A_)
Trí Tuệ theo tiếng Sanskrit là Jñâna và Prajñâ, trong đó :
a) Trí là Jñâna (Sanskrit) : Sự hiểu biết về vạn hữu (Knowledge of things) .
b_)Tuệ là Prajñâ (Sanskrit) : Thực chứng chân lý (The realization of truth) .
Nghĩa của Trí Tuệ (The meanings of wisdom) : Sự hiểu biết về vạn hữu và thực chứng chân lý (Knowledge of things and realization of truth) .
B_)
Trong bộ Lankãvatãra-sũtra ( Kinh Lăng Già Tâm Ấn ) do Thiền sư Hàm Thị sớ giải, đoạn đức Thế Tôn chỉ ra điểm sai biệt giữa THỨC và TRÍ như sau :
Đại Huệ! Cái sanh diệt kia là thức; cái chẳng sanh diệt là trí.
Khi ấy, Thế Tôn muốn trùng tuyên lại nghĩa này nên nói kệ :
Gom nhóm nghiệp là thức (*)
Chẳng gom nhóm là trí
Quán sát tất cả pháp
Thông đạt không thật có
Liền được sức tự tại
Ấy tức tên là tuệ
Buộc cảnh giới là tâm
Giác tưởng sanh là trí
Không thật có và thắng
Tuệ ắt từ ấy sanh.
C_)
VUA MILINDA VẤN ĐẠO
Chương 7: Trí Nhớ
( đoạn thuyết giảng có liên quan đến Trí Tuệ )
14. “ Phải chăng ta có thể phân tích được đến cả vật vi tế nhất ? ”
“ Thưa Đức Vua, đúng vậy. Trí tuệ có thể mổ xẻ mỗi vật vi tế. ”
“ Mỗi vật vi tế là có nghĩa gì ? ”
“ Pháp là mỗi vật vi tế. Tuy nhiên, không phải mọi pháp đều là vi tế, một số pháp là thô sơ. Vi tế và thô sơ chỉ là những quan niệm. Cái gì mà phân chia được thì trí tuệ phân tích được. Không có cái gì khác mà có thể phân tích được trí tuệ. "
15. ‘‘ Bạch Ngài Nāgasena, ba tiếng ý thức (viññāna), trí tuệ (paññā) và linh hồn (bhūtasmim, jīvo) có khác nhau về ý nghĩa cốt tủy không hay chỉ khác nhau trên tên gọi mà thôi ?’’
‘‘ Thưa Đức Vua, hiểu biết là đặc điểm của ý thức, phân biệt là đặc điểm của trí tuệ. Linh hồn thì không được tìm thấy đâu cả.’’
Nguồn : thuvienhoasen.org
Ghi chú :
(*) Thức (vijñāna) sẽ đề cập trong phần 2
1/ Nghĩa của Trí Tuệ là sự hiểu biết về vạn hữu và thực chứng chân lý ; một người có sự hiểu biết về vạn hữu nhưng không có phần thực chứng chân lý thì chỉ là có trí thông minh chứ không có trí tuệ.
2/ Xem kinh sách cho dù có hiểu ý nghĩa những điều Phật thuyết trong kinh nhưng không tự thực chứng được những điều Phật thuyết trong kinh thì củng vô ích.
Như Tôn giả A Na Đà rất khôi ngô tuấn tú, thông minh, hòa nhã và vui vẻ, được Đức Phật và thánh chúng suy tôn là vị Đa Văn Đệ Nhất, nhưng cho đến khi Đức Phật nhập niết bàn vẫn chưa chứng được Thánh quả.
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Tôn giả Đại Ca Diếp tổ chức đại hội kiết tập kinh điển suốt ba tháng, ngài A Nan đuợc đại hội đề cử tụng lại tất cả các kinh do Phật đã dạy. Tuy nhiên đại hội yêu cầu A Nan phải sám hối sáu sai lầm đã vấp phải khi Phật còn tại thế, và hãy ra ngoài dốc lòng tu tập cho đến khi nào chứng quả A La Hán mới trở vào tham dự đại hội.
3/ Tôn giả A Na Đà rất khôi ngô tuấn tú, thông minh còn phải thực tu, thực chứng như thế, huống hồ hàng phàm phu đã có được mấy phần công phu ???
Sửa bởi V.E.DAY: 26/06/2018 - 08:54