dưỡng lòng nhân từ, giữ nguyên linh thanh tịnh, ăn thịt những loài gia súc mà nó mang tội, vô hình trung tính linh của mình bị tính linh của nó làm ô nhiễm, ảnh hưởng tới công trình tu đạo. Hơn nữa ăn chay có thể tiết dục, tĩnh tâm, giúp ích cho sự tu đạo rất nhiều. Cơ thể máu thịt của súc sinh ô trược, tính linh dơ bẩn, ăn vào dục nhiều, thần tối. Cho nên từ cổ chí kim, phàm những kẻ tu đạo đều chủ trương ăn uống đạm bạc để tiết dục, đó là tất cả nguyên do.
Dương Sinh: Thưa, thì ra là vậy.
Tế Phật: Từ xưa tới nay, những kỳ tích hiển hóa của loài cầm thú có rất nhiều, thầy tạm kể chuyện “Cư sĩ họ Bàng đêm nghe lừa ngựa nói chuyện với nhau về nguyên nhân tiền kiếp, sau này giác ngộ tu đạo”. Ấn chứng này nên viết vào sách Luân Hồi Du Ký. Vào đời nhà Đường 618-907, tại phủ Tương Châu, huyện Hành Dương có một vị cư sĩ họ Bàng, tên Uẩn, tự Huyền Chúng, gia đình giàu có, dòng dõi thư hương, từ bé đã lãnh hội diệu pháp, lập chí mong giác ngộ chân lý. Lúc đầu thọ pháp thiền sư Thạch Đầu, sau lại nhập cửa đạo thiền sư Mã Tổ. Từ đó tâm tính liễu ngộ, thông suốt lý chân không. Bàng Công ngày thường là người thương xót kẻ cô quả nghèo khó, chuyên thi ân bố đức, tận lực cứu cấp kẻ hoạn nạn cùng khốn.
Vào thời đó có hai vị thương gia, tính chuyện kinh doanh mà không có vốn, bèn lại nhà Bàng Công hỏi mượn một ngàn lượng bạc. Bàng Công vui vẻ cho mượn, thương gia tính mang của đó đi để doanh thương, song quá nặng nề không thể mang đi nổi, Bàng Công liền cho thêm hai con lừa và ngựa giúp. Trên đường đi, lúc nghỉ chân dưới một gốc cây, hai thương gia đó bàn bạc với nhau rằng: “Bàng Công quả là người có từ tâm, lại còn không bắt mình làm giấy nợ, như vậy mình có thể đoạt luôn, không trả lại”. Nói xong thì con lừa liền trả lời bằng tiếng người là: “Kiếp trước tôi có mượn của anh ba thùng lúa, rồi tôi quỵt luôn không trả, kiếp này tôi bị làm thân lừa chở nặng đi ba chục dặm đường, để hoàn lại mónnợ mà tôi đã thiếu anh. Nợ của anh tôi đã trả xong bây giờ xin kiếu anh tôi về”.
Hai thương gia nghe lừa nói vậy hết sức kinh ngạc, liền vội vàng đem bạc trả lại, Bàng Công lấy làm lạ bèn hỏi: “Cớ sao trả lại bạc?”. Hai thương gia bèn thuật lại chuyện lừa nói tiếng người, cùng tả lại kinh nghiệm phải chuyển kiếp để trả nợ, và còn nói thêm với Bàng Công rằng: “Chúng tôi sợ rằng kiếp sau chính mình lại bị như vậy, do đó xin trả bạc lại ngài”. Sau đó hai thương gia cáo từ ra về. Bàng Công tới tối xuống chuồng lừa và ngựa thăm quả nhiên nghe tiếng lừa và ngựa thảo luận với nhau về việc kiếp này bị đầu thai làm thân súc sinh để trả nghiệp, bèn ngửa mặt lên trời than: “Ta vốn tưởng giúp người, không ngờ lại gây lụy cho người”. Quả là giác ngộ thâm sâu. Ít lâu sau lại đem hết tiền bạc của cải trong nhà lên một chiếc thuyền, chuẩn bị xong cho thuyền chạy ra khơi, khi thuyền rẽ vào một nhánh sông ở Hán Dương, đột nhiên có năm trăm tên cướp biển ào tới muốn cướp đoạt hết số bạc của Bàng Công. Bàng Công liền thuật chuyện hai thương gia mượn bạc, và lừa trả nợ kiếp trước đã vay cho chúng biết. Bọn cướp biển nghe xong vô cùng kinh hãi, trong lòng hết sức hối hận, nói: “Chúng con nguyện xuất gia tu hành, thề theo ngài trì trai tu đạo”. Bàng Công bèn đem hết bạc tặng cho chùa, để mua đồ chay cho năm trăm người ăn mà tu hành.
Về sau những người đó tu thành năm trăm vị la hán nổi danh. Bàng Công bỏ giàu vui nghèo, con gái làm việc tay chân sống qua ngày, con trai cầy ruộng nuôi thân, vợ chồng Bàng Công cùng hai con đều phát tâm tu hành. Bàng Công độ được năm trăm chúng sinh, lòng tràn đầy sung sướng, ngày đêm càng gắng tu luyện thêm, thọ bồ đề quả vị viên minh, được thăng cõi vô sinh vô diệt. Về sau, toàn gia quyến cũng đều tu thành chính quả, về cõi tây phương cực lạc. Người sau có thơ khen ngợi rằng: Hảo tại hồi tâm hướng thiện tu. Tá tiền phụ bản tác lư ngưu. Tâm trung tàng độc nan đào khổ. Vô nghĩa tiền tài mạc đắc cầu Quý ở hồi tâm hướng thiện tu. Mượn tiền phu gốc kiếp trâu bò. Dạ còn chứa độc đời đau khổ. Tiền của tham lam bỏ phứt đi. Chúng sinh đã nghe những lời tự thuật về nhân quả kiếp trước của lũ gà, lừa, ngựa, chắc hẳn phải tin nơi thuyết nhân quả báo ứng là có thực. Do đó phải giác ngộ quay về chính đạo, thành thực tu hành mới tránh khỏi đi vào đường bất chính, đọa lạc trầm luân ác đạo. Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn ở đây, chúng ta chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh...
Tế Phật: Đã tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI BỐN
GÀ TRỐNG GÁY VỐN VÌ TU KHẨU ĐỨC
LỪA NGỰA CHỞ NẶNG BỞI TRẢ NGHIỆP TRẦN
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 19 tháng 2 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Nhân kỳ lục súc vượng thành quần
Tư ủy tam san dụng lực cần
Phụ mẫu thâm tình đa đạm vọng
Sinh tài động vật giá cân cân.
Lung kê hữu thực thăng oa cận
Giã hạc vô lương thiên địa khoan
Phạ tử tham sinh nguyên nhất lý
Thành nhân thụ nghĩa nghiệp chướng hoàn.
Dịch
Nhân khi lục súc hợp thành đàn
Ba bữa cho ăn làm việc chăm
Cha mẹ tình thâm thường nhạt nhẽo
Kiếm lời động vật lợi muôn phần.
Gà nhà thực phẩm kề môi miệng
Hạc nội không lương rộng đất trời
Sợ chết tham sinh cùng một lẽ
Tu nhân tích đức nghiệp xa rời.
Tế Phật: Người đời nuôi súc vật đều mong nó sinh sôi nẩy nở thành đàn thành lũ, cho nên đã hết lòng hết sức chăm sóc chúng, một là để giúp đỡ công việc canh tác, hai là có thể bán lấy tiền. Cho nên sự hiếu thảo đối với cha mẹ nhiều khi còn thua kém, ngày ba bữa chăm lo đầy đủ, khi đau ốm liền được chạy chữa thuốc thang, nơi ăn chốn ở đều được sửa soạn sạch sẽ hợp vệ sinh. Khi cha mẹ đau ốm con cái liệu có lo lắng bằng không? Người đời nuôi gà, vịt, heo, bò đều mỗi ngày ba lần đúng giờ đúng giấc cho chúng ăn uống no nê, lỡ chúng bệnh hoạn, lập tức mời ngay thú y đến chữa trị. Chốn ở được dọn dẹp sạch sẽ, cùng rắc thuốc sát trùng, tất cả được phục vụ chu đáo. Còn đối với cha mẹ nếu như không làm được như vậy hẳn là phạm tội bất hiếu. Do đó những ai trót đã lầm lỗi, phải mau mau phản tỉnh sửa đổi tánh tình. Con người đều ham sống sợ chết, bị muỗi đốt cũng không chịu nổi, phải đập chết nó bằng được mới thôi.
Bị chê bai lòng đau như dao cắt, đùng đùng nổi giận, nhìn nhân loại đều thấy mọi người rất quý trọng sự sống củ amình, đó là lẽ đương nhiên. Kinh Hiếu có nói: “Thân thể tóc da, nhân từ cha mẹ, không được gây thương tổn, đó là đầu mối của đạo hiếu vậy”. Song ngược lại nếu vì quốc gia tận trung, vì dân tộc tận hiếu, hy sinh tính mạng, thì đó là đại trung đại hiếu, hy sinh cái ta bé nhỏ, hoàn thành cái ta to lớn. Một người xả thân có thể cứu hàng vạn sinh linh, cái chết này tuy chết mà không chết, nên gọi là “tái sinh” và linh hồn lên cõi trời, tiêu dao miền cực lạc, ngàn năm dân chúng hương hoa dâng cúng. Loài vật nhỏ bé, bị người giết làm thịt cũng là nghĩa cử hy sinh, cho nên người đời phải luôn luôn tỏ lòng biết ơn, chớ có lo ăn cho đầy bao tử rồi quên mọi sự. Dương sinh chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Xin vâng lệnh, thưa bữa nay ân sư dẫn con tới phỏng vấn nơi nào?
Tế Phật: Năm nay là năm gà, chúng ta phải tới trại gà phỏng vấn.
Dương Sinh: Thưa hay lắm... Ngồi trên đài sen thuận chiều xuôi gió, trong đêm thanh vắng chẳng rõ nhà ai nuôi gà?
Tế Phật: Chúng ta tới trại nuôi gà Thái Bình Hương thuộc khu ngoại ô Đài Trung.
Dương Sinh: Chớp mắt đã tới nơi, chuồng nuôi gà thực to lớn. Đêm đã khuya, gà ngủ cả, chỉ còn lác đác ít con đang ăn.
Tế Phật: Những con đó ăn đêm là bởi thói quen, cho nên trong đêm tối vẫn kiếm thấy thực phẩm.
Dương Sinh: Thưa tại sao không nhìn thấy hình dạng người ở nơi chúng?
Tế Phật: Vì muốn giải tỏa sự mê lầm của đời nên thầy mới ra lệnh cho gà giữ nguyên hình, chỉ dùng lời nói của người để đàm đạo thôi, và có làm như vậy mới tăng thêm sự ly kỳ.
Dương Sinh: Thưa, gà có thể nói tiếng người?
Tế Phật: Đương nhiên có thể, ví như khi gà gáy sáng, mọi người nghe thấy đều ra khỏi giường đủ chứng tỏ người hiểu tiếng nói của gà.
Dương Sinh: Thưa ân sư dạy rất đúng.
Tế Phật: Hãy coi thầy ban pháp Phật giác ngộ chúng để chúng có thể nói chuyện bằng tiếng người... “Gà trống, gà trống cớ sao buổi sáng ngươi đều gáy?”.
Gà Trống: Thưa ngài, con đại biểu cho chuông sớm, vì con phải trả nghiệp nên mỗi buổi mai phải làm công việc kêu mọi người thức dậy. Bởi trời sinh như vậy chỉ trừ khi bị cúm, cổ ngứa cuống họng đau mới không gáy mà thôi.
Dương Sinh: Quả là có ý nghĩa, không gáy thì chẳng còn cảm thấy khoan khoái. Lai lịch của ngươi như thế nào, có thể tự giới thiệu để chúng sinh được rõ không?
Gà Trống: Thưa, thứ miễn cho tôi được không?
Dương Sinh: Tiếng gáy của ngươi hay lắm, cớ sao lại chố itừ ?
Gà Trống: Dẫu không được tha tội, tôi vẫn xin khai thực. Kiếp trước tôi là người làm ruộng, tính tình ngược ngạo, mỗi khi gặp chuyện bất bình đều lớn tiếng chửi bới, chẳng kể cha mẹ, người lớn tuổi cùng thân bằng quyến thuộc. Sách Tam Tự Kinh của thánh hiền tôi đã không chịu học lại còn dùng lời lẽ bất nhã bài xích. Cha mẹ thường rầy la tôi vì tội không giữ phép ngũ luân, tức năm mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè và cho là tôi không được bằng cầm thú, song tôi đã chẳng chịu hối cải lại còn nguyền rủa. Bản tính như vậy thực là khó sửa đổi. Chỉ vì ác khẩu một đời phạm tội với mọi người ở khắp nơi. Sau khi chết Diêm Vương phán đày tôi xuống địa ngục chịu hình phạt cắt lưỡi để rèn luyện lại tính linh tôi ,chịu hình phạt xong, cho tôi chuyển kiếp đầu thai làm gà trống, mà gà trống thì bản tính là hay chọi nhau.
Bởi không tu khẩu đức, chửi mắng cha mẹ và các bậc trưởng thượng nên phải chuyển kiếp làm gà trống, vào buổi sớm, lúc trời rạng đông, là phải hả họng gáy, nghểnh cao mãi cổ, dùng sức hô lớn: “Người đời ơi, thức dậy mau!”. Xin chớ bắt chước đời sống của tôi. Hàng ngày tôi báo thức mọi người, để họ trở dậy đi làm, tôi lập đức tạo công như vậy để chuộc tội kiếp trước. Bởi khi xưa không tôn trọng ngũ luân, nên giờ đây chuyển sinh làm kiếp gà trống, lúc xưa tôi nhìn thấy gà mẹ mắt hoa lên, không biết là gà mẹ đã sinh ra tôi, chỉ biết tận hưởng tình thương cùng sự chăm sóc của mẹ, bởi vậy người đời mới thường mắng là “quân súc sinh, chẳng giữ luân thường đạo đức”. Bị nghiệp lực dẫn dụ, khiến tôi không thể tự chủ, mới có những cử chỉ cùng hành động giống như cầm thú vậy. Hy vọng người đời chăm tu khẩu đức, chẳng thể nói năng bừa bãi, để rồi giống như tôi vào mỗi sáng sớm lại phải đưa cổ hả họng gáy o. o... Khi đó mới hối hận e chẳng kịp.
Tế Phật: Bị chuyển kiếp làm gà, chịu khổ vì lẽ báo ứng của nhân quả, ngươi chớ buồn rầu tuyệt vọng. Gà có năm đức: đầu có màu là “văn”, chân có cựa là “võ”, ngón có thể đấu là “dũng”, sáng sớm có thể gáy là “tín”, thấy đồ ăn kêu kẻ khác cùng ăn là “nghĩa”. Gà có năm đức này, còn ngườinhững ai có nổi? Gà tuy là một trong sáu loài gia súc người nuôi trong nhà, nhưng có nhiều tính tốt, mong người đời coi những đức tính đó là tấm gương.
Dương Sinh: Nghe gà trống thuật lại xong, thật là có nhiều điều răn đời thật ý nghĩa, không rõ lúc chúng bị bắt đem ra làm thịt cảm giác ra sao?
Tế Phật: Việc này phải phỏng vấn một gà mái khác, đã từng bị chuyển kiếp làm thân gà hai lần. Để thầy điểm hóa trước, sau đó mới có thể nghe gà mái thuật lại kinh nghiệm lúc bị giết cảm giác ra sao?
Dương Sinh: Xin nhà ngươi kể lại cuộc đời đầu tiên bị chuyển kiếp làm gà mái, khi bị bắt đem làm thịt cảm giác ra sao?
Gà Mái: Thưa khó mà thuật lại nổi, vì chỉ mới thoáng nghĩ tới thôi là tôi đã vô cùng kinh hãi rồi. Song tôi cũng cố gắng hết sức, kiếp trước tôi ở trong trại của một nhà nông, mà hiện thời người ta thích ăn thịt gà nuôi tự nhiên hơn là gà nuôi bằng thực phẩm chế biến bằng hóa chất. Lúc tôi phá vỏ trứng chui ra thấy ánh mặt trời, chủ nhân cho ăn gạo trắng, ít lâu sau đó mẹ tôi dẫn bảy anh chị em chúng tôi ra ngoài ruộng kiếm ăn trải hơn nữa năm thì chúng tôi khôn lớn. Một hôm có một người lái gà tới, họ đem theo nhiều chiếc lồng và hỏi chủ tôi có gà bán không? Chủ tôi trả lời: “Có có, song gà nuôi theo cách tự nhiên gi ámắc hơn”. Lái gà nói: “Đương nhiên, đương nhiên”. Thế là mạng sống chúng tôi kể như đã kết liễu từ đây. Lái gà tung lưới bắt, chúng tôi kinh hoàng chạy trốn, song chẳng thể kịp nào do đó bị vướng lưới và bị lái gà bắt bỏ vô lồng.
Chủ nhân nhận tiền trong lòng vui sướng, không hề nghĩ tới sự sống chết của chúng tôi. Chúng tôi bị đem ra chợ và lái gà rao với người bán rau là: “Gà nuôi theo tự nhiên một trăm phần trăm, thịt ngon lắm không đúng như vậy trả lại tiền”. Cứ như vậy từng con một phân tán tới mỗi nhà. Riêng tôi bị một bà mua về, bà ta rất lấy làm sung sướng mua được gà nuôi theo cách tự nhiên. Sau khi đem tôi về nhà liền đun nước sôi, dùng dao sắc cắt cổ tôi, tôi kêu thất thanh cùng giẫy giụa, máu tươi chảy xối xả, lực kiệt dần, bị thảy vào chậu nước sôi toàn thân nóng bỏng, hôn mê, hồnlìa khỏi xác. Khi được hướng dẫn tới âm phủ, vì nghiệp chướng còn phải trả nên tôi lại bị chuyển kiếp làm gà một lần nữa, kiếp này sau khi trả hết tội, sẽ được chuyển kiếp làm người.
Dương Sinh: Nghe lời gà mái thuật lại thực quả là thương tâm, song không rõ những người thích làm thịt gà ăn họ sẽ có cảm nghĩ thế nào?
Gà Mái: Loài người chỉ ăn được thịt tôi mà không ăn nổi hồn tôi. Kẻ giết tôi thì lúc bị giết vì kinh hoàng, linh hồn tôi bay loạn và nhào tới sau lưng họ. Nếu như sát sinh quá nhiều, các linh hồn chưa chuyển kiếp sẽ bu quanh kẻ sát sinh, thời gian sau, thân hình kẻ đó bị đồng hóa, nên vẻ mặt và dáng dấp hao hao giống loài vật đã bị họ giết chết.
Dương Sinh: Xin lỗi tạm ngắt lời, những điều vừa trình bày có đúng như sự thật vừa xảy ra không?
Tế Phật: Những điều gà mái trình bày đúng như sự thực, ví dụ như một kẻ cắp sách tới trường, thời gian sau sẽ có dáng dấp thư sinh, kẻ buôn bán có dáng dấp thương gia, kẻ làm ruộng có dáng vẻ nông phu, kẻ làm việc chân tay có dáng vẻ công nhân, đồ tể thân xác mang mùi tanh tưởi. Thân mẫu thầy Mạnh Tử phải dời nhà ba lần là muốn con mình được sống gần trường học, làm quen với tính hiế uhọc. Chơi với kẻ đánh bạc, sau sẽ trở thành người ham mê đỏ đen, giao du với người hiền sẽ trở thành lương thiện. Đó là tác dụng của sự thói quen bị nhiễm, tâm tính và hình dáng dung hòa, thường thân cận Thánh Phật tâm sẽ thành tâm Thánh, mặt sẽ thành mặt Phật, muôn sự cùng một lẽ cả.
Dương Sinh: Câu nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” quả là có ý nghĩa. Gà mái này, còn kẻ ăn thịt gà thì sao?
Gà Mái: Trình độ sinh hoạt của loài gà tuy có liên hệ vớisự tiến bộ của văn minh loài người, song về vệ sinh, ăn uống, chốn ở đều trong phạm vi một cái chuồng, nên mắc bệnh cúm rất nhiều, vì vậy mà thân thể bị nhiễm đầy chất độc của bệnh cúm. Bởi hình thể khác biệt, đau ốm không nói được, không thể chạy chữa thuốc thang, nên đành mang bệnh trong mình, song người đời lại dùng thịt đó nấu thức ăn, tưởng là ngon không ngờ rằng ăn thứ đó là mang bệnh vào thân. Tôi không đủ năng lực kêu gọi loài người đừng ăn thịt loài gà, chỉ mong rằng khi ăn thịt, phảichú ý tới vấn đề vệ sinh, tục ngữ có nói: “Bệnh tòng khẩu nhập” bệnh vào từ miệng, nếu như thích ăn gà, nghe nói ăn gà bệnh mà không ghét chúng tôi thì là điều hay lắm.
Dương Sinh: Gà mái nói rất thành khẩn, trong kinh sách thường nói: “Ăn tám lượng, trả nửa cân”. Há chẳng đúng với những điều vừa trình bày ở trên sao?
Gà Mái: Thưa tôi không dám nghĩ như vậy, song ăn thịt nhiều thì có hại, đó là sự thực. Có khi không chỉ trả nửa cân, mà còn phải trả cả mạng sống, thì biết nói sao đây? Nhiều người ăn đủ mọi thứ thịt, chất mỡ thừa nhiều, độc chất chứa lắm, máu bị nhiễm trược, cơ thể bị trúng phong, cao áp huyết, ung thư, cuối cùng các thứ thuốc không còn công hiệu, há chẳng phải là đền mạng sao?
Tế Phật: Đúng như vậy, người xưa ít có cơ hội ăn thịt, hiện tại đời sống vật chất cao, bữa ăn nào trong ngày cũng có thịt, vì ăn quá nhiều, dinh dưỡng quá tốt, do đó mà cái họa của bệnh giàu có của loài người càng ngày càng nhiều, các bác sĩ lắm khi đành chịu bó tay.
Dương Sinh: Xin ân sư điểm hóa cho con gà nhỏ này, giúp ký ức nó nhớ lại được, để con phỏng vấn.
Tế Phật: Được, ta ban pháp Phật... “Gà con, ngươi mới lìa đời, hãy mau khai rõ tại sao kiếp trước không tu để tới nỗi bữa nay phải sống trong lồng này?”.
Gà Con: Kiếp trước tôi là đứa trẻ bất lương, hàng ngày không chịu làm ăn lương thiện, chỉ say mê hút sách, lập bè kết đảng, trộm cướp, sách nhiễu cùng đè đầu bóp cổ kẻ hiền lương ở khắp nơi. Năm năm trước đây, vì đánh cướp tiền bạc ngay trên đường phố, bị cảnh sát bắt đưa ra tòa lãnh án tử hình. Sau khi chết linh hồn tôi bị quỷ hắc bạch vô thường áp giải xuống địa ngục, Diêm Vương xử hình phạt phải chuyển kiếp làm năm đời gà và vì mới đổi đời nên tất cả còn mơ mơ hồ hồ. Hiện tại phải sống trong trại gà này cũng là một hình phạt, thôi thì tới đâu hay tới đó, tôi chẳng còn biết nói gì hơn.
Tế Phật: Làm người mà đè hầu, siết cổ kẻ khác thì sẽ bị quả báo. Tuy nhiên Diêm Vương đã sớm cho ngươi đầu thai, cũng được sống qua ngày trong lồng sắt này, vậy phải gắng tu đi.
Dương Sinh: Đây là loại gà nuôi bằng thực phẩm chế tạo sẵn, mỗi ngày ba lần được chủ nhân đưa tới tận miệng cho mà ăn, thực là sung sướng, giống hệt như được nhân loại cung phụng vậy. Loại gà này vì bị nghiệp quả ác báo nên mới tới đây, sau khi nuôi lớn chủ nhân sẽ bán cho các lò thịt, theo lý mà nói như thế là tự chuộc hình phạt quả báo, chứ chẳng riêng trách người đời ham sát sinh.
Tế Phật: Hãy tạm đơn cử một trường hợp điển hình, thí dụ như có một kẻ thiếu nợ mình, mình không thể giết kẻ đó để đòi nợ, mà phải nhờ luật pháp giải quyết, hoặc dùn gphương pháp của pháp luật để đòi. Thánh Phật là nền tảng của tình nghĩa, nhân đức, không nỡ nhìn cảnh sinh linh bị hại, như đối với kẻ tàn ác vẫn đem lòng thương xót vậy. Vì đối với kẻ tu đạo, phải nuôi dưỡng lòng nhân từ, giữ nguyên linh thanh tịnh, ăn thịt những loài gia súc mà nó mang tội, vô hình trung tính linh của mình bị tính linh của nó làm ô nhiễm, ảnh hưởng tới công trình tu đạo. Hơn nữa ăn chay có thể tiết dục, tĩnh tâm, giúp ích cho sự tu đạo rất nhiều. Cơ thể máu thịt của súc sinh ô trược, tính linh dơ bẩn, ăn vào dục nhiều, thần tối. Cho nên từ cổ chí kim, phàm những kẻ tu đạo đều chủ trương ăn uống đạm bạc để tiết dục, đó là tất cả nguyên do.
Dương Sinh: Thưa, thì ra là vậy.
Tế Phật: Từ xưa tới nay, những kỳ tích hiển hóa của loài cầm thú có rất nhiều, thầy tạm kể chuyện “Cư sĩ họ Bàng đêm nghe lừa ngựa nói chuyện với nhau về nguyên nhân tiền kiếp, sau này giác ngộ tu đạo”. Ấn chứng này nên viết vào sách Luân Hồi Du Ký. Vào đời nhà Đường 618-907, tại phủ Tương Châu, huyện Hành Dương có một vị cư sĩ họ Bàng, tên Uẩn, tự Huyền Chúng, gia đình giàu có, dòng dõi thư hương, từ bé đã lãnh hội diệu pháp, lập chí mong giác ngộ chân lý. Lúc đầu thọ pháp thiền sư Thạch Đầu, sau lại nhập cửa đạo thiền sư Mã Tổ. Từ đó tâm tính liễu ngộ, thông suốt lý chân không. Bàng Công ngày thường là người thương xót kẻ cô quả nghèo khó, chuyên thi ân bố đức, tận lực cứu cấp kẻ hoạn nạn cùng khốn.
Vào thời đó có hai vị thương gia, tính chuyện kinh doanh mà không có vốn, bèn lại nhà Bàng Công hỏi mượn một ngàn lượng bạc. Bàng Công vui vẻ cho mượn, thương gia tính mang của đó đi để doanh thương, song quá nặng nề không thể mang đi nổi, Bàng Công liền cho thêm hai con lừa và ngựa giúp. Trên đường đi, lúc nghỉ chân dưới một gốc cây, hai thương gia đó bàn bạc với nhau rằng: “Bàng Công quả là người có từ tâm, lại còn không bắt mình làm giấy nợ, như vậy mình có thể đoạt luôn, không trả lại”. Nói xong thì con lừa liền trả lời bằng tiếng người là: “Kiếp trước tôi có mượn của anh ba thùng lúa, rồi tôi quỵt luôn không trả, kiếp này tôi bị làm thân lừa chở nặng đi ba chục dặm đường, để hoàn lại mónnợ mà tôi đã thiếu anh. Nợ của anh tôi đã trả xong bây giờ xin kiếu anh tôi về”.
Hai thương gia nghe lừa nói vậy hết sức kinh ngạc, liền vội vàng đem bạc trả lại, Bàng Công lấy làm lạ bèn hỏi: “Cớ sao trả lại bạc?”. Hai thương gia bèn thuật lại chuyện lừa nói tiếng người, cùng tả lại kinh nghiệm phải chuyển kiếp để trả nợ, và còn nói thêm với Bàng Công rằng: “Chúng tôi sợ rằng kiếp sau chính mình lại bị như vậy, do đó xin trả bạc lại ngài”. Sau đó hai thương gia cáo từ ra về. Bàng Công tới tối xuống chuồng lừa và ngựa thăm quả nhiên nghe tiếng lừa và ngựa thảo luận với nhau về việc kiếp này bị đầu thai làm thân súc sinh để trả nghiệp, bèn ngửa mặt lên trời than: “Ta vốn tưởng giúp người, không ngờ lại gây lụy cho người”. Quả là giác ngộ thâm sâu. Ít lâu sau lại đem hết tiền bạc của cải trong nhà lên một chiếc thuyền, chuẩn bị xong cho thuyền chạy ra khơi, khi thuyền rẽ vào một nhánh sông ở Hán Dương, đột nhiên có năm trăm tên cướp biển ào tới muốn cướp đoạt hết số bạc của Bàng Công. Bàng Công liền thuật chuyện hai thương gia mượn bạc, và lừa trả nợ kiếp trước đã vay cho chúng biết. Bọn cướp biển nghe xong vô cùng kinh hãi, trong lòng hết sức hối hận, nói: “Chúng con nguyện xuất gia tu hành, thề theo ngài trì trai tu đạo”. Bàng Công bèn đem hết bạc tặng cho chùa, để mua đồ chay cho năm trăm người ăn mà tu hành.
Về sau những người đó tu thành năm trăm vị la hán nổi danh. Bàng Công bỏ giàu vui nghèo, con gái làm việc tay chân sống qua ngày, con trai cầy ruộng nuôi thân, vợ chồng Bàng Công cùng hai con đều phát tâm tu hành. Bàng Công độ được năm trăm chúng sinh, lòng tràn đầy sung sướng, ngày đêm càng gắng tu luyện thêm, thọ bồ đề quả vị viên minh, được thăng cõi vô sinh vô diệt. Về sau, toàn gia quyến cũng đều tu thành chính quả, về cõi tây phương cực lạc. Người sau có thơ khen ngợi rằng: Hảo tại hồi tâm hướng thiện tu. Tá tiền phụ bản tác lư ngưu. Tâm trung tàng độc nan đào khổ. Vô nghĩa tiền tài mạc đắc cầu Quý ở hồi tâm hướng thiện tu. Mượn tiền phu gốc kiếp trâu bò. Dạ còn chứa độc đời đau khổ. Tiền của tham lam bỏ phứt đi. Chúng sinh đã nghe những lời tự thuật về nhân quả kiếp trước của lũ gà, lừa, ngựa, chắc hẳn phải tin nơi thuyết nhân quả báo ứng là có thực. Do đó phải giác ngộ quay về chính đạo, thành thực tu hành mới tránh khỏi đi vào đường bất chính, đọa lạc trầm luân ác đạo. Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn ở đây, chúng ta chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh...
Tế Phật: Đã tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
#12
Gửi vào 04/09/2011 - 08:25
LUÂN HỒI DU KÝ
HỒI NĂM
THAM DÂM HIẾU SẮC CHUYỂN KIẾP LÀM HƯƠU NÚI
CỎ BIẾC RỪNG SÂU THANH TỊNH CHUỘC LỖI XƯA
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 7 tháng 3 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Thâm sơn hoạt hữu thiên niên thụ
Thế thượng nan phùng bách tuế nhân
Tử trúc vô trần quan tự tại
Bồ đề biến bố tính thiên chân.
Dã lộc phi bôn lục thảo nguyên
Thanh sơn vi bạn tác gia viên
Tiên nhung đại bổ hòa đơn dược
Tự oán phong lưu dục đoạn hồn.
Dịch
Núi sâu cây thọ hàng ngàn tuổi
Kẻ tục trăm năm khó sống còn
Trúc tía sạch trong nhìn thực tại
Bồ đề giữ vẹn tính trời ban.
Hươu rừng đùa giỡn cỏ xanh rờn
Bầu bạn cửa nhà ấy núi non
Thuốc bổ sừng nai bồi dưỡng thận
Phong lưu chán ghét táng linh hồn.
Tế Phật: Khoa học tiến bộ, ngành y dược phát triển, rất nhiều chuyên gia ngày đêm gia sức nghiên cứu, làm cách nào để có thể giúp nhân loại cải lão hoàn đồng, sống lâu trăm tuổi. Kỹ thuật chỉnh hình càng ngày càng tinh vi, nào như lột da mặt, cấy da non, nhờ vậy mà con người có thể giữ gìn được cơ thể trẻ đẹp lâu. Song dầu sao thì cũng chỉ duy trì được làn da phẳng phiu, còn tuổi thọ trăm năm cũng rất hiếm. Trong chốn rừng sâu, cây cao đụng mây trời, không cần người chăm bón, coi sóc mà vẫn chống chọi nổi gió mưa, giông bão không hề ngã nghiêng xiêu đổ, tồn tại cả mấy ngàn năm. Đó chính là nhờ gốc rễ vững chắc, kiên trì đứng ngay ngắn, tơ tóc chẳng dời một bước, sinh ở đâu chết ở đó, tuân theo sự vận hành của tạo hóa và trời đất, nghiễm nhiên sống thọ nuôi dưỡng được cá tính tự lập kiên cường; không có cảnh chiến tranh chém giết cùng tính dục tự hủy hoại mình như loài người, nên mới có thể thọ bao ngàn năm và được gọi là cây thần. Người đời nghiên cứu đồ ăn kỹ càng, y phục tìm tòi mới mẻ, da dẻ mặt mày giữ gìn cẩn thận, thuốc thang bổ béo mỗi ngày dùng một loại song vẫn chẳng thể sống tới hai trăm tuổi là tại sao? Theo ta thấy thì người đời quá cực nhọc, nên chẳng thể giữ vững được số phận. Bữa nay ta hướng dẫn Dương Sinh tìm câu trả lời này.
Dương Sinh: Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đây là vùng núi A Lý thâm sâu. Bữa nay mình tới phỏng vấn hươu rừng.
Dương Sinh: Bốn bề núi sâu không thấy khói bếp nhà người, chỉ thấy phía trước có bốn con hươu núi đang nằm nghỉ ngơi. Thưa ân sư, làm cách nào để phỏng vấn đám hươu kia?
Tế Phật: Để thầy ban chút pháp giúp bản tính chúng thức tỉnh: “Hươu núi ơi, đừng ngủ nữa hãy dậy đi, thợ săn tới kìa, chạy mau đi… ha ha”. (Con thấy hươu núi nghe lời thầy như chợt tỉnh choàng giấc mộng, đứng phắt lên định bỏ chạy. Song trời tối đen như mực, chạy đi hướng nào? Thầy phóng hào quang Phật, hươu thấy ánh sáng, chắc chắn tiến lại phía ta).
Dương Sinh: Hươu núi nghe lời ân sư nói, quả nhiên thấu hiểu.
Tế Phật: Pháp Phật vô biên, lời nói của ta, đối với người tuy không khác, song lời Phật, lời pháp mỗi tiếng rung chuyển con tim mãnh liệt, hươu nghe tự nhiên lãnh hội được. Lời nói của Tiên Phật là lời nói thực, nói đúng, Tiên Phật dùng loại ngôn ngữ tâm linh thuyết pháp với mọi loài chúng sinh, nên khi nghe tất cả đều hiểu rõ.
Dương Sinh: Quả thực là linh diệu quá mức. Chúng sinh hình thể khác nhau, song tính Phật ngang nhau, có một số động vật còn có thể biết tính người, nghe lời chỉ dạy của người, ngược lại đời có lắm kẻ chẳng chịu nghe lời khuyên bảo tốt lành của Tiên Phật, cứ hành động ngang ngược tối tăm. Bởi vậy mới rõ thế giới tâm linh có ngôn ngữ cùng tính Phật bình đẳng chung.
Tế Phật: Dương Sinh nhận xét rất đúng. Con có thể phỏng vấn hươu núi được rồi.
Dương Sinh: Xin ân sư điểm hóa giúp hươu ghi nhận để tiện phỏng vấn.
Tế Phật: Vừa rồi thầy đã ban chút Phật pháp, giờ điểm hóa thêm để nâng cao nguyên linh giác ngộ của hươu. “Hươu núi nhìn rõ tay ta, tay Phật điểm tâm Phật, tay Phật mở cửa Phật, tay Phật độ chúng sinh, tay Phật diệt ma chướng, tay Phật nắm tay Phật, ngươi và ta cùng thành Phật. Hươu vốn là của báu chốn núi sâu, tính thuần dương, sống ở núi xanh trời đất là nhà, tu thân tự yêu, thân gồm kim đan, chạy nhảy như bay, phấp phới muốn thành tiên, loài thú tiên, thú tiên, sớm hiểu nguồn cội…”.
Dương Sinh: Ân sư dùng quạt bồ quạt trên đầu mỗi con hươu, đột nhiên thấy trên đầu hươu núi có một luồng ánh sáng xanh, không rõ nguyên nhân tại sao?
Tế Phật: Hươu núi từ khi sinh ra tới nay, chuyên sống giữa cảnh núi xanh nước biếc. Cỏ là tinh hoa của đất, nước là suối của trời. Tới lui qua lại trên đất rộng, hưởng thụ tinh anh của mặt trời mặt trăng tỏa chiếu, hàm dưỡng thân thể thuần dương, bây giờ thầy ban pháp giúp linh khiếu của hươu khai mở cho nên mới thấy luồng khí tía bay lên.
Dương Sinh: Quả là thần diệu, đạo hạnh của hươu núi thực là thâm hậu.
Tế Phật: Dương Sinh có thể bắt đầu cuộc phỏng vấn hươu núi.
Dương Sinh: Thưa vâng. Xin hỏi đời sống của hươu ở trong núi sâu như thế nào?
Hươu Núi: Thưa vị là ai? Tại sao lại đập đầu tôi? Hiện thời chân tôi đứng không vững, có cảm giác muốn bay bổng lên không.
Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, còn đây là sư phụ Tế Phật, ngài phụng chỉ hướng dẫn tôi soạn sách Luân Hồi Du Ký, bữa nay trước tiên đến đây phỏng vấn, xin chớ ngạc nhiên kinh dị.
Hươu Núi: Thưa, à thì ra nguyên nhân là như vậy, đức Phật Sống Tế Công đã ban pháp khai mở linh khiếu cho, thực là ân đức vô lượng, chúng con xin cúi đầu lạy tạ...
Tế Phật: Miễn lễ, hãy mau mau trả lời những câu hỏi của Dương Sinh.
Hươu Núi: Xin tuân lệnh, Dương thiện sĩ hồi nãy có hỏi về cuộc sống ở đây như thế nào? Giờ đây xin thưa rằng: “Từ khi lọt lòng mẹ tới nay, ngày đêm làm bạn cùng núi xanh, ăn cỏ non, uống nước suối, tắm gió mát, có nhà ở nơi khu rừng đầu núi, hoàn toàn sống theo tự nhiên. Vì thợ săn đào hầm giăng bẫy nên thường bị hại, phải dời vào ở chốn núi sâu, song vẫn không được yên tâm, thường xuyên sợ hãi, rất muốn tự do, sống cuộc đời an cư lạc nghiệp, hết còn bị loài người khinh rẻ là giống thú nhỏ bé cùng yếu đuối. Dương thiện sĩ có thể xin với thợ săn để chúng tôi được sống yên ổn không? Thợ săn luôn luôn ham thích đuổi bắt chúng tôi, bởi vậy chúng tôi thường bị sát hại mộtcách tàn nhẫn!”
Dương Sinh: Tôi rất cảm thông với hoàn cảnh đáng thương này, sẽ cố gắng hết sức mình, song tôi cũng khuyên một điều là phải ráng giữ mình. Ngoài những điều vừa kể trên, đời sống của hươu núi còn có những khó khăn nào khác?
Hươu Núi: Chúng tôi không có đôi tay, chỉ biết dùng cặp sừng để tự bảo vệ, do đó vô cùng bất tiện, chỉ vì kiếp trước thất đức, tham dâm, cướp đoạt tiền tài, hút máu kẻ khác, bởi vậy sau khi thác bị chuyển kiếp đầu thai làm loài hươu núi.
Dương Sinh: Có thể kể lại những việc làm quá khứ một cách xác thực, hầu tạo một tấm gương giúp người đời so itỏ sợ hãi không dám phạm vào những điều lỗi lầm chăng?
Hươu Núi: Thực quả tôi không còn mặt mũi cùng can đảm thuật lại những lỗi lầm kiếp trước.
Tế Phật: Chớ có chối từ, hiện tại mặt ngươi mọc đầy lông, tối tăm vô kể, nếu can đảm thuật lại những hành động trước kia tức là tạo công chuộc tội thì có thể khôi phục lại bộ mặt vốn có sẵn khi xưa.
Hươu Núi: Thưa, con xin tuân lệnh. Kiếp trước tôi là một người đàn ông, tính ham nữ sắc, hại biết bao đời con gái, đại khái đã từng gian dâm với ba cô gái còn trinh, hai bà quả phụ, cùng ba cô gái nhà lành, còn gái giang hồ thì đếm không hết. Đã ham sắc lại còn lừa đảo tiền tài, suốt ngày suốt đêm vùi thân nơi chốn nhà hàng tửu điếm, tiêu phí biết bao tiền bạc của phụ nữ, sống hoang đàng suốt đời như vậy, tới lúc tuổi già sức cùng lực kiệt, bệnh phong tình hoành hành dữ dội nên hồn phải lìa xác. Sau khi chết bị Minh Vương xử phạt, lãnh hai mươi năm khổ nhục hình, sau đó mới được chuyển kiếp đầu thai làm loài hươu núi để iải trừ nghiệp ác. Ước mong người đời chớ học đòi tính hiếu sắc tham dâm, lừa đảo tiền tài thất đức, để ngày nay không được làm kiếp người ăn thực phẩm cao lương mỹ vị, mà phải ăn cỏ, ăn lá cây mặc dù còn ý niệm về nữ sắc, song sự giao hợp lại tùy thuộc vào tiết mùa, bởi vì tinh khí bị rút ngược lên đầu, biến thành chất vôi lâu ngày đông cứng hóa thành cặp sừng, trở nên loài thú có lông có sừng, nội tâm đau khổ không lời nào tả hết.
Tế Phật: Ngươi kiếp trước tham dâm, hiếu sắc, kiếp này chịu khổ. Tinh khí thần của ngươi phải dồn hết lên đầu nuôi dưỡng cặp sừng non, nên người đời mới ham cắt sừng đó để làm thuốc bổ, cắt bộ phận sinh dục để làm đồ ăn bổ thận. Kiếp trước ngươi quá ham sắc, cho nên kiếp này gốc dâm đó bị cắt thiến để đền tội. Cũng may nhờ ở nơi thâm sơn cùng cốc nên ngươi chẳng thể trở lại chốn ăn chơi, sống đời đàng điếm. Hiện giờ chỉ còn được ăn cỏ núi, uống nước suối, thưởng thức hương thơm các loại kỳ hoa dị thảo. Hãy chăm lo tu tâm dưỡng tính tránh đi lại vết bánh xe cũ.
Dương Sinh: Hươu núi nghiệp quá nặng mà kiếp này còn được đầu thai làm giống thú nơi chốn núi sâu tu đạo thì kể như là hết sức may mắn. Hươu núi ơi! Chớ có trách trời oán người, chỉ nên tự ăn năn về sự lầm lỗi của mình, ngươi đã thành thực kể lại những việc làm đầy tội lỗi của kiếp trước để làm gương khuyên răn người đời, chắc chắn sau khi mãn kiếp sẽ được đầu thai trở lại làm người.
Hươu Núi: Xin cảm tạ Dương Thiện Sinh đã rũ lòng thương mà chỉ bảo, nếu như kiếp tới được đầu thai làm kiếp người, tôi nhất định sẽ làm người lương thiện, tuyệt đối không dám tái phạm những lỗi lầm kiếp trước.
Tế Phật: Đã biết hồi tâm chuyển ý, đợi tới phút được chuyển kiếp, ta sẽ tới cứu độ. Dương Sinh có thể phỏng vấn thêm hươu núi khác.
Dương Sinh: Thưa vâng, này hươu núi kia, vừa rồi hẳn đã nghe rõ cuộc đối thoại, vậy cảm tưởng của ngươi thế nào?
Hươu Núi: Thưa trước hết xin cảm tạ đức Phật Sống Tế Công đã điểm hóa cho chúng con. Vừa rồi được nghe cuộc đối thoại, tự cảm thấy hổ thẹn muôn phần.
Dương Sinh: Ngươi chớ sợ lỗi lầm, chỉ sợ chẳng dám nhận lời. Nếu như đã biết lỗi, thì ngươi có thể thuật lại những hành động sái quấy của kiếp trước không?
Hươu Núi: Thưa, tôi xin thuật lại những quãng đời đã phạm tội để khuyên mọi người tránh những lỗi lầm như tôi, hầu đời sau khỏi bị đọa làm kiếp thú. Tôi sinh ra đời vốn là kẻ tài ba lãng mạn, nên khi thấy một phụ nữ ở cạnh nhà có chút nhan sắc liền khởi tà ý, trước kiếm cách làm quen sau đi tới chuyện gian dâm. Củi khô lửa bốc tình gian cháy mạnh, vì nghĩ bỏ chút cực nhọc rồi sẽ mãi mãi an nhàn, nên đã tìm đủ mọi cách để kiếm cho ra loại thuốc liệt dương lén cho chồng nàng uống phải, để nàng bỏ hẳn chồng mà lấy tôi, tâm tôi rất đỗi vui mừng khi chiếm đoạtđược nàng, kể từ đó sống gắn bó như keo sơn. Về sau chồng nàng biết rõ được sự tình vô cùng oán hận, song cũng chẳng thể làm gì được tôi, cuối cùng chỉ biết uống rượu say mèm trở thành điên điên khùng khùng. Một bữa vì quá say đi đường bị xe đụng chết, khi xuống tới địa ngục, oan hồn tố cáo tôi về tội đánh thuốc liệt dương cùng cướp vợ y, xin được báo thù, và Minh Vương đã cho phép. Vì vậy có một bữa tôi lái xe cho vợ tôi đi qua khúc đường mà ngày trước y gặp tai nạn, tự nhiên tinh thần tôi hoảng hốt, xe lạng qua lạng lại, bị hai xe phía sau phóng quá nhanh tránh không kịp đâm vào xe tôi, khiến cả hai vợ chồng tôi đều thác. Sau khi chết quỷ hắc bạch vô thường áp giải vong hồn tôi xuống địa ngục. Minh Vương vô cùng tức giận, kết án tôi nặng nề, sau khi thi hành hình phạt xong, bị đầu thai làm kiếp hươu núi, còn vợ tôi phải đầu thai làm gà mái, mỗi kẻ một ngả. Nay nhờ đức Phật Sống Tế Công điểm hóa, hy vọng tôi có thể siêu thăng. Câu chuyện tôi vừa thuật trên đây mong người đời chớ có coi thường, phải lấy đó làm gương mà tránh, để ngày sau khỏi dẫm lên vết chân cũ của tôi.
Dương Sinh: Nhân quả báo ứng quả là đáng sợ. Thưa ân sư tại sao trên đầu hươu núi lại có ánh sáng tỏa ra?
Tế Phật: Con hỏi hươu núi sẽ rõ.
Dương Sinh: Này anh hươu núi ơi, tại sao trên đầu anh lại có ánh sáng tỏa chiếu?
Hươu Núi: Thưa, tôi là hươu mẹ, không phải hươu cha, kêu như vậy khiến tôi mắc cở vô cùng.
Dương Sinh: Chị hươu núi này, tôi thấy chị thành thực lắm đấy, quả là có công tu dưỡng khác hẳn với các bạn cùng loài, xin cho tôi được rõ nguyên nhân tại sao trên đầu chị lại tỏa ánh sáng như thế kia?
Hươu Núi: Thưa, kiếp trước tôi xuất gia làm đệ tử chốn cửa thiền, nhưng vì động phàm tâm không giữ nổi giới đã phạm tội dâm, sau khi chết bị đầu thai làm hươu núi, song vẫn cố gắng tu để giải nghiệp. Kiếp trước tôi trót lỡ lầm phá giới, song tính Phật vẫn còn, nên đã sám hối tu đạo sửa lỗi lầm, để thành chánh quả. Tuy phải đầu thai làm kiếp hươu núi tôi vẫn trước sau một lòng giữ mình tinh khiết. Mỗi buổi sáng sớm đều leo lên sườn núi cao, nhìn mặt trời mọc để hưởng ánh bình minh. Ban đêm cũng làm như vậy để hưởng ánh trăng, hy vọng hấp thụ được nguồn ánh sáng của hai vầng nhật nguyệt, để bổ túc cho nghiệp chướng thân thể tật nguyền. Ăn cỏ non, uống nước suối chay tịnh để tu đạo, tự rèn luyện để hóa giải nghiệp chướng. Vì tích tụ được năng lượng của mặt trời, mặt trăng nên thân hình đầy ắp linh khí, nhờ vậy đức Phật Sống Tế Công mới vừa điểm hóa, khai mở bộ đầu nên ánh sáng nhật nguyệt ẩn tàng đã lâu, đột nhiên phóng ra. Mong người đời hấp thụ thật nhiều ánh sáng mặt trời, mặt trăng, dưỡng khí trung chính trong bản thể, hấp thụ khí thiêng trời đất, chịu hành xác công phu tu đạo, đều được giúp đỡ lớn lao.
Dương Sinh: Hươu núi cũng biết tu đạo, thực quả không thể nào tưởng tượng nổi.
Tế Phật:
Dã lộc sơn trung luyện diệu công
Hoàn tinh bổ khí hữu thần phong
Điều âm tá nhật siêu công quả
Mẫu tính thân khu chuyển tác công.
Rừng sâu hươu núi luyện công phu
Bổ khí dưỡng tinh sức lớn to
Nghiệp chướng nhờ trời trừ sạch hết
Tánh cô thành cậu hết âu lo.
Cầm thú còn biết tu đạo, còn có thể thoát thai hoán cốt để thành chánh quả. Nghe hươu núi tự thuật xong, mới thấy là được làm kiếp người tu đạo rất dễ, chúng sinh mau mau quay đầu vào bờ, chớ có đắm chìm trong biển ái dục. Vì đường luân hồi dài vô tận, kiếp nào mới có thể gặp được chánh pháp để mà tu đạo lớn? Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn ở đây. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Thưa vâng lệnh.
Tế Phật: Đã tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI NĂM
THAM DÂM HIẾU SẮC CHUYỂN KIẾP LÀM HƯƠU NÚI
CỎ BIẾC RỪNG SÂU THANH TỊNH CHUỘC LỖI XƯA
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 7 tháng 3 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Thâm sơn hoạt hữu thiên niên thụ
Thế thượng nan phùng bách tuế nhân
Tử trúc vô trần quan tự tại
Bồ đề biến bố tính thiên chân.
Dã lộc phi bôn lục thảo nguyên
Thanh sơn vi bạn tác gia viên
Tiên nhung đại bổ hòa đơn dược
Tự oán phong lưu dục đoạn hồn.
Dịch
Núi sâu cây thọ hàng ngàn tuổi
Kẻ tục trăm năm khó sống còn
Trúc tía sạch trong nhìn thực tại
Bồ đề giữ vẹn tính trời ban.
Hươu rừng đùa giỡn cỏ xanh rờn
Bầu bạn cửa nhà ấy núi non
Thuốc bổ sừng nai bồi dưỡng thận
Phong lưu chán ghét táng linh hồn.
Tế Phật: Khoa học tiến bộ, ngành y dược phát triển, rất nhiều chuyên gia ngày đêm gia sức nghiên cứu, làm cách nào để có thể giúp nhân loại cải lão hoàn đồng, sống lâu trăm tuổi. Kỹ thuật chỉnh hình càng ngày càng tinh vi, nào như lột da mặt, cấy da non, nhờ vậy mà con người có thể giữ gìn được cơ thể trẻ đẹp lâu. Song dầu sao thì cũng chỉ duy trì được làn da phẳng phiu, còn tuổi thọ trăm năm cũng rất hiếm. Trong chốn rừng sâu, cây cao đụng mây trời, không cần người chăm bón, coi sóc mà vẫn chống chọi nổi gió mưa, giông bão không hề ngã nghiêng xiêu đổ, tồn tại cả mấy ngàn năm. Đó chính là nhờ gốc rễ vững chắc, kiên trì đứng ngay ngắn, tơ tóc chẳng dời một bước, sinh ở đâu chết ở đó, tuân theo sự vận hành của tạo hóa và trời đất, nghiễm nhiên sống thọ nuôi dưỡng được cá tính tự lập kiên cường; không có cảnh chiến tranh chém giết cùng tính dục tự hủy hoại mình như loài người, nên mới có thể thọ bao ngàn năm và được gọi là cây thần. Người đời nghiên cứu đồ ăn kỹ càng, y phục tìm tòi mới mẻ, da dẻ mặt mày giữ gìn cẩn thận, thuốc thang bổ béo mỗi ngày dùng một loại song vẫn chẳng thể sống tới hai trăm tuổi là tại sao? Theo ta thấy thì người đời quá cực nhọc, nên chẳng thể giữ vững được số phận. Bữa nay ta hướng dẫn Dương Sinh tìm câu trả lời này.
Dương Sinh: Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đây là vùng núi A Lý thâm sâu. Bữa nay mình tới phỏng vấn hươu rừng.
Dương Sinh: Bốn bề núi sâu không thấy khói bếp nhà người, chỉ thấy phía trước có bốn con hươu núi đang nằm nghỉ ngơi. Thưa ân sư, làm cách nào để phỏng vấn đám hươu kia?
Tế Phật: Để thầy ban chút pháp giúp bản tính chúng thức tỉnh: “Hươu núi ơi, đừng ngủ nữa hãy dậy đi, thợ săn tới kìa, chạy mau đi… ha ha”. (Con thấy hươu núi nghe lời thầy như chợt tỉnh choàng giấc mộng, đứng phắt lên định bỏ chạy. Song trời tối đen như mực, chạy đi hướng nào? Thầy phóng hào quang Phật, hươu thấy ánh sáng, chắc chắn tiến lại phía ta).
Dương Sinh: Hươu núi nghe lời ân sư nói, quả nhiên thấu hiểu.
Tế Phật: Pháp Phật vô biên, lời nói của ta, đối với người tuy không khác, song lời Phật, lời pháp mỗi tiếng rung chuyển con tim mãnh liệt, hươu nghe tự nhiên lãnh hội được. Lời nói của Tiên Phật là lời nói thực, nói đúng, Tiên Phật dùng loại ngôn ngữ tâm linh thuyết pháp với mọi loài chúng sinh, nên khi nghe tất cả đều hiểu rõ.
Dương Sinh: Quả thực là linh diệu quá mức. Chúng sinh hình thể khác nhau, song tính Phật ngang nhau, có một số động vật còn có thể biết tính người, nghe lời chỉ dạy của người, ngược lại đời có lắm kẻ chẳng chịu nghe lời khuyên bảo tốt lành của Tiên Phật, cứ hành động ngang ngược tối tăm. Bởi vậy mới rõ thế giới tâm linh có ngôn ngữ cùng tính Phật bình đẳng chung.
Tế Phật: Dương Sinh nhận xét rất đúng. Con có thể phỏng vấn hươu núi được rồi.
Dương Sinh: Xin ân sư điểm hóa giúp hươu ghi nhận để tiện phỏng vấn.
Tế Phật: Vừa rồi thầy đã ban chút Phật pháp, giờ điểm hóa thêm để nâng cao nguyên linh giác ngộ của hươu. “Hươu núi nhìn rõ tay ta, tay Phật điểm tâm Phật, tay Phật mở cửa Phật, tay Phật độ chúng sinh, tay Phật diệt ma chướng, tay Phật nắm tay Phật, ngươi và ta cùng thành Phật. Hươu vốn là của báu chốn núi sâu, tính thuần dương, sống ở núi xanh trời đất là nhà, tu thân tự yêu, thân gồm kim đan, chạy nhảy như bay, phấp phới muốn thành tiên, loài thú tiên, thú tiên, sớm hiểu nguồn cội…”.
Dương Sinh: Ân sư dùng quạt bồ quạt trên đầu mỗi con hươu, đột nhiên thấy trên đầu hươu núi có một luồng ánh sáng xanh, không rõ nguyên nhân tại sao?
Tế Phật: Hươu núi từ khi sinh ra tới nay, chuyên sống giữa cảnh núi xanh nước biếc. Cỏ là tinh hoa của đất, nước là suối của trời. Tới lui qua lại trên đất rộng, hưởng thụ tinh anh của mặt trời mặt trăng tỏa chiếu, hàm dưỡng thân thể thuần dương, bây giờ thầy ban pháp giúp linh khiếu của hươu khai mở cho nên mới thấy luồng khí tía bay lên.
Dương Sinh: Quả là thần diệu, đạo hạnh của hươu núi thực là thâm hậu.
Tế Phật: Dương Sinh có thể bắt đầu cuộc phỏng vấn hươu núi.
Dương Sinh: Thưa vâng. Xin hỏi đời sống của hươu ở trong núi sâu như thế nào?
Hươu Núi: Thưa vị là ai? Tại sao lại đập đầu tôi? Hiện thời chân tôi đứng không vững, có cảm giác muốn bay bổng lên không.
Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, còn đây là sư phụ Tế Phật, ngài phụng chỉ hướng dẫn tôi soạn sách Luân Hồi Du Ký, bữa nay trước tiên đến đây phỏng vấn, xin chớ ngạc nhiên kinh dị.
Hươu Núi: Thưa, à thì ra nguyên nhân là như vậy, đức Phật Sống Tế Công đã ban pháp khai mở linh khiếu cho, thực là ân đức vô lượng, chúng con xin cúi đầu lạy tạ...
Tế Phật: Miễn lễ, hãy mau mau trả lời những câu hỏi của Dương Sinh.
Hươu Núi: Xin tuân lệnh, Dương thiện sĩ hồi nãy có hỏi về cuộc sống ở đây như thế nào? Giờ đây xin thưa rằng: “Từ khi lọt lòng mẹ tới nay, ngày đêm làm bạn cùng núi xanh, ăn cỏ non, uống nước suối, tắm gió mát, có nhà ở nơi khu rừng đầu núi, hoàn toàn sống theo tự nhiên. Vì thợ săn đào hầm giăng bẫy nên thường bị hại, phải dời vào ở chốn núi sâu, song vẫn không được yên tâm, thường xuyên sợ hãi, rất muốn tự do, sống cuộc đời an cư lạc nghiệp, hết còn bị loài người khinh rẻ là giống thú nhỏ bé cùng yếu đuối. Dương thiện sĩ có thể xin với thợ săn để chúng tôi được sống yên ổn không? Thợ săn luôn luôn ham thích đuổi bắt chúng tôi, bởi vậy chúng tôi thường bị sát hại mộtcách tàn nhẫn!”
Dương Sinh: Tôi rất cảm thông với hoàn cảnh đáng thương này, sẽ cố gắng hết sức mình, song tôi cũng khuyên một điều là phải ráng giữ mình. Ngoài những điều vừa kể trên, đời sống của hươu núi còn có những khó khăn nào khác?
Hươu Núi: Chúng tôi không có đôi tay, chỉ biết dùng cặp sừng để tự bảo vệ, do đó vô cùng bất tiện, chỉ vì kiếp trước thất đức, tham dâm, cướp đoạt tiền tài, hút máu kẻ khác, bởi vậy sau khi thác bị chuyển kiếp đầu thai làm loài hươu núi.
Dương Sinh: Có thể kể lại những việc làm quá khứ một cách xác thực, hầu tạo một tấm gương giúp người đời so itỏ sợ hãi không dám phạm vào những điều lỗi lầm chăng?
Hươu Núi: Thực quả tôi không còn mặt mũi cùng can đảm thuật lại những lỗi lầm kiếp trước.
Tế Phật: Chớ có chối từ, hiện tại mặt ngươi mọc đầy lông, tối tăm vô kể, nếu can đảm thuật lại những hành động trước kia tức là tạo công chuộc tội thì có thể khôi phục lại bộ mặt vốn có sẵn khi xưa.
Hươu Núi: Thưa, con xin tuân lệnh. Kiếp trước tôi là một người đàn ông, tính ham nữ sắc, hại biết bao đời con gái, đại khái đã từng gian dâm với ba cô gái còn trinh, hai bà quả phụ, cùng ba cô gái nhà lành, còn gái giang hồ thì đếm không hết. Đã ham sắc lại còn lừa đảo tiền tài, suốt ngày suốt đêm vùi thân nơi chốn nhà hàng tửu điếm, tiêu phí biết bao tiền bạc của phụ nữ, sống hoang đàng suốt đời như vậy, tới lúc tuổi già sức cùng lực kiệt, bệnh phong tình hoành hành dữ dội nên hồn phải lìa xác. Sau khi chết bị Minh Vương xử phạt, lãnh hai mươi năm khổ nhục hình, sau đó mới được chuyển kiếp đầu thai làm loài hươu núi để iải trừ nghiệp ác. Ước mong người đời chớ học đòi tính hiếu sắc tham dâm, lừa đảo tiền tài thất đức, để ngày nay không được làm kiếp người ăn thực phẩm cao lương mỹ vị, mà phải ăn cỏ, ăn lá cây mặc dù còn ý niệm về nữ sắc, song sự giao hợp lại tùy thuộc vào tiết mùa, bởi vì tinh khí bị rút ngược lên đầu, biến thành chất vôi lâu ngày đông cứng hóa thành cặp sừng, trở nên loài thú có lông có sừng, nội tâm đau khổ không lời nào tả hết.
Tế Phật: Ngươi kiếp trước tham dâm, hiếu sắc, kiếp này chịu khổ. Tinh khí thần của ngươi phải dồn hết lên đầu nuôi dưỡng cặp sừng non, nên người đời mới ham cắt sừng đó để làm thuốc bổ, cắt bộ phận sinh dục để làm đồ ăn bổ thận. Kiếp trước ngươi quá ham sắc, cho nên kiếp này gốc dâm đó bị cắt thiến để đền tội. Cũng may nhờ ở nơi thâm sơn cùng cốc nên ngươi chẳng thể trở lại chốn ăn chơi, sống đời đàng điếm. Hiện giờ chỉ còn được ăn cỏ núi, uống nước suối, thưởng thức hương thơm các loại kỳ hoa dị thảo. Hãy chăm lo tu tâm dưỡng tính tránh đi lại vết bánh xe cũ.
Dương Sinh: Hươu núi nghiệp quá nặng mà kiếp này còn được đầu thai làm giống thú nơi chốn núi sâu tu đạo thì kể như là hết sức may mắn. Hươu núi ơi! Chớ có trách trời oán người, chỉ nên tự ăn năn về sự lầm lỗi của mình, ngươi đã thành thực kể lại những việc làm đầy tội lỗi của kiếp trước để làm gương khuyên răn người đời, chắc chắn sau khi mãn kiếp sẽ được đầu thai trở lại làm người.
Hươu Núi: Xin cảm tạ Dương Thiện Sinh đã rũ lòng thương mà chỉ bảo, nếu như kiếp tới được đầu thai làm kiếp người, tôi nhất định sẽ làm người lương thiện, tuyệt đối không dám tái phạm những lỗi lầm kiếp trước.
Tế Phật: Đã biết hồi tâm chuyển ý, đợi tới phút được chuyển kiếp, ta sẽ tới cứu độ. Dương Sinh có thể phỏng vấn thêm hươu núi khác.
Dương Sinh: Thưa vâng, này hươu núi kia, vừa rồi hẳn đã nghe rõ cuộc đối thoại, vậy cảm tưởng của ngươi thế nào?
Hươu Núi: Thưa trước hết xin cảm tạ đức Phật Sống Tế Công đã điểm hóa cho chúng con. Vừa rồi được nghe cuộc đối thoại, tự cảm thấy hổ thẹn muôn phần.
Dương Sinh: Ngươi chớ sợ lỗi lầm, chỉ sợ chẳng dám nhận lời. Nếu như đã biết lỗi, thì ngươi có thể thuật lại những hành động sái quấy của kiếp trước không?
Hươu Núi: Thưa, tôi xin thuật lại những quãng đời đã phạm tội để khuyên mọi người tránh những lỗi lầm như tôi, hầu đời sau khỏi bị đọa làm kiếp thú. Tôi sinh ra đời vốn là kẻ tài ba lãng mạn, nên khi thấy một phụ nữ ở cạnh nhà có chút nhan sắc liền khởi tà ý, trước kiếm cách làm quen sau đi tới chuyện gian dâm. Củi khô lửa bốc tình gian cháy mạnh, vì nghĩ bỏ chút cực nhọc rồi sẽ mãi mãi an nhàn, nên đã tìm đủ mọi cách để kiếm cho ra loại thuốc liệt dương lén cho chồng nàng uống phải, để nàng bỏ hẳn chồng mà lấy tôi, tâm tôi rất đỗi vui mừng khi chiếm đoạtđược nàng, kể từ đó sống gắn bó như keo sơn. Về sau chồng nàng biết rõ được sự tình vô cùng oán hận, song cũng chẳng thể làm gì được tôi, cuối cùng chỉ biết uống rượu say mèm trở thành điên điên khùng khùng. Một bữa vì quá say đi đường bị xe đụng chết, khi xuống tới địa ngục, oan hồn tố cáo tôi về tội đánh thuốc liệt dương cùng cướp vợ y, xin được báo thù, và Minh Vương đã cho phép. Vì vậy có một bữa tôi lái xe cho vợ tôi đi qua khúc đường mà ngày trước y gặp tai nạn, tự nhiên tinh thần tôi hoảng hốt, xe lạng qua lạng lại, bị hai xe phía sau phóng quá nhanh tránh không kịp đâm vào xe tôi, khiến cả hai vợ chồng tôi đều thác. Sau khi chết quỷ hắc bạch vô thường áp giải vong hồn tôi xuống địa ngục. Minh Vương vô cùng tức giận, kết án tôi nặng nề, sau khi thi hành hình phạt xong, bị đầu thai làm kiếp hươu núi, còn vợ tôi phải đầu thai làm gà mái, mỗi kẻ một ngả. Nay nhờ đức Phật Sống Tế Công điểm hóa, hy vọng tôi có thể siêu thăng. Câu chuyện tôi vừa thuật trên đây mong người đời chớ có coi thường, phải lấy đó làm gương mà tránh, để ngày sau khỏi dẫm lên vết chân cũ của tôi.
Dương Sinh: Nhân quả báo ứng quả là đáng sợ. Thưa ân sư tại sao trên đầu hươu núi lại có ánh sáng tỏa ra?
Tế Phật: Con hỏi hươu núi sẽ rõ.
Dương Sinh: Này anh hươu núi ơi, tại sao trên đầu anh lại có ánh sáng tỏa chiếu?
Hươu Núi: Thưa, tôi là hươu mẹ, không phải hươu cha, kêu như vậy khiến tôi mắc cở vô cùng.
Dương Sinh: Chị hươu núi này, tôi thấy chị thành thực lắm đấy, quả là có công tu dưỡng khác hẳn với các bạn cùng loài, xin cho tôi được rõ nguyên nhân tại sao trên đầu chị lại tỏa ánh sáng như thế kia?
Hươu Núi: Thưa, kiếp trước tôi xuất gia làm đệ tử chốn cửa thiền, nhưng vì động phàm tâm không giữ nổi giới đã phạm tội dâm, sau khi chết bị đầu thai làm hươu núi, song vẫn cố gắng tu để giải nghiệp. Kiếp trước tôi trót lỡ lầm phá giới, song tính Phật vẫn còn, nên đã sám hối tu đạo sửa lỗi lầm, để thành chánh quả. Tuy phải đầu thai làm kiếp hươu núi tôi vẫn trước sau một lòng giữ mình tinh khiết. Mỗi buổi sáng sớm đều leo lên sườn núi cao, nhìn mặt trời mọc để hưởng ánh bình minh. Ban đêm cũng làm như vậy để hưởng ánh trăng, hy vọng hấp thụ được nguồn ánh sáng của hai vầng nhật nguyệt, để bổ túc cho nghiệp chướng thân thể tật nguyền. Ăn cỏ non, uống nước suối chay tịnh để tu đạo, tự rèn luyện để hóa giải nghiệp chướng. Vì tích tụ được năng lượng của mặt trời, mặt trăng nên thân hình đầy ắp linh khí, nhờ vậy đức Phật Sống Tế Công mới vừa điểm hóa, khai mở bộ đầu nên ánh sáng nhật nguyệt ẩn tàng đã lâu, đột nhiên phóng ra. Mong người đời hấp thụ thật nhiều ánh sáng mặt trời, mặt trăng, dưỡng khí trung chính trong bản thể, hấp thụ khí thiêng trời đất, chịu hành xác công phu tu đạo, đều được giúp đỡ lớn lao.
Dương Sinh: Hươu núi cũng biết tu đạo, thực quả không thể nào tưởng tượng nổi.
Tế Phật:
Dã lộc sơn trung luyện diệu công
Hoàn tinh bổ khí hữu thần phong
Điều âm tá nhật siêu công quả
Mẫu tính thân khu chuyển tác công.
Rừng sâu hươu núi luyện công phu
Bổ khí dưỡng tinh sức lớn to
Nghiệp chướng nhờ trời trừ sạch hết
Tánh cô thành cậu hết âu lo.
Cầm thú còn biết tu đạo, còn có thể thoát thai hoán cốt để thành chánh quả. Nghe hươu núi tự thuật xong, mới thấy là được làm kiếp người tu đạo rất dễ, chúng sinh mau mau quay đầu vào bờ, chớ có đắm chìm trong biển ái dục. Vì đường luân hồi dài vô tận, kiếp nào mới có thể gặp được chánh pháp để mà tu đạo lớn? Bữa nay tạm ngưng cuộc phỏng vấn ở đây. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Thưa vâng lệnh.
Tế Phật: Đã tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
#13
Gửi vào 04/09/2011 - 08:30
LUÂN HỒI DU KÝ
HỒI SÁU
KHỈ NÚI NHẢY NHÓT LANH LẸ NHƯ KẺ TRỘM
CÂY TO GIÓ THỔI LẠNH LẼO THAN VÔ TÀI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 27 tháng 4 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Tuế nguyệt vô tình ứng tảo tu
Huyền quan thả hướng tĩnh trung cầu
Thiên khai phổ độ cầu chân đạo
Ngoạn thạch hoài ân diệc điểm đầu.
Vi bối luân thường tức tội nhân
Phật tiền sám hối hảo tu chân
Vô minh già trú quang minh lộ
Tĩnh thủy liễu chi tẩy tục trần.
Dịch
Năm tháng vô tình phải sớm tu
Cửa thiền thanh tĩnh hướng tâm cầu
Trời cao cứu độ ban chân đạo
Đá dốt mang ơn cũng cúi đầu.
Phản bội luân thường tức tội nhân
Ăn năn cùng Phật gắng tu chân
Tối tăm che phủ đường quang sáng
Giọt nước cành dương rửa bụi trần.
Tế Phật: Có câu “Người thời nay không trung hậu bằng người thời cổ”, song chữ “cổ” hay ở điểm nào? Phải chăng vì chữ cổ (古) ghép bởi chữ thập (十) cùng chữ khẩu (口)nên ta phải hiểu chữ thập (十) là cây thập tự giá, tượng trưng cho đức hy sinh cao cả, cho đạo quân tử trung trinh. Người đời nay không trung hậu bằng người đời xưa, có nghĩa là người đời nay không mang thập tự giá, do đó chẳng ngại muôn ngàn con mắt ngó nên hiện tại rất ít người giảng nhân nghĩa, thuyết đạo đức. Trào lưu mới tuy rất tốt, song nếu người đời bỏ hết cũ hoàn toàn theo mới thì chẳng thể được nào. Việc ăn mặc, trú ngụ, đi lại có thể theo mới, còn nếu như tuổi trẻ mà nếp sống tình cảm lại theo thói lập dị, nói năng lố bịch tới khi thoái hóa sẽ không còn hòa ứng nổi với đời và sẽ trở thành kẻ táng tận lương tâm. Muốn chữa trị căn bệnh băng hoại tâm hồn này chỉ còn cách đem xử tử họ mà thôi, còn không cũng chẳng còn hy vọng hồi sinh nổi.
Khoa học kỹ thuật phát triển, có thể giúp đời sống vật chất của nhân loại cao hơn, sự kiện này rất đáng mừng, song đời sống vật chất càng tiến bộ thì đời sống tinh thần càng thoái lui. Các nhà khoa học vắt tim nặn óc, khám phá mọi bí mật của vũ trụ để mong cải thiện đời sống của con người, đời sống đạo đức của con người bị chìm đắm, thì lại bó tay. Sở dĩ bệnh ham muốn vật chất hoành hành là do ảnh hưởng của văn minh khoa học kỹ thuật gây nên, muốn chữa trị căn bệnh này thì cần phải có tôn giáo, bởi vậy mà tôn giáo và văn minh vật chất mới trở thành hai đối cực cùng tồn tại trong vũ trụ, cùng đi chung mà không phản bội nhau cả hai cùng có một mục đích là đưa nhân loại tiến hóa cao đẹp hạnh phúc hơn. Song vì nhân tính đã bị nhiễm dầu nhơ của máy móc, mà rửa bằng nước thì chẳng thể nào sạch nổi. Bao cảnh thiên nhiên bị ô nhiễm hủy diệt, chỉ còn trông chờ ở tôn giáo tiến hành công tác cứu chữa. Thế mới biết cả khoa học lẫn tôn giáo đều cần cho nhân loại, để tu bổ sửa chữa những sai lầm.
Dương Sinh: Thưa ân sư dạy rất đúng. Muốn chữa trị bệnh “Người đời nay không trung hậu bằng đời trước” chỉ còn cách duy nhất là tìm về với Phật Thánh Tiên xưa.
Tế Phật: Ha ha! Ta là kẻ đại cổ lỗ há chẳng đúng sao! Nghĩ cũng thật nực cười. Thôi thầy trò mình chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, thưa bữa nay ân sư hướng dẫn con dạo thăm chốn nào?
Tế Phật: Lại lên núi mở cuộc săn tiếp.
Dương Sinh: Ân sư khôi hài thực là khéo léo, ai đời người xuất gia mà lại còn ham săn bắn, há chẳng mâu thuẫn lắm sao?
Tế Phật: Hiện tại có nhiều kẻ không có tâm đạo, mượn cửa thánh mưu cầu lợi lộc riêng tư, nên bụng họ chứa cả bồ dao găm, họ chẳng thể đem lòng từ bi cứu nhân độ thế,khắp nơi đã chứa đầy điều bất nghĩa, tạo nghiệp đa đoan, bọn người này là những kẻ xuất gia, lưng đeo cung tên ngồi tụng kinh trước bàn thờ Phật, thực đáng chê cười. Bữa nay ta lên núi để săn, nhưng việc săn của ta lại khác người đời, vì ta săn là săn tánh dã thú cùng tâm khỉ ý vượn.
Dương Sinh: Lời dạy của ân sư ngầm chứa rất nhiều cơ duyên pháp định của đạo thiền.
Tế Phật: Thôi chúng ta hãy mau lên đường... Đã tới nơi.
Dương Sinh: Quả nhiên trên cành cây phía trước có khoảng ba bốn chú khỉ đang nằm ngủ, nên không biết có người tới.
Tế Phật: Để thầy đánh thức chúng dậy còn không chúng cứ miệt mài say đắm trong giấc mộng hoài. “Này lũ khỉ ơi! Thợ săn tới bắt kìa, mau tìm nơi ẩn náu”.
Dương Sinh: Ân sư dùng quạt bồ gõ trên đầu chúng, chúng bừng mắt tỉnh, lòng kinh hãi, ngó trừng trừng.
Tế Phật: Thầy trò ta là khách không mời mà tới khiến các ngươi kinh hãi. Nhờ ta điểm hóa nên nguyên linh ký ức của các ngươi đã thức tỉnh rồi.
Dương Sinh: Thưa ân sư con thấy lũ khỉ thật là khôn ngoan, chúng biết lột vỏ mía và lột vỏ trái cây trước khi ăn. Như vậy là nhờ lý do nào?
Tế Phật: Tâm người gọi là tâm khỉ và chính tâm khỉ nữa, cả hai đều giống nhau ở điểm đảo điên. Hình dáng khỉ cũng như khí điển đã đạt trình độ giống người, nên được coi là loài vật tinh anh. Chân tay chúng rất linh hoạt, có căn bản về việc ăn uống.
Dương Sinh: Thưa ân sư, con có thể phỏng vấn ngay bây giờ không?
Tế Phật: Chúng đã hoàn toàn tỉnh táo, con có thể phỏng vấn được rồi.
Dương Sinh: Này khỉ ơi! Cảm nghĩ của các ngươi thế nào?
Khỉ: Thưa, trong giấc mộng nghe thấy tiếng người rồi bị lay tỉnh nên bất chợt kinh hãi. Thoạt tiên thấy trong đầu rỗng rang sáng láng, rồi dần dần hồi tưởng lại quá khứ mớ ihiểu rằng đã được đức Phật Sống Tế Công lay tỉnh, còn riêng vị là ai thì chúng tôi chưa được rõ.
Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, cùng ân sư Tế Phật phụng mệnh trước tác sách Luân Hồi Du Ký, bữa nay thật là có duyênmới được tới đây phỏng vấn, rất mong biết rõ lý do tại sao người lại phải đầu thai làm kiếp khỉ, để khuyên răn người đời.
Khỉ: Thực là quá thất lễ, kính mong Dương Thiện Sĩ thứ lỗi cho. Chúng tôi sinh sống trong chốn núi sâu, cảm thấy vô cùng nhàn tản thoải mái, hàng ngày cùng bạn bè leo trèo nhảy nhót, hái trái cây ăn rất là sung sướng, tuy nhiên cũng rất sợ loài rắn cùng thợ săn. Rất nhiều bạn bè của tôi đã từng bị rắn cắn chết, cùng thợ săn vây bắt khiến thân nhân bằng hữu ly tán, vì vậy chúng tôi càng ngày càng phải di chuyển vào chốn núi sâu, chẳng dám sống gần người đời.
Tế Phật: Người đời thường khinh những loài yếu đuối, mỗi khi gặp giống khỉ bé nhỏ đều nghĩ tới chuyện bắt bớ. Còn khi gặp mãnh hổ, ác báo các ngươi trốn chạy đường nào? Người đời nếu như giàu lòng từ bi bác ái hẳn là khi thấy những loài vật nhỏ nhoi yếu đuối, không biết làm hại người thì phải yêu mến bao bọc chúng, để chúng được tựdo sinh sống, hẳn đó cũng là một hành vi bác ái từ bi.
Khỉ: Bây giờ phải kể lại chuyện kiếp trước của mình, thực quả tôi cảm thấy vô cùng mắc cở. Song vì mục đích khuyên răn người đời chớ học tánh ác như tôi, thì tôi cũng xin cố gắng thuật lại đầu đôi câu chuyện. Kiếp trước tôi là một tên đạo tặc, chuyên nghề cướp trộm để mưu sinh, hằng đêm thường đào tường, khoét ngạch vô nhà; leo cột đèn, chuyền cành cây bước qua lầu để trộm đồ, bán lấy tiền tiêu xài hoang phí nơi các cao lâu tửu điếm, suốt một đời ngày nào cũng nhậu nhẹt rượu thịt say sưa. Có lần đi đánh cướp bị sa cơ, cảnh sát bắt giải tòa, lãnh án đi tù; vì kiếp trước nhốt ngục nên kiếp này tiếp tục bị giam trong lồng sắt để làm trò giải trí cho người đời. Những vật cướp trộm trước kia như vàng bạc, máy truyền hình, máy thâu băng, xe đạp, xe gắn máy... khi đứng trước đài gương soi ác nghiệp những thứ đó hiện rõ hết ra, nên tôi đành phải nhận tội. Minh Vương vô cùng tức giận, đã phạt tôi năm năm tù khổ sai lại còn phán dạy thêm: “Người thích trèo cây, leo tường, sau khi mãn án phải chuyển kiếp đầu thai làm loài khỉ, hàng ngày leo cây vịn cành. Kiếp trước nhậu nhẹt rượu thịt nên kiếp này chỉ được ăn trái cây, lá cây, uống nước lã ở nơi núi rừng”. Có rất nhiều thương gia buôn gian bán lận thất đức cũng bị đầu thai làm bạn với chúng tôi.
Tế Phật: Kiếp trước người luyện tập chân tay mềm dẻo linh hoạt, kiếp này đầu thai làm loài khỉ kể như rất thích hợp. Còn các gian thương làm giàu một cách phi nhân bất nghĩa phải đày đọa như vậy chẳng oan. Kiếp trước sống sung sướng bằng đồng tiền lường gạt, cướp đoạt bất lương, kiếp này bị phạt ăn cỏ núi, lá cây để chuộc tội kể cũng công bình.
Dương Sinh: Thưa ân sư, những tội hồn sau một thời gian bị hình phạt để đền tội xong, lập tức được đầu thai chuyển kiếp, thì hình như sự kiện này khi dạo thăm địa ngục con chưa từng nghe Minh Vương phán dạy như vậy.
Tế Phật: Vì sách Địa Ngục Du Ký chỉ chú trọng thuật lại những hình phạt ở dưới địa ngục, cho nên Minh Vương chưa cho con biết tỏ tường. Kỳ thực những tội hồn bất lương tại thế, sau khi bị kết án ở địa ngục, có kẻ ở lại chịu hình; có kẻ lập tức bị chuyển kiếp đầu thai làm loài cầm thú. Vì thiên cơ vô lượng, nếu mỗi mỗi thuật hết, hẳn là có lấy trúc thơm làm bút cũng không ghi hết, chỉ tùy duyên mới nói để khuyên đời một chút thôi.
Dương Sinh: Thưa ân sư, thì ra nguyên nhân là như vậy. Vừa rồi khi nói kiếp trước bị tù tội, do đó kiếp này ắt hẳn tránh được lao lung, nên bất cứ con khỉ nào được người đời nuôi trong vườn nhà, hoặc vườn bách thú hẳn đều là những bậc quân tử rường cột chuyển kiếp đầu thai sao?
Tế Phật: Không hẳn là như vậy, bởi lẽ khi nuôi khỉ người ta thường lấy xích sắt xích cổ khỉ vào cành cây, đối xửc hẳng khác nào với phạm nhân, còn khỉ nuôi ở sở thú, cũng bị nhốt trong song sắt, người đời há lại mong muốn được sống như vậy sao? Loài khỉ cũng bị chi phối bởi luật nhân quả, tin rằng khi được thả tự do, hẳn là lại leo trèo khắp chốn, cho nên được làm kiếp người thực là quý báu. Đời nay cứ ra khỏi cửa là có sẵn phương tiện di chuyển bằng xe cộ, ăn có sơn hào hải vị, mặc có lụa là gấm vóc, nếu như không làm lành, tu đạo đức, tránh điều ác, một sớm đánh mất nhân cách, chôn vùi nhân thân kiếp sau hẳn là phải đầu thai làm loài thú, thì há chẳng thê thảm đáng thương sao? Nhìn đời sống của loài vật khốn khổ hơn đời sống của loài người gấp vạn lần, chúng hoàn toàn phó thác đời mình cho con người sai khiến sử dụng. Con người vốn được coi là chúa tể muôn loài vạn vật quả là xác thực. Phật nói: “Trung thổ nan sinh, nhân thân nan đắc, đại đạo nan phùng, phổ độ nan ngộ” (Cõi đất khó sinh, thân người khó được, đạo lớn khó tìm, cứu độ khó gặp). Con người giờ đây đạt được thì kể như ba kiếp mới được một lần may mắn. Sinh vào thời đại văn minh, phải cố gắng tu tâm học đạo, tự độ mình rồi độ người, có như vậy mới không hổ thẹn là đã lãng phí thời gian cùng kiếp sống. Xin ca một bài để chúng sinh tỉnh ngộ:
(I) Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo
Duy hữu công danh vong bất liễu
Cổ kim tương tướng tại hà phương
Hoang trủng nhất đôi thảo một liễu.
(II) Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo
Duy hữu kim ngân vong bất liễu
Chung thân chỉ hận tu bất đa
Trực đáo đa thời nhãn bế liễu.
(III) Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo
Duy hữu kiều thê vong bất liễu
Quân sinh nhật nhật thuyết đa tình
Quân tử khước tùy nhân khứ liễu.
(IV) Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo
Duy hữu nhi tôn vong bất liễu
Si tâm phụ mẫu cổ lai hữu
Hiếu thuận nhi tôn thùy kiến liễu.
Dịch
(I) Người đời đều biết thần tiên tốt
Chỉ tiếc công danh không bỏ phứt
Xưa nay trông ngóng mãi phương nào
Phần mộ cỏ hoang cao chất ngất.
(II) Người đời đều biết thần tiên tốt
Chỉ tiếc bạc vàng không bỏ phứt
Suốt đời hận góp chẳng bao nhiêu
Tới lúc già nua mắt khép chặt.
(III) Người đời đều biết thần tiên tốt
Chỉ tiếc vợ đẹp không bỏ phứt
Khi còn buổi buổi nợ tình đeo
Lúc chết mới đành buông bỏ hết.
(IV) Người đời đều biết thần tiên tốt
Chỉ tiếc cháu con không bỏ phứt
Mẹ cha thương xót biết là bao
Hiếu thảo cháu con thời chẳng biết.
Dương Sinh: Thưa nghe xong bài hát ca ngợi đạo đức của ân sư, lòng con cảm xúc vô cùng.
Tế Phật: Con có thể phỏng vấn thêm con khỉ kia.
Dương Sinh: Thưa vâng. Này chú khỉ kia ơi, chú có thể kể lại cuộc đời kiếp trước chú đã trải qua như thế nào không?
Khỉ: Đức Tế Phật cùng Dương Thiện Sĩ vì sứ mệnh khuyên đời nên mới tới chốn này, tôi lại dám quản công từ chối được sao. Kiếp trước tôi sống ở Vân Lâm, làm nghề cày ruộng, có bốn anh em, tôi là anh cả, đã học hết bậc trung học, kể cũng là có hiểu biết nên khi lâm trọng bệnh cha tôi mới dặn dò tôi là sau khi cha tôi thác, tôi phải đem ruộng nương của cải chia đều cho các em tôi. Song vì nghe lời vợ tôi xúi giục, lại thêm nổi máu tham lam trong mình, liền đem văn tự ruộng đất của cha để lại sang hết tên tôi. Đợi sau khi cha chết, các thủ tục đã lo liệu xong xuôi, các em mới biết chúng bèn than trách kêu ca, tôi liền nổi nóng đánh đập chúng tàn nhẫn. Các em tôi vì lòng hiếu đễ, không nỡ đem chuyện xấu trong gia đình tiết lộ ra ngoài, chỉ nhẫn nhịn chịu đựng. Kể từ đó anh em trong nhà xung khắc, đoạn tuyệt chẳng nhìn mặt nhau, mỗi kẻ một phương. Sau khi tôi chiếm đoạt trọn gia tài của cha để lại, mỗi ngày một giàu có thêm, bèn sinh tật đánh bài đánh bạc, càng lúc càng ham, vợ con khuyên cản cách nào cũng chẳng nghe, không những không bỏ được mà lại còn càng lúc càng mê đắm hơn.
Vì quá ham mê cờ bạc, ruộng nương tài sản lần lần bán sạch, vợ con giận dữ bỏ đi, còn tôi để kiếm ăn qua ngày phải tìm tới xưởng đúc thép tại Bắc Bộ xin làm công nhân. Có một bữa trong lúc làm việc đã sơ ý bị bàn sắt nặng đè, mặc dù được chở tới bệnh viện cấp cứu, song vì vết thương ở đầu quá nặng, một kiếp thương ôi! Sau khi thác, tội hồn tôi bị quỷ vô thường hắc bạch áp giải xuống âm phủ, Diêm Vương kết án ba tội:
1) Tội bất hiếu: Không tôn trọng di chúc của cha, cướp đoạt hết tài sản của anh em, khiến linh hồn cha ở dưới suối vàng không được yên ổn.
2) Tội bất nghĩa: Anh em đáng lý phải lấy nghĩa đối đãi với nhau, lại đi nghe lời vợ con xúi giục, lòng tham nổi dậy, khiến đã đoạn tuyệt tình thương cốt nhục, phản bộ đạo nghĩa anh em.
3) Tội cờ bạc: Quá ham mê đỏ đen, vợ khuyên can chẳng nghe, tới nỗi tán gia bại sản, thân vong mệnh một, tội quá lớn lao. Do đó bị xử phạt hai mươi năm khổ sai, mãn án phải chuyển kiếp đầu thai làm loài khỉ, hiện tại không một vật sở hữu, chỉ còn biết ngắt cây cỏ mọc hoang làm thứ căn. Không có nhà cửa tài sản riêng tư, hai bàn tay trắng, sống rày đây mai đó, màn trời chiếu đất, càng nghĩ càng đau lòng tủi phận. Hối hận kiếp trước dã tâm quá lớn, chôn vùi nhân luân đạo đức, nên kiếp này mới bị đày ải khổ sở tới mức này...
Tế Phật: Chớ có buồn đau khóc lóc, ta đã điểm hóa cho các ngươi, gắng tôn trọng làm tròn bổn phận, kiếp sau được đầu thai lên làm người, nhớ đừng tái phạm những điều tội lỗi trước kia. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh.
Tế Phật: Đã tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI SÁU
KHỈ NÚI NHẢY NHÓT LANH LẸ NHƯ KẺ TRỘM
CÂY TO GIÓ THỔI LẠNH LẼO THAN VÔ TÀI
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 27 tháng 4 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Tuế nguyệt vô tình ứng tảo tu
Huyền quan thả hướng tĩnh trung cầu
Thiên khai phổ độ cầu chân đạo
Ngoạn thạch hoài ân diệc điểm đầu.
Vi bối luân thường tức tội nhân
Phật tiền sám hối hảo tu chân
Vô minh già trú quang minh lộ
Tĩnh thủy liễu chi tẩy tục trần.
Dịch
Năm tháng vô tình phải sớm tu
Cửa thiền thanh tĩnh hướng tâm cầu
Trời cao cứu độ ban chân đạo
Đá dốt mang ơn cũng cúi đầu.
Phản bội luân thường tức tội nhân
Ăn năn cùng Phật gắng tu chân
Tối tăm che phủ đường quang sáng
Giọt nước cành dương rửa bụi trần.
Tế Phật: Có câu “Người thời nay không trung hậu bằng người thời cổ”, song chữ “cổ” hay ở điểm nào? Phải chăng vì chữ cổ (古) ghép bởi chữ thập (十) cùng chữ khẩu (口)nên ta phải hiểu chữ thập (十) là cây thập tự giá, tượng trưng cho đức hy sinh cao cả, cho đạo quân tử trung trinh. Người đời nay không trung hậu bằng người đời xưa, có nghĩa là người đời nay không mang thập tự giá, do đó chẳng ngại muôn ngàn con mắt ngó nên hiện tại rất ít người giảng nhân nghĩa, thuyết đạo đức. Trào lưu mới tuy rất tốt, song nếu người đời bỏ hết cũ hoàn toàn theo mới thì chẳng thể được nào. Việc ăn mặc, trú ngụ, đi lại có thể theo mới, còn nếu như tuổi trẻ mà nếp sống tình cảm lại theo thói lập dị, nói năng lố bịch tới khi thoái hóa sẽ không còn hòa ứng nổi với đời và sẽ trở thành kẻ táng tận lương tâm. Muốn chữa trị căn bệnh băng hoại tâm hồn này chỉ còn cách đem xử tử họ mà thôi, còn không cũng chẳng còn hy vọng hồi sinh nổi.
Khoa học kỹ thuật phát triển, có thể giúp đời sống vật chất của nhân loại cao hơn, sự kiện này rất đáng mừng, song đời sống vật chất càng tiến bộ thì đời sống tinh thần càng thoái lui. Các nhà khoa học vắt tim nặn óc, khám phá mọi bí mật của vũ trụ để mong cải thiện đời sống của con người, đời sống đạo đức của con người bị chìm đắm, thì lại bó tay. Sở dĩ bệnh ham muốn vật chất hoành hành là do ảnh hưởng của văn minh khoa học kỹ thuật gây nên, muốn chữa trị căn bệnh này thì cần phải có tôn giáo, bởi vậy mà tôn giáo và văn minh vật chất mới trở thành hai đối cực cùng tồn tại trong vũ trụ, cùng đi chung mà không phản bội nhau cả hai cùng có một mục đích là đưa nhân loại tiến hóa cao đẹp hạnh phúc hơn. Song vì nhân tính đã bị nhiễm dầu nhơ của máy móc, mà rửa bằng nước thì chẳng thể nào sạch nổi. Bao cảnh thiên nhiên bị ô nhiễm hủy diệt, chỉ còn trông chờ ở tôn giáo tiến hành công tác cứu chữa. Thế mới biết cả khoa học lẫn tôn giáo đều cần cho nhân loại, để tu bổ sửa chữa những sai lầm.
Dương Sinh: Thưa ân sư dạy rất đúng. Muốn chữa trị bệnh “Người đời nay không trung hậu bằng đời trước” chỉ còn cách duy nhất là tìm về với Phật Thánh Tiên xưa.
Tế Phật: Ha ha! Ta là kẻ đại cổ lỗ há chẳng đúng sao! Nghĩ cũng thật nực cười. Thôi thầy trò mình chuẩn bị lên đài sen.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, thưa bữa nay ân sư hướng dẫn con dạo thăm chốn nào?
Tế Phật: Lại lên núi mở cuộc săn tiếp.
Dương Sinh: Ân sư khôi hài thực là khéo léo, ai đời người xuất gia mà lại còn ham săn bắn, há chẳng mâu thuẫn lắm sao?
Tế Phật: Hiện tại có nhiều kẻ không có tâm đạo, mượn cửa thánh mưu cầu lợi lộc riêng tư, nên bụng họ chứa cả bồ dao găm, họ chẳng thể đem lòng từ bi cứu nhân độ thế,khắp nơi đã chứa đầy điều bất nghĩa, tạo nghiệp đa đoan, bọn người này là những kẻ xuất gia, lưng đeo cung tên ngồi tụng kinh trước bàn thờ Phật, thực đáng chê cười. Bữa nay ta lên núi để săn, nhưng việc săn của ta lại khác người đời, vì ta săn là săn tánh dã thú cùng tâm khỉ ý vượn.
Dương Sinh: Lời dạy của ân sư ngầm chứa rất nhiều cơ duyên pháp định của đạo thiền.
Tế Phật: Thôi chúng ta hãy mau lên đường... Đã tới nơi.
Dương Sinh: Quả nhiên trên cành cây phía trước có khoảng ba bốn chú khỉ đang nằm ngủ, nên không biết có người tới.
Tế Phật: Để thầy đánh thức chúng dậy còn không chúng cứ miệt mài say đắm trong giấc mộng hoài. “Này lũ khỉ ơi! Thợ săn tới bắt kìa, mau tìm nơi ẩn náu”.
Dương Sinh: Ân sư dùng quạt bồ gõ trên đầu chúng, chúng bừng mắt tỉnh, lòng kinh hãi, ngó trừng trừng.
Tế Phật: Thầy trò ta là khách không mời mà tới khiến các ngươi kinh hãi. Nhờ ta điểm hóa nên nguyên linh ký ức của các ngươi đã thức tỉnh rồi.
Dương Sinh: Thưa ân sư con thấy lũ khỉ thật là khôn ngoan, chúng biết lột vỏ mía và lột vỏ trái cây trước khi ăn. Như vậy là nhờ lý do nào?
Tế Phật: Tâm người gọi là tâm khỉ và chính tâm khỉ nữa, cả hai đều giống nhau ở điểm đảo điên. Hình dáng khỉ cũng như khí điển đã đạt trình độ giống người, nên được coi là loài vật tinh anh. Chân tay chúng rất linh hoạt, có căn bản về việc ăn uống.
Dương Sinh: Thưa ân sư, con có thể phỏng vấn ngay bây giờ không?
Tế Phật: Chúng đã hoàn toàn tỉnh táo, con có thể phỏng vấn được rồi.
Dương Sinh: Này khỉ ơi! Cảm nghĩ của các ngươi thế nào?
Khỉ: Thưa, trong giấc mộng nghe thấy tiếng người rồi bị lay tỉnh nên bất chợt kinh hãi. Thoạt tiên thấy trong đầu rỗng rang sáng láng, rồi dần dần hồi tưởng lại quá khứ mớ ihiểu rằng đã được đức Phật Sống Tế Công lay tỉnh, còn riêng vị là ai thì chúng tôi chưa được rõ.
Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, cùng ân sư Tế Phật phụng mệnh trước tác sách Luân Hồi Du Ký, bữa nay thật là có duyênmới được tới đây phỏng vấn, rất mong biết rõ lý do tại sao người lại phải đầu thai làm kiếp khỉ, để khuyên răn người đời.
Khỉ: Thực là quá thất lễ, kính mong Dương Thiện Sĩ thứ lỗi cho. Chúng tôi sinh sống trong chốn núi sâu, cảm thấy vô cùng nhàn tản thoải mái, hàng ngày cùng bạn bè leo trèo nhảy nhót, hái trái cây ăn rất là sung sướng, tuy nhiên cũng rất sợ loài rắn cùng thợ săn. Rất nhiều bạn bè của tôi đã từng bị rắn cắn chết, cùng thợ săn vây bắt khiến thân nhân bằng hữu ly tán, vì vậy chúng tôi càng ngày càng phải di chuyển vào chốn núi sâu, chẳng dám sống gần người đời.
Tế Phật: Người đời thường khinh những loài yếu đuối, mỗi khi gặp giống khỉ bé nhỏ đều nghĩ tới chuyện bắt bớ. Còn khi gặp mãnh hổ, ác báo các ngươi trốn chạy đường nào? Người đời nếu như giàu lòng từ bi bác ái hẳn là khi thấy những loài vật nhỏ nhoi yếu đuối, không biết làm hại người thì phải yêu mến bao bọc chúng, để chúng được tựdo sinh sống, hẳn đó cũng là một hành vi bác ái từ bi.
Khỉ: Bây giờ phải kể lại chuyện kiếp trước của mình, thực quả tôi cảm thấy vô cùng mắc cở. Song vì mục đích khuyên răn người đời chớ học tánh ác như tôi, thì tôi cũng xin cố gắng thuật lại đầu đôi câu chuyện. Kiếp trước tôi là một tên đạo tặc, chuyên nghề cướp trộm để mưu sinh, hằng đêm thường đào tường, khoét ngạch vô nhà; leo cột đèn, chuyền cành cây bước qua lầu để trộm đồ, bán lấy tiền tiêu xài hoang phí nơi các cao lâu tửu điếm, suốt một đời ngày nào cũng nhậu nhẹt rượu thịt say sưa. Có lần đi đánh cướp bị sa cơ, cảnh sát bắt giải tòa, lãnh án đi tù; vì kiếp trước nhốt ngục nên kiếp này tiếp tục bị giam trong lồng sắt để làm trò giải trí cho người đời. Những vật cướp trộm trước kia như vàng bạc, máy truyền hình, máy thâu băng, xe đạp, xe gắn máy... khi đứng trước đài gương soi ác nghiệp những thứ đó hiện rõ hết ra, nên tôi đành phải nhận tội. Minh Vương vô cùng tức giận, đã phạt tôi năm năm tù khổ sai lại còn phán dạy thêm: “Người thích trèo cây, leo tường, sau khi mãn án phải chuyển kiếp đầu thai làm loài khỉ, hàng ngày leo cây vịn cành. Kiếp trước nhậu nhẹt rượu thịt nên kiếp này chỉ được ăn trái cây, lá cây, uống nước lã ở nơi núi rừng”. Có rất nhiều thương gia buôn gian bán lận thất đức cũng bị đầu thai làm bạn với chúng tôi.
Tế Phật: Kiếp trước người luyện tập chân tay mềm dẻo linh hoạt, kiếp này đầu thai làm loài khỉ kể như rất thích hợp. Còn các gian thương làm giàu một cách phi nhân bất nghĩa phải đày đọa như vậy chẳng oan. Kiếp trước sống sung sướng bằng đồng tiền lường gạt, cướp đoạt bất lương, kiếp này bị phạt ăn cỏ núi, lá cây để chuộc tội kể cũng công bình.
Dương Sinh: Thưa ân sư, những tội hồn sau một thời gian bị hình phạt để đền tội xong, lập tức được đầu thai chuyển kiếp, thì hình như sự kiện này khi dạo thăm địa ngục con chưa từng nghe Minh Vương phán dạy như vậy.
Tế Phật: Vì sách Địa Ngục Du Ký chỉ chú trọng thuật lại những hình phạt ở dưới địa ngục, cho nên Minh Vương chưa cho con biết tỏ tường. Kỳ thực những tội hồn bất lương tại thế, sau khi bị kết án ở địa ngục, có kẻ ở lại chịu hình; có kẻ lập tức bị chuyển kiếp đầu thai làm loài cầm thú. Vì thiên cơ vô lượng, nếu mỗi mỗi thuật hết, hẳn là có lấy trúc thơm làm bút cũng không ghi hết, chỉ tùy duyên mới nói để khuyên đời một chút thôi.
Dương Sinh: Thưa ân sư, thì ra nguyên nhân là như vậy. Vừa rồi khi nói kiếp trước bị tù tội, do đó kiếp này ắt hẳn tránh được lao lung, nên bất cứ con khỉ nào được người đời nuôi trong vườn nhà, hoặc vườn bách thú hẳn đều là những bậc quân tử rường cột chuyển kiếp đầu thai sao?
Tế Phật: Không hẳn là như vậy, bởi lẽ khi nuôi khỉ người ta thường lấy xích sắt xích cổ khỉ vào cành cây, đối xửc hẳng khác nào với phạm nhân, còn khỉ nuôi ở sở thú, cũng bị nhốt trong song sắt, người đời há lại mong muốn được sống như vậy sao? Loài khỉ cũng bị chi phối bởi luật nhân quả, tin rằng khi được thả tự do, hẳn là lại leo trèo khắp chốn, cho nên được làm kiếp người thực là quý báu. Đời nay cứ ra khỏi cửa là có sẵn phương tiện di chuyển bằng xe cộ, ăn có sơn hào hải vị, mặc có lụa là gấm vóc, nếu như không làm lành, tu đạo đức, tránh điều ác, một sớm đánh mất nhân cách, chôn vùi nhân thân kiếp sau hẳn là phải đầu thai làm loài thú, thì há chẳng thê thảm đáng thương sao? Nhìn đời sống của loài vật khốn khổ hơn đời sống của loài người gấp vạn lần, chúng hoàn toàn phó thác đời mình cho con người sai khiến sử dụng. Con người vốn được coi là chúa tể muôn loài vạn vật quả là xác thực. Phật nói: “Trung thổ nan sinh, nhân thân nan đắc, đại đạo nan phùng, phổ độ nan ngộ” (Cõi đất khó sinh, thân người khó được, đạo lớn khó tìm, cứu độ khó gặp). Con người giờ đây đạt được thì kể như ba kiếp mới được một lần may mắn. Sinh vào thời đại văn minh, phải cố gắng tu tâm học đạo, tự độ mình rồi độ người, có như vậy mới không hổ thẹn là đã lãng phí thời gian cùng kiếp sống. Xin ca một bài để chúng sinh tỉnh ngộ:
(I) Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo
Duy hữu công danh vong bất liễu
Cổ kim tương tướng tại hà phương
Hoang trủng nhất đôi thảo một liễu.
(II) Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo
Duy hữu kim ngân vong bất liễu
Chung thân chỉ hận tu bất đa
Trực đáo đa thời nhãn bế liễu.
(III) Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo
Duy hữu kiều thê vong bất liễu
Quân sinh nhật nhật thuyết đa tình
Quân tử khước tùy nhân khứ liễu.
(IV) Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo
Duy hữu nhi tôn vong bất liễu
Si tâm phụ mẫu cổ lai hữu
Hiếu thuận nhi tôn thùy kiến liễu.
Dịch
(I) Người đời đều biết thần tiên tốt
Chỉ tiếc công danh không bỏ phứt
Xưa nay trông ngóng mãi phương nào
Phần mộ cỏ hoang cao chất ngất.
(II) Người đời đều biết thần tiên tốt
Chỉ tiếc bạc vàng không bỏ phứt
Suốt đời hận góp chẳng bao nhiêu
Tới lúc già nua mắt khép chặt.
(III) Người đời đều biết thần tiên tốt
Chỉ tiếc vợ đẹp không bỏ phứt
Khi còn buổi buổi nợ tình đeo
Lúc chết mới đành buông bỏ hết.
(IV) Người đời đều biết thần tiên tốt
Chỉ tiếc cháu con không bỏ phứt
Mẹ cha thương xót biết là bao
Hiếu thảo cháu con thời chẳng biết.
Dương Sinh: Thưa nghe xong bài hát ca ngợi đạo đức của ân sư, lòng con cảm xúc vô cùng.
Tế Phật: Con có thể phỏng vấn thêm con khỉ kia.
Dương Sinh: Thưa vâng. Này chú khỉ kia ơi, chú có thể kể lại cuộc đời kiếp trước chú đã trải qua như thế nào không?
Khỉ: Đức Tế Phật cùng Dương Thiện Sĩ vì sứ mệnh khuyên đời nên mới tới chốn này, tôi lại dám quản công từ chối được sao. Kiếp trước tôi sống ở Vân Lâm, làm nghề cày ruộng, có bốn anh em, tôi là anh cả, đã học hết bậc trung học, kể cũng là có hiểu biết nên khi lâm trọng bệnh cha tôi mới dặn dò tôi là sau khi cha tôi thác, tôi phải đem ruộng nương của cải chia đều cho các em tôi. Song vì nghe lời vợ tôi xúi giục, lại thêm nổi máu tham lam trong mình, liền đem văn tự ruộng đất của cha để lại sang hết tên tôi. Đợi sau khi cha chết, các thủ tục đã lo liệu xong xuôi, các em mới biết chúng bèn than trách kêu ca, tôi liền nổi nóng đánh đập chúng tàn nhẫn. Các em tôi vì lòng hiếu đễ, không nỡ đem chuyện xấu trong gia đình tiết lộ ra ngoài, chỉ nhẫn nhịn chịu đựng. Kể từ đó anh em trong nhà xung khắc, đoạn tuyệt chẳng nhìn mặt nhau, mỗi kẻ một phương. Sau khi tôi chiếm đoạt trọn gia tài của cha để lại, mỗi ngày một giàu có thêm, bèn sinh tật đánh bài đánh bạc, càng lúc càng ham, vợ con khuyên cản cách nào cũng chẳng nghe, không những không bỏ được mà lại còn càng lúc càng mê đắm hơn.
Vì quá ham mê cờ bạc, ruộng nương tài sản lần lần bán sạch, vợ con giận dữ bỏ đi, còn tôi để kiếm ăn qua ngày phải tìm tới xưởng đúc thép tại Bắc Bộ xin làm công nhân. Có một bữa trong lúc làm việc đã sơ ý bị bàn sắt nặng đè, mặc dù được chở tới bệnh viện cấp cứu, song vì vết thương ở đầu quá nặng, một kiếp thương ôi! Sau khi thác, tội hồn tôi bị quỷ vô thường hắc bạch áp giải xuống âm phủ, Diêm Vương kết án ba tội:
1) Tội bất hiếu: Không tôn trọng di chúc của cha, cướp đoạt hết tài sản của anh em, khiến linh hồn cha ở dưới suối vàng không được yên ổn.
2) Tội bất nghĩa: Anh em đáng lý phải lấy nghĩa đối đãi với nhau, lại đi nghe lời vợ con xúi giục, lòng tham nổi dậy, khiến đã đoạn tuyệt tình thương cốt nhục, phản bộ đạo nghĩa anh em.
3) Tội cờ bạc: Quá ham mê đỏ đen, vợ khuyên can chẳng nghe, tới nỗi tán gia bại sản, thân vong mệnh một, tội quá lớn lao. Do đó bị xử phạt hai mươi năm khổ sai, mãn án phải chuyển kiếp đầu thai làm loài khỉ, hiện tại không một vật sở hữu, chỉ còn biết ngắt cây cỏ mọc hoang làm thứ căn. Không có nhà cửa tài sản riêng tư, hai bàn tay trắng, sống rày đây mai đó, màn trời chiếu đất, càng nghĩ càng đau lòng tủi phận. Hối hận kiếp trước dã tâm quá lớn, chôn vùi nhân luân đạo đức, nên kiếp này mới bị đày ải khổ sở tới mức này...
Tế Phật: Chớ có buồn đau khóc lóc, ta đã điểm hóa cho các ngươi, gắng tôn trọng làm tròn bổn phận, kiếp sau được đầu thai lên làm người, nhớ đừng tái phạm những điều tội lỗi trước kia. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh.
Tế Phật: Đã tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
#14
Gửi vào 04/09/2011 - 08:54
LUÂN HỒI DU KÝ
HỒI BẢY
CƯỚP TIỀN GIỰT NỢ NHẤT THỜI DÙ CHẠY TRỐN
CHUYỂN KIẾP THÀNH TRÂU KHỔ NHỌC KHÓ CAO BAY
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 10 tháng 5 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Mãi mãi công bình bất khả khi
Kim tiền tuần chuyển án thời kỳ
Phân văn khuy khiếm oan tương báo
Nhất điểm vi tâm tội nghiệp tùy.
Nhân diện mạc tùy dã thú hành
Đài đầu tam xích hữu thần minh
Thanh thiên pháp báo nan đào tỵ
Thiện ác phân ban quỷ diệc kinh.
Dịch
Buôn bán luôn luôn phải thực thà
Bạc tiền sòng phẳng với người ta
Một xu thiếu chịu thân mang nghiệp
Phản bội lương tâm ác báo theo.
Dạ thú lòng lang chẳng có mình
Nhìn cao ba thước thấy thần linh
Trời xanh mắt huệ khôn che giấu
Rõ ràng thiện ác quỷ còn kinh.
Tế Phật: Những kẻ buôn bán đều mong kiếm lời, song chớ quá tham lam lợi lộc mà thất đạo, không được phản bội lương tâm, chớ dùng thủ đoạn gian manh lường gạt cướp giựt tiền bạc của người. Buôn bán để mong kiếm sống, nhưng chớ vì sự sống của mình mà tạo sự chết cho người. Thương mại phải ngay thật, một hào không tham lam, một xu chẳng gian lận, tiền trong túi phải hoàn toàn là tiền chẳng dơ bẩn. Người đời lấy tiền cho bạn bè và người thân mượn, rồi không trả hẳn là sẽ bị mắng chửi là kẻ bất lương. Nhưng người đời thường thường khi lừa đảo kẻ khác lại cho hành động là rất tự nhiên chẳng có gì là quan trọng cả. Một sự việc mà hai trạng thái tâm lý, tâm lý của người và tâm lý của vật. Kẻ sống phóng túng, phá hoại bản tính tốt của người để rồi sa đọa xuống hàng thú tính chuyên hại người. Thế nhân chớ trách người một cách khe khắt, trách mình một cách rộng lượng để rồi tự chôn vùi mình. Sở dĩ ta kêu gọi bỏ tính thú, là hy vọng người đời cố gắng bảo vệ điểm lương tâm tròn sáng vốn sẵn có của mình.
Dương Sinh: Thưa ân sư dạy rất đúng, kẻ đánh mất lương tâm, chôn vùi lương tri, khó mà tìm lại được, như vậy là bởi tại sao?
Tế Phật: Những kẻ không có lương tâm, chẳng hiểu cuối cùng làm cách nào sống nổi? Ta xuống cõi phàm, đi bên cạnh người đời toàn thấy mùi tanh hôi nồng nặc xông vào mũi, định thần ngó kỹ thì thấy chẳng phải là mùi phân hay là nước tiểu mà là mùi lương tâm băng hoại trở thành thối tha khó ngửi, khiến ta lắc đầu than thở. Phân và nước tiểu tuy thối tha song còn có thể dùng để tưới rau tươi tốt. Còn lương tâm hôi thối thì nết xấu đó không ngớt hại người, hại mình. Bữa nay ta đặc biệt đem tới một bao đầy chữ “chính” tượng trưng cho “lương tâm” đổi miễn phí cho chúng sinh mang, nếu như những ai có “ác tâm, hoại tâm, độc tâm, thương tâm, hận tâm, khổ tâm” xin đừng làm khách, hãy mau đem đổi lấy “hảo tâm” bảo đảm rất mau lành mạnh, tránh khỏi bị nhập vào cốt tủy trở thành căn bệnh nan y.
Dương Sinh: Thưa, ân sư nói là bữa nay mang tới một bao “lương tâm” mà tại sao con không nhìn thấy?
Tế Phật: Từ ngàn xưa đã nói: “Chân kinh không ở trên giấy, chân tâm không ở trong thân thịt". Do đó người đời không thể nhìn thấy “lương tâm” của mình, cho nên mới làm điều ác. Con hãy nhìn chiếc quạt bồ là rõ tất cả.
Dương Sinh: Thưa ân sư, con chỉ nhìn thấy cái quạt có vẽ hình trái tim tròn tròn méo méo mà thôi còn ngoài ra không nhìn thấy một điểm khác lạ nào nữa hết.
Tế Phật: Con hãy định thần nhìn thật kỹ, thầy dùng tay chỉ hình trái tim xem con sẽ thấy biến hóa ra sao?
Dương Sinh: Thưa ân sư, con thấy hình trái tim nơi cây quạt dần dần tỏa chiếu sáng ngời, càng lúc càng mạnh, khiến mắt con như bị kim chích. Thưa, con thấy, con thấy, lời dạy của ân sư về lương tâm của con người quá đúng, nó vốn tròn trịa sáng sủa, song bị bụi trần che phủ nên bị chôn vùi thành tối tăm. Nay ân sư dùng tay điểm hóa, phủi sạch bụi trần, diệt hết dục niệm, lương tâm sáng láng mới có cơ hội xuất hiện. Còn nếu không lương tâm cứ bị dục niệm chiếm cứ hoài, như mây che mặt trăng, trời đất tạm tối tăm chứ không phải vốn tối tăm.
Tế Phật: Quả là siêu phàm, ta vẽ một vòng tròn để biể uthị lương tâm của con người, vốn ở nơi đất Phật vô cực, như viên ngọc quý tỏa chiếu sáng ngời, một sớm rớt xuống cõi hồng trần, bị nhiễm thất tình lục dục, sự sáng giảm dần, rơi xuống địa ngục tối tăm. Bữa nay ta ban Phật pháp, điểm hóa cùng phủi sạch bụi bậm phủ kín lương tâm vị chủ nhân này, để cho nó sáng sủa trở lại như thuở ban đầu.
Dương Sinh: Quả thật là huyền diệu, lúc này cây quạt sáng chói như mặt trời lúc rạng đông, xua tan màn u tối. Lương tâm xuất hiện là cảnh thiên đàng. Luồng hào quang trước mắt, nhìn rõ tất cả, từ nay chớ tái phạm lầm lỗi u mê, đường đạo sáng sủa rộng rãi thênh thang trước mắt. Tìm lại được lương tâm thất lạc, giống tựa cảnh giữa đêm tối được thấy ánh đèn. Thầy phe phẩy quạt bồ, gió nhè nhẹ thổi qua lửa càng sáng ngời thêm.
Tế Phật: Dương Sinh, thôi thầy trò mình lên đường.
Dương Sinh: Thưa, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đã tới nơi.
Dương Sinh: Thưa, bữa nay ân sư hướng dẫn con tới thăm một nông gia ở mãi đâu?
Tế Phật: Tới thăm nông gia họ Lâm ở làng Đài Đông, bữa nay mình phỏng vấn họ về việc nuôi bò.
Dương Sinh: Đi tới chuồng bò thấy phía trong có một con bò đang nằm nghỉ, nghe hơi thở có vẻ quá mệt nhọc, hình như là không biết có chúng tôi đứng bên cạnh.
Tế Phật: Bò ban ngày làm việc rất cực, do đó ngủ rất say, nên không biết có thầy trò mình tới. Để thầy điểm hóa đánh thức bò dậy. “Bò ơi, bò ơi, mi kéo cày khổ cực, lại chẳng được hưởng lợi lộc gì, hẳn là kiếp trước có phạm phải tội thất đức chăng, nên kiếp này phải bán mình trả nợ, muốn khỏi làm thân bò, hãy mau tỉnh thức đi”.
Dương Sinh: Ân sư nói mấy câu pháp xong liền dùng quạ tbồ, quạt trên đầu bò, bò đang mê ngủ liền tỉnh thức mở hai mắt, dòng lệ trào ra, ngẩn ngơ ngó chúng tôi.
Tế Phật: Bò ơi ta là Phật Sống Tế Công, phụng chỉ hướng dẫn thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường dạo thăm ba cõi, đã viết và xuất bản sách Địa Ngục Du Ký, Thiên Đàng Du Ký và Nhân Gian Du Ký. Nên bữa nay tới đây đặc biệt phỏng vấn ngươi, hy vọng ngươi nói lại những kinh nghiệm đã bị chuyển kiếp đầu thai làm thân bò cho người đời được rõ, để ngươi có dịp tạo công chuộc tội, kiếp sau được lên làm người, thoát khỏi kiếp súc sinh khổ cực.
Bò: Thưa, xin thứ lễ, thứ lễ cho. Vì mê ngủ nên không rõ đức Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới. Cho đến khi được nghe lời dạy qua sự điểm hóa của đức Tế Phật, mới tỉnh thức và lòng đau buồn vô hạn. Vì ban ngày phải kéo xe cày ruộng khổ cực không thể nào chịu nổi, lại còn bị chủ nhân đánh đập chửi mắng, hiện tại nỗi khổ đau không thể giải bày, chỉ có thể kéo cày dưới ruộng ngập bùn, kéo xe trên đường lầy lội, cố đi mau để sớm có ngày trở về. Tưởng nhớ được kiếp trước sống không có quay đầu ngó lại. Kiếp trước con là kẻ bán rau ở chợ, vì quá tham lợi nhiều, nên đã tìm cách cân gian. Vì các bà nội trợ trước kia giàu có, nên đem rau về nhà không bao giờ cân lại, mỗi ngày con gian lận được hàng mấy chục ký. Về sau nghề bán rau của con bị cạnh tranh, nên hàng hóa bị ế ẩm, con bèn đổi qua nghề bán thịt, vì thịt bò quý, số lượng tiêu thụ ít, nên chẳng thể phát đạt như nghề bán rau trái lúc trước.
Vì vậy để được lợi nhiều, con bèn ngâm thịt vào nước để cân cho nặng hơn, không những thế con lại còn lén cân thiếu. Bán thịt tuy kiếm được nhiều lời, song vì tật hút sách, rượu chè, cờ bạc không bỏ, ngày nào cũng đi nhậu say khước mới về, ham tụ họp bạn bè cờ bạc rượu chè, do đó tiền lời kiếm được bao nhiêu cũng không đủ tiêu xài, do đó bắt đầu làm chủ hụi, mời các bạn hàng thịt tới gia nhập, hết hụi nọ tới hụi kia, cốt để thâu tiền xài phí. Tự biết kiếm tiền cách này cũng không bền, trước sau thế nào cũng đổ bể, liền nghĩ kế trốn nợ bằng cách lén dọn nhà đi một nơi khác để các con nợ không tài nào kiếm ra. Một bạn đồng nghiệp bị tôi giựt hụi biết rõ âm mưu của tôi vô cùng căm phẫn, liền thông báo cho mọi người hay, kéo tới đón tôi ở trạm xe, lúc tới đó tôi mới hay thì chạy không kịp, bị họ đánh đập, tôi phải quỳ xuống đất xin tha, kể lể rằng vì không có tiền nên mới làm như vậy.
Các bạn hàng thấy tôi quá năn nỉ, tạm tha cho, ra lệnh cho tôi nội trong một tuần lễ phải giải quyết, tôi liền dạ dạ vâng vâng. Nhưng sau khi về tới nhà, tôi liền đem vợ con trốn biệt về xứ để quịt nợ, chủ nợ cuối cùng không tìm ra tôi. Ở nhà quê tôi chỉ làm những việc lặt vặt để kiếm sống qua ngày, sau khi đời sống tạm ổn định, máu cờ bạc lại nổi lên, mê mẩn không thể nào dứt bỏ nổi, tiền kiếm được không đủ xài, liền đêm khuya giở trò trộm đạo của cải, gà vịt của láng giềng, cũng may là chưa từng một lần bị bắt. Vì chuyên sống bất chính vô lương nên mắc chứng bệnh ho lao, thường ho ra máu, chạy chữa thuốc thang hoài không khỏi, hàng xóm láng giềng dần dần xa lánh, thân thể tiều tụy, không làm việc gì nổi, tới năm năm mươi hai tuổi thì thác vì một cơn trọng bệnh.
Sau khi chết hồn phách bị quỷ hắc bạch vô thường áp giải xuống địa ngục. Diêm Vương đã xử phạt còn mắng nhiếc là một đời chuyên làm việc bất lương, phạm quá nhiều tội ác. Sau khi chịu các hình phạt ở các ngục xong, còn bị chuyển kiếp đầu thai làm thân bò cày ruộng kéo xe, hằng ngày phải kiên nhẫn gánh vác sự nặng nhọc, chịu đựng sự chửi mắng đánh đập, mũi bị chủ nhân xỏ một sợi dây thừng dùng để kéo lôi sai khiến tùy theo ý muốn, nên mất hết tự do. Về nhà thân đã mệt mỏi lại còn phải ngủ trong chuồng nhỏ hẹp, giường nệm là phân trộn nước tiểu hôi thối, song vẫn phải cắn răng chịu đựng. Hàng ngày chịu cực nhọc làm việc, dầm mưa dãi nắng, bán mình thay cho chủ, ăn cỏ dại uống nước lã sống qua ngày, nên hiện tại vô cùng khổ đau, cầu xin đức Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sĩ cứu độ để con thoát khỏi nghiệp làm thân bò như hiện tại.
Tế Phật: Con chớ quá buồn thương, đã chịu thức tâm trả nghiệp thì chắc chắn sẽ được giải nghiệp, vậy phải kiên nhẫn chịu khổ, vì khổ là đắng có tận thì cam tức ngọt mới có thể tới mà thôi, còn nếu như trốn chạy thực tại, thì chẳng khác nào kiếp trước từng chạy nợ, thì kiếp sau vẫn phải trả. Ngươi đã nói ra hết sự thật để khuyên răn người đời, nên có thể lập công chuộc tội, ta lại vì người điểm hóa, nên kiếp sau có hy vọng phục hồi được thân người, hết còn phải làm kiếp bò.
Dương Sinh: Hoàn cảnh đáng thương của bò may mắn được ân sư điểm hóa, kiếp tới lại được đầu thai làm người, phải hết sức tránh những điều sai quấy của kiếp trước đã phạm phải, còn không sẽ bị luân hồi vĩnh viễn.
Tế Phật: Nhân quả tuần hoàn thật là đáng sợ, cổ ngữ có nói: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu” đúng là chân lý bất biến. Nhân dịp này, vì bò, vì chúng sinh kể một ấn chứng nhân quả tựa đề là “Cá gỗ và roi cá gỗ” để cảnh tỉnh người đời. Ngày xưa có một nông phu tên là A Bảo ở trước cửa chùa Quang Minh thuộc một xóm nhỏ, y thường qua chùa nghe hòa thượng giảng đạo. Có một buổi chiều y ra đồng tháo nước ruộng, thấy một con rắn đang nhai một con ếch, con ếch từ miệng rắn kêu cứu. A Bảo thấy vậy, vội đập con rắn, rắn đau há họng, ếch được thoát chết, rắn cũng không bỏ mạng. Một buổi tối khoảng một tuần lễ sau, có tiếng ếch kêu ran khiến A Bảo choàng tỉnh, lấy làm ngạc nhiên, tự hỏi tại sao ếch lại đến bên giường? Sau đó A Bảo lại ngáy khò khò ngủ tiếp, nhưng ếch không ngừng mà lại còn kêu lớn tiếng hơn, khiến A Bảo thức dậy châm đèn tìm kiếm ếch.
Đèn vừa cháy sáng, A Bảo liền nhảy nhổm, thì ra con rắn hôm trước mình đã đánh nó để cứu con ếch, đang đục lỗ trên đỉnh màn tìm cách chui xuống, miệng há lớn, lưỡi lo le, cũng may vì lỗ vải còn quá bé rắn không chui qua nổi, còn không A Bảo hẳn là bị rắn cắn. “Thực là quân độc ác đã nuôi chí báo thù, nếu không được ếch đánh thức hẳn là ta đã bị mi cắn chết rồi”. Nói dứt A Bảo liền cầm gậy đập chết con rắn. Một năm sau, A Bảo nuôi một con chó, lớn lên rất mực tinh khôn, có thể nghe hiểu tiếng người, biết vâng lời chủ, chịu khó giữ nhà, coi sóc bò dê nên rất được mọi người quý mến. Hàng ngày chó theo A Bảo ra đồng, lên núi cùng tới chùa Quang Minh nghe hòa thượng thuyết pháp. Một hôm A Bảo dẫn cả chó đi lễ Phật, hòa thượng nhìn thấy, nói: “Lành thay, oan gia theo sát, giả vờ thân thiện, họa nhiều phước ít, này A Bảo, con tặng thầy con chó khôn ngoan này để nó coi chùa cho thầy thì con mới giải hết được oan nghiệp, bởi kiếp trước nó là con rắn bị con đánh chết, khi nó bò lên đỉnh màn định báo thù con”.
A Bảo nghe xong bán tính bán nghi nên không chịu, cùng tự nhủ rằng nuôi chó này mà mắc nghiệp oan sao? Hòa thượng lại nói: “A Bảo này, thầy không bắt buộc con đâu, song con phải vâng lời thầy, vì thầy không bao giờ lừa dối ai cả. Con về nhà phải nhớ vào đúng giờ ngọ mồng năm tháng năm phải lấy rơm kết thành bù nhìn, rồi lấy quần áo của chính con mặc cho nó, đặt nó trên giường con, còn con tìm nơi kín đáo ẩn đi, đừng để cho con chó của con biết”. Sau khi A Bảo về tới nhà nhất nhất làm đúng y như lời hòa thượng dặn dò, sau đó núp sau giường chờ đợi trong tư thế nửa tin nửa ngờ, tự hỏi không rõ trong trái hồ lô của hòa thượng có loại thuốc gì đây? “Boong, boong” đồng hồ điểm đúng mười tiếng, đột nhiên “binh, binh, binh” không rõ sức mạnh nào lại đập cửa rầm rầm thế này, song vì cửa đóng chặt, sức mạnh đó không thể nào tông cửa nổi.
“Choảng,choảng, choảng” một con chó hung dữ phóng qua cửa sổ bay vào trong phòng, hai mắt lang sói trợn trừng, lưỡi le dài ướt đẫm máu tươi, lồng lộng khắp phòng giống hệt thú dữ tìm mồi, đột nhiên nhảy lên giường cắn nát bù nhìn bằng rơm, tới chừng oán khí xả hết, chó dại mới chịu yên lặng. A Bảo nấp sau giường lúc này giận sôi gan, liền quơ gậy đập chết chó. Mùa thu năm sau, A Bảo lên núi kiếm củi, khi tới ngang chùa Quang Minh, thì cũng lúc đó hòa thượng ra ngoài cổng chùa nhìn mặt trời lên, khi ngài quay đầu lại thì thấy A Bảo, liền kêu lại dạy rằng: “A Bảo này, bữa nay sắc mặt con không được tốt, phải lo giữ mình cẩn thận, nếu như có người kêu tên con, thì con chớ có trả lời, phải nhớ kỹ đấy”. A Bảo đã có kinh nghiệm trước đây, nên giờ coi hòa thượng như Tiên Thánh, đâu còn dám trái lời, nên liền cảm ơn rối rít. Khoảng ba giờ sau, toàn thân A Bảo ướt đẫm mồ hôi, vừa chạy vừa thở hào hển, mặt tái nhợt, toàn thân xám xịt, chân tay lạnh ngắt, quỳ mọp xuống đất ,ôm cứng hai chân hòa thượng, nói chẳng nên lời. Hòa thượng an ủi: “Này A Bảo, con đừng có sợ”.
Nhưng nghĩ hồi lâu hòa thượng hỏi tiếp: “Con đã gặp sự gì vậy?” Rồi ngài vừa lau mồ hôi, xoa ngực cho A Bảo vừa hỏi tiếp nguyên do sự tình. A Bảo thân run rẩy lập cập, miệng lắp bắp nói mãi tới trưa mới rõ được lý do vì sao lại kinh hãi bỏ chạy cho hòa thượng rõ như sau: “Thưa sư phụ, con gặp một người đẹp rắn, vì sau khi từ biệt sư phụ, con một mình vào núi kiếm củi, khí núi vừa bị ánh bình minh làm cho tan loãng, cảnh vật trở thành trong sáng rực rỡ, chim chóc hót véo von, chim ưng bay lượn, khỉ con vui mừng nhảy nhót kêu chí chóe, cảnh đẹp làm con say sưa, con chỉ cảm thấy lòng nôn nao yêu mến cảnh núi non, quên mất lời dặn của sư phụ. Chính lúc vui sướng miên man, quên cả thời gian thì chợt nghe tiếng người gọi, giọng véo von như chim oanh nói tiếng người thật là dễ thương, khiến con không thể cầm lòng bèn lên tiếng đáp lại, và dò theo chỗ tiếng nói phát ra thì con thấy một trang giai nhân tuyệt sắc, khiến con ngây người, nghĩ nàng là tiên nữ giáng trần, song tới khi nhìn lại người nàng thì hóa ra thân nàng là thân một con rắn lớn”.
Hòa thượng nói: “A Bảo này, cớ sao con không nghe lời thầy dặn! Lần này ta không còn cách nào cứu nổi con, vậy con hãy về tự lo việc mai táng thân con”. A Bảo nói: “Xin sư phụ thí pháp cứu con, còn không con xin chết tại chùa.” Nói xong, quỳ mọp xuống đất lạy rối rít. Hòa thượng nói: “Được rồi, con hãy đứng dậy, ta sẽ hết sức giúp, con hãy chờ coi. Tối nay con lên ngồi giữa chính điện, lấy một cái chum chụp lên để xem có thoát khỏi số mệnh không”. Sáng hôm sau hòa thượng lên chính điện thì thấy con rắn mỹ nhân quấn chặt cái chum mà chết, hòa thượng liền lật con rắn và cái chum ra thì thấy A Bảo bị khí nộc độc của rắn nhiễm đen xì, và hồn đã lìa khỏi xác tự bao giờ! Người đẹp rắn thật là tai hại! Hòa thượng đầy lòng từ bi liền đem họ chôn chung vào một huyệt, với hy vọng từ đó họ sẽ tự giải oan trở nên tốt lành. Thế mới biết kết oán dễ, giải oán khó; sau đó ít lâu, xương A Bảo mọc thành cây cao, xương người đẹp rắn mọc thành bụi cây dây leo quấn chặt thân cây A Bảo, tới mức đó mà vẫn chẳng chịu buông tha.
Hòa thượng muốn để cho đời thấy rõ cái sự tai hại của sự việc lấy oán báo oán, nhân quả báo ứng tơ tóc chẳng sai, đồng thời để thức tỉnh người đời chăm lo vun bồi thiện duyên, tránh gieo nhân ác, do đó người sai đem cây A Bảo khắc chạm thành cái mõ, cây người đẹp rắn làm dùi, để hai vật mãi mãi đánh đập nhau. Những âm thanh báo ứng phát ra lúc tụng kinh trước bàn Phật để cảnh tỉnh thế nhân sám hối. Người đời chỉ biết đó là những tiếng ngụ ngôn còn chân lý chứa đựng bên trong chẳng thể bàn cãi nổi. Căn cứ vào đây chúng ta mới rõ được rằng các loài động vật đều có tính linh là điều hoàn toàn chính xác. Dương Sinh lên đài sen, chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Nghe xong câu chuyện xưa lòng cảm thấy vô cùng thích thú song không khỏi sợ hãi, nhân quả tuần hoàn thực là kinh khủng, người đời phải coi đó là tấm gương mà tự giác. Thưa, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI BẢY
CƯỚP TIỀN GIỰT NỢ NHẤT THỜI DÙ CHẠY TRỐN
CHUYỂN KIẾP THÀNH TRÂU KHỔ NHỌC KHÓ CAO BAY
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 10 tháng 5 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Mãi mãi công bình bất khả khi
Kim tiền tuần chuyển án thời kỳ
Phân văn khuy khiếm oan tương báo
Nhất điểm vi tâm tội nghiệp tùy.
Nhân diện mạc tùy dã thú hành
Đài đầu tam xích hữu thần minh
Thanh thiên pháp báo nan đào tỵ
Thiện ác phân ban quỷ diệc kinh.
Dịch
Buôn bán luôn luôn phải thực thà
Bạc tiền sòng phẳng với người ta
Một xu thiếu chịu thân mang nghiệp
Phản bội lương tâm ác báo theo.
Dạ thú lòng lang chẳng có mình
Nhìn cao ba thước thấy thần linh
Trời xanh mắt huệ khôn che giấu
Rõ ràng thiện ác quỷ còn kinh.
Tế Phật: Những kẻ buôn bán đều mong kiếm lời, song chớ quá tham lam lợi lộc mà thất đạo, không được phản bội lương tâm, chớ dùng thủ đoạn gian manh lường gạt cướp giựt tiền bạc của người. Buôn bán để mong kiếm sống, nhưng chớ vì sự sống của mình mà tạo sự chết cho người. Thương mại phải ngay thật, một hào không tham lam, một xu chẳng gian lận, tiền trong túi phải hoàn toàn là tiền chẳng dơ bẩn. Người đời lấy tiền cho bạn bè và người thân mượn, rồi không trả hẳn là sẽ bị mắng chửi là kẻ bất lương. Nhưng người đời thường thường khi lừa đảo kẻ khác lại cho hành động là rất tự nhiên chẳng có gì là quan trọng cả. Một sự việc mà hai trạng thái tâm lý, tâm lý của người và tâm lý của vật. Kẻ sống phóng túng, phá hoại bản tính tốt của người để rồi sa đọa xuống hàng thú tính chuyên hại người. Thế nhân chớ trách người một cách khe khắt, trách mình một cách rộng lượng để rồi tự chôn vùi mình. Sở dĩ ta kêu gọi bỏ tính thú, là hy vọng người đời cố gắng bảo vệ điểm lương tâm tròn sáng vốn sẵn có của mình.
Dương Sinh: Thưa ân sư dạy rất đúng, kẻ đánh mất lương tâm, chôn vùi lương tri, khó mà tìm lại được, như vậy là bởi tại sao?
Tế Phật: Những kẻ không có lương tâm, chẳng hiểu cuối cùng làm cách nào sống nổi? Ta xuống cõi phàm, đi bên cạnh người đời toàn thấy mùi tanh hôi nồng nặc xông vào mũi, định thần ngó kỹ thì thấy chẳng phải là mùi phân hay là nước tiểu mà là mùi lương tâm băng hoại trở thành thối tha khó ngửi, khiến ta lắc đầu than thở. Phân và nước tiểu tuy thối tha song còn có thể dùng để tưới rau tươi tốt. Còn lương tâm hôi thối thì nết xấu đó không ngớt hại người, hại mình. Bữa nay ta đặc biệt đem tới một bao đầy chữ “chính” tượng trưng cho “lương tâm” đổi miễn phí cho chúng sinh mang, nếu như những ai có “ác tâm, hoại tâm, độc tâm, thương tâm, hận tâm, khổ tâm” xin đừng làm khách, hãy mau đem đổi lấy “hảo tâm” bảo đảm rất mau lành mạnh, tránh khỏi bị nhập vào cốt tủy trở thành căn bệnh nan y.
Dương Sinh: Thưa, ân sư nói là bữa nay mang tới một bao “lương tâm” mà tại sao con không nhìn thấy?
Tế Phật: Từ ngàn xưa đã nói: “Chân kinh không ở trên giấy, chân tâm không ở trong thân thịt". Do đó người đời không thể nhìn thấy “lương tâm” của mình, cho nên mới làm điều ác. Con hãy nhìn chiếc quạt bồ là rõ tất cả.
Dương Sinh: Thưa ân sư, con chỉ nhìn thấy cái quạt có vẽ hình trái tim tròn tròn méo méo mà thôi còn ngoài ra không nhìn thấy một điểm khác lạ nào nữa hết.
Tế Phật: Con hãy định thần nhìn thật kỹ, thầy dùng tay chỉ hình trái tim xem con sẽ thấy biến hóa ra sao?
Dương Sinh: Thưa ân sư, con thấy hình trái tim nơi cây quạt dần dần tỏa chiếu sáng ngời, càng lúc càng mạnh, khiến mắt con như bị kim chích. Thưa, con thấy, con thấy, lời dạy của ân sư về lương tâm của con người quá đúng, nó vốn tròn trịa sáng sủa, song bị bụi trần che phủ nên bị chôn vùi thành tối tăm. Nay ân sư dùng tay điểm hóa, phủi sạch bụi trần, diệt hết dục niệm, lương tâm sáng láng mới có cơ hội xuất hiện. Còn nếu không lương tâm cứ bị dục niệm chiếm cứ hoài, như mây che mặt trăng, trời đất tạm tối tăm chứ không phải vốn tối tăm.
Tế Phật: Quả là siêu phàm, ta vẽ một vòng tròn để biể uthị lương tâm của con người, vốn ở nơi đất Phật vô cực, như viên ngọc quý tỏa chiếu sáng ngời, một sớm rớt xuống cõi hồng trần, bị nhiễm thất tình lục dục, sự sáng giảm dần, rơi xuống địa ngục tối tăm. Bữa nay ta ban Phật pháp, điểm hóa cùng phủi sạch bụi bậm phủ kín lương tâm vị chủ nhân này, để cho nó sáng sủa trở lại như thuở ban đầu.
Dương Sinh: Quả thật là huyền diệu, lúc này cây quạt sáng chói như mặt trời lúc rạng đông, xua tan màn u tối. Lương tâm xuất hiện là cảnh thiên đàng. Luồng hào quang trước mắt, nhìn rõ tất cả, từ nay chớ tái phạm lầm lỗi u mê, đường đạo sáng sủa rộng rãi thênh thang trước mắt. Tìm lại được lương tâm thất lạc, giống tựa cảnh giữa đêm tối được thấy ánh đèn. Thầy phe phẩy quạt bồ, gió nhè nhẹ thổi qua lửa càng sáng ngời thêm.
Tế Phật: Dương Sinh, thôi thầy trò mình lên đường.
Dương Sinh: Thưa, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đã tới nơi.
Dương Sinh: Thưa, bữa nay ân sư hướng dẫn con tới thăm một nông gia ở mãi đâu?
Tế Phật: Tới thăm nông gia họ Lâm ở làng Đài Đông, bữa nay mình phỏng vấn họ về việc nuôi bò.
Dương Sinh: Đi tới chuồng bò thấy phía trong có một con bò đang nằm nghỉ, nghe hơi thở có vẻ quá mệt nhọc, hình như là không biết có chúng tôi đứng bên cạnh.
Tế Phật: Bò ban ngày làm việc rất cực, do đó ngủ rất say, nên không biết có thầy trò mình tới. Để thầy điểm hóa đánh thức bò dậy. “Bò ơi, bò ơi, mi kéo cày khổ cực, lại chẳng được hưởng lợi lộc gì, hẳn là kiếp trước có phạm phải tội thất đức chăng, nên kiếp này phải bán mình trả nợ, muốn khỏi làm thân bò, hãy mau tỉnh thức đi”.
Dương Sinh: Ân sư nói mấy câu pháp xong liền dùng quạ tbồ, quạt trên đầu bò, bò đang mê ngủ liền tỉnh thức mở hai mắt, dòng lệ trào ra, ngẩn ngơ ngó chúng tôi.
Tế Phật: Bò ơi ta là Phật Sống Tế Công, phụng chỉ hướng dẫn thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường dạo thăm ba cõi, đã viết và xuất bản sách Địa Ngục Du Ký, Thiên Đàng Du Ký và Nhân Gian Du Ký. Nên bữa nay tới đây đặc biệt phỏng vấn ngươi, hy vọng ngươi nói lại những kinh nghiệm đã bị chuyển kiếp đầu thai làm thân bò cho người đời được rõ, để ngươi có dịp tạo công chuộc tội, kiếp sau được lên làm người, thoát khỏi kiếp súc sinh khổ cực.
Bò: Thưa, xin thứ lễ, thứ lễ cho. Vì mê ngủ nên không rõ đức Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh tới. Cho đến khi được nghe lời dạy qua sự điểm hóa của đức Tế Phật, mới tỉnh thức và lòng đau buồn vô hạn. Vì ban ngày phải kéo xe cày ruộng khổ cực không thể nào chịu nổi, lại còn bị chủ nhân đánh đập chửi mắng, hiện tại nỗi khổ đau không thể giải bày, chỉ có thể kéo cày dưới ruộng ngập bùn, kéo xe trên đường lầy lội, cố đi mau để sớm có ngày trở về. Tưởng nhớ được kiếp trước sống không có quay đầu ngó lại. Kiếp trước con là kẻ bán rau ở chợ, vì quá tham lợi nhiều, nên đã tìm cách cân gian. Vì các bà nội trợ trước kia giàu có, nên đem rau về nhà không bao giờ cân lại, mỗi ngày con gian lận được hàng mấy chục ký. Về sau nghề bán rau của con bị cạnh tranh, nên hàng hóa bị ế ẩm, con bèn đổi qua nghề bán thịt, vì thịt bò quý, số lượng tiêu thụ ít, nên chẳng thể phát đạt như nghề bán rau trái lúc trước.
Vì vậy để được lợi nhiều, con bèn ngâm thịt vào nước để cân cho nặng hơn, không những thế con lại còn lén cân thiếu. Bán thịt tuy kiếm được nhiều lời, song vì tật hút sách, rượu chè, cờ bạc không bỏ, ngày nào cũng đi nhậu say khước mới về, ham tụ họp bạn bè cờ bạc rượu chè, do đó tiền lời kiếm được bao nhiêu cũng không đủ tiêu xài, do đó bắt đầu làm chủ hụi, mời các bạn hàng thịt tới gia nhập, hết hụi nọ tới hụi kia, cốt để thâu tiền xài phí. Tự biết kiếm tiền cách này cũng không bền, trước sau thế nào cũng đổ bể, liền nghĩ kế trốn nợ bằng cách lén dọn nhà đi một nơi khác để các con nợ không tài nào kiếm ra. Một bạn đồng nghiệp bị tôi giựt hụi biết rõ âm mưu của tôi vô cùng căm phẫn, liền thông báo cho mọi người hay, kéo tới đón tôi ở trạm xe, lúc tới đó tôi mới hay thì chạy không kịp, bị họ đánh đập, tôi phải quỳ xuống đất xin tha, kể lể rằng vì không có tiền nên mới làm như vậy.
Các bạn hàng thấy tôi quá năn nỉ, tạm tha cho, ra lệnh cho tôi nội trong một tuần lễ phải giải quyết, tôi liền dạ dạ vâng vâng. Nhưng sau khi về tới nhà, tôi liền đem vợ con trốn biệt về xứ để quịt nợ, chủ nợ cuối cùng không tìm ra tôi. Ở nhà quê tôi chỉ làm những việc lặt vặt để kiếm sống qua ngày, sau khi đời sống tạm ổn định, máu cờ bạc lại nổi lên, mê mẩn không thể nào dứt bỏ nổi, tiền kiếm được không đủ xài, liền đêm khuya giở trò trộm đạo của cải, gà vịt của láng giềng, cũng may là chưa từng một lần bị bắt. Vì chuyên sống bất chính vô lương nên mắc chứng bệnh ho lao, thường ho ra máu, chạy chữa thuốc thang hoài không khỏi, hàng xóm láng giềng dần dần xa lánh, thân thể tiều tụy, không làm việc gì nổi, tới năm năm mươi hai tuổi thì thác vì một cơn trọng bệnh.
Sau khi chết hồn phách bị quỷ hắc bạch vô thường áp giải xuống địa ngục. Diêm Vương đã xử phạt còn mắng nhiếc là một đời chuyên làm việc bất lương, phạm quá nhiều tội ác. Sau khi chịu các hình phạt ở các ngục xong, còn bị chuyển kiếp đầu thai làm thân bò cày ruộng kéo xe, hằng ngày phải kiên nhẫn gánh vác sự nặng nhọc, chịu đựng sự chửi mắng đánh đập, mũi bị chủ nhân xỏ một sợi dây thừng dùng để kéo lôi sai khiến tùy theo ý muốn, nên mất hết tự do. Về nhà thân đã mệt mỏi lại còn phải ngủ trong chuồng nhỏ hẹp, giường nệm là phân trộn nước tiểu hôi thối, song vẫn phải cắn răng chịu đựng. Hàng ngày chịu cực nhọc làm việc, dầm mưa dãi nắng, bán mình thay cho chủ, ăn cỏ dại uống nước lã sống qua ngày, nên hiện tại vô cùng khổ đau, cầu xin đức Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sĩ cứu độ để con thoát khỏi nghiệp làm thân bò như hiện tại.
Tế Phật: Con chớ quá buồn thương, đã chịu thức tâm trả nghiệp thì chắc chắn sẽ được giải nghiệp, vậy phải kiên nhẫn chịu khổ, vì khổ là đắng có tận thì cam tức ngọt mới có thể tới mà thôi, còn nếu như trốn chạy thực tại, thì chẳng khác nào kiếp trước từng chạy nợ, thì kiếp sau vẫn phải trả. Ngươi đã nói ra hết sự thật để khuyên răn người đời, nên có thể lập công chuộc tội, ta lại vì người điểm hóa, nên kiếp sau có hy vọng phục hồi được thân người, hết còn phải làm kiếp bò.
Dương Sinh: Hoàn cảnh đáng thương của bò may mắn được ân sư điểm hóa, kiếp tới lại được đầu thai làm người, phải hết sức tránh những điều sai quấy của kiếp trước đã phạm phải, còn không sẽ bị luân hồi vĩnh viễn.
Tế Phật: Nhân quả tuần hoàn thật là đáng sợ, cổ ngữ có nói: “Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu” đúng là chân lý bất biến. Nhân dịp này, vì bò, vì chúng sinh kể một ấn chứng nhân quả tựa đề là “Cá gỗ và roi cá gỗ” để cảnh tỉnh người đời. Ngày xưa có một nông phu tên là A Bảo ở trước cửa chùa Quang Minh thuộc một xóm nhỏ, y thường qua chùa nghe hòa thượng giảng đạo. Có một buổi chiều y ra đồng tháo nước ruộng, thấy một con rắn đang nhai một con ếch, con ếch từ miệng rắn kêu cứu. A Bảo thấy vậy, vội đập con rắn, rắn đau há họng, ếch được thoát chết, rắn cũng không bỏ mạng. Một buổi tối khoảng một tuần lễ sau, có tiếng ếch kêu ran khiến A Bảo choàng tỉnh, lấy làm ngạc nhiên, tự hỏi tại sao ếch lại đến bên giường? Sau đó A Bảo lại ngáy khò khò ngủ tiếp, nhưng ếch không ngừng mà lại còn kêu lớn tiếng hơn, khiến A Bảo thức dậy châm đèn tìm kiếm ếch.
Đèn vừa cháy sáng, A Bảo liền nhảy nhổm, thì ra con rắn hôm trước mình đã đánh nó để cứu con ếch, đang đục lỗ trên đỉnh màn tìm cách chui xuống, miệng há lớn, lưỡi lo le, cũng may vì lỗ vải còn quá bé rắn không chui qua nổi, còn không A Bảo hẳn là bị rắn cắn. “Thực là quân độc ác đã nuôi chí báo thù, nếu không được ếch đánh thức hẳn là ta đã bị mi cắn chết rồi”. Nói dứt A Bảo liền cầm gậy đập chết con rắn. Một năm sau, A Bảo nuôi một con chó, lớn lên rất mực tinh khôn, có thể nghe hiểu tiếng người, biết vâng lời chủ, chịu khó giữ nhà, coi sóc bò dê nên rất được mọi người quý mến. Hàng ngày chó theo A Bảo ra đồng, lên núi cùng tới chùa Quang Minh nghe hòa thượng thuyết pháp. Một hôm A Bảo dẫn cả chó đi lễ Phật, hòa thượng nhìn thấy, nói: “Lành thay, oan gia theo sát, giả vờ thân thiện, họa nhiều phước ít, này A Bảo, con tặng thầy con chó khôn ngoan này để nó coi chùa cho thầy thì con mới giải hết được oan nghiệp, bởi kiếp trước nó là con rắn bị con đánh chết, khi nó bò lên đỉnh màn định báo thù con”.
A Bảo nghe xong bán tính bán nghi nên không chịu, cùng tự nhủ rằng nuôi chó này mà mắc nghiệp oan sao? Hòa thượng lại nói: “A Bảo này, thầy không bắt buộc con đâu, song con phải vâng lời thầy, vì thầy không bao giờ lừa dối ai cả. Con về nhà phải nhớ vào đúng giờ ngọ mồng năm tháng năm phải lấy rơm kết thành bù nhìn, rồi lấy quần áo của chính con mặc cho nó, đặt nó trên giường con, còn con tìm nơi kín đáo ẩn đi, đừng để cho con chó của con biết”. Sau khi A Bảo về tới nhà nhất nhất làm đúng y như lời hòa thượng dặn dò, sau đó núp sau giường chờ đợi trong tư thế nửa tin nửa ngờ, tự hỏi không rõ trong trái hồ lô của hòa thượng có loại thuốc gì đây? “Boong, boong” đồng hồ điểm đúng mười tiếng, đột nhiên “binh, binh, binh” không rõ sức mạnh nào lại đập cửa rầm rầm thế này, song vì cửa đóng chặt, sức mạnh đó không thể nào tông cửa nổi.
“Choảng,choảng, choảng” một con chó hung dữ phóng qua cửa sổ bay vào trong phòng, hai mắt lang sói trợn trừng, lưỡi le dài ướt đẫm máu tươi, lồng lộng khắp phòng giống hệt thú dữ tìm mồi, đột nhiên nhảy lên giường cắn nát bù nhìn bằng rơm, tới chừng oán khí xả hết, chó dại mới chịu yên lặng. A Bảo nấp sau giường lúc này giận sôi gan, liền quơ gậy đập chết chó. Mùa thu năm sau, A Bảo lên núi kiếm củi, khi tới ngang chùa Quang Minh, thì cũng lúc đó hòa thượng ra ngoài cổng chùa nhìn mặt trời lên, khi ngài quay đầu lại thì thấy A Bảo, liền kêu lại dạy rằng: “A Bảo này, bữa nay sắc mặt con không được tốt, phải lo giữ mình cẩn thận, nếu như có người kêu tên con, thì con chớ có trả lời, phải nhớ kỹ đấy”. A Bảo đã có kinh nghiệm trước đây, nên giờ coi hòa thượng như Tiên Thánh, đâu còn dám trái lời, nên liền cảm ơn rối rít. Khoảng ba giờ sau, toàn thân A Bảo ướt đẫm mồ hôi, vừa chạy vừa thở hào hển, mặt tái nhợt, toàn thân xám xịt, chân tay lạnh ngắt, quỳ mọp xuống đất ,ôm cứng hai chân hòa thượng, nói chẳng nên lời. Hòa thượng an ủi: “Này A Bảo, con đừng có sợ”.
Nhưng nghĩ hồi lâu hòa thượng hỏi tiếp: “Con đã gặp sự gì vậy?” Rồi ngài vừa lau mồ hôi, xoa ngực cho A Bảo vừa hỏi tiếp nguyên do sự tình. A Bảo thân run rẩy lập cập, miệng lắp bắp nói mãi tới trưa mới rõ được lý do vì sao lại kinh hãi bỏ chạy cho hòa thượng rõ như sau: “Thưa sư phụ, con gặp một người đẹp rắn, vì sau khi từ biệt sư phụ, con một mình vào núi kiếm củi, khí núi vừa bị ánh bình minh làm cho tan loãng, cảnh vật trở thành trong sáng rực rỡ, chim chóc hót véo von, chim ưng bay lượn, khỉ con vui mừng nhảy nhót kêu chí chóe, cảnh đẹp làm con say sưa, con chỉ cảm thấy lòng nôn nao yêu mến cảnh núi non, quên mất lời dặn của sư phụ. Chính lúc vui sướng miên man, quên cả thời gian thì chợt nghe tiếng người gọi, giọng véo von như chim oanh nói tiếng người thật là dễ thương, khiến con không thể cầm lòng bèn lên tiếng đáp lại, và dò theo chỗ tiếng nói phát ra thì con thấy một trang giai nhân tuyệt sắc, khiến con ngây người, nghĩ nàng là tiên nữ giáng trần, song tới khi nhìn lại người nàng thì hóa ra thân nàng là thân một con rắn lớn”.
Hòa thượng nói: “A Bảo này, cớ sao con không nghe lời thầy dặn! Lần này ta không còn cách nào cứu nổi con, vậy con hãy về tự lo việc mai táng thân con”. A Bảo nói: “Xin sư phụ thí pháp cứu con, còn không con xin chết tại chùa.” Nói xong, quỳ mọp xuống đất lạy rối rít. Hòa thượng nói: “Được rồi, con hãy đứng dậy, ta sẽ hết sức giúp, con hãy chờ coi. Tối nay con lên ngồi giữa chính điện, lấy một cái chum chụp lên để xem có thoát khỏi số mệnh không”. Sáng hôm sau hòa thượng lên chính điện thì thấy con rắn mỹ nhân quấn chặt cái chum mà chết, hòa thượng liền lật con rắn và cái chum ra thì thấy A Bảo bị khí nộc độc của rắn nhiễm đen xì, và hồn đã lìa khỏi xác tự bao giờ! Người đẹp rắn thật là tai hại! Hòa thượng đầy lòng từ bi liền đem họ chôn chung vào một huyệt, với hy vọng từ đó họ sẽ tự giải oan trở nên tốt lành. Thế mới biết kết oán dễ, giải oán khó; sau đó ít lâu, xương A Bảo mọc thành cây cao, xương người đẹp rắn mọc thành bụi cây dây leo quấn chặt thân cây A Bảo, tới mức đó mà vẫn chẳng chịu buông tha.
Hòa thượng muốn để cho đời thấy rõ cái sự tai hại của sự việc lấy oán báo oán, nhân quả báo ứng tơ tóc chẳng sai, đồng thời để thức tỉnh người đời chăm lo vun bồi thiện duyên, tránh gieo nhân ác, do đó người sai đem cây A Bảo khắc chạm thành cái mõ, cây người đẹp rắn làm dùi, để hai vật mãi mãi đánh đập nhau. Những âm thanh báo ứng phát ra lúc tụng kinh trước bàn Phật để cảnh tỉnh thế nhân sám hối. Người đời chỉ biết đó là những tiếng ngụ ngôn còn chân lý chứa đựng bên trong chẳng thể bàn cãi nổi. Căn cứ vào đây chúng ta mới rõ được rằng các loài động vật đều có tính linh là điều hoàn toàn chính xác. Dương Sinh lên đài sen, chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Nghe xong câu chuyện xưa lòng cảm thấy vô cùng thích thú song không khỏi sợ hãi, nhân quả tuần hoàn thực là kinh khủng, người đời phải coi đó là tấm gương mà tự giác. Thưa, con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
#15
Gửi vào 04/09/2011 - 09:00
LUÂN HỒI DU KÝ
HỒI TÁM
HAM ĂN BIẾNG LÀM CHUYỂN KIẾP THÀNH LOÀI LỢN
NGƯỢC NGẠO QUÊN TÌNH MÁU MỦ CẮN XÉ NHAU
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 14 tháng 6 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Phật Tiên sám hối hảo tu thân
Vãng sự tuy phi tẩy tự tân
Trư cẩu lung trung thường nhược thán
Chỉ nhân tác ác hại tha nhân.
Nhất nhất nhân thân vạn kiếp nan
Phao đầu lộ diện túc phong san
Vô quyền y thực hành sai dịch
Tể sát do tha cảm tị toan.
Dịch
Ăn năn lạy Phật gắng tu thân
Lo sửa tánh xưa sạch lỗi lầm
Trong cũi chó heo hoài khóc lóc
Chỉ vì làm ác hại hiền nhân.
Một mất thân người vạn kiếp nguy
Dầm sương dãi gió sống qua ngày
Áo cơm thiếu hụt đời tôi tớ
Sống chết do người ngẫm đắng cay.
Tế Phật: Súc vật sống trong lồng, tuy được người đời nuôi sống, song có nhiều lúc ăn mà không có cảm thấy mùi vị gì cả, có miệng lại chẳng thể nói năng, nhiều khi lại nhai cả răng nuốt vào bụng. Người đời mỗi buổi ăn không có thịt cá, ắt cảm thấy vô vị, chẳng ngon lành; nhìn đám gia súc ăn đồ dư thừa của chủ vứt bỏ thấy chúng cũng không lấy gì làm khoái khẩu cho lắm. Do đó loài người phải biết quý trọng thiên chức được làm người, gắng tu thân dưỡng tánh, vì quốc gia xã hội dốc hết tâm lực làm điều thiện lành. Người đời muốn ăn gì được nấy, còn loài vật chẳng được nào. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen, thầy trò mình dạo thăm phỏng vấn loài vật, để viết sách khuyên đời.
Dương Sinh: Thưa ân sư, bữa nay dạo thăm chốn nào?
Tế Phật: Cứ theo thầy rồi sẽ rõ... Đã tới nơi, Dương Sinhxuống đài sen.
Dương Sinh: Đây là trại nuôi heo.
Tế Phật: Đúng, đây là một trại nuôi heo thuộc vùng quê, bữa nay thầy trò mình phỏng vấn một số anh chị heo trong trại này. Dương Sinh, cảm nghĩ của con thế nào?
Dương Sinh: Thưa rất hay, song heo có con đã ngủ say, có con tuy còn cựa quậy song hẳn là chúng sẽ chẳng hay biết là có người tới.
Tế Phật: Để thầy ban pháp Phật, chúng sẽ tỉnh thức ngay. Hãy coi thầy hóa phép: “Một hai ba bốn năm sáu bảy tám chín mười. Mười con heo đần độn chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ rồi ăn chẳng biết sẽ ra sao? Được nuôi lớn gần lò sát sinh, sống say chết mê không chút hay biết, nay ta Tế Phật lay tỉnh cực mạnh, giúp trí tuệ mở, hiểu lẽ sống chết, biết rõ cội nguồn thoát khỏi vùng luân hồi lầy lội”.
Dương Sinh: Ân sư dùng quạt bồ gõ đầu từng con, từng con một, khiến chúng nhảy nhổm như bị điện giật, song nhớ lại kiếp trước hết sức rõ ràng. Thưa, con có thể phỏng vấn chúng được chưa?
Tế Phật: Chúng đả tỉnh thức rồi, có thể dùng tiếng người để đàm đạo chuyện tâm linh, con hãy phỏng vấn chúng.
Dương Sinh: Này, vừa rồi heo cảm thấy ra sao?
Heo Giáp: Tôi đang ngủ say, thình lình bị người ta đánh thức, giật mình tỉnh dậy, đương nhiên cảm thấy khó chịu, nên chẳng muốn nói năng. Huống hồ còn bị đức Tế Phậ tdùng quạt gõ đầu ắt hẳn thốn tim nhức phổi, song cũng chính nhờ vậy mà tim và mắt đã dần dần thấy rõ được hết cảnh tượng của kiếp trước, giống hệt như được uống “nước hoàn hồn” vậy, thật quả là siêu diệu.
Dương Sinh: Ngài Tế Phật chính là sư phụ của ta, ngươi không được thất lễ với ngài.
Heo Giáp: Quả là có tội lớn, đức Tế Phật tới cứu độ mới có cảm giác kinh hoàng kỳ lạ ấy, con xin quỳ gối kính lạy đức Phật Sống Tế Công. Còn vị trẻ tuổi này là ai, mà lại đi cùng ngài Tế Phật, canh khuya tới chốn bần hàn này hẳn là có điều chi quý hóa lắm đấy?
Tế Phật: Người đó là Dương Sinh, đệ tử của ta, hai thầy trò ta đã phụng mệnh trời, hoàn thành hai cuốn sách quý là Địa Ngục Du Ký và Thiên Đàng Du Ký, Nay lại phụng chỉ trước tác cuốn sách mới là Luân Hồi Du Ký, sẽ tả lại một cách trung thực những cảnh huống luân hồi của cá cloài động vật để khuyên răn người đời trên cõi thế. Loài vật cũng có thể nhân cơ hội này được nghe pháp, tạo công chuộc tội sẽ sớm được chuyển kiếp đầu thai lên làm người,cùng tu đạo đức. Bữa nay từ Thánh Đức Đường thuộc Đài Trung tới phỏng vấn, hãy mau thuật rõ lại những hành vi kiếp trước để khuyên đời.
Heo Giáp: Kính xin đức Tế Phật cùng Dương Sinh thứ lỗi cho, vì lần đầu chưa được rõ. Kiếp trước con cư ngụ tại Đài Bắc, mở tiệm kim hoàn, chuyên buôn bán vàng bạc châu báu mục đích để kiếm tiền, nên nếu nhân tâm gian xảo hẳn là bỏ vốn một có thể lời ngàn, lời vạn. Bởi vậy đã chẳng từ nan, đem hết mánh khóe ra lừa lọc khách hàng, đã thi hành thủ đoạn gian manh là dùng vàng bọc đồng, lấy ngọc giả đánh tráo ngọc thật, đá giả nói là cẩm thạch, khách hàng thấy giới thiệu là bảo vật, rất nhiều người bị lừa. Có nhiều gái giang hồ bỏ tiền mua phải đồ giả, về sau khám phá ra đem lại tiệm bắt thường, tôi đều chối biến, họ đành phải chịu thua. Vì tự biết nếu tôi còn tiếp tục duy trì cửa hàng tại vùng này ắt có ngày đổ bể, do đó tôi liền dời tiệm về Đại Nam, việc làm ăn lại phát như thường, kiếm được rất nhiều tiền. Tục ngữ có câu: No cơm ấm cật, dâm dục đủ đường vì vậy tôi đã sinh ra đam mê tứ đổ tường. Đứa con trai duy nhất thì sa ngã, kết bè nạp đảng cùng bọn du đảng, ăn chơi đàng điếm không tội lỗi nào chừa.
tôi chẳng thể ngăn cản, cuối cùng lại tàn bạo bất hiếu, ngửa tay xin tiền, nếu như tôi không cho, nó liền chửi lại tôi, tôi uất muốn chết toan đánh nó song nghĩ lại, nó đã mất trí e làm càn xảy ra chuyện con giết cha chẳng lành nên tôi đành nuốt hận cắn răng chịu đựng. Cứ vậy càng ngày nó càng làm tới, thường dẫn đám bạn bất lương về nhà ở, suốt ngày gây chuyện ồn ào, tôi khuyên nhủ nó, nó cãi lại tôi, nó bảo nhà này là nhà của nó, nếu như tôi không biết điều nó đuổi tôi ra khỏi nhà. Tôi vốn có bệnh đau tim và đái đường, gặp lúc con hư bất hiếu, trong lòng uất ức không sao chịu thấu, liền đình chỉ việc bán buôn mượn rượu tiêu sầu. Khoảng nửa năm sau, bệnh đái đường trầm trọng, bệnh tim hoành hành, gần chai cứng, tìm thầy chạy thuốc khắp nơi, song bệnh không hề thuyên giảm. Sau cùng từ giã cõi trần, hồn bị quỷ vô thường hắc bạch áp giải xuống địa ngục, bị Diêm Vương trừng phạt. Bởi tôi kiếm tiền một cách bất nghĩa cho nên gặp quả báo là bị đứa con bất hiếu hoang đàng phá tan sản nghiệp, cùng hình phạt mà hiện tôi đang gánh chịu.
Ngoài ra còn bị đầu thai làm kiếp heo để cho người ta ăn thịt, sau đó mới được chuyển kiếp lên làm người. Mong người đời chớ kiếm tiền bằng cách bất lương, bởi lẽ tiền của không những chẳng thể tạo phúc, mà lại còn di họa cho con cháu sau khi chết lại bị đầu thai làm kiếp heo, để cho người đời xé thây ăn thịt. Tôi bị chuyển kiếp làm heo hai lần, còn phải làm kiếp heo thêm một lần nữa mới được giải nghiệp, kính mong đức Tế Phật từ bi cứu độ giúp con sớm thoát khỏi cảnh khổ đau này.
Tế Phật: Ngươi đã được ta điểm hóa, lại còn can đảm thuật lại những việc làm xấu xa, nên có thể tin là đã chân thành sám hối có công khuyên đời, sau khi chết được đầu thai lên làm người.
Heo Giáp: Cảm tạ ơn cứu độ của Tế Phật.
Tế Phật: Dương Sinh có thể phỏng vấn thêm heo khác.
Dương Sinh: Xin hỏi anh heo, tại sao anh lại bị chuyển kiếp làm heo?
Heo Ất: Kiếp trước sau khi tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp, tôi có tật ham ăn biếng làm, thích chơi bời lêu lổng, kết bè nạp đảng cùng bọn bất lương, chuyên sống bằng nghề lường gạt, cờ gian bạc lận, sang đoạt cướp bóc. Năm năm trước đây sau khi nhậu nhẹt say sưa, lái xe hơi đụng phải cột đèn mà thác, hiện tại đối với cha mẹ tôi thật là bất hiếu. Sau khi chết, hồn xuống tới âm phủ, bị phán đày ở thành Uổng Tử để chịu tội, hết hạn bị chuyển kiếp làm loài heo vừa được hai tháng. Chỉ vì kiếp trước sống bất lương mà kiếp này quá khổ sở.
Tế Phật: Bởi ngươi ham ăn biếng làm được sinh làm kiếp heo, há chẳng thích hợp ư? Cớ sao còn thán oán?
Heo Ất: Thưa đức Tế Phật chưa rõ, lúc sống đã ăn sơn hào hải vị lại còn có rượu ngon, gái đẹp ở chốn lầu hồng gác tía. Hiện tại hàng ngày phải ăn đồ dư thừa vất bỏ, mùi vị tanh hôi. Mặc dầu được người nuôi nấng, song thườn gphải ăn xương cá đầy tanh tưởi chẳng ngon lành, nhưng không ăn thì đói, chưa kể còn bị kẻ khác giành ăn mất, nên đành phải cố nuốt, lâu dần thành thói quen, không còn cảm thấy mùi vị hôi tanh nữa. Ngủ dưới đất, bài tiết ngay chỗ nằm, mới đầu cảm thấy không được tự nhiên song hiện tại quá quen thuộc. Tuy vậy trong lòng luôn luôn thấy hoàn cảnh ô uế này chẳng thể kham nổi, hy vọng người đời lìa bỏ đường ác, để tránh khỏi bị đọa lạc giống như tôi.
Dương Sinh: Nghe cách tả oán quả thực đáng thương, song hiện tại heo rất được hạnh phúc vì phương pháp chăn nuôi súc vật ngày nay rất hợp vệ sinh và tiến bộ. Sự ăn uống thuộc khoa dinh dưỡng nghiên cứu rất tỉ mỉ chu đáo ,chẳng còn phải bận tâm lo nghĩ về nơi ăn chốn nằm, đã không cần mang y phục, lại còn luôn luôn được tắm rửa mát mẻ, quả là hạnh phúc lắm vậy.
Heo Ất: Dương Thiện Sinh chẳng rõ, người ta nuôi tôi mập rồi đem tôi đi giết để lấy thịt bán cho khách hàng, nghĩ tới đây lòng tôi kinh hãi quá, toàn thân run rẩy, lòng dạ đau buốt. Được làm kiếp người phải lo tu, tránh làm điều tội lỗi để khỏi bị hình phạt thọc tiết, moi gan, xẻ thịt giống loài heo.
Dương Sinh: Nghe nói mà kinh hồn táng đởm.
Tế Phật: Người bị trừng phạt tại địa ngục rồi bị chuyển kiếp đầu thai làm heo để cho người ta ăn thịt, vậy mà người đời vẫn cho là luật cõi âm không công bằng, cứ cho làm điều tội lỗi sau khi chết không phải xử phạt. Ngươi hãy gắng tu đi, đã thành thực khai hết lỗi lầm, lại được ta điểm hóa, chắc chắn sẽ được xá tội, kiếp sau lên làm người chớ có tham ăn biếng làm, hành động gian manh. Dương Sinh, giờ thầy trò mình tới khu chợ bán thịt cùng lò giết heo bằng máy tự động ở Đài Trung, để phỏng vấn hầu biết rõ cảm tưởng của heo trước phút lãnh hình phạt.
Dương Sinh: Thưa vâng. Con đã lên đài sen, Kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đã tới khu chợ bán thịt.
Dương Sinh: Nhà nóc tròn rộng lớn.
Tế Phật: Thầy trò mình vô trong gặp heo sắp bị làm thịt để phỏng vấn.
Dương Sinh: Thưa vâng... Phía trong nhốt đầy heo, những vòng ánh sáng trên đầu bay loạn, chẳng rõ nguyên nhân tại sao?
Tế Phật: Những heo này do lò heo chở về, trên đường đi gập ghềnh, nhồi lên nhồi xuống, đa số heo đã tự biết sắp bị giết, bởi vậy trong lòng vô cùng kinh hoàng và chẳng có cách nào cầu cứu, kinh hãi lại càng kinh hãi, nguyên linh tán loạn, ánh sáng trong đầu tóe ra. Thầy điểm hóa cho chúng còn con phỏng vấn chúng.
Dương Sinh: Này heo, cớ sao lại bị chở tới lò sát sinh này, trong lòng cảm thấy thế nào?
Heo Giáp: Ngày hôm qua tôi tự biết mình sẽ bị giết, trong lòng vô cùng kinh hoàng, kính xin quý ngài cứu con khỏi chết!
Tế Phật: Chớ có sợ hãi, đã lỡ vậy hãy cam chịu vậy, hãy sẵn sàng hiến dâng máu thịt cho người đời dùng để trả nghiệp quả của mình.
Heo Ất: Kính lạy! Kính lạy! Xin quý ngài cứu mạng con.
Tế Phật: “Người sắp chết tiếng nói hiền lành, chim sắp chết tiếng hót buồn, heo sắp giết tiếng kêu thảm!”. Ai khiến ngươi kiếp trước bất nhân, gian ác giết người không gớm tay, kiếp này phải trả nghiệp thì nên hoan hỷ dự tiệc, ta vì ngươi điểm hóa, ngày mai ngươi có thể xả hết các tội ác, thoát thai hoán cốt khẳng khái hy sinh. Ta tuy không nỡ lòng đứng nhìn người ta thọc tiết ngươi, song cũng không có cách gì cứu nổi, nhân quả tự gieo tự gặt, chẳng ai giúp được.
Dương Sinh: Nhìn ánh mắt van lơn của heo, thực quả lòng ái ngại vô biên. Chẳng rõ những người đem thịt heo đó về xào nấu để ăn sẽ gặp những hậu quả ra sao?
Tế Phật: Tục ngữ nói trong chữ nhục (肉) có hai chữ nhân ( ) trong cửa (冂) một chữ nhân (人) ngoài cửa mộtchữ nhân (人) nhìn lại thấy người ăn người. Người đời nếu cảm thấy sung sướng vì miếng ăn ta chẳng thể can ngăn, chỉ xin thưa rằng, ăn thịt nhiều thì có hại, chẳng ích lợi gì, nếu không tin lời ta nói cứ hỏi lại y sĩ mà coi. Nhất là người lớn tuổi, sức đề kháng suy yếu, ăn nhiều thịt không tiêu hóa hết, số dư thừa nằm lại trong cơ thể khiến sinh ra đủ chứng bệnh, người hiểu biết ăn càng ít càng tốt. Giờ xin giảng giải về công dụng của sáu loài súc vật để người đời hiểu rõ.
1. BÒ: Vào thời đại thái bình Nghiêu Thuấn, khoa học chưa phát triển, trời xanh động lòng trắc ẩn, sinh ra loài bò giúp người cày ruộng, chịu khổ cực thay người, công lao của bò đối với người hết sức lớn lao, thời đại biến đổi, ngoài trách vụ cày ruộng, bò còn cung cấp bơ sữa để nuôi dưỡng người, thành tích vĩ đại đó thực là vô kể, song tiếc rằng người đã vong ân bội nghĩa, chẳng hề nghĩ tới công lao khổ cực to lớn đó, để rồi lúc bò già yếu bị đem bán cho các lò thịt, há chẳng tàn nhẫn lắm sao?
2. NGỰA: Ngựa sanh ra đời để người cỡi, thồ hành lý, chứ không nuôi tại các sở thú để coi chơi, thời đại tiến bộ, khoa học phát triển nên thiên chức của ngựa ngày nay không được như xưa.
3. DÊ: Dê giúp người trừ cỏ dại, để thấy rõ phương hướng, tránh những hầm hố nguy hiểm, dê sinh ra đời không phải để làm vật tế thần, càng không phải để người ăn thịt.
4. CHÓ: Chó giúp người giữ nhà, đối với chủ chó rất mực trung thành, không vì chủ nghèo mà thay lòng đổi dạ, song người đã không nghĩ tới sự ân nghĩa của chó, lại còn giết chó ăn thịt và cho thịt chó là “vương nhục” thứ thị tngon hơn các loài thịt! Thực quả đáng thương thay! Buồn thay! Thịt chó ngon nhất sao? Giả sử một kẻ nào đó ăn thịt một người bạn thân thiết của họ, rồi xưng tụng là thịt bạn mình ngon lắm, thì thử hỏi kẻ đó có còn tính người nữa không?
5. GÀ: Gà gáy sáng để đánh thức người trở dậy, chẳng kể sớm trưa, mưa nắng, ngay cả khi đau ốm, gà luôn luôn lo tròn phận sự. Gà giúp ích người rất nhiều, song tiếc rằng lại bị người đời coi gà là nguồn thực phẩm lớn lao, nơi các tiệm thịt đầu đường cuối phố treo đầy gà, coi đó là việc tự nhiên, không chút cảm thương, há chẳng bất nhân sao?
6. HEO: Để ngũ cốc rau đậu dư thừa của người khỏi uổng, trời mới sinh ra loài heo ăn những thứ đó để người đời khỏi bị tội hoang phí thực phẩm. Song người lại nghĩ là heo đã được mình nuôi nấng suông, không được đền đáp chút ân huệ nào, lại còn coi heo sinh ra là cốt để cho người ăn thịt, vì quan niệm như vậy nên cứ việc ăn thịt chúng. Giả dụ nếu bây giờ người không được phép ăn thịt heo nữa thì liệu người có phải nổi giận không? Trên đây là trách nhiệm của người đối với sáu loài động vật, mong người đời gắng hồi tâm phản tỉnh. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
HỒI TÁM
HAM ĂN BIẾNG LÀM CHUYỂN KIẾP THÀNH LOÀI LỢN
NGƯỢC NGẠO QUÊN TÌNH MÁU MỦ CẮN XÉ NHAU
Phật Sống Tế Công
Giáng ngày 14 tháng 6 năm Tân Dậu 1981
Thơ
Phật Tiên sám hối hảo tu thân
Vãng sự tuy phi tẩy tự tân
Trư cẩu lung trung thường nhược thán
Chỉ nhân tác ác hại tha nhân.
Nhất nhất nhân thân vạn kiếp nan
Phao đầu lộ diện túc phong san
Vô quyền y thực hành sai dịch
Tể sát do tha cảm tị toan.
Dịch
Ăn năn lạy Phật gắng tu thân
Lo sửa tánh xưa sạch lỗi lầm
Trong cũi chó heo hoài khóc lóc
Chỉ vì làm ác hại hiền nhân.
Một mất thân người vạn kiếp nguy
Dầm sương dãi gió sống qua ngày
Áo cơm thiếu hụt đời tôi tớ
Sống chết do người ngẫm đắng cay.
Tế Phật: Súc vật sống trong lồng, tuy được người đời nuôi sống, song có nhiều lúc ăn mà không có cảm thấy mùi vị gì cả, có miệng lại chẳng thể nói năng, nhiều khi lại nhai cả răng nuốt vào bụng. Người đời mỗi buổi ăn không có thịt cá, ắt cảm thấy vô vị, chẳng ngon lành; nhìn đám gia súc ăn đồ dư thừa của chủ vứt bỏ thấy chúng cũng không lấy gì làm khoái khẩu cho lắm. Do đó loài người phải biết quý trọng thiên chức được làm người, gắng tu thân dưỡng tánh, vì quốc gia xã hội dốc hết tâm lực làm điều thiện lành. Người đời muốn ăn gì được nấy, còn loài vật chẳng được nào. Dương Sinh chuẩn bị lên đài sen, thầy trò mình dạo thăm phỏng vấn loài vật, để viết sách khuyên đời.
Dương Sinh: Thưa ân sư, bữa nay dạo thăm chốn nào?
Tế Phật: Cứ theo thầy rồi sẽ rõ... Đã tới nơi, Dương Sinhxuống đài sen.
Dương Sinh: Đây là trại nuôi heo.
Tế Phật: Đúng, đây là một trại nuôi heo thuộc vùng quê, bữa nay thầy trò mình phỏng vấn một số anh chị heo trong trại này. Dương Sinh, cảm nghĩ của con thế nào?
Dương Sinh: Thưa rất hay, song heo có con đã ngủ say, có con tuy còn cựa quậy song hẳn là chúng sẽ chẳng hay biết là có người tới.
Tế Phật: Để thầy ban pháp Phật, chúng sẽ tỉnh thức ngay. Hãy coi thầy hóa phép: “Một hai ba bốn năm sáu bảy tám chín mười. Mười con heo đần độn chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ rồi ăn chẳng biết sẽ ra sao? Được nuôi lớn gần lò sát sinh, sống say chết mê không chút hay biết, nay ta Tế Phật lay tỉnh cực mạnh, giúp trí tuệ mở, hiểu lẽ sống chết, biết rõ cội nguồn thoát khỏi vùng luân hồi lầy lội”.
Dương Sinh: Ân sư dùng quạt bồ gõ đầu từng con, từng con một, khiến chúng nhảy nhổm như bị điện giật, song nhớ lại kiếp trước hết sức rõ ràng. Thưa, con có thể phỏng vấn chúng được chưa?
Tế Phật: Chúng đả tỉnh thức rồi, có thể dùng tiếng người để đàm đạo chuyện tâm linh, con hãy phỏng vấn chúng.
Dương Sinh: Này, vừa rồi heo cảm thấy ra sao?
Heo Giáp: Tôi đang ngủ say, thình lình bị người ta đánh thức, giật mình tỉnh dậy, đương nhiên cảm thấy khó chịu, nên chẳng muốn nói năng. Huống hồ còn bị đức Tế Phậ tdùng quạt gõ đầu ắt hẳn thốn tim nhức phổi, song cũng chính nhờ vậy mà tim và mắt đã dần dần thấy rõ được hết cảnh tượng của kiếp trước, giống hệt như được uống “nước hoàn hồn” vậy, thật quả là siêu diệu.
Dương Sinh: Ngài Tế Phật chính là sư phụ của ta, ngươi không được thất lễ với ngài.
Heo Giáp: Quả là có tội lớn, đức Tế Phật tới cứu độ mới có cảm giác kinh hoàng kỳ lạ ấy, con xin quỳ gối kính lạy đức Phật Sống Tế Công. Còn vị trẻ tuổi này là ai, mà lại đi cùng ngài Tế Phật, canh khuya tới chốn bần hàn này hẳn là có điều chi quý hóa lắm đấy?
Tế Phật: Người đó là Dương Sinh, đệ tử của ta, hai thầy trò ta đã phụng mệnh trời, hoàn thành hai cuốn sách quý là Địa Ngục Du Ký và Thiên Đàng Du Ký, Nay lại phụng chỉ trước tác cuốn sách mới là Luân Hồi Du Ký, sẽ tả lại một cách trung thực những cảnh huống luân hồi của cá cloài động vật để khuyên răn người đời trên cõi thế. Loài vật cũng có thể nhân cơ hội này được nghe pháp, tạo công chuộc tội sẽ sớm được chuyển kiếp đầu thai lên làm người,cùng tu đạo đức. Bữa nay từ Thánh Đức Đường thuộc Đài Trung tới phỏng vấn, hãy mau thuật rõ lại những hành vi kiếp trước để khuyên đời.
Heo Giáp: Kính xin đức Tế Phật cùng Dương Sinh thứ lỗi cho, vì lần đầu chưa được rõ. Kiếp trước con cư ngụ tại Đài Bắc, mở tiệm kim hoàn, chuyên buôn bán vàng bạc châu báu mục đích để kiếm tiền, nên nếu nhân tâm gian xảo hẳn là bỏ vốn một có thể lời ngàn, lời vạn. Bởi vậy đã chẳng từ nan, đem hết mánh khóe ra lừa lọc khách hàng, đã thi hành thủ đoạn gian manh là dùng vàng bọc đồng, lấy ngọc giả đánh tráo ngọc thật, đá giả nói là cẩm thạch, khách hàng thấy giới thiệu là bảo vật, rất nhiều người bị lừa. Có nhiều gái giang hồ bỏ tiền mua phải đồ giả, về sau khám phá ra đem lại tiệm bắt thường, tôi đều chối biến, họ đành phải chịu thua. Vì tự biết nếu tôi còn tiếp tục duy trì cửa hàng tại vùng này ắt có ngày đổ bể, do đó tôi liền dời tiệm về Đại Nam, việc làm ăn lại phát như thường, kiếm được rất nhiều tiền. Tục ngữ có câu: No cơm ấm cật, dâm dục đủ đường vì vậy tôi đã sinh ra đam mê tứ đổ tường. Đứa con trai duy nhất thì sa ngã, kết bè nạp đảng cùng bọn du đảng, ăn chơi đàng điếm không tội lỗi nào chừa.
tôi chẳng thể ngăn cản, cuối cùng lại tàn bạo bất hiếu, ngửa tay xin tiền, nếu như tôi không cho, nó liền chửi lại tôi, tôi uất muốn chết toan đánh nó song nghĩ lại, nó đã mất trí e làm càn xảy ra chuyện con giết cha chẳng lành nên tôi đành nuốt hận cắn răng chịu đựng. Cứ vậy càng ngày nó càng làm tới, thường dẫn đám bạn bất lương về nhà ở, suốt ngày gây chuyện ồn ào, tôi khuyên nhủ nó, nó cãi lại tôi, nó bảo nhà này là nhà của nó, nếu như tôi không biết điều nó đuổi tôi ra khỏi nhà. Tôi vốn có bệnh đau tim và đái đường, gặp lúc con hư bất hiếu, trong lòng uất ức không sao chịu thấu, liền đình chỉ việc bán buôn mượn rượu tiêu sầu. Khoảng nửa năm sau, bệnh đái đường trầm trọng, bệnh tim hoành hành, gần chai cứng, tìm thầy chạy thuốc khắp nơi, song bệnh không hề thuyên giảm. Sau cùng từ giã cõi trần, hồn bị quỷ vô thường hắc bạch áp giải xuống địa ngục, bị Diêm Vương trừng phạt. Bởi tôi kiếm tiền một cách bất nghĩa cho nên gặp quả báo là bị đứa con bất hiếu hoang đàng phá tan sản nghiệp, cùng hình phạt mà hiện tôi đang gánh chịu.
Ngoài ra còn bị đầu thai làm kiếp heo để cho người ta ăn thịt, sau đó mới được chuyển kiếp lên làm người. Mong người đời chớ kiếm tiền bằng cách bất lương, bởi lẽ tiền của không những chẳng thể tạo phúc, mà lại còn di họa cho con cháu sau khi chết lại bị đầu thai làm kiếp heo, để cho người đời xé thây ăn thịt. Tôi bị chuyển kiếp làm heo hai lần, còn phải làm kiếp heo thêm một lần nữa mới được giải nghiệp, kính mong đức Tế Phật từ bi cứu độ giúp con sớm thoát khỏi cảnh khổ đau này.
Tế Phật: Ngươi đã được ta điểm hóa, lại còn can đảm thuật lại những việc làm xấu xa, nên có thể tin là đã chân thành sám hối có công khuyên đời, sau khi chết được đầu thai lên làm người.
Heo Giáp: Cảm tạ ơn cứu độ của Tế Phật.
Tế Phật: Dương Sinh có thể phỏng vấn thêm heo khác.
Dương Sinh: Xin hỏi anh heo, tại sao anh lại bị chuyển kiếp làm heo?
Heo Ất: Kiếp trước sau khi tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp, tôi có tật ham ăn biếng làm, thích chơi bời lêu lổng, kết bè nạp đảng cùng bọn bất lương, chuyên sống bằng nghề lường gạt, cờ gian bạc lận, sang đoạt cướp bóc. Năm năm trước đây sau khi nhậu nhẹt say sưa, lái xe hơi đụng phải cột đèn mà thác, hiện tại đối với cha mẹ tôi thật là bất hiếu. Sau khi chết, hồn xuống tới âm phủ, bị phán đày ở thành Uổng Tử để chịu tội, hết hạn bị chuyển kiếp làm loài heo vừa được hai tháng. Chỉ vì kiếp trước sống bất lương mà kiếp này quá khổ sở.
Tế Phật: Bởi ngươi ham ăn biếng làm được sinh làm kiếp heo, há chẳng thích hợp ư? Cớ sao còn thán oán?
Heo Ất: Thưa đức Tế Phật chưa rõ, lúc sống đã ăn sơn hào hải vị lại còn có rượu ngon, gái đẹp ở chốn lầu hồng gác tía. Hiện tại hàng ngày phải ăn đồ dư thừa vất bỏ, mùi vị tanh hôi. Mặc dầu được người nuôi nấng, song thườn gphải ăn xương cá đầy tanh tưởi chẳng ngon lành, nhưng không ăn thì đói, chưa kể còn bị kẻ khác giành ăn mất, nên đành phải cố nuốt, lâu dần thành thói quen, không còn cảm thấy mùi vị hôi tanh nữa. Ngủ dưới đất, bài tiết ngay chỗ nằm, mới đầu cảm thấy không được tự nhiên song hiện tại quá quen thuộc. Tuy vậy trong lòng luôn luôn thấy hoàn cảnh ô uế này chẳng thể kham nổi, hy vọng người đời lìa bỏ đường ác, để tránh khỏi bị đọa lạc giống như tôi.
Dương Sinh: Nghe cách tả oán quả thực đáng thương, song hiện tại heo rất được hạnh phúc vì phương pháp chăn nuôi súc vật ngày nay rất hợp vệ sinh và tiến bộ. Sự ăn uống thuộc khoa dinh dưỡng nghiên cứu rất tỉ mỉ chu đáo ,chẳng còn phải bận tâm lo nghĩ về nơi ăn chốn nằm, đã không cần mang y phục, lại còn luôn luôn được tắm rửa mát mẻ, quả là hạnh phúc lắm vậy.
Heo Ất: Dương Thiện Sinh chẳng rõ, người ta nuôi tôi mập rồi đem tôi đi giết để lấy thịt bán cho khách hàng, nghĩ tới đây lòng tôi kinh hãi quá, toàn thân run rẩy, lòng dạ đau buốt. Được làm kiếp người phải lo tu, tránh làm điều tội lỗi để khỏi bị hình phạt thọc tiết, moi gan, xẻ thịt giống loài heo.
Dương Sinh: Nghe nói mà kinh hồn táng đởm.
Tế Phật: Người bị trừng phạt tại địa ngục rồi bị chuyển kiếp đầu thai làm heo để cho người ta ăn thịt, vậy mà người đời vẫn cho là luật cõi âm không công bằng, cứ cho làm điều tội lỗi sau khi chết không phải xử phạt. Ngươi hãy gắng tu đi, đã thành thực khai hết lỗi lầm, lại được ta điểm hóa, chắc chắn sẽ được xá tội, kiếp sau lên làm người chớ có tham ăn biếng làm, hành động gian manh. Dương Sinh, giờ thầy trò mình tới khu chợ bán thịt cùng lò giết heo bằng máy tự động ở Đài Trung, để phỏng vấn hầu biết rõ cảm tưởng của heo trước phút lãnh hình phạt.
Dương Sinh: Thưa vâng. Con đã lên đài sen, Kính mời ân sư khởi hành.
Tế Phật: Đã tới khu chợ bán thịt.
Dương Sinh: Nhà nóc tròn rộng lớn.
Tế Phật: Thầy trò mình vô trong gặp heo sắp bị làm thịt để phỏng vấn.
Dương Sinh: Thưa vâng... Phía trong nhốt đầy heo, những vòng ánh sáng trên đầu bay loạn, chẳng rõ nguyên nhân tại sao?
Tế Phật: Những heo này do lò heo chở về, trên đường đi gập ghềnh, nhồi lên nhồi xuống, đa số heo đã tự biết sắp bị giết, bởi vậy trong lòng vô cùng kinh hoàng và chẳng có cách nào cầu cứu, kinh hãi lại càng kinh hãi, nguyên linh tán loạn, ánh sáng trong đầu tóe ra. Thầy điểm hóa cho chúng còn con phỏng vấn chúng.
Dương Sinh: Này heo, cớ sao lại bị chở tới lò sát sinh này, trong lòng cảm thấy thế nào?
Heo Giáp: Ngày hôm qua tôi tự biết mình sẽ bị giết, trong lòng vô cùng kinh hoàng, kính xin quý ngài cứu con khỏi chết!
Tế Phật: Chớ có sợ hãi, đã lỡ vậy hãy cam chịu vậy, hãy sẵn sàng hiến dâng máu thịt cho người đời dùng để trả nghiệp quả của mình.
Heo Ất: Kính lạy! Kính lạy! Xin quý ngài cứu mạng con.
Tế Phật: “Người sắp chết tiếng nói hiền lành, chim sắp chết tiếng hót buồn, heo sắp giết tiếng kêu thảm!”. Ai khiến ngươi kiếp trước bất nhân, gian ác giết người không gớm tay, kiếp này phải trả nghiệp thì nên hoan hỷ dự tiệc, ta vì ngươi điểm hóa, ngày mai ngươi có thể xả hết các tội ác, thoát thai hoán cốt khẳng khái hy sinh. Ta tuy không nỡ lòng đứng nhìn người ta thọc tiết ngươi, song cũng không có cách gì cứu nổi, nhân quả tự gieo tự gặt, chẳng ai giúp được.
Dương Sinh: Nhìn ánh mắt van lơn của heo, thực quả lòng ái ngại vô biên. Chẳng rõ những người đem thịt heo đó về xào nấu để ăn sẽ gặp những hậu quả ra sao?
Tế Phật: Tục ngữ nói trong chữ nhục (肉) có hai chữ nhân ( ) trong cửa (冂) một chữ nhân (人) ngoài cửa mộtchữ nhân (人) nhìn lại thấy người ăn người. Người đời nếu cảm thấy sung sướng vì miếng ăn ta chẳng thể can ngăn, chỉ xin thưa rằng, ăn thịt nhiều thì có hại, chẳng ích lợi gì, nếu không tin lời ta nói cứ hỏi lại y sĩ mà coi. Nhất là người lớn tuổi, sức đề kháng suy yếu, ăn nhiều thịt không tiêu hóa hết, số dư thừa nằm lại trong cơ thể khiến sinh ra đủ chứng bệnh, người hiểu biết ăn càng ít càng tốt. Giờ xin giảng giải về công dụng của sáu loài súc vật để người đời hiểu rõ.
1. BÒ: Vào thời đại thái bình Nghiêu Thuấn, khoa học chưa phát triển, trời xanh động lòng trắc ẩn, sinh ra loài bò giúp người cày ruộng, chịu khổ cực thay người, công lao của bò đối với người hết sức lớn lao, thời đại biến đổi, ngoài trách vụ cày ruộng, bò còn cung cấp bơ sữa để nuôi dưỡng người, thành tích vĩ đại đó thực là vô kể, song tiếc rằng người đã vong ân bội nghĩa, chẳng hề nghĩ tới công lao khổ cực to lớn đó, để rồi lúc bò già yếu bị đem bán cho các lò thịt, há chẳng tàn nhẫn lắm sao?
2. NGỰA: Ngựa sanh ra đời để người cỡi, thồ hành lý, chứ không nuôi tại các sở thú để coi chơi, thời đại tiến bộ, khoa học phát triển nên thiên chức của ngựa ngày nay không được như xưa.
3. DÊ: Dê giúp người trừ cỏ dại, để thấy rõ phương hướng, tránh những hầm hố nguy hiểm, dê sinh ra đời không phải để làm vật tế thần, càng không phải để người ăn thịt.
4. CHÓ: Chó giúp người giữ nhà, đối với chủ chó rất mực trung thành, không vì chủ nghèo mà thay lòng đổi dạ, song người đã không nghĩ tới sự ân nghĩa của chó, lại còn giết chó ăn thịt và cho thịt chó là “vương nhục” thứ thị tngon hơn các loài thịt! Thực quả đáng thương thay! Buồn thay! Thịt chó ngon nhất sao? Giả sử một kẻ nào đó ăn thịt một người bạn thân thiết của họ, rồi xưng tụng là thịt bạn mình ngon lắm, thì thử hỏi kẻ đó có còn tính người nữa không?
5. GÀ: Gà gáy sáng để đánh thức người trở dậy, chẳng kể sớm trưa, mưa nắng, ngay cả khi đau ốm, gà luôn luôn lo tròn phận sự. Gà giúp ích người rất nhiều, song tiếc rằng lại bị người đời coi gà là nguồn thực phẩm lớn lao, nơi các tiệm thịt đầu đường cuối phố treo đầy gà, coi đó là việc tự nhiên, không chút cảm thương, há chẳng bất nhân sao?
6. HEO: Để ngũ cốc rau đậu dư thừa của người khỏi uổng, trời mới sinh ra loài heo ăn những thứ đó để người đời khỏi bị tội hoang phí thực phẩm. Song người lại nghĩ là heo đã được mình nuôi nấng suông, không được đền đáp chút ân huệ nào, lại còn coi heo sinh ra là cốt để cho người ăn thịt, vì quan niệm như vậy nên cứ việc ăn thịt chúng. Giả dụ nếu bây giờ người không được phép ăn thịt heo nữa thì liệu người có phải nổi giận không? Trên đây là trách nhiệm của người đối với sáu loài động vật, mong người đời gắng hồi tâm phản tỉnh. Dương Sinh chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Dương Sinh: Xin tuân lệnh, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường.
Tế Phật: Đã về tới Thánh Đức Đường, Dương Sinh xuống đài sen, hồn phách nhập thể xác.
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
2 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












