←  Nguồn Sống Tươi Đẹp

Tử Vi Lý Số :: Diễn đàn học thuật của người Việt

»

Ngỡ bây giờ là bao giờ



1 2 3

Búp Sen's Photo Búp Sen 19/03/2014

Pháp thoại bình thơ đêm giao thừa ngày 30.01.2014 tại thiền đường Trăng Rằm, xóm Mới, Làng Mai.

Tiếp xúc với cội nguồn

Chúng ta rất may mắn được ngồi với nhau như một gia đình tâm linh trong giờ phút cuối năm này. Chúng ta ngồi với nhau trong tình huynh đệ. Tết là một dịp để ta kết nối lại với tổ tiên. Cây có cội, sông có nguồn và con người thì có tổ tiên. Trong buổi thiền tọa hôm nay chúng ta đã kết nối được với tổ tiên. Chúng ta biết tổ tiên đang có mặt trong từng tế bào cơ thể. Một người mất gốc, một người bị cắt đứt liên hệ với tổ tiên không thể là một người có hạnh phúc. Cũng như cây không có gốc rễ thì cây không thể sống, nếu chúng ta không tìm tới gốc rễ thì chúng ta không sống được. Tết là một dịp để chúng ta tìm về nguồn và tiếp cận được với gốc rễ của mình.

Thắp hương trên bàn thờ tổ tiên không phải là một hành động mê tín

Ở các nước Á Châu cũng như ở Tây phương, người ta nghĩ có hai cõi: Một cõi gọi là cõi âm, là nơi mà những người đã chết đang sống (the Nether World) và một cõi gọi là cõi dương, là nơi chúng ta đang sống bên này. Hình như đây là một tín ngưỡng có tính cách phổ quát trên thế giới. Hầu hết chúng ta đều nghĩ có một cõi mà trong đó chúng ta đang sống và sau khi chết thì chúng ta đi sang cõi kia gọi là cõi âm. Và chúng ta tìm đủ mọi cách để thiết lập sự liên lạc giữa cõi dương và cõi âm.

Người Á Châu gọi cõi âm là cửu tuyền hay chín suối (the World of Nine Sources). Người ta cũng gọi nơi đó là suối vàng, và chúng ta thao thức muốn thiết lập liên hệ với cõi đó để có thể nói chuyện với tổ tiên, với ông bà cha mẹ đã khuất.

Ở Việt Nam, chúng ta có phong tục thờ cúng tổ tiên. Mỗi nhà, dù có nghèo đế đâu đi nữa thì cũng có một bàn thờ để thờ ông bà. Trên bàn thờ có một bình hương, và có thể cũng có hình ảnh của một người đã khuất bóng như là ông nội, ông ngoại, bà nội, bà ngoại, người đại diện cho cõi âm. Từ mấy ngàn năm nay chúng ta thực tập tiếp xúc với cõi đó bằng cách là mỗi ngày chúng ta tới trước bàn thờ tổ tiên, đốt một cây hương và cắm lên bát nhang. Công việc này mất khoảng một hay hai phút, nhưng ngày nào chúng ta cũng dâng một cây hương lên bàn thờ. Trong giờ phút đó chúng ta có cơ hội tưởng nhớ và thiết lập liên hệ giữa chúng ta với ông bà tổ tiên ở cõi bên kia.

Có một lần tôi thuyết trình ở Học Viện Chính Trị H-C-M. Trong số người tham dự có rất nhiều nhà khoa học và lý thuyết gia Marxist. Tôi nói rằng:Hành động tới trước bàn thờ đốt một cây hương, tiếp xúc với tổ tiên không phải là một hành động mê tín mà là một hành động rất khoa học. Trong khi chúng ta lau bụi trên bàn thờ tổ tiên, trong khi chúng ta đốt một cây hương và cắm vào bát hương thì lòng của chúng ta hướng về tổ tiên. Như vậy chúng ta làm cho vững mạnh sự liên hệ của của mình với tổ tiên. Sức khỏe của con người, nhất là sức khỏe tâm thần tùy thuộc ở chỗ ta có gốc rễ hay không. Con người không có gốc rễ là một con người không lành mạnh. Vì vậy mỗi ngày ta để một hay hai phút tiếp xúc với tổ tiên là để củng cố và làm vững chãi lại sự liên hệ giữa ta và tổ tiên. Đó là một hành động rất khoa học giúp ta giữ vững được sức khỏe tâm thần. Vì vậy các ngài đừng cho đó là một hành động mê tín.

Đốt vàng mã không phải là một hành động mê tín

Một nhà khoa học nói:Chuyện đốt vàng mã quả thật là mê tín!

Tôi nói: không phải! Có một tâm tình nào đó nằm dưới hành động đốt vàng mã, tiền bạc, nhà cửa, xe hơi, máy tính để những người bên cõi âm có mà sử dụng. Bề ngoài trông như mê tín nhưng bên trong có chứa một tâm tình rất đẹp. Tại sao người ta làm như vậy? Tại vì người ta tưởng nhớ, thương tiếc những người thương đã qua đời. Đó là phương cách để biểu hiện những tâm tình rất tốt đẹp như sự hiếu thảo, sự thương nhớ. Những đức tánh đó rất là quí mà nếu để mất đi thì con người không còn văn minh nữa và đau khổ rất nhiều. Vì vậy hành động bề ngoài trông như mê tín dị đoan như đốt vàng mã, đốt tiền giấy đó chất chứa một cái gì rất là cao đẹp của truyền thống. Đó là sự tưởng nhớ tổ tiên, cội nguồn.

Vì vậy trong khi chưa tìm ra được phương pháp khác mà quí vị lại bắt người ta bỏ phương pháp đốt vàng mã thì đồng thời quí vị cũng làm cho người ta bỏ đi những cái đẹp trong tâm hồn của họ.

Tìm những phương thức để thay thế

Năm 1962 tôi viết đoản văn “Bông hồng cài áo”. Những sinh viên của các trường đại học Sài Gòn đã tổ chức lễ “Bông hồng cài áo” đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Đó là một hành động rất đẹp! Chúng ta làm một cái lễ rồi mời bố mẹ tới và tỏ bày lòng hiếu thảo của mình. Mỗi người sẽ được cài lên hai bông hoa, nếu bố mẹ còn sống thì mình được cài hai bông hoa màu hồng, nếu một trong hai người đã chết thì mình được cài một bông màu hồng và một bông màu trắng, và nếu hai người đều mất rồi thì mình được cài hai bông màu trắng. “Bông hồng cài áo” cũng là một nghi lễ nhưng không có vẻ mê tín. Từ năm 1962 đến nay cũng đã nửa thế kỷ rồi, lễ “Bông hồng cài áo” đã thay thế được một phần nào cho tục đốt vàng mã, v.v…

Tôi nói với các nhà khoa học và các lý thuyết gia Marxist tại Học Viện Chính trị Hò Chí Minh: “Chừng nào quí vị chưa tìm ra được những phương thức mới để nuôi dưỡng những tình cảm đẹp đẽ đó thì quí vị đừng nên bài bác những cái mà dân chúng đang làm”. Và các vị đã thấy được điều này. Trước đó các quan chức rất sợ đốt nhang, sợ người ta thấy mình đang khấn vái trước bàn thờ. Nhưng sau buổi gặp gỡ đó thì các nhà chính trị ở Việt Nam bắt đầu công khai thờ cúng tổ tiên và thắp hương trước quần chúng. Rất là hay! Khi dự hội đền Hùng, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ đều đứng ra thắp hương một cách thoải mái mà không sợ người ta cho là mê tín dị đoan. Đó là một trong những đóng góp của chuyến về năm 2005 của Thầy và tăng đoàn Làng Mai.

Hai cõi chỉ là một

Tại Làng Mai, chúng ta đi sâu vào trong giáo lý đạo Bụt. Chúng ta đã khám phá ra rằng hai cõi đó, cõi âm và cõi dương, thật ra chỉ là một cõi mà thôi. Có một dòng sông, nhưng không có sự chia cách. Nếu biết cách ta có thể tiếp xúc với người thương, cha mẹ, tổ tiên ngay trong giây phút này mà không cần phải đi qua cõi kia. Khoa học cũng đi trên con đường đó. Khoa học cũng tìm cách để nối lại những hố ngăn cách. Ngày xưa người ta tưởng vật chất và năng lượng là hai cái khác nhau và vật chất không phải là năng lượng, năng lượng không phải là vật chất. Nhưng bây giờ khoa vật lý học đã tìm ra sự thật, đã nối kết được và nói rằng: Vật chất và năng lượng không phải là hai cái tách rời nhau ra mà có. Năng lượng có thể trở thành vật chất và vật chất có thể trở thành năng lượng. Đó là luật bảo tồn năng lượng của nhiệt động học. Như vậy là không còn ranh giới giữa năng lượng và vật chất. Khoa học đã có cái nhìn bất nhị (non-dualistic) giữa vật chất và năng lượng.

Khoa học cũng đã khám phá ra rằng giữa từ (magnétisme) và điện (électricité) cũng không có ranh giới. Từ chính là điện và điện chính là từ. Hai cái là hai mặt của cùng một thực tại. Có một dòng sông, nhưng không có ranh giới giữa bên này và bên kia. Âm thanh và không khí cũng không phải là hai cái khác nhau. Khi những phân tử của không khí rung động thì tạo nên âm thanh, vì vậy âm thanh và không khí là một. Sức nóng và vật chất cũng vậy, những phân tử của vật chất di động mạnh tạo thành sức nóng. Khi chúng ta nấu nước trong microwave thì những phân tử nước di động rất mau, chạy như điên nên tạo ra sức nóng. Vì vậy sức nóng và vật chất là một thứ.

Khoa học đang đi trên con đường thống nhất và lấy ra rất nhiều ranh giới giữa cái này và cái kia. Xưa nay từ mấy ngàn năm chúng ta cứ tưởng trời và đất là hai thực tại khác nhau. Ta tưởng tượng trên trời có một triều đình, triều đình đó lo chuyện trên trời nhưng đồng thời cũng lo chuyện dưới đất. Thiên (trời) và địa (đất) khác nhau. Nhưng khi tìm ra được luật “hấp dẫn phổ biến” (gravitation universelle) thì chúng ta biết rằng cả trời và đất đều bị luật đó cai quản. Chúng ta tìm ra sự thật là trời ở ngay dưới đất và đất ở ngay trong trời. Trời là một phần của đất và đất là một phần của trời. Hãng Air France có câu quảng cáo rất hay, không biết do thi sĩ nào đã làm ra: Faire du ciel le plus bel endroit de la terre. Làm cho trời trở thành một nơi đẹp nhất của đất. Như vậy đất và trời không phải là hai cái, đất và trời là một, không có ranh giới giữa đất và trời.

Nếu học Phật và đi cho sâu thì chúng ta thấy không có ranh giới giữa cõi âm và cõi dương. Nhìn kỹ cõi dương ta thấy cõi âm nằm ngay trong đó, và ta có thể sờ mó, liên hệ hay nói chuyện được với những người ở cõi âm.

Có bao giờ quí vị đã nhìn kỹ một đám mây chưa? Đám mây có màu vàng, màu hồng, màu trắng hay màu đen. Một lúc nào đó đám mây biến thành một cơn mưa, và chúng ta nói rằng đám mây chết. Ta nói đám mây chết tại vì chúng ta không còn thấy đám mây trên trời nữa. Nhưng đám mây thật sự không bao giờ chết. Đám mây chỉ trở thành tuyết hay thành mưa mà thôi. Đám mây đi luân hồi. Nhìn cho kỹ chúng ta có thể nói chuyện với đám mây: " Đám mây ơi, ta biết nhà ngươi sẽ không chết! Nhà người sẽ trở thành tuyết, thành mưa, thành nước đá, nhưng nhà ngươi không bao giờ có thể chết được. Ngày mai nếu nhà ngươi không có mặt trên trời thì ta cũng sẽ không than khóc tại vì ta biết nhà ngươi không bao giờ chết, và ta có thể tìm ngươi trong hình thức mới là tuyết hay là mưa hay là dòng sông". Đó là sự quán chiếu.

Các nhà khoa học cũng biết như vậy. Họ đã tìm ra luật bất sinh bất diệt của vật chất và năng lượng. Luật thứ nhất của nhiệt động học nói rằng chúng ta không thể nào sáng chế ra hay tiêu diệt được năng lượng và vật chất. Vật chất có thể trở thành vật chất khác, vật chất có thể trở thành năng lượng, năng lượng có thể trở thành năng lượng khác và năng lượng có thể trở thành vật chất nhưng bản chất của năng lượng và vật chất là không sinh cũng không diệt. Đó là điều chúng ta đọc trong Tăm Kinh Bát Nhã: Tự tánh của các pháp là không sinh không diệt, không thêm không bớt. Điều này rất là khoa học!

Cầu cơ, lên đồng

Ở Việt nam, tại vì chúng ta rất thương tiếc những người đã khuất nên ta tìm đủ mọi cách để liên lạc và nói chuyện với những người đã khuất. Chúng ta dùng nhiều phương pháp, trong đó có phương pháp cầu cơ và phương pháp lên đồng.

Trong truyền thống lên đồng có nhiều cái hay và có nhiều tính chất nghệ thuật. Lên đồng, tiếng Anh là going into trance, đã có cả ngàn năm ở Việt Nam. Chúng ta muốn liên hệ với bà mẹ núi rừng. Ở Việt nam người ta tin có một Đức Mẹ, Đức Mẹ này không phải là mẹ của chúa Jésus. Đức Mẹ này là mẹ của chúng ta lúc từ trên rừng gọi là Mẹ Thượng Ngàn hay Mẫu Thượng Ngàn (la mere savrée des forêts). Chúng ta cũng có một bà mẹ khác ở dưới nước. Không có rừng thì làm sao chúng ta sống mà không có nước thì chúng ta cũng không sống được. Vì vậy nước là một bà mẹ gọi là bà Mẹ Thoải hay Mẫu Thoải. Thoải là thủy, tức là nước. Bà mẹ rừng khi hiện ra thì luôn mặc áo màu xanh, còn bà mẹ nước thì mặc áo trắng. Ở Việt nam có nhiều đền chùa thờ hai bà mẹ đó: Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải. Nhiều khi chúng ta cầu mẹ về dạy cho ta phải sống như thế nào để có an lạc, hạnh phúc trong gia đình và trong xã hội. Vì vậy chúng ta có những cậu đồng và những cô đồng.

Người lên đồng phải ăn chay nằm đất nhiều ngày, tắm gội sạch sẽ cho thật tinh khiết để Mẫu Thượng Ngàn hay Mẫu Thoải nhập vô. Mẫu có thể ca hát, nhảy múa, ban ra những lời khuyên nhủ cho chúng ta. Chúng ta rất khao khát được nghe những lời khuyên nhủ đó. Những người khuất mặt có thể trở về để dạy cho chúng ta.
Sư cô Chân Không kể chuyện là một hôm trong gia đình tổ chức cầu cơ, cầu bố của sư cô về để nói chuyện với những thành phần trong gia đình. Sư cô hỏi bố:
  • Không biết ba cất giấy khai sinh của con ở đâu mà con tìm hoài không thấy?
Bố cô trả lời và cô đi tìm được giấy khai sinh đó.

Dân Việt nam chúng ta có khuynh hướng muốn tiếp xúc với những người thương đã mất để nói chuyện.

Mỗi người tới dự buổi hầu đồng phải tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo rất đẹp, ngồi im lặng và bắt đầu nghe nhạc. Những bài chầu văn làm cho mọi người buông bỏ hết những vướng bận của đời sống hàng ngày để tập trung tư tưởng vào thế giới huyền bí. Mọi người đều lâng lâng, và trong khung cảnh đó năng lượng tập thể làm cho thần linh nhập vào con người của cậu đồng hay của cô đồng và người đó sẽ đứng dậy múa, hát hay ban bố những đạo từ để giúp cho ta sống như thế nào để có hài hòa trong gia đình và trong xã hội. Lên đồng, tuy rằng có mê tín nhưng mà cũng có những cái đẹp, những cái hay, có đạo đức trong đó. Vì vậy quí vị đừng vội lên án những phương thức đó!

Bói Kiều ở Làng Mai

Hôm nay chúng ta nói về những kỷ niệm và hạnh phúc. Ở Làng Mai trong ba ngày Tết chúng ta có bói Kiều. Cụ Nguyễn Du, tuy không lên đồng, không nhập vào người nhưng cụ nhập vào những quẻ. Chúng ta sẽ hỏi cụ về tương lai, về hiện tại của chúng ta. Nếu ở lại Làng được ngày mồng một, mồng hai, mồng ba thì quí vị có khả năng được bói một quẻ.

Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho

Hồi đó Thúy Kiều được về ở với Thúc Sinh. Thúc Sinh là con quan và đã có vợ. Nhưng vì mê Kiều quá nên Thúc Sinh đem hết tiền mua Kiều về từ chốn thanh lâu để hai người được sống chung. Họ sống với nhau rất hạnh phúc được nửa năm. Ban đầu ông bố của Thúc Sinh không đồng ý, nhưng sau thấy Kiều nết na dễ thương nên ông cũng đồng ý và cuối cùng thì Kiều đã chinh phục được trái tim của ông. Hai người sống như vậy và biết rằng mình không thể nào giữ được bí mật hoài, một ngày nào đó bà vợ cả sẽ biết nên Thúy Kiều to nhỏ với Thúc Sinh:
  • Anh về nói sự thật cho chị biết đi, em bằng lòng làm vợ lẽ. Anh nên về nói hết sự thật với chị cho rồi, nếu không thì sẽ không yên đâu!
Thúc Sinh nghe lời Kiều đi về nhà. Trong khi đó thì bà vợ cả đã biết, bà tìm cách bắt cóc Kiều về để làm tình làm tội. Bà sai hai tên du côn tới chỗ Kiều ở, đi rất mau bằng đường thủy. Tới nơi ban đêm chúng đốt nhà, bắt cóc Kiều bỏ lên thuyền chở về, rồi lấy một tử thi bên sông liệng vào đám cháy để gây sự nghi ngờ là Kiều đã bị chết cháy. Khi người nhà dập tắt lửa và đi tìm thì thấy một thân xác bị cháy đen. Mọi người đều tin rằng Kiều đã chết, trong khi đó thì Kiều đang còn sống. Thúc Sinh đi về thăm vợ cả và không ngờ rằng người yêu của mình đã chết. Thúc Sinh về nhà thấy vợ im lặng không nói gì cả thì nghĩ tại sao mình phải nói sự thật ra làm gì. Và Thúc Sinh cũng không nghe lời Kiều khuyên nên nói sự thật cho vợ biết. Khi Thúc Sinh quay trở lại thì thấy Kiều không còn nữa, người ta đã làm bàn thờ cho Kiều, Kiều đã đi sang thế giới bên kia. Nỗi đau của Thúc Sinh như thế nào, chúng ta có thể tưởng tượng được. Hai người mới ở với nhau được nửa năm. Sau này với Từ Hải, Thúy Kiều cũng chỉ ở được nửa năm mà thôi. Thúy Kiều cũng có những ngày tháng hạnh phúc chứ không phải không có. Thúy Kiều có được nửa năm với Thúc Sinh, người thật sự thương Kiều và Kiều cũng có được nửa năm với Từ Hải là người đàn ông thứ hai đã thương Kiều thật sự.

Thúc sinh về tới nơi nghe Thúy Kiều đã chết thì đau xót quá chừng. Kiều chết đi mà không để lại một lời nên Thúc Sinh rất khao khát muốn hỏi Kiều một câu: “Tại sao em đi mà không để lại một lời nào hết?”

Trong chúng ta cũng có người ở trong trường hợp của Thúc Sinh. Ta có một người thương tự nhiên bỏ ta đi mà không nhắn lại một lời nào. Thúc Sinh nghe đồn rằng trong vùng có một ông lên đồng, một đạo nhân có pháp thuật rất lớn. Khi nhập định ông có thể xuất hồn đi vào cõi âm để tìm linh hồn Kiều mà hỏi, và ông sẽ về báo cáo lại câu trả lời của Kiều cho Thúc Sinh. Tốn biết bao nhiêu là công sức Thúc Sinh mới mời được ông đạo nhân. Ông lập một đàn, làm phép, phủ phục, đội một cái khăn rồi xuất hồn đi vào cõi âm. Chưa tàn một cây hương ông đã trở về và báo cáo:
  • Tôi đi khắp cõi âm mà vẫn không tìm được mặt mũi của Thúy Kiều. Tôi đã đi khắp nơi ở cõi âm, tôi đã điều tra mà không thấy Thúy Kiều ở đâu cả. Tôi đã tra xét thì người ta nói cho tôi biết là người này chưa chết. Người này còn tai nạn rất nhiều.
Người này nặng kiếp oan gia
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho
Mệnh cung đang mắc nạn to
Một năm nữa mới thăm dò được tin

Người này dễ dầu gì mà chết, vì còn rất nhiều oan trái. Đương sự đang bị tai nạn rất lớn. Sự thật là đương sự đang bị người ta bắt về đánh đập và buộc làm đầy tớ hầu hạ trong nhà.

Cụ Nguyễn Du viết như thế này:

Gần miền nghe có một thầy
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền
Trên tam đảo dưới cửu tuyền
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng
Sắm sanh lễ vật rước sang
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han
Đạo nhân phục trước tỉnh đàn
Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương
Trở về minh bạch nói tường
Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra
Người này nặng kiếp oan gia
Còn nhiều nợ lắm sao đà thác cho
Mệnh cung đang mắc nạn to
Một năm nữa mới thăm dò được tin

Trên tam đảo là ở cõi trời, dưới cửu tuyền là dưới cõi âm. Ông thầy đã nói đúng, người này chưa chết. Nhưng gia đình không tin nên vẫn tiếp tục cúng 49 ngày.

Đoạn tràng cho hết kiếp này mới thôi

Kiều chết lần thứ hai ở sông Tiền Đường. Nhiều người tưởng Kiều đã chết nhưng thật ra Kiều còn sống. Đang còn sống là một phép lạ! Thúy kiều vẫn đang còn sống, đó là một phép lạ rất lớn. Ta đang ngồi đây với thầy, với bạn. Ta đang còn sống tại vì ta đang còn thở.

Khi Thúy Kiều bị ép phải lấy ông thổ quan địa phương thì Kiều chịu không nổi nên nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử để giữ tròn khí tiết với Từ Hải. Tuy Kiều biết là mình không có ý giết Từ Hải, mình chỉ muốn cho chiến tranh chấm dứt và trăm họ được yên vui nên mới xui Từ Hải về hàng. Nhưng Hồ Tôn Hiến là người không có đạo đức, người đã ra hàng mà còn tìm cách sát hại. Khi Thúy Kiều gặp lại Kim Trọng thì có làm 10 bài thơ, trong đó có một bài nói rằng khuyên Từ Hải ra hàng là hành trì theo chánh đạo để chấm dứt nạn đao binh chứ không phải có ý muốn giết Từ Hải. Nhưng một người mà giết kẻ đã chịu ra hàng là một người không có đạo đức. Đó là Thúy Kiều lên án Hồ Tôn Hiến. Mục đích của Kiều không phải là giết Từ Hải mà là cứu dân, nhưng vì vậy mà Từ Hải phải chết. Tuy mình không có ý giết nhưng người kia đã chết vì mình. Bài thơ đó như thế này:

Khuyên hàng là việc phải

Trong nguyên văn là chữ chánh đạo. Truyện Kiều được viết dựa trên một bản văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân mà khi đọc thì ta thấy có những chi tiết không có trong Truyện Kiều. Mười bài thơ Kiều làm để tặng Kim Trọng khi hai người gặp lại nhau là một trong những tư liệu mà ta không tìm thấy trong Truyện Kiều.

Giết hàng là bất nhân

Mình làm việc phải nhưng Hồ Tôn Hiến giết người quy hàng là việc bất nhân.

Em làm theo chánh đạo
Ai ngờ chàng mệnh vong

Mình chỉ làm theo tiếng nói của lương tâm để cho dân bớt khổ, nhưng chính vì vậy mà Từ Hải phải chết. Vì vậy mặt mũi nào mà sống với người chồng khác nên Kiều chết ở sông Tiền Đường để giữ thanh danh và tỏ lòng trung kiên với Từ Hải. Khi Kiều gieo mình uống sông Tiền Đường thì tất cả mọi người đều nghĩ là Kiều đã chết. Chỉ có một người biết là Kiều chưa chết, đó là một vị sư cô tên Giác Duyên.

Lúc Từ Hải thành công Kiều có mời những vị ân nhân của mình tới để tạ ơn. Trong những vị ân nhân đó có sư Giác Duyên. Sau khi từ giã Kiều sư Giác Duyên có gặp một đạo cô tu theo đạo Lão và đạo cô này có khả năng thấy được tương lai. Sư Giác Duyên hỏi đạo cô về tương lai của Thúy Kiều. Ngày xưa Thúy Kiều đã từng xuất gia dưới pháp danh là Trạc Tuyền và được ở chùa cùng sư Giác Duyên một thời gian. Hai người rất thương nhau. Nhưng sau vì tai nạn nên Kiều bị rơi vào thanh lâu một lần thứ hai và cuối cùng thì gặp được Từ Hải. Khi được sư Giác Duyên hỏi về tương lai của Thúy Kiều thì Tam Hợp đạo cô có một bản phân tích về Kiều rất hay:

Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành

Vô duyên là không có may mắn. Thúy Kiều đẹp, thông minh nhưng không có những điều kiện may mắn.

Lại mang lấy một chữ tình
Khăng khăng mình buộc lấy mình vào trong

Đó là lời phán quyết của một đạo sư. Vì vướng víu vào chữ tình cho nên không ai trói buộc mình mà chính mình tự lấy dây trói mình mà thôi.

Vậy nên những chốn thong dong
Ở không yên ổn ngồi không vững vàng

Những chỗ thong dong là những chỗ chùa, thiền đường hay Làng Mai. Trong khi mọi người đi đứng thong dong thì mình đi như bị ma đuổi.

Ma đưa lối quỷ dẫn đàng
Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi
Hết nạn ấy đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần

Kiều phải làm gái giang hồ hai lần và làm đầy tớ hai lần.

Oan kia theo mãi với tình
Một mình mình biết một mình mình hay

Cái khổ đau đó không nói được với ai.

Làm cho sống đọa thác đày
Đoạn tràng cho hết kiếp này mới thôi

Đó là lời phán quyết của số mạng.
Ngày xưa Phạm Duy có viết mấy câu hơi giống như vậy:

Trăng ơi yên lặng suốt đời
Mà sao ta vẫn đứng ngồi không yên

Đứng không yên mà ngồi cũng không yên tại vì mình không có sự bình an trong lòng. Muốn có được sự bình an trong lòng là phải tu. Ta phải biết thực tập hơi thở và bước chân để làm lắng dịu những cảm xúc, những nỗi khổ niềm đau trong lòng để tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống và được nuôi dưỡng bằng những mầu nhiệm của sự sống hầu tìm ra được một hướng đi. Nếu không thì mình đi không yên mà ở cũng không yên. Ma đưa lối quỷ dẫn đàng, ma là những sầu khổ, bực tức trong ta.

Ni sư Giác Duyên nghe vậy hoảng hồn:

Giác Duyên nghe nói rụng rời
Một đời nàng hỡi thương ôi còn gì

Như vậy thì còn gì là một cuộc đời nữa? Còn gì cho mình và còn gì cho người kia, còn gì cho nhau? Nhưng đạo cô Tam Hợp nói không sao, tuy vậy nhưng trong lòng của Kiều cũng còn những hạt giống tốt, còn những thiện căn tức những gốc rễ lành mạnh mà cha ông để lại. Chính những hạt giống tốt mà tổ tiên trao lại cho Thúy Kiều sẽ cứu được Kiều.

Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm
Bán mình đã động hiếu tâm tới trời

Tuy vướng vào tình ái nhưng không phạm giới tà dâm, Thúy Kiều có những điểm tích cực. Trong buổi đầu gặp gỡ, Kim Trọng muốn ép duyên nhưng Thúy Kiều nhất định không chịu. Thúy Kiều theo đúng đạo lý cổ truyền, nếu mình không giữ mình thì tình yêu không còn là tình yêu mà chỉ là nhục dục mà thôi. Sexual desire is not love, đó là giới thứ ba trong năm giới tại Làng Mai. Trong giới thứ ba của năm giới của Làng Mai nói rất rõ là tình yêu không phải là tình dục. Đêm hôm đó Thúy Kiều đã giữ được giới này và do đó Kim Trọng đã giữ được một hình ảnh rất đẹp của Thúy Kiều.
Thúy Kiều đã bán mình để lấy 300 lượng vàng chuộc cha ra khỏi vòng tù tội. Đó là chữ hiếu (lấy tình thâm trả nghĩa thâm). Kiều đã hy sinh chuyện tình để làm tròn chữ hiếu, biết rằng mình sẽ phản bội Kim Trọng nhưng Kiều phải cứu cha trước.

Hại một người, cứu muôn người. Tuy Từ Hải chết nhưng cứu được bao nhiêu ngươi khỏi phải chết vì chiến tranh. Do đó nghiệp của Thúy Kiều sẽ nhẹ đi và Kiều sẽ bắt đầu có hạnh phúc trở lại, đó là lời nói của Tam Hợp đạo cô.

Đạo cô biết trước rằng Thúy Kiều sẽ tự tử ở sông Tiền Đường và khuyên sư Giác Duyên nên tới sông Tiền Đường chực sẵn. Chỉ năm năm nửa thôi thì Thúy Kiều sẽ tự tử ở đó và Giác Duyên sẽ có cơ hội cứu được Thúy Kiều. Sư Giác Duyên tới bên sông Tiền Đường lập một cái am và thuê hai người đánh cá (Giác Duyên có một số tiền mà Thúy Kiều đã tặng ngày xưa) giăng lưới, không phải để bắt cá mà để chờ Trạc Tuyền.

Thúy Kiều đi thuyền tới chỗ đó thì sóng nổi lên đùng đùng, hỏi ra mới biết đó là sông Tiền Đường. Kiều nhớ lại trong giấc mơ ngày xưa mình gặp Đạm Tiên và Đạm Tiên đã nói rằng sau này hai người sẽ gặp lại nhau ở sông Tiền Đường. Thúy Kiều nghĩ rằng bây giờ chắc là đến lúc mình phải chết nên làm một bài thơ để lại và nhảy xuống sông tự tử. May thay lúc đó có hai ngư phủ vớt Kiều lên. Sau khi cứu được Trạc Tuyền sư Giác Duyên đưa nàng về chùa, cho xuất gia thọ 10 giới và làm sư cô trở lại. Hai người sống với nhau ở đó, bên sông Tiền Đường.

Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng

Chỉ vài tháng sau thì gia đình của Kiều đi ngang qua đó. Họ biết tin chiến tranh đã chấm dứt và muốn tới tận chỗ để tìm hỏi tin tức của Thúy Kiều. Người ta cho biết rất rõ là Thúy Kiều có công lao như vậy mà không được đền trả còn bị ép gả cho một ông quan địa phương vùng núi. Vì vậy Thúy Kiều đã nhảy xuống sông tự tử. Gia đình của Kiều đau đớn vô cùng. Lúc này Kim Trọng đã làm quan và đã cưới Thúy Vân. Vương Quan, em trai Thúy Kiều cũng đã làm quan và cưới vợ.

Hàng Châu tới đó bây giờ
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành

Hàng Châu là chỗ Thúy Kiều đã tự tử. Người ta cho biết sự thật với rất nhiều chi tiết.

Rằng ngày hôm nọ giao binh
Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền
Nàng Kiều công quả chẳng đền
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù
Nàng đà gieo ngọc trầm châu
Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan

Sông Tiền Đường là mộ của Thúy Kiều.

Than ôi không hợp mà tan
Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng

Lúc đó gia đình Kiều lập một đàn tràng, làm một đại trai đàng trên bờ sông để cầu siêu cho Kiều. Trong nguyên lục có một bài văn chiêu hồn rất là thấm thiết. Trong khi thầy đang lập trai đàn cúng tế thì ni sư Giác Duyên đi ngang qua. Ni sư vào xem thì thấy trên linh vị đề tên Vương Thúy Kiều. Ni sư nói:
  • Quí vị là ai? Người ta đang còn sống sờ sờ mà sao lại làm trai đàn cúng người ta?
Cơ duyên đâu bỗng lạ sao
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào tới nơi
Trông lên linh vị chữ bài
Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
Với nàng thân thích gần xa
Người còn sao bỗng làm ma khóc người?

Đây là lần thứ hai người ta cầu siêu cho Kiều trong khi nàng vẫn còn sống. Hôm nay chúng ta ngồi thiền và nói “tôi biết là tôi vẫn còn sống“ là để nhắc cho mình biết biết rằng mình vẫn còn sống và sự kiện này là một phép mầu nhiệm. Ta còn sống và đang ngồi đây với thầy, với bạn là một sự mầu nhiệm. Ta phải ăn mừng mới được!

Ngỡ bây giờ là bao giờ

Lúc đó gia đình Kiều nói với Giác Duyên:
  • Ni sư ơi, đây là cha của Kiều , đây là mẹ của Kiều, đây là em gái, đây là em trai của Kiều, đây là em dâu của Kiều và đây là người yêu cũ của Kiều.
Này chồng, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu

Ni sư Giác Duyên nói:
  • Tôi có tình bạn với Thúy Kiều, vì vậy khi Kiều tự tử thì tôi đã rước về. Chùa ở gần đây lắm, chỉ có hai cây số mà thôi. Nếu quí vị muốn tôi có thể dẫn quí vị đi gặp Kiều lập tức.
Đó là một tin quá sức là mừng, không thể nào tưởng tượng được. Bao nhiêu chuông, mõ, xôi, chuối, hương, đèn đều bỏ đi và tất cả mọi người đều theo ni sư về chùa tìm Kiều.

Quanh co theo dải giang tân (giang tân là bờ sông)
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng
Buồng trong đã dạo sen vàng bước ra
Trông xem đủ mặt một nhà
Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi
Hai em phương trưởng hòa hai
Đó chàng Kim đó là người ngày xưa
Ngỡ bây giờ là bao giờ
Rõ ràng trước mắt còn ngờ chiêm bao

Câu hay nhất là câu: ngỡ bây giờ là bao giờ. Mình không chờ đợi một giờ phút như ngày hôm nay. Hiện tại đẹp quá chừng, đẹp cho đến nỗi mình tưởng nó không có thật. Mười lăm năm, đêm nào cũng tưởng nhớ, đêm nào cũng tuyệt vọng, bữa nay tự nhiên thấy được tất cả những người mình thương đang có trước mặt.

Câu “ngỡ bây giờ là bao giờ” là một câu siêu tuyệt! Tôi đề nghị quí vị nên viết câu này treo lên tường, tại vì ta không biết trân quí những gì ta có. Ta đang sống mà không biết trân quí sự thật là mình đang còn sống. Ta cứ để phiền não, tham sân, giận hờn, tuyệt vọng chiếm ngự mình. Ta không thật sự sống được giây phút mà cuộc đời ban cho ta. Ta không có khả năng sống cái bây giờ, ta luôn nhớ tiếc cái quá khứ hay lo lắng cho cái tương lai, mà cái bây giờ rất là mầu nhiệm. Ta cứ nghĩ tới một tương lai nào đó. Bao giờ mà tôi có cái đó, bao giờ mà tôi làm được chuyện đó, bao giờ mà tôi có bằng cấp đó, bao giờ mà tôi cưới được người đó, bao giờ mà tôi có được cái nhà như vậy, bao giờ mà tôi có công ăn việc làm đó thì tôi mới có hạnh phúc. Cái “bao giờ” đó có thể không bao giờ tới. Trong khi đó thì ta hy sinh cái “bây giờ” cho cái “bao giờ”.

Cái “bây giờ” là cái rất quí báu. Với một hơi thở ta trở về với hình hài của mình và thấy hình hài này là một tặng phẩm quí giá của tổ tiên. Ta có biết trân quí hình hài này không hay ta đày đọa nó? Nếu đày đọa hình hài thì ta đày đọa cả bố mẹ mình vì bố mẹ mình cũng ở trong đó. Nếu ta đày đọa tấm thân thì ta cũng đày đọa tổ tiên vì tổ tiên cũng nằm trong đó.

Thở vào tôi biết là tôi có một hình hài, chính trong cái “bây giờ” ta biết là mình có một hình hài và ta mang theo cha mẹ, ông bà, tổ tiên trong hình hài của mình. Ta hy sinh cái “bây giờ” để đi tìm cái “bao giờ” trong tương lai, một ảo ảnh của hạnh phúc. Ở Làng Mai, luôn luôn bằng bước chân và bằng hơi thở chúng ta trở về cái “bây giờ” để chăm sóc và trân quí cái “bây giờ”, tại vì sự sống chỉ có mặt trong cái “bây giờ”. Quá khứ đã đi qua và tương lai chưa tới, sự sống chỉ có thể có mặt trong cái “bây giờ”. Vì vậy tại Làng Mai, mỗi hơi thở, mỗi bước chân phải có công dụng đem ta trở lại cái “bây giờ”.

Ngỡ bây giờ là bao giờ
Rõ ràng trước mắt còn ngờ chiêm bao

Ngày hôm nay ta đang còn sống, ta đang ngồi với người thương của mình. Ta đang có thầy, ta đang có bạn. Ta còn đòi gì nữa, tại sao ta không có hạnh phúc ngay trong giây phút này.

Bây giờ rõ mặt đôi ta

Ngay đêm đầu tiên mà Kiều và Kim Trọng gặp nhau thì Nguyễn Du đã có tuệ giác cái “bây giờ” là cái quan trọng nhất. Ngày hôm đó gia đình Kiều đi ăn giỗ bên quê ngoại. Thúy Kiều lấy cớ nhức đầu hay đau bụng gì đó để ở nhà. Khi gia đình đi rồi Thúy Kiều ra rút vài cây ở hàng rào để lẻn qua thăm Kim Trọng. Hai người chơi với nhau một thời gian, thấy đã chiều rồi nên Thúy Kiều tạm biệt Kim Trọng để về xem gia đình đã về nhà chưa. Về nhà thấy gia đình chưa về nên Thúy Kiều tiếc, đi sang trở lại. Lúc đó trăng đã bắt đầu lên. Hai người đã sống với nhau những giờ phút rất căng thẳng. Hai người đã chờ đợi lâu lắm mới có giây phút này nên mỗi giây phút đều rất khẩn trương. Kim Trọng mệt quá tại vì sống với Kiều 7, 8 giờ đồng hồ rất khẩn trương, cho nên khi Kiều trở về nhà thì Kim Trọng mệt quá gục đầu xuống ngủ. Khi Kiều trở qua thì trăng mới lên, tiếng chân Kiều bước lên sỏi làm Kim Trọng thức giấc. Nhưng trong trạng thái nửa thức nửa ngủ đó ngẩn lên nhìn thì Kim Trọng không biết có phải thật là Kiều không hay đây chỉ là một hình ảnh trong giấc mơ?

Sinh vừa tựa gối thiêu thiêu
Giữa chiều như tỉnh giữa chiều như mê
Tiếng sen sẻ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng

Kim Trọng hỏi:
  • Có phải thật là em trở lại đó không hay đây chỉ là hình ảnh trong giấc mơ của anh?
Kiều trả lời rất hay, câu này là tuệ giác của Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều cũng có khi thi hào Nguyễn Du thuyết pháp, nhất là trong đoạn đầu và đoạn cuối. Nhưng thi hào mà thuyết pháp thì thuyết rất dỡ. Nhưng đến khi thi hào làm thơ thì rất hay, trong đó có nhiều pháp rất thâm diệu. Nguyễn Du không muốn thuyết pháp mà chỉ muốn làm thơ thôi nhưng trong thơ có những bài pháp rất tuyệt diệu. Thúy Kiều đã trả lời như thế này:

Nàng rằng khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa
Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao

Hai câu sau rất là thần diệu. Bây giờ rõ mặt đôi ta, tức trong giây phút hiện tại này tôi nhìn thấy anh và anh nhìn thấy tôi. Chúng ta có cơ hội để nhìn rõ mặt nhau thì chúng ta phải nhận diện sự có mặt của nhau là một điều rất là quí giá. Nếu không thì những gì xảy ra hôm nay sẽ trở thành chiêm bao mà thôi.

Người thương của ta là bố ta, mẹ ta, người bạn hôn phối của ta hay con của ta. Ta đang được sống với người đó, nhưng hôm nay ta bận rộn quá chừng, ta không có thì giờ để nhìn mặt người đó. Lúc ăn sáng ta không có thì giờ để nhìn người đó, buổi chiều đi làm về cũng không có thì giờ để nhìn người đó. Ta không có thì giờ để nhìn mặt nhau. Sống như vậy đâu có thể gọi là sống văn minh? Ta sống quá bận rộn!

Bí quyết ở chỗ là ngày hôm nay ta có thì giờ để thấy nhau, để nhìn được mặt nhau và thấy được sự có mặt của người kia là rất quí giá. Nếu hôm nay ta không làm được chuyện đó thì ngày mai tất cả đều trở thành một giấc mơ mà thôi. Như vậy thi hào Nguyễn Du khuyên ta nên trở về với giây phút hiện tại để nhận diện những gì quí giá mà hiện giờ ta đang có. Những gì ta đang có là hình hài này chưa đến nỗi dị lắm, hai mắt ta còn sáng để có thể ngắm trăng sao, hai chân ta còn khỏe có thể đi thiền leo núi với thầy. Biết bao nhiêu mầu nhiệm như vậy mà ta không nhận diện. Người thương của ta còn đó, ta có thể điện thoại hỏi thăm, ta có thể thực tập câu linh chú thứ nhất: I am here for you. Je suis là pour toi chéri. Nhưng ta không làm như vậy tại vì ta không biết được sự quí giá của “bây giờ”. Như vậy cái “bây giờ” sẽ đi qua như một giấc mộng và ngày mai chỉ còn lại giấc mơ thôi.

Bây giờ rõ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao

Khi Nguyễn Du không thuyết pháp mà chỉ làm thơ thôi thì ông thuyết pháp rất hay. Nhưng khi thi sĩ thuyết pháp thì lại thuyết pháp rất dở.

Nạn xưa trút sạch làu làu

Khi Giác Duyên cứu được Thúy Kiều và hai người tu chung với nhau thì họ có một thời gian rất hạnh phúc. Cụ Nguyễn Du đã viết ra những câu rất thần diệu.

Khi vớt được Thúy Kiều lên thuyền người ta đã làm đủ cách để Thúy Kiều tỉnh dậy. Thúy Kiều tỉnh dậy thấy mình đang ngồi trên thuyền với người bạn tu là ni sư Giác Duyên.

Thấy nhau mừng rỡ trăm bề
Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư

Thảo lư là ngôi chùa bằng lá.

Một nhà chung chạ sớm trưa
Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng

Một nhà chung chạ sớm trưa tức buổi sáng anh cũng có em với anh, buổi sáng con có bố, có mẹ với con. Ta ý thức rằng ta đang được ở chung với nhau. Ta đang còn có nhau, đó là một hạnh phúc rất lớn.

Muối dưa chay lòng là ăn uống một cách đơn giản nhưng rất là hạnh phúc, tại vì sống nếp sống đơn giản thì ta có thì giờ để thương nhau, lo lắng cho nhau. Còn nếu muốn có đồng ra đồng vào thật nhiều thì ta làm gì có thì giờ để nhìn mặt người thương? Muối dưa chay lòng là một bí quyềt: Sống đơn giản lại để đừng mất thì giờ nhiều quá thì tự nhiên ta có “gió trăng mát mặt”. Ban đêm thì có trăng, nếu ta ở thành phố thì làm gì thấy được trăng? Hơn nữa ta bận rộn quá làm gì có thì giờ ngắm trăng? Ta không hưởng được ngọn gió tới mơn trớn mặt của mình. Thiên nhiên là một kho tàng của hạnh phúc, có trăng, có gió, có sao, có trời. Nhưng nếu ta bận rộn quá thì ta đánh mất thiên nhiên và không hưởng được những mầu nhiệm của thiên nhiên. Lòng ta đơn giản, không có lo lắng, sầu khổ tại vì ta không tham lam kiếm cho được nhiều tiền (muối dưa chay lòng).

Bốn bề bát ngát mênh mông

Tức là có rất nhiều không gian và thời gian để sống và để cho nhau.

Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau

Mỗi buổi chiều được nghe tiếng hải triều rất hùng vĩ, mỗi buổi sáng được thấy mây dàn trước ngõ. Như vậy hai người sống rất hạnh phúc.

Chỉ có điều là Kiều nhớ nhà. Tôi nghĩ thế nào Giác Duyên cũng biết tâm trạng của Kiều. Bây giờ Thúy Kiều có tự do, được cứu sống rồi, được tu học với người sư chị một cách hạnh phúc nhưng có một điều là Thúy Kiều nhớ nhà quá. Tôi nghĩ thế nào Giác Duyên cũng giúp cho Kiều thỏa mãn được điều này. Giác Duyên là một ni sư rất giỏi, là một du tăng, vì vậy thế nào Giác Duyên cũng nói với Thúy Kiều:
  • Em đừng lo, một ngày nào đó chị sẽ tổ chức để hai chị em đi du hóa và từ từ mình đi về Bắc kinh để tìm ra gia đình của em.
Chắc chắn là Giác Duyên có nói câu đó với Thúy Kiều, nhưng chưa thực hiện được thì Giác Duyên đã khám phá ra sự có mặt của gia đình Kiều bên bờ sông và hai bên đã đoàn tụ.

Nạn xưa trút sạch làu làu
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này

Tất cả những tai nạn xưa bây giờ không còn nữa.

Để trước sau như một

Hôm qua tôi có ngồi xuống dịch lại mười bài thơ mà Thúy Kiều đã làm cho Kim Trọng khi hai người gặp lại nhau sau 15 năm xa cách.
  • Nhớ năm xưa gặp chàng
Chưa biết gì về sống
Chỉ biết là nữ tính
Thì cũng có nữ tình

Nhớ lại năm xưa khi mới gặp Kim Trọng thì Thúy Kiều chưa biết gì về bản chất của sự sống, thế nào là sống và thế nào là chết. Thúy Kiều chỉ biết được một chuyện: mình là một người con gái thì tình của mình phải là nữ tình, đó cũng là điều kiện của con người (condition humaine)
  • Chiều chàng đủ mọi cách
Chỉ trừ chuyện gối chăn
Sợ rằng chỉ không thể
Tình chỉ chuyện ăn nằm

Trong buổi gặp gỡ đầu tiên Kim Trọng đòi cái gì Kiều cho cái đó. Trên tường có bức họa một cây thông mà Kim Trọng vừa vẽ xong và Kim Trọng xin Kiều làm một bài thơ đề lên bức họa thì Thúy Kiều cũng chiều ý. Khi Kim Trọng muốn Thúy Kiều đàn cho mình nghe thì Kiều cũng chiều theo Kim Trọng. Nhưng khi Kim Trọng đòi chuyện ăn nằm với nhau thì Kiều nhất định cự tuyệt. Kiếu nói: “Tình yêu không phải là nhục dục. Nếu mình làm chuyện đó thì tình yêu sẽ tan vỡ.”

Cách đây vài tuần có một ông bộ trưởng, có lẽ là bộ trưởng bộ văn hóa Ấn Độ, tuyên bố rằng: “Có liên hệ tình dục trước đám cưới là chuyện phi đạo đức". Ở Á Châu đây là một vấn đề quan trọng! Ngày xưa lễ giáo dạy chúng ta phải làm như vậy, tại vì nếu mình dễ dàng quá thì người kia sẽ khi dễ mình. Kiều đã làm được điều đó, Kiều nhất định không cho Kim Trọng đụng tới, tuy Kiều chiều tất cả mọi điều Kim Trọng yêu cầu. Kiều nói: “Nếu mình làm chuyện đó thì tình yêu tan nát và không còn sự kính nể nhau nữa. Rồi mình sẽ không nuôi dưỡng tình yêu được lâu dài.”
  • Thân này hứa cho chàng
Làm sao phản lời nguyện
Nhưng hoàn cảnh ngang trái
Vì hiếu phải phụ chàng

Một lời mình đã hứa rằng đời mình sẽ dâng cho người yêu của mình thì làm sao mình có thể đi ngược lại lời hứa đó. Nhưng vì hoàn cảnh ngang trái nên phải bán thân để cứu cha, vì vậy nên phải phụ chàng.
  • Bỏ mình để cứu cha
Cha cứu nhưng mình mất
Dù muốn vẹn khí tiết
Thì tiết có nghĩa không

Trong nguyên văn có hai chữ thân, chữ thân đầu là thâm tình, là cha còn chữ thân thứ hai là hình hài của mình. Cứu được thâm tình thì đánh mất hình hài của mình. Một bên là tiết, một bên là nghĩa. Khi bị Mã Giám Sinh làm nhục Kiều đã toan lấy dao tự tử. Nhưng tự tử lúc đó thì giữ được tiết của mình nhưng sẽ gây tai họa cho gia đình, tại vì mình cần một số vàng để chuộc cha ra khỏi tù tội. Nếu mình tự tử ngay lúc đó thì cha sẽ bị liên lụy, có tiết thì không thể có nghĩa . Vì vậy Kiều đã không tự tử lúc đó.
  • Bao năm tháng lênh đênh
Lạc loài trăm xứ lạ
Chết giữ được thanh danh
Nhưng chết nào quí hóa
  • Chốn thanh lâu ẩn nhẫn
Vui gì với bạo cường
Nếu chẳng biết chịu đựng
Thì thù xưa sao báo
  • Khuyên hàng là việc phải
Giết hàng là bất nhân
Mình làm theo chánh đạo
Ai ngờ chàng mệnh vong

Khuyên Từ Hải ra hàng là việc nên làm, là đúng với đạo lý, đúng với tâm từ bi. Nhưng khi người đã ra hàng mà mình vẫn giết người thì đó là việc làm vô đạo. Đó là lỗi của Hồ Tôn Hiến chứ không phải là lỗi của Thúy Kiều. Mình làm theo trái tim của chánh đạo nhưng tại vì người ta vô đạo nên Từ Hải phải chết.
  • Nào có ý giết chàng
Nhưng vì em chàng chết
Vì vậy sông Tiền Đường
Em quyên sinh giữ tiết

Đến sông Tiền Đường thì mình phải chết để giữ khí tiết của mình
  • Tự cam chịu phận mỏng
Trả xong nợ đoạn trường
Nhờ đức Bụt từ bi
Thân này còn giữ được

Cố gắng mà sống để trả xong nợ đoạn trường này. Nhưng nhờ ơn từ bi của đức Phật nên hình hài này chưa mất.
  • Hôm nay gặp lại chàng
Tử sinh em đã biết
Xin chàng hãy định tâm
Để trước sau như một

Em đã có kinh nghiệm, em biết thế nào là sống và thế nào là chết. Đứng về phương diện kinh nghiệm thì Thúy Kiều dày dặn, khôn ngoan hơn Kim Trọng rất nhiều. Thúy Kiều đã trải qua biết bao là khó khăn, khổ đau và đã học biết được thế nào là cái chết và cái sống.

Đêm đó là đêm oanh liệt nhất của Thúy Kiều, tại vì Thúy Kiều đã dạy cho Kim Trọng. Thúy Kiều hành động giống như đêm đầu. Cái gì Thúy Kiều cũng chiều Kim Trọng. Dù không muốn đàn nữa nhưng khi Kim Trọng muốn thì Thúy Kiều cũng đàn. Thúy Kiều làm tất cả những gì mà Kim Trọng yêu cầu trừ chuyện ngủ với Kim Trọng. Thúy Kiều nói:
  • Thà chết thì thôi chứ em không thể nào ngủ với anh được. Như vậy thì sẽ giữ được tình yêu, còn nếu không thì anh sẽ trở thành kẻ thù của em. Nếu anh ép em phải ngủ với anh thì anh không phải là người thương của em nữa. Em đã đạt tới sự thanh tịnh. Tuy bây giờ em không tu dưới hình thức của một sư cô nhưng em tu dưới hình thức của một cư sĩ. Em phải giữ giới. Sở dĩ em được trong sáng, thanh tịnh trở lại là nhờ giới luật. Đứng về phương diện hình thức thì mình là vợ chồng cũng không đến nỗi nào, nhưng trong phương diện nội dung thì nếu làm chuyện đó thì mình thành kẻ thù của nhau. Anh phải chọn lựa!
Bài thơ cuối là một tối hậu thư:
  • Ngày đầu gặp nhau như vậy thì hôm nay gặp nhau cũng như vậy. Như vậy thì mình có thể sống với nhau lâu dài.
Và khi nghe những lời đó thì Kim Trọng hoảng hồn nói:
  • Như vậy thì em đâu phải là một người đàn bà tầm thường? Em là một vị nữ hào kiệt! Lâu nay anh đi tìm em đâu phải vì những chuyện trăng hoa mà là vì tình nghĩa.
Khi Kim Trọng chấp nhận điều đó thì Kiều đứng dậy sửa khăn áo và lạy xuống nói:
  • Cám ơn anh, anh đúng là người tri kỷ của em!
Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi bupsen: 19/03/2014 - 13:01
Trích dẫn

Búp Sen's Photo Búp Sen 19/03/2014

Lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương

Câu hỏi:
Con rất thích câu “lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương” mà Thầy Làng Mai thường dạy. Tuy nhiên khi thực tập con lại thấy càng hiểu nhiều bao nhiêu thì lại càng khó để thương bấy nhiêu, bởi vì mình hay vướng vào chuyện tranh cãi đúng, sai. Không chỉ riêng con mà rất nhiều người cũng vướng vào tình trạng đó. Con phải thực tập như thế nào mới đúng với ý nghĩa của câu “lắng nghe để hiểu, nhìn lại để thương”. Kính xin quý thầy, quý sư cô giúp đỡ cho con.

Thầy Pháp Ấn trả lời:
Trong sự tu học của mình, trước tiên là tự thân mình phải chuyển hóa cho bằng được. Khoan đòi hỏi những người xung quanh chuyển hóa. Tự thân mình phải trở thành bông hoa tươi mát trước. Hãy để cho lòng mình lắng xuống và tiếp xúc với mầu nhiệm của trời xanh, mây trắng, tiếp xúc được với nụ cười của em thơ, tiếp xúc được với vẻ đẹp của đời sống. Và khi tiếp xúc với những mầu nhiệm của đời sống thì tình thương trong mình ứa ra. Đó là nền tảng căn bản của đạo Bụt.

Nếu trong trái tim mình không ứa ra được tình thương đích thực thì mình không cắm rễ được vào đời sống. Giữa mình và đời sống còn là hai sự thật rời rạc, không dính liền nhau. Thí dụ mình đang ngồi trong thiền đường tu học, nếu trong lòng mình cảm thấy ấm cúng và mình có thể thương được những người đang có mặt xung quanh, mình nói: may quá mình tu mà có anh chị tu cùng mình, mình tu mà có bạn. ‘Ăn cơm có canh, tu hành có bạn’. Như vậy là mình có mối liên hệ thật sự, mình cắm rễ được vào những người xung quanh. Đời sống tu học của mình có rất nhiều yếu tố nuôi dưỡng chung quanh, vấn đề là làm sao mình cắm rễ vào những yếu tố đó được. Và khi mình cắm rễ được như vậy thì con người mình càng ngày càng vững ra, tình thương trong mình càng vững chãi.

Khi mình có tình thương thì tiếp xúc đến đâu chất liệu thương yêu sẽ được trao truyền cho người mình tiếp xử đến đó. Tu là làm sao cho lòng mình có tình thương rất thật. Khi mà mình có tình thương rất thật thì tự nhiên mình hiểu người kia trên vị trí của người đó, trên cái nhìn của người đó mà mình không đòi hỏi người đó phải thay đổi theo cái nhìn của mình. Nếu mình có thể thương được người đó khi người đó đang làm như vậy, người đó đang theo một tập tục như vậy thì tự nhiên từ từ, chính tình thương của mình sẽ làm cho lòng mình rỗng rang, mình sẽ có khả năng chấp nhận người đó như chính họ và có thể hòa hợp được với họ. Nền tảng tu tập căn bản là sự bình an trong lòng của mình.

Nhiệm vụ cần thiết của mình là khi cần thì tưới tẩm. Sư Ông có dạy các con, tu là tưới tẩm hạt giống. Trong mỗi con người chúng ta đều có những hạt giống hiền lành, hạt giống thương yêu, hiểu biết, chấp nhận, tha thứ và bao dung. Mình tập tưới tẩm hạt giống đó và mở lòng ra để thay đổi. Ví dụ trong trường hợp của Pháp Ấn. Đôi khi trong chúng có vấn đề giữa sư anh này không hòa thuận với sư em kia, hoặc là sư chị này không hòa thuận với sư em kia, hoặc là cư sĩ này không hòa thuận với cư sĩ kia. Trong khi cho pháp thoại trong lòng Pháp Ấn không nghĩ là mình đang trách sư em A, đang trách sư chị B, v.v… Nhưng khi xong một pháp thoại, thí dụ có một sư em thấy một sư chị cười tươi thì nói: “Hồi nãy Thầy Pháp Ấn nói là để bênh sư chị hả?” Rồi có bữa Pháp Ấn nói pháp thoại, sư chị nhìn qua thấy sư em rất tươi vui, khi pháp thoại xong đi ra, sư chị nói: “Thầy lúc nào cũng bênh sư em, rầy các sư chị.” Thật ra Pháp Ấn không có ý đó. Trong lòng chúng ta không rỗng rang nên chúng ta nghe và nhìn sự việc qua tấm kính nhận thức của mình. Trong lòng của mình đã có sẵn định kiến rồi, nên khi nhìn thì mình nhìn theo cái có sẵn trong lòng của mình chứ không phải nhìn sự thật của thực tại. Vậy nên mình tập tu sao cho những lăng xăng trong lòng mình lắng xuống hết thì mới được.

Truyền thông có nghĩa là mình chỉ nói hoặc nghe mà không mong mỏi một kết quả nào. Đây là một điều rất căn bản. Mình nói để người khác hiểu mình và mình nghe để hiểu người đó chứ không phải mục đích của mình nói hoặc nghe là để chuyển người đó, để người đó thay đổi. Không phải như vậy. Chính vì chúng ta không thật sự hiểu nhau, không thấy được nỗi khổ niềm đau của nhau, vì thiếu sự truyền thông thâm sâu đó nên chúng ta mới có vấn đề và kẹt vào khái niệm đúng và sai. Nếu thật sự hiểu được niềm đau của người đó, hiểu được nỗi khổ của người đó, tôn trọng được niềm đau của người đó thì vấn đề không còn là đúng, là sai nữa. Bởi vì giữa hai trái tim sẽ có sự giao thoa, thông cảm. Hiểu được niềm đau nỗi khổ của người đó thì tình thương thật sự sẽ ứa ra trong trái tim mình.

Thật sự khi mình thương một người nào, người đó làm gì cũng được, người đó nói sao mình cũng chấp nhận, người đó nói bậy mình cũng cười xề xòa cho qua. Nhưng khi mình đã không thích người đó rồi thì người đó nói ngọt ngào mấy đi nữa mình cũng thấy người đó không thật. Dù người đó có thật mấy đi nữa thì mình cũng nghĩ người đó toàn là giả dối. Ông đó hả, toàn là đồ giả dối; hoăc cô vợ của tôi toàn là giả dối, đâu có thiệt gì đâu. Bởi cái sai trái của người kia có đầy trong trái tim mình rồi, mình không thể làm cho lòng mình nó trống được, nên có ai đó nói khác đi mình cũng không thay đổi suy nghĩ của mình. Do đó vấn đề quan trọng là vấn đề tự tu của mỗi người, mình phải hạ thủ công phu. Mình phải làm sao cho tình thương trong trái tim của mình nó ứa ra được, có sự chuyển hóa trong thân và trong tâm mình thì kết quả chung quanh mình với thời gian nó sẽ đến.

Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi bupsen: 19/03/2014 - 23:38
Trích dẫn

Búp Sen's Photo Búp Sen 20/03/2014

Lấy yêu thương “giải độc” ghen tuông


Trong bài viết trước, tôi có nói rằng mọi việc trên đời đều có hai mặt tốt và xấu, và chính yêu thương là chìa khóa để ta hướng tới phần tốt của mọi vấn đề. Trong bài này, tôi muốn chia sẻ vài suy nghĩ về quan hệ giữa yêu thương và ghen tuông, và làm thế nào để dùng yêu thương chữa lành vết thương do ghen tuông mang lại.
Nhiều người cho rằng “có yêu thì mới có ghen”, tôi tạm xem điều này làm tiền đề để phân tích tiếp. Có yêu thì mới có ghen, vậy trước hết yêu là gì?

Danh từ: Tình yêu

Tình yêu bắt nguồn từ cảm giác xao xuyến, rung động khi gặp một đối tượng trùng khớp với những dao động từ phát ra từ trái tim ta. Rồi nó thăng hoa thành những vấn vương, nhung nhớ. Sau đó nữa là cảm giác lâng lâng hạnh phúc, nồng cháy đê mê khi ở bên nhau. Khi xa nhau, tình yêu lại hóa thành những khắc khoải, đợi chờ, mong gặp lại nhau…Tóm lại nó là một thứ cảm giác thay đổi theo không gian, thời gian và không thể định hình, định lượng.

Động từ: Yêu

Yêu một người là như thế nào? Trong một mối quan hệ giữa hai người yêu nhau hoặc giữa vợ chồng với nhau, người ta sẽ nói về hành động “yêu” theo những cách khác nhau. Tôi lại muốn nói về “yêu” khi nó còn là một mối tình đơn phương. Cuộc đời đâu phải là giấc mơ hay phim ảnh, nên đâu dễ có hai người vừa gặp đã yêu nhau. Có rất nhiều mối tình đơn phương âm thầm và vĩ đại.
Khi yêu đơn phương một người, ta sẽ luôn tìm cách được ở gần người đó, chỉ là ở cùng một không gian thôi chứ không mong được ngồi sát cạnh nhau. Ta sẽ luôn chú ý đến cảm giác, sở thích hay những hoạt động mà người đó tham gia. Ta vui khi người đó nở nụ cười và lo lắng khi thấy một cái chau mày suy nghĩ. Rồi khi tiếp xúc gần gũi hơn, như những người bạn thân yêu thầm người kia chẳng hạn.
Ta luôn quan tâm, lo lắng, làm mọi điều tốt đẹp cho người kia mà không đòi hỏi một điều gì ngược lại. Điều này rất quan trọng: khi yêu đơn phương, hầu như tất cả tình cảm của ta đều dành cho người, vì người. Và tôi cho rằng đây mới thật sự là yêu: yêu là thứ tình cảm vì người khác, dành cho người khác chứ không phải cho bản thân mình.
Lúc này cảm giác ghen tuông đã bắt đầu xuất hiện, nhưng rất ít, đơn giản vì ta không có quyền ghen.
Rồi khi yêu thương “nâng cấp” lên thành quan hệ hai chiều – hai người trở thành người yêu của nhau, tình cảm bắt đầu có sự biến chuyển, cái yêu cũng dần thay đổi. Ta quan tâm nhau nhiều hơn, hiểu nhau hơn, chia sẻ nhiều cảm xúc hơn… Tuy nhiên, ta cũng đòi hỏi ở đối phương nhiều hơn! Đòi hỏi sự quan tâm, lòng chung thủy, sự lãng mạn, vân vân và vân vân. Những điều đó ta cho rằng là tự nhiên, nhưng nó có phải vì đối phương nữa không? Nó là vì bản thân ta! Khi đó ta đang yêu chính bản thân mình. Rồi ta cho nhau cái quyền được ghen, vì “em là của anh” “anh là của em” “chúng ta là của nhau”. Vậy ghen là gì?

Ghen

Rõ ràng ghen không phải là thứ tình cảm dành cho người yêu hay người chồng/vợ, mà nó là thứ tình cảm vị kỷ. Nó là mộ sự tức giận, đố kỵ khi nhìn thấy (hoặc tưởng tượng) “vật sở hữu” của mình bị xâm phạm. Nó là một sự mở rộng của bản ngã lên người của người yêu. Như trên đã nói: yêu là thứ tình cảm vì người khác, dành cho người khác, cho nên ghen không phải là yêu.

Đối diện với những cơn ghen
Khi ghen người ta rất dễ mất kiểm soát, cảm xúc dâng trào, máu chảy nhanh hơn và như sôi sục trong huyết quản. Vậy làm thế nào đây?
  • Hãy nhận biết rằng ta và cơn ghen không phải là một. Điều tôi thích thú nhất khi học được từ các thiền sư là khái niệm “cảm giác của ta và ta không là một”. Khi giận, có một cảm giác giận xuất hiện trong tâm trí ta, ta nói: “Trong tâm tôi đang có cơn giận” chứ không phải là “tôi giận”. Tương tự như vậy, khi ghen ta nói “trong tâm tôi đang xuất hiện cơn ghen”. Nếu chưa quen, cứ niệm câu này như câu thần chú vậy cũng được. Đến khi ta không đồng hóa bản thân mình với cơn ghen, tách biệt ra khỏi nó thì ta mới có thể giải quyết được nó.
  • Tự hỏi xem mình yêu người kia như thế nào. Hãy nhớ lại những cảm giác yêu – tức là trao đi yêu thương cho người đó chứ không phải đòi hỏi được yêu thương. Ta yêu người ra sao, ta có thể làm gì cho người? Đừng suy nghĩ gì về người đó hay cảnh tượng khiến ta phải ghen tức. Chẳng bao giờ có thể hiểu rõ nguyên nhân ngay lúc đang ghen đâu. Hãy cứ nghĩ về tình yêu mình dành cho họ, có đến mức “chỉ cần em hạnh phúc là anh vui rồi” hay không? Chắc là không, nhưng cứ hồi tưởng về tình yêu của mình đi, có thể bạn sẽ nhận ra mình thật sự yêu người yêu kia chưa đủ, quá ít!
  • Hãy tự hỏi xem mình muốn kết quả gì trong chuyện này. Thật ra khi ghen tức là bạn cũng còn muốn có người yêu bên cạnh mình, nếu không thì đã chẳng có cảm giác gì nữa rồi. Vậy nên hãy bình tâm suy nghĩ đến đáp án mà mình mong muốn. Ta muốn gì? Muốn người yêu trở về bên cạnh ta. Nhưng có thể không? Phải làm sao? Làm sao để người yêu trở về bên ta chứ đừng để cơn ghen tống họ đi luôn nhé. Bạn có thể nghĩ như vầy: Mục tiêu cuối cùng là người yêu ta trở về. Muốn vậy thì ta phải: tìm hiểu rõ ràng nguyên nhân, cảm xúc, suy nghĩ… của người yêu ta khi đó rồi tìm giải pháp thỏa đáng nhất. Ngắn gọn là thế thôi.
Điều quan trọng ở đây là cần phải giữ được bình tĩnh, thậm chí bình tĩnh hơn người đang phạm lỗi lầm kia. Nếu để cơn ghen khống chế bản thân và làm ra những hành động tổn thương, sỉ nhục đối phương thì có khi đó mới chính là nguyên nhân đẩy hai người ra càng xa, càng xa nhau hơn nữa. Muốn có được sự bình tĩnh ở bước này, cần phải qua hai bước nêu trên trước.

Tóm lại
  • Yêu thương là thứ tình cảm vì người khác, dành cho người khác.
  • Ghen không phải là yêu, ghen là sự mở rộng bản ngã của chính mình đặt lên người của người yêu, hay nói cách khác cảm giác tức giận khi “vật sở hữu” bị xâm phạm.
  • Muốn hóa giải cơn ghen một cách tốt đẹp cần làm ba bước: tách biệt bản thân và cơn ghen; gợi lại những yêu thương; đem yêu thương nghĩ về điều mình mong muốn và tìm giải pháp.
Vậy đó, tình yêu là cảm xúc, mà cảm xúc thì sẽ phôi pha, sẽ có lúc nhạt nhòa hay sâu sắc. Tình cảm, hay mối quan hệ, muốn bền chặt thì cần phải giữ lấy nhau, cùng nhau vượt qua khoảng lặng khó khăn kia.

“Điều cần thiết cho một cuộc hôn nhân thành công là ta phải yêu rất nhiều lần, nhưng luôn luôn với cùng một người.” – Mignon McLaughlin.




Nguyễn Huỳnh Nhất Bảo

Trích dẫn

Ngu Yên's Photo Ngu Yên 20/03/2014

Dùng lý trí để tách bạch tình , cái đó có khi gọi là cưỡng tình đoạt lý ! Cho nên khó lắm người ơi ! Trời có nói gì đâu và muôn sự vẫn trôi (Luận ngữ ).
Trích dẫn

TiKiTaKa's Photo TiKiTaKa 20/03/2014

Khi muốn rũ tình, đời dẫn lý.
Khi muốn uốn lý, đời viện tình.

Cho nên chửi: mày là kẻ bạc tình. Biết đâu hắn là công lý.
Còn chửi: mày là kẻ vô lý. Biết đâu hắn là kẻ chung tình.
Trích dẫn

T.AO's Photo T.AO 20/03/2014

thế còn chài thì sao
Trích dẫn

Búp Sen's Photo Búp Sen 20/03/2014

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

DaiKhe, on 20/03/2014 - 14:39, said:

thế còn chài thì sao

Chài là cái chi vậy DaiKhe ?
Trích dẫn

T.AO's Photo T.AO 20/03/2014

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

bupsen, on 20/03/2014 - 21:21, said:

Chài là cái chi vậy DaiKhe ?

chài là làm đối tác yêu và ko bỏ đc mình
Trích dẫn

Búp Sen's Photo Búp Sen 20/03/2014

Những điều cần biết khi vào chùa

Bạn là một tín đồ của đạo Phật? Hoặc đơn giản chỉ là thói quen đi chùa để thả lòng được thoải mái khỏi những mệt mỏi đời thường? Xin chia sẻ với bạn vài điều nho nhỏ cần biết khi đi lễ chùa
Chùa là nơi thờ Phật, bắt nguồn từ chữ Thù pa (tiếng Pali) hay là Stupa (tiếng Sansrit), Ấn Độ. Chùa gắn liền với đời sống văn hóa và tinh thần của người Việt, được phát triển theo thời gian và phân hóa theo không gian.

Chùa Việt Nam có chùa làng và chùa nước. Chùa nước thường là những nghôi chùa có lịch sử hình thành và phát triển sớm, có vị trí về phong thủy và phong cảnh đẹp, có quy mô lớn, có giá trị về văn hóa lịch sử tôn giáo và và thường là nơi tu hành của những tăng, ni Phật tử. Chùa làng thường có quy mô nhỏ hơn và là nơi sinh hoạt tâm linh trong làng. Vì vậy, những ngôi chùa thường là những điểm tham quan hấp dẫn đối với du khách và nhiều tín đồ đến chiêm bái.

Theo phong tục cổ truyền người Việt trong các ngày rằm, mồng một, ngày lễ tết… cùng những ngày có việc quan trọng thường đến Chùa lễ Phật với tấm lòng thành kính nhờ nghiệp lức vô biên của Phật, Chư Bồ Tát , các bậc Thánh Hiền mà được thiện duyên, giác ngộ, mong tâm được thanh tịnh, đạo được mở mang, tai qua nạn khỏi, cuộc sống ấm no hạnh phúc.. ước vọng chính đáng ấy được thể hiện khi chúng ta đến trước điện đài của Phật.

Ngôi chùa Việt không những là một kiến trúc tôn giáo biểu hiện cho Phật giáo, tín ngưỡng Việt mà còn mang trong mình biết bao trầm tích của nghệ thuật cùng những giá trị văn hóa của người Việt.
Do đó khi tham gia vào các nghi lễ thờ cúng tại chùa cần lưu ý một số vấn đề sau:

Các quy trình tham quan và hành lễ khi vào Chùa

Chùa là nơi thanh tịnh và là nơi tu hành của các vị cao tăng nên khi vào chùa du khách phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định về ứng xử văn hóa như sau:

- Về trang phục: Khi vào chùa cần mặc quần áo dài, kín cổ, đi khẽ. Tránh mặc áo ngắn tay, áo sát nách, áo may ô, quần soóc, váy ngắn,… Đối với Phật tử thì phải mặc áo lễ khi đến điện thờ Phật trong chùa.

- Về xưng hô: Với nhà sư thì xưng là A di đà Phật, bạch Thầy,… và xưng mình là Con. Xưng hô như vậy tức là nhìn thấy tăng mà tưởng nhớ thầy Thích Ca Mâu Ni, mình xưng hô như vậy là đang xưng hô với Đức Thích Ca. Nếu nhà sư đó là Thầy hướng dẫn mình tu tập thì xưng hô là Thầy thì ngoài ý nghĩa trên còn mang nghĩa là Thầy dạy học đạo. Khi thưa gửi gì với nhà sư thì đều chắp tay hình búp sen.

- Về trình tự vào chùa:

+ Khi đi qua cổng Tam quan vào chùa nên đi vào cửa Giả quan ( bên phải) và đi ra bằng cửa Không quan (bên trái). Cửa Trung quan chỉ dành cho Thiên tử, bậc cao tăng, bậc khoa bảng đi vào chùa, và đi ra cũng theo cửa này. Sau đó du khách có thể gặp sư trụ trì, sở dĩ là vì Chùa do sư trụ trì cai quản, có sư, tăng - ni, chùa mới được giữ gìn và Đạo Phật mới được truyền lưu nên khi vào chùa phải theo lệ:

“Nhập gia vấn chủ, nhập tự kiến sư
Tiên vấn trụ trì, hậu lễ Tam bảo”.

Nghĩa là:

“Vào nhà hỏi chủ, đến chùa gặp sư
Trước thăm trụ trì, sau lễ Tam bảo”.

Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta cũng không hoàn toàn là làm bước này khi đến chùa. Sau khi, vấn đáp sư trụ trì, du khách tới nhà khách nơi có bàn để bày lễ dâng Phật, Thánh, Mẫu tại chùa đang tham quan.

- Trình tự lễ trong chùa:

+ Thắp hương tại đỉnh đặt bên ngoài, hạn chế thắp hương bên trong chùa, vì có thể gây ảnh hưởng đến tượng Phật, pháp khí,…

+ Lễ tại ban Đức Ông: đặt lễ lục cúng, chắp tay hình búp sen, xin phép vào lễ Phật (vì Đức Ông là người kiểm soát tâm thế của kẻ đến chùa, chúng sinh đến với Phật).

+ Phật điện: đặt lễ tại chính giữa Tam bảo, chắp tay hình búp sen, đứng hoặc quỳ, thành tâm cầu khẩn điều an lành.

+ Sau đó đặt lễ ( nếu cần) và lần lượt kính lễ tại Ban Tổ, Nhà Mẫu và Ban Vong.

Mọi thông tin trong bài chỉ có tính chất tham khảo cho những ai quan tâm

Nguồn: Sưu tầm từ Infonet
Sửa bởi bupsen: 20/03/2014 - 21:29
Trích dẫn

Búp Sen's Photo Búp Sen 20/03/2014

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

DaiKhe, on 20/03/2014 - 21:27, said:

chài là làm đối tác yêu và ko bỏ đc mình

Hì, nếu chài nghĩa là vậy thì chị nghĩ muốn chài phải có mồi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Trích dẫn

T.AO's Photo T.AO 20/03/2014

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

bupsen, on 20/03/2014 - 21:55, said:

Hì, nếu chài nghĩa là vậy thì chị nghĩ muốn chài phải có mồi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

) chài thì cần mồi , mà có mồi thì mới chài

have fun muốn nhậu cũng cần có mồi
Sửa bởi DaiKhe: 20/03/2014 - 22:02
Trích dẫn

Búp Sen's Photo Búp Sen 24/03/2014

Lời Khuyên Để Có Được Sự Thanh Tịnh Tâm Hồn

Hầu như tất cả mọi người đều muốn có được sự thanh tịnh tâm hồn trong đời sống của mình. Ai cũng muốn có được hạnh phúc để quên đi những khó khăn, vất vả và những lo âu của họ. Và tận hưởng những giây phút an lạc trong nội tâm và giải thoát khỏi những âu lo phiền muộn.

Thanh tịnh tâm hồn là gì? Nó là một trạng thái vắng lặng và thanh bình của nội tâm cùng với một cảm giác tự do. Một khi không còn những suy nghĩ và lo lắng thì không có phiền muộn, căng thẳng và sợ hãi. Những giây phút như thế này không phải là hiếm có. Chúng ta trải nghiệm qua những giây phút này chẳng hạn như khi chúng ta đang chăm chú vào một vài công việc hấp dẫn hay hoạt động mà chúng ta yêu thích như là khi chúng ta xem một tập phim hay hoặc một chương trình ti vi hấp dẫn. Hoặc khi chúng ta ở bên cạnh một người mà chúng ta yêu thích hay khi đọc một quyển sách hay hoặc khi nằm phơi mình trên cát trắng dọc bờ biển.

Khi bạn đi du lịch bạn có trải qua một số trạng thái tinh thần lắng dịu không? Vào lúc này, tâm hồn của bạn trở nên yên tỉnh hơn vì bạn ít suy nghĩ và lo lắng. Thậm chí khi bạn ngủ say, bạn không ý thức được những suy nghĩ của mình, bạn đang ở trong tình trạng an bình của nội tâm.

Những việc như trên và những hoạt động tương tự như vậy cũng có thể giúp cho tâm của bạn vượt thoát những suy nghĩ và lo lắng. Và điều đó mang lại một vài giây phút ngắn ngủi cho sự an tịnh tâm hồn.

Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an lạc nội tâm nhiều hơn trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là làm thế nào để kinh nghiệm được điều đó mỗi khi gặp khó khăn. Bạn cũng có thể đặt câu hỏi là liệu mình có thể làm cho nó trở thành một thói quen và luôn luôn tận hưởng nó ở bất cứ trường hợp nào. Trước tiên, bạn cần phải học cách để có được nhiều giây phút an lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày. Sau đó, bạn mới có thể nhận diện được những giây phút này mỗi khi gặp khó khăn rắc rối – đây là lúc cần thiết nhất cho sự vắng lặng và thanh bình của nội tâm.

Bạn có thể chuyển hóa trạng thái an lạc trong nội tâm thành một thói quen tự nhiên, nhưng để làm được điều này cần phải có một sự huấn luyện đặt biệt bằng các bài tập về sự chú tâm như thiền định và các phương pháp khác. Bạn có thể vào trang web

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

và bạn cũng có thể tìm thấy nhiều bài viết, lời khuyên và những kỹ thuật để huấn luyện cho sự an bình nội tâm cũng như quyển sách đặt biệt “Peace of Mind in Daily Life” đã đề cập về chủ đề này.

Sau đây là một vài kỹ thuật đơn giản có thể giúp bạn:

- Giảm lượng thời gian mà bạn đọc các tin tức trên báo chí và xem tin tức trên tivi.

- Tránh xa những cuộc nói chuyện có tính tiêu cực và những người yếm thế chán đời.

- Đừng nên giữ sự thù hằn. Học cách để bỏ qua và tha thứ. Nuôi dưỡng sự thù hận và bất bình sẽ hại chính bản thân bạn và
gây nên sự mất ngủ.

- Không nên ghen tỵ với người khác. Ghen tỵ nghĩa là bạn hạ thấp lòng tự trọng và tự nhận mình thấp kém hơn mọi người. Điều này một lần nữa gây nên sự thiếu vắng an lạc nội tâm.

- Chấp nhận những cái gì mà chúng ta không thể thay đổi được. Điều này giúp cho chúng ta tiết kiệm được thời gian, năng lượng và những lo âu phiền muộn.

- Mỗi ngày chúng ta phải đối diện với biết bao những điều không vừa ý, những bực bội và những tình huống mà những điều này vượt quá tầm kiểm soát của chúng ta. Nếu chúng ta có thể thay đổi được những điều đó thì quá tốt nhưng không phải lúc nào cũng có thể làm được. Chúng ta phải học cách làm quen với những việc này và chấp nhận chúng một cách vui vẻ.

- Học cách để có thêm kiên nhẫn và khoan dung và độ lượng đối với mọi người và mọi tình huống.

- Đừng tham lam ôm đồm mọi thứ quá mức. Nên tập xả ly cả về tình cảm và tâm thần. Cố gắng nhìn cuộc đời mình và mọi người với một ít xả ly và một ít hệ lụy. Xả ly không phải là dững dưng, thiếu quan tâm và lạnh nhạt mà nó là một khả năng để tư duy và phán xét một cách công bằng và lô-gíc. Đừng nên lo lắng nếu bạn thất bại và tiếp tục thất bại trong việc thể hiện sự xả ly. Cứ cố gắng thực tập nó.

- Hãy để cho quá khứ đi qua. Hãy quên đi quá khứ và tập trung vào giây phút hiện tại. Không cần phải gợi lên những ký ức không vui và chôn vùi chính mình trong đó.

- Thực tập một vài cách để tập trung. Điều này sẽ giúp bạn tống khứ những ý nghĩ không vui và những lo lắng. Những thứ này đã cướp đi sự thanh thản trong tâm hồn bạn.

- Học cách để thiền tập. Thậm chí vài phút trong một ngày cũng có thể thay đổi cuộc đời bạn.

Cuối cùng, sự an bình trong nội tâm sẽ đưa đến sự an bình của thế giới bên ngoài. Bằng cách tạo ra sự an bình trong thế giới nội tâm, chúng ta mang nó ra thế giới bên ngoài và điều có có thể ảnh hưởng đến nhiều người khác chung quanh nữa!

Remez Sasson
Tâm Hải (The Buddhist Translation Group)
Trích dẫn

ekuyeuemnha's Photo ekuyeuemnha 24/03/2014

chị nói cũng đúng
Trích dẫn

Búp Sen's Photo Búp Sen 24/03/2014

BẢY BƯỚC TU TẬP TÂM


Đạt Lai Lạt Ma - Như Nguyện dịch Việt

Tình yêu không giới hạn

Nếu “yêu” là một việc rất dể thì sẽ không làm mê hoặc bao nhiêu người. Bởi vì yêu là một khát vọng hiền dịu và nóng bỏng nhất từ trong sâu kín của con tim. Nhưng mà “yêu” nên vựợt qua tình yêu bản ngã nho nhỏ và đồng thời cũng yêu cả những người cho là thù địch, vì thế cần phải có trí tuệ và phương pháp.

Vì sao phải tu tâm?

Tìm cầu quá nhiều dục vọng bên ngoài, tham sân si quá độ, những thứ này không thể mang đến thỏa mãn cho tâm hồn.
Chỉ có nhận ra tận gốc những khuyết điểm của tham sân si mang lại, đồng thời hiểu rõ tình thương và từ bi thì mới có thể mang đến thanh thản chân thật cho tâm hồn.

Bản tính con người vốn trong sáng

Bản tính của tâm là trong sáng thanh tịnh, bởi vậy rất nhiều vấn đề bực bội khó chịu trong lòng không phải là bản chất của tâm. Những trạng thái tâm hồn không tốt là chỉ nhất thời, là biểu hiện bên ngoài, nên chúng ta có thể tịnh hóa và lọai bỏ.
Cho dù nuớc có dơ đến mức nào, thì bản chất của nuớc cũng không bị những chất dơ đó làm cho ô nhiễm. Cùng luân lý đó, tâm dù có phiền não, bản chất của tâm cũng không bị trần cấu làm cho ô nhiễm.

Hiểu tận gốc vì sao chúng ta thường bị tham sân si?

Nguyên nhân chính là các ham muốn bị trắc trở, chúng ta thiếu đi thái độ chính xác để đối diện vấn đề, cảm thấy mình là người bị hại và đối phương là kẻ thù.

Vấn đề tại tâm

Hoàn cảnh bên ngoài không phải là nguyên nhân chính làm cho chúng ta rơi vào đau khổ, mà là do những tạp nhiễm của tâm.
Làm thế nào để thay đổi? Bồi dưỡng năng lực quán sát chính mình.

Mình tự làm người quan sát, quán sát hành vi và tư tưởng của chính mình, thì có thể hiểu được thế nào là “ bình thường tâm”, không có liên quan gì đến thích hoặc không thích, muốn hay không muốn.

Nhưng, dù thế nào cũng không nên để rơi vào những tình cảnh không tốt, thì tự nhiên tâm sẽ hiện ra bản chất thuần tịnh vốn có của nó.

Tu tâm như thế nào?

Bạn thử xem, khi tỉnh dậy lúc sáng sớm còn nằm trên giường, hãy quán chiếu tâm tính và tập luyện tâm tính giữ được trạng thái bình tĩnh.

Thực tập qua những bước tu tập như sau:

Không nghĩ đến những việc phát sanh ở quá khứ và tương lai

Hãy để cho tâm tự nhiên hoạt động, không suy nghĩ.

Quán chiếu tự tâm trong sáng thuần tịnh

Giữ vững trạng thái này trong một khỏang thời gian.

Giai đọan 1: thực hiện tâm bình đẳng

Thực hiện bình đẳng tâm tức là cố gắng có thái độ tốt đối với tất cả mọi người. Lúc mới bắt đầu có thể là số ít người, rồi dần dần lan rộng đến nhiều người.

Không có quan niệm về tâm bình đẳng, thì tình thương và từ bi cũng bị lệch lạc và không có khả năng phát huy.

Giai đoạn 2: tự trong thâm tâm phải biết cảm ơn người khác

Nhớ về những người thân, bạn bè đối xử tốt với chúng ta, đặc biệt là thời thơ ấu, lúc đó chúng ta luôn nhờ người khác chăm sóc cho mình, nhớ về những ân huệ tiếp nhận trứơc đây, đồng thời cảm ơn sự bố thí tình thương hay công sức của cải của người khác, kỳ thật người khác không chờ mong sự báo ơn của bạn.

Nếu cuộc sống của bạn quá thuận lợi bạn sẽ trở nên nhu nhược, những khó khăn sẽ phát sinh sức mạnh nội tâm của bạn, làm cho bạn có dũng khí đối diện trắc trở. Ai là người làm cho chúng ta có những điểm như vậy? Chắc chắn không phải là bạn thân mà là kẻ thù.

Giai đoạn 3: giúp cho người khác vui

Mang niềm vui đến cho người khác, phát huy tinh thấn vô úy, cho dù khó khăn bao nhiêu cũng cố gắng giúp người khác được vui, và cuối cùng có thể chứng ngộ.

Giai đọan thứ 4: nhận thức khổ đau, học yêu thương người khác

Vứt bỏ tư duy bạn, tôi, anh ấy ;và cũng bỏ đi thái độ lấy mình làm trung tâm.

“Lúc một mũi tên bắn đến, không có thời gian để hỏi tên này do ai bắn, hoặc bắn loại tên như thế nào”. Mà là dùng cùng một sự yêu thương đối đãi với tất cả mọi người.

Họ đều là người, đều đang chịu khổ. Họ và chúng ta đều giống nhau có quyền để hưởng được niềm vui.

Nhìn thấu bản chất của sanh mệnh

Lúc chúng ta không hiểu được bản chất của sanh mệnh, dễ mang đến những phiền não, hoặc trạng thái vô minh?

Mọi chuyện đều vô thường nên phải sống trong hiện tại.

Do nhân duyên khởi và cũng do nhân duyên diệt cho nên không chấp trước.

May mắn không phải là vĩnh cửu nên phải biết tạo phước và biết đủ.

Chỉ có nhìn bản chất của thế sự hoại diệt trong từng thời khắc, có như thế thì lúc nó biến hóa ta không có gì là trở tay không kịp, và đối diện với cái chết cũng không có gì là hoảng hốt lo sợ.

Chúng ta có thể chết bất cứ lúc nào, sanh mạng là vô thường, cho dù chúng ta có thành công bao nhiêu, tiền bạc có nhiều cũng không thể sống mãi. Lúc cái chết đến chúng ta phải xả bỏ mọi thứ. Đúng về phương diện này thì cái chết của người có nhiều tiền và cái chết của cầm thú cò gì đâu khác biệt.

Lúc chúng ta có được hạnh phúc thì nên chia cho người khác một phần như vậy sẽ làm cho cuộc sống càng thêm có ý nghĩa.

Giai đoạn thứ 5: lấy tình yêu làm gốc, phát triển lòng từ bi

Bất luận là giàu hay nghèo, giàu hay trẻ, mạnh hay yếu đều lấy lương thiện và từ bi mà đối đãi, hy vọng mọi người sớm có được niềm vui.

Làm thế nào để phát huy lòng từ bi?

Xây dựng mối tình cảm thân thương với mọi người hoặc thấu cảm với nỗi khổ của người khác.

Học tâp làm thế nào chế ngự cơn giận ( suy nghĩ xem giá trị và lợi ích của giận hờn là gì, và giá trị lợi ích của từ bi là gì? )

Cố gắng vận dụng kiến thức thường nhật xem nổi giận có tác dụng gì?

Những cơn giận không có giúp ích gì cho đôi bên cả, nỗi giận chỉ làm tổn thương người khác, và tổn thương chính mình mà thôi.

Giai đoạn 6: toàn tâm toàn lực độ mình độ người.

Khi mà từ trong sâu thẳm của cõi lòng bạn xuất hiện tình thương, hy vọng tất cả mọi người cùng nhau hưởng đuợc niềm vui chân thật và lâu dài, đó là tình yêu rộng khắp.

Cảm giác như từ bi tự nhiên xuất hiện, mong muốn vì mọi người dứt trừ tất cả khổ đau. Đó là lòng từ của bạn đạt đến viên mãn, gọi là đại từ đại bi.

Giai đoạn 7: mong cầu chứng ngộ lợi tha

Mục đích cuối cùng là giúp đỡ tất cả mọi người.

Trước hết chúng ta nên hiểu bản tính và định hướng của họ, đồng thời phải có đủ tri thức tình yêu theo phương pháp tu hành.

Hướng dẫn họ, vì sao phải tu tập tình thương của tu hành,và bắt đầu từ hiện tại nên lọai bỏ đi những hành vi nào? Tập luyện, hướng dẫn các hành vi của thân khẩu ý sao cho mỗi ngày thêm nhiều lợi ích đó là phát triễn tình yêu sâu xa và tình cảm chân thật nhất.

Như vậy là đã định vị mối quan hệ mới của mình và người khác, đồng thời cũng là làm cho sanh mạng có thêm nhiều ý nghĩa mới.

(sưu tầm)
Trích dẫn

Búp Sen's Photo Búp Sen 25/03/2014

“Tâm viên, ý mã”: làm thế nào để lòng mình tĩnh tại, yên an ?


Sáng Mồng Một Tết Giáp Ngọ 2014, Năm Mới này mở lòng ra với gió muôn phương, cảm thấy sự hối thúc của thời gian nhịp cùng nhu cầu yêu thương nhân quần quá đỗi. Anh gọi tên em yêu dấu biết bao lần: từ bi.

Thích những khoảng thời gian một mình kéo dài trong yên lặng; hít lấy một hơi thở mát lành đặng nghĩ về điều diễm tuyệt ấy. Ngay cả khi mình đủ năng lực để ngồi xuống với nội tâm thanh tĩnh, tựa mọi người vậy, ta phải làm việc với cái gọi là ‘tâm viên, ý mã’ (tâm nhảy nhót như khỉ, ý nghĩ lồng lộn như ngựa) miêu tả trạng thái tâm trí cứ không ngừng tán gẫu, miên man chuyện trò chẳng dứt. Tiếng líu lo, ríu rít, rộn ràng này là nỗ lực tốt nhất ở trong lòng đặng xử lý những gì đang xảy đến với đời và kiến tạo một cuộc sống hoàn mãn, phong nhiêu, sung túc; xét khía cạnh tồi tệ, nó dung chứa, lưu giữ các nỗi sợ hãi, lo âu và vô vàn kiểu lối tương tác cũ càng cùng tha nhân, thiên hạ và rất đơn giản cứ mắc kẹt, nghẹn ứ của đủ thứ chất liệu đậm tính lịch sử, thiếu tích hợp và chưa được xử lý rốt ráo.

Như một nhà tâm lý trị liệu và nghiên cứu tỉnh thức (mindfulness) đam mê dấn thân, đã đầu tư thời gian rồi gắng sức bền chí triển khai thực hành thường xuyên và liên tục đặng huấn luyện thân xác lẫn tâm trí mình đạt được trạng thái đích thực tĩnh tại, yên an và lắng đọng trong lòng. Khi chia sẻ, nhiều người thổ lộ rằng trải nghiệm cho thấy họ không có khả năng làm tâm trí mình lặng yên lâu hơn vài ba phút giây, khoảnh khắc. Vậy chúng ta làm sao để nuôi dưỡng sự tĩnh lặng và lắng đọng đây?
Trước hết, cần tiến hành dõi theo rồi cởi bỏ, buông thả chất liệu chứa chất lịch sử cùng những cảm xúc, suy tư không ngừng tuôn chảy thì nó ắt sẽ giúp mình hạ tải, ổn định hệ thống thần kinh nhằm tạo ra một cái nhìn thoáng qua điều đang ẩn kín dưới tất cả thông tin riêng tư ấy. Chúng ta có thể làm việc nghiêm túc cùng các vị thầy tâm linh, nhà tâm lý trị liệu, hoặc viết nhật ký hay tiến hành bất kỳ dạng thức hướng dẫn đào xới và chữa lành các mẫu hình này.

Thứ đến, thành phần rất quan trọng khác là chuyện thiền tập đều đặn. Một thực hành thường xuyên và liên tục cho phép ta có cơ hội lần nữa, làm việc với tiếng rì rầm, líu lo mải miết đặng trải nghiệm đời sống xác quyết trạng thái tĩnh lặng hiện diện sâu kín dưới vô vàn ồn ào, bắng nhắng. Thuộc công việc xử lý đối thoại nội tâm không ngừng khai triển là điều ta phải luôn lưu tâm: sự băng qua, trôi đi của vô số cảm xúc và suy tư này khác. Chúng ta chú ý sự kiện rằng một số trong chúng thú vị thật, rồi không gắn dính bản thân vào quá chặt với bất kỳ suy tư, cảm xúc nào.

Thiền tập hướng ta đi vào trải nghiệm không gian nội tại trong lòng luôn thật rộng rãi, bát ngát. Rốt ráo, chúng ta có thể nhìn thấy chính mình lớn lao và nhiều hơn là chỉ duy mỗi các suy tư và cảm xúc. Chúng ta có thể trải nghiệm phần bất diệt, tồn còn mãi mãi vượt trên thời gian và không gian. Chúng ta đắm mình vào những chiều kích kín thẳm của hiện thể và phát hiện thấy các sự thật sâu xa. Các sự thật tâm linh phải được trải nghiệm và nắm giữ rõ ràng chứ không đơn thuần là một ý tưởng quá thừa sức lực tác động mạnh mẽ, quyền năng.

Nhiều người chúng ta thưởng thức hương vị khó quên khá ngắn ngủi của sự bành trướng này. Chúng ta thường mở lòng kính phục, nể trọng đời sống khi mình nhìn thấy một em bé, hoặc ngắm cảnh hoàng hôn, hay chầm chậm uống một tách trà tuyệt hảo. Sự kính phục này có thể là cánh cổng dẫn đưa ta với sự kết nối sâu xa hơn đó.

Dùng các công cụ khám phá chất liệu lịch sử thuộc tầng bậc vô thức và một sự thiền tập đều đặn có thể giúp tất cả mọi người chúng ta trên con lộ triển nở, trở thành tất thảy những gì mình có thể và mình muốn là. Các công cụ này giúp ta hiểu biết các nguồn lực nội tại chứa sẵn trong lòng mình, đưa mình quay về với cái toàn thể đang tồn tại bên trong và giúp mình xác lập, định hình rõ ràng mục đích việc sống trên đời, giữa vô vàn chung đụng của cõi ta bà trần ai.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Không chạy tìm hạnh phúc thì sẽ không thấy khổ đau


Khi ngồi thiền, tâm còn bám víu cái gì, mình phải niệm phóng tâm, tức là dù đối tượng phóng tới là thiện hay bất thiện, tịnh hay bất tịnh, chánh hay tà đều phải buông. Đã buông thì chánh hay tà không còn kẹt vào. Buông tất cả chánh tà, mình không còn thấy cái gì gọi là chánh cái gì gọi là tà, chỉ có thực tại hiện tiền.


Buông tất cả sẽ được tất cả. Buông tất cả không tĩnh lặng, mình sẽ được tất cả tĩnh lặng. Mọi thứ vốn tĩnh lặng thì có gì gọi là không tĩnh lặng. Chẳng qua mình buông những thứ màu mè làm cho tĩnh lặng bị biến chất. Tất cả ý niệm được buông, đâu là hạnh phúc, đâu là khổ đau. Sự cầu thị hạnh phúc khiến mình chạy đi tìm, tìm hoài không thấy, chỉ thấy khổ đau. Không chạy tìm hạnh phúc thì sẽ không thấy khổ đau, mà không có khổ đau tức là đang có hạnh phúc.

Khổ đau tự nhiên tới cũng tự nhiên đi. Hạnh phúc tự nhiên tới cũng tự nhiên đi. Hạnh phúc và khổ đau vô thường nên không cầu không níu kéo. Điều được cho là hạnh phúc vì phù hợp với tiêu chuẩn của mình. Điều được cho là khổ đau vì không phù hợp với tiêu chuẩn của mình. Người thích ăn sầu riêng nên có người mời thì thích lắm, hạnh phúc lắm. Người không thích ăn sầu riêng nên có người mời thì không thích lắm, thậm chí bực bội, thấy khổ lắm.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vậy cái gì gọi là thích hay không thích? Trái sầu riêng kia đâu có bắt mình thích hay không thích, tất cả đều do ý niệm mình ban bố ra. Buông bỏ tất cả ý niệm, ham muốn, phân biệt, chấp trước, mình không còn kẹt gì nữa, mình sẽ trở nên ung dung tự tại trước thăng trầm của thế cuộc, của hoàn cảnh, của ứng xử thế gian.

Vậy mình được cái gì khi buông tất cả như thế? Không phải mình có an lạc, có thảnh thơi, có tình thương lớn, có hạnh phúc vững bền hay không. Hạnh phúc vững bền chính là sự tầm cầu tất cả chư Phật đều mong mỏi chúng sinh thực tập. Buông tất cả nhưng có thấy gì được buông đâu, chẳng qua chỉ dừng lại cái suy nghĩ lung tung, dừng lại lời nói lung tung và dừng lại hành động lung tung.

Được tất cả nhưng có gì được đâu, chẳng qua phát khởi suy nghĩ yêu thương, lời nói yêu thương và hành động yêu thương. Người được yêu thương có thể vẫn còn cô đơn nhưng người biết yêu thương không bao giờ cô đơn vì có nhiều bạn bè, có nhiều gia đình và có nhiều hạnh phúc. Cái tất cả ở đây không phải thứ cầm nắm được. Không có gì vì đã có tất cả rồi. Đâu còn gì nằm ngoài cái mình đang có.

Mình là mây, là bầu trời, là chim, là chiếc lá, là tu sĩ, là ba mẹ, là con cái, là bạn bè, là đồng nghiệp. Mình là tất cả nên còn gì phải cầu mong. Mình là hạnh phúc, là khổ đau, là buồn vui, là an lạc, thảnh thơi, là giác ngộ. Vậy mình còn tìm kiếm cái gì nữa. Mình đã có tất cả đấy thôi.


L.N (t/h)
Trích dẫn


1 2 3