Lá số nhà tỷ phú Nguyễn Tấn Đời
Người đứng đầu T.N.Ngân hàng và nhiều cơ sở lớn
(GS Tâm và Lê Thành Thái)
Mệnh lập tại Mùi, VCD, đắc Cái Hổ Long Phượng hội Nhật Nguyệt tịnh minh, phùng Tả Hữu Khoa Quyền; giáp Quang Quý Thai Tọa.
Tài bạch lập tại Mão, đắc Nhật xuất phù tang, ngộ Long Phượng Hổ Cái Tả Hữu Khoa Khôi và hội Song Hao Mão Dậu (Chúng thủy triều đông).
Quan lộc lập tại Hợi đắc Nguyệt lăng thiên môn, hội Long Phượng Hổ Cái, Khoa Mã, Khôi Việt, Tả Hữu, Cơ, Hỉ, Tuế, ngộ Lâm quan.
Đó là cách giàu lớn nhưng phát chậm (từ 39 đến 45 tuổi mới phát), cung Mệnh đóng ở cung Thổ, Tài ở Mộc, không hợp với Thủy mệnh, chỉ sinh phò cho Hỏa cục, đến trung vận ảnh hưởng vào Cục mới phát. Và bấy giờ hạn mới vào Tử tức, hội Xương Khúc Đào Hồng Hỉ ngộ song Lộc; Thiên Phủ phùng Thanh long, Thiên, Nguyệt đức, Thiên trù, Cáo, Phụ, Tướng, Ấn. Nhưng trong thời gian 5 năm đầu đại hạn, vẫn còn gặp trở ngại do Sát Phá Liêm Tham, Diêu Kỵ. Phát to nhất là đại hạn đổi sang Tài (46 tuổi), gặp hạn Nhật xuất phù tang; hạn ở cung Mộc sinh phò cho Thiên Thượng Hỏa của Cục (tuổi Quý, Mệnh tại cung Mùi là Thiên thượng hỏa cục). Mệnh đắc Long Phượng Hổ Cái, vầng thái dương vừa lên khỏi mặt biển, gặp trời quang mây tạnh tỏa ánh sáng muôn màu, có rồng chầu, hổ phục. Đồng thời, song Hao đắc địa ở đây là cách chúng thủy triều đông hợp với Nhật nguyệt tịnh minh là tài tinh đem tiền bạc đến như sóng biển đông cuồn cuộn dâng lên. Cách này hợp với Mệnh VCD hơn là có chính tinh tọa thủ (có chính tinh thụ Mệnh thì lên từ từ chứ không bộc phát).
Phú xưa có câu:
Nguyệt (cư) Hợi Nhật (lâm) Mão Mệnh Mùi cung,
Phú gia địch quốc Thạch Sùng khó đương.
Khái luận đại tiểu hạn 46-55
Như đã luận ở phần trên, từ 36 tuổi, đã ảnh hưởng vào Hỏa cục, hạn gặp song Lộc, giáp Khôi, Việt, ngộ Xương, Khúc, Hồng, Đào, Hỉ, Thiên nguyệt đức. Và nhất là Hỏa cục phùng Thiên phủ lâm Tuất chính chiếu, đáng lẽ là đại phát, nhưng còn bị Sát, Phá, Liêm, Tham ngộ Diêu, Kỵ xâm nhiễu.
Bắt đầu đại hạn đổi mới vào cung Tài (46t), Hỏa cục gặp hạn ở cung Mộc, lại gặp liên tiếp những năm hành niên sinh hợp (Mậu Thân, Kỷ Dậu thuộc Thổ; Canh Tuất, Tân Hợi thuộc Kim; Nhâm Tý, Quý Sửu thuộc Mộc) với Hỏa cục Thiên thượng hỏa.
Năm 47 tuổi (Kỷ Dậu) gốc đại hạn ở cung Tài cư Mão đắc Nhật xuất phù tang, tiểu hạn đến Quan ở Hợi đắc Nguyệt lãng thiên môn. Nhị hạn hội Long Phượng Hổ Cái Khôi Việt Tả Hữu Khoa Mã. Thủy mệnh hạn và cung Thủy ở Hợi hợp với tuổi, gặp Thái âm miếu địa. Gốc đại hạn ở Tài bạch đắc Nhật xuất phù tang. Tiền bạc đã có đà từ đại hạn song Lộc (36-45), gặp cơ hội này có Không Kiếp đắc địa ở Tỵ bốc lên, tiền bạc và danh vọng dâng tràn như biển đông sóng cuộn.
Tiếp theo là năm Canh Tuất (48 tuổi) hạn vào cung Nô ở Tý, có Tuần Triệt và Thiên Không lại sinh phò cho Mệnh VCD. Năm này thuộc hành Kim, gặp Hỏa cục là Ngả khắc vị thê tài (thêm vào đó, mệnh Thủy được hành niên là Kim sinh phò, nhưng ở vào trung và hậu vận, Cục ảnh hưởng mạnh hơn Mệnh). Gặp nhiều bộ cát và quý tinh: song Lộc, Tướng, Ấn, Cáo, Phụ, Quang Quý, Thai Tọa, Thiên nguyệt đức, Hồng Đào. Lưu đại hàn đến cung Tuất, gặp Xương Khúc hội Tử Phủ Vũ Tướng miếu, hội Sinh Vượng Thanh long Lưu hà Hồng Hỉ, Thiên trù tại cung Điền: nhà cửa, tiền bạc, đất đai mọc lên như nấm.
Năm sau, 49 tuổi, Tân Hợi cũng thuộc hành Kim, tiểu hạn vào cung Di tại Tý, cũng trong vòng Tuần Triệt, lưu đại hạn năm này trở lại cung Phúc, đắc Nhật xuất phù tang chiếu hội Khôi Việt Cơ Quyền và song Hao Mão Dậu. Vẫn theo đà tiến triển của năm rồi, tiền bạc ngày càng xúc tích.
Danh vọng tiền bạc lên đến tột đỉnh là năm 50 tuổi, hạn hội nhiều cát và quý tinh nhất trong đại hạn này. Tiểu hạn đến cung Tật có Vũ Tướng miếu vượng hội Tử Phủ Sinh Vượng Quang Quý Thai Tọa Thanh long Lưu hà. Lưu đại hạn vào cung Phụ mẫu, có song Lộc, Đào Hồng Thiên nguyệt đức và hội đủ Binh Hình Tướng Ấn Cáo Phụ. Mệnh Thân đồng cung VCD. Hỏa Cục mà gặp Nhật xuất phù tang ngộ Nguyệt lãng Thiên Môn (lại đắc Thủy mệnh) phùng Tứ linh Tả, Hữu, Khoa, Quyền, vận siêu vào cung Mộc, hành niên cũng thuộc Mộc, lại vào giữa đại hạn (năm thứ 5 của gốc đại hạn 10 năm) thật là rực rỡ như trăng đêm rằm (sinh ngày 16) như vầng thái dương giữa trưa (sinh giờ Ngọ)
Tiểu hạn xảy biến cố quan trọng
Năm Quí Sửu, 51 tuổi, đại tiểu hạn trùng phùng ở Tài bạch, lưu đại hạn vào Mệnh.
Thân Mệnh vô chính diệu gặp hạn Nhật, Nguyệt không sợ Không Kiếp, mà rất kị Kình, Đà, Tang, Hổ. Năm này Kình, Đà, Tang, Hổ cố định hội Kình Đà lưu niên chiếu Lưu đại hạn nhập Mệnh.
Đại tiểu hạn trùng phùng ở cung Mộc, có song hao cố định lại gặp song hao lưu niên (cũng ở Mão Dậu) ngộ Quan phù, Thái Tuế và Mã lưu niên (tại cung Hợi) ngộ lưỡng Đà, Tả phụ, Hữu bật bấy giờ trở thành đắc lực cho hung tinh tác họa, và gốc đại hạn ở cung Mộc tại Mão còn là cung Chấn, tiểu hạn trùng phùng vào đấy là hiện tượng “lưỡng Mộc, mộc chiết” vì nhiều đợt sóng do song Hao cố định hiệp với song Hao lưu niên dâng tràn ngập rừng cây, gây nên cảnh “chim leo giậu ngả”. May nhờ Thủy mệnh cho nên bổn mạng vẫn an toàn (Hóa Khoa ngộ giải thần, thiên giải).
Đương số bị phong tỏa TNNH vào giờ Ngọ ngày 19 tháng 3 (Quí Sửu) nhằm ngày 21-4-1973: nguyệt hạn vào cung Bào, nhật hạn đến Nô, và thời hạn cũng vào Bào gặp Diêu, Kị, Phi, Phục. Ngày bị Dự thẩm giam cứu là giờ Ngọ ngày mồng 7 tháng 4 (Quí Sửu) nhằm ngày 9-5-1973: nguyệt hạn đến cung Thê, nhật hạn đến cung Quan, thời hạn cũng vào cung Thê, gặp Không, Kiếp, Tuế, Đà và lưỡng Phù.
Tháng 5, nguyệt hạn vào Tử tức gặp Thiên, Nguyệt đức và giáp Khôi, Việt có Hồng Đào ngộ Thanh long, Thiên Quí và song Lộc: đương số sẽ cảm thấy được giải tỏa rất nhiều nỗi khó khăn hiện thời tuy Phá ngộ Lộc và Xương, Khúc ngộ Hình, Diêu, Sát, Kị nhưng bên trong đã có Nguyệt đứ, Hồng, Đào, Hỉ giáp Khôi Việt trợ lực với Hóa Khoa, Thiên giải, Giải thần hóa giải), và từ tháng 6 trở đi, Kình Đà Phù Tuế mất dần khả năng phá tán. Tả Hữu sẽ quay lại phù trợ, Tứ linh và Nhật Nguyệt tịnh minh sẽ giúp đương số thoát bĩ rất hi hữu.
KHHB 73-G1
(Ps: pót lại đầy đủ)