tranthevu, on 18/06/2015 - 09:14, said:


Giải "Nobel Tử Bình"
#46
Gửi vào 18/06/2015 - 09:23
#47
Gửi vào 27/06/2015 - 02:54
VULONG1, on 19/06/2015 - 21:16, said:
“Nhâm thị viết : Hỉ thần, là phụ dụng thần trợ chủ. Phàm bát tự trước tiên cần phải có hỉ thần, cả đời hữu cát vô hung, cho nên hỉ thần chính là cát thần vậy. Nếu trong trụ có dụng thần và hỉ thần, tuế vận không gặp kỵ thần thì vô hại, lỡ gặp kỵ thần tất hung, như Mậu thổ sinh vào tháng Dần, lấy Giáp mộc trong Dần làm dụng thần, kỵ thần nhất định là Canh Tân Thân Dậu kim, nguyên thần nhật chủ dày, lấy Nhâm Quý Hợi Tý làm hỷ thần, thì kim gặp thủy mà tham sinh, không đến khắc mộc vậy; nguyên thần nhật chủ hư nhược, lấy Bính Đinh Tị Ngọ hỏa làm hỷ thần, thì kim sợ gặp thủy, cũng không đến khắc mộc vậy. Như thân nhược lấy Bính hỏa trong Dần làm dụng thần, hỉ thấy thấu ra thiên can, lấy thủy là kỵ thần, lấy Tỉ thổ là hỉ thần, cho nên dụng Quan dụng Ấn có phân biệt; Dụng Quan, nếu thân vượng có thể lấy Tài làm hỉ thần; thân nhược dụng Ấn, rồi sau đó lấy Quan làm hỉ thần, không có hỉ thần mà dụng thần đắc lệnh hùng tráng, đại thế kiên cố, tứ trụ an hòa, dụng thần đứng cạnh, không tranh không đố, tức gặp kỵ thần cũng không hung hiểm. Như nguyên cục không có hỷ thần, có kỵ thần (hoặc ám phục hoặc xuất hiện), hoặc đứng sát bên dụng thần, hoặc tranh hoặc đố, hoặc dụng thần không nắm lệnh, hoặc tuế vận dẫn xuất kỵ thần, trợ khởi kỵ thần, giống như quốc gia có gian thần, tư thông giặc ngoại bang, hai mặt giáp công thì hung họa lập tức đến. Luận về thổ như thế, còn lại đều luận giống vậy”.
Qua đoạn trên chúng ta thấy tác giả đã đưa ra lý thuyết: “Tham Sinh nên Vong Xung” , tức “Tham Sinh Quyên Khắc” nhưng tác giả không nói tới sinh gần hay xa có khác gì nhau không? Vậy thì chúng ta thử kiểm tra điều này qua các ví dụ xem sao?
Với ví dụ 40/T3 (Trích Thiên Tủy):
“40 - Giáp dần mậu thìn bính dần bính thân
Kỷ tị/ canh ngọ/ tân mùi/ nhâm thân/ quý dậu/ giáp tuất
Can bính toạ dần ấn thụ, sinh vào tháng quý xuân, khí hỏa có thừa, với lại gặp năm giáp dần, tất nhật chủ quá vượng. Thổ tuy đương lệnh, mà bị mộc vượng khắc, mừng gặp thân xung dần, tài tinh đắc dụng, hiềm vì can bính hỏa khắc chi thân, nên xung vô lực. Hành vận phương nam, khó khăn dị thường, đến nhâm thân, quý dậu vận trình hai mươi năm, thân kim xung dần mộc, khắc tỷ kiếp, sang nghiệp hưng gia. Trụ này tài tinh làm dụng thần”.
Với ví dụ này chúng ta chỉ cần biết là :
1 - Bính trụ giờ phải sinh xa cho Mậu và Thìn cách 1 hay 2 ngôi nên Bính trụ giờ đã không quên xung Thân cùng trụ.
2 - Vì Thân bị Bính cùng trụ khắc trực tiếp cho nên Thân không thể khắc Dần bên cạnh.
Từ đây cho thấy tác giả đã đưa ra 2 quy tắc như sau :
a – Can hay chi sinh cách ngôi vẫn khắc được các can chi khác (40/T3).
b – Can hay chi bị khắc trực tiếp không có khả năng sinh hay khắc các can chi khác (40/T3).
Với ví dụ 38/T3:
“38 - Bính tý - kỷ hợi - ất dậu - nhâm ngọ
Canh tý/ tân sửu/ nhâm dần/ quý mão/ giáp thìn/ kỷ tị
Trụ toàn dậu, hợi, tý tức khí âm hàn. Ất mộc lạnh cần sưởi ấm, có bính hỏa có thể làm dụng thần, nhâm thủy chính là khắc thần. Mừng nhờ nhâm thủy xa bính hỏa, nhâm thủy sinh trợ ất mộc, ất mộc vốn suy nhược mừng được sinh phò. Lại có kỷ thổ thấu can, có thể ngăn thủy bảo vệ bính hỏa. Thật đẹp khi can thủy mộc hỏa thổ lập nên môn hộ, tương sinh hữu tình. Địa chi ngọ hỏa chế sát tân kim tàng trong dậu, năm tháng hỏa thổ thông căn lộc vượng. Vận đông nam đều là vận tốt, tứ trụ hữu tình, hành vận hanh thông vinh quang, làm quan đến chức tổng đốc, liên đăng giáp đệ, âm dương phối hợp thật vi diệu vậy”.
Với ví dụ này ta thấy xẩy ra 2 trường hợp như sau :
Trường hợp thứ nhất :
1 - Nhâm trụ giờ sinh gần cho Ất nên không khắc được Ngọ cùng trụ (tham sinh vong xung).
2 - Dậu trụ ngày bị Ngọ khắc gần không khắc được Ất cùng trụ.
3 - Ất không bị khắc trực tiếp bởi Dậu nên khắc gần được Kỷ trụ tháng (áp dụng câu b ở ví dụ trên).
4 - Kỷ trụ tháng bị khắc gần bởi Ất trụ giờ vẫn khắc trực tiếp được Hợi cùng trụ (qua câu: “Lại có kỷ thổ thấu can, có thể ngăn thủy bảo vệ bính hỏa”).
Ta thấy câu 2 và câu 4 trái ngược với nhau nên trường hợp thứ nhất này là sai.
Trường hợp thứ hai :
1 - Nhâm trụ giờ sinh gần cho Ất nên không khắc được Ngọ cùng trụ (tham sinh vong xung).
2 - Dậu trụ ngày bị Ngọ khắc gần vẫn khắc được Ất cùng trụ.
3 - Ất bị khắc trực tiếp bởi Dậu nên không khắc gần được Kỷ trụ tháng (áp dụng câu b ở ví dụ trên).
4 - Kỷ trụ tháng không bị khắc hay bị khắc gần bởi Ất trụ giờ vẫn khắc trực tiếp được Hợi cùng trụ (qua câu: “Lại có kỷ thổ thấu can, có thể ngăn thủy bảo vệ bính hỏa”).
Với trường hợp thứ 2 này ta thấy tác giả đã đưa ra tiếp 2 quy tắc như sau :
c – Can hay chi sinh gần cho nhau thì không khắc được các can chi khác (38/T3).
d – Can hay chi bị khắc gần vẫn có khả năng khắc được các can chi khác (38/T3).
Chúng ta có thể gộp 4 quy tắc này thành 2 quy tắc như sau:
1 – Các can hay chi sinh gần cho nhau không khắc được các can chi khác (38/T3), còn các can chi sinh cách ngôi vẫn khắc được các can chi khác (40/T3).
2 – Can hay chi bị khắc gần (38/T3) vẫn khắc được các can chi khác nhưng bị khắc trực tiếp (40/T3) thì không có khả năng khắc các can chi khác.
Với trường hợp thứ 2 này ta thấy tác giả đã đưa ra tiếp 2 quy tắc như sau :
c – Can hay chi sinh gần cho nhau thì không khắc được các can chi khác (38/T3).
d – Can hay chi bị khắc gần vẫn có khả năng khắc được các can chi khác (38/T3).
Chúng ta có thể gộp 4 quy tắc này thành 2 quy tắc như sau:
1/TG (của tác giả) – Các can hay chi sinh gần cho nhau không khắc được các can chi khác (38/T3), còn các can chi sinh cách ngôi vẫn khắc được các can chi khác (40/T3).
2/TG (của tác giả) – Can hay chi bị khắc gần (38/T3) vẫn khắc được các can chi khác nhưng bị khắc trực tiếp (40/T3) thì không có khả năng khắc các can chi khác.
.............................................
Tiếp bài viết trên bằng ví dụ 311/T3:
“311 - Nhâm Tuất - Giáp Thìn - Đinh Dậu - Kỷ Dậu
Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất
Tạo này đại thể nói thấu mộc ở can tháng, xuân mộc đủ để sinh hỏa, can năm Nhâm thủy sinh mộc, ngày giờ tọa hai trường sinh, đều luận lấy vượng. Tiếc rằng địa chi thổ kim thái trọng, tất là căn thiên can thủy mộc yếu, thủy mộc vô khí, thì mái ấm của Đinh hỏa không được kiên cố. Giáp mộc sinh vào cuối mùa xuân, mộc đang thoái khí, Thìn Dậu hợp mà hóa kim, thì dư khí Giáp mộc lâm tuyệt địa. Tuất thổ ngăn cách, khiến cho kim không thể sinh thủy,Tuất thổ đủ để chế thủy, Nhâm thủy thụ khắc mà không thể sinh mộc. Thìn Dậu hóa kim, tất có thể khắc mộc, cũng biết căn gốc nhật chủ không kiên cố. Nếu như nói Dậu là nơi Đinh hỏa trường sinh, là ngũ hành đảo nghịch vậy. Trong Dậu thuần có Tân, không có tạp khí, kim sinh thủy, lý là không có sinh hỏa. Hỏa đến Dậu kim, đất tử tuyệt, càng sợ can giờ có Kỷ thổ, lấy mất đi nguyên thần nhật chủ, sinh kim tiết hỏa, mà 3 chữ thủy mộc hỏa đều hư nhược vậy. Hậu quả chết yểu ở năm Quý Dậu. Bởi vậy luận mệnh tiểu nhi, là không dễ nhìn vậy.
Với ví dụ này chúng ta chỉ cần biết là vì Nhâm trụ năm bị Tuất cùng trụ khắc trực tiếp cho nên Nhâm không thể sinh cho Giáp bên cạnh.
Bổ xung thêm vào quy tắc 2/TG ở bài viết trên thì ta thấy tác giả đã đưa ra quy tắc:
2/TG (của tác giả) - Can hay chi cùng trụ bị khắc trực tiếp không có khả năng sinh hay khắc các can chi khác (40; 311/T3).
(Đây chính là một trong các nội dung của “Binh Pháp Tử Bình” mà tôi đã đưa ra trong cuốn “Giải Mã Tứ Tụ” của tôi trước khi được đọc cuốn sách này.)
Nhưng với ví dụ 231/T3 :
“231 - Đinh Mùi - Ất Tị - Đinh Dậu - Quý Mão
Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi
Đinh hỏa sinh vào đầu mùa hạ, trong trụ có Kiêu Kiếp nắm quyền, một điểm Quý thủy, không đủ ức chế, hỉ nhất là nhật chủ tọa dưới “Dậu kim, xung khử Mão mộc”, sinh khởi Quý thủy. Xuất thân bần hàn, vận Quý nhập học, lại được tài sản cự vạn; vận Nhâm đăng khoa, vận Tân Sửu đắc tuyển tri huyện, làm quan Quận trưởng. Tạo này nếu không có Dậu kim, chẳng những không có tài, mà danh cũng không có vậy”.
Với ví dụ này chúng ta thấy nếu áp dụng quy tắc 2/TG (của tác giả) ở trên thì Quý ở trụ giờ khắc gần Đinh ở trụ ngày nên Đinh vẫn khắc trực tiếp được Dậu cùng trụ. Vậy thì vẫn áp dụng quy tắc 2/TG (của tác giả) ta thấy Dậu bị khắc trực tiếp bởi Đinh cùng trụ rồi thì làm sao mà có chuyện “Dậu kim, xung khử Mão mộc” ở trụ giờ như vậy được ?
Đến đây thì quá đủ để kết luận tác giả luận theo kiểu “Ngẫu Hứng”, hoàn toàn không theo những quy tắc nhất định nào cả. Cách luận theo kiểu “Ngẫu Hứng” này tôi vẫn thường gọi là cách luận theo kiểu “Chó cũng như Mèo”. Đến đây thì mọi người có thể đi đến kết luận “Tham Sinh Quên Khắc” có đáng tin hay cũng chỉ là loại luận theo kiểu “Ngẫu Hứng” này mà thôi ?
Vậy mà đến giờ vẫn còn những tên không “Bợ Đít” mà vẫn cho rằng tác giả luận đúng thì dĩ nhiên nếu không phải là “Bợ Đít” thì ắt hẳn phải là loại “Súc Sinh” chăng ?
Sửa bởi VULONG1: 27/06/2015 - 03:16
#48
Gửi vào 09/07/2015 - 23:45
#49
Gửi vào 12/07/2015 - 07:33
langhp, on 09/07/2015 - 23:45, said:
Ở đây đang chứng minh một trong các tính chất cơ bản của Tử Bình truyền thống, đó là Tính chất Sinh và Khắc của Ngũ Hành. Tính chất này đang xét trong thời kỳ nó còn Nguyên Thuỷ nên không có liên quan gì tới vượng suy của nó ở lệnh tháng. Cho nên hãy quên các khái niệm Trời với Đất, Tứ Hành Xung, lệnh tháng là Vua hay Chúa, Thần hay Sát ......
Thêm ví dụ số 295 trong cuốn Trích Thiên Tuỷ:
"295 - Đinh Dậu - Quý Mão - Bính Thìn - Bính Thân
Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi .
Bính hỏa sinh vào giữa xuân, Quan thấu Tài tàng, Ấn tinh nắm lệnh, Tỉ Kiếp trợ thân, tựa là như vượng. Ngại là Mão Dậu xung phá, Quý Đinh tương khắc, mộc hỏa tổn hại mà kim thủy sinh tồn, tuy dựa vào can giờ Bính hỏa trợ thân, nhưng Bính tọa Thân kim, cũng tự thân không lo xong. Hỉ trong Thìn xúc tàng dư khí, còn một chút mầm gốc, hãy còn mùa xuân, còn có thể dự trữ, so với tạo trước nhược hơn, cũng lấy Ấn làm phu tinh, là người đoan trang thùy mị, có tri thức hiểu lễ nghĩa; vận Bính Ngọ, phá Dậu kim, chồng đăng khoa, sinh hai con, phong làm tứ phẩm phu nhân; đến ngoài 40 tuổi, vận Mậu Thân, tiết hỏa sanh kim, hết lộc".
Với ví dụ này chỉ cần quan tâm câu: "Mão Dậu xung phá, Quý Đinh tương khắc, mộc hỏa tổn hại mà kim thủy sinh tồn".
Ta thấy rõ ràng điều này là trái ngược với quy tắc 2/TG (của tác giả) đã áp dụng ở các ví dụ ở trên mà tôi đã chỉ ra. Nếu như điều này đúng thì quy tắc 2/TG (của tác giả) từ:
"2/TG (của tác giả) – Can hay chi bị khắc gần (38/T3) vẫn khắc được các can chi khác nhưng bị khắc trực tiếp (40/T3) thì không có khả năng Sinh hay Khắc các can chi khác"
Phải sửa lại thành:
"2/TG (của tác giả) – Can hay chi bị khắc gần (38/T3) hay trực tiếp (40/T3) không có khả năng Sinh hay Khắc các can chi khác".
Giả sử quy tắc này đúng thì ta phải xét lại ví dụ 38/T3 :
“38 - Bính tý - kỷ hợi - ất dậu - nhâm ngọ
Canh tý/ tân sửu/ nhâm dần/ quý mão/ giáp thìn/ kỷ tị
Trụ toàn dậu, hợi, tý tức khí âm hàn. Ất mộc lạnh cần sưởi ấm, có bính hỏa có thể làm dụng thần, nhâm thủy chính là khắc thần. Mừng nhờ nhâm thủy xa bính hỏa, nhâm thủy sinh trợ ất mộc, ất mộc vốn suy nhược mừng được sinh phò. Lại có kỷ thổ thấu can, có thể ngăn thủy bảo vệ bính hỏa. Thật đẹp khi can thủy mộc hỏa thổ lập nên môn hộ, tương sinh hữu tình.Địa chi ngọ hỏa chế sát tân kim tàng trong dậu, năm tháng hỏa thổ thông căn lộc vượng. Vận đông nam đều là vận tốt, tứ trụ hữu tình, hành vận hanh thông vinh quang, làm quan đến chức tổng đốc, liên đăng giáp đệ, âm dương phối hợp thật vi diệu vậy”.
Ta bắt đầu từ câu “Lại có kỷ thổ thấu can, có thể ngăn thủy bảo vệ bính hỏa”. Vậy thì theo quy tắc 2/TG (của tác giả) thì muốn Kỷ trụ tháng khắc trực tiếp được Hợi cùng trụ thì dĩ nhiên Ất trụ ngày phải bị khắc trực tiếp bởi Dậu cùng trụ. Mà Dậu muốn khắc được Ất thì Dậu phải không bị Ngọ trụ giờ khắc gần. Cuối cùng muốn Ngọ trụ giờ không khắc gần được Dậu thì Ngọ phải bị Nhâm cùng trụ khắc trực tiếp. Từ đây đi đến kết luận Nhâm trụ giờ cho dù có sinh được gần Ất trụ ngày vẫn khắc được Ngọ cùng trụ.
Vậy thì câu “Tham Sinh Vong Xung” cũng chỉ là một câu luận theo kiểu “Ngẫu Hứng - Chó cũng như Mèo” của tác giả mà thôi.
(Vì nick VULONG1 đã bị Hachker làm cho không thể vào được trang Web này để đọc và viết bài nên tôi phải lấy nick mới là giongto777.)
Sửa bởi giongto777: 12/07/2015 - 08:03
#50
Gửi vào 12/07/2015 - 07:53
INDOCHINE, on 27/06/2015 - 10:17, said:
1/ lá thứ nhất là của Đoàn kỳ Đoan ( 1865 -1936 ) , 1 thủ lãnh quân phiệt vào thời kỳ Dân quốc ., từng 3 lần xuất nhậm chức vụ Tổng lý Quốc vụ , thân thế rất mực hiển hách :
Ất ......... Kỷ......... Ất .......Nhâm
Sửu...... Mão........ Hợi...... Ngọ
(Niên)
Đây là lời bình của 1 danh sư :
Tạo này Nguyệt lệnh Kiến Lộc , Hợi -Mão kết cuộc , Thân Vượng có thể nhậm Tài , chỗ hay là
Kỷ -Nhâm cả 2 đều Thấu ( hiển lộ tại thiên can ) , ở giữa có Ất ngăn cách . Kỷ Lộc tại Ngọ ,
Nhâm Lộc tại Hợi , Tài , Ấn đều đắc Lộc vi Quý ( lấy Lộc làm quý ) ,....ngũ phúc tề tập, thọ gần 80 .
(Trích Cổ kim danh nhân mệnh giám của Từ lạc Ngô, 1 nhà Tử bình rất , rất nổi danh.)
2/ Lá thứ 2 : Một khổ ( mệnh ) Tăng nhân .
Ất ...........Kỷ .........Ất........Nhâm
Sửu..........Mão ........Hợi....... Ngọ
(Niên)
Lời bình của cùng tác giả :
Kỷ Thổ chi Tài ( Ất có Kỷ là Tài tinh ) thông căn tại Sửu, đắc Lộc tại Ngọ , tựa như Thân Tài lưỡng Vượng ( cả 2 đều Vượng ) .
Không ngờ Kỷ thổ Tài tinh đã bị Tỷ kiên đoạt mất , Sửu thổ Tài lại bị Mão Mộc khắc phá !
Ngọ Hoả Thực thần lại bị Hợi Thuỷ khắc khứ , sự che chở của Nhâm Thuỷ ( Nhâm là Ấn của Ất ,
Nhật can , cho nên gọi là che chở ) không có chỗ để dẫn hoá , đây gọi là Thượng Hạ vô tình ( Can , chi phối hợp không thuận lý ) .......Ất Hợi vận phải bán vợ đợ con ( ngày xưa khi nghèo quá thì người ta đem vợ ra bán và cho con đi ở đợ , đây là chuyện thường tình , tựa như Thuý Kiều bán thân chuộc cha vậy ) , xuống tóc quy y , sau chẳng thủ thanh quy ( bị nhà chùa trục xuất ) , chết vì đói và lạnh
bên vệ đường .
(Trích từ sách Trích thiên tuỷ trưng nghĩa, cũng của Từ lạc Ngô.)
Sau đây là phê phán của chàng Phan v Khâm :
[font=細明體]請問各位讀者,這二個命造差別在哪?一模一樣吧![/font]
[font=細明體]同樣的八字,一個是大軍閥,妻妾雲集,壽近八旬;一個是苦僧,妻子俱賣,凍餓死街頭!同樣都是出自徐樂吾大師編著的大作,但解釋卻天差地別!真個是見人說人話、見鬼說鬼話![/font]
.......[font=細明體]該怎麼算??這其實就是許多用神派大師會面臨的問題!大家應該深以為戒![/font]
Trích :
Xin hỏi chư vị độc giả , 2 mệnh tạo này khác biệt chỗ nào ? nhất nhất đều giống nhau !
Đồng dạng cùng là 1 Bát tự , 1 cái là 1 nhà đại quân phiệt, thê thiếp đầy đàn, thọ gần 80,
1 cái là khổ tăng ( nhà tu khốn khổ ) , bán cả vợ con , chết cóng nơi đầu hẻm ,đồng dạng ( cả 2 lá số ) đều phát xuất từ 2 đại danh tác của đại sư Từ lạc Ngô . nhưng lời giải thích thì khác xa như chân trời đáy vực, ! thật đúng là đi với Bụt mặc cà sa , đi với ma mặc áo giấy ! ....
Nên như thế nào ?? kỳ thiệt đây là 1 vấn đề gay gắt mà các đại sư của trường phái Dụng Thần
phải đối diện .! Các vị nên lấy trường hợp này làm gương .
[font=細明體]也許,又會有大師不服氣,說這一定是出生地的問題所造成的,呵呵!也對!反正用神派大師永遠有新的見解![/font]
Hoặc giả có vị đại sư nào đó tâm vẫn bất phục , cho rằng đây là thuộc về vấn đề Địa điểm Xuất sinh
tạo thành ( có thuyết cho rằng địa lý nơi sinh ra cũng ảnh hưởng đến phúc khí của Bát tự ) , Ha hA !
cũng Đúng ! Phản biện này cho thấy các vị đại sư phái Dụng thần luôn có những kiến giải mới !
Đây là bài châm chọc của 1 anh chàng thuộc trường phái Vô Dụng Thần , gần đây phái này cũng có vài tay tên tuổi nổi lên như cồn ...bài này chỉ trích 1 đoạn ngắn cho vui thôi.
Quý bạn có ý kiến gì về trường hợp này ??
Qua bài viết trên chúng ta chỉ cần quan tâm tới câu kết luận của người viết là Phan Văm Khâm với bài luận của Từ Lạc Ngô:
" !....thật đúng là đi với Bụt mặc cà sa , đi với ma mặc áo giấy ! ...."
Câu này có khác gì với câu tôi đã kết luận về cách luận của Từ Nhạc Ngô là luận theo kiểu "Chó cũng như Mèo" ở trên hay không ?
Sửa bởi giongto777: 12/07/2015 - 07:58
#51
Gửi vào 12/07/2015 - 14:25
giongto777, on 12/07/2015 - 07:53, said:
INDOCHINE, on 27/06/2015 - 10:17, said:
1/ lá thứ nhất là của Đoàn kỳ Đoan ( 1865 -1936 ) , 1 thủ lãnh quân phiệt vào thời kỳ Dân quốc ., từng 3 lần xuất nhậm chức vụ Tổng lý Quốc vụ , thân thế rất mực hiển hách :
Ất ......... Kỷ......... Ất .......Nhâm
Sửu...... Mão........ Hợi...... Ngọ
(Niên)
Đây là lời bình của 1 danh sư :
Tạo này Nguyệt lệnh Kiến Lộc , Hợi -Mão kết cuộc , Thân Vượng có thể nhậm Tài , chỗ hay là
Kỷ -Nhâm cả 2 đều Thấu ( hiển lộ tại thiên can ) , ở giữa có Ất ngăn cách . Kỷ Lộc tại Ngọ ,
Nhâm Lộc tại Hợi , Tài , Ấn đều đắc Lộc vi Quý ( lấy Lộc làm quý ) ,....ngũ phúc tề tập, thọ gần 80 .
(Trích Cổ kim danh nhân mệnh giám của Từ lạc Ngô, 1 nhà Tử bình rất , rất nổi danh.)
2/ Lá thứ 2 : Một khổ ( mệnh ) Tăng nhân .
Ất ...........Kỷ .........Ất........Nhâm
Sửu..........Mão ........Hợi....... Ngọ
(Niên)
Lời bình của cùng tác giả :
Kỷ Thổ chi Tài ( Ất có Kỷ là Tài tinh ) thông căn tại Sửu, đắc Lộc tại Ngọ , tựa như Thân Tài lưỡng Vượng ( cả 2 đều Vượng ) .
Không ngờ Kỷ thổ Tài tinh đã bị Tỷ kiên đoạt mất , Sửu thổ Tài lại bị Mão Mộc khắc phá !
Ngọ Hoả Thực thần lại bị Hợi Thuỷ khắc khứ , sự che chở của Nhâm Thuỷ ( Nhâm là Ấn của Ất ,
Nhật can , cho nên gọi là che chở ) không có chỗ để dẫn hoá , đây gọi là Thượng Hạ vô tình ( Can , chi phối hợp không thuận lý ) .......Ất Hợi vận phải bán vợ đợ con ( ngày xưa khi nghèo quá thì người ta đem vợ ra bán và cho con đi ở đợ , đây là chuyện thường tình , tựa như Thuý Kiều bán thân chuộc cha vậy ) , xuống tóc quy y , sau chẳng thủ thanh quy ( bị nhà chùa trục xuất ) , chết vì đói và lạnh
bên vệ đường .
(Trích từ sách Trích thiên tuỷ trưng nghĩa, cũng của Từ lạc Ngô.)
Sau đây là phê phán của chàng Phan v Khâm :
[font=細明體]請問各位讀者,這二個命造差別在哪?一模一樣吧![/font]
[font=細明體]同樣的八字,一個是大軍閥,妻妾雲集,壽近八旬;一個是苦僧,妻子俱賣,凍餓死街頭!同樣都是出自徐樂吾大師編著的大作,但解釋卻天差地別!真個是見人說人話、見鬼說鬼話![/font]
.......[font=細明體]該怎麼算??這其實就是許多用神派大師會面臨的問題!大家應該深以為戒![/font]
Trích :
Xin hỏi chư vị độc giả , 2 mệnh tạo này khác biệt chỗ nào ? nhất nhất đều giống nhau !
Đồng dạng cùng là 1 Bát tự , 1 cái là 1 nhà đại quân phiệt, thê thiếp đầy đàn, thọ gần 80,
1 cái là khổ tăng ( nhà tu khốn khổ ) , bán cả vợ con , chết cóng nơi đầu hẻm ,đồng dạng ( cả 2 lá số ) đều phát xuất từ 2 đại danh tác của đại sư Từ lạc Ngô . nhưng lời giải thích thì khác xa như chân trời đáy vực, ! thật đúng là đi với Bụt mặc cà sa , đi với ma mặc áo giấy ! ....
Nên như thế nào ?? kỳ thiệt đây là 1 vấn đề gay gắt mà các đại sư của trường phái Dụng Thần
phải đối diện .! Các vị nên lấy trường hợp này làm gương .
[font=細明體]也許,又會有大師不服氣,說這一定是出生地的問題所造成的,呵呵!也對!反正用神派大師永遠有新的見解![/font]
Hoặc giả có vị đại sư nào đó tâm vẫn bất phục , cho rằng đây là thuộc về vấn đề Địa điểm Xuất sinh
tạo thành ( có thuyết cho rằng địa lý nơi sinh ra cũng ảnh hưởng đến phúc khí của Bát tự ) , Ha hA !
cũng Đúng ! Phản biện này cho thấy các vị đại sư phái Dụng thần luôn có những kiến giải mới !
Đây là bài châm chọc của 1 anh chàng thuộc trường phái Vô Dụng Thần , gần đây phái này cũng có vài tay tên tuổi nổi lên như cồn ...bài này chỉ trích 1 đoạn ngắn cho vui thôi.
Quý bạn có ý kiến gì về trường hợp này ??
" !....thật đúng là đi với Bụt mặc cà sa , đi với ma mặc áo giấy ! ...."
Câu này có khác gì với câu tôi đã kết luận về cách luận của Từ Nhạc Ngô là luận theo kiểu "Chó cũng như Mèo" ở trên hay không ?
Với 2 bài luận của tác giả Từ Nhạc Ngô với Đoàn Kỳ Đoan và Lão Tăng có cùng 1 Tứ Trụ ở trên chắc chắn vượt qua các đối thủ tiềm năng khác để đoạt trọn vẹn cả giải Nobel IG Tử Bình lần thứ nhất này (tức không phải chung giải với ai cả).
Báo tin vui mừng cho các Thầy "Không Bợ Đít" tác giả cũng như các Thầy "Mặt Mỏng" biết như vậy.
#52
Gửi vào 12/08/2015 - 14:35
Trên forum Bát tự của Destiny.to ( Mệnh lý võng ) có 1 bài của Phan văn Khâm về 2 lá số như sau :
1/ lá thứ nhất là của Đoàn kỳ Đoan ( 1865 -1936 ) , 1 thủ lãnh quân phiệt vào thời kỳ Dân quốc ., từng 3 lần xuất nhậm chức vụ Tổng lý Quốc vụ , thân thế rất mực hiển hách :
Ất Kỷ Ất Nhâm
Sửu Mão Hợi Ngọ
(Niên)
Đây là lời bình của 1 danh sư :
Tạo này Nguyệt lệnh Kiến Lộc , Hợi -Mão kết cuộc , Thân Vượng có thể nhậm Tài , chỗ hay là
Kỷ -Nhâm cả 2 đều Thấu ( hiển lộ tại thiên can ) , ở giữa có Ất ngăn cách . Kỷ Lộc tại Ngọ ,
Nhâm Lộc tại Hợi , Tài , Ấn đều đắc Lộc vi Quý ( lấy Lộc làm quý ) ,....ngũ phúc tề tập, thọ gần 80 .
(Trích Cổ kim danh nhân mệnh giám của Từ lạc Ngô , 1 nhà Tử bình rất , rất nổi danh . )
2/ Lá thứ 2 : Một khổ ( mệnh ) Tăng nhân .
Ất Kỷ Ất Nhâm
Sửu Mão Hợi Ngọ
(Niên)
Lời bình của cùng tác giả :
Kỷ Thổ chi Tài ( Ất có Kỷ là Tài tinh ) thông căn tại Sửu, đắc Lộc tại Ngọ , tựa như Thân Tài lưỡng Vượng ( cả 2 đều Vượng ) .
Không ngờ Kỷ thổ Tài tinh đã bị Tỷ kiên đoạt mất , Sửu thổ Tài lại bị Mão Mộc khắc phá !
Ngọ Hoả Thực thần lại bị Hợi Thuỷ khắc khứ , sự che chở của Nhâm Thuỷ ( Nhâm là Ấn của Ất ,
Nhật can , cho nên gọi là che chở ) không có chỗ để dẫn hoá , đây gọi là Thượng Hạ vô tình ( Can , chi phối hợp không thuận lý ) .......Ất Hợi vận phải bán vợ đợ con ( ngày xưa khi nghèo quá thì người ta đem vợ ra bán và cho con đi ở đợ , đây là chuyện thường tình , tựa như Thuý Kiều bán thân chuộc cha vậy ) , xuống tóc quy y , sau chẳng thủ thanh quy ( bị nhà chùa trục xuất ) , chết vì đói và lạnh
bên vệ đường .
( Trích từ sách Trích thiên tuỷ trưng nghĩa , cũng của Từ lạc Ngô .)
Sau đây là phê phán của chàng Phan v Khâm :
[font=細明體]請問各位讀者,這二個命造差別在哪?一模一樣吧![/font]
[font=細明體]同樣的八字,一個是大軍閥,妻妾雲集,壽近八旬;一個是苦僧,妻子俱賣,凍餓死街頭!同樣都是出自徐樂吾大師編著的大作,但解釋卻天差地別!真個是見人說人話、見鬼說鬼話![/font]
.......[font=細明體]該怎麼算??這其實就是許多用神派大師會面臨的問題!大家應該深以為戒![/font]
Trích :
Xin hỏi chư vị độc giả , 2 mệnh tạo này khác biệt chỗ nào ? nhất nhất đều giống nhau !
Đồng dạng cùng là 1 Bát tự , 1 cái là 1 nhà đại quân phiệt, thê thiếp đầy đàn, thọ gần 80,
1 cái là khổ tăng ( nhà tu khốn khổ ) , bán cả vợ con , chết cóng nơi đầu hẻm ,đồng dạng ( cả 2 lá số ) đều phát xuất từ 2 đại danh tác của đại sư Từ lạc Ngô . nhưng lời giải thích thì khác xa như chân trời đáy vực , ! thật đúng là đi với Bụt mặc cà sa , đi với ma mặc áo giấy ! ....
Nên như thế nào ?? kỳ thiệt đây là 1 vấn đề gay gắt mà các đại sư của trường phái Dụng Thần
phải đối diện .! Các vị nên lấy trường hợp này làm gương .
[font=細明體]也許,又會有大師不服氣,說這一定是出生地的問題所造成的,呵呵!也對!反正用神派大師永遠有新的見解![/font]
Hoặc giả có vị đại sư nào đó tâm vẫn bất phục , cho rằng đây là thuộc về vấn đề Địa điểm Xuất sinh
tạo thành (có thuyết cho rằng địa lý nơi sinh ra cũng ảnh hưởng đến phúc khí của Bát tự ) , Ha hA !
cũng Đúng ! Phản biện này cho thấy các vị đại sư phái Dụng thần luôn có những kiến giải mới !
Đây là bài châm chọc của 1 anh chàng thuộc trường phái Vô Dụng Thần , gần đây phái này cũng có vài tay tên tuổi nổi lên như cồn ...bài này chỉ trích 1 đoạn ngắn cho vui thôi.
Quý bạn có ý kiến gì về trường hợp này ??
Read more: http://tuvilyso.org/...0#ixzz3iaDAblZO
TuViLySo.Org
Qua đoạn bình luận trên chúng ta thấy giọng điệu của Phan Văn Khâm chẳng khác gì giọng điệu của Hoàng Đại Lục và một số Cao Thủ Tử Bình theo trường phái "Cách Cục Pháp",... là chê bai, coi thường trường phái "Vượng Suy Pháp". Giọng điệu này không những thể hiện trình độ VỊT mà còn thể hiện bản chất xấu, bẩn thỉu là chê bai, khinh bỉ, lăng mạ người khác.....cũng như tự cao, tự đại, coi "Trời chỉ bằng cái vung", điều này trái ngược lại với những người càng giỏi thì càng khiêm tốn.
Dưới đây là câu giải đáp theo trường phái "Vượng Suy Pháp" cho chủ đề này của tôi:
Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng nhược và dụng thần của Tứ Trụ trên:
Muốn luận Tứ Trụ này tôi phải dùng đến lý thuyết mà tôi đã tìm ra là:
“D - Cách Độc vượng
Cách Độc vượng có thể được tạo thành khi Nhật can (trừ Thổ) có ít nhất 2 chi ở trạng thái Lâm quan, Đế vượng nhưng 4 chi trong Tứ Trụ không được cùng hành và không được tạo thành tam hợp hay tam hội cục Tỷ Kiếp (vì trường hợp này đã được xếp sang bên Tòng Theo Lệnh Tháng). Với loại này thì trong Tứ trụ thường có Kiêu Ấn, một vài Tài tinh nhưng chỉ có nhiều nhất 1 can Quan Sát nhưng phải Tử Tuyệt và không được tạo thành dòng lưu tới Nhật can, hoặc chỉ có 1 chi Quan Sát....
............................................................
............................................................
4 - Nếu trong Tứ trụ không có Quan Sát thì chỉ cần có 1 Tài tinh không bị khắc gần, trực tiếp (trừ khi không có Thực Thương) cũng như không nhận được điểm vượng của can chi sinh cho, khi đó Thân chỉ cần lớn hơn Tài tinh 20đv (401; 417; 91*; 92*(2tài); 200*; 246*; 320*; 321*/T3), còn nếu tất cả Tài tinh đều bị khắc gần hay trực tiếp thì phải thêm Thực Thương không nhỏ hơn Thân 40%đv (181; 200*; 320*; 321*/T3).......”.
(Ký hiệu 321*/T3 để chỉ đây là ví dụ số 321 trong cuốn Trích Thiên Tủy, còn dấu * cho biết ví dụ này không Tòng được theo lý thuyết.)
(Nếu cách Tòng Nhi dài 1 trang thì cách Độc Vượng và cách Tòng theo Lệnh tháng dài từ 2 đến 3 trang, vì phải liệt kê tất cả các trường hợp riêng của nó như câu 4 này.)
Nếu áp dụng lý thuyết này thì Nhật can ở đây chỉ có 1 chi là Mão ở trạng thái Lâm quan nên Tứ Trụ này không thể là cách Độc vượng được (chưa tính 2 Tài là Kỷ và Sửu đều bị khắc gần, trực tiếp mà Thực Thương chỉ bằng 2,1/25,8 đv = 8,14% đv của Thân).
Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa tìm được 1 ví dụ nào tạo thành cách Độc vượng mà Nhật can chỉ có 1 chi ở trạng thái Lâm quan, Đế vượng thỏa mãn lý thuyết này.
Ta thấy Thân của Tứ Trụ này quá cường vượng nhưng lại không thể Tòng được. Đây chính là một trong các thông tin quan trọng thường cho biết là mệnh xấu. Nếu như tổ hợp trong Tứ Trụ xấu kèm với hành vận cũng xấu thì dễ trở thành mệnh của thầy Tu hay ăn mày.
Vậy thì đầu tiên ta xem tổ hợp của các can chi trong Tứ Trụ xem sao ?
Ta thấy có bán hợp Hợi với Mão hóa Mộc thành công nên Thân quá cường vượng hơn các hành khác trên 20đv. Do vậy Mộc đã trở thành hành kỵ vượng và điểm hạn kỵ vượng được nhân gấp đôi.
Một điều đáng tiếc là tác giả đã không nhớ trong Tử Bình có khái niệm Hợp. Cho nên tác giả mới luận Mão trong hợp đã hóa Mộc mà vẫn khắc được Sửu và Hợi cũng đã hóa được Mộc rồi mà vẫn khắc được Ngọ (có thể Hoàng Đại Lục và tác giả Từ Nhạc Ngô có cùng họ hàng với nhau thì phải ?).
Ở đây Kiêu Ấn ít và Thực Thương không nhiều mà điểm vượng của Mộc chưa tới 30đv, mặc dù lớn hơn Tài 20đv nên dụng thần đầu tiên vẫn có thể lấy là Quan Sát/ Tân tàng trong Sửu trụ năm, hỷ thần là Thực Thương và Tài tinh, còn kỵ thần là Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp (với phương pháp của tôi thì không có khái niệm Nhàn Thần hay Khổ thần.... gì cả).
Tân dụng thần Tử Tuyệt lại là can tàng phụ trong Sửu nên coi như vô dụng, còn hỷ thần Tài tinh là Kỷ và Sửu thì đều bị 2 Ất vây khắc tứ phía gần và trực tiếp nên Tài mặc dù có lực nhưng bị khắc kinh quá nên bị thương tổn nặng, còn hỷ thần Thực Thương là Ngọ thì bị Nhâm khắc trực tiếp thì chạy đâu cho thoát không bị thương tổn què quặt. Trong khi đó kỵ thần là 2 Ất và Mộc cục (Tỷ Kiếp) và Nhâm (Kiêu Ấn) không hề bị thương tổn. Điều này cho biết tổ hợp các can chi trong Tứ Trụ này là cực xấu (thường gọi là Cách cục thấp).
Tiếp ta thử xét tới hành vận xem có khá hơn không?
Vận Mậu Dần : Mậu là hỷ thần vượng ở vận Dần có thể khắc Nhâm là kỵ thần và hóa Hỏa để sinh cho dụng thần Kim nhưng không may Ngọ bị hợp rồi còn đâu mà hóa lại còn bị 2 Ất đã cường vượng trong TưTrụ lài còn vượng hơn ở đại vận Dần khắc cho tơi tả thì làm sao mà sinh cho dụng thần Kim tàng ở mãi tận Ma Rốc ở Châu Phi. Nói tổng quát theo vận là như vậy nhưng xét tới từng năm thì lại khác, vì có nhiều năm Mậu vượng còn Ất thì nhược nên các năm đó vẫn có thể có tiền.
Vận Đinh Sửu : Đinh là hỷ thần đã Tử Tuyệt ở vận Sửu rồi lại còn bị Nhâm hợp hóa thành kỵ thần Mộc, vì vậy Mộc càng vượng kiếp Tài càng hung trong khi Tài là Kỷ và Sửu đã nhập Mộ đại vận nhưng không được xung khai mà có được xung khai thì bè đảng Tỷ Kiếp tha cho chắc ? Do vậy vận này là vận xấu nhưng vào các năm Kỷ vượng còn Ất nhược (Mùi, Thân và Dậu) thì vẫn có được chút tiền.
Vận Bính Tý : Vận Bính Tý thiên khắc địa xung với trụ giờ Nhâm Ngọ. Nhâm cường vượng ở vận Tý khắc Bính còn Tý khắc Ngọ, vì vậy Hỏa coi như tan xác pháo không còn gì để mà trông mong cả. Nhâm khắc Bính không có Kim để hóa nhưng vẫn sinh được cho Mộc. Mộc càng vượng thì Thê tài tất bị hại. Tý xung Ngọ mà Ngọ là cung con cái thì tất bị thương tổn nên nếu vợ con không ruồng bỏ chồng thì sẽ mang họa vào thân.
Vận Ất Hợi : Can chi đều là kỵ thần Thủy Mộc thêm Hợi hợp thêm với Mão làm Mộc cục càng thêm mạnh, vào năm Mộc vượng còn được Thủy vượng sinh dễ gặp họa. Như năm Đinh Mùi 42 tuổi, có Nhâm hợp Đinh hóa Mộc và Mùi cùng Mão Hợi trong Tứ Trụ tạo thành tam hợp Mộc cục chẳng hạn....
Đến đây thì có thể kết luận được chính xác đây là mệnh của thầy tăng hay ăn mày.
Vậy thì với Tứ Trụ này liệu có chỗ nào để mà sinh ra hay để sống lại có thể biến mệnh của thầy tăng hay ăn mày này trở thành mệnh quý hiển ? Chẳng thể có nơi nào cả bởi vì các yếu tố bên ngoài chỉ có thể làm tăng hay bớt đi độ 1 vài điểm vượng của các hành trong Tứ Trụ mà thôi. Cụ thể ở Tứ Trụ này Thân quá cường vượng nên có thêm nhiều điểm vượng nữa vẫn không thể Tòng được hoặc bớt đi 10 đến 20đv của Mộc để cho Thân trở thành trung hòa là một điều không tưởng. Hơn nữa tổ hợp của Tứ Trụ và hành vận đều quá xấu thì Thân có cân bằng cũng chỉ là 1 người bình thường mà thôi.
Cho nên hướng tìm các yếu tố bên ngoài tác động vào Tứ Trụ này là một điều vô vọng. Vậy thì chỉ còn một hướng có hy vọng là giả thiết sinh vào giờ khe mà thôi.
Nếu đúng như vậy thì với giờ Nhâm Ngọ có 2 giờ khe là Tân Tị và Quý Mùi. Ta thấy giờ Quý Mùi có khả năng đúng hơn, vì nó tạo thành tam hợp Hợi Mão Mùi hóa Mộc nên dễ trở thành cách Độc vượng thì mới dễ trở thành mệnh phú quý được.
VULONG
(còn tiếp)
Sửa bởi VULONG777: 12/08/2015 - 15:01
#53
Gửi vào 12/08/2015 - 15:13
Cho nên hướng tìm các yếu tố bên ngoài tác động vào Tứ Trụ này là một điều vô vọng. Vậy thì chỉ còn một hướng có hy vọng là giả thiết sinh vào giờ khe mà thôi.
Nếu đúng như vậy thì với giờ Nhâm Ngọ có 2 giờ khe là Tân Tị và Quý Mùi. Ta thấy giờ Quý Mùi có khả năng đúng hơn, vì nó tạo thành tam hợp Hợi Mão Mùi hóa Mộc nên dễ trở thành cách Độc vượng thì mới dễ trở thành mệnh phú quý được.
Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược của giờ Quý Mùi:
Muốn luận Tứ Trụ này tôi phải dùng đến lý thuyết mà tôi đã tìm ra là:
“Cách tòng theo Lệnh tháng
Định nghĩa : Nếu gọi hành A là hành của chi tháng thì điều kiện bắt buộc là 1 can bất kỳ cũng như hóa cục của chi tháng hay của các chi khác trong Tứ Trụ phải cùng hành A, cho nên mới có tên gọi “Tòng theo Lệnh tháng” (trừ hành Thổ và 2 hành Kiêu Ấn và Thực Thương của Nhật can, vì 2 loại này có lý thuyết riêng nhưng riêng với Thực Thương nếu có 4 chi trong Tứ Trụ tạo thành tam hợp hay tam hội cục Thực Thương thì vẫn được tính theo cách tòng này (213/T3)).
.................................................................................
................................................................................
Dạng thứ hai: Chỉ được tạo thành nếu trong Tứ Trụ có ít nhất 1 can thuộc hành A và 3 chi tạo thành tam hợp hay tam hội hóa cục hành A. Nếu có can hay chi Tài thì nó không bị khắc gần hay trực tiếp (62*; 63*; 70*; 85*; 257*; 269*; 299*/T3), trừ khi trong Tứ Trụ không có Quan Sát và Thực Thương (67/T3), các can chi còn lại là :
.....................................................
.....................................................
6 - Nếu không có Quan Sát và Thực Thương mà hành A lớn hơn Tài 20đv thì chỉ cần có 1 Tài tinh không bị khắc trực tiếp - không tính khắc trực tiếp trong hợp (63*; 49 giờ Quý Mùi; 67 và 114 là giống nhau/T3).......”.
Nếu áp dụng câu 6 của cách tòng này thì Tứ Trụ này thuộc cách Tòng Theo Lệnh Tháng vì trong Tứ Trụ không có Quan Sát và Thực Thương, Thân lớn hơn Tài 20đv và có 1 Tài tinh là Kỷ trụ tháng chỉ bị khắc gần.
Bây giờ ta thử xét xem tổ hợp của các can chi trong Tứ Trụ có đẹp hay không ?
Vì ở đây chi tháng cùng hành với Nhật can nên hỷ dụng thần của cách Tòng này trùng hợp với cách Độc vượng. Cho nên dụng thần là Mộc, hỷ thần là Kiêu Ấn và Thực Thương còn kỵ thần là Tài tinh và Quan Sát.
Ta thấy với Tứ Trụ này thì Tài tinh Kỷ và Sửu là kỵ thần đều bị khắc tới bến bởi 2 Ất và Mộc cục, còn hỷ dụng là Nhâm Thủy và 2 Ất Mộc cùng Mộc cục đều không bị khắc nên không hề bị thương tổn, Kim là kỵ thần và Hỏa là hỷ thần không hiện nên không cần xét đến. Như vậy là tổ hợp của các can chi trong Tứ Trụ này là cực đẹp cho biết đây là mệnh dễ đạt được giầu sang phú quý.
Ta xét tiếp đến các vận xem sao ?
Vận Mậu Dần : Mậu là kỵ thần vượng ở vận Dần là đáng sợ nhưng may thay có Quý trụ giờ hợp chặt nên cho dù vào các năm Mậu cường vượng cũng không đáng ngại. Mộc là dụng thần đã cường vượng lại càng cường vượng ở đại vận nên không có Quý sinh cho cũng chả sao cả. Do vậy vận này mặc dù là vận kỵ thần nhưng đã trở thành vận hỷ dụng thần nên đẹp nhiều xấu ít.
Vận Đinh Sửu : Đinh là hỷ thần, đáng tiếc là Tử Tuyệt ở vận còn bị Quý vượng khắc nhưng may là trong Tứ Trụ Hỏa không hiện nên không ảnh hưởng gì tới Tứ Trụ mà Quý còn động nên mặc dù không có Kim để hóa nhưng Quý vượng vẫn sinh phù được cho dụng thần Mộc. Do vậy vận này vẫn được coi là vận hỷ dụng thần.
Vận Bính Tý : Hoàn toàn như vận Đinh Sửu nhưng có thêm Tý hợp Sửu trong Tứ Trụ hóa Thổ là kỵ thần rất xấu nhưng may có 2 Ất mặc dù nhược ở vận nhưng vượng trong Tứ Trụ nên cùng khắc Thổ cục, Thổ cục rất yếu không đủ sức làm cho cách cục bị thương tổn (vì Thổ tử tuyệt ở vận Tý và Sửu trong Tứ Trụ lại hóa Thổ, Thổ cục còn bị 2 Ất khắc). Vận này nói chung có Mộc khắc Thổ bảo vệ Thủy mà Thủy vượng được bảo vệ vẫn sinh được cho dụng thần Mộc. Cho nên vận này được coi là khá.
Vận Ất Hợi : Vận này can chi đều là hỷ dụng thần, Ất là dụng thần thêm Hợi đại vận hợp thêm với Mão trong Tứ Trụ làm do Mộc cục càng mạnh hơn, dụng thần vượng tướng nên đây là vận cực đẹp.
Đến đây đủ để kết luận mệnh này là mệnh phú quý phù hợp với Đoàn kỳ Đoan Tổng lý Quốc vụ.......
VULONG
#54
Gửi vào 27/09/2015 - 08:03
VULONG1, on 14/03/2015 - 04:16, said:
Vừa qua tôi đã tìm được một ví dụ có thể thuộc vào loại IG Nobel Tử Bình này, đó chính là ví dụ số 52 trong "Chương 9 - Can Chi Tổng Luận" của cuốn "Tích Thiên Tủy":
“52 - Nhâm dần - giáp thìn - đinh hợi - kỷ dậu
Ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Can năm nhâm thủy, có chi hợi thủy là vượng. Quan sinh ấn, ấn sinh nhật chủ, dụng thực thần kỷ thổ, tài tinh có thực là phúc, quan được tài tinh sanh phò. Thương quan tuy đương lệnh, được ấn tinh (giáp mộc) khắc chế hữu tình, năm tháng không phản bối, ngày giờ không đố kỵ, thủy chung sở đắc. Quan nhị phẩm phú quý vô đặng, tài bạch trăm vạn, con cái đẹp đẽ, thọ tám chục tuổi”.
Cứ cho bài luận của tác giả là hoàn toàn đúng theo thực tế của vị "Quan nhị phẩm" này thì liệu Tứ Trụ này có phù hợp với vị Quan này hay không?
Ai có thể tìm ra cái thú vị của giải IG Nobel Tử Bình ở đây là cái gì?
Tất nhiên bài luận của Nhâm Thiết Tiều về Tứ Trụ này đã phải nhường giải Nobel IG về Tử Bình cho Từ Nhạc Ngô mà INDOCHINE đã trích dẫn bài bình của Phan Văn Khâm về bài luận mà Từ Nhạc Ngô đã luận với cùng Tứ Trụ của thầy Tăng và Đoàn Kỳ Thuỵ giống nhau ở trên.
Với ví dụ số 52/T3 này :
“52 - Nhâm dần - giáp thìn - đinh hợi - kỷ dậu
Ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Can năm nhâm thủy, có chi hợi thủy là vượng. Quan sinh ấn, ấn sinh nhật chủ, dụng thực thần kỷ thổ, tài tinh có thực là phúc, quan được tài tinh sanh phò. Thương quan tuy đương lệnh, được ấn tinh (giáp mộc) khắc chế hữu tình, năm tháng không phản bối, ngày giờ không đố kỵ, thủy chung sở đắc. Quan nhị phẩm phú quý vô đặng, tài bạch trăm vạn, con cái đẹp đẽ, thọ tám chục tuổi”.
Với ví dụ này thì cái đáng quan tâm nhất là người này không những quan cao mà còn “tài bạch trăm vạn”, tức là người cực giầu. Mà muốn cực giầu thì Thân phải vượng hoặc trí ít Thân cũng phải có lực sau đó nhờ vận trợ Thân thì mới có thể đại phát Tài Quan được. Còn nếu Thân quá nhược lại không được trợ giúp mà không thể Tòng thì dĩ nhiên là mệnh xấu nhất, đừng có hy vọng giầu có lớn.
Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của Tứ Trụ này theo phương pháp của tôi:
Các đại vận: Ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Qua sơ đồ này ta thấy Thân hỏa khá nhược không hề có Tỷ Kiếp hoặc điểm đắc địa nào trợ giúp cả mà chỉ có Nhật can Đinh đã thất lệnh còn bị khắc trực tiếp. Chính vì bị khắc trực tiếp này mà nó không thể nhận được sự sinh từ Kiêu Ấn là Giáp có căn gốc là Dần rất hùng mạnh ngay bên cạnh. Cho nên câu “Quan sinh ấn, ấn sinh nhật chủ” là một sai lầm trầm trọng vì tác giả không nắm được những kiến thức cơ bản của Tử Bình truyền thống.
Các vận đầu là “Ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi” có can chi đều là hỷ dụng thần nên nếu Thân không quá nhược thì có thể đại phát Tài nhưng vì Thân khá nhược nên phát vạn bạc hay thập vạn là cùng chứ không thể tới trăm vạn như vậy được.
Các vận tiếp theo là “mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý” có can chi đều là kỵ thần mà Thân khá nhược thì hy vọng “tài bạch trăm vạn” là một điều viển vông.
Từ đây ta có thể khẳng định Tứ Trụ này không phù hợp với thực tế của người này. Điều nghi ngờ đầu tiên là người này đã sinh vào giờ Khe. Nếu điều nghi ngờ này đúng thì trong 2 giờ khe là Mậu Thân và Canh Tuất, chúng ta thấy ngay giờ Canh Tuất hợp lý hơn.
Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của Tứ Trụ này theo giờ Canh Tuất :
Sử dụng kết quả đã tìm được của các ví dụ gần đây, ta có trạng thái Dưỡng có 4,4đv và có Nhâm trụ năm mang hành sinh cho Giáp trụ tháng nên Giáp sinh được 1/7đv của nó cho Đinh trụ ngày. Do vậy Sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của Tứ Trụ này theo giờ Canh Tuất như sau:
Qua sơ đồ này ta thấy Thân nhược nhưng có điểm vượng trong vùng tâm của Thân lớn hơn Tài và Quan Sát cùng với điểm vượng của Kiêu Ấn lớn hơn điểm vượng của Thực Thương và Tài tinh nên theo quy tắc số 2 của tôi thì Kiêu Ấn có thể sinh được 50%đv của nó cho Thân. Thân có 4,66đv được thêm (7,65 – 0,7286).1/2đv = 3,46đv (tổng điểm vượng của Kiêu Ấn phải trừ đi số đv mà Can hay Chi Kiêu Ấn sinh cho Can hay Chi Tỷ Kiếp, kể cả can ngày) thành 8,12đv. Với số điểm 8,12đv thì Thân lớn hơn Thực Thương, Tài tinh và Quan Sát trên 1đv nên Thân trở thành vượng (theo lý thuyết của tôi). Thân vượng thì rõ ràng thực tế phải trái ngược với Tứ Trụ trên có Thân nhược (khi xác định sinh vào giờ Kỷ Dậu) cho nên với Tứ Trụ này thì “tài bạch trăm vạn” mới có thể có.
:::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::::
Bây giờ ta thử tìm xem tỷ lệ sinh của Can sinh cho Can nhỏ nhất là bao nhiêu mà Tứ Trụ này Thân vẫn là vượng.
Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược và dụng thần của Tứ Trụ này theo giờ Canh Tuất khi lấy tỷ lệ sinh là 1/7,28 :
Nếu ta lấy tỷ lệ sinh là 1/7,28 thì Giáp sinh được cho Đinh là 5,1.1/7,28đv = 0,70055đv. Do vậy Đinh có 5,1đv được thêm 0,70055đv thành 5,80054đv nhưng bị giảm 1/5đv do bị Nhâm khắc cách 1 ngôi còn 5,80054.4/5đv = 4,6404đv. Số điểm này lớn hơn Quan Sát có 4,64đv nên Kiêu ấn sinh được 50%đv của nó cho Thân, do vậy Thân vẫn là vượng.
Còn nếu ta lấy tỷ lệ là 1/7,29 thì thì Giáp sinh được cho Đinh là 5,1. 1/7,29đv = 0,69959đv. Do vậy Đinh có 5,1đv được thêm 0,69959đv thành 5,79959đv nhưng bị giảm 1/5đv do bị Nhâm khắc cách 1 ngôi còn 5,79959.4/5đv = 4,63967đv. Số điểm này nhỏ hơn Quan Sát có 4,64đv nên Kiêu ấn không thể sinh được 50%đv của nó cho Thân (theo quy tắc 2), cho nên Thân là nhược là không thể chấp nhận được.
Qua ví dụ này chúng ta xác định được tỷ lệ sinh này nhỏ nhất (min) là 1/7,28.
(Còn nếu lấy trạng thái Dưỡng là 4,39đv thì tỷ lệ sinh này min là 1/7,32.)
Nếu kết hợp ví dụ 54/T3 ở bên chủ đề "Binh Pháp Tử Bình" với ví dụ 52/T3 này thì ta đã tìm ra quy tắc :
“Chi có thể sinh cho chi và can có thể sinh cho can gần nhau với tỷ lệ trung bình là 1/7đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó mang hành sinh cho nó và 1/13đv của nó khi can hay chi bên cạnh nó cùng hành với nó chỉ khi cả 3 can hay 3 chi này đều không bị khắc gần, trực tiếp hay bị hợp”.
Sửa bởi VULONG777: 27/09/2015 - 08:32
#55
Gửi vào 01/11/2015 - 04:49
“73 - Canh thân - tân tị - bính thìn - ất mùi
Nhâm ngọ/ quý mùi/ giáp thân/ ất dậu/ bính tuất/ đinh hợi
Mệnh này theo tục luận, bính hỏa sanh tháng tị, kiến lộc nhật chủ vượng tất nên dụng tài. Không biết canh tân trọng điệp thâm căn, độc nhất ất lộ ấn tinh thụ thương, nhật chủ nhược cũng biết hĩ. Vận giáp thân, ất dậu, kim đắc địa mộc vô căn phá háo dị thường; bính tuất đinh vận, trùng chấn gia phong, vận đẹp. Mệnh này tài đa thân nhược, nên tỉ kiếp trợ thân tất cát lợi”.
Qua bài luận này của tác giả chúng ta có thể khẳng định rằng tác giả đã biết sử dụng quá trình thực tế xấu hay đẹp của người này đã qua để so sánh với vận trình của Tứ Trụ, mục đích nhằm xác định chính xác Thân vượng hay nhược, rồi từ đó có thể xác định được chính xác hỷ dụng thần của Tứ Trụ.
Cụ thể qua câu: “Vận giáp thân, ất dậu, kim đắc địa mộc vô căn phá háo dị thường”, điều này tác giả muốn chứng minh Giáp, Ất là Kiêu Ấn bị Canh Tân là Tài tinh ở trong Tứ Trụ cường vượng ở đại vận Thân, Dậu khắc cho tơi tả nên thuộc vận xấu. Qua câu “phá háo dị thường” thì có nghĩa rằng Kiêu Ấn phải là hỷ dụng thần bị thương tổn nên xấu. Tiếp câu: “bính tuất đinh vận, trùng chấn gia phong, vận đẹp”, vận Bính, Đinh là Tỷ Kiếp mà tác giả thấy thực tế ”trùng chấn gia phong” nên đã kết luận ”vận đẹp”. Rồi tác giả đi đến kết luận Tứ Trụ này có Thân nhược qua câu : "nhật chủ nhược cũng biết hĩ" nên Kiêu Ấn và Tỷ Kiếp phải là hỷ dụng thần.
Đây chính là phương pháp sử dụng thực tế đã qua của người có Tứ Trụ rồi so sánh với hành vận xấu hay đẹp của người có Tứ Trụ đó mà tôi vẫn dùng để xây dựng lý thuyết nhằm xác định được chính xác Thân vượng hay nhược.
Nhưng ở đây có một điều Kỵ Dị là với các Tứ Trụ đúng thì tác giả lại không hay sử dụng phương pháp này mà chỉ hầu như là áp dụng vào những Tứ Trụ sai như ví dụ này, vì sao lại như vậy ? Theo tôi đây chính xác là một sự ngụy tạo mà người Tầu vẫn thường hay sử dụng để bịp bợm những người nhẹ dạ cả tin hay những người “Đầu Đất” mà thôi.
Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược theo phương pháp của tôi:
Qua sơ đồ ta thấy ngay Thân có 2 can chi là Bính và Tị nắm lệnh trong khi Tài là Kim có 3 can chi không nắm lệnh, chỉ cần 1 yếu tố này chúng ta có thể xác định thế lực giữa Thân với Tài là tương đương nhau.
Nếu xét thêm yếu tố thứ 2 là 2 can chi Tài đều bị khắc gần thì có thể khẳng định Thân vượng là một điều gần như chắc chắn nếu như chỉ xét 2 hành này.
Tiếp tục xét đến yếu tố thứ 3 là trong Tứ Trụ không có Thủy cho nên Tỷ Kiếp không bị thương tổn trong khi có 2 Thổ là thực thương thì lại có 1 Kiêu Ấn chế ngự chúng nên có thể coi là hòa.
Từ đây chúng ta có thể đi đến kết luận Thân của Tứ Trụ này phải là vượng. Điều này phù hợp với kết quả tính toán theo phương pháp của tôi ở sơ đồ trên. Thân vượng thì rõ ràng là không phù hợp với các vận trình đã qua của người này. Từ đây chúng ta có thể kết luận Tứ Trụ này là không đúng.
Vậy thì để đơn giản, điều đầu tiên chúng ta xét giờ khe của Tứ Trụ này. Với giờ Ất Mùi thì giờ khe chỉ có thể là Giáp Ngọ và Bính Thân nhưng với 2 giờ này ta dễ dàng xác định Thân vẫn là vượng nên vẫn sai. Do vậy ta phải thử tiếp 2 giờ gần nhất tiếp theo với giờ Ất Mùi là Quý Tị và Đinh Dậu xem sao? Ta thấy giờ Đinh Dậu vẫn không đúng, vậy thì còn giờ Quý Tị ?
Sau đây là sơ đồ xác định Thân vượng hay nhược của giờ Quý Tị theo phương pháp của tôi:
Qua sơ đồ trên ta thấy Thân không lớn hơn Quan Sát nên Thân là nhược. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế đã qua của người này.
Đây chỉ là giờ gần nhất với giờ Ất Mùi có Thân nhược, ngoài ra còn nhiều giờ nữa cũng có Thân nhược.
Nếu bài luận về ví dụ số 73 này mà được trao giải Nobel IG thì chắc chắn còn nhiều ví dụ nữa trong cuốn sách này cũng đáng được trao giải thưởng Danh Giá này.
Sửa bởi VULONG777: 01/11/2015 - 05:08
#56
Gửi vào 10/01/2016 - 22:19
Sau đây là ví dụ số 207 trong cuốn Trích Thiên Tủy:
“207- Giáp thân - bính tý - canh thìn - mậu dần
Ðinh sửu/ mậu dần/ kỷ mão/ canh thìn/ tân tị/ nhâm ngọ
Trụ này kim hàn thủy lạnh, mộc tàn héo thổ lạnh, nếu không có giờ dần, nhất định năm tháng mộc hỏa vô căn, không thể tác dụng hĩ, gọi là hàn tuy thái quá, cần phải noãn hữu khí vậy. Luận do dẫn thông hợp thủy cục, năm đắc dần mộc, địa khí thượng thăng, mộc hỏa tuyệt xứ phùng sanh, một dương giải hàn rét. Tuy nhiên bính hoả trên cao không động cũng không phát, tuyệt diệu tại dần ở xa gặp xung, gọi là động, động tất sanh hỏa hĩ. Phàm tứ trụ bị sát bên xung thì khắc, ở xa xung là động. Mừng vận trình đông nam, xuất thân khoa giáp, làm quan hoàng triều, gọi là “đắc khí chi hàn, ngộ noãn mà phát””.
Vì mục đích chỉ phản biện về điều hậu nên với ví dụ này chúng ta chỉ cần quan tâm tới các câu luận của tác giả có liên quan đến điều hậu mà thôi.
Tác giả viết: “Trụ này kim hàn thủy lạnh, mộc tàn héo thổ lạnh, nếu không có giờ dần, nhất định năm tháng mộc hỏa vô căn, không thể tác dụng hĩ, gọi là hàn tuy thái quá, cần phải noãn hữu khí vậy“. Câu này ý tác giả muốn nói vì sinh tháng Tý là vào giữa mùa đông lên rất lạnh, cần phải có Hỏa để điều hậu thì cây cối, vạn vật mới có thể sinh sôi nẩy nở mà đâm hoa kết trái.... Cho nên ý tác giả luận: trong Tứ Trụ có Bính mang hành Hỏa và may có Dần có căn gốc lại được Thân trụ năm xung từ xa nên động, do vậy Dần mới sinh phù được cho Bính nên Bính đã đủ sức điều hậu được cho Tứ Trụ ấm áp. Và tác giả đi đến kết luận có như vậy thì mệnh mới đẹp được qua câu : “đắc khí chi hàn, ngộ noãn mà phát””. (Ở đây tôi không đụng chạm tới Tứ Trụ đúng hay sai).
Ta xét tiếp ví dụ 208 của cùng cuốn sách này :
“208- Kỷ dậu - bính tý - canh thìn - giáp thân
Ất hợi/ giáp tuất/ quý dậu/ nhâm thân/ tân mùi/ canh ngọ
Trụ này cũng kim hàn thủy lạnh, thổ lạnh mộc tàn héo, cùng trụ trên đại đồng mà tiểu dị, trên có dần mộc nên hỏa hữu căn, trụ này không có dần mộc nên hỏa lâm tuyệt địa, gọi là hàn thái quá mà noãn vô khí, phản lại lấy hàn làm dụng, cho nên sơ vận ất hợi, phương bắc chủ thủy địa, tin mừng vô ưu. Vận giáp tuất tàng đinh hỏa, là nơi hỏa khố của bính hỏa, hình tang hao phá. Vận quý dậu tài nghiệp ngày càng tăng; Nhâm vận khắc khử đi bính hỏa, đến thân vận cơm áo đầy đủ. Vận tân mùi, vận chuyển phương nam, bính hỏa đắc địa bén rễ, hao phá dị thường; Vận canh ngọ phùng năm dần, hợp hỏa cục, mộc hỏa cùng đến, không lộc“.
Tác giả viết: “Trụ này cũng kim hàn thủy lạnh, thổ lạnh mộc tàn héo, cùng trụ trên đại đồng mà tiểu dị, trên có dần mộc nên hỏa hữu căn, trụ này không có dần mộc nên hỏa lâm tuyệt địa, gọi là hàn thái quá mà noãn vô khí, phản lại lấy hàn làm dụng“. Câu này ý của tác giả cũng muốn nói sinh vào tháng Tý rất lạnh, rất cần có Hỏa để sưởi ấm (như Bính ở tứ trụ trên có Dần sinh phù nên đủ sức Điều Hậu) nhưng với Tứ Trụ này không có Dần nên Bính không đủ khả năng Điều Hậu. Đáng nhẽ ra tác giả sẽ nói muốn Điều Hậu cho Tứ Trụ này thì cần phải sống ở phương Nam có Hỏa mạnh hoặc đặt tên mang hành Hỏa….. chẳng hạn nhưng tác giả lại viết: “trụ này không có dần mộc nên hỏa lâm tuyệt địa, gọi là hàn thái quá mà noãn vô khí, phản lại lấy hàn làm dụng“. Câu này ý tác giả muốn nói nếu không có đủ Hỏa để điều Hậu thì ngược lại lấy Thủy để “Điều Hậu“ cũng đẹp không kém.... qua câu “gọi là hàn thái quá mà noãn vô khí, phản lại lấy hàn làm dụng“.
Vậy thì Điều Hậu cái gì ở đây ?
(Tứ trụ này không thể tòng Thủy và tác giả cũng không nói tới từ tòng Thủy ở đây.)
Qua 2 ví dụ này đủ để kết luận Điều Hậu chả có ý nghĩa nào cả mà thực chất hành Thủy cũng giống như các hành khác trong Tứ Trụ mà thôi.
Bài luận cho 2 ví dụ này của tác giả liệu có đủ tiêu chẩn để nhận giải thưởng danh giá Nobel IG lần này hay không ?
Sửa bởi VULONG777: 10/01/2016 - 22:26
#57
Gửi vào 23/01/2016 - 00:17
VULONG1, on 18/01/2015 - 06:38, said:
1 – Chi tháng là Thực Thần hoặc Thương Quan của Nhật Chủ, toàn cục Thực Thương vượng.
2 – Mệnh cục nhất định phải có Tài (Thực Thương sinh Tài, tức có Nhi (có nghĩa là có con) thì phải có cháu) mới thành cách.
3 – Trong mệnh cục có tam hợp cục hay tam hội cục hóa Thực thần, Thương quan.
4 – Trong mệnh cục không có Quan, Sát hoặc Chính, Thiên Ấn khắc Nhật chủ hoặc khắc Thực Thương.
Dụng thần là thực thương, hỷ thần là Tỷ Kiếp và Tài tinh, kỵ thần là Kiêu Ấn và Quan Sát.
Ví dụ 1 : Ất Tị - Bính Tuất - Ất Mùi – Bính Tuất (thuộc cách Tòng nhi)
Ất mộc sinh tháng Tuất, chọn nhân nguyên trong Tuất có Đinh hỏa làm Thực Thần. Hai thiên can Ất mộc sinh cho Bính hỏa, Bính hỏa lại sinh cho Tị hỏa, Tuất thổ nên trở thành cách Tòng nhi.
Ví dụ 2 : Mậu Tý – Tân Dậu - Kỷ Dậu – Nhâm Thân (thuộc cách Tòng nhi)
Kỷ thổ sinh tháng Dậu, Dậu thuộc Kim là Thực thần. Trong Tứ Trụ, Kỷ Mậu thuộc Thổ sinh Kim (tức sinh cho Tân, Dậu, Thân), Kim lại sinh Thủy cho Nhân thủy. Cứ thế tương sinh nên thành cách Tòng nhi.
Sau đây là các ví dụ trong “Chương 22 - Thương Quan” của cuốn “Trích Thiên Tủy” - tác giả Nhâm Thiết Tiều.
“3 - Thương quan dụng kiếp cách
168 - Quý hợi - tân dậu - mậu thân - kỷ mùi (không thuộc cách Tòng nhi)
Canh thân/ kỷ mùi/ mậu ngọ/ đinh tị/ bính thìn/ ất mão
Trụ này thổ kim thương quan, tài tinh quá trọng, đến nỗi không như ý. May mắn giờ mùi, kiếp tài thông căn làm dụng thần; Đổi lại vận trình lại cát lợi, làm phò tá huyện lệnh. Đến vận đinh tị, bính thìn, ấn vượng, làm đến quan châu mục, do làm quan mà của cải tích tụ đầy đủ giàu có; ất mão vận xung khắc dậu, không yên ổn, bãi chức quy điền.
169 - Kỷ mùi - quý dậu - mậu tuất - canh thân (không thuộc cách Tòng nhi)
Nhâm thân/ tân mùi/ canh ngọ/ kỷ tị/ mậu thìn/ đinh mão
Trụ này thổ kim thương quan, chi thuộc phương tây, kim khí quá trọng, lấy kiếp làm dụng thần. Mừng kỷ thổ khắc quý thủy, cho nên kế thừa dòng dõi nho học; đổi lại vận trình phương nam hỏa địa, làm quan từ huyện lệnh đến châu mục, được tiến cử nhà vua. Cả đời gặp hung hóa cát, công danh không gặp sóng gió vậy.
170 - Quý hợi - giáp dần - quý hợi - giáp dần (không thuộc cách Tòng nhi)
Quý sửu/ nhâm tý/ tân hợi/ canh tuất/ kỷ dậu/ mậu thân
Trụ này thủy mộc thương quan, mừng không có tài, cho nên kế thừa dòng dõi nho học; hiềm địa chi dần hợi hóa mộc, thương quan quá trọng, khó toại nguyện công danh. Tân vận dạy học, hợi vận bổ nhiệm coi kho lương, canh tuất tăng cống nạp làm quan. Vận kỷ dậu mậu thân hai mươi năm thổ kim, sanh hóa không khắc hại, do làm quan mà của cải tích tụ đầy đủ giàu có.
171 - Mậu thân - kỷ mùi - bính tuất - kỷ sửu (không thuộc cách Tòng nhi)
Canh thân/ tân dậu/ nhâm tuất/ quý hợi/ giáp tý/ ất sửu
Trụ này tứ trụ đều có thương quan, nếu sanh tháng sửu tuất, là tòng thương quan cách, danh lợi đều toại nguyện. Sanh vào tháng mùi, hỏa khí còn thừa, tất lấy mùi tàng đinh hỏa làm dụng. Tiếc là vận hành tây bắc kim thủy, đến nỗi tổ nghiệp rách nát; đến quý hợi vận, nghèo khổ không thể nhờ cậy, cắt tóc đi tu.
172 - Mậu thìn - canh thân - kỷ dậu - quý dậu (không thuộc cách Tòng nhi)
Tân dậu/ nhâm tuất/ quý hợi/ giáp tý/ ất sửu/ bính dần
Trụ này cũng thương quan dụng kiếp, hiềm thìn thuộc thấp thổ, sanh kim chứa thủy, không đủ sanh nhật chủ; lại hiềm vận trình tây bắc kim thủy, cho nên nhất bại như vôi, không thành gia thất”.
Ví dụ số 205 trong ”Chương 28 - Thuận Nghịch”:
“205 - Quý dậu - giáp tý - canh thìn - giáp thân (thuộc cách Tòng nhi)
Quý hợi/ nhâm tuất/ tân dậu/ canh thân/ kỷ mùi/ mậu ngọ
Nhật nguyên canh thìn, chi phùng lộc vượng, thủy vốn đương quyền, lại hội thủy cục, thiên can giáp mộc vô căn, gọi là kim thủy hai khí đồng tâm, phải thuận theo thế kim thủy. Cho nên quý hợi nhâm vận, được cha mẹ nuôi dưỡng sung túc. Tuất vận chế thủy, vẫn còn mừng thân dậu tuất hội kim cục, tuy gặp hình tang mà không có họa lớn. Tân vận nhập học, dậu vận đi thi, canh vận đăng khoa, thân vận đại phát tiền của. Giao kỷ mùi, vận chuyển nam phương, hình thê khắc tử, gia nghiệp dần tiêu tan. Mậu ngọ xung thủy tính, gia nghiệp phá tán mất mạng”.
Nếu bỏ tính chất số 3 trong lý thuyết trên là : “3 – Trong mệnh cục có tam hợp cục hay tam hội cục hóa Thực thần, Thương quan” thì chúng ta thấy tất cả 8 ví dụ trên đều thỏa mãn lý thuyết của cụ Thiệu đưa ra nhưng chỉ có 2 ví dụ của cụ Thiệu và ví dụ số 205 của Nhâm Thiết Tiều là thuộc cách Tòng nhi.
Ví dụ duy nhất có đủ cả 4 tính chất của lý thuyết trên là ví dụ 169 (có thêm tính chất số 3 – tức có thêm tam hội Thân Dậu Tuất hóa Kim) nhưng nó lại không thuộc cách Tòng nhi.
Do vậy ta có thể yên tâm bỏ đi tính chất số 3 của cụ Thiệu (vì nó không có giá trị gì trong các ví dụ trên).
Đến đây chắc rằng mọi người đều phải thừa nhận rằng lý thuyết của cụ Thiệu đưa ra ở trên có độ chính xác không cao, vì nó có tỷ lệ đúng quá thấp.
Vậy thì bài toán mà chúng ta phải đưa ra ngay bây giờ là phải phát biểu lại lý thuyết trên của cụ Thiệu sao cho nó đúng ít nhất với 8 ví dụ này.
Những ai tìm ra được lời giải cho bài toán này chắc chắn phải có trình độ suy luận logic cao, thường có ở những người có khả năng nghiên cứu Tử Bình thực sự và dĩ nhiên họ được trao danh hiệu đoạt giải “Nobel Tử Bình” là chính đáng (chỉ có ý nghĩa danh dự trong sự tôn trọng nhau).
Hy vọng mọi người cùng tham gia giải cũng như đưa ra những bài toán mới trong Tử Bình có tính chất quan trọng như vậy. Điều này giúp chúng ta chủ động trong học và nghiên cứu Tử Bình.
VULONG1, on 18/01/2015 - 06:38, said:
1 – Chi tháng là Thực Thần hoặc Thương Quan của Nhật Chủ, toàn cục Thực Thương vượng.
2 – Mệnh cục nhất định phải có Tài (Thực Thương sinh Tài, tức có Nhi (có nghĩa là có con) thì phải có cháu) mới thành cách.
3 – Trong mệnh cục có tam hợp cục hay tam hội cục hóa Thực thần, Thương quan.
4 – Trong mệnh cục không có Quan, Sát hoặc Chính, Thiên Ấn khắc Nhật chủ hoặc khắc Thực Thương.
Dụng thần là thực thương, hỷ thần là Tỷ Kiếp và Tài tinh, kỵ thần là Kiêu Ấn và Quan Sát.
Ví dụ 1 : Ất Tị - Bính Tuất - Ất Mùi – Bính Tuất (thuộc cách Tòng nhi)
Ất mộc sinh tháng Tuất, chọn nhân nguyên trong Tuất có Đinh hỏa làm Thực Thần. Hai thiên can Ất mộc sinh cho Bính hỏa, Bính hỏa lại sinh cho Tị hỏa, Tuất thổ nên trở thành cách Tòng nhi.
Ví dụ 2 : Mậu Tý – Tân Dậu - Kỷ Dậu – Nhâm Thân (thuộc cách Tòng nhi)
Kỷ thổ sinh tháng Dậu, Dậu thuộc Kim là Thực thần. Trong Tứ Trụ, Kỷ Mậu thuộc Thổ sinh Kim (tức sinh cho Tân, Dậu, Thân), Kim lại sinh Thủy cho Nhân thủy. Cứ thế tương sinh nên thành cách Tòng nhi.
Sau đây là các ví dụ trong “Chương 22 - Thương Quan” của cuốn “Trích Thiên Tủy” - tác giả Nhâm Thiết Tiều.
“3 - Thương quan dụng kiếp cách
168 - Quý hợi - tân dậu - mậu thân - kỷ mùi (không thuộc cách Tòng nhi)
Canh thân/ kỷ mùi/ mậu ngọ/ đinh tị/ bính thìn/ ất mão
Trụ này thổ kim thương quan, tài tinh quá trọng, đến nỗi không như ý. May mắn giờ mùi, kiếp tài thông căn làm dụng thần; Đổi lại vận trình lại cát lợi, làm phò tá huyện lệnh. Đến vận đinh tị, bính thìn, ấn vượng, làm đến quan châu mục, do làm quan mà của cải tích tụ đầy đủ giàu có; ất mão vận xung khắc dậu, không yên ổn, bãi chức quy điền.
169 - Kỷ mùi - quý dậu - mậu tuất - canh thân (không thuộc cách Tòng nhi)
Nhâm thân/ tân mùi/ canh ngọ/ kỷ tị/ mậu thìn/ đinh mão
Trụ này thổ kim thương quan, chi thuộc phương tây, kim khí quá trọng, lấy kiếp làm dụng thần. Mừng kỷ thổ khắc quý thủy, cho nên kế thừa dòng dõi nho học; đổi lại vận trình phương nam hỏa địa, làm quan từ huyện lệnh đến châu mục, được tiến cử nhà vua. Cả đời gặp hung hóa cát, công danh không gặp sóng gió vậy.
170 - Quý hợi - giáp dần - quý hợi - giáp dần (không thuộc cách Tòng nhi)
Quý sửu/ nhâm tý/ tân hợi/ canh tuất/ kỷ dậu/ mậu thân
Trụ này thủy mộc thương quan, mừng không có tài, cho nên kế thừa dòng dõi nho học; hiềm địa chi dần hợi hóa mộc, thương quan quá trọng, khó toại nguyện công danh. Tân vận dạy học, hợi vận bổ nhiệm coi kho lương, canh tuất tăng cống nạp làm quan. Vận kỷ dậu mậu thân hai mươi năm thổ kim, sanh hóa không khắc hại, do làm quan mà của cải tích tụ đầy đủ giàu có.
171 - Mậu thân - kỷ mùi - bính tuất - kỷ sửu (không thuộc cách Tòng nhi)
Canh thân/ tân dậu/ nhâm tuất/ quý hợi/ giáp tý/ ất sửu
Trụ này tứ trụ đều có thương quan, nếu sanh tháng sửu tuất, là tòng thương quan cách, danh lợi đều toại nguyện. Sanh vào tháng mùi, hỏa khí còn thừa, tất lấy mùi tàng đinh hỏa làm dụng. Tiếc là vận hành tây bắc kim thủy, đến nỗi tổ nghiệp rách nát; đến quý hợi vận, nghèo khổ không thể nhờ cậy, cắt tóc đi tu.
172 - Mậu thìn - canh thân - kỷ dậu - quý dậu (không thuộc cách Tòng nhi)
Tân dậu/ nhâm tuất/ quý hợi/ giáp tý/ ất sửu/ bính dần
Trụ này cũng thương quan dụng kiếp, hiềm thìn thuộc thấp thổ, sanh kim chứa thủy, không đủ sanh nhật chủ; lại hiềm vận trình tây bắc kim thủy, cho nên nhất bại như vôi, không thành gia thất”.
Ví dụ số 205 trong ”Chương 28 - Thuận Nghịch”:
“205 - Quý dậu - giáp tý - canh thìn - giáp thân (thuộc cách Tòng nhi)
Quý hợi/ nhâm tuất/ tân dậu/ canh thân/ kỷ mùi/ mậu ngọ
Nhật nguyên canh thìn, chi phùng lộc vượng, thủy vốn đương quyền, lại hội thủy cục, thiên can giáp mộc vô căn, gọi là kim thủy hai khí đồng tâm, phải thuận theo thế kim thủy. Cho nên quý hợi nhâm vận, được cha mẹ nuôi dưỡng sung túc. Tuất vận chế thủy, vẫn còn mừng thân dậu tuất hội kim cục, tuy gặp hình tang mà không có họa lớn. Tân vận nhập học, dậu vận đi thi, canh vận đăng khoa, thân vận đại phát tiền của. Giao kỷ mùi, vận chuyển nam phương, hình thê khắc tử, gia nghiệp dần tiêu tan. Mậu ngọ xung thủy tính, gia nghiệp phá tán mất mạng”.
Nếu bỏ tính chất số 3 trong lý thuyết trên là : “3 – Trong mệnh cục có tam hợp cục hay tam hội cục hóa Thực thần, Thương quan” thì chúng ta thấy tất cả 8 ví dụ trên đều thỏa mãn lý thuyết của cụ Thiệu đưa ra nhưng chỉ có 2 ví dụ của cụ Thiệu và ví dụ số 205 của Nhâm Thiết Tiều là thuộc cách Tòng nhi.
Ví dụ duy nhất có đủ cả 4 tính chất của lý thuyết trên là ví dụ 169 (có thêm tính chất số 3 – tức có thêm tam hội Thân Dậu Tuất hóa Kim) nhưng nó lại không thuộc cách Tòng nhi.
Do vậy ta có thể yên tâm bỏ đi tính chất số 3 của cụ Thiệu (vì nó không có giá trị gì trong các ví dụ trên).
Đến đây chắc rằng mọi người đều phải thừa nhận rằng lý thuyết của cụ Thiệu đưa ra ở trên có độ chính xác không cao, vì nó có tỷ lệ đúng quá thấp.
Vậy thì bài toán mà chúng ta phải đưa ra ngay bây giờ là phải phát biểu lại lý thuyết trên của cụ Thiệu sao cho nó đúng ít nhất với 8 ví dụ này.
Những ai tìm ra được lời giải cho bài toán này chắc chắn phải có trình độ suy luận logic cao, thường có ở những người có khả năng nghiên cứu Tử Bình thực sự và dĩ nhiên họ được trao danh hiệu đoạt giải “Nobel Tử Bình” là chính đáng (chỉ có ý nghĩa danh dự trong sự tôn trọng nhau).
Hy vọng mọi người cùng tham gia giải cũng như đưa ra những bài toán mới trong Tử Bình có tính chất quan trọng như vậy. Điều này giúp chúng ta chủ động trong học và nghiên cứu Tử Bình.
Sửa bởi vanlech123: 23/01/2016 - 00:22
#58
Gửi vào 23/01/2016 - 01:14
vanlech123, on 23/01/2016 - 00:17, said:
Sửu nhi mở mắt cho toz vào nhé , đầu chứa gì vậy ??? Chử IG ???? No nằm đâu ???
Chỉ có những loại người có Tứ Trụ thuộc "Cách Cục Con Lợn" mới không biết người khác viết Nobel và Nobel IG là khác nhau mà lại cho rằng nghĩa của chúng là giống nhau mà thôi.
#59
Gửi vào 23/01/2016 - 01:25
VULONG777, on 23/01/2016 - 01:14, said:
Chỉ có những loại người có Tứ Trụ thuộc "Cách Cục Con Lợn" mới không biết người khác viết Nobel và Nobel IG là khác nhau mà lại cho rằng nghĩa của chúng là giống nhau mà thôi.
Thôi ko bàn cải nữa ếch về chăn trâu đi tôi thấy buồn cho bố mẹ của ếch quá ...về quê cặm câu đi
Đúng là khiêm tốn bao nhiêu vẫn cưa đủ tự cao một tí đã bằng thừa loại dốt không đáng cho lão phu tranh luộn .
Thế có hiểu tếng việt nam tôi viết ko ? Học viết làm gì cho phí vậy mà ko hiểu nghiã ??
Với phong cách , và trình độ như thế này thì cũng biết cuộc sống cuả í chủ nhử thế nào rồi bói với chả toán .
Đúng là người ta vẫn nói con chim ưng mới sinh bằng quạ già 90 bì quạ vẫn là ạ chim ưng là chim ưng
Số này ko hợp với chốn thiền môn thanh tịnh biến .
Sửa bởi vanlech123: 23/01/2016 - 01:29
#60
Gửi vào 23/01/2016 - 01:33
Chán cho cái lũ thùng rỗng kêu to .
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
2 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












