Jump to content

Advertisements




SỰ BUỒN BỰC LÀM THAY ĐỔI NÃO BỘ THẾ NÀO


145 replies to this topic

#16 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2949 thanks

Gửi vào 11/06/2018 - 12:34

VỌNG NIỆM TỪ ĐÂU MÀ RA ?

Cũng tại Thiền viện Quang Chiếu, Forthworth, Texas, Hoa Kỳ, năm 2000, Sư ông, Hòa thượng Thích Thanh Từ trong bài giảng TÙY DUYÊN NHI BẤT BIẾN có giảng về vọng niệm do đâu mà ra như phần dưới đây :


Muốn tự do, trước hết đừng cho năm căn dính với năm trần. Đối với năm trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, chúng ta làm chủ được, không dính, không kẹt, đó là tự do. Như vậy có hợp đạo lý không? Phật dạy người muốn tự do thì phải giữ năm căn đừng dính với năm trần. Đó là tự do tự tại. Ở một mức độ cao hơn nữa, tự do chính là giải thoát, không còn bị bất cứ gì trói buộc. Thế gian đòi tự do mà trái lại bị trói buộc đủ thứ hết, vì vậy càng tự do càng khổ.

Tiến thêm một bước nữa, người tu chẳng những đòi tự do ở năm căn, mà còn đòi tự do ở căn thứ sáu, đó là ý căn. Ý đừng dính với pháp trần. Pháp trần tức là bóng dáng của năm trần trước. Bởi vì năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân khi xúc chạm với năm trần sắc, thanh, hương, vị, xúc dễ biết, dễ thấy; còn ý căn khi xúc chạm với pháp trần, chúng ta khó thấy. Muốn thấy nó, khi ngồi thiền hoặc niệm Phật sẽ dễ thấy hơn.

Như ngồi niệm Phật lẽ ra chỉ nhớ câu niệm Phật thôi, nhưng niệm một lát bỗng nhớ chuyện đâu đâu. Chuyện đâu đâu đó chính là pháp trần. Thí dụ như lỗ tai tiếp xúc với thanh trần, những tiếng hay mình thích nên nhớ hoài, bởi vì nó đã rớt vào trong tâm thức rồi. Hoặc những lời lẽ chửi bới nặng nề, mình không thích cũng nhớ hoài, vì nó cũng được in vào tâm thức. Những gì chúng ta thích hoặc không thích, thì ưa kể với người này, người kia, lặp tới lặp lui mãi nên vô tình học thuộc lòng, cho nên nhớ sâu vô cùng. Nhớ sâu trong tâm khảm tức là nó đã được huân vào tàng thức của mình, chôn sẵn trong đó, khi nào đủ duyên hoặc yên tịnh nó sẽ trồi lên. Đó là lý do tại sao chúng ta niệm Phật hoặc tọa thiền mà các tạp niệm cứ trồi lên hoài. Nhiều khi nó trồi lên đến nỗi mình phải bực bội. Bực bội mà rầy nó không được, mới thấy pháp trần rất là quan trọng.

Bởi sự tích lũy của pháp trần sâu đậm như vậy, nên mình thù ai, oán ai thì tới chết vẫn chưa hết oán thù. Vì vậy những thứ đó sẽ theo mình đến lúc nhắm mắt và sẽ gặp lại ở đời sau. Cho nên còn oán thù, còn thương yêu thì còn gặp lại mãi để đền trả. Ghê gớm như vậy đó. Người ta cứ sợ đời sau khổ, nhưng lại ôm ấp oán thù không nguôi. Thật là mâu thuẫn.


Thiền viện Quang Chiếu, Forthworth, Texas, Hoa Kỳ, 2000.

Nguyên văn toàn bộ bài giảng TÙY DUYÊN NHI BẤT BIẾN này của Sư ông đã được lưu giữ tại Thư Viện Hoa Sen :

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:

#17 TienNam

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1764 Bài viết:
  • 3370 thanks

Gửi vào 11/06/2018 - 17:17


Hoà thượng Thích Thanh Từ có phải vị lão hoà thượng khi về già mắc bệnh phải ngồi xe lăn, ko làm chủ được thân thể không!?!

Ngài giảng kinh hay quá xá


#18 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5104 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 04:20

Tôi đọc qua phần ông TTT nói về chữ tín của Phật tử ngày nay: "Về khuyết điểm, từ khi đức Phật ra đời, truyền đạo, cho tới sau Phật nhập Niết-bàn một hai thế kỷ đầu, kinh điển được kiết qua hai lần, đều đi thẳng vào đường lối chánh yếu của đức Phật dạy. Đức Phật luôn luôn nhắc mọi người đến với đạo Phật để thấy, chớ không phải đến để tin. Nhưng đáng buồn thay, ngày nay Phật tử đến với đạo Phật để tin, chớ không chịu đến để thấy. Đó là điều đáng buồn.
Phật là bậc giác ngộ viên mãn. Sự giác ngộ của Ngài là do tu hành mà được. Tự giác ngộ rồi, Ngài đem đạo giác ngộ ấy truyền bá cho mọi người, nên mới có đạo Phật. Như vậy nói đến đạo Phật là nói đến trí tuệ. Nếu là trí tuệ thì đến với đạo Phật để thấy, để hiểu, chớ không phải đến để tin. Nhưng ngày nay Phật tử lại quên điều đó, chỉ tin Phật, lạy Phật, cầu Phật ban cho đủ thứ hết.
Khi hỏi đến giáo lý Phật dạy, chúng ta không hiểu, chỉ biết rằng lạy Phật có phước. Như vậy thì rõ ràng chúng ta đến với đạo Phật bằng lòng tin. Nếu đến bằng lòng tin là đã ngược lại với đạo Phật rồi. Phật tử qui y Phật, là đệ tử Phật, đệ tử của bậc giác ngộ; mà con cháu không giác chút nào hết. Thật là đáng buồn!"


Phần này tôi thấy cần nói rõ hơn để phân biệt tín của mê tín và tín của Chánh tín.

Nơi cá thể Tín là điều kiện tiên khơỉ của Tâm linh, không có tín thì Tâm linh không có chổ khởi, tự tánh của tín không có ý nghĩa xấu tốt mà chủ yếu tín là cơ phận để động cơ bắt đầu chạy . Vấn đề là đa số sau khi khởỉ tín tức bậc máy cho chạy thì có người chẳng biết chạy đi đâu , chỉ loanh quanh cổng chùa rồi nghĩ như vậy là thấy Phật, là sẽ được phước báo v.v...những điều này mớí đi ngược lại lời dạy của Phật: "Tin ta mà không hiểu ta tức là phỉ bang ta vậy". Ngược lại của Tín mê , người Phật tử từ Chánh Tín mà phát Nguyện tu hành và từ đó đi vào cuộc hành trình của Tâm qua "Tín, Giải, Thọ, Trì".
Tóm lại: Hảy là một Phật tử chánh tín chứ đừng làm Phật tử mê tín .

Thanked by 4 Members:

#19 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5104 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 06:09

Nói thêm về phần thần thông, phần này nên hiểu Phật nói về thần thông cho những người chưa giác ngộ , đang tu hành :

Trích:
"Lại, đạo Phật không quan trọng về thần thông. Tại sao? Bởi vì đức Phật dạy chư Tăng tu, khi chứng quả A-la-hán, được Lục thông nhưng cấm không được tự ý dùng thần thông, trừ khi Phật cho phép. Nếu Phật nhập Niết-bàn rồi, thì phải xin phép những vị trưởng lão. Các vị này cho phép mới được dùng. Do đó ai tự tiện dùng thần thông xem như phạm giới cấm.
Một hôm, vua Ba-tư-nặc đến bạch với Phật: “Bạch Thế Tôn, trong nước con có một vùng dân chúng thích thần thông mà không chịu nghe đạo lý. Xin Thế Tôn vận dụng thần thông khiến cho họ hoảng sợ mới có thể dạy họ được.” Phật bảo: “Ta trọng đạo thông chớ không trọng thần thông.” Thế là Ngài đem chánh pháp đúng lẽ thật chỉ cho mọi người ở đó, kết quả họ đều được Phật cảm hóa.
Chánh pháp dạy đúng lẽ thật là chân lý; mà chân lý là trí tuệ. Nên đức Phật chỉ chú trọng trí tuệ, chớ không chú trọng thần thông. Vì vậy những người thích thần thông, thích huyền bí, họ không muốn đi chùa, không muốn đến với đạo Phật. Mà thường ở thế gian, số người hiếu kỳ như vậy lại là phần nhiều. Như hiện giờ tôi đang giảng kinh một cách bình thường, chợt ngoài sân chùa có ai bay lên hư không, ngồi kiết-già thì chắc rằng nơi đây chẳng còn ai ngồi nghe tôi giảng nữa. Rõ ràng tâm con người thích những gì kỳ lạ, còn lẽ thật bình dị thì coi thường lắm.
Vì vậy, nếu đạo Phật không dùng tới thần thông, sẽ không làm sao đưa đạo Phật vào cuộc đời. Cho nên có những trường hợp đặc biệt, Phật chế cho dùng thần thông, tuy nhiên Ngài luôn khuyến cáo thần thông không phải là mục đích cứu kính của người tu Phật. Do đó, sau này đến đời Tổ Long Thọ, phát sanh ra Mật tông nghiêng về trì chú, sử dụng thần thông huyền bí. Đó là để đáp ứng cho số người hiếu kỳ muốn đến với đạo Phật."

Hết trích .



--------

Phật không dạy hay khuyến khích người tu luyện thần thông vì nó không giúp ích cho việc giác ngộ của hành giả mà còn làm người tu dể lầm đường. Đối với các vị đã giác ngộ thần thông là phương tiện giúp cho việc truyền bá đạo pháp dể hơn và Phật cũng dạy các vị đó tuỳ duyên chúng sanh mà dùng thần thông chớ không cấm ngặc :

Trích phần cuối của :

PHẨM QUYẾT ĐỊNH
THỨ TÁM MƯƠI BA

- Này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát xem hằng sa quốc độ mười phương đều không. Chư Phật trong quốc độ ấy cũng tánh không, chỉ vì giả danh tự nên chư Phật hiện thân. Giả danh tự ấy cũng không.

Nếu quốc độ mười phương và chư Phật tánh chẳng không, thì thành ra không ấy có thiên lệch.

Bởi không ấy chẳng thiên lệch nên tất cả pháp, tất cả pháp tướng không. Vì lẽ ấy nên tất cả pháp, tất cả pháp tướng không. Thế nên Đại Bồ Tát hành Bát nhã ba la mật dùng sức phương tiện sanh Thần thông ba la mật, khởi thiên Nhãn, thiên hĩ, như ý túc, tri tha tâm, túc mạng trí, biết chúng sanh sanh tử.

Nếu rời lìa thần thông ba la mật, Bồ Tát chẳng có thể làm lợi ích chúng sanh, cũng chẳng có thể được Vô Thượng Bồ Đề.

Thần thông ba la mật ấy của Đại Bồ Tát là đạo lợi ích Vô Thượng Bồ Đề.

Tại sao? Vì dùng thiên nhãn ấy tự thấy các pháp lành của mình và cũng dạy người khác được các pháp lành. Đối với pháp lành ấy cũng chẳng nắm lấy, vì là tự tánh không vậy. Rỗng không chẳng có chỗ nắm lấy. Nếu nắm lấy thì thọ mùi vị, trong rỗng không chẳng có mùi vị.

Đại Bồ Tát ấy lúc hành Bát nhã ba la mật hay sanh thiên nhãn như vậy. Dùng thiên nhãn ấy xem tất cả pháp rỗng không.

Thấy pháp rỗng không ấy chẳng lấy tướng, chẳng tác nghiệp, và cũng nói pháp ấy cho người, cũng chẳng thấy có tướng chúng sanh, chẳng thấy có tên chúng sanh.

Đại Bồ Tát ấy vì dùng pháp vô sở đắc nên khởi thần thông ba la mật.

Dùng thần thông ba la mật ấy, bao nhiêu chỗ nên làm của thần thông, Bồ Tát ấy đều có thể làm được.

Bồ Tát dùng thiên nhãn quá hơn nhơn nhãn, thấy quốc độ mười phương. Thấy rồi, Bồ Tát ấy bay đến mười phương làm lợi ích chúng sanh: hoặc dùng bố thí, hoặc dùng trì giới, hoặc dùng bố thí, hoặc dùng nhẫn nhục, hoặc dùng thiền định, hoặc dùng trí huệ làm lợi ích chúng sanh. Hoặc dùng ba mươi bảy pháp trợ đạo, các thiền giải thoát tam muội, hoặc dùng pháp Thanh Văn, pháp Bích Chi Phật, pháp Bồ Tát, hoặc dùng pháp Phật lợi ích chúng sanh.

Bồ Tát vì kẻ xan tham mà nói pháp như vầy: Các người nên bố thí. Nghèo cùng là sự khổ não. Người nghèo cùng còn chẳng tự lợi ích, làm sao có thể lợi ích người khác. Vì thế nên các người phải siêng bố thí. Bố thí thì tự mình được vui sướng, cũng làm cho kẻ khác vui sướng. Chớ vì ngheo cùng mà ăn nuốt trộm cắp lẫn nhau, để rồi chẳng dời khỏi ba ác đạo.

Bồ Tát vì kẻ phá giới mà nói pháp như vầy: Này các người! Sự phá giới rất là khổ não. Người pháp giới còn tự mình chẳng lợi ích, làm sao có thể lợi ích người khác. Sự phá giới phải nhận quả báo khổ: hoặc ở Địa ngục, hoặc Ngạ quỷ, hoặc ở Súc sanh. Các người phá giới bị đọa trong ba ác đạo còn chẳng tự cứu được, làm sao cứu được người khác. Vì thế các người chớ nên chìu theo tâm niệm phá giới, đến lúc chết sẽ hối hận.

Với những người giận hờn, cãi lộn nhau, Bồ Tát nói pháp như vầy: Các người chớ nên giận nhau. Sự giận làm rối loạn lòng người, chẳng thuận với pháp lành. Nay các người giận nhau loạn tâm hoặc sẽ bị đọa Địa ngục, Ngạ quỷ hoặc Súc sanh. Vì thế nên các người còn chẳng nên sanh một niệm giận thù, huống là nhiều.

Với những người giải đãi, Bồ Tát thuyết pháp làm cho họ tinh tiến.
Với những người tâm loạn, Bồ Tát thuyết pháp làm cho họ được thiền định.
Với nhhững người ngu si, Bồ Tát thuyết pháp cho họ được trí huệ.
Với kẻ hành dâm dục, dạy họ quán bất tịnh.
Với kẻ giận hờn, dạy họ quán từ bi.
Với kẻ ngu si, dạy họ quán mười hai nhơn duyên.

Chúng sanh hành phi đạo, dạy họ vào chánh đạo, đó là Thanh Văn đạo, Bích Chi Phật đạo, Phật đạo.

Vì chúng sanh ấy, Bồ Tát thuyết pháp như vầy:

Cứ như chỗ chấp trước của các người, chỗ pháp tánh ấy tánh nó rỗng không. Trong pháp tánh rỗng không ấy chẳng nên chấp trước. Tướng chẳng chấp trước là rỗng không.

Như vậy, Này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát an trụ trong Thần thông ba la mật làm lợi ích cho chúng sanh.

Này Tu Bồ Đề! Nếu xa rời thần thông, Bồ Tát chẳng thể tùy thuận ý của chúng sanh để khéo thuyết pháp.

Này Tu Bồ Đề! Vì thế nên lúc hành Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát phải phát khởi thần thông.

Này Tu Bồ Đề! Ví như chim kia không cánh thì chẳng bay cao được.

Cũng vậy, không thần thông thì Bồ Tát chẳng thể giáo hóa chúng sanh theo ý mình.

Này Tu Bồ Đề! Vì thế nên lúc hành Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát phải phát khởi các thần thông, phát khởi thần thông rồi, nếu muốn lợi ích chúng sanh thì tùy ý có thể làm lợi ích.

Bồ Tát ấy dùng thiên nhãn thấy hằng hà sa quốc độ, cũng thấy chúng sanh trong các quốc độ ấy. Thấy rồi dùng sức thần thông qua đến các nơi ấy, biết rõ tâm chúng sanh rồi theo chỗ thích ứng mà thuyết pháp cho họ được lợi ích. Hoặc nói bố thí, hoặc nói trì giớ, hoặc nói nhẫn nhục, hoặc nói tinh tiến, hoặc nói thiền định, hoặc nói trí huệ, nhẫn đến hoặc nói pháp Niết Bàn.

Dùng thiên nhĩ, Bồ Tát ấy nghe hai loại âm thanh: của Người và của Phi nhơn.

Dùng thiên nhĩ, Bồ Tát ấy nghe chư Phật mười phương thuyết pháp, nghe rồi đều có thể thọ trì. Bồ Tát ấy đúng như chỗ đã được nghe, đem dạy lại cho chúng sanh.

Bồ Tát ấy dùng tha tâm trí biết rõ tâm chúng sanh rồi tùy theo chỗ thích ứng để thuyết pháp. Hoặc nói bố thí, nhẫn đến hoặc nói pháp Niết Bàn.

Bồ Tát ấy dùng túc mạng trí nhớ biết những đời trước của mình, cũng nhớ biết những đời trước của người khác.

Dùng túc mạng trí, Bồ Tát ấy nhớ biết danh tự của chư Phật và thánh chúng thuở quá khứ cùng các nơi chỗ.

Có chúng sanh nào tin ưa túc mạng, Bồ Tát ấy vì họ mà hiện sự việc đời trước để thuyết pháp cho họ: hoặc nói bố thí, nhẫn đến hoặc nói pháp Niết Bàn.

Dùng sức như ý thần thông, Bồ Tát ấy qua đến vô lượng quốc độ của chư Phật, cúng dường chư Phật, theo chư Phật gieo căn lành rồi trở về bổn quốc.

Dùng lậu tận thần thông trí chứng, Bồ Tát này tùy theo chỗ thích ứng mà thuyết pháp cho chúng sanh. Hoặc nói bố thí, nhẫn đến hoặc nói pháp Niết Bàn.

Như vậy, Này Tu Bồ Đề! Lúc hành Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát phải phát khởi các thần thông như vậy.

Do tu những thần thông ấy nên Bồ Tát tùy ý thọ thân, sự khổ, cảnh vui chẳng làm nhiễu được.

Lúc hành Bát nhã ba la mật, Đại Bồ Tát du hí thần thông như vậy thì có thể tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh.

Lại này Tu Bồ Đề! Nếu Đại Bồ Tát chẳng tịnh Phật quốc độ, chẳng thành tựu chúng sanh thì chẳng thể được Vô Thượng Bồ Đề. Tại sao? Vì chẳng đầy đủ nhơn duyên nên chẳng thể được Vô Thượng Bồ Đề.

- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là nhơn duyên đầy đủ, do đó Đại Bồ Tát được Vô Thượng Bồ Đề?

- Này Tu Bồ Đề! Tất cả pháp lành là nhơn duyên Vô Thượng Bồ Đề của Đại Bồ Tát.

- Bạch đức Thế Tôn! Những gì là pháp lành, do những pháp lành ấy nên được Vô Thượng Bồ Đề?

- Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát từ lúc ban sơ phát tâm nhẫn lại, Bồ Thí ba la mật là nhơn duyên pháp lành, trong ấy chẳng phân biệt người thí, kẻ nhận, vì là tánh rỗng không.

Dùng bố thí ba la mật này, Bồ Tát có thể tự lợi ích và lợi ích chúng sanh, từ chốn sanh tử cứu họ ra khỏi, cho họ được Niết Bàn.

Các pháp lành ấy đều là nhơn duyên Vô Thượng Bồ Đề của Đại Bồ Tát.

Hạnh đạo ấy, chư Đại Bồ Tát quá khứ, vị lai, hiện tại được ra khỏi sanh tử, đã ra khỏi, nay ra khỏi, sẽ ra khỏi.

Trì giới ba la mật nhẫn đến Bát nhã ba la mật, bốn thiền, bốn vô lượng tâm, bốn vô sắc định, bốn niệm xứ nhẫn đến tám phán thánh đạo, mười tám không nhẫn đến mười tám pháp bất cộng, những công đức như vậy đều là đạo Vô Thượng Bồ Đề.

Này Tu Bồ Đề! Đó gọi là pháp lành. Đại Bồ Tát đầy đủ những pháp lành ấy rồi sẽ được nhứt thiết chủng trí.

Được nhứt thiết chủng trí rồi, Đại Bồ Tát sẽ chuyển pháp luân độ tất cả chúng sanh”.





Thanked by 4 Members:

#20 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2949 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 08:29

“ Khởi tín là ý thức cái giác tánh bổn lai của mình. Khởi tín là trở về chính mình, trở về tự thể của chính mình. ”
SHUNRYU SUZUKI

Thanked by 2 Members:

#21 TienNam

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1764 Bài viết:
  • 3370 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 09:29


Đời có nhiều kẻ chuyên "chế"
Lời Phật, kinh sách ko chịu đọc kỹ
Suốt ngày chế bậy bạ


Gì mà "khởi tín là.."



Dùng các từ mơ mơ hồ hồ huyền huyền ảo ảo

Mà con người lại thích những thứ mơ hồ mới cay.

khởi tín là gì?
Tánh giác có ý thức?!
Trở về chính mình, ttở về tự thể chính mình là trở về đâu, trở về như thế nào?!

Đọc có vài mà nó mơ hồ huyễn ảo. Tiếc là càng huyễn ảo thì càng có vấn đề.

Toàn là tưởng tượng vô căn cứ, vô cơ sở.



Người đọc vô thấy nó cao siêu nhưng rốt cuộc như "kính hoa thuỷ nguyệt"

Toàn là bậc ảo tưởng mình đạt trình như Phật
Nên mới tưởng ra được Pháp giác ngộ giải thoát.

Chỉ có thế Tôn mới có thể đưa ra Pháp giải thoát.
Còn các kẻ khác chỉ đưa ra Pháp gì đó thôi


#22 TienNam

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1764 Bài viết:
  • 3370 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 09:36


Nếu tánh giác mà có "ý thức" thì chúng ta dễ dàng tìm được nó vì nó có ý thức.

Bản thân chưa cảm nhận được tánh giác nên dám nói tánh giác có ý thức.

Trong bát nhã tâm kinh có nói "
..... Không có THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC...
... Không có vô minh, không có hết vô minh,....."

Đã không có THỌ tưởng hành thức thì làm sao CÓ Ý thức?!


Thanked by 1 Member:

#23 TienNam

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1764 Bài viết:
  • 3370 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 10:02


Người muốn giác ngộ và giải thoát
Chỉ nên đọc kinh sách của Phật.
Hạn chế nghe theo những thứ "kiến giải, tưởng tượng, chế tác" của người khác.
Và bản thân cũng bỏ tánh "suy diễn, tưởng tượng" khi đọc kinh sách nhà Phật.


#24 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2949 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 10:07

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Dấu ấn thứ hai : Kinh Lăng Già Tâm Ấn - Lankavatara Sutra (skt)—Kinh Lăng Già là giáo thuyết triết học được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết trên núi Lăng Già ở Tích Lan.

Thanked by 2 Members:

#25 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2949 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 10:21

LĂNG-GIÀ A-BẠT-ĐA-LA BẢO KINH TÂM ẤN


Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa. Bởi vua Dạ-xoa thỉnh Phật thuyết pháp trên núi, nên lấy tên núi đặt tên kinh.
Đại sĩ Táo Bá nói: “Kinh này nói trên núi Lăng-già ở trong biển Nam. Như Lai nói kinh dưới núi, vua Dạ-xoa La-bà-na và Bồ-tát Ma-đế ngồi cung điện hoa đến thỉnh Như Lai vào núi thuyết pháp. Núi này cao vót nhìn xuống biển cả, chung quanh không lối vào. Người được thần thông mới có thể lên được, để tiêu biểu pháp môn tâm địa, người không tu không chứng mới hay lên được. Nhìn xuống biển cả, để tiêu biểu biển tâm thanh tịnh, do gió cảnh thổi, nên sóng thức nổi dậy. Người đạt được ngoại cảnh vốn không thì biển tâm tự vắng lặng. Tâm cảnh đều lặng thì việc gì cũng sáng tỏ, ví như biển cả lặng gió thì mặt trời mặt trăng và vạn vật hiện hình rõ ràng. Kinh này Phật vì hàng Bồ-tát căn cơ đã thuần thục, liền nói chủng tử nghiệp thức là Như Lai tàng; khác với Nhị thừa do diệt thức tiến đến không tịch; cũng khác với Bát-nhã bởi Bồ-tát quán không rồi thích cái Không tăng thắng. Đây chỉ thẳng Thức thể bản tánh toàn chân, liền thành trí dụng, như biển cả kia lặng gió thì cảnh tượng đều hiện bày. Biển tâm chẳng động thì gió cảnh chẳng khác. Chỉ người khéo hiểu được tánh chân, liền nơi thức biến thành trí.” Táo Bá rất thâm hiểu tông thú kinh Lăng-già vậy.
Kinh này dịch lần đầu do ngài Cầu-na-bạt-đà-la (Gunabhadra) đời Lưu Tống (424-454), dịch thành bốn quyển để tên là Lăng-già A-bạt-đà-la Bảo Kinh. Đến đời Nguyên Ngụy (500-516), ngài Bồ-đề-lưu-chi (Bodhiruci) dịch thành mười quyển tên là Nhập Lăng-già. Đời Đường thời Võ Tắc Thiên (684-705), ngài Thật-xoa-nan-đà (Sikshànanda) cùng với ông Phục Lễ v.v… dịch thành bảy quyển tên là Đại Thừa Nhập Lăng-già.
Bản dịch đời Đường rất đơn giản, không bằng bản dịch đời Tống rất cao sâu. Cho nên từ xưa đến nay những nhà nghiên cứu hầu hết đều theo bản dịch ban đầu (đời Tống).

Thời vua Lương Võ Đế, Đại sư Đạt-ma đi đường biển đến Trung Hoa rồi sang nước Ngụy, ở tại chùa Thiếu Lâm chín năm ngồi xoay mặt vào vách. Sau Ngài truyền pháp cho Tổ Huệ Khả nói: “Xứ này chỉ có bốn quyển kinh Lăng-già có thể dùng ấn tâm, trọn trao cho ngươi.” Từ đây kinh Lăng-già bèn thành vật bí mật trong Tông môn (Thiền tông). Thiền giả thời nay đã bỏ qua (kinh Lăng-già) cho đến suốt đời chưa từng giở ra xem, thật đáng buồn thay!

Về nhóm Nghĩa học (học kinh), chỉ có đầu niên hiệu Hồng Võ (1368) có ông Tông Lặc, Như Khỉ vâng chiếu chung nhau sớ. Đến cuối niên hiệu Vạn Lịch (1620) có ngài Đức Thanh bút ký. Đến khoảng giữa niên hiệu Sùng Trinh (1628-1643) có ngài Trí Húc nghĩa sớ. Ngoài những sớ giải trên, không còn thấy chỗ nào khác.
Tổ Đạt-ma thường bảo rằng: “Kinh này sau năm trăm năm trở thành môn học danh tướng.” Xét kỹ lời nói này càng thêm lo sợ. Tổ nói tông của ta thất truyền đâu phải do người hay việc nào khác!
Hàm Thị tôi, từ niên hiệu Thuận Trị nhằm năm Tân Sửu (1661), trước thì Hoa Thủ thị tịch, năm sau Đại Nhật tiếp tục tạ thế. Hai năm qua lạc thú nhân sanh đối với tôi đã hết sạch. Tôi bèn rút lui về ở núi Lôi Phong, quanh quẩn trong am tranh, nương chí đời trước, cùng đáp những câu hỏi của thiền gia, dùng để tự vui, chưa dám chỉ dạy người. Chỉ nghĩ đến đạo pháp nảy mầm lộn lạo, nói rằng kiến tánh mà đồng với thần ngã; một con đường thấu thoát (tu thiền) mà không khác với minh sơ. Như câu “chẳng tự sanh, chẳng phải chẳng sanh”, lời Thánh nói vẫn đầy đủ, mà có người chẳng đạt lý duyên khởi, rốt cuộc rơi vào bác không, mặc tình phá hoại Phật pháp. Xét ra do họ mắc kẹt trên danh tướng, nên công và tội chẳng đồng vậy.
Kinh này chỉ thẳng chủng tử nghiệp thức là Như Lai tàng, thật có mê ngộ. Chẳng thế, thì lấy thức lưu chú làm Tự tâm, trở lại thành lỗi tâm sanh thức. Trong lời sớ giải thâm thiết rõ ràng, chỉ trước dẫn ra cho có huyết mạch. Có dẫn kinh luận chỉ lấy chỗ gần là nhập lý để phát minh lẫn nhau. Đến như những lời nói của thiền gia cốt ở chỗ thận trọng giữ mình. Phàm thiền gia dùng có lời để tháo chốt. Còn kinh điển cốt dẫn người trở về không lời. Chính vì chỗ bàn sâu nên không từ phá dẹp, luống dùng lời để cắt đứt, đâu khỏi lẫn lộn chân thuyên (lời nói bày chân lý). Lầm lẫn danh ngôn nên chữ “Ô” chữ “Yên” thành chữ “Mã”. Thiền bệnh thời nay là do chân giả khôn phân. Tổ của ta ban đầu lập không lời, cùng truyền bốn quyển kinh, đã thầm bày ẩn ý vậy. Hàm Thị tôi xin tất cả người đời sau nên noi theo ý chỉ của đấng Đại Từ đã chỉ dạy.

Sửa bởi V.E.DAY: 12/06/2018 - 10:25


Thanked by 1 Member:

#26 TienNam

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1764 Bài viết:
  • 3370 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 10:43


Bác nào lớn tuổi rồi và muốn giác ngộ giải thoát hay muốn nâng cao kiến thức

Đọc tham khảo cuốn sách này.

**** lưu ý: vì sách này nó đề cập nội dung PHÍ VẬT LÝ, PHÍ VẬT CHẤT nên sẽ có nhiều người không đồng ý quan điểm.
Nếu thấy ko thích hợp thì đừng đọc và đừng chửi.

Trân trọng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





#27 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2949 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 12:17

Trực giác có lừa con người không ?
Valerie van Mulukom
Bài đăng trên The Conversation

Hãy tưởng tượng một giám đốc công ty lớn công bố quyết định quan trọng và ông nói đã ra quyết định dựa vào trực giác. Hành động này có thể khiến mọi người không tin tưởng - rõ ràng những quyết định quan trọng phải được suy nghĩ cẩn trọng, với sự đắn đo và hợp lý?

Thật vậy, trực giác thường bị mọi người cho là không đáng tin cậy, đặc biệt là ở phương Tây, nơi suy nghĩ phân tích được khuyến khích trong nhiều thập niên vừa qua.

Dần dần, nhiều người tin rằng con người đã tiến bộ từ cách suy nghĩ sơ khai dựa vào tôn giáo và những sự kỳ diệu, để tiến bộ và chuyển thành suy nghĩ theo hướng khoa học và phân tích. Kết quả là, người ta coi cảm xúc và trực giác là cách nghĩ kỳ dị và lầm lạc.

Tuy nhiên, thái độ này thực ra dựa trên một giả thuyết về tiến bộ trong nhận thức. Cảm xúc thực ra không phải là phản ứng khờ khạo mà con người nên bỏ qua hay điều chỉnh bằng các công cụ lý tính.

Cảm xúc là những đánh giá dựa trên những kinh nghiệm bạn trải qua hoặc cách bạn suy nghĩ. Ở góc độ này, cảm xúc là một hình thức trong quá trình xử lý thông tin.

Trực giác hoặc cảm giác bản năng là kết quả của rất nhiều quá trình xử lý xảy ra trong não bộ. Nghiên cứu cho thấy não là một cỗ máy dự đoán khổng lồ, liên tục so sánh thông tin cảm giác được nạp vào, cùng với trải nghiệm hiện tại, so với tri thức và ký ức cũ về những trải nghiệm từng xảy ra, từ đó não bộ sẽ phán đoán điều gì xảy ra tiếp theo. Quá trình này được các nhà khoa học gọi là "Quy trình xử lý dự đoán" (predictive processing framework).

Điều này đảm bảo bộ não luôn sẵn sàng ứng phó với tình huống hiện tại theo cách tối ưu nhất có thể. Khi một sự sai lệch xảy ra (như thứ gì đó không lường được), não bộ sẽ cập nhật thêm mô hình nhận thức mới.

Sự phù hợp giữa những mô hình cũ (từ kinh nghiệm quá khứ) đến trải nghiệm hiện tại xảy ra tự động trong vô thức. Trực giác xảy ra khi não bộ tạo ra, hoặc không tạo ra kết nối quan trọng hay sự lệch lạc (giữa mô hình nhận thức và trải nghiệm mới), thế nhưng ý thức của bạn chưa thấy rõ điều này.

Chẳng hạn, bạn có thể đang lái xe trên một con đường ở vùng quê, trời tối và bạn đang nghe nhạc, nhưng thình lình trực giác của bạn nói bạn nên lái sang hẳn một bên làn đường. Khi bạn tiếp tục lái xe, bạn nhận ra mình vừa tránh được một cái hố lớn trên đường có thể làm xe bị hỏng nặng. Bạn vui mừng vì đã tin vào trực giác dù không biết trực giác đó đến từ đâu. Trong thực tế, chiếc xe phía trước bạn một quãng xa có thể đã chuyển làn giống bạn (vì họ là dân địa phương và biết rành tình trạng đường xá), bạn làm theo mà không để ý não bộ đã ghi nhận tình huống đó.

Khi bạn có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nào đó, não bộ có nhiều thông tin để so sánh với tình huống hiện tại hơn. Điều đó khiến trực giác đáng tin cậy hơn. Điều đó có nghĩa là cùng với sự sáng tạo, trực giác có thể phát triển cùng với kinh nghiệm.

Trong nghiên cứu tâm lý, trực giác thường được coi là một trong hai mô hình tổng quát của suy nghĩ, cùng với suy nghĩ phân tích lý tính. Suy nghĩ trực giác được mô tả có tính chất tự động, nhanh và trong vô thức. Trái lại, suy nghĩ phân tích lại được coi là chậm, logic, có ý thức và thận trọng.

Nhiều người coi sự khác biệt giữa suy nghĩ lý tính và trực giác có nghĩa là hai cách xử lý thông tin (hay "cách suy nghĩ") là trái ngược nhau, hoàn toàn tách bạch. Tuy nhiên, một phân tích tổng hợp gần đây - nghiên cứu tìm hiểu tác động tới nhóm đối tượng đến từ đâu - cho thấy suy nghĩ phân tích và lý tính thường không có quan hệ tương quan và có thể xảy ra cùng lúc.

Vì thế, dù là có vẻ như kiểu suy nghĩ này chiếm ưu thế hơn kiểu kia trong tình huống nào đó - nhất là trong vấn đề suy nghĩ phân tích - thì sự vô thức của trực giác khiến người ta khó xác định được nó xảy ra khi nào, vì có quá nhiều thứ cùng xảy ra dưới vỏ bọc nhận thức của con người.

Thật vậy, trong thực tế hai kiểu suy nghĩ có thể bổ túc cho nhau và hòa hợp cùng nhau - con người thường sử dụng cả hai cùng lúc với nhau. Thậm chí những nghiên cứu khoa học đột phá có thể bắt đầu với tri thức trực giác giúp các nhà khoa học hình thành phát kiến và giả thuyết mới, mà sau này họ sẽ xác minh lại nhờ vào phân tích và thí nghiệm nghiêm túc.

Hơn nữa, dù trực giác bị coi là lộn xộn và không chính xác, suy nghĩ lý tính cũng có thể có hại. Nghiên cứu cho thấy sự suy nghĩ quá mức có thể cản trở nghiêm trọng quá trình ra quyết định của ta.

Trong những trường hợp khác, suy nghĩ phân tích có thể đơn giản giải thích lại sau khi sự kiện xảy ra, hoặc lý giải các quyết định dựa trên trực giác trước đó.

Điều này xảy ra khi ta có thể giải thích quyết định của mình khi gặp tình huống khó xử về đạo đức. Hiệu ứng này cho phép mọi người coi suy nghĩ lý tính như "thư ký báo chí", hay "luật sư lương tâm" của trực giác. Nhiều khi ta không biết vì sao mình lại quyết định như vậy, nhưng ta vẫn có lý do giải thích cho quyết định đó.

Vậy ta có nên dựa vào trực giác, nếu như nó bổ trợ cho quá trình ra quyết định?

Điều này rất phức tạp.

Vì trực giác dựa trên quá trình xử lý thông tin tự động, nhanh và dựa trên tri thức cũ trong quá trình tiến hóa, nó cũng dễ sa vào lỗi lầm lạc, như bị định kiến về nhận thức. Đó là các lỗi hệ thống trong suy nghĩ và có thể xảy ra tự động.

Dù vậy, học cách làm quen với một số định kiến nhận thức cơ bản, bạn sẽ nhận ra những lỗi này trong tương lai, có một số mẹo nhỏ để thực hành tránh lỗi này tại đây và tại đây

Tương tự, vì quá trình xử lý thông tin nhanh đã quá cổ xưa, đôi khi nó có thể lỗi thời. Hãy xem qua ví dụ một đĩa bánh donut. Dù bạn có thể thèm ăn hết tất cả, nhưng cơ thể bạn có lẽ không cần một lượng đường và chất béo nhiều đến vậy. Tuy nhiên, trong thời săn bắn - hái lượm xa xưa, tích trữ năng lượng lại là bản năng khôn ngoan của con người.

Như vậy, với mỗi tình huống cần phải ra quyết định dựa trên đánh giá, hãy xem xét liệu trực giác của bạn đã đánh giá đúng tình huống chưa. Đó là tình huống mới hay cũ từ thời tiến hóa? Nó có mắc vào lỗi định kiến nhận thức không? Bạn đã từng trải qua hay có hiểu biết về tình huống này không?

Nếu đó là trực giác cũ từ thời con người tiến hóa, hay dính phải lỗi định kiến, và bạn không có chuyên môn gì trong vấn đề này, vậy hãy dựa vào suy nghĩ lý tính.

Nếu không mắc phải các lỗi trên, hãy yên tâm dựa vào trực giác.

Đã đến lúc ta phải ngưng bài xích suy nghĩ trực giác, và phải nhìn thẳng vào tính chất của nó: đó là quá trình xử lý thông tin nhanh, tự động và vô thức.

Nó có thể cung cấp cho con người rất nhiều thông tin hữu ích mà những phân tích cẩn trọng không hề có được.

Ta phải thừa nhận rằng trực giác và suy nghĩ lý tính cùng xảy ra với nhau, và có thể dựa vào nhau trong những tình huống phải ra quyết định khó khăn.

Bài báo được đăng từ tạp chí The Conversation và được BBC xuất bản lại theo giấy phép Creative Commons.

Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Bài tiếng Việt đã đăng trên BBC Future.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 3 Members:

#28 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5104 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 15:00

Khởi Tín Luận

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

V.E.DAY, on 12/06/2018 - 08:29, said:

“ Khởi tín là ý thức cái giác tánh bổn lai của mình. Khởi tín là trở về chính mình, trở về tự thể của chính mình. ”
SHUNRYU SUZUKI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trích một đoạn trong II. Vị trí Luận Đại Thừa Khởi Tín trong Phật pháp :

"Trong quá trình tu học Phật pháp, trước tiên phải sanh khởi tín thuận, đó có niềm tin thuần khiết đồng tình hiếu cảm; sau đó tâm sanh khởi sự tín nhiệm và tìm cầu cho đến chứng tín (xác định niềm tin của mình). Từ tâm tín thuận ban đầu để chứng tín, đó là niềm tin trong Phật pháp, vì niềm tin này có đặc tính là tịnh tâm, không đơn thuần chỉ là tín ngưỡng mà phải từ kinh nghiệm sâu sắc để đi đến hoàn thành tịnh tín không ".

#29 V.E.DAY

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1183 Bài viết:
  • 2949 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 16:25

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

V.E.DAY, on 12/06/2018 - 08:29, said:

“ Khởi tín là ý thức cái giác tánh bổn lai của mình. Khởi tín là trở về chính mình, trở về tự thể của chính mình. ”
SHUNRYU SUZUKI
(A)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vô Danh Thiên Địa, on 12/06/2018 - 15:00, said:

Khởi Tín Luận

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Trích một đoạn trong II. Vị trí Luận Đại Thừa Khởi Tín trong Phật pháp :

"Trong quá trình tu học Phật pháp, trước tiên phải sanh khởi tín thuận, đó có niềm tin thuần khiết đồng tình hiếu cảm; sau đó tâm sanh khởi sự tín nhiệm và tìm cầu cho đến chứng tín (xác định niềm tin của mình). Từ tâm tín thuận ban đầu để chứng tín, đó là niềm tin trong Phật pháp, vì niềm tin này có đặc tính là tịnh tâm, không đơn thuần chỉ là tín ngưỡng mà phải từ kinh nghiệm sâu sắc để đi đến hoàn thành tịnh tín không ".
( B )

(A) và ( B ) nghĩa chẳng sai khác, chỉ là một bên cô đọng kiệm lời (A) và một bên giải thích từng bước đi một ( B ).

Sửa bởi V.E.DAY: 12/06/2018 - 16:28


#30 Vô Danh Thiên Địa

    Ly viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3526 Bài viết:
  • 5104 thanks

Gửi vào 12/06/2018 - 23:31

(A) thuộc dạng câu què trong diển đạt . Về Ý thì nó không nói lên được rõ ràng Khơỉ Tín là bước đầu của quá trình tỉnh thức . Tôi nghĩ ngoại trừ trường hợp đối thoại riêng còn những lời phát biểu chung nên rõ ràng và giản dị trong ngôn từ. Hi hi nhưng khó mà đòi hỏi điều này vì dù là thiền sư thì cũng vướng mắc ngôn ngữ thường tình.


Bài phân tích về trực giác ở trên nói về cái giác của (hửu) thức và vô thức . Trực giác của trí tuệ giác ngộ vượt ngoài tầm của (hửu/vô)thức .

Sửa bởi Vô Danh Thiên Địa: 12/06/2018 - 23:41







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |