Bàn về miếu vượng đắc hãm
INDOCHINE
05/01/2012
Thể theo ý của An Khoa là bàn chi ly và cụ thể , tui xin đưa ra Vị trí Miếu Hãm của chư tinh trong 1 cuốn sách cổ ,
không phải Toàn Thư hay Toàn Tập, để có mục tiêu so sánh và luận bàn .
Tử vi :
Miếu : - Dần , Ngọ , Sửu , Mùi .
Vượng : - Thân , Hợi , Mão , Tỵ .
Đắc : - Dậu .
Bình : - Tý .
Hãm : - Thìn , Tuất .
không phải Toàn Thư hay Toàn Tập, để có mục tiêu so sánh và luận bàn .
Tử vi :
Miếu : - Dần , Ngọ , Sửu , Mùi .
Vượng : - Thân , Hợi , Mão , Tỵ .
Đắc : - Dậu .
Bình : - Tý .
Hãm : - Thìn , Tuất .
AnKhoa
05/01/2012
Anh có thể cung cấp thêm thông tin về các chư tinh khác không, đặc biệt là các hung sát tinh : Sát, Tham, Hỏa Linh, Không Kiếp, vì các sao đó AnKhoa thấy có nhiều khác biệt, và ảnh hưởng đến luận đoán.
Thân!
Thân!
INDOCHINE
05/01/2012
Và :
Tại Tý địa = Bình .
Đinh , Kỷ , Canh sinh nhân là Quý cách ,
Nhâm , Quý sinh nhân , bất nại cửu .
Tại Dậu = Đắc .
Tham lang đồng cung , Ất , Tân sinh giả Quý .
Giáp , Canh sinh nhân bât nại cửu ( phú quý không bền )
Tại Ngọ = Miếu .
Giáp , Đinh , Kỷ sinh nhân là Tài Quan cách .
Bính , Mậu sinh nhân bại , tật .
Tại Thân = Vượng .
Thiên phủ đồng cung : Kỷ , Giáp , Canh , Đinh sinh nhân thuộc Tài Quan cách .
Đa phần là dùng Lộc tồn , nhưng cũng có ngoại lệ ,,,
Tại Tý địa = Bình .
Đinh , Kỷ , Canh sinh nhân là Quý cách ,
Nhâm , Quý sinh nhân , bất nại cửu .
Tại Dậu = Đắc .
Tham lang đồng cung , Ất , Tân sinh giả Quý .
Giáp , Canh sinh nhân bât nại cửu ( phú quý không bền )
Tại Ngọ = Miếu .
Giáp , Đinh , Kỷ sinh nhân là Tài Quan cách .
Bính , Mậu sinh nhân bại , tật .
Tại Thân = Vượng .
Thiên phủ đồng cung : Kỷ , Giáp , Canh , Đinh sinh nhân thuộc Tài Quan cách .
Đa phần là dùng Lộc tồn , nhưng cũng có ngoại lệ ,,,
AnKhoa
05/01/2012
INDOCHINE
05/01/2012
Trong cuốn này , thấy có Hỏa ,Linh , nhưng lại gọi là Thiên Hỏa , Thiên Linh
Thiên Hỏa ;
-Dần , Ngọ , Tuất = Nghi ( nên , có thể là khoảng giữa Đắc và Vượng , )
- Thân , Tý , Thìn = Hãm .
- Tỵ , Dậu , Sửu = Đắc , Cát .
Thiên Linh :
- Dần , Ngọ , Tuất = Miếu .
Hỏa , Linh nhị tinh Lợi tại Đông Nam nhân , bất Lợi tại Tây Bắc nhân .
Thiên Hỏa ;
-Dần , Ngọ , Tuất = Nghi ( nên , có thể là khoảng giữa Đắc và Vượng , )
- Thân , Tý , Thìn = Hãm .
- Tỵ , Dậu , Sửu = Đắc , Cát .
Thiên Linh :
- Dần , Ngọ , Tuất = Miếu .
Hỏa , Linh nhị tinh Lợi tại Đông Nam nhân , bất Lợi tại Tây Bắc nhân .
INDOCHINE
05/01/2012
Thất sát :
Tý , Ngọ , Mão , Dậu = Vượng .
Dần , Thân , Thìn , Tuất , Sửu , Mùi = Miếu .
Tỵ, Hợi = Hãm .
Phá Quân :
Tý , Ngọ , Thìn , Tuất , Sửu , Mùi = Vượng .
Tỵ , Hợi = Bình .
Mão , Dậu , Dần , Thân = Hãm .
Tham Lang :
Tý , Ngọ = Vượng .
Thìn , Tuất , Sửu , Mùi = Miếu .
Mão, Dậu = Lợi . ( Có lẽ là Đắc )
Dần , Thân = Bình .
Tỵ , Hợi = Hãm .
Liêm trinh :
Tý , Ngọ , Mão , Dậu = Bình .
Dần , Tứ Mộ = Lợi .
Thân = Miếu .
Tỵ , Hợi = Hãm .
Kình dương :
Tứ Mô = Miếu .
Dần , Thân , Tỵ , Hợi = Đắc .
Tý ,Ngọ, Mão , Dậu = Hãm .
Đà la :
Dần , Thân , Tỵ , Hợi = Miếu .
Tứ Mộ = Đắc .
Tý , Ngọ , Mão , Dậu = Bất nhập ... ( 1 chữ đọc không ra ) .
Không và Kiếp thì chưa tìm ra , có lẽ ở các trang trước .
Tý , Ngọ , Mão , Dậu = Vượng .
Dần , Thân , Thìn , Tuất , Sửu , Mùi = Miếu .
Tỵ, Hợi = Hãm .
Phá Quân :
Tý , Ngọ , Thìn , Tuất , Sửu , Mùi = Vượng .
Tỵ , Hợi = Bình .
Mão , Dậu , Dần , Thân = Hãm .
Tham Lang :
Tý , Ngọ = Vượng .
Thìn , Tuất , Sửu , Mùi = Miếu .
Mão, Dậu = Lợi . ( Có lẽ là Đắc )
Dần , Thân = Bình .
Tỵ , Hợi = Hãm .
Liêm trinh :
Tý , Ngọ , Mão , Dậu = Bình .
Dần , Tứ Mộ = Lợi .
Thân = Miếu .
Tỵ , Hợi = Hãm .
Kình dương :
Tứ Mô = Miếu .
Dần , Thân , Tỵ , Hợi = Đắc .
Tý ,Ngọ, Mão , Dậu = Hãm .
Đà la :
Dần , Thân , Tỵ , Hợi = Miếu .
Tứ Mộ = Đắc .
Tý , Ngọ , Mão , Dậu = Bất nhập ... ( 1 chữ đọc không ra ) .
Không và Kiếp thì chưa tìm ra , có lẽ ở các trang trước .
AnKhoa
05/01/2012
Cám ơn anh INDOCHINE.
Có vẻ các tài liệu tiếng Trung đều có nhiều điểm trùng khớp với Đẩu số toàn thư (riêng đoạn Kình tại tứ sinh, Đà tại tứ chính hơi khó hiểu)
Với trường hợp khác biệt giữa miếu và vượng, vượng và đắc có thể không lớn, nhưng giữa miếu/vượng và hãm của một hung tinh thì lại không phải là nhỏ, ví dụ như :
- Tham Lang vượng hay hãm tại Tý Ngọ ?
- Thất Sát miếu vượng hay hãm tại Mão, Dậu, Thìn Tuất ?
- Hỏa Linh tại Thìn/Tuất là đắc hay hãm ?
Liệu người nghiên cứu có thể bỏ qua vấn đề này ?
Về Không Kiếp theo em cũng có nhiều khác biệt, ít nhất khi AnKhoa so sánh với tài liệu VĐC, anh INDOCHINE thử tìm thêm xem.
Thân!
Sửa bởi AnKhoa: 05/01/2012 - 02:12
Có vẻ các tài liệu tiếng Trung đều có nhiều điểm trùng khớp với Đẩu số toàn thư (riêng đoạn Kình tại tứ sinh, Đà tại tứ chính hơi khó hiểu)
Với trường hợp khác biệt giữa miếu và vượng, vượng và đắc có thể không lớn, nhưng giữa miếu/vượng và hãm của một hung tinh thì lại không phải là nhỏ, ví dụ như :
- Tham Lang vượng hay hãm tại Tý Ngọ ?
- Thất Sát miếu vượng hay hãm tại Mão, Dậu, Thìn Tuất ?
- Hỏa Linh tại Thìn/Tuất là đắc hay hãm ?
Liệu người nghiên cứu có thể bỏ qua vấn đề này ?
Về Không Kiếp theo em cũng có nhiều khác biệt, ít nhất khi AnKhoa so sánh với tài liệu VĐC, anh INDOCHINE thử tìm thêm xem.
Thân!
Sửa bởi AnKhoa: 05/01/2012 - 02:12
INDOCHINE
05/01/2012
Sách này luận về Khốc / Hư cũng lạ :
Thiên khốc :
Kim, Hình khắc tinh ,
Sửu , Thân , Mão , Ngọ hóa vi Cát , danh viết Đắc sở .
Dần , Ngọ , Tuất hiếu nhân nghĩa .
Cùng Thiên Hư đồng lâm Thân / Mệnh tác Cát tinh vô lực .
Sửu , Mùi , Thân ngộ Lộc danh hiển .
Nhập Miếu ; Sửu, Mùi , Ngọ .
Tại Tử , kỳ tử tảo cô hoặc vô tử nữ ..
bản sinh thân , dị mãi điền trang , đông tây kất cái , tâm sự mang mang ,
hựu đới hình thương , nhị hạn phùng chi , ai khốc đoạn trường ,,
Thiên khốc nhập Miếu đắc Quý , ngộ Lộc ích nghiệp .
nhập Mã tắc bôn tẩu ,,
Thiên khốc :
Kim, Hình khắc tinh ,
Sửu , Thân , Mão , Ngọ hóa vi Cát , danh viết Đắc sở .
Dần , Ngọ , Tuất hiếu nhân nghĩa .
Cùng Thiên Hư đồng lâm Thân / Mệnh tác Cát tinh vô lực .
Sửu , Mùi , Thân ngộ Lộc danh hiển .
Nhập Miếu ; Sửu, Mùi , Ngọ .
Tại Tử , kỳ tử tảo cô hoặc vô tử nữ ..
bản sinh thân , dị mãi điền trang , đông tây kất cái , tâm sự mang mang ,
hựu đới hình thương , nhị hạn phùng chi , ai khốc đoạn trường ,,
Thiên khốc nhập Miếu đắc Quý , ngộ Lộc ích nghiệp .
nhập Mã tắc bôn tẩu ,,
INDOCHINE
05/01/2012
xuất nhập đế vương chi môn , 12 cung mạc tắc vi ưu ,
duy tai Nô cung ngộ Lực ( sĩ ) , Phục ( binh ) cùng Thái âm đồng cư
khốc lạp liên miên ( mẹ hay vợ mất ) .
Thiên Hư , Thủy cùng Thiên không đồng cư ,
vi nhân hư hoa ( không chân thật )
Hư ngộ dịch Mã tại Cự Nhật cung tắc tương tẩu hành trang ( sắp đi xa )
Sách này viết chữ thảo nên nhiều chỗ đọc muốn nổ con mắt ..
duy tai Nô cung ngộ Lực ( sĩ ) , Phục ( binh ) cùng Thái âm đồng cư
khốc lạp liên miên ( mẹ hay vợ mất ) .
Thiên Hư , Thủy cùng Thiên không đồng cư ,
vi nhân hư hoa ( không chân thật )
Hư ngộ dịch Mã tại Cự Nhật cung tắc tương tẩu hành trang ( sắp đi xa )
Sách này viết chữ thảo nên nhiều chỗ đọc muốn nổ con mắt ..
NgoaLong
05/01/2012
AnKhoa said:
Nhưng, chừng đó chưa đủ bao quát. Vậy, còn những trường hợp không phải như trên thì sao, có cùng một lực không. Nếu không xét tới đắc hãm thì e rằng coi là lực như nhau, nhưng nếu xét tới đắc hãm thì lại phân thành 2 trường hợp.
Ví dụ: Khúc tại Tý và Khúc tại Ngọ, đều độc thủ (không hội hợp Xương), vậy thì ý nghĩa và lực của tại hai cung thế nào. Hay xét một trường hợp "sạch" hơn là mệnh VCD có có một trung tinh là Khúc độc thủ, tam phương tứ chính không có sát tinh, thì cân nặng nhẹ hai trường hợp tại Tý và Ngọ ra sao ?
Ví dụ: Khúc tại Tý và Khúc tại Ngọ, đều độc thủ (không hội hợp Xương), vậy thì ý nghĩa và lực của tại hai cung thế nào. Hay xét một trường hợp "sạch" hơn là mệnh VCD có có một trung tinh là Khúc độc thủ, tam phương tứ chính không có sát tinh, thì cân nặng nhẹ hai trường hợp tại Tý và Ngọ ra sao ?
NL thì để ý tới Tử Vi thế, sự kết hợp hơn là Tử Vi tinh. Một sao đơn độc, chưa nói lên được gì nhiều. Tính lý của mỗi sao, nó cũng như nguyên tố hóa học vậy, có những cái nó không lộ ra/xảy ra, chỉ khi nào được kết hợp với những sao khác thì mới thành, như phản ứng hóa học vậy. Một tinh đẩu mang rất nhiều ý nghĩa, đâu thể nào ứng tất cả được, có nhiều cái chỉ hình thành khi được kích hoạt.
Còn nếu hỏi NL nghĩ sao về Văn Khúc tại Tí và Ngọ, theo NL thì Khúc tại Tí "tươi tốt" hơn tại Ngọ. Ở đây NL dựa vào ngũ hành để gia giảm (cung vị). Hoặc Văn Xương, tại Ngọ thì bị khắc, tại Tí thì phải sinh xuất, thì khác biệt (chênh lệch) không nhiều lắm. Với lại, tuy bị khắc nhưng nếu được hỏa luyện thì được thanh khí hơn nhỉ. Nhưng để được luyện thì có lẽ phải cần yếu tốt khác nữa. Yếu tố ấy là tinh đẩu khác? Như phú có câu: "Văn Xương cư Ngọ, ký viết: khốn: đắc thủy diệu chung thành đại khí". Tại sao cần thủy? Cho lò lửa bớt nóng để khỏi bị nung chảy chăng?
Sửa bởi NgoaLong: 05/01/2012 - 09:00
tuphasonghanh
05/01/2012
Sách vở loạn tùng phèo. Mỗi người nhiều năm chơi tử vi, tự nhận thức thôi.
Ngay trong quyển Tăng san bốc dịch. Người dịch hình như o có kiến thức về dịch hay sao?
Đoạn thì nói thì nói A, đoạn sau thì nói hoàn toàn ngược lại.
Chưa kể TVDS TOAN THU cũng có các bản khác nhau. Vui nhỉ.
Ngay trong quyển Tăng san bốc dịch. Người dịch hình như o có kiến thức về dịch hay sao?
Đoạn thì nói thì nói A, đoạn sau thì nói hoàn toàn ngược lại.
Chưa kể TVDS TOAN THU cũng có các bản khác nhau. Vui nhỉ.
AnKhoa
05/01/2012
tuphasonghanh, on 05/01/2012 - 15:14, said:
Sách vở loạn tùng phèo. Mỗi người nhiều năm chơi tử vi, tự nhận thức thôi.
Ngay trong quyển Tăng san bốc dịch. Người dịch hình như o có kiến thức về dịch hay sao?
Đoạn thì nói thì nói A, đoạn sau thì nói hoàn toàn ngược lại.
Chưa kể TVDS TOAN THU cũng có các bản khác nhau. Vui nhỉ.
Ngay trong quyển Tăng san bốc dịch. Người dịch hình như o có kiến thức về dịch hay sao?
Đoạn thì nói thì nói A, đoạn sau thì nói hoàn toàn ngược lại.
Chưa kể TVDS TOAN THU cũng có các bản khác nhau. Vui nhỉ.
Vấn đề là đa phần tài liệu tiếng Trung đều 90% giống Đẩu số toàn thư.
Hỷ Kỵ Trung Châu Phái cũng vậy.
Thân!
AnKhoa
05/01/2012
INDOCHINE, on 05/01/2012 - 02:53, said:
Sách này luận về Khốc / Hư cũng lạ :
Thiên khốc :
Kim, Hình khắc tinh ,
Sửu , Thân , Mão , Ngọ hóa vi Cát , danh viết Đắc sở .
Dần , Ngọ , Tuất hiếu nhân nghĩa .
Cùng Thiên Hư đồng lâm Thân / Mệnh tác Cát tinh vô lực .
Sửu , Mùi , Thân ngộ Lộc danh hiển .
Nhập Miếu ; Sửu, Mùi , Ngọ .
Tại Tử , kỳ tử tảo cô hoặc vô tử nữ ..
bản sinh thân , dị mãi điền trang , đông tây kất cái , tâm sự mang mang ,
hựu đới hình thương , nhị hạn phùng chi , ai khốc đoạn trường ,,
Thiên khốc nhập Miếu đắc Quý , ngộ Lộc ích nghiệp .
nhập Mã tắc bôn tẩu ,,
Thiên khốc :
Kim, Hình khắc tinh ,
Sửu , Thân , Mão , Ngọ hóa vi Cát , danh viết Đắc sở .
Dần , Ngọ , Tuất hiếu nhân nghĩa .
Cùng Thiên Hư đồng lâm Thân / Mệnh tác Cát tinh vô lực .
Sửu , Mùi , Thân ngộ Lộc danh hiển .
Nhập Miếu ; Sửu, Mùi , Ngọ .
Tại Tử , kỳ tử tảo cô hoặc vô tử nữ ..
bản sinh thân , dị mãi điền trang , đông tây kất cái , tâm sự mang mang ,
hựu đới hình thương , nhị hạn phùng chi , ai khốc đoạn trường ,,
Thiên khốc nhập Miếu đắc Quý , ngộ Lộc ích nghiệp .
nhập Mã tắc bôn tẩu ,,
Kể ra đây vẫn là tài liệu đầu tiên mà thấy ít có sự khác biệt với tài liệu Việt nhất.
Thân!
NgoaLong
05/01/2012
Nói đến Khốc Hư, NL chợt nghĩ đến tại sao Khốc Hư được đề cao tại Tí Ngọ, được xem là đắc địa tại đây. Phải chăng vì nó đồng cung như các bộ sao khác (Tả Hữu, Không Kiếp, v.v..., tức là những bộ sao cặp. Linh Hỏa tuy cũng là 1 cặp nhưng vì cách an mỗi tuổi mỗi khác nên không giống). Hình như tất cả những bộ sao đôi (Tả Hữu, Xương Khúc, Không Kiếp, Long Phượng, Quang Quí, Thai Tọa, Khốc Hư) , kể cả sát tinh, bại tinh (nếu đều an như nhau cho mọi tuổi), thì đều đắc địa, được tốt mỗi khi đồng cung.
Sửa bởi NgoaLong: 05/01/2012 - 22:36
Sửa bởi NgoaLong: 05/01/2012 - 22:36
AnKhoa
05/01/2012
Chắc đó là nơi một mặt nào đó của Âm - Dương được giao hòa.
Thân!
Thân!