Jump to content




Advertisements




HaHa

Boy Gias Song Ha FB

88 replies to this topic

#16

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 28/05/2016 - 23:39









Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Cuối bài viết, chúng tôi cũng sẽ trình bày quan điểm vì sao có tên 1 tờ báo bị che mờ trong hồ sơ “Panama làng báo Việt Nam”.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Lộ bảng kê khai nói về việc chi tiền "mua" các báo. Dòng thứ 2 trong bảng này, ngay từ khi công bố đã bị bôi đen và không ai biết đây là tờ báo nào. Các dòng 1, 3, 4 do PetroTimes chủ động bôi đỏ để tránh ảnh hưởng cho các tờ báo trong bối cảnh vụ việc chưa được xác minh rõ ràng.

* Việc sản phẩm nước C2 và Rồng đỏ nhiễm chì: Đây là việc của cơ quan chức năng cần thiết phải xử lý để bảo vệ người tiêu dùng.

* Việc có tin đồn URC đút lót cho các báo, chúng ta cần đợi các cơ quan chức năng làm rõ.

* Chúng tôi chỉ muốn nói về một “bàn tay đen” đang nhân khi doanh nghiệp có bê bối, cố tình đẩy cao thành khủng hoảng để tàn phá doanh nghiệp, từ đó dễ dàng thâu tóm. Họ lôi cả báo chí vào để đẩy quan hệ báo chí – doanh nghiệp về 2 phía đối lập.

Trước tiên, bạn đọc cần hiểu rằng: Thị trường nước giải khát Việt Nam rất màu mỡ, doanh thu khoảng 60.000 tỷ 1 năm. Hiện đang là cuộc cạnh tranh giữa Suntory Pepsico, Tân Hiệp Phát, Coca – Cola, URC, Tribeco, Chương Dương…

Cuộc chiến giành miếng bánh thị phần rất quyết liệt, được ví von theo kiểu “một con ngựa đau cả tàu được thêm cỏ”.

Các công ty Việt Nam thường không đủ nguồn lực và kinh nghiệm để đi “thâu tóm” công ty khác để giành thị phần.

Các liên doanh quốc tế thường giành thị phần của doanh nghiệp Việt Nam bằng cách làm cho doanh nghiệp đó mất giá trị bằng các khủng hoảng. Sau đó mua lại cổ phần.

Khi đã có cổ phần trong doanh nghiệp, vì trường vốn nên các cổ đông nước ngoài này ra các chính sách để chủ động cho hãng thua lỗ nhiều năm liền. Các cổ đông Việt Nam “không chịu nổi nhiệt” và phải bán cổ phần của mình. Lúc này, các cổ đông nước ngoài gom mua và thâu tóm toàn bộ hãng đó.

Đây là cách thâu tóm “kinh điển” mà các hãng giải khát Tribeco, Chương Dương… từng là nạn nhân và đã “bán mình” cho doanh nghiệp nước ngoài.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Thị phần nước giải khát Việt Nam năm 2012.
Quay lại câu chuyện chúng tôi nghi ngờ có “bàn tay đen” phá hoại thị trường nước giải khát Việt Nam. Doanh nghiệp này tìm cách thâu tóm các công ty nhỏ hơn, để mở rộng thêm miếng bánh thị phần.

Trường hợp của URC có vẻ như đang diễn ra theo đúng kịch bản mà Tân Hiệp Phát mắc phải trước đây.

Việc sản phẩm của URC có chì và phải xử lý, thu hồi là đương nhiên. Nhưng “bàn tay đen” cơ hội này lại một lần nữa xuất hiện, “mang xăng đi cứu hỏa”.

Họ “dập lửa” bằng cách tung “Hồ sơ Panama làng báo” để kích động báo chí. Để các báo muốn chứng minh mình trong sạch thì chỉ còn cách tiếp tục lao vào “đánh” URC.

Chúng tôi tạm gọi doanh nghiệp có thói quen “mang xăng đi cứu hỏa” này là P… Việt Nam.

Ngày 11/10/2015, một lãnh đạo của P… Việt Nam đã viết về công ty mẹ ở nước ngoài một bức thư điện tử xin kinh phí để mua 20.000 chai nước (834 thùng) của đối thủ cạnh tranh.

Lá thư còn nói về việc phải thuê kho bảo quản ở Bắc Ninh, không dùng kho của công ty P… Việt Nam.

Tiền chuyển về thì chuyển thẳng từ công ty mẹ về để thanh toán, mà không dùng tiền của P…Việt Nam.

Đặc biệt là email này lưu ý sản phẩm đối thủ cạnh tranh phải được sản xuất cùng 1 lô, 1 ngày, trong khoảng từ tháng 5 – tháng 8/2015.

Mặc dù được doanh nghiệp này mua về bảo quan trong kho ở Bắc Ninh với lý do “nghiên cứu” nhưng thật ngạc nhiên: Mua nghiên cứu làm sao phải mua đến 20.000 chai, 834 thùng?

Ngạc nhiên hơn là nhiều sản phẩm trong lô hàng 20.000 chai này xuất hiện ở Cà Mau trong tình trạng hỏng, đóng cặn.

Thùng hàng lỗi đầu tiên xuất hiện ngày 16/12/1015, một ngày trước phiên tòa xử Võ Văn Minh.

Các thùng hàng này đều nằm trong thời gian như email đề cập.

Chai nước lỗi đầu tiên đó do một phụ nữ phát hiện. Người này báo tin cho cơ quan chức năng nhưng khi cơ quan chức năng đến thì người này đã… biến mất.

Chắp nối những thông tin trên, có thể hình dung kịch bản: Công ty P đã gom mua 20.000 chai nước Dr Thanh mang ra tận Bắc Ninh bảo quản trong kho ngoài và thực hiện việc phá hoại. Sau đó tuồn vào Cà Mau, tung ra sản phẩm lỗi trước phiên xét xử Võ Văn Minh 1 ngày để tạo dư luận.

Toàn bộ quá trình phá hoại cùng chứng lý đã được tập hợp và gửi trong đơn cầu cứu tới Tổng Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm (Bộ Công an) vào tháng5/2016.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Email của lãnh đạo Công ty P… Việt Nam viết về công ty mẹ xin cấp kinh phí để mua 20.000 sản phẩm của đối thủ. Email gốc bằng tiếng nước ngoài và được chúng tôi lược dịch 1 đoạn như trên. Bức thư bằng tiếng nước ngoài nguyên bản đã được cung cấp cho cơ quan công an.
Quay trở lại vụ việc Facebook tung thông tin hối lộ cho phóng viên, thì có tên 1 tờ báo bị che.

Theo nhận định của chúng tôi, đây là tờ báo “mạnh tay” nhất trong khủng hoảng “con ruồi 500 triệu”.

Và Công ty P… Việt Nam không hiểu vô tình hay cố ý là đối tác quảng cáo hàng đầu của tờ báo này.

Nói như vậy để thấy, việc che tên tờ báo này, dường như là có chủ đích.

Và việc “mang xăng đi cứu hỏa” vụ URC, việc tung “hồ sơ Panama làng báo” cũng như “tìm diệt THP” đều cùng 1 bàn tay?

“Bàn tay” này chủ động che tên tờ báo đó, đơn giản vì bàn tay này xem đó là… chiến hữu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Thanked by 1 Member:

#17

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 08:29

2+1=

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#18

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 08:54

Hôm nay vợ chồng NSUT Hồng Ánh đã trao một suất học bổng 9 tháng tại trung tâm tiếng Anh Apax English cho cô bé trong ảnh này, thú thực là tôi cũng không còn nhớ tên cô bé, cho dù suất học bổng này là tôi xin.
Con bé là con anh Cường mù bán báo ở Đồng Khởi. Ngồi cạnh trong ảnh là chị Lan, vợ anh, đi làm giúp việc. Nhà này có một câu chuyện khá extreme, là ở tuổi ngoài 40, trong căn phòng trọ nhỏ chỉ hơn 10 mét vuông với 2 đứa con đã lớn, chị Lan vẫn kể với tôi rằng đã 5 năm nay hai vợ chồng không dám nằm gần nhau. Sợ đẻ đứa nữa thì không biết lấy gì nuôi. Một nỗi sợ lớn đến kỳ dị.
Nhà anh Cường bán báo gia truyền từ thời ông nội đứng ở cây xăng công trường Cộng Hoà đến anh đứng ở Đồng Khởi. Bán báo thì hay rồi, thu nhập của anh 10 năm qua giảm đúng bằng doanh thu của The New York Times, 70 phần trăm. Giờ chị Lan bảo ổng đi ra đường để có việc mà làm, ở nhà không ai chăm là tốt lắm rồi. Nhiều ngày phải mượn anh điều phối taxi đứng cạnh mấy ngàn đồng đi xe buýt về.
Anh Cường trông tội nên cũng có nhiều người thương, đến nhà thật ra cũng chẳng thiếu cái gì, ông Tây này mua cho cái tủ lạnh ông Việt Kiều này mua cho cái ti vi bóng đèn hình. Nếu thiếu chắc chỉ thiếu tương lai. Tôi đi xin cho nó cái học bổng tiếng Anh. Anh Sơn ngồi bàn luận với tôi cẩn thận xem làm thế nào để đưa nó từ quận 2 sang trung tâm mà đi học, bây giờ mua cho nó xe đạp hay là cho nó đi Grab. Ah đấy sống trong xã hội bây giờ không chỉ cần TV tủ lạnh mà còn cần quan hệ với đại gia.
Chuyện của anh Cường có thể tôi sẽ kể lại trong ngày 21/6 này về những người "làm báo" đang cơn nguy khó. Bây giờ chỉ hy vọng con bé học tốt sau này có một vận mệnh khác. Có thể ngủ với chồng thường xuyên cũng là một loại vận mệnh.

Hoàng Đinh Đức

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thị trường ngách
Em học toán giỏi lắm hả?
- Dạ hông.
- Ủa vậy sao thi chuyên toán?
- Tại em muốn làm thằng giỏi văn nhất lớp chuyên toán.
‪#‎Ảnh‬: Humans of TĐN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



#19

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 09:05

Lời cụ bà sống sót sau vụ Mĩ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima trong dịp Obama viếng thăm tp này.
- Chúng ta ko cần TT Mĩ xin lỗi. Việc đó đã xảy ra. Ko ai có thể thay đổi điều đó nữa. Đó là lịch sử. TT Mĩ đến đây chứng kiến tận mắt thảm hoạ do bom nguyên tử gây ra. Thế là đủ.
Thật đáng kính trọng. Cả 2 bên.
PS
Trong ww2 Nhật bất ngờ tấn công Mĩ khi chưa tuyên bố chiến tranh v Mĩ. Rất khó để Mĩ xin lỗi.
Theo tính toán của các nhà quân sự - nếu Mĩ ko ném bom ng tử, Nhật sẽ chống cự đến cùng và tổn thất sinh mạng cả 2 bên sẽ khoảng 2 triệu. Ném bom thì chết 250 ngàn.
Thảm hoạ từ trên trời rơi xuống.
Chiến tranh là chiến tranh.
MC

Thanked by 2 Members:

#20

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 09:21

Why Obama
Ng dân vn yêu mên ông Obama ko chỉ vì ông ta đẹp trai, nói hay, bình dị mà vì ông ta đại diện cho nước Mĩ. Hiện thân của tư tưởng Bình đẳng-Tự do- Dân chủ. 1 ví dụ sinh động cho Giấc mơ Mĩ, cơ hội phát triển cho mỗi người.
Trước 1776 châu Mĩ là thuộc địa của Anh, Pháp, Tây ban nha...Ngày 4-7-1776, 13 nước thuộc địa của Anh liên kết lại thành lập Liên bang Mĩ - và tuyên bố độc lập khỏi Anh. Bản TNĐL của Mĩ chính là nguồn cảm hứng để H.. viết TNĐL của Việt nam Dân chủ Cộng hoà, 2-9-1945.
Sau đó Mĩ phải tiến hành 1 cuộc chiến tranh giải phóng chống lại Đế quốc Anh, và họ đã chiến thắng. Lúc này chính quyền Liên bang rất yếu. Các bang của Mĩ rất khác nhau về quy mô dân số, kinh tế.
Nhiều người Mĩ không thích Chính phủ liên bang. Ngộ nhỡ lại nảy nòi ra một chế độ độc tài chuyên chế thì sao? Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa. Cách mạng thành công cốc.
Để tránh tình trạng chia rẽ và nguy cơ tan vỡ Liên bang, các nhà cách mạng Mĩ phải đưa ra nguyên tắc để thành lập một Chính quyền liên bang đủ mạnh có thể thống nhất đất nước nhưng vẫn đảm bảo quyền tự do nhất định cho các bang.
Trên tinh thần đó Hiến pháp Mĩ được soạn thảo năm 1787, nhưng phần lớn các bang ko đồng ý vì HP chỉ quy định quyền của Quốc hội, Tổng thống và Toà án. Không đả động đến quyền của từng con người. Đại biểu nhiều bang đề nghị và 13-9-1788 Quốc hội Mĩ đã thông qua HP cùng với 10 điều bổ xung đầu tiên, gọi chung là Bill Of Rights - Quyền con người.
Các điều này chủ yếu nhằm bảo vệ quyền của mỗi NGƯỜI riêng lẻ nhằm tránh sự áp đặt của số đông đối v thiểu số. Tư tưởng quyền con người của cách mạng Mĩ đặt nền móng cho Tuyên ngôn Nhân quyền của cách mạng Pháp, 1789.
Trong Quyền con người đặc biệt quan trọng là điều 1 và điều 5:
. Điều 1: Quốc hội không được ban hành bất cứ đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cản tự do tôn giáo, hay tước đoạt tự do ngôn luận, báo chí; tước đoạt quyền của dân chúng được hội họp và yêu cầu chính quyền sửa chữa những điều sai trái.
. Điều 5: Không ai bị kết tội chừng nào chưa có cáo trạng của 1 Đại bồi thẩm đoàn. Không ai bị kết án hai lần về cùng một tội; không ai bị ép buộc phải làm chứng chống lại bản thân mình trong một vụ án và bị tước đoạt sinh mạng, tự do hoặc tài sản nếu không qua một quá trình xét xử đúng luật; không một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng vào việc công mà không được bồi thường thích đáng.
Người Mĩ đã đưa những điều nay vào HP của mình, một văn bản được coi là vĩ đại nhất mà con người đã viết ra từ trước tới nay.
Tư tưởng này trở thành cơ sở Luật pháp cho hầu hết các nước, trong đó có VN và ông Obama đã khéo léo nhắc tới trong bài nói của mình.
MC









Bàn ăn của 2 diễn viên chính được đánh dấu bằng vạch đỏ bên dưới để các diễn viên quần chúng ko ngồi lộn chỗ.
Quần chúng diễn rất giỏi. Ngồi ăn cạnh TT Mĩ mà như cạnh ô xe ôm. Chả đoái hoài gì.
PS để đũa song song v ngực là cách của ng Nhật và TT. Ng TQ và VN đặt đũa vuông góc v thân ng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



MC

Tổng thống Mĩ
Re by the case
Các TT Mĩ đều có tài diễn thuyết và nhiều tài lẻ.
Bill Clinton chơi Saxophone rất hay, đánh golf giỏi - hdc 2, hơn đứt bất cứ golfer VN nào. Trên chuyên cơ bg cũng có chiếc kèn sax của TT. Khi nào nàng Hillary nặng nhẹ thì chàng chơi Love Story. Bill xuất thân con nhà nghèo. Hillary ko bg giận Bill vì thói trăng hoa. Chạy mỏi chân thì về với em.
George Bush chơi baseball giỏi. Có lần họp báo ở Iraq, 1 pv đã rút giày ném liền 2 chiếc vào mặt Bush. Khá bất ngờ. TT không hề chớp mắt, ngồi yên tại chỗ, bình tĩnh ngiêng đầu tránh cả 2 cái giầy.
Sau đó nói v mấy tay vệ sỹ - Tốc độ thua xa bóng chày. Tớ nhìn thấy số giày là 42. Hãy nhẹ tay với anh bạn nhà báo nhé.
Barack Obama chơi bóng rổ tuyệt vời. Có lần đến thăm 1 trường tiểu học. Ban giám hiệu mời ô ra sân bóng rổ. TT hỏi mọi ng có muốn xem tài ném rổ của TT không? Có. Ng ta đưa bóng. TT ném liền 7-8 cú từ cự li 6m. Vào rổ tất. Hoàn toàn ko dễ ngay cả với cầu thủ nhà nghề. Khi pv hỏi - TT giỏi môn gì? Obama nói - tôi chỉ giỏi môn tranh cử TT Mĩ, lần nào cũng thắng. Thế mới tài.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 2 Members:

#21

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 09:36

Sự trớ trêu của LS
Ít ng để ý rằng Mĩ và Pháp, 2 cựu thù của VN, mới là quê hương của cách mạng.
Xưa Mỹ bị Anh cai trị. Ấm ức lắm. Bèn làm cách mạng giải phóng dân tộc. 1776 họ kể tội vua Anh nọ kia rồi tuyên bố độc lập khỏi đế quốc Anh. Thành lập nên Liên bang Mĩ ngày nay - USA.
Anh mất đất sôi tiết mang quân sang đàn áp. Mĩ rêu rao cấm vận, ko buôn bán v Anh và mở cửa tự do thương mại với tất cả các nước còn lại.
Pháp vốn ghét Anh, cho quân sang giúp Mĩ đánh Anh, cũng nhằm chiếm lại các thuộc địa đã mất vào tay Anh, đúc tượng Thần Tự do tặng Mĩ để trêu ngươi Anh.
Sau Mĩ lại cử chuyên gia làm cách mạng - Jefferson, 1 linh hồn của cách mạng Mĩ, người viết tuyên ngôn độc lập bất hủ của Mĩ, sang giúp dân Pháp làm cách mạng lật đổ chế độ phong kiến, phá ngục Bastille, chặt đầu vua Louis 16. Jefferson đã đưa tư tưởng Quyền con người của Hiến pháp Mĩ 1788 vào Tuyên ngôn nhân quyền của cách mạng Pháp 1789.
Đây là 2 cuộc cách mạng vĩ đại: giải phóng thuộc địa, xoá bỏ chế độ phong kiến và xây dựng nên chế độ Dân chủ Cộng hoà mẫu mực đầu tiên trên TG.
Tiếc là 2 bậc cách mạng tiền bối này sau ko thu nhập đệ tử mà lại bị bậc cách mạng hậu sinh uýnh cho te tua.


An American Tragedy
R by D
Theodore Dreiser có tác phẩm bất hủ "Một bi kịch nước Mĩ".
Ngoài giá trị văn học thì cốt truyện là một điển hình để các giáo sư làm đề tài thảo luận cho sinh viên luật.
Chuyện thế này
Anh thanh niên nghèo Clyde có tham vọng trở nên giàu có và ngoi lên tầng lớp thượng lưu. Clyde có quan hệ tình ái với cô công nhân nghèo dưới quyền quản lí của mình, Roberta, và cô mang bầu với anh. Roberta tin tưởng Clyde sẽ cưới mình.
Khi thấy có cơ hội lấy Sondra, con gái ông chủ và đổi đời. Clyde lên kế hoạch giết Roberta.
Clyde rủ Roberta đi chơi xa, đến nhà nghỉ ven hồ. Dùng tên giả thuê phòng, thuê thuyền và đưa Roberta ra hồ. Khi đến giữa hồ thì Clyde để Roberta ngồi một đầu thuyền, lùi lại đầu kia nói là để chụp ảnh, âm mưu làm đắm thuyền và bơi vào bờ bỏ mặc Roberta chết đuối.
Roberta phát hiện ra âm mưu của Clyde, quỳ xuống xin Clyde đừng giết cô và đứa con của 2 người. Clyde đổi ý, 2 người lao đến ôm nhau. Thuyền bị lật và Clyde bơi vào bờ. Roberta chết đuối.
Clyde bị xử về tội giết người. Mọi bằng chứng đều cho thấy Clyde chuẩn bị để giết Roberta. Clyde cũng thừa nhận lập mưu giết Roberta, nhưng phút trót đã đổi ý. Thuyền lật ngoài mong muốn. Đây là tai nạn.
Thực sự đây là một tai nạn. Nếu thay vì Roberta là một người bạn trai Robert nào đó của Clyde, 2 người bạn đi chơi thuyền, chẳng may thuyền lật, 1 người ko biết bơi bị chết và một ng biết bơi thoát chết, thì chẳng ai kết tội Clyde.
Nhưng bồi thẩm đoàn cho rằng Clyde có tội. Toà xử Clyde tội chết. Lên ghế điện.
"Một bi kịch nước Mĩ" được Dreiser viết dựa trên 1 vụ án có thật.
Khi thảo luận "án lệ" này Giáo sư sẽ hỏi
- nếu bạn là bồi thẩm trong vụ án này, bạn có cho rằng Clyde phạm tội?

MC

Xếp hàng
Sân bay JFK. Chek in xong, thèm hút thuốc mà thuốc lại hết. Tôi chạy ra quầy bán hàng. May quá có thuốc lá.
Lấy 1 bao thuốc, 1 cái bật lửa và xếp hàng trả tiền.
Đứng trước tôi là 1 cụ già. Cụ mua cái bưu thiếp để gửi cho cụ bà ở quê nhà Stokhom.
Cô bán hàng da trắng, tóc vàng khè, mắt xanh lè, mặc áo hở 45% diện tích ngực. Xinh cực.
Ko biết vì quá yêu cụ bà hay tại cô bán hàng hở ngực mà cụ ông tư vấn rất lâu vơi cô.
Rằng vợ t*o 82 tuổi nhưng đi đâu cũng theo t*o, lần này để t*o đi 1 mình. Đến đâu t*o cũng mua bưu thiếp gửi về cho bà ấy để nói – I love you. Mày khuyên t*o nên chọn bưu thiếp nào? Cảnh thành phố hay là hoa hồng?
Cô bán hàng nhiệt tình tư vấn. Cụ chọn 1 cái bưu thiếp và mượn bút viết cho vợ.
Lúc sau cụ hỏi – đây là sân bay nào? Sân bay New York. My god. Tôi lại nhầm là sân bay Chicago. Thôi đẻ tôi lấy bưu thiếp khác và viết lại.
Sốt ruột quá, tôi chen lên bảo cô bán hàng
- Juliette xinh đẹp. Anh chỉ mua 1 bao thuốc và bật lửa. Anh chuẩn bị sẵn tiền mặt đây. Em ko phải trả lại tiền thừa. Làm ơn thu tiền hộ. Anh chỉ có 10 phút để hút 1 điếu trước khi mb cất cánh. 12 tiếng đồng hồ tới ko được hút.
- Romeo. Chàng o thấy em đang phải phục vụ khách hàng à? Chịu khó đợi đi. Mà ko hút càng tốt.
Ko thể biết ô cụ sẽ chọn bưu thiếp nào và liệu có viết nhầm tên bà hàng xóm thành tên vợ ko.
Tôi đành lên mb mà ko kịp hút thuốc.
Văn minh đến thế là cùng.

MC

Thanked by 1 Member:

#22

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 09:47

VÌ SAO KHÔNG THỂ HUY ĐỘNG VÀNG TRONG QUAN?
[Đọc được tin trên tờ Lao Động, rằng Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam (VGTA) kiến nghị Thủ tướng chính phủ và Ngân hàng nhà nước huy động số "vàng nhàn rỗi" đang nằm trong két sắt của người dân. Vàng người ta cất giấu để phòng thân hẳn là sự bí mật, nhưng chẳng hiểu do đâu mà VGTA lại thống kê được là 500 tấn, hay đây là chỉ tiêu do họ tự đề ra phải "huy động" cho bằng được con số ấy?
Một số quốc gia đã thông báo ngừng cấp hoặc cắt giảm vốn ODA cho Việt Nam kể từ năm nay, 2016. Nguồn hỗ trợ ODA trung bình mỗi năm rót cho Việt Nam 3,5 tỷ đô-la, cũng đáng kể là sự tiếp máu cần thiết để giúp cho một cương thi động đậy. Nay họ cắt hỗ trợ, không còn được bên ngoài truyền dịch cho thì ta đành phải quay về nhai vú mẹ âu cũng là điều dễ hiểu: 500 tấn vàng tương đương hơn chục tỷ đô-la, bằng cả 3 năm tiền hỗ trợ ODA, quả là khoản béo bổ cho đứa con mãi không chịu lớn, hơn 70 năm vẫn chưa thôi cơn khát sữa, he he! Nhưng sự bỉ ổi vô lương của tổ chức khủng bố Việt Tân là chúng đã nhân dịp này đặt ra nghi vấn hỗn hào xấc xược là tại sao lại huy động vàng trong dân mà không huy động vàng trong quan?
Để đập tan luận điệu xuyên tạc của bè lũ phản dân hại nước Việt Tân, tôi xin đăng lại bài từ năm ngoái về một bài học đau đớn trong lịch sử, khi Minh triều huy động vàng trong quan, kính trình hải nội hải ngoại chư quân tử cùng thẩm xét].
(NGÀY TÀN CỦA TRIỀU MINH)
Triều Minh mạt, thế của Sấm tặc Lý Tự Thành nổi lên như bão dữ, Sùng Trinh phái bao nhiêu quân đi dẹp cũng không đủ, ông tướng nào nhận phủ việt tiết mao cũng thề tận trung báo quốc, nhưng vừa ra khỏi thành là thảy đều hàng giặc, lần lượt những đoàn quân triều đình đều tan biến, mà thanh thế của Sấm cứ ngày càng thêm lớn.
Ấy chẳng phải vì Sấm có tài bách thắng (bằng cớ là sau này, Ngô Tam Quế chỉ đánh một trận là lấy được Bắc Kinh, đuổi Sấm chạy trối chết), vấn đề của binh lính nhà Minh lúc bấy giờ là tiền lương. Bọn thượng cấp đốn mạt đã hối lạm vào quân lương, khiến binh sĩ thường phải chịu cảnh nhiều tháng trường đánh giặc chùa, không được xu teng lương bổng, nên hễ có dịp ra trận là họ liền đầu hàng, hoặc đào ngũ thoát lấy thân, chẳng lý tưởng quang vinh nào cầm chân họ lại trong quân ngũ nổi.
Đó là những ngày cuối cùng của Sùng Trình hoàng đế Chu Do Kiểm, vị vua cuối cùng của triều Minh. Năm 1643, Sấm tặc xưng đế, sắp đánh vào kinh thành đến nơi. Lúc này quỹ bảo hiểm xã hội đã đổ vỡ, sổ hưu kể như không còn, triều đình mạnh ai nấy lo thủ phận mình, bá quan văn võ quên mẹ lý tưởng trung quân bá đạo ái quốc tào lao. Kiểm tỏ ý muốn ra quân chơi một trận cuối cùng để bảo vệ ngai vàng, nhưng khi mang chuyện ra thương nghị thì bá quan thảy đều im thinh thít, khiến ngôi cửu trùng không khỏi tủi thân lã chã hai hàng lụy nhỏ.
May thay, chợt có viên đề đốc tên Dương Hạo bước ra xung phong xin cầm quân chận giặc, Kiểm mừng quýnh, vội vời Hạo vào cung cùng bàn việc lớn.
Kiểm hỏi cần bao nhiêu quân mới có thể dẹp yên giặc Sấm, Hạo giơ lên ba ngón tay, Kiểm nhảy nhổm la làng:
– Ngươi điên rồi, đương lúc này lấy đâu ra quân ba trăm vạn?
Hạo lắc đầu, tỏ ý không phải ba trăm vạn. Kiểm thoáng ngần ngại:
– Quân của giặc Sấm hiện đã lên đến sáu bảy trăm vạn, ngươi chỉ bằng ba mươi vạn, liệu đương cự nổi chăng?
Hạo lại lắc đầu. Kiểm tái xám mặt mày, rên lên áo não:
– Nhà ngươi điên rồi, nếu chỉ ba vạn quân thì làm sao uýnh giặc!
Dương Hạo lúc bấy giờ mới lên tiếng:
– Tâu bệ hạ, quân lấy đâu ra ba vạn? Ý hạ thần là chỉ ba ngàn thôi!
Kiểm suýt ngất, lắp bắp:
– Giờ này là giờ nào mà ngươi còn ở đó đùa cợt trẫm?
– Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo. Tuy chỉ ba ngàn, nhưng đó sẽ là quân quyết tử cho bệ hạ quyết sinh, nên một người có thể cự trăm người, ngàn người; chỉ cần bệ hạ chịu cấp đủ quân lương cho chúng là giặc kia phải tan.
Sùng Trinh do dự:
– Vậy ngươi cần bao nhiêu chi phí quân lương?
– Một trăm vạn (tức một triệu) lạng.
Nhà vua nhảy tưng tưng như bị nước sôi đổ háng:
– Ba ngàn quân mà lương những trăm vạn, ngươi cắt cổ ta đi, trời ơi!
– Bệ hạ không biết đó thôi, cần phải có lương cao thì người ta mới dám liều chết vì chế độ chứ!
Vua đành chịu phép, hứa với Hạo sẽ cố vét cho ra khoản ấy.
Sau khi cho Dương Hạo lui, Sùng Trinh suy tính, lúc này chỉ có thể dựa vào hoàng thân quốc thích mà thôi, bởi lẽ đơn giản: chế độ mà diệt vong thì gia sản bọn vương tôn cán bộ tất cũng chẳng còn. Vua liền hạ chiếu cho quốc cữu Điền Thích Uyển, là cha của Điền phi - nàng quý phi được vua sủng ái nhất - lệnh cho quốc cữu phải đứng ra quyên góp trong hoàng thân quốc thích, sao cho đủ số trăm vạn lạng bạc để triều đình hưng binh phục quốc.
Điền quốc cữu đọc chiếu, đấm ngực kêu trời: đang lúc tàn mạt này, ai người chịu bỏ tiền ra đầu tư vô cửa tử đây? Song lệnh vua không dám cãi, cữu đành bấm bụng nôn ra bảy ngàn lạng, rồi huy động bá quan ủng hộ thêm được ba ngàn lạng, xong lại chuyển giao chiếu chỉ cho hoàng hậu là Chu thị đặng "hỏi ý", cốt đẩy việc khó cho đàn bà.
Chu hậu nghe qua sự việc, bèn gom góp tư trang của mình và các quý phi cung nữ, lại cắt bớt chi tiêu trong hậu cung, mót được một vạn lạng đưa sang cho Uyển, nhắn nhủ quốc cữu ngài nên lấy xã tắc giang san làm trọng.
Lúc này, nhìn thấy mớ trang sức của hoàng hậu lóng la lóng lánh đưa sang đầy mâm, máu tham của quốc cữu bỗng nổi lên ngạo nghễ vô cương, ngài không khỏi thèm thuồng, bèn xén bớt năm ngàn lạng trong số ấy, chỉ mang đến dâng vua vạn rưỡi bạc, và bảo rằng mình cùng bá quan đã tận lực tới mức khánh kiệt cả gia tài được có nhiêu thôi. Vua nhận số bạc lẻ mà khóc không thành tiếng.
Kiểm khóc một hồi, nhìn lại vạn rưỡi bạc kia lại bỗng thấy rạo rực vì xót của, không đành lòng đưa hết cho Dương Hạo. Vua vốn dĩ vẫn biết Hạo chỉ là đứa nói láo để moi tiền, nhưng thế nước ngàn cân treo sợi tóc, được chút hy vọng mong manh hư cấu cũng phải ráng tin là tới ngày tàn vẫn còn có 3.000 chiến binh sẵn sàng liều mạng cho mình vậy. Việc quân vốn việc trọng, nhưng việc tiền bạc càng phải trọng hơn, Sùng Trinh ém lại luôn vạn ba, chỉ giao cho Hạo 2.000 lạng bạc để tuyển quân. Bạc giao xong rồi, vua cảm thấy lương tâm cắn rứt, nên ban thêm cho Dương tướng quân hai bình ngự tửu loại thượng hảo hạng uống cho bổ gan.
Nói về Dương Hạo, trót đã ra giá đến trăm vạn lạng, chừng chuyển khoản thấy chỉ hai ngàn thì cũng vui mừng lạy tạ mà nhận lấy. Còn việc ra quân "đấu tranh đây là trận cuối cùng" thì thôi, khỏi kể tới nữa ha!
Vài ngày sau, quân Sấm tặc đại phá Bắc Kinh, Sùng Trinh quốc phá thân vong phải quăng giải lụa lên cành cây, cái cổ nhà vua được dịp cân đo trọng lượng cái mông mình được nhiêu ký!
* * * * * * *
Chuyện đến đây tưởng đã đủ để thấy sự hủ bại của thời Minh mạt, vậy mà vẫn còn đoạn vỹ thanh khiến hậu thế phải bàng hoàng. Đó là sau này, khi Lý Tự Thành chiếm được Bắc Kinh, bèn bóp cổ bọn quan lại cựu thần triều Minh, bắt phải ói hàng, thì nội chưa đầy 10 ngày đã được 7.000 vạn (tức 70.000.000) lạng bạc, trong số đó, có 560 vạn lạng là ở “nội noa” – kho riêng của Sùng Trinh hoàng đế. Số tiền đó có thể nuôi nổi 30 vạn quân, đủ để giữ vững thành Bắc Kinh trong hơn hai tháng nữa để chờ viện binh!
_______
[Trở lại thảo luận với bọn Việt Tân: Bọn bây thấy chưa, việc huy động vàng trong quan là chuyện nói mơ. Tuy lượng vàng ấy phải nhiều hơn số lượng vàng trong dân ít ra cũng gấp 3 lần, nhưng tuyệt đối không thể huy động, bởi lẽ:
- Thằng quan thì nằm chung chăn, nên khó dụ hơn thằng dân;
- Và quan trọng nữa, là thanh danh của chế độ: niên bổng quan lại triều Minh chỉ có 70, 80 đến 150 lạng hàng năm, giờ bảo họ tự dưng lòi ra mỗi đứa vài vạn lạng để cứu nước thì hóa ra tự tố cáo triều đình lâu nay toàn dung chứa một lũ tham quan hũ bại đục khoét ngân khố, chấm mút ODA à, lẽ nào lại thế!]


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



VHL

Thanked by 2 Members:

#23

CaspianPrince



 

    Pro Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1596 Bài viết:
  • 2054 thanks
  • LocationCaspian Sea

 

Gửi vào 29/05/2016 - 10:55

Thumb Up cho Luciferlady.

Thanked by 1 Member:

#24

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 11:14

cám ơn bác CaspianPrince, con tự đọc lại thấy bài post cũng hay mờ sao ế quá. Nhưng mà quen rồi. Như mọi khi có người ủng hộ thì haha, mà đang rầu vụ báo Tuổi trẻ có trong list đen nên k vui tí nào... huhu

#25

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 11:25

BÀI DIỄN VĂN VỀ "XÂY DỰNG QUAN ĐIỂM LÃNH ĐẠO" CỦA LUẬT SƯ NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997) là tên tuổi khả kính, một nhân vật kiệt xuất mà Việt Nam may mắn có được.
Một đời ông đấu tranh không khoan nhượng với những sai lầm của tư tưởng phản động.
Tôi không xứng tầm, cũng không đủ khả năng để nhận xét, đánh giá Nguyễn Mạnh Tường; chỉ xin trích một đoạn trong bài diễn thuyết của ông hồi 60 năm trước.
Ngày 30/10/1956, tại Hà Nội, trong hội nghị của Mặt Trận Tổ Quốc về những sai lầm của đảng Lao động Việt Nam trong Cải cách ruộng đất, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã ứng khẩu diễn thuyết trong 6 tiếng đồng hồ. Bài chính luận sâu sắc sáng ngời chính khí này sau đó được Trường Chinh, Xuân Thủy và Dương Bạch Mai đề nghị ông ghi lại, và ông đã viết thành bài "Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo". Sau đây là phần phân tích các nguyên nhân sai lầm của Cải cách Ruộng đất ngoài Bắc do đảng phát động, trích từ bài diễn thuyết chấn động miền Bắc đương thời ấy.
_______
QUA NHỮNG SAI LẦM TRONG CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT, XÂY DỰNG QUAN ĐIỂM LÃNH ĐẠO
CÁC NGUYÊN NHÂN SAI LẦM:
Theo như tôi nhận định, với chủ quan của tôi, các nguyên nhân sai lầm, thuộc hai loại, có loại trực tiếp, nhưng nếu ta phân tích loại này thì ta sẽ đi tới một loại thứ hai, mà theo tôi là những nguyên nhân chính, ta cần chú ý.
Các nguyên nhân trực tiếp ta trông thấy ngay: sở dĩ mà khi nghiên cứu chính sách cải cách, ta không nghĩ đến giải pháp pháp lý đưa ra để điều hòa với giải pháp chính trị, phải chăng vì ta không biết giải pháp pháp lý? Nếu không thì là một sự thiếu sót nghiêm trọng của các cấp lãnh đạo. Nhưng tôi tin rằng không phải như thế đâu. Sở dĩ ta không để ý đến giải pháp pháp lý là vì có 3 lý do:
1- Quan điểm ta, địch, bạn, thù của ta rất mơ hồ;
2- Ta bất chấp pháp luật, lấy chính trị lấn áp pháp lý;
3- Ta bất chấp chuyên môn.
1. QUAN ĐIỂM TA-ĐỊCH, BẠN-THÙ MƠ HỒ:
Các hiện tượng trên trường quốc tế và trong nước rất nhiều và rõ rệt.
Trên trường quốc tế, trong các nước dân chủ của ta thôi, ta thấy những điều làm ta suy nghĩ. Ta thấy chẳng hạn những người suốt đời hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, giữ những trọng trách trong chính thể cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa. Rồi ít lâu sau, ta lại thấy các người ấy được khôi phục công quyền, đảng tịch, cương vị. Người nào bị kết án tử hình rồi thì được an táng lại ở các đài kỷ niệm các liệt sĩ mà tổ quốc ghi tên muôn đời.
Trong nước ta, qua cuộc Cải cách ruộng đất, ta thấy bao nhiêu chiến sĩ cách mạng thành tích lừng lẫy, có người ngực gắn tới hai Huy chương Kháng chiến (ở ngoại thành Hà Nội) bị kết án là phản động, cường hào, gian ác; và sau khi nhận tội, bị tống giam hay là bị hành hình. Ấy là không nói đến các người trong quần chúng bị hy sinh oan, đối với các nạn nhân này, ta có thể có một phần nào hiểu các sai lầm đã phạm vì họ thiếu hay không có thành tích cách mạng hay kháng chiến. Nhưng đối với các đảng viên ưu tú, tinh hoa của dân tộc, lúc bị xử trí như ta đã biết, thì ta tự hỏi trong đầu óc của những người xét xử, họ có cái gì mà ta gọi là lý tính không? Ngay một thường dân không phải là một nhà chính trị hay văn hóa, chỉ sử dụng các lẽ phải của mình thôi, cũng không thể nào hòa hợp người xấu với kẻ tốt như vậy được.
Ta phải đặt vấn đề rằng cán bộ từ trên xuống dưới, tham gia Cải cách ruộng đất, không phải là người điên cuồng, cũng không phải là người chủ mưu, dụng tâm phá hoại. Nếu như thế thì ta sẽ gởi họ đến bác sĩ chuyên môn chữa bịnh thần kinh, hay đến các vị công tố viên của các tòa án. Nhưng không phải như thế, ta tin như vậy. Do đó kết luận mà ta tiến tới, dù muốn hay không, là các cán bộ ấy có một quan điểm rất mơ hồ về ta, thù, bạn, địch. Còn gì đau đớn hơn là câu ta được nghe “Ta đánh cả ta nữa”. Nếu như vậy, thì ta phải nhận rằng ta không phân biệt được bạn và thù. Ta đọc lại các bài gần đây đăng trong báo Nhân Dân của các đồng chí bị xử trí oan; hoặc các đồng chí ấy nói, hoặc không nói, nhưng ai cũng đều hiểu các đồng chí ấy nghi ngờ những người đã kết án các đồng chí không phân biệt được bạn và thù. Vì vậy nên đánh cả bạn, giết cả bạn.
Tôi thấy đây là một điều cực kỳ quan trọng. Nguyên do ở đâu? Phải chăng ở một tinh thần cảnh giác quá cao đến đỗi mù quáng; ở một tả khuynh mà ta thường mắc trong giai đoạn ấu trĩ của cách mạng? Đây không phải là nơi và lúc ta mà ta cần phân tích sâu sắc điều ấy. Chủ yếu là ta nhận thấy rằng một nguyên nhân sai lầm là ở trong quan điểm thù bạn rất mơ hồ. Nếu ta không kịp thời sửa chữa sai lầm, xây dựng lại quan điểm thù-bạn, một ngày kia ta lại phải khóc lên trên kỷ niệm của các vị có công nhất với cách mạng, với nhân dân. Ta cương quyết không thể nào để tình trạng ấy tái diễn ra được.
2. BẤT CHẤP PHÁP LUẬT:
Giáo sư Ba Lan, Mahelli nói chuyện ở Bộ Tư pháp cho ta biết rằng bên Ba Lan, khi cách mạng thành công, các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Họ quan niệm rằng họ đủ tài năng để đảm nhận các cương vị lãnh đạo trong ngành tư pháp, để bó buộc tư pháp phục vụ triệt để chính trị, mà không đếm xỉa đến các nguyên tắc căn bản của pháp lý. Kết quả là chẳng bao lâu, bộ máy tư pháp xộc xệch, không những không củng cố được chính thể cách mạng; ngược lại tác hại quá nhiều, gây bao nhiêu khó khăn cho chính quyền cách mạng. Sai lầm ấy uốn nắn kịp thời: hoàn cảnh khách quan đã dạy một bài học cho chủ quan các nhà chính trị. Sau đó phải trả lại cho tư pháp tính chất biệt lập của nó và các nhà chính trị, để lãnh đạo chuyên môn lập trường học tập, trước non hai năm, sau 5 năm để qua pháp lý, phục vụ chính trị cách mạng.
Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên. Trong giai đoạn đầu tiên, chính trị say sưa với các thắng lợi đã thu được và dĩ nhiên, các thắng lợi ấy vĩ đại – lâm vào tình trạng tự mãn và bao biện. Nhưng quản trị một nước, đặc biệt là một nước đang xây dựng chính quyền cách mạng, nghĩa là một cái gì vô cùng mới mẻ và khó khăn – không giống như là đề ra đường lối và khẩu hiệu tranh đấu cách mạng và vận động quần chúng làm cách mạng.
Hai khu vực hoạt động ấy, tuy quan hệ mật thiết với nhau, nhưng mỗi ngành hoạt động có kỹ thuật và quy luật riêng của nó. Lúc nhà chính trị bao biện bất chấp hoàn cảnh khách quan kinh nghiệm xương máu của lịch sử, thì chẳng sớm thì muộn ta thấy diễn ra những tai hại hiện thời làm chúng ta đau xót. Trên con đường bao biện và tự mãn ấy, các nhà chính trị đã bị thúc đẩy bởi những thành kiến đối với pháp lý. Và tin rằng pháp lý là cái gậy chỉ dùng để chọc bánh xe, không hiểu rằng trái lại, pháp lý, chính giúp xe khỏi lật, khỏi gây tai nạn. Nguy hại hơn là chính trị đặt mình lên trên pháp luật. Ngay trong trường hợp chính trị sau khi đặt mình lên pháp luật, giữ vững thái độ chân chính, cũng gây ra bao khó khăn rồi. Pháp luật chủ yếu đề ra những cái gì có thể làm được, cái gì không được phép làm, do đó nhân dân vững tâm biết rõ đường mà đi. Nhưng tâm hồn quần chúng chỉ được ổn định khi nào quần chúng biết rõ rằng cái gì bó buộc mình cũng đồng thời bó buộc nhà cầm quyền, [nếu không] thì nhà cầm quyền mỗi lúc có thể vẽ ra các đường mới mà quần chúng chưa từng biết. Vì vậy quần chúng hoang mang: cái gì hôm qua làm được, thì ngày mai với sự độc đoán của nhà cầm quyền, có thể bị coi là phi pháp. Hoang mang ấy lên tới cực độ khi tác dụng của sự thay đổi thái độ này của nhà cầm quyền không những chỉ ảnh hưởng tới tương lai mà lại ảnh hưởng cả về quá khứ nữa. Đó là trường hợp nhà cầm quyền lúc tự đặt mình lên trên pháp luật, giữ thái độ chân chính đúng mức; huống hồ là khi nhà cầm quyền sử dụng quyền thế của mình một cách lộng quyền, như ông Trường Chinh đã nhận định. Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp: đó chỉ là một giải pháp chính trị mà thôi. Nếu mà các người sử dụng quyền ấy lại không sử dụng đúng với tinh thần của chính sách, của lãnh đạo, sử dụng một cách lộng quyền thì kết quả thế nào, hiện thời ta đã trông thấy rõ.
3. BẤT CHẤP CHUYÊN MÔN:
Các nhà chính trị bất chấp pháp luật. Nhưng nếu các vị ấy tranh thủ ý kiến của các nhà chuyên môn (đây là những luật gia) và cho phép các nhà chuyên môn đề đạt ý kiến, thì các nhà chuyên môn cũng sẽ yêu cầu các nhà chính trị chú ý đến pháp luật, và dùng pháp luật phục vụ cách mạng.
Nhưng tiếc thay trong 10 năm vừa qua, ta thấy một tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ “lập trường” làm ta mất ăn mất ngủ. Nếu được dùng một hình ảnh “duy tâm”, tôi ví lập trường như cái oan hồn theo đuổi ngày đêm kẻ nào đã hãm hại chủ nó. Có một điều lạ là các anh em công nông, các vị lãnh tụ không bao giờ hỏi đến lập trường trong sinh hoạt hàng ngày. Trái lại các cán bộ, đảng viên tiểu tư sản không lo ngại gì bằng sự mất lập trường. Vì vậy để nhớ đến nó, mở miệng ra là nêu lập trường rồi. Đó là tinh thần tự ti của một giai cấp mất khí thế, quên rằng mình đứng trong hàng ngũ cách mạng. Dù sao, ở Việt Nam chúng ta đã xảy ra những việc như sau đây, ta cần ghi nhớ để con cháu ta cười muôn thuở: khi chọn một người vặn lái xe ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi: “Có lập trường không?” Kết quả là “Từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, có hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái xe ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn”. Khi đưa tới bịnh viện, một bịnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: “Bịnh nhân thành phần giai cấp nào?”; chữa cho địa chủ thì “mất lập trường”, để nó chết mới chứng minh mình “có lập trường giai cấp” (hiện tượng do bác sĩ Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra).
Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức chúng ta, làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, chúng ta khước từ cả chân lý, luân lý cho biết rằng chính trị không thể nào thay thế cho chuyên môn, không làm được việc của chuyên môn. Nói như vậy thì ít ra chính trị cũng hỏi ý kiến chuyên môn là phải. Nhưng không, chính trị nghi ngờ chuyên môn, không tin ở chuyên môn. Lúc thì cho rằng chuyên môn do văn hóa và khoa học tư sản đế quốc xây dựng là vô dụng; đó là một sai lầm nghiêm trọng chứng minh rằng các người như vậy chưa đọc Lê Nin. Lúc thì cho rằng các nhà chuyên môn không phải xuất thân ở tầng lớp cơ bản, công hay nông, thì không có đảm bảo, vì thái độ lừng chừng lập trường lỏng lẻo. Dù là 10 năm nay, họ đã bước chân vào đường cách mạng, và chứng minh nhiệt tình của mình đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, kiến thiết quốc gia.
Theo ý tôi, đây là một vấn đề then chốt. Các anh em trí thức kháng chiến thường phàn nàn rằng Đảng Lao động thiếu tín nhiệm họ. Họ đau khổ mà nhận thấy rằng mặc dầu họ đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng bao nhiêu hy sinh, trải qua bao nhiêu gian nguy, đảng vẫn chưa tin ở họ. Nào họ có yêu sách gì quá đâu? Họ có đòi là bộ trưởng hay đại sứ đâu? Không, đại đa số các anh em trí thức nói chung, không mơ ước các cương vị công tác lộng lẫy đâu; họ vui lòng nhường chỗ cho các nhà chính trị, các đảng viên. Họ chỉ thiết tha đòi hỏi được mang khả năng chuyên môn và kinh nghiệm của họ ra phục vụ nhân dân mà thôi. Họ chỉ thiết tha mong muốn được bảo toàn danh dự trí thức của họ, và cái tự do tư tưởng mà họ quan niệm là cần thiết cho nhân phẩm của người trí thức, là vốn quý của dân tộc. Nhưng họ cảm thấy vốn ấy quý giá đến nổi cất nó thật kỹ, giữ gìn nó trong một bán ảnh, một hoàng hôn trường cửu. Nếu ai có cho rằng tôi nói không đúng, tôi cứ đề nghị người ấy quét mắt nhìn chung quanh, ở các cương vị công tác trong chính thể của ta. Có một chỗ nào người trí thức ngoài đảng nắm được thực quyền không? Tác dụng “hiếu hỉ” hay “cười gật” thì có, mà lại có nhiều. Nhưng ngay ở cương vị ấy, ngoài vai trò hiếu hỉ, cười gật, người trí thức có một trách nhiệm gì không? có quyền nói gì, làm gì không? Quần chúng đã biết và miễn tôi trả lời.
Chính trị chèn ép chuyên môn như thế nào, xua đuổi người trí thức ra ngoài con đường cách mạng ra sao; lịch sử kháng chiến đã cho ta kinh nghiệm đau đớn. Năm 1949, phong trào tư pháp Liên khu III tan vỡ vì chính quyền quan niệm tư pháp phải thuộc sự điều khiển của mình. Năm 1951, phong trào quân y, dân y của Liên khu IV sụp đổ vì chính trị đưa vào các bịnh viện, đã đàn áp chuyên môn, thúc đẩy các bác sĩ có công với cách mạng, với kháng chiến, phải gạt nước mắt mà rời bỏ kháng chiến. Đó không phải chủ trương của Đảng Lao động.
Nhưng có một điểm làm ta suy nghĩ: “Sao mãi bây giờ, sau 10 năm, đảng mới nghiên cứu một chính sách cho trí thức?” Điều ấy chứng tỏ rằng từ khi cách mạng thành công, ta chưa đánh đúng giá người trí thức, chưa đặt vấn đề trí thức. Do đó làm thế nào khai thác được tất cả khả năng của người trí thức mang chuyên môn ra phục vụ nhân dân?
Trên đây tôi nói về người trí thức từ chiến khu trở về. Đối với người trí thức vẫn ở trong thủ đô, ta thấy sự thiếu tín nhiệm ấy còn trầm trọng hơn nữa. Bao lần ta nghe tiếng chua cay của các anh em yêu nước, đã khắc phục mọi lo sợ, do tuyên truyền của địch gây ra, và ở lại với chúng ta. Ta để cho cán bộ hộ khẩu xâm phạm đến danh dự của các anh em, ta không tìm cách nào sửa chữa sai lầm ta phạm đối với các anh em. Ở các công sở, tình trạng chèn ép của chính trị đối với chuyên môn đã đưa đến cái danh từ bi đát làm cho ta đau lòng: “họ Lưu, họ Kháng”. Không đoàn kết được các anh em, ta lại còn có thái độ úp mở, nhùng nhằng (ta tưởng như vậy là thượng sách); thậm chí ta lại còn nghi ngờ các anh em, ta không tôn trọng lời ta hứa qua Chính sách tiếp quản và Cương lĩnh Mặt trận, ta đẩy anh em xa rời, ta vô tình ném xuống bể tiêu cực cái vốn chuyên môn của các anh em trí thức trong thủ đô.
* * *
Đó là những nguyên nhân trực tiếp. Đào sâu hơn nữa ta thấy rằng sở dĩ có những hiện tượng như ta vừa phân tích trên đây, chẳng qua chỉ vì sự lãnh đạo của ta thiếu dân chủ, xa lìa quần chúng.
Chính thể ta thiếu dân chủ như thế nào, ta đã từng biết. Vai trò của các vị Bộ và Thứ trưởng ngoài đảng như thế nào; các vị đó làm được những gì trong Hội đồng chính phủ, trong các ngành chuyên môn mà các vị ấy phụ trách, ta không nên đi quá sâu. Ta chỉ cần liếc mắt nhìn qua công việc làm của mỗi Bộ, ta chỉ cần nghe tiếng than phiền của các cán bộ, công chức, làm việc trong các Bộ là ta hiểu. Ta cũng biết rằng chủ trương của đảng có lẽ không phải như vậy đâu, nhưng trong thực tế, công tác mỗi anh em ta tiếp xúc với các vị Bộ hay Thứ trưởng ngoài đảng, đều nhận thấy rằng quyền hành của các vị ấy hình như không phải là quan trọng cho lắm. Nhận định như vậy có lẽ ta nhầm đấy. Nhất định ta lầm. Nhưng dù sao cũng có “dư luận”, không ai chối cãi được”. Do đó, nếu chủ trương của đảng không phải như vậy, thì ít ra đảng cũng mang trách nhiệm không làm thế nào để tiêu tan cái dư luận tai hại mà chúng ta thấy tồn tại từ thời kỳ kháng chiến đến giờ. Nhưng cũng có điều chắc chắn không ai chối cãi được, là các vị Bộ hay Thứ trưởng không có trách nhiệm gì trước Quốc hội, trước nhân dân; chỉ có trách nhiệm trước Chính phủ mà thôi. Chưa bao giờ ta thấy vị Bộ trưởng nào bị lật đổ cả. Phải đợi đến các sai lầm đặc biệt nghiêm trọng trong khi cải cách mới thấy hai vị Thứ trưởng phải rút lui khỏi Hội đồng Chính phủ. Các hiện tượng ấy chứng tỏ rằng chính phủ ta chưa thực hiện được dân chủ trong khi lập Hội đồng chính phủ, vì các vị Bộ hay Thứ trưởng đều được cử hay bị truất, ngoài sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp (qua Quốc hội) của quần chúng.
Tình trạng của Quốc hội lại rõ hơn nữa. 10 năm Quốc hội đã thành lập. Các vị đại biểu Quốc hội còn phản ảnh được ý nguyện của quần chúng không, quần chúng có tín nhiệm ở Quốc hội nữa không; đó là một vấn đề. Nhưng dù vấn đề ấy ta giải quyết như thế nào đi nữa, có một điều chắc chắn là một Quốc hội già 10 năm rồi mà vẫn tồn tại ngoài sự can thiệp của quần chúng, ngoài sự lựa chọn của quần chúng, chứng minh rằng quần chúng 10 năm nay đã bị truất quyền cử đại diện của mình rồi. Dĩ nhiên trong thời kỳ kháng chiến, bầu lại Quốc hội là điều không làm được. Và hiện thời Nam-Bắc tạm chia cắt, do đó sự bầu lại toàn thể Quốc hội cũng là khó khăn. Nhưng dù sao riêng ở các miền giải phóng này, nếu ta chú ý đến quyền người dân cử đại biểu của họ, thì nhất định ta phải cho phép người dân bỏ phiếu rồi. Từ khi hòa bình trở lại 2 năm qua, mãi bây giờ trước phong trào quần chúng đòi thực hiện dân chủ, ta mới nghĩ đến quyền bỏ phiếu của người dân, và bổ sung Quốc hội.
Nào thế thôi đâu ? Ngay cái Quốc hội ta đang có hiện thời, ta có thực hiện dân chủ với nó không? Chắc chắn là không. Thỉnh thoảng ta mới họp Quốc hội, và trong các buổi họp đó, ta chỉ thấy chính phủ đưa ra các báo cáo để Quốc hội nghiên cứu, xây dựng, hay các chính sách để Quốc hội tán thành và bổ khuyết. Quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu? Quyền đề ra đường lối, chủ trương trong nội trị, ngoại giao, quyền nêu trách nhiệm của chính mình và các Bộ, quyền lựa chọn các nhân vên trong Hội đồng chính phủ; bấy nhiêu quyền, Quốc hội có được hưởng dụng không? Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi. Còn như các sắc lịnh hay đạo luật thì thường thường, quyền thông qua ấy chỉ thuộc ban thường trực của Quốc hội. Quốc hội là tổ chức cao nhất của quần chúng, đại diện cho quần chúng, thì ta phải khách quan nhận thấy rằng với vai trò vô cùng yếu ớt của Quốc hội hiện thời, quyền dân chủ của quần chúng không được thực hiện.
Nói đến Mặt trận thì tình hình cũng tương tự. Mặt trận hiện thời là tổ chức quần chúng; có lẽ sát tình hình quần chúng nhiều nhất. Nhưng ta có để nó đóng vai trò của nó không?
Không. Tác dụng của nó là động viên quần chúng để tán thành, ủng hộ và thi hành các chính sách. Đứng về phương diện này, nó làm tròn nhiệm vụ của nó. Nó xứng đáng với tín nhiệm của đảng và chính phủ, nhưng hoạt động của nó như thế chỉ có một chiều thôi. Ta chưa khai thác các khả năng của nó. Ta chưa nhận thấy bản chất của nó. Nó có thể là “liên lạc” hai chiều giữa quần chúng và đảng. "Chính phủ một mặt” như nó thường làm, nó động viên quần chúng để thực hiện các chủ trương của đảng và chính phủ. Nhưng mặt khác nó có thể là cơ quan phản ảnh lên đảng và chính phủ các ý kiến, thắc mắc, nguyện vọng của quần chúng, góp phần xây dựng các chính sách, nói lên tiếng nói của quần chúng, cung cấp tài liệu ở quần chúng, tích cực giúp đỡ cấp lãnh đạo tránh khỏi chủ quan, thắt chặt liên lạc giữa các cấp lãnh đạo và quần chúng. Nhưng muốn để cho nó đóng vai trò ấy, ta phải “dân chủ” đối với nó, có nghĩa là phát động tự do tư tưởng của nó để nó mạnh dạn nói lên ý kiến của quần chúng, dù là các ý kiến ấy trái ngược với nhận định của cấp lãnh đạo.
Nhưng từ trước tới nay, ta không làm như vậy, ta thấy khó chịu khi nó thỏ thẻ, chỉ thỏ thẻ thôi – những lời làm ta một phút chốc, tỉnh giấc mộng chủ quan mà ta, trong cấp lãnh đạo đang say sưa. Vì vậy ta chỉ thường cho phép nó, chỉ khuyến khích nó phụ họa ta, tán đồng ta, với thái độ của đứa con khen hay khi mẹ nó hát. Tóm lại ta không dân chủ với nó. Do đó ta hạn chế khả năng của nó, nó không giúp ích gì cho cấp lãnh đạo.
Tác dụng thiếu dân chủ của nó là gì? Là xa rời quần chúng, là giam hãm mình trong ngục thất của chủ quan. Tại sao một chính thể cách mạng lại có thể sai lầm nghiêm trọng như vậy được?
Trước đây, ta không trả lời đuợc. Những người kính yêu cách mạng rất ngạc nhiên khi thấy có kẻ đi tìm tự do, rời bỏ hàng ngũ cách mạng để lánh sang phía tư bản. Ngay trong thủ đô ta hiện thời, qua Đại hội lần thứ III của Mặt trận thành, ta thấy phản ảnh ý muốn của bao nhiêu đồng bào muốn đi Nam. Ta nghĩ đến các đồng bào, trong thời kỳ kháng chiến, gạt nước mắt mà trở về Hà Nội. Nếu chính thể của ta tốt, thì tại sao có người dụng ý xa lánh với nỗi đau khổ bi đát trong lòng? Nếu cách mạng mang lại cho ta ánh sáng và hạnh phúc, sao lại có người lo ngại trước cách mạng, đau đớn vì cách mạng? Các người ấy không thuộc về thành phần kẻ thù của cách mạng; trái lại, thuộc thành phần cơ bản trong nhân dân, như nông dân, công nhân.
Thế thì ở đâu là chân lý? Đó là một vấn đề mà trước đây ta chỉ đặt thôi và không giải quyết được.
Bây giờ, sau Đại hội lần thứ 20 của Đảng cộng sản Liên Xô, sau các cuộc bạo động ở Berlin, Poznan, bên Tiệp, bên Hung, ta hiểu rõ vấn đề, ta giải quyết được nó. Chung quy, mặc dầu cách mạng là tốt đẹp, mang lại hạnh phúc cho dân tộc, sở dĩ có người xa lánh cách mạng chẳng qua là vì chính thể cách mạng mắc trầm trọng bịnh xa lìa quần chúng, thiếu dân chủ, do đó đi ngày càng sâu vào tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, duy trì một thái độ lãnh đạo hẹp hòi, độc đoán, có khi độc tài.
Thái độ một chiều, không muốn, không cho phép ai nói cái gì trái ngược ít nhiều với ý kiến nhận định, thành kiến của mình. Mình tự phụ, tự hào mình có độc quyền tìm thấy và gìn giữ chân lý. Đó là tật tự cao, tự đại của các nhà cách mạng. Ta bay bổng trên trời xanh của ảo tưởng, ta chỉ tin ở ta. Trong tư tưởng ta không khinh quần chúng; nhưng trong hành động, quả thực trong con mắt khách quan nhận thấy rằng ta bất chấp quần chúng. Thậm chí khi ta nghe thấy một tiếng nào từ quần chúng nói lén rằng ta nhầm, ta làm như thế này mới phải, lập tức ta thét ngay: đó là tiếng của địch. Sở dĩ quan điểm bạn thù, ta mơ hồ, và nhìn đâu ta cũng trông thấy địch, chẳng qua là vì ta quá tự phụ, ta sùng bái ta quá đáng mà thôi.
Bây giờ ta biết rõ là nếu bịnh ấy phổ biến trong hàng ngũ cách mạng hiện thời, thì trách nhiệm chính là Staline phải chịu. Vì tự cao, tự đại, tự phụ, tự mãn, Staline không cho phép ai dân chủ với mình, đâu cũng trông thấy địch. Kết quả là thế nào, ta biết khẩu hiệu nêu lên, gọi lên, là “Đề cao cảnh giác”. Và lợi dụng tình thế ấy, ta biết Bêria đã làm những gì, phạm tội như thế nào.
Nếu không có quyết nghị của đại hội lần thứ 20 của Đảng cộng sản Liên Xô, nếu không có sai lầm cực kỳ tai hại trong Cải cách, ta chưa mở mắt được, ta sẽ còn thấy bao nhiêu máu oan chảy thành suối thành sông, bao nhiêu người kính yêu cách mạng mà vẫn đau xót rời bỏ cách mạng. Tuy ta phải trả một giá quá cao nhưng bây giờ ta biết rõ nguyên do của các đau khổ của ta: “Ta thiếu dân chủ”...
NGUYỄN MẠNH TƯỜNG
Hà Nội, 30/10/1956
________
Xin đọc toàn văn bài diễn thuyết này:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



VHL

Thanked by 1 Member:

#26

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 11:36

NAM TƯỚNG HỌC
Thưa quý bạn nữ giới, theo sách tướng Trung Hoa cổ truyền, tướng mạo người đàn ông, muốn đại phú đại quý cần phải hội đủ “11 chỗ đầy đặn”, các bạn nên đặc biệt lưu ý khi định lấy chồng:
1/. Mũi cần phải đầy đặn: đàn ông mà cánh mũi đầy đặn là tướng có tài lộc, khả năng tình dục lại cao, thường không phải lo phiền về cơm áo.
2/. Môi cần phải đầy đặn: đàn ông môi dày là người phúc hậu, lộc thực dồi dào, bọn môi mỏng thường là kẻ bẻm mép xảo trá vô hạnh không thể tin tưởng.
3/. Càm cần phải đầy đặn: càm đàn ông phải đầy đặn, ngoài công dụng để vợ dễ nựng nịu ra còn là một tướng tốt, hậu vận an nhàn, có thể chăm lo cho bạn suốt đời.
4/. Tai cần phải đầy đặn: đôi tai to dày là quý tướng trường thọ, người đàn ông sống lâu sẽ đảm bảo cùng bạn đi trọn đường đời, không phủi cẳng lên bàn thờ nửa chừng, biến vợ thành góa bụa.
5/. Mặt cần phải đầy đặn: đàn ông mà má hóp lép kẹp thì là tướng bần tiện, thứ đó thì chỉ nên suốt đời thủ dâm chứ chớ có lấy vợ mà làm khổ đời con gái người ta.
6/. Vai cần phải đầy đặn: một bờ vai đầy đặn sẽ khiến bạn có cảm giác yên tâm phó thác khi tựa vào.
7/. Lưng cần phải đầy đặn: lưng đàn ông có đầy đặn thì mới có thể cõng vợ một cách nhẹ nhàng êm ái, mấy gã lưng nhô xương sống bén ngót như lưỡi mã tấu thường là những kẻ làm rách màng trinh của vợ trước đêm động phòng.
8/. Ngực cần phải đầy đặn: đàn ông ngực đầy đặn mới là tướng khỏe mạnh anh hùng, ít nhất cũng khiến vợ không phải lo lắng khi lỡ tay đấm cho vài phát.
9/. Chân cần phải đầy đặn: đàn ông có đôi chân đầy đặn là tướng thành đạt, có chỗ đứng trong xã hội, loại đàn ông có hai chân khô đét là tướng bần hàn, khó mang lại cảm giác an toàn cho bạn đời.
10/. Mông cần phải đầy đặn: mông đàn ông phải dầy, nhiều thịt, mới là tướng có địa vị cao sang, biết chăm lo vun vén cho gia đình, loại đít teo thường lật đật hời hợt xốc nổi.
11/. Và quan trọng nhất, cái này không có trong tướng pháp, đó là tim: một người đàn ông cần phải có quả tim đầy đặn, để thừa chỗ dung chứa tình yêu.
Vậy thì… Còn chờ gì nữa? Sao các bạn còn chưa chịu chọn một con heo? He he!
(Sưu tầm và viết lại theo "Ma Y thần tướng")

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



VHL

Thanked by 1 Member:

#27

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 11:45

CHA CON MẠC CỬU VÀ ĐẤT HÀ TIÊN
[Nhân đọc trên Wiki về nhân vật đồng hương Quảng Đông là Mạc Cửu, nhận thấy bài ấy có phần sơ sài và nhiều sai lạc, như cho rằng thuở Mạc Cửu sang khai phá thì Hà Tiên là đất hoang vô chủ, lại cho rằng Cửu sở dĩ có được ngân lượng và thế lực là nhờ đào được cả kho vàng bạc, y như giai thoại về Chú Hỏa mua ve chai được hũ vàng. Nói thiệt: c*t thì còn có khi tự nhiên trôi vào tận họng cho mình, chứ của đâu sẵn trên trời rớt xuống để ta lượm?
Xin nhấn mạnh, cả hai – Cửu và Hui – đều là tay có duyên hoạnh tài, giỏi kinh thương, và phải đổ mồ hôi sôi máu mắt mới nên cơ đồ. Còn Panthaimas (tức Hà Tiên) thuở đó là thuộc về Cao Miên. Lâu nay sử sách chỉ ghi qua loa về công khai phá của họ Mạc, khiến người đời sau tưởng là dễ dàng như giựt hụi, có biết đâu, mảnh đất kia từng là bãi chiến trường tranh giành quyết liệt giữa Việt-Miên-Thái. Máu và nước mắt của tiền hiền khai phá đã đổ xuống không ít để có được mảnh đất lành ngày nay.
Sau đây, tôi xin trích một đoạn từ công trình biên khảo “Người Hoa tại Việt Nam” của Nguyễn Văn Huy, nhằm bổ sung thêm chút hiểu biết về công khó của người đi trước. Thành thật xin lỗi Giáo sư Nguyễn Văn Huy, vì tôi có chỉnh lại đôi chút về tên đất (như Chân Lạp thành Cao Miên, vì tôi cho rằng vào giữa thế kỷ XVII thì Chân Lạp đã không còn, mà đế quốc Campuchia thì chưa định hình, nên đành tạm mượn tên Cao Miên thông dụng để gọi, nhằm giúp người đọc dễ theo dõi những diễn biến trong thời kỳ hỗn loạn đó); về tên người (vua Taksin của Thái họ là TRỊNH 鄭國英, chứ không phải TRÌNH); và phần cuối bài, tôi cũng mạo muội xin đưa vào một nhận xét riêng, xin lượng thứ tội tài lanh!
Không rảnh để sửa Wiki, tôi chỉ post lên đây để bạn bè cùng đọc với nhau cho biết. Nào, mời mời mọi người cùng thẩm].
_______
Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


... Giữa thế kỷ 17, nhiều cuộc khởi nghĩa chống nhà Mãn Thanh đã xảy ra trong lục địa Trung Hoa. Dưới sự chỉ đạo của Trịnh Thành Công, một vị tướng Minh triều cũ gốc Triều Châu, dân chúng nổi lên chống lại quân Thanh nhưng đều bị đánh bại, tất cả các làng xã của người Tiều ở Triều Châu và vùng ven biển Hạ Môn đều bị thiêu rụi. Tàn quân của Trịnh Thành Công (Kosinga) phải chạy ra đảo Đài Loan lập chiến khu “phản Thanh phục Minh”.
Trong đám tàn quân này có một người tên Mạc Cửu (hay Mạc Kính Cửu 鄚敬玖), quê ở Lôi Châu tỉnh Quảng Đông, theo Trịnh Thành Công kháng chiến. Năm 1671 thấy chống không nổi quân Thanh, Mạc Cửu mang cả gia đình, binh sĩ và một số sĩ phu khoảng 400 người rời khỏi Phúc Kiến bằng đường biển. Quân của Trịnh Thành Công ngày càng suy yếu, bị quân Thanh đánh bại năm 1680. Quân Thanh tàn sát hết kháng chiến quân, những người sống sót bỏ chạy bằng đường biển đến các quốc gia Đông Nam Á tị nạn, hòa nhập với những nhóm Minh triều cũ đã di cư từ trước.
Mạc Cửu cùng thân bằng quyến thuộc sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả đã cập thuyền vào đảo Koh Tral, rồi đổ bộ lên một vùng đất lạ (được gọi là Panthaimas) trong Vịnh Thái Lan. Mạc Cửu dò hỏi và được biết vùng đất này thuộc ảnh hưởng của vương triều Cao Miên. Phái đoàn Mạc Cửu đến Oudong gặp Nặc Ông Thu (Chey Chettha IV) và ở lại hợp tác cho đến năm 1681. Sau đó Mạc Cửu xin vua Kh’mer cho khai khẩn vùng đất sình lầy Panthaimas trong Vịnh Thái Lan.
Thật ra trong giai đoạn này vương quyền của vua Cao Miên không còn ảnh hưởng mạnh trên những vùng đất ven biển. Vịnh Thái Lan là nơi hành nghề của các đám hải tặc vì nơi này thương thuyền qua lại rất đông. Quan quân Cao Miên vì bận rộn với những cuộc nội chiến và không đủ khả năng bảo vệ vùng đất này nên đã bỏ trống mặc cho hải tặc lập căn cứ. Hơn nữa đây là vùng đất sình lầy phèn chua nước mặn, đầy muỗi mòng, không ai dám đến lập nghiệp, chỉ một số dân phiêu lưu đến ở. Thời này đất Panthaimas chỉ có độ mươi nóc gia của người Kh’mer làm nghề săn bắn và đánh cá.
Mạc Cửu cũng là một tay giang hồ giỏi tổ chức. Trong suốt thời gian lênh đênh trên biển cả, ông đã chiêu tập được một số binh sĩ Minh triều cũ đang hành nghề hải tặc dưới trướng. Thấy có khả năng khai thác nguồn lợi của những đám hải tặc trong vùng, ông lập ra 7 xã: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Konpong Som), Sài Mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Mán Khảm (cảng của người Mán), về sau đổi thành Căn Khẩu (tiếng Hoa tùy theo ngữ âm gọi là Căn Kháo hay Căn Cáo). Mạc Cửu cho thành lập nhiều sòng bạc để kinh tài. Được nổi tiếng, ông mộ thêm lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi về lập nghiệp và đặt tên vùng đất mới thành Căn Khẩu quốc. Căn Khẩu quốc, tuy là một lãnh địa của Cao Miên, nhưng không lệ thuộc trực tiếp vào nền hành chánh của vương triều Kh’mer, được hưởng qui chế tự trị.
Lưu dân, đa số là người Triều Châu, Quảng Đông và Phúc Kiến, lúc ban đầu là những người không chấp nhận sống dưới trướng nhà Thanh bỏ nước ra đi xây dựng cuộc sống mới. Thành phần xã hội cũng rất đa dạng: người giỏi về văn học, kẻ giỏi nghề đi biển, người thạo nghề buôn bán, nắm vững kỹ thuật chế biến thực phẩm, kẻ biết canh tác lúa nước và đánh cá trên sông lạch, nói chung họ là những thành phần ưu tú của vương triều vừa thất sủng. Về sau có thêm dân chúng nghèo khó dưới thời nhà Thanh đến xin tị nạn. Chẳng bao lâu sau Căn Khẩu quốc nổi tiếng khắp vùng là miền đất trù phú, dễ kiếm tiền. Đảo Koh Tral được đổi tên thành đảo Phú Quốc, có nghĩa là vùng đất giàu có, phú cường. Những tay phiêu lưu giang hồ đến đầu quân dưới trướng Mạc Cửu ngày càng đông và thành một đe dọa đối với uy quyền của Xiêm La (tức Thái Lan sau này), một thế lực đang lên trong vùng.
Trước sự lớn mạnh của đế quốc Xiêm La, Mạc Cửu yêu cầu vua Cao Miên bảo vệ nhưng không được thỏa mãn. Cao Miên cũng đang bị Xiêm La khống chế. Mạc Cửu dò tìm một thế lực mạnh trong vùng để xin được bảo vệ, ông được một thương gia người Minh Hương tên Tô Quân cho biết xa hơn về phía Tây-Bắc, những người Hoa tị nạn khác được chúa Nguyễn cho định cư tại miền Đông đang phát triển nhanh chóng. Thêm vào đó, quân của chúa Nguyễn đang làm chủ miền Tây đất Cao Miên và đang đối đầu với quân Xiêm La. Năm 1708 Mạc Cửu sai hai người thân tín, Trương Cầu và Lý Xa, ra Huế xin được che chở. Năm 1711, Mạc Cửu được Minh vương Nguyễn Phúc Chu mời ra Huế bái kiến. Năm 1714, Mạc Cửu xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn và được phong chức tổng binh cai trị đất Căn Khẩu.
Năm 1717, vua Xiêm mang 20.000 quân tấn công các làng xã của những di dân gốc Hoa tại Căn Khẩu, Mạc Cửu thua phải bỏ chạy. Năm 1724, ông đích thân vào Gia Định dâng luôn đất và xin Ninh vương Nguyễn Phúc Trú giúp khôi phục lại Căn Khẩu quốc. Chúa Nguyễn mang quân xuống đánh, quân Xiêm thua phải rút về nước. Ninh vương thu hồi tất cả làng xã bị chiếm rồi phong Mạc Cửu làm đô đốc cai trị đất Căn Khẩu. Căn Khẩu quốc được đổi thành Long Hồ dinh.
Từ 1729, Long Hồ dinh nổi tiếng là vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan. Tuy bị đổi tên nhưng di dân Trung Hoa vẫn tiếp tục gọi Long Hồ dinh là “Căn Khẩu quốc”. Người Hoa từ khắp nơi trong vùng (bị người Tây Ban Nha và Hòa Lan đàn áp) đổ về đây lập nghiệp. Quân Kh’mer và Xiêm La đã tấn công nhiều lần vào vùng đất này nhưng đều bị Mạc Cửu đẩy lui.
Mạc Cửu mất (1735), con là Mạc Sĩ Lân, sau đổi thành Mạc Thiên Tứ, được Ninh vương Nguyễn Phúc Trú phong làm đô đốc, kế nghiệp cha cai trị Long Hồ dinh. Gia đình họ Mạc được Ninh vương nâng lên hàng vương tôn. Long Hồ dinh đổi thành trấn Hà Tiên.
Mạc Thiên Tứ (còn gọi là Mạc Thiên Tích 鄚天錫) là một vị tướng giỏi, đã nhiều lần mang quân tấn công Xiêm La và bảo hộ vùng phía nam đất Cao Miên. Mạc Thiên Tứ có công mở rộng thị trấn Hà Tiên và năm 1739 lập thêm bốn huyện: Long Xuyên (miền Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (miền Cần Thơ) và Trấn Di (miền bắc Bạc Liêu). Mạc Thiên Tứ còn là một nhà học thức lỗi lạc, kiến thức uyên bác, giỏi ngoại giao, có tài thơ văn, đã để lại nhiều tác phẩm giá trị.
Thời bấy giờ nội bộ Cao Miên có loạn. Năm 1747, Nặc Ông Thâm (Thommo Racha III) từ Xiêm La về đánh đuổi Nặc Ông Tha (Chettha V) chiếm ngôi, Ông Tha chạy sang Gia Định cầu cứu. Nặc Ông Thâm sau đó bị Satha II giết, con cháu lại tranh giành ngôi báu. Năm 1749, Nguyễn Phúc Khoát cho quân hộ tống Ông Tha về nước lấy lại ngôi vua. Một người con của Ông Thâm tên Nặc Nguyên (Nac Snguon) nhờ quân Xiêm La sang đánh, Ông Tha thua phải chạy về Gia Định.
Nặc Nguyên mật giao với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài hợp lực đánh chúa Nguyễn. Nguyễn vương biết trước nên năm 1753 cử Nguyễn Cư Trinh sang Nam Vang đánh. Nặc Nguyên thua bỏ thành chạy về Hà Tiên nương náu nhà Mạc Thiên Tứ. Năm 1755, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm Bôn (Cần Thơ) và Lôi Lập (Long Xuyên) để tạ tội và xin được về lại Nam Vang cai trị, chúa Nguyễn ưng thuận.
Năm 1758 Nặc Nguyên mất, không người kế vị. Nặc Nhuận là chú họ tạm quyền giám quốc nhưng bị con rể là Nặc Hinh giết rồi tự xưng vương. Chúa Nguyễn sai Trương Phúc Du mang quân sang đánh, Nặc Hinh bị thuộc hạ giết chết. Do đề nghị của Mạc Thiên Tứ, chúa Nguyễn thuận cho Nặc Tôn (Ang Ton II) con của Nặc Nhuận lên làm vua Cao Miên.
Nặc Tôn tặng chúa Nguyễn lãnh thổ Tầm Phong Long (Meat Chruk hay Mật Luật, nay là Châu Đốc và Sa Đéc) để tạ ơn. Nặc Tôn tặng riêng Mạc Thiên Tứ lãnh thổ 5 phủ miền Đông-Nam Chân Lạp: Hương Úc (Kompong Som), Cần Bột (Kampot), Trực Sâm (Chưng Rừm), Sài Mạt (Cheal Meas) và Linh Quỳnh (vùng duyên hải từ xã Sré Ambel đến làng Peam), nói chung là toàn bộ vùng biển ven duyên quanh đảo Phú Quốc. Mạc Thiên Tứ dâng hết cho Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Chúa Nguyễn sáp nhập tất cả vùng đất mới vào trấn Hà Tiên rồi giao cho Mạc Thiên Tứ cai trị.
Chúa Nguyễn quy các lãnh thổ miền Tây thành ba đạo: Đông Khẩu đạo (Sa Đéc), Tân Châu đạo (Tiền Giang) và Châu Đốc đạo (Hậu Giang), chuyển Long Hồ dinh về đất Tầm Bào (Vĩnh Long) thuộc Châu Đốc đạo. Đất Tầm Bào trước kia gồm có một phần bờ biển của Cao Miên do Nặc Tôn tặng. Công cuộc bình định đất đai miền Nam xem như hoàn tất.
* * *
Nói về tình hình Xiêm La lúc bấy giờ, cũng có một người Tàu khác lập nên đại nghiệp.
Năm 1767, quân Miến Điện tiến chiếm Xiêm La, bắt được vua Xiêm là Phong vương (Boromoraja V) và con là Chiêu Đốc, thiêu hủy thành Ayuthia, nhưng sau đó phải rút về vì Miến Điện bị Trung Hoa tấn công. Hai người con của Phong vương: Chiêu Xỉ Khang chạy thoát sang Cao Miên, còn Chiêu Thúy thì chạy sang Hà Tiên lánh nạn. Trong thời gian này Xiêm La không có vua.
Trịnh Quốc Anh 鄭國英, một người Hoa gốc Triều Châu, giữ chức Phi Nhã (xã trưởng) đất Mang Tát thuộc Xiêm La, khởi binh chống lại quân Miến Điện rồi tự xưng vương năm 1768, đó chính là Taksin Maharaj – vị vua lừng lẫy được người Thái Lan tôn kính. Trịnh Quốc Anh tổ chức lại binh mã, chiêu mộ rất nhiều hải tặc gốc Hoa đang hoạt động trong Vịnh Thái Lan để tăng cường lực lượng. Trịnh Quốc Anh muốn triệt hạ uy lực của gia đình Mạc Thiên Tứ tại Hà Tiên, vì đó là một đe dọa và là địch thủ lợi hại cho uy quyền của ông trong Vịnh Thái Lan. Sự giàu có của Hà Tiên cũng khơi động lòng tham của rất nhiều tướng cướp trong vùng, ai cũng muốn đánh cướp vùng đất này nhưng tất cả đều sợ Mạc Thiên Tứ. Khi Trịnh Quốc Anh kêu gọi hợp tác, các nhóm hải tặc liền hùa theo binh lực Xiêm La tấn công Hà Tiên để cướp của.
Năm 1768 lấy cớ truy lùng hoàng tử Chiêu Thúy của Xiêm, Trịnh Quốc Anh mang quân tiến chiếm Hòn Đất, bắt giam và tra tấn nhiều giáo sĩ Công giáo để tìm nơi trú ẩn của Chiêu Thúy, đồng thời sai tướng Chất Tri (Chakri) mang quân bảo hộ Cao Miên và đưa Nặc Ông Nộn (Ang Non III) lên làm vua. Nặc Tôn chạy về Gia Định lánh nạn. Quân của Trịnh Quốc Anh đã ở lại Hòn Đất ba tháng để truy lùng vị hoàng tử Xiêm lưu vong nhưng không tìm ra. Trước khi rút về nước, Trịnh Quốc Anh cho thành lập trên đảo một căn cứ hải quân và để lại một toán cướp biển nghe ngóng tình hình, tìm cơ hội đánh chiếm Phú Quốc và Hà Tiên.
[Năm 1765 giáo sĩ Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) đã thành lập tại Hòn Đất một chủng viện nhỏ với khoảng 40 giáo dân Việt, Xiêm và Hoa sống trong mấy ngôi nhà bằng tre. Năm 1767, Bá Đa Lộc cho vị hoàng tử Xiêm trú ẩn trong chủng viện].
Năm 1769, quân Kh'mer dưới sự chỉ đạo của một cướp biển người Triều Châu tên Trần Liên đổ bộ lên Hòn Đất. Trần Liên đánh cướp trụ sở truyền đạo, sát hại nhiều giáo sinh và giáo dân. Bá Đa Lộc cùng một vài giáo sinh thoát được chạy sang Malacca (Indonesia), rồi về Pondichéry (Ấn Độ) lánh nạn. Hoàng tử Chiêu Thúy được người đưa vào Hà Tiên xin Mạc Thiên Tứ che chở. Quân của Trần Liên, kết hợp với hai gia nhân của Mạc Thiên Tứ (Mạc Sung và Mạc Khoán), tiến đánh Hà Tiên. Hai gia nhân làm phản và một số lớn cướp biển Kh’mer bị Thiên Tứ giết chết, Trần Liên thoát được chạy sang Xiêm La tị nạn. Lợi dụng cơ hội này Mạc Thiên Tứ chuẩn bị đưa hoàng tử Chiêu Thúy về Xiêm La đoạt lại ngôi báu. Ông cho luyện tập binh mã rồi mang quân ra chiếm lại Hòn Đất (1770) và chuẩn bị tiến công Xiêm La.
Công việc đang tiến hành thì vào đầu năm 1771, một cận thần của Mạc Thiên Tứ tên Phạm Lam nổi lên làm phản. Phạm Lam kết hợp với hai cướp biển Trần Thái (Vinhly Malu, người Mã Lai) và Hoắc Nhiên (Hoc Nha Ku, người Kh’mer) lập đảng gồm 800 người và 15 tàu thuyền tiến vào Hà Tiên nhưng bị Mạc Thiên Tứ đánh bại.
Giữa năm 1771, nhận thấy những đám cướp biển không đánh lại Mạc Thiên Tứ, Trịnh Quốc Anh đích thân mang đại binh gồm 20.000 người tiến chiếm Hà Tiên với sự chỉ điểm của Trần Liên. Trịnh Quốc Anh thiêu rụi thành phố, chiếm tất cả các đảo lớn nhỏ quanh Hà Tiên, mang về rất nhiều vàng bạc. Con cháu, hầu thiếp và người con gái út của Mạc Thiên Tứ bị Trịnh Quốc Anh bắt sống đem về Bangkok. Mạc Thiên Tứ cùng các con trai phải rút về Rạch Giá, cho người về Gia Định cầu cứu chúa Nguyễn.
Năm 1772, chúa Nguyễn mang 10.000 quân cùng 300 chiến thuyền sang Cao Miên đánh quân Xiêm và đưa Nặc Ông Tôn lên ngôi. Trịnh Quốc Anh làm áp lực tại Hà Tiên buộc quân Việt phải dừng chân tại Nam Vang, không được tiến xa hơn. Sau cùng hai bên đi đến một thỏa thuận để quân Xiêm rút khỏi Hà Tiên: chúa Nguyễn rút quân khỏi Cao Miên và chấp nhận để Nặc Ông Nôn (Ang Non III), người được vua Xiêm chỉ định, lên ngôi vua. Năm sau (1773) Trịnh Quốc Anh rút quân khỏi Hà Tiên, Phú Quốc và Hòn Đất, trả lại người con gái bị bắt làm tù binh cho Mạc Thiên Tứ, nhưng buộc phải giao hoàng tử Chiêu Thúy cho quân Xiêm. Chiêu Thúy bị Trịnh Quốc Anh mang về Bangkok hành quyết.
Hà Tiên sống lại thời yên bình. Năm 1774, Bá Đa Lộc trở về Hòn Đất thành lập họ đạo, năm sau ông được Mạc Thiên Tứ tiếp đãi trọng hậu và cho phép đi giảng đạo khắp Hà Tiên.
Năm 1777 quân Tây Sơn tiến chiếm Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh (hay Nguyễn Ánh), lúc đó còn là hoàng tử (15 tuổi), bị quân Tây Sơn truy lùng ráo riết, phải ẩn lánh trên đảo Phú Quốc, sau đó về lập chiến khu trong một khu rừng gần Hà Tiên. Quân Tây Sơn chiếm luôn Hà Tiên. Nguyễn Ánh sai Mạc Thiên Tứ sang Xiêm La cầu viện. Thiên Tứ cùng gia quyến dẫn theo một số binh sĩ đến Bangkok xin gặp Trịnh Quốc Anh. Chẳng may vua Xiêm bị Tây Sơn tráo thư nên nghi Thiên Tứ lập mưu chiếm Bangkok, tất cả đều bị bắt giam. Bị tra tấn dã man, Mạc Thiên Tứ cùng hai con, Mạc Tử Hoàng và Mạc Tử Thượng, tướng Tôn Thất Xuyên tự vẫn, 50 người trong đoàn tùy tùng đều bị xử trảm (tháng 4-1780). Một trong ba người con sống sót, tên Mạc Tử Sanh, được Nguyễn Ánh sau này phong chức lưu thủ cai quản Hà Tiên...
[Một người giao liên của Mạc Thiên Tứ tên Thân bị quân Tây Sơn bắt được. Quân Tây Sơn bèn giả làm một thư trả lời của Nguyễn Ánh sai Mạc Thiên Tứ chiếm kinh đô của Xiêm La. Thư này được dàn xếp để lọt vào tay một người Kh’mer thân Xiêm La tên Bổ Ông Keo. Ông Keo giao thư giả này lại cho Trịnh Quốc Anh. Vua Xiêm sai quân giữa đêm tràn vào trại bắt tất cả đoàn tùy tùng của họ Mạc vào thành Bangkok giam giữ. Bị bắt giam trong một hoàn cảnh như vậy đối với họ Mạc là một điều sỉ nhục. Hơn nữa sứ mệnh cầu viện được giao phó không hoàn thành, Mạc Thiên Tứ cùng các tướng lãnh uống thuốc độc tự vẫn để tỏ lòng trung thành với Nguyễn Ánh và làm gương cho thuộc hạ. Tất cả binh sĩ tùy tùng và gia quyến bị vua Xiêm thảm sát. Một người Kh’mer phục dịch vua Xiêm tên Ỹ La Hom che giấu được bảy người con và cháu trai của Mạc Thiên Tứ].
- Theo ý riêng kẻ hèn mạt học này thì lá thư giả kia khó đánh lừa được quốc vương Taksin, chẳng qua ông ta nhân đó mượn cớ để tiêu diệt họ Mạc mà thôi, Nguyễn Ánh đã sai lầm khi phái Thiên Tứ đi sứ cầu viện, để hai kẻ tử đối đầu chạm mặt nhau trong tình thế bất lợi cho Tứ; hoặc cũng có thể Ánh muốn mượn tay Taksin khử Tứ không chừng, đòn hồi mã thương khử công thần của lãnh tụ, người phàm khó mà lường được. Sau này, Ánh đã phải nhịn nhục, dâng cây vàng cành bạc, chịu làm chư hầu cho vua Xiêm thì lại mượn được quân để đánh nhau với Tây Sơn, chuyện đó ta sẽ cùng bàn ở thớt khác].

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Một đền thờ Mạc Cửu trên đất Hà Tiên xưa.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Quốc vương Taksin - Trịnh Quốc Anh 鄭國英.

VHL

Thanked by 3 Members:

#28

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 11:55

BỘ SƯU TẬP MÃNH SƯ Ở TRUNG HOA ĐẠI LỤC (Part 1)

Nghệ thuật tạc tượng ở Trung Hoa đã có từ hơn 5.000 năm nay. Trong quá trình phát triển này, mỗi thời đại lại đóng góp thêm những cống hiến và đánh dấu tinh hoa của mình.
Nói riêng về tượng sư tử, những năm gần đây ở đại lục, là hình tượng thịnh hành nhất. Là vua của các loài, "Bách thú chi vương", nên tượng sư tử tượng trưng cho uy vũ, trấn yểm tà ma khu trục uế khí. Là khí thế của thần thánh bất khả xâm phạm, tượng sư tử được người Tàu xem như thủ hộ thần tài, phú quý cát tường. Và sau đây là một bộ sưu tập do "cư dân mạng" đại lục đóng góp, cho thấy sự què quặt về nghệ thuật điêu khắc thời xã hội chủ nghĩa ở Trung Hoa.
Mỗi tượng trong bộ sưu tập này đều có tác dụng gây cười phọt khí ra đàng đuôi, nên chống chỉ định cho người đang ăn uống, he he!

Cửa gỗ sơn đỏ, lại có câu đối, đây chắc là cổng đền miếu gì đó, và con sư tử có đeo chữ "Vương" đang thò lõ ngó khách tham quan, chắc vừa thấy cái vòng 1 của một tín nữ đang ngúng nguẩy, he he!



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Đây là hình tượng mãnh sư lúc còn trong bào thai chắc?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ông này uống nước ngọt đóng chai đến nỗi quéo bà cái lưỡi gòy!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



"Mầy chết mầy nha ông cún!" - chắc là nó đang bị rầy.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Má ơi, nhìn thấy cưng chưa, nhất là cái mũi cứ hễnh lên như mũi hợi!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



What?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ngọc kỳ lân bị xiềng, he he!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!"

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Cậu ông trời.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Sư tử đang tiến hóa thành cừu.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Điện quang sư tử.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Đây chắc là tượng cổ, từ thời tiền sử mới đào lên.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Tai chó, trán vồ, mắt là hai hòn bi, đeo lục lạc, và đang chơi thắt gút.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





Nhìn kỹ đi, không phải hình bị méo đâu nha!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Đừng hiểu lầm, ổng đang liếm chân đó; tuy nhiên, tôi thích cách suy nghĩ của bạn he he!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Có một sự liên tưởng tới kim tự tháp trong ý đồ sáng tác.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Ổng bị con thọc léc.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Vẽ cho cái mặt nạ là thành sư tử trấn môn.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Sư tử đảm đang.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Đội giày ngậm cán.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Con rái cá có bờm kìa!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Răng chắc nhể!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Sư tử này chắc ngự ở trạm xá.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Tân nương e thẹn kìa!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Đây là mẹ chồng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Bố chồng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Đứa con trước kẻng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Mai dong ra đón.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Tân lang đến rồi.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Theo tấm bảng đề thì đây là nhà thờ của dòng họ Phó. Và theo hình dạng cái mà ông sư tử ôm, thì chắc nhà này chuyên trồng củ cải.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Mịa, động phòng xong mệt thè lưỡi luôn!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Ông sư tử bơm hơi he he!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Chất liệu bằng tôn, thiệt là bá đạo!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





Một mô-típ sư tử hỉ mũi làm hàng rào.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn






Con này không phải sư tử, nó được phối giống bởi thuồng luồng và thằn lằn. Với tên là Long đại ca ngáo đá

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





VHL

Thanked by 1 Member:

#29

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 12:08

CHÍNH SÁCH CƯỠNG BÁCH HOA KIỀU NHẬP VIỆT TỊCH CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
A. SƠ LƯỢC BỐI CẢNH LỊCH SỬ DI DÂN TÀU Ở VIỆT NAM
Đất Giao Chỉ xưa vốn thuộc Tàu, nên đã ngàn năm nay, việc người Tàu sang đây sinh sống là chuyện thường tình. Nhưng di dân Tàu ồ ạt thành đoàn thành lũ xuống phương Nam là bắt đầu từ giữa thế kỷ XVII. Họ là những kẻ bất phục Mãn Thanh, sang Nam là để gìn giữ nề nếp phong tục người Hán. Họ tập hợp nhau lập thành làng, gọi làng Minh Hương (làng của người Minh). Để phân biệt, ta hiểu "người Minh Hương" là những di dân chính trị. Từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX, ta có những "Hoa kiều", đó là những di dân kinh tế.
Không có dân tộc nào tôn thờ chữ viết như người Tàu. Nghệ thuật viết chữ được luyện thành thư pháp, như một tôn giáo để di dưỡng tâm hồn. Văn tự thành chiếc cầu nối giữa người phàm với thần linh. Lưu lạc đến bất cứ đâu, việc họ bắt tay thực hiện đầu tiên là lập hội quán, để tập hợp thành cộng đồng tương trợ nhau; kế đó là xây dựng trường học, để bảo tồn chữ Hán.
Thời Hậu Lê, người Tàu đã được hưởng quy chế ngoại kiều. Người Việt vốn chuộng hư danh phù phiếm, xem thường việc kinh thương, lại say mê đánh giết nhau, nên ngay từ Trịnh-Nguyễn phân tranh, người Tàu đã nắm trọn độc quyền khai thác khoáng sản, buôn bán gạo muối và kinh doanh vận tải; giang sơn Đại Việt chia đôi chẳng ngăn được người Tàu ở hai Đàng hiệp lực với nhau, chi phối và thao túng toàn bộ kinh tế Đại Việt. Người Tàu chí thú làm ăn, cung cấp lương thực và hàng hóa cho hai phe đồng chủng Tiên Rồng đánh giết nhau, và họ trở nên giàu có, một phần nhờ ở sự hiếu chiến oai hùng của người Việt.
Sự giàu có của người Tàu được Nguyễn Huệ ghé mắt xanh, đưa vào diện quan tâm đặc biệt. Những cuộc chém giết để cướp của của người Tàu được giặc Tây Sơn tổ chức quy mô: San bằng Cù Lao Phố Đồng Nai, hủy diệt Mỹ Tho, tàn sát Chợ Lớn. Huệ thành hiện thân của quỷ dữ, người Tàu bị đẩy vào thế phải đâu lưng cùng Nguyễn Ánh để chung sức tiêu diệt hung đồ bạo ngược.
Ghi nhớ công hãn mã khuông phò của bọn người Tàu, khi lên ngôi, Gia Long đã dành cho Hoa kiều những đặc ân lớn: nhẹ thuế khóa, miễn lao dịch và không phải đóng thuế thân. Vua lại cho phép họ thành lập bảy đại bang theo phương ngữ, được quyền tự trị, là Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu, Quế Châu, Lôi Châu và Hải Nàm. Từ sau đời Minh Mạng, tuy cũng có lúc Hoa kiều bị siết chặt, ngăn ngừa họ phóng túng vô cương, nhưng Hoa kiều vẫn luôn là cộng đồng được ưu ái nhất ở Việt Nam. Đến khi người Pháp vào cai trị, những quy chế ưu đãi của Nguyễn triều dành cho Hoa kiều được duy trì hầu như không đổi, thế lực Hoa kiều cứ thế ngày một lớn mạnh.
Kể từ sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam chia thành hai miền Nam Bắc thì tình hình làm ăn của Hoa kiều không còn hanh thông như trước.
Ngoài Bắc, các bang hội bị giải tán, trường dạy chữ Tàu bị đóng cửa. Không giữ được văn tự và bang hội, người Tàu đất Bắc nhanh chóng bị đồng hóa với dân bản địa, không thể phân biệt được họ với người Việt bình thường. Trong Nam, chánh quyền không có được lợi thế sắt máu của chuyên chính vô sản, nên đã phải chật vật hơn rất nhiều trong việc đưa cộng đồng Hoa kiều hòa nhập vào khối đoàn kết toàn dân, đồng thời vẫn để họ giữ gìn bản sắc, cũng như phát huy sở trường kinh thương.
B. DIỄN BIẾN CÔNG CUỘC BẮT BUỘC HOA KIỀU NHẬP VIỆT TỊCH
Nhận thấy Hoa kiều đã được hưởng lợi lộc khổng lổ ở Việt Nam nhưng lại không hề phải thực thi nghĩa vụ gì đối với quốc gia. Quy chế ngoại kiều đã giúp họ không phải đóng thuế kinh doanh; thể chế bang hội tự trị khiến họ trở thành những tiểu quốc gia trong một quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Không chịu sự tài phán của tòa án Việt Nam, chẳng cần sự bảo vệ và giúp đỡ của cảnh sát, tự họ giải quyết với nhau theo phán quyết của các Bang trưởng. Sự khép kín của cộng đồng Hoa kiều là hành vi ích kỷ và bội bạc với đất nước đã cưu mang mình.
Để kiến thiết kinh tế cũng như tập hợp được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, việc đưa Hoa kiều hội nhập là vấn đề quan trọng hàng đầu. Chánh phủ Ngô Đình Diệm vừa mới được thành lập ở miền Nam ngày 26-10-1955, thì chỉ hơn một tháng sau, vào ngày 7-12-1955, Thủ tướng đã ban hành Dụ số 10 quy định về Bộ Luật quốc tịch Việt Nam. Điều 12 ghi rõ: “Con chính thức mà mẹ là người Việt Nam, và cha là người Trung Hoa, nếu sinh đẻ ở Việt Nam thì là người Việt Nam”. Theo đó, tất cả những ai gốc Tàu sinh ra ở Việt Nam đều bắt buộc phải nhập Việt tịch, để được có quyền lợi và nghĩa vụ của công dân Việt Nam.
Bọn người Tàu bấy lâu nay vẫn được hưởng đặc quyền đặc lợi, nay bỗng dưng thấy mình có nguy cơ bị thất sủng nên đã kiên quyết bất hợp tác với chánh quyền. Hơn 800.000 thần tử Hoa Hạ ở miền Nam Việt Nam chăm chú hướng về Đài Loan, trông chờ sự can thiệp của Tưởng Giới Thạch [Con số 800.000 này không tính người Minh Hương; thời điểm đó tổng dân số Việt Nam Cộng Hòa khoảng hơn 10 triệu].
Đinh ninh Thống chế Thạch sẽ “trị” được Thủ tướng Diệm, nên Hoa kiều xem Dụ lệnh số 10 như gió thoảng ngoài tai, không đáng để ý. Trước sự chây ỳ táo tợn khinh thường luật nước đó, chánh quyền ban hành tiếp Dụ số 48 (ngày 21-8-1956), Sửa đổi Bộ Luật Quốc tịch Việt Nam, Điều 16 quy định: Hoa kiều thổ sanh (sinh trưởng tại Việt Nam) sẽ là người Việt Nam, bắt buộc phải nhập và khai nhận quốc tịch Việt Nam, hoặc nếu không chịu nhập tịch thì có thể xin hồi hương (về Đài Loan) trước ngày 31-8-1957. Thời hạn ấn định cho những Hoa kiều sinh tại Việt Nam phải làm khai sinh để được cấp thẻ căn cước sẽ kết thúc ngày 08-4-1957, việc kiểm tra sẽ hoàn tất vào ngày 22-6-1957. Bằng Dụ lệnh này, Diệm cho thấy sự kiên quyết của chánh quyền để buộc Hoa kiều vào khuôn phép. Ai không muốn nhập tịch cứ sang Đài Loan sinh sống, mỗi người sẽ được chánh quyền cấp cho 400 đồng để "hồi hương", đúng theo luật định.
Ngày 29-8-1956, Thủ tướng ban hành Dụ số 52 qui định Hoa kiều sinh sống tại miền Nam phải mang quốc tịch Việt. Khi có quốc tịch, họ được tự do giao dịch, đi lại và buôn bán. Người Tàu phải Việt hóa tên họ (như Trịnh, Quách, Mạch, Lâm, Giang, Diệp, Lưu, Vương, Hà, Hứa, Mã, Lý, Trần, Trương, v.v...) chứ không được xưng các tên ngoại quốc hay tên gọi riêng như Chú, A, Chế... kể cả bí danh trong những văn kiện chính thức. Tên hiệu các cơ sở thương mại, văn hóa, phải viết bằng Việt ngữ.
10 ngày sau (6-9-1956), Diệm lại ra Dụ số 53, hạ đòn quyết định, đánh thẳng vào nồi cơm của bọn Ba Tàu. Dụ 53 chỉ định những nghề nghiệp mà các ngoại kiều, hay các hội xã, công ty ngoại quốc không được hoạt động, đó là: 1. Buôn bán cá và thịt; 2. Buôn bán chạp-phô (tạp hóa); 3. Buôn bán than, củi; 4. Buôn bán xăng, dầu lửa và dầu nhớt (trừ các hãng nhập cảng); 5. Cầm đồ bình dân; 6. Buôn bán vải sồ, tơ lụa, chỉ sợi, ...; 7. Buôn bán sắt, đồng thau vụn; 8. Nhà máy xay lúa; 9. Buôn bán ngũ cốc; 10. Chuyên chở hàng hóa, hành khách bằng xe hơi, tàu hay thuyền; 11. Trung gian ăn huê hồng. Những ngoại kiều đang hoạt động những nghề trên phải thôi các nghề đó trong vòng 6 tháng đối với các nghề từ số 1 đến số 7, và một năm đối với các nghề từ số 8 đến số 11. Những ai vi phạm Dụ này sẽ bị phạt tiền từ 50.000 cho đến 5 triệu đồng, và có thể bị trục xuất. Người Việt Nam nào thông đồng với ngoại kiều vi phạm thì bị phạt 6 tháng đến 3 năm tù ở, và bị phạt tiền giống mức ngoại kiều vi phạm.
Tuy Dụ lệnh chỉ đề cập chung “ngoại kiều”, nhưng nhìn vào, ai cũng nhận ra, đối tượng của nó là bọn Hoa kiều, vì 11 nghề đó là những hoạt động chính của họ. Ngày 24-10-1956 thủ tướng Ngô Đình Diệm đắc cử tổng thống. Tuy nhiên, cho đến ngày 13-11-1956, theo Nguyễn Văn Vàng, Đặc ủy Trung Hoa sự vụ của chính quyền Sài Gòn lúc đó, thì “Rất ít Hoa kiều đến khai nhận Việt tịch, Dụ 48 chưa đem lại kết quả khả quan”. Ngày 28-11-1956, Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng quốc gia đặc trách kinh tế mời tất cả các đại diện nghề nghiệp Hoa kiều của Văn phòng Thương mại Chợ Lớn đến để nói rõ chính sách quốc tịch của chánh phủ. Ông Thơ cảnh cáo: “Những người ngoại quốc nào còn muốn tiếp tục hoạt động kinh thương, vấn đề chính yếu là phải giải quyết cho xong vấn đề quốc tịch. Đừng nghĩ rằng chánh phủ sẽ không có biện pháp đối với những ai không muốn tiếp tục hành nghề và chịu thất nghiệp. Giải pháp đã có sẵn, nó nằm trong tầm tay của mỗi quí vị, và quí vị hãy tự quyết định lấy”.
Với hai Dụ lệnh 52 và 53, quy chế ngoại kiều bao đời nay dành cho bọn Ba Tàu đã hoàn toàn bị bãi bỏ. Bị choáng bởi liều thuốc quá sốc, phản ứng của họ rất dữ. Họ tẩy chay thuốc lá điếu và không tiêu thụ thịt heo (là hai ngành nghề chính của người Việt lúc bấy giờ mới hình thành), thành lập Hội Hoa kiều tẩy chay hàng hóa Mỹ tại Việt Nam (nhằm làm áp lực buộc Hoa Kỳ phải góp phần can thiệp để Diệm thu hồi các Dụ lệnh trên). Chính quyền một mặt xoa dịu dư luận bằng cách cấp cho Hoa kiều thất nghiệp mỗi người được 200.000 đồng, nhưng hiệu lực của Dụ lệnh vẫn cứ y nguyên giá trị, bất dịch.
Cảnh sát Sài Gòn được phép bắt giữ và tịch thu thẻ căn cước Đài Loan của Hoa kiều để cấp lại thẻ căn cước Việt Nam cho họ. Cửa hàng của Hoa kiều kinh doanh 11 ngành nghề nói trên phải gấp rút chuyển tên người sở hữu để đứng tên thay thế.
Kinh tế miền Nam trong tháng 7 và 8-1957 bị ngừng trệ, hầu như tê liệt. Người Tàu ồ ạt rút hết tiền ký thác trong các ngân hàng, tổng số tiền rút ra từ tháng 11-1956 đến tháng 7-1957 là từ 800 triệu đến 1,5 tỷ đồng, tương đương 1/6 lượng tiền mặt đang lưu hành trên toàn quốc. Đồng bạc Việt Nam tại thị trường chứng khoán Hồng Kông liên tiếp bị mất giá từ 35 đồng/1 USD (1956) tăng lên 90 đồng (1957) và 105 đồng trên thị trường chợ đen.
Tiếp sức đồng hương, Hoa kiều Đông Nam Á cũng làm áp lực bằng cách tẩy chay hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam mà không do người Tàu bán. Cụ thể Hồng Kông từ chối mua 40.000 tấn gạo mặc dầu đã ký hợp đồng từ trước, số gạo này khi được chở qua Singapore thì cũng bị bọn Tàu Sing từ chối không chịu mua. Báo chí Hoa ngữ ở Đông Nam Á đồng loạt lên tiếng đả kích chế độ Diệm bài Hoa. Trung cộng nhân dịp này cũng chỉ trích chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa nhằm tranh thủ cảm tình của Ba Tàu hải ngoại. Việt cộng đẩy mạnh “công tác Hoa vận” ở Sài Gòn-Chợ Lớn, lôi kéo người Tàu theo “cách mạng”. Đất nước vừa mới thành lập đã gặp phải ngay cơn thử thách lớn, tình hình cực kỳ nguy hiểm quyết định tồn vong của chế độ Cộng hòa non trẻ.
Thật ra, người Tàu cũng nhận biết sự kinh doanh miễn thuế của mình là bất lương; không gì đáng hỗ thẹn bằng thụ hưởng lợi ích từ một đất nước đã cưu mang mình mà lại không phải đóng góp gì để đền đáp lại. Nhưng vấn đề họ lấy làm lo sợ nhất khi nhập Việt tịch là... phải thi hành quân dịch. Đã xa rồi cái thời người Tàu liều thân xông pha sa trường đền ơn tri ngộ của các Chúa Nguyễn. Những thế hệ Ba Tàu sau này lớn lên đã trở lại bẩm tính thiên phú là kinh doanh, mưu cầu lợi nhuận, họ không muốn phải tham gia vào trò chơi chiến tranh của người Việt. Tài sản dẫu tiêu tán thoòng vẫn có thể gầy dựng lại, nhưng sinh mạng nếu lỡ mất đi thì không thể thu hồi.
Giờ đây, họ bị bắt buộc phải lựa chọn giữa việc tiếp tục kinh doanh với điều kiện phải cho phép con em mình tham gia chiến tranh, tái diễn trò Quốc-Cộng sinh tử ở Việt Nam; và một bên là phải rời bỏ mảnh đất mình đã mấy đời gắn bó này. Huống chi, Hoa Kỳ đang ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa, cơ hội đầu tư đang mở rộng hơn bao giờ hết. Cuối năm ấy, hầu hết Hoa kiều đang sinh sống ở Nam Việt Nam đều nhập Việt tịch, chỉ hơn 40.000 người "hồi hương" về Đài Loan. Cuối cùng “cắc chú” đã phải hiểu ra: không thể sinh sống trên một đất nước mà không tuân thủ luật pháp của nước đó. Từ nay, máu của người Tàu đã cùng hội nhập với máu của người Việt anh em, để gìn giữ nền Cộng Hòa.
* * *
Các chú bác cô dì anh chị Ba Tàu của tôi ơi! Sau 1975, khi Việt Nam thống nhất lãnh thổ, phải chịu đòn trưng dụng tước đoạt tài sản mệnh danh "cải tạo tư sản công thương nghiệp" của bạo quyền, và trải 2 lần đổi tiền tàn độc, cơ nghiệp tan tành, bang hội tại Việt Nam bị tiêu vong, chư vị có khi nào nhớ lại và tiếc thương Ngô tổng thống?
_______
Tài liệu tham khảo:
- "Người Hoa tại Việt Nam", Nguyễn Văn Huy. Nxb NBC, Paris, 1973.
- "Tìm hiểu chính sách đối với người Hoa của chính quyền Sài Gòn qua các đạo dụ về vấn đề quốc tịch và vấn đề kinh tế ban hành trong hai năm 1955-1956", Trịnh Thị Mai Linh. Tạp chí Khoa Học Đại học Sư phạm Tp H. #.. #..., số 23-2010.
- "Người Hoa ở Nam bộ", Phan An. Nxb Khoa học Xã hội, 2005.
〈第二次世界大戰後越南之華人政策 (1945-2003)〉Chính sách người Hoa ở Việt Nam sau Thế chiến II (1945-2003), Huỳnh Tôn Đỉnh. Luận văn nghiên cứu thạc sĩ Đại học Quốc Lập, Đài Loan, 2006.
Cùng vài hồ sơ liên quan của Quốc sử quán Đài Bắc.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 4 Members:

#30

Lou



 

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1684 Bài viết:
  • 1786 thanks

 

Gửi vào 29/05/2016 - 18:53

Bụi đời ổ chuột ở Myanmar - Bài 2: Ngôi chợ nghỉ ngơi
(PL)- Bogyoke là tên ngôi chợ lớn nhất, nổi tiếng nhất của Myanmar mà khách du lịch nào cũng phải ghé đến một lần. Nhưng cho dù nó lớn đến mấy, sầm uất đến mấy, sau bao nhiêu thăng trầm thì chợ vẫn giữ lệ cũ: Nghỉ bán hoàn toàn, tức là đóng cửa chợ vào ngày thứ Hai hằng tuần.

Yangon không có mấy chỗ để thỏa mãn nhu cầu tham quan của du khách. Do đó, sau khi đi hết các ngôi chùa to to trong danh sách “cần phải đi”, lang thang qua những con phố đối lập nhau về sự giàu nghèo thì chúng tôi quyết định quay lại chợ Bogyoke - nguyên tên là Bogyoke Aung San.

Tu sao sống vậy

Bogyoke Aung San là một ngôi chợ lâu đời, nổi danh là “bán từ cây kim cho tới cái máy bay” của Myanmar. Nói vậy thôi, nó bán tập trung hàng hóa lưu niệm, các sản vật của quốc gia này, đặc biệt là đồ mỹ nghệ và các loại đá quý. Sự tập trung quá nhiều vào hai nhóm hàng chính này cũng thể hiện sự thiếu phát triển của Myanmar: Chủ yếu vẫn sống dựa vào tài nguyên thiên nhiên và nhân công khéo tay mà giá rẻ. Nhưng có hề gì, ít nhất đây là một ngôi chợ bán đồ lưu niệm mà không bị phủ kín bởi hàng hóa có một xuất xứ duy nhất: Trung Quốc.

Một trong những bí mật mà ít người biết là có một gian hàng bán đá quý trong chợ Bogyoke là của người Việt. Đó là một phụ nữ buôn hàng chuyến hai chiều Yangon-Hà Nội từ lâu đời. Bởi vậy, chúng tôi quay lại chợ để tìm gặp câu chuyện hứa hẹn ly kỳ này sau khi quyết định không đi xem bói ở ngôi chùa trước cửa tòa thị chính Yangon. À, nếu nói chuyện coi bói thì đó cũng sẽ là một trải nghiệm vui, vì bao quanh ngôi chùa Sule này có rất nhiều cửa hàng coi chỉ tay đoán số mệnh được cấp phép hoạt động chính quy. Nhưng đó lại là một câu chuyện khác.

Trở lại chợ trên một chiếc taxi không có máy lạnh giữa trời nắng nóng. Mồ hôi đọng thành từng bệt. Giữa trưa vẫn kẹt xe nhưng không thấy ai bấm còi inh ỏi cả. Ông tài xế vừa bỏm bẻm nhai trầu, vừa bình thản nhìn một chiếc xe khác vượt xéo ngay trước mặt mà cũng không có phản ứng gì. Trời ơi, ai cũng nói người Myanmar hiền lành nhưng có cần phải hiền tới mức này không?

Chợt nhớ đọc trên một hướng dẫn đi du lịch Myanmar có câu “Người ta tu sao thì sống vậy”. À, vậy nên có lẽ những sân si ái ố thường nhật đã được lọc bỏ sau những tháng ngày đi tu gieo duyên của hầu hết mọi người dân ở đây.

Chồm lên hỏi: “Ông hồi xưa có đi tu không?”. Ổng đáp tỉnh bơ: “Ở chùa gần 15 năm!”.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chụp ảnh mà không chịu cầm phong bì để tiền vào, mặt chú quạu đeo. Ảnh: XUÂN YẾN

Nhân viên Ngân hàng ACB bỏ việc đi tu

Tới nơi thì mới biết chợ nghỉ bán. Nghỉ hoàn toàn luôn: Cả chợ đóng kín, im lìm. Hàng rong, quán xá lân cận cũng tuyệt đối không mở. Lục lọi trên Google thì biết đây là… truyền thống. Một người Myanmar nói trong trang tư vấn du lịch TripAdvisor: Đi làm thì có ngày nghỉ, vậy chợ cũng phải nghỉ ngơi chớ.

Đang còn suy nghĩ về việc này thì anh Nguyễn Đình Vũ, giờ đã là một nhà sư có cái tên Myanmar rất dài không thể nhớ nổi, gọi điện thoại. Anh giải thích lúc sáng không nghe máy là vì đang bận dạy tiếng Anh cho trẻ con trên một vùng núi cao. Và nhà sư từng là nhân viên kinh doanh của Ngân hàng ACB này cho biết anh phải đi xe tới 26 giờ mới về tới Yangon được nên đành hẹn dịp khác.

Cuộc gọi của Vũ làm nhớ đến quá chừng người bạn học, bạn đồng nghiệp lẫn bạn uống bia của mình thuở trước bỗng một ngày thông báo sang Myanmar để… tu. Bèn kiếm một quán trà đúng kiểu truyền thống với bàn gỗ cao ám khói, ngồi tìm kiếm những câu chuyện tưởng chừng đã quên mất. Lục lọi một hồi thì thấy có câu chuyện của anh Nguyễn Mạnh Hùng, Tổng Giám đốc Công ty Sách Thái Hà, viết về hành trình đi nghiên cứu các tu viện ở Myanmar.

Anh kể có người quen ở đây, nhìn cũng hơi lam lũ, hỏi thăm công việc ra sao thì bảo mỗi ngày kiếm được 2 đôla. Anh Hùng móc ví ra tặng luôn 10 đôla. Người quen này mừng quá và lật đật đi xin nghỉ việc luôn năm ngày để lên chùa mà tu… Câu chuyện nhỏ của anh có lẽ là cách giải thích phù hợp nhất cho lý do vì sao chợ Bogyoke đóng cửa nghỉ bán. Có thể là vì những người bán hàng cần một ngày để đi chùa, để chăm sóc bản thân, gia đình mình hay làm việc riêng nhưng điều quan trọng nhất là họ không mải mê tập trung kiếm tiền, buôn buôn bán bán…

Rõ ràng là người Myanmar nghèo nhưng những tu viện, thiền viện của họ thì lại giàu có về mặt không gian và tấm lòng. Luôn có gần 100 người Việt Nam đang tham gia tu tập ở các chùa rải rác khắp Myanmar. Và tất nhiên, việc ăn ở, tu hành là miễn phí hoàn toàn. Người Myanmar không chỉ lo cho việc tu của mình mà còn sẵn lòng chia sẻ niềm tin, tôn giáo và sự tìm kiếm con đường giác ngộ cho mọi người.

Những thầy tu tí hon

Một trong những hình ảnh đắt nhất ở Myanmar là ngắm nhìn từng đoàn nhà sư đi khất thực vào buổi sáng sớm. Họ bước rất chậm, đầu cúi xuống, tay ôm cái bình bát to to. Người dân đến cúng dường thức ăn và có khi là vật dụng gì đó, thái độ rất cung kính. Có người còn quỳ xuống để dâng đồ cúng dường lên. Không biết bao nhiêu nhiếp ảnh gia đã giành được giải thưởng nhiếp ảnh bằng những hình ảnh đẹp đẽ này, có điều là họ cần một không gian thưa vắng hơn, nhiều cây xanh hơn và xử lý ánh sáng chiếu lấp lánh theo dấu chân những nhà sư này. Hiện thực không lãng mạn như vậy nhưng hấp dẫn hơn ở chỗ những nhà sư này cứ chậm rãi bước đi giữa chợ, không bận tâm đến những xô bồ thế sự, chỉ lặng lẽ tỏa ra cái năng lượng bình an cho mọi người xung quanh.

Một hình ảnh khác mà du khách rất mê: Những thầy tu tí hon, bé còn hơn cây kẹo đi tung tăng trên phố. Tấm áo cà sa như tương phản với gương mặt trẻ thơ và vóc dáng chưa đến bảy tuổi của các chú tiểu này làm ai cũng thích thú. Và chỉ cần xin chụp ảnh, chú này sẽ nhanh chóng đưa ra cái phong bì, ra dấu cho tiền mua cơm ăn. Chúng tôi nhìn thấy một chú tiểu như thế tung tăng nhảy chân sáo trên phố, lật đật chạy theo chụp ảnh thì bị níu áo… xin tiền. Nghi ngờ là không đúng, nhảy vội vào trong một quán cà phê, chú cũng theo vào ngay. Hất tấm áo cà sa đỏ lên một cách đầy kiêu hãnh, chú đi từng bàn, để cái phong bì lên, ra dấu và đi một vòng. Anh chàng phục vụ nhìn thấy, chạy ra… kéo lỗ tai chú tiểu lôi ra ngoài. Hai bên tranh cãi gì đó không rõ. Nhưng cuối cùng chú vẫn quay trở vào thu hoạch bì thư. Đề nghị chụp chung cái ảnh cho vui, chú cẩn thận mở cái bì thư xem tôi có bỏ tiền vào không rồi mới chịu làm người mẫu…

Nghệ thuật trả giá

Taxi không có đồng hồ nên đi đâu cũng phải trả giá. Khách du lịch không rành đường thì cứ nhắm mắt trả đại, vì đằng nào nó cũng... rẻ hơn taxi ở Việt Nam ít nhất là một nửa. Bởi vậy, đi chợ Bogyoke lại càng phải trả giá giỏi hơn nữa. Kinh nghiệm rỉ tai nhau trên mạng như sau: “Lựa quầy nào có mấy ông bà già bán hàng thì dễ mua hơn. Và hãy thử bắt đầu trả từ một nửa cái mức người ta đưa ra”.

Người Myanmar vẫn chưa theo kịp mặt bằng chung giá cả và mức sống của khu vực nên đá cẩm thạch đục ra từ núi, nhân công giá rẻ vì vậy bán siêu rẻ. Gỗ teak chặt thẳng từ rừng già, đục đẽo mấy ngày trời mới ra cái tượng nhưng cũng không có bao nhiêu tiền công nên cũng bán rẻ luôn. Nhiều doanh nghiệp Myanmar gặp vấn đề về thanh toán quốc tế thường đề nghị: Đổi hàng tiêu dùng lấy gỗ, chịu hông? Và bởi vậy, các tổ chức bảo vệ môi trường quốc tế đang lật đật chạy qua mở văn phòng ở Yangon để cố gắng giữ lấy những mảng xanh nguyên sinh cuối cùng này…
TRẦN NGUYÊN

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |