Hỏi:
- Thưa Thầy, Con nghe nói, muốn thí thực cho ngạ quỷ phải cúng bằng cháo loãng và đổ xuống đất họ mới dùng được, nếu mình có lòng thí thực cho họ. Họ lại tò tò theo mình hoài, lỡ khi mình không có thời gian hành pháp thí, họ có bực mình không ạ?
Theo như Thầy đã giảng, người nhà cũng đã có cầu siêu cho anh Bảy, nhưng anh chỉ siêu sinh sang cảnh giới khác, mà không siêu thăng về nơi nhàn cảnh, được kết quả làm người, quả trời hay quả niết bàn. Như vậy, Cô Tám là người dễ dàng hồi hướng cho vong nhất, mà còn không làm được, thì các sư tụng cho anh làm sao làm đặng?
Con xin hỏi thầy, có cách nào xác nhận cha mẹ họ hàng mình đã siêu thăng hay chưa? Con xin định nghĩa siêu thăng đối với con là không về ba đường dữ, và có cách nào để nhận biết họ hàng mình đã nhận được công đức mà mình hồi hướng hàng ngày cho họ hay không ạ? Cảm ơn Thầy đã từ bi và giảng dạy.
P/S: Còn nữa, con hiểu theo Thầy như vầy không biết đúng hay sai, người chết chưa siêu, tức chưa biết mình chết và chưa qua cỏi trung ấm, người chết đã siêu, tức biết mình chết và đã qua cỏi trung ấm. Và trong vòng 49 ngày là phải chuyển kiếp tái sinh. Còn siêu thăng là về cỏi người, atula và thiên. Còn vãng sinh là về cỏi vô dư niết bàn, cỏi tịnh độ, và không còn tái sinh vào lục đạo. Xin Thầy cho con lời pháp. Chân thành cảm ơn Thầy.
Trả lời:
- Chào Bạn chú xiểu,
Không có chi cám ơn Bạn đã hỏi.
1. Con nghe nói muốn thí thực cho ngạ quỹ phải cúng bằng cháo loãng và đổ xuống đất họ mới dùng được, nếu mình có lòng thí thực cho họ, họ lại tò tò theo mình hoài, lỡ khi mình không có thời gian hành pháp thí, họ có bực mình không ạ?
Tôi trả lời câu hỏi này với kinh nghiệm của tôi khi tiếp xúc với vô hình. Tôi không nói cách nấu cháo loãng đổ xuống đất cho ngạ quỷ thì họ mới dùng được là đúng hay không đúng, Bạn nhé! Ngạ quỷ dùng được tất cả thức ăn mà chúng ta cho đến họ. Khi cần phải thí thực, tôi tụng kinh Paritta vào mâm thực phẩm, gạo và muối hột, cứ hai phần gạo thì một phần muối. Sau khi tụng kinh, tôi trộn gạo và muối, vừa trộn vừa tụng bài Ân Đức Phật tại vì tôi muốn họ được an lành. Tôi cầu nguyện gạo muối này biến mãn, no lòng khắp cả chúng sanh, rồi tôi đưa gạo muối cho gia chủ rải vào sát hàng rào.
Có một lần, tại một ngôi chùa Tàu đã lâu không có người tụng niệm, chúng phi nhân tụ nơi đó rất đông. Tôi vừa rải nắm gạo xuống bờ cỏ, một luồng gió thổi “cái rào” rung rinh thân cây ngay nơi đó. Chỉ có cây đó rung thôi, một dãy cây dọc, cây ngang xung quanh như đứng yên, vì trời đang lặng gió. Những người chứng kiến xanh mặt.
Thêm một lần, tôi đến tại tư gia của một phật tử có quá nhiều phi nhân. Khi tôi rải gạo xuống, thì họ nhào tới lượm ăn. Hạt gạo to ra như cái banh bao. Tôi xin dùng cảnh trong phim Hồng Kông để diễn tả: những người hành khất ngấu nghiến mấy cái bánh bao xin được như thế nào, thì chúng sanh đói ngấu nghiến hạt gạo, hạt muối cũng như thế ấy.
2. Theo như Thầy đã giảng, người nhà cũng đã có cầu siêu cho anh Bảy nhưng anh chỉ siêu sinh sang cảnh giới khác mà không siêu thăng về nơi nhàn cảnh, được kết quả làm người, như vậy, Cô Tám là người dễ dàng hồi hướng cho vong nhất mà không làm được, thì các sư tụng cho anh làm sao làm đặng?
Nghiệp lực là vậy đó Bạn. Muốn tái sanh nhàn cảnh Trời, và muốn được kết quả làm Người, thì khi còn sống, anh Bảy phải thọ trì Ngũ Giới. Phước của Ngũ Giới như là chiếc “vé máy bay” cho anh đi làm Người, làm Trời!
Ví dụ Bạn nhé:
Một chiếc vé máy bay đi về “đường Người” là 1.000 đôla. Chiếc vé máy bay đi về “đường Trời” là 2.000 đôla. Lúc còn sống, anh Bảy không có tạo phước, không chuẩn bị cho mình “cái vé phước báu” để về Người, về Trời. Cho nên, sau khi chết, anh phải đọa vào khổ cảnh, vào đường Ngạ Quỷ.
Bây giờ gia đình muốn làm phước cho anh, gia đình muốn anh, từ ngạ quỷ mà siêu thăng nhàn cảnh; từ ngạ quỷ mà được kết quả làm người, thử hỏi, gia đình phải kiếm cho anh bao nhiêu là phước báu? Bây giờ, anh Bảy làm thân ngạ quỷ rồi, gia đình còn phải kiếm tới “4.000 đôla phước” cho anh trở lại làm người và “5.000 đôla phước” cho anh đi lên trời. Khi nào gia đình kiếm cho đủ số phước như vậy, anh Bảy mới rời được kiếp ngạ quỷ!
May mắn, Phước có thể đi xin! Nếu gia đình của anh Bảy tìm được những người có phước báu, để mà xin phước của những người ấy, không lâu, phước báu kết tụ đủ đầy, anh Bảy sẽ thăng nhàn cảnh... Đức Phật Thích Ca dạy “Cách Trai Tăng hợp đạo” trong bài Kinh Hồi Hướng Vong Linh là như vậy, làm tăng phước báu cho thân nhân quá vãng!
3. Con xin hỏi thầy, có cách nào xác nhận cha mẹ họ hàng mình đã siêu thăng hay chưa? Con xin định nghĩa siêu thăng đối với con là không về ba đường dữ?
Thông thường, không có cách xác định chính xác người thân của mình đã siêu thăng người và trời hay chưa, thưa Bạn. Nhưng nhìn vẻ mặt của thi hài, thì, người có kinh nghiệm, sẽ biết 80% người đã mất đi về đâu.
4. Có cách nào để nhận biết họ hàng mình đã nhận được công đức mà mình hồi hướng hàng ngày cho họ hay không ạ?
Nếu như thân nhân của mình đang ở trong đường Trời, họ sẽ biết và rất hoan hỷ công đức của mình cho đến họ. Họ có phước hơn mình rồi, nhưng họ hoan hỷ với hành động “chia phước” của mình. Mình mang phước đến cho chư thiên, cũng như đứa trẻ con chia miếng bánh đến cho người lớn. Người lớn vui. Chư Thiên vui. Thân nhân mình trong cảnh Trời, nếu muốn, sẽ báo mộng cho mình biết họ đang an vui.
Nếu như thân nhân của mình trong cõi Atula, Ngạ Quỷ, thì khi mình làm phước mà có “xin Chư Thiên mách bảo cho người thân nhận phước” thì họ nhận được. Họ có thể mà cũng không có thể báo tin cho mình là họ đã nhận phước. Nhưng nếu mình có được Chư Thiên hộ trì, thì chính Chư Thiên có thể cho mình nằm mơ thấy thân nhân của mình đã được no đủ, vv…
Theo niềm tin của riêng tôi, nếu thân nhân của mình đang trong cõi Người, thì phước mà mình vừa hồi hướng đến cho họ có thể là một món quà bất ngờ, một ngày có lộc ăn cho họ, vv… Nếu là người ăn xin, thì giây phút đó được người cho một số tiền lớn, một miếng ăn ngon... Bằng như thân nhân của mình đang là Súc Sanh, phước mà mình hồi hướng đến cho họ, ngay giây phút đó họ cũng được miếng ăn ngon, ăn no, ăn sang...
Tất cả phước báu mà mình làm ra, trước hết mình là người thọ quả, Bạn ạ! Cũng hoàn toàn tùy Nghiệp Lực, mà thân nhân quá vãng của mình có nhận được phước hay là không! Ví như, hàng cứu trợ thì có, nhưng hàng có đến tay người cần hay là không! Cho nên, hãy tự mình tạo phước báu cho chính mình, khi còn mang thân người! Một mai qua đời rồi...sanh vào khổ cảnh rồi... biết có còn ai thương tưởng đến mình không? Biết có còn ai vì mình mà đêm ngày tụng niệm, sáng chiều đi tìm kiếm phước báu cho mình không?
5. Còn nữa, con hiểu theo Thầy như vầy không biết đúng hay sai, người chết chưa siêu, tức chưa biết mình chết và chưa qua cỏi trung ấm, người chết đã siêu, tức biết mình chết và đã qua cỏi trung ấm. Và trong vòng 49 ngày là phải chuyển kiếp tái sinh. Còn siêu thăng là về cỏi người, atula và thiên. Còn vảng sinh là về cỏi vô dư niết bàn, cỏi tịnh độ, và không còn tái sinh vào lục đạo?
Phần này thì tôi trả lời theo Phật Giáo Nguyên Thủy: người chết, thân nằm xuống, Nghiệp đưa “thức tái sanh” của người ấy đi ngay vào cảnh giới tương ưng với quả nghiệp, như con sâu đo co mình, búng ra, là qua một kiếp khác. Không có giai đoạn trung ấm và không có giai đoạn 49 ngày. Từ kiếp con người, khi chết đi, tái sanh về nhàn cảnh (Trời, Người), hay đọa vào khổ cảnh (Atula, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục) đều gọi là “siêu”, “đã siêu”.
Trong kinh Phật, có sự tích về một vị tỳ khưu viên tịch, ngay lập tức vị ấy hóa sanh làm vị Thiên Nam trên trời. Vị Thiên Nam, tức thời, không biết mình là một vị trời. Sau đó nhìn lại, vị Trời này mới biết mình vừa là vị tỳ khưu chết đi, từ kiếp người sanh lên thiên. Cõi Tịnh Độ nếu nói theo hệ phái Nguyên Thủy là Ngũ Tịnh Cư, một cảnh trời trong 16 cõi Trời Sắc Giới, thuộc cảnh Tứ Thiền. Cảnh Sắc Giới có mười sáu là:
I. Cảnh Sơ Thiền: tức Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, và Ðại Phạm Thiên
II. Cảnh Nhị Thiền: tức Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, và Quang Âm Thiên
III. Cảnh Tam Thiền: tức Thiền Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên
IV. Cảnh Tứ Thiền: tức Quảng Quả Thiên, Vô Tưởng Thiên và Phước Sanh Thiên.
Cảnh Phước Sanh Thiên chia làm năm phần là: Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Hiện Thiên, Thiện Kiến Thiên, Sắc Cứu Cánh Thiên.
Trong mọi trường hợp, các bậc Nhất Lai, Dự Lưu và hạng phàm nhân không tái sanh vào cảnh Phước Sanh Thiên (Suddhāsā), cũng gọi là Ngũ Tịnh Cư.
Vô Dư Niết Bàn: Khi Đức Phật Thích Ca còn mang thân tứ đại thì Ngài đã Niết Bàn, nhưng gọi là Hữu Dư Niết Bàn (còn thân. Khi Ngài viên tịch, bỏ luôn thân tứ đại, Ngài nhập Vô Dư Niết Bàn (không còn thân nữa).
Lục đạo là sáu đường trong cõi Dục Giới: Trời, Người, Atula, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục. Muốn thoát bốn đọa xứ: Atula, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục thì phải thực hành Ngũ Giới. Muốn tái sanh vào đường Người và đường Trời cũng phải thực hành Ngũ Giới. Vì vậy, Ngũ Giới được gọi là Nhân Đạo và Thiên Đạo.
Về 49 ngày sau khi chết: Phần này tôi trả lời với kinh nghiệm của tôi:
Nếu tin tưởng phước báu có thể trợ giúp thân nhân quá vãng được tái sanh nhàn cảnh, gia đình hãy cố gắng tạo thật nhiều phước báu, bằng phương cách hợp lẽ đạo, mà hồi hướng, mà cho phước đến người thân vừa qua đời, trong vòng 49 ngày. sẽ trợ duyên rất nhiều cho sự tái sanh của người thân!
Mong Bạn được hoan hỷ, Bạn chú xiểu!
Sau đây là sự tích của bài “Kinh Hồi Hướng Vong Linh”, Đức Phật Thích Ca dạy Trai Tăng hồi hướng phước báu cho thân nhân quá vãng. Sự tích bài kinh này trong Tạng Kinh. Kinh Tiểu Bộ II. BuddhaSasana. Webmaster: Binhanson
Chuyện Ngạ Quỷ Ngoại Bức Tường (Tirokuddapeta). Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong khi đang trú tại Ràjagaha (Vương Xá).
Chín mươi hai kiếp về trước, có một kinh thành tên là Kàsipuri. Vua Jayasena ngự trị nơi ấy có chánh hậu là Sirimà, vương tử Phussa chứng đắc Vô Thường Chánh Ðẳng Giác, tức là đức Cổ Phật thứ mười tám sau đức Phật Dipankara (Nhiên Ðăng).
Bấy giờ Ðại Vương Jayasena sinh tâm ngã mạn, suy nghĩ: ‘Vì vương tử của ta sinh ra đời làm đức Phật, đã thành tựu đại sự xuất thế, chỉ riêng ta có Phật, chỉ riêng ta có Pháp, chỉ riêng ta có Tăng chúng’. Do đó nhà vua luôn luôn hầu cận bên đức Phật và không dành cơ hội cho kẻ khác.
Ba hoàng đệ của đức Thế Tôn ấy do bà mẹ khác sinh ra, bèn suy nghĩ: ‘Quả thật chư Phật ra đời vì lợi ích của quần sinh khắp thế gian này, chứ không phải vì riêng một ai. Nay phụ vương ta không dành cơ hội cho người khác. Làm thế nào ta có thể phụng sự đức Thế Tôn và Tăng chúng? Nào chúng ta hãy thi hành một chiến thuật’.
Thế là chư vị gây rối tại vùng biên địa. Sau đó khi nhà vua nghe tin về vụ rối loạn này, liền phái ba vương tử đi bình định biên thùy. Ba vị tuân lệnh và khi trở về, nhà vua hài lòng ban chư vị một điều ước, phán bảo:
- Hãy chọn thứ gì các vương nhi muốn.
Ba vị tâu:
- Chúng thần nhi ước mong hầu cận đức Thế Tôn.
Nhà vua từ chối, phán:
- Hãy chọn thứ khác.
Ba vị tâu:
- Chúng thần nhi không màng thứ gì khác cả.
Nhà vua lại phán:
- Thôi được, các vương nhi có quyền chọn theo ý muốn.
Ba vị đến gần đức Thế Tôn và thưa:
- Bạch Thế Tôn, chúng đệ tử ước mong phụng sự đức Thế Tôn ba tháng. Xin đức Thế Tôn hoan hỷ an cư ba tháng mưa với chúng đệ tử.
Ðức Thế Tôn chấp thuận. Ba vị hoàng tử tự thân hành gửi một thông điệp đến cho người được chỉ định trông coi tỉnh nọ, bảo: ‘Trong suốt ba tháng này, chúng ta cần phục vụ đức Thế Tôn, bắt đầu bằng cách xây một tinh xá, và cung cấp đủ mọi thứ cần thiết’.
Sau đó chư vị hết lòng cung kính phục vụ đức Thế Tôn cùng Tăng chúng. Khi các viên quan cai trị tỉnh này đã cúng dường tinh xá xong, các vị chấp hành việc an cư mùa mưa ấy. Một vị thủ kho hàng gia, con trai một gia chủ, là người mộ đạo cùng với vợ đã tìm được niềm tin, vị ấy trân trọng cúng dường Tăng chúng với đức Phật làm thượng thủ. Người được chỉ định cai quản tỉnh này theo gương vị kia cùng với mười một ngàn dân đem các vật đến cúng dường với tất cả lòng thành kính.
Vào dịp ấy, có một số người bất mãn trong lòng, sau khi ngăn cản những vật đóng góp, chính họ lại ăn các phẩm vật và nổi lửa đốt trai đường.
Sau khi ba vương tử cùng đoàn tùy tùng đã cúng dường đức Thế Tôn và từ giã Ngài xong, ba vị đi thẳng đến phụ vương. Khi trở về, đức Thế Tôn đắc Niết bàn vô dư y, ba vương tử và người cai quản tỉnh ấy, vị thủ kho báu hoàng gia dần dần theo thời gian đều từ trần và cùng với quần chúng ở đó được tái sanh thiên giới, còn số người bất mãn trong tâm bị tái sanh địa ngục.
Chín mươi hai kiếp trôi qua như vậy, trong lúc hai hạng người trên cứ lần lượt tái sanh từ thiên giới này đến thiên giới khác và từ địa ngục này đến địa ngục khác. Rồi đến hiền kiếp này, vào thời đức Thế Tôn Kassapa, đám người bất mãn trong tâm tái sanh vào loài ngạ quỷ.
Vào thời ấy, loài người thường cúng dường vì lợi ích của đám quyến thuộc quá cố của họ và nêu rõ: ‘Lễ vật này xin dành cho quyến thuộc của chúng tôi’. Do đó, các vong linh được an lạc. Thế rồi, chính các vong linh ấy cũng nhận biết điều này, nên sau khi đến gần đức PhậtKassapa, các vị ấy hỏi:
- Bạch Thế Tôn, giờ đây làm thế nào chúng con có thể đạt được an lạc như vầy’?
Ðức Thế Tôn đáp:
- Hiện nay chư vị chưa có thể đạt được an lạc ấy, nhưng thời gian về sau, sẽ có một đức Phật ở thế gian tên gọi là Gotama. Vào thời của đức Thế Tôn ấy, sẽ có một vị vua tên làBimbisàra, trong chín mươi hai kiếp nữa kể từ đây sẽ là quyến thuộc của chư vị. Vua ấy sẽ dâng lễ cúng dường đức Phật và sẽ hồi hướng công đức ấy đến chư vị, sau đó chư vị sẽ được an lạc.
Thời bấy giờ, khi điều này được phát biểu, thì cũng như thể ta nói với các vong linh ấy: ‘Ngày mai chư vị sẽ được an lạc’.
Về sau, khi thời kỳ có đức Phật này đã qua, đức Thế Tôn giáng sanh vào cõi đời, ba vương tử cùng với một ngàn người từ thiên giới tái sanh vào quốc độ Magadha (Ma kiệt đà) trong các gia đình Bà la môn.
Theo thời gian, sau khi từ giã đời thế tục, ba vị trở thành các nhà khổ hạnh bện tóc, trú tại đỉnh núi Gayà, người trước kia cai quản tỉnh thành ấy trở thành vua Bimbisàra; người thủ khố hoàng gia, con của vị gia chủ, trở thành đại phú trưởng nghiệp đoàn có tên Visàkha; vợ vị ấy trở thành con gái của một vị đại phú trưởng nghiệp đoàn và được đặt tên Dhammadinnà, còn đám quần chúng được tái sanh làm các vị cận thần của vua.
Bấy giờ đức Thế Tôn Gotama giáng sanh cõi trần, sau bảy tuần Giác Ngộ, Ngài đến Benares(Ba la nại) chuyển Pháp luân. Ngài giáo hóa ba vị đạo sĩ bện tóc, sau khi Ngài đã khởi đầu giáo hóa năm vị khổ hạnh, và thâu nhận cả ngàn đệ tử. Sau đó Ngài đi đến Ràjagaha và an trú vua Bimbisàra vào Sơ quả Dự Lưu cùng với hơn một vạn Bà la môn và cư sĩ ỏ tại xứAnga (Ưng già) và Magadha.
Tuy nhiên các ngạ quỷ ở quanh cung vua suy nghĩ: ‘Giờ đây nhà vua sẽ làm lễ cúng tế cho chúng ta được hưởng phước’. Trong lúc nhà vua làm tế lễ, nhà vua suy nghĩ: ‘Ta không biết bây giờ đức Thế Tôn đang trú ở đâu?’. Do vậy, nhà vua không hồi hướng công đức đến ai cả. Vì các ngạ quỷ không nhận được thí vật nào cả, chúng rất thất vọng thốt tiếng kêu thảm thiết mỗi đêm ở hoàng cung.
Rạng ngày, nhà vua hoảng sợ trình đức Thế Tôn về chuyện đã xảy ra và hỏi:
- Bạch Thế Tôn, Ngài đã nghe tiếng nào như vậy chưa? Con băn khoăn không biết việc gì xảy ra với con.
Ðức Thế Tôn đáp:
- Thưa Ðại vương, xin đừng sợ, không có gì bất thường xảy ra với Ðại vương đâu, mà thịnh vượng sẽ đến với Ðại vương thôi. Giờ đây, quả thật là quyến thuộc của Ðại vương đã tái sanh vào loài ngạ quỷ. Trong suốt một kiếp, chúng đã lang thang khắp nơi và chỉ mong ước điều này: ‘Nhà vua sẽ làm lễ cúng dường đức Phật và hồi hướng công đức ấy cho chúng ta’. Hôm qua, khi Ðại vương dâng lễ, Ðại vương đã không hồi hướng công đức. Do đó, chúng mất hết hy vọng và thốt tiếng kêu la.
Nhà vua hỏi:
- Bạch Thế Tôn, bây giờ làm sao chúng có thể nhận được thí vật?
Ðức Phật đáp:
- Thưa Ðại vương, quả thật chúng có thể nhận.
Nhà vua nói:
- Bạch Thế Tôn, vậy Thế Tôn hãy nhận lời thỉnh cầu của con vào ngày mai, con sẽ hồi hướng công đức lễ vật ấy cho chúng.
Ðức Thế Tôn nhận lời.
Sau đó, nhà vua ra lệnh chuẩn bị lễ cúng dường hào phóng, và thông báo thời giờ lên đức Thế Tôn, Ngài liền đến Hoàng cung. Bầy ngạ quỷ cũng đến và suy nghĩ: ‘Hôm nay chúng ta sẽ hưởng được món gì đó’, rồi đứng bên ngoài các bức tường và hàng rào.
Sau đó đức Thế Tôn làm cho mỗi ngạ quỷ đều hiện hình trước nhà vua. Trong khi vua dâng nước rửa, vua hồi hướng công đức ấy cho chúng với những lời này: ‘Mong công đức này dành cho quyến thuộc ta’. Lập tức xuất hiện các ao sen đầy sen súng cho bọn ngạ quỷ. Chúng tắm rửa và uống nước ở đó, được giảm nhẹ nỗi thống khổ của chúng vì bất hạnh, lao nhọc và khát nước, nên da chúng trở nên vàng ánh.
Nhà vua dâng lễ cúng dường cháo gạo và các thức ăn đủ loại cứng mềm rồi hồi hướng công đứng lễ vật ấy cho chúng. Trong chốc lát liền xuất hiện cho chúng các thực phẩm khác, thậm chí cả thực phẩm thiên giới, khiến chúng hân hoan hưởng thọ.
Nhà vua lại cúng dường y phục và sàng tọa, tinh xá rồi hồi hướng công đức lễ vật ấy. Sau đó liền xuất hiện cho chung các thiên y, thiên cung, sàng tọa, khăn phủ và đồ trang sức. Ðức Thế Tôn quyết định làm cho tất cả hạnh phúc tuyệt vời này của họ được hiển lộ trước vua; khi nhìn thấy vậy, vua vô cùng hoan hỷ.
Rồi đức Thế Tôn, sau khi thọ thực xong, và được thỉnh cầu, Ngài kể chuyện ngạ quỷ ngoài bức tường thay lời tùy hỷ công đức.
1. Bọn chúng đứng kia, ngoài bức tường
Những nơi trống trải, ngã tư đường
Chúng đang đứng ở ngoài song cửa
Khi đã về nhà tại cố hương.
2. Dù tràn trề ẩm thực liên miên
Ðủ loại cứng mềm được dọn lên,
Cũng chẳng có ai cần bọn chúng
Bởi vì nghiệp chúng đã gây nên.
3. Những người lân mẫn, lắm tình thương
Ðúng lúc đem cho đám họ hàng
Các thức cao lương, đồ ẩm thực
Với lời cầu nguyện: ‘Ðể dành phần
Lễ này cho đám người thân thuộc
Mong các họ hàng được phước ân’.
4. Và các đám này đã đến đây
Các vong linh của họ hàng này
Thảy đều tụ tập đồng vui hưởng
Các thực phẩm đều phong phú thay.
5. Chúng cầu: ‘Trường thọ các người thân
Nhờ các vị, ta được hưởng ân
Lòng quý trọng ta đà biểu lộ
Người cho chẳng thiếu quả dành phần'.
6. Chốn kia không có cấy cày đâu
Cũng chẳng hề nuôi súc vật nào
Buôn bán như đây đều chẳng có
Cũng không đổi vật lấy vàng trao.
7. Bên kia thế giới các vong linh
Nhờ vật cúng dường để dưỡng sinh
Như nước đổ từ trên núi xuống
Cúng dường nuôi ngạ quỷ thân tình.
8. Giống như tất cả các dòng sông
Chảy xuống đổ đầy cả đại dương
Cũng vậy những gì người bố thí
Từ đây nuôi sống các vong nhân.
9. Những thân bằng quyến thuộc trong nhà
Trước đã cho ta, giúp đỡ ta
Mong mọi người ban phần ngạ quỷ,
Nhớ công họ tạo thuở xưa xa.
10. Bởi vì kêu khóc hoặc sầu bi
Thương tiếc, than van chẳng ích gì
Không lợi gì cho người quá cố
Khi thân nhân giữ thói lề kia.
11. Song lễ vật này được cúng dâng
Khéo đem an trú ở chư Tăng
Quả này hiện tại và sau nữa
Lợi lạc lâu dài với cổ nhân.
12. Ðây là nghĩa vụ của thân nhân
Tôn trọng vong linh, đã cúng dâng
Tăng chúng được thêm nhiều dõng lực
Người làm công đức lớn vô ngần.
Khi pháp thoại chấm dứt, tám vạn bốn ngàn người đã đắc Pháp nhãn do tri kiến sanh khởi từ sự kiện tái sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Tâm họ đầy xúc động vì được tán thán và họ càng nỗ lực tinh cần. Ngày hôm sau đức Thế Tôn cũng dạy chư Thiên và loài Người bài kinh ‘Ngoài Bức Tường’ ấy. Do vậy suốt bảy ngày đều diễn ra sự đắc Pháp nhãn như trên.
Chúc quý Bạn an lành.
Mô Phật
CUUBAOLONG
0
NHỮNG LỜI TRAO ĐỔI HAY VỀ CÚNG THÍ THỰC CHO NGẠ QUỶ CÔ HỒN...
Viết bởi hiendde, 13/05/14 23:01
No replies to this topic
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Những năm tháng tuổi trẻ |
Vài Dòng Tản Mạn... | Tre |
|
|
|
Nhật ký những giấc mơ |
Vài Dòng Tản Mạn... | gaido111 |
|
||
Cần Những Tứ Trụ Nam Không Có Ta`i Tinh Để Nghiệm Lý |
Tử Bình | lymenhoc |
|
||
Đêm rồi nhưng vẫn lo nghĩ chuyện tương lai. |
Linh Tinh | Tieuthukhongten |
|
||
Cho những ai còn mơ ước thiên đàng.. |
Giải Trí | Rey |
|
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |