Jump to content

Advertisements




NHỮNG CÂU CHUYỆN THƯỜNG NGÀY


256 replies to this topic

#151 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 04/09/2014 - 05:17

NHỮNG LINH THÚ ĐẤT VIỆT
Trần Đức Anh Sơn
Theo facebook

Gần đây, dư luận báo chí đã nói đến “trào lưu” đặt tượng sư tử trước nhà ở, trụ sở công ty, cơ quan công quyền, đền miếu, chùa chiền... ở nước ta hiện nay. Đó là những con sư tử nửa Tây, nửa Tàu, chẳng liên quan gì đến văn hóa Việt Nam, nhưng lại được nhiều cá nhân, đơn vị chọn làm biểu tượng cho sự giàu sang, thành đạt của cá nhân, hay để phô trương vị thế và tiềm lực của doanh nghiệp, cơ quan…
Bài viết này giới thiệu một số linh vật được người Việt tôn vinh, thờ tự hay sử dụng như những biểu tượng văn hóa, tín ngưỡng trong hàng trăm năm qua, nhằm góp phần hạn chế tình trạng “nhập nhèm văn hóa” nêu trên.

1. BỘ TỨ LINH…
Đứng đầu trong các linh thú được người Việt tôn vinh là “TỨ LINH”, gồm: LONG (rồng) - LÂN (kỳ lân) - QUY (rùa) - PHỤNG (chim phượng). Theo quan niệm của người xưa, loài vật trong tự nhiên được phân thành 5 loài: LÔNG TRẦN (đứng đầu là con người), LÔNG VŨ (đứng đầu là chim phượng), LÔNG PHỦ (đứng đầu là kỳ lân), GIỐNG CÓ VẢY (đứng đầu là con rồng) và GIỐNG CÓ MAI (đứng đầu là con rùa). Do vậy, 4 loài thú: rồng, kỳ lân, rùa và chim phượng được tôn xưng là những linh thú cao quý và được chọn làm biểu tượng, chủ đề điêu khắc, trang trí, thờ tự trong các công trình kiến trúc, mỹ thuật, văn hóa và tín ngưỡng của nhiều dân tộc Á Đông, trong đó có Việt Nam.

RỒNG: Theo sách THUYẾT VĂN GIẢI TỰ, trong 389 loài bò sát có vảy thì rồng là loài đứng đầu và có sức mạnh vô song. Rồng là biểu tượng của sự sinh sôi mạnh mẽ, là biểu tượng của phương Đông (tả thanh long) và của mùa xuân. Rồng được miêu tả với nhiều dáng vẻ, tùy thuộc vào sự tưởng tượng phong phú của từng cộng đồng, từng dân tộc và luôn biến đổi theo thời đại hay không gian cư trú. Rồng là con thú có sự kết hợp của 9 loài khác: đầu lạc đà, sừng hươu, mắt thỏ, tai bò, cổ rắn, bụng ếch, vây cá chép, móng chim ưng, bàn chân của hổ. Người Trung Quốc phân chia rồng thành 3 loài chính: LONG là giống có quyền lực nhất và thường cư ngụ ở trên trời; LY là loài rồng có sừng và sống dưới đáy biển; và GIAO là giống rồng mình phủ đầy vảy, thường sống trong các đầm lầy hoặc trong hang sâu trên núi.
Khác với người Hoa, người Việt khá thống nhất trong quan niệm về con rồng, cả hình dáng lẫn tính chất. Từ đầu thời tự chủ (thế kỷ X) đến khi triều Nguyễn cáo chung (năm 1945), hình tượng con rồng Việt có những biến đổi về hình dáng, thể hiện qua các chi tiết về râu, sừng, vây lưng, đuôi, sự uốn lượn của thân…, nhưng trên đại thể thì hình ảnh và tính chất của con rồng Việt dưới các triều đại Lý - Trần - Lê - Nguyễn tương đối thuần nhất: rồng là biểu tượng của vương quyền, gắn liền với hình ảnh ông vua, là đỉnh cao của khái niệm quyền uy.
Tuy vậy, trong tâm thức của người Việt, rồng không hẳn là linh vật dành riêng cho nhà vua hay hoàng gia. Con rồng Việt đã vượt khỏi chốn cung cấm, xuất hiện ở hầu khắp đình chùa, miếu vũ… trong dân gian. Tuy nhiên, nhà nước phong kiến có những quy định khá chặt chẽ trong việc sử dụng hình tượng con rồng. Chẳng hạn, từ thời Lê - Trịnh đến thời Nguyễn, chỉ có vua và thái tử mới được sử dụng hình ảnh rồng 5 móng; các hoàng tử thứ 2, 3, 4 chỉ được dùng hình ảnh rồng 4 móng; từ hoàng tử thứ 5 trở xuống chỉ được dùng hình ảnh rồng 3 móng hay các biểu tượng gần gũi của rồng như con giao, con cù. Con rồng trang trí trong các đình chùa của dân gian cũng chỉ có 4 hoặc 3 móng.
Con rồng được người Việt thể hiện trên các bờ nóc, bờ mái, cổ diêm, y môn, cột trụ, bậc cấp… của cung điện, đình chùa, miếu vũ… bằng các thủ pháp: điêu khắc, chạm trổ, đắp vữa, khảm sành sứ, vẽ bằng bột màu, thêu thùa… Có khi rồng được đúc thành tượng để bài trí trước các công trình kiến trúc như cặp rồng bằng đồng đúc vào năm 1842 đặt trước Duyệt Thị Đường trong Đại Nội Huế.

- KỲ LÂN: Kỳ lân là linh vật báo hiệu điềm lành, là biểu tượng của sự thông thái, trường thọ, sự cao quý và của niềm hạnh phúc lớn lao. Kỳ lân cũng là biểu tượng của lòng nhân từ và sự trung thành. Kỳ lân là tên ghép, trong đó KỲ là con đực và LÂN là con cái. Theo truyền thuyết, kỳ lân là sự kết hợp của các loài khác: mình hươu, đuôi bò, trán sói, móng ngựa, da có 5 màu: đỏ, vàng, xanh, trắng, đen, dưới bụng có màu vàng. Con kỳ có một chiếc sừng ở giữa trán. Kỳ lân bẩm tính rất nhân từ, khi di chuyển nó tránh dẫm lên các loài côn trùng, không làm hư hại các loài cỏ mềm dưới chân. Nó cũng không ăn thịt hay làm hại bất kỳ con vật nào và không bao giờ uống nước bẩn. Người Trung Quốc cho rằng kỳ lân xuất hiện báo hiệu những điềm tốt lành như sự ra đời của một minh quân, chân chúa hay hiền triết. Huyền sử Trung Hoa cho biết kỳ lân đã xuất hiện dưới triều vua Nghiêu, vua Thuấn và vào thời điểm Khổng Tử ra đời.
Trong không gian kiến trúc của người Việt, có khi kỳ lân được bài trí thành từng cặp, đứng chầu trước cung điện của vua, đầu hướng về phía cung điện nhằm biểu hiện lòng trung thành; có khi kỳ lân được bài trí ở trước điện thờ, đền miếu, mặt hướng ra bên ngoài, biểu tượng cho sự tôn nghiêm, kính cẩn. Kỳ lân còn biểu hiện cho uy quyền của nhà vua, vì thế trên ngai vua triều Nguyễn có đôi kỳ lân dùng làm chỗ đặt chân của nhà vua. Kỳ lân còn là linh vật biểu trưng cho thái tử trong mối quan hệ: rồng (nhà vua) - kỳ lân (thái tử) - phượng hoàng (hoàng hậu). Kỳ lân còn là biểu tượng của hạnh phúc, đoàn viên như ngụ ý trong vũ điệu Lân mẫu xuất lân nhi trong múa cung đình Huế.

- RÙA: Rùa là con vật biểu tượng cho sự trường thọ, sinh lực và sức chịu đựng. Rùa mang chiếc mai hình vòm trên lưng, biểu tượng cho bầu trời và phần mai phẳng dưới bụng biểu tượng cho mặt đất. Những đường rãnh ở phần trên của mai rùa tương ứng với chòm sao Đại Hùng trên trời, biểu thị cho nguyên lý dương. Những đường rãnh ở phần dưới mai rùa tương ứng với mặt đất, biểu thị cho nguyên lý âm.
Rùa cũng là hiện thân của sự kết hợp từ nhiều loài khác: đầu rắn, cổ rồng, chân vịt. Rùa còn được coi là biểu tượng của sự ổn định và vững chắc. 4 chân rùa tượng trưng cho 4 cực của thế giới.
Trong kiến trúc và trang trí Việt Nam, rùa thường được thể hiện cùng các linh vật khác thuộc bộ tứ linh, nhưng phổ biến nhất là hình tượng “rùa đội bia” và “rùa đội hạc” trong các đình, chùa và trong Văn Miếu Thăng Long và Văn Miếu Huế.

- Chim phượng: Chim phượng được tôn vinh là vua của các loài chim, được sinh ra từ mặt trời và lửa. Chim trống gọi là PHƯỢNG, biểu tượng cho phúc lộc, chim mái gọi là HOÀNG, biểu tượng cho hoàng hậu, xuất hiện bên cạnh hình tượng rồng biểu tượng cho vua. Loài linh điểu này cũng là hiện thân của nhiều loài vật khác: cổ rắn, mỏ gà, đuôi chẻ như đuôi cá, trán của chim hạc, mào của vịt xiêm, thân có những dấu vằn của rồng và phần đằng sau cuốn vòm như con rùa. Lông chim phượng có 5 màu, tiếng hót của phượng hoàng như tiếng nhạc và có 5 biến điệu diệu kỳ. Chim phượng cũng là biểu tượng của hiền đức, không giết hại côn trùng, làm hại cây cỏ. Chim phượng cư ngụ trên cây ngô đồng, ăn hạt hoa trúc, uống nước ở các dòng thác. Trứng của chim phượng là thức ăn của các vị thần tiên.
Theo truyền thuyết, chim phượng chỉ xuất hiện trong những triều đại thái bình, thịnh trị. Nó là biểu tượng của mặt trời, của mùa hạ và sự thu hoạch mùa màng. Trong mối tương quan về phương hướng, chim phượng cư ngụ ở phương Nam nên ứng với quẻ dương; nhưng trong mối tương quan về giới tính thì chim phượng biểu thị cho yếu tố âm, trong khi rồng biểu thị cho yếu tố dương.
Trong kiến trúc và trang trí thời Nguyễn, hình tượng chim phượng thường xuất hiện nơi các cung điện hay trên trang phục dành cho hoàng hậu, hoàng thái hậu, thái hoàng thái hậu, được thể hiện bởi 3 hay 5 chiếc đuôi, phân biệt với chim loan, là biểu tượng của công chúa, chỉ có 1 chiếc đuôi. Trong kiến trúc đình miếu dân gian, hình ảnh phượng hoàng thường gắn với nơi thờ các vị nữ thần.
Vì là một loài chim nhân từ, hiếu sinh nên chim phượng cũng là linh điểu của Phật giáo. Nhiều công trình kiến trúc và trang trí Phật giáo có sự xuất hiện khá phổ biến của chim phượng. Khi khai quật Hoàng Thành Thăng Long, các nhà khảo cổ phát hiện nhiều tượng đất nung thể hiện hình đầu chim phượng. Điều này được lý giải là do các triều đại Lý - Trần chọn Phật giáo làm quốc giáo và chim phượng là linh điểu của nhà Phật nên hình tượng chim phượng được thể hiện và lưu dụng khá phổ biến trong thời kỳ này. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, những pho tượng đất nung hình đầu chim phát hiện ở Hoàng Thành Thăng Long không phải là tượng chim phượng mà là tượng của đại bàng KIM SÍ ĐIỂU. Tiền kiếp của loài đại bàng này là chim thần Garuda trong thần thoại Ấn Độ, là vật cưỡi của thần Visnu. Về sau, Garuda hóa thân thành đại bàng kim sí điểu, một trong “Bát bộ chúng” của nhà Phật.

2… VÀ NHỮNG LINH THÚ KHÁC
Ngoài tứ linh, người Việt cũng tôn vinh và sử dụng một số linh thú khác làm biểu tượng văn hóa và tín ngưỡng như:
- LONG MÃ: Long mã là hóa thân của kỳ lân, là sự kết hợp đặc biệt giữa rồng, lân và ngựa. Đó là một linh thú có sừng và bờm của rồng, mình của con hươu xạ, thân có vảy của kỳ lân, chân và móng của ngựa; cao “8 thước 5 tấc, xương cổ dài, cánh bên phải nhúng xuống nước mà không ướt, trên có thánh nhân để bức cổ đồ”.
Theo truyền thuyết, long mã xuất hiện trên sông Hoàng Hà, dưới thời Phục Hi, mình xanh, vằn đỏ, trên lưng có mang bức HÀ ĐỒ (hay MÃ ĐỒ), là sách trời ban cho vua để trị nước. Hà đồ là cơ sở để hình thành lý thuyết về Bát quái sau này. Ngoài ra, long mã còn là linh thú của Phật giáo, bởi nó thường cõng trên lưng LUẬT TẠNG, một trong ba phần cốt tủy của kinh sách nhà Phật (Tam Tạng Kinh).
Ở Huế, hình ảnh long mã xuất hiện nhiều nhất là trên các bức bình phong, một “sản phẩm đặc trưng” của xứ Huế. Đó là hình ảnh con long mã lưng mang HÀ ĐỒ, chân lướt trên sóng nước, đầu vươn tới các tầng mây. Long mã cũng xuất hiện trên các cung môn, miếu môn trong hoàng cung triều Nguyễn và thường đi kèm với các linh thú khác như: rùa, kỳ lân hay chim phượng.
Người Huế thường sử dụng kỹ thuật khảm sành sứ và thủy tinh để tạo hình long mã. Song cũng có những long mã được đắp bằng vôi vữa, hay được vẽ bằng phẩm màu.

- NGHÊ: Nhiều ý kiến cho rằng, nghê là linh vật do người Việt sáng tạo ra, khác hẳn với kỳ lân hay sư tử. Nghê là hóa thân của con chó, người bạn thân thiết với người dân Việt Nam. Nếu con chó là vật canh giữ của cải, nhà cửa cho người dân, thì nghê là con vật canh giữ về mặt tinh thần, chống lại các thứ tà ma, ác quỷ.
Nhiều làng quê ở miền Bắc Việt Nam có các đền miếu thờ chó đá như đền thờ quan Hoàng Thạch ở Địch Đình (Định Vĩ, Đan Phượng, Hà Nội), đền Cẩu Nhi (Hà Nội) hay đền thờ chó ở thôn Tháp (Phụng Công, Bắc Ninh). CHÓ ĐÁ cũng được đặt trước cổng làng, cổng đình, hay cổng nhà để bảo vệ cho cả cộng đồng hay cho gia chủ. Những con chó đá này đã được người Việt linh hiển hóa bằng cách khắc đẽo, thêm thắt những chi tiết trang trí, khiến nó trở nên oai vệ, trang nghiêm và được gọi là con nghê, linh vật bảo vệ đời sống tâm linh của người Việt. Khác với kỳ lân, con nghê có kỳ mà không có sừng, mình thon nhỏ, dáng chó, đuôi dài.
Nghê không chỉ xuất hiện trong các làng quê Bắc Bộ mà còn hiện diện trong các kiến trúc cung đình ở Huế. Trước cửa Hiển Nhơn và trước Miếu Môn Thế Tổ Miếu trong Hoàng Thành Huế có hai đôi nghê đá đứng chầu. Khác với hình tượng các con nghê ở đồng bằng Bắc Bộ, hai đôi nghê ở Huế đã được “cung đình hóa” với các chi tiết chạm trổ cầu kỳ, tạo thành các chòm lông xoắn ở đầu, mang tai và đuôi, xen kẽ các đao lửa ở 4 chân và sống lưng.

- VOI: Voi tượng trưng cho sức mạnh, sự khôn ngoan, thận trọng và là 1 trong 4 con thú đại diện cho sức mạnh và sinh lực bên cạnh hổ, sư tử và báo. Voi cũng là 1 trong 7 báu vật của Phật giáo nên hình tượng của voi xuất hiện nhiều trong kiến trúc và trang trí Phật giáo.
Trước một số đình chùa ở Việt Nam có tượng voi phủ phục ở hai bên như ở trước tam quan chùa Keo Hành Thiện (Xuân Trường, Nam Định) hay trước điện Long Châu (miếu Voi Ré) ở Huế. Trong lăng vua Lê Thái Tổ ở Lam Kinh (Thanh Hóa) và lăng của các vua Nguyễn ở Huế đều có tượng voi chầu hầu.
Ngoài ra, người Việt còn sử dụng hình ảnh các loài vật khác như hổ, ngựa, hạc, cá, cóc… để làm biểu tượng như: tượng hổ trong lăng Trần Thủ Độ ở Thái Bình hay hình tượng hổ trên các bức bình phong trong khuôn viên các đền miếu ở Quảng Nam; hình tượng ngựa trong các lăng tẩm các vua ở Huế, hình tượng cá trên bình phong trước đền Trần ở Nam Định, hình tượng chim hạc và cóc trên trống đồng Đông Sơn…
Có một điều chắc chắn là người Việt không chọn các linh thú như sư tử, kỳ hưu (hay bì hưu) làm biểu tượng của mình. Bởi lẽ, đó là những linh thú thuần túy Trung Hoa, xa lạ với người Việt. Hơn nữa, sư tử vốn là vị thần canh cổng cho các đền thờ và lăng mộ của các vị vua chúa Trung Hoa, ai lại đem nó đặt trước cổng nhà của mình.
Cũng cần lưu ý rằng, dù chịu ảnh hưởng Trung Hoa khi lựa chọn một số linh thú làm biểu tượng, người Việt cũng tạo hình các linh thú này khác hẳn với cách tạo hình của người Trung Quốc; tính chất của các linh thú này trong quan niệm của người Việt Nam cũng không giống với quan niệm của người Trung Quốc. Đơn giản là vì người Việt luôn tiếp thu có chọn lọc và Việt hóa những gì đến từ bên ngoài, chứ không tiếp nhận hay vay mượn theo kiểu rập khuôn.
Tháng 1/2011 - T.Đ.A.S.
* Bài viết có tham khảo tư liệu từ các sách: MỸ THUẬT HUẾ - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ Ý NGHĨA VÀ BIỂU TƯỢNG TRANG TRÍ của Nguyễn Hữu Thông (Thuận Hóa 2001); OUTLINES OF CHINESE SYMBOLISM ANHD ART MOTIVES của C.A.S. Williams (Taipei 1977) và DICTIONARY OF CHINESE AND JAPANESE ART của Hugo Munsterberg (New York 1981)


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 01: Rồng đá thời Lý ở bậc thềm điện Kính Thiên, Hoàng Thành Thăng Long. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 02: Đồ án trang trí đầu mái hình rồng bằng đất nung khai quật ở Hoàng Thành Thăng Long. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 03: Rồng bằng đồng đúc năm 1842 trấn giữ trước Duyệt Thị Đường, Đại Nội Huế. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 04: Kỳ lân chầu trước điện Thái Hòa, Đại Nội Huế. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 05: Đồ án rùa trang trí trên cửa Trường An, Đại Nội Huế. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 06: Đồ án trang trí đầu mái hình chim phượng (có ý kiến cho là đại bàng kim sí điểu) bằng đất nung khai quật ở Hoàng Thành Thăng Long. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 07: Đồ án phượng trang trí ở mặt chính cửa Trường An, Đại Nội Huế. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 08: Trước cửa Hiển Nhơn, Đại Nội Huế có 2 con nghê trấn giữ. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 09: Nghê trấn trước cửa Hiển Nhơn, Đại Nội Huế. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 10: Trước Miếu môn của Thế Miếu, Đại Nội Huế cũng có 2 con nghê trấn giữ. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Linh vat 11: Nghê trấn trước Miếu môn của Thế Miếu, Đại Nội Huế. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 12: Long mã trên bình phong trước đình làng Lại Thế, Huế. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 13: Đồ án Long mã và chữ Thọ trên tường đình làng Lại Thế, Huế. Ảnh: T.Đ.A.S.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh 14: Tượng voi trấn trước tam quan chùa Keo làng Hành Thiện (Xuân Trường, Nam Định. Ảnh: Trần Văn Quyến.

Sửa bởi pth77: 04/09/2014 - 05:19


#152 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 13/09/2014 - 12:52

Ý nghĩa cuộc sống
Phương Thi
10:44' AM - Thứ sáu, 12/09/2014


Mẹ Teresa, người đã dành cả đời mình cho công việc từ thiện, được cả thế giới tồn vinh và ngưỡng mộ (Giải Nobel Hoà bình năm 1979) đã nói về cuộc sống...

Cuộc sống chính là cái đẹp, hãy chiêm ngưỡng.
Cuộc sống chính là điều may mắn, hãy đón nhận.
Cuộc sống chính là niềm hạnh phúc, hãy tận hưởng.
Cuộc sống là một bản nhạc, hãy ca vang.

Cuộc sống còn có nghĩa là bổn phận, hãy hoàn thành nó.
Cuộc sống còn có nghĩa là một lời hứa, hãy gắng giữ lời.
Cuộc sống còn có nghĩa là một sự cố gắng không ngừng nghỉ, hãy chấp nhận nỗ lực.
Cuộc sống còn có nghĩa là một sự mạo hiểm, hãy can đảm lên.

Nếu cuộc sống là một cuộc chạy đua, hãy cố gắng hết mình.
Nếu cuộc sống là một trò chơi, đừng ngần ngại hãy cứ tham gia.
Nếu cuộc sống là một nỗi buồn phiền, hãy thả cách vượt qua.
Nếu cuộc sống là một tấm bi kịch hãy đồng ý đương đầu.

Nhưng cuộc sống còn là thời cơ, hãy tìm cách nhận ra và thu lợi từ nó. Cuộc sống còn là mốt giấc mơ, hãy biến giấc mơ thành hiện thực.Và cuộc sống này quá đỗi kỳ diệu, đừng nên phá huỷ nó.

Bởi cuộc sống đơn giản chỉ là cuộc sống hãy biết đấu tranh để tồn tại.

Nguồn: Bao Doanh nghiệp

Sửa bởi pth77: 13/09/2014 - 12:52


Thanked by 1 Member:

#153 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 15/09/2014 - 12:31

Ông Nguyễn Trần Bạt trả lời phỏng vấn Thời báo Kinh tế Sài gòn, ngày 5/5/2014
Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa


08:10' PM - Chủ nhật, 14/09/2014


Thời báo Kinh tế Sài Gòn hỏi: TBKTSG đang triển khai đề tài về kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chúng tôi muốn cùng ông phân tích về vấn đề này.
Ông Nguyễn Trần Bạt trả lời: Tôi rất hoan nghênh vấn đề mà anh đặt ra. Từ xưa đến nay giới nghiên cứu của chúng ta cũng như giới báo chí chưa đặt ra vấn đề chủ nghĩa tư bản là gì, chủ nghĩa xã hội là gì. Vì không có một định nghĩa rõ ràng về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội cho nên chúng ta cũng không biết kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì. Chủ nghĩa tư bản là một loại hình thể chế chính trị thừa nhận các quyền vốn hóa một cách tự nhiên của tất cả các chủ sở hữu hoặc tất cả các đối tượng sở hữu. Vốn hóa một cách triệt để chính là tư bản. Ở nước chúng ta cũng đã có những giai đoạn như thế, ngay cả trong những năm gần đây cũng có những biểu hiện như vậy nhưng rõ ràng các nhà nghiên cứu không chỉ mặt, không đặt tên.

Hỏi: Cụ thể là những biểu hiện nào trong giai đoạn hiện nay?
Trả lời: Chúng ta xây dựng thị trường chứng khoán chẳng hạn, chúng ta cổ phần hóa hay chúng ta bán cổ phần của các doanh nghiệp chẳng hạn. Mặc dù các doanh nghiệp ấy thực ra nó chưa có giá trị giống như giá trị mà người ta bán, nhưng người ta bán thì bản năng con người là mua cái đã và mua sự lạ lẫm của khái niệm ấy. Anh thấy thị trường chứng khoán của chúng ta có những giai đoạn chỉ số lên tới một nghìn mấy, đấy là thể hiện của vốn hóa, của tư bản hóa. Lập tức là tất cả các nhà cửa được mang thế chấp để có tiền, để vay vốn ngân hàng, dùng vốn vay ấy đem mua cổ phiếu. Rõ ràng là chúng ta tư bản hóa, tư bản hóa cái nhà, tư bản hóa tiền để dành, tư bản hóa nhiều thứ mà mình có.

Hỏi: Hoặc sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân?
Trả lời: Tôi chưa nói đến chuyện tư nhân, tôi muốn nói đến cái đòi hỏi bán của thị trường chứng khoán. Rõ ràng đấy là cơ hội để tư bản hóa. Tất cả mọi cái đều được tư bản hóa. Ngay cả cái sổ đỏ nó không hẳn là một chứng chỉ sở hữu mà cũng được đem thế chấp, tức là kể cả các đối tượng chưa chuyên nghiệp, chưa chính xác, hay chưa đầy đủ về mặt định nghĩa sở hữu vẫn được đem ra để tư bản hóa. Tức là chủ nghĩa tư bản Việt Nam được xây dựng trên cơ sở của những lực lượng hoàn toàn không được quy định chặt chẽ, không được định nghĩa chặt chẽ. Tính nửa vời, tính không chuyên nghiệp của khái niệm sở hữu thể hiện ngay cả trong những hoạt động chuyên nghiệp nhất của chủ nghĩa tư bản, của kinh tế thị trường là chứng khoán. Bây giờ có những người như anh Vinh, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư đặt ra câu hỏi là, định hướng xã hội chủ nghĩa là gì, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Các anh ấy hiểu sai ý đồ của định nghĩa này, tức là xây dựng nền kinh tế thị trường nhưng tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Không phải thế. Xây dựng nền kinh tế thị trường luôn luôn sẵn sàng điều tiết để quay trở về chủ nghĩa xã hội, đấy mới là định nghĩa gần đúng. Để làm như thế thì người ta không cho phép chuyên nghiệp hóa các khái niệm sở hữu. Tức là hầu hết các khái niệm sở hữu, các đối tượng liên quan đến khái niệm sở hữu đều không được định nghĩa một cách chặt chẽ. Để làm gì? Để nhà nước có thể xoay sở trong trường hợp chủ nghĩa xã hội bị vứt bỏ bởi đòi hỏi phát triển của kinh tế thị trường. Tôi lấy một ví dụ rất nổi tiếng mà mọi người vẫn hay chỉ trích, đó là sở hữu toàn dân. Sở hữu toàn dân là một khái niệm sở hữu không có thật, hay nói cách khác là một khái niệm thể hiện đầy đủ tính do dự của người Việt Nam khi triển khai một trong những phổ quát quan trọng nhất của đời sống kinh tế là sở hữu. Sở hữu toàn dân là một khái niệm hết sức do dự, do dự để làm gì?
Để nhà nước có thể lộn trở lại được. Bây giờ rất nhiều người đả phá một số khía cạnh, ví dụ, đả phá khía cạnh định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng họ không biết định hướng xã hội chủ nghĩa là những biểu hiện có thể đo được, có độ đo hẳn hoi ngay trong chính giai đoạn mà chúng ta đang bàn. Mà độ đo ấy thường không triệt để, tức là nó thể hiện tính do dự của xã hội về khái niệm sở hữu. Chính vì chúng ta không hiểu chủ nghĩa tư bản, chúng ta không hiểu kinh tế thị trường, chúng ta cũng không hiểu chủ nghĩa xã hội, chúng ta cứ theo nó mà không biết nó là gì. Tôi lấy ví dụ, chúng ta biết là nhân loại đi từ nền kinh tế phát triển một cách tự nhiên đến nền kinh tế có điều tiết của nhà nước, mà người ta hay nói là bàn tay vô hình rồi bàn tay hữu hình.
Tôi không thích dùng những chữ như thế. Cần có vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Để làm gì? Để giải quyết những mâu thuẫn xuất hiện trong quá trình điều hành một nền kinh tế hay điều hành nền kinh tế thị trường. Ví dụ, giải quyết vấn đề khoảng cách giàu nghèo hay giải quyết vấn đề khủng hoảng, rõ ràng nhà nước buộc phải nhảy vào, phải điều tiết, phải sử dụng vai trò của mình để khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Nhưng muốn nhà nước khắc phục được các khiếm khuyết của thị trường, muốn nhà nước có quyền lực trong việc khắc phục như vậy thì không thể đơn giản dùng công cụ hành chính được. Bởi công cụ hành chính đã bắt đầu lạc hậu trên toàn thế giới, công cụ hành chính chỉ là công cụ của những kẻ dốt nát hay không đủ năng lực điều hành một cách chuyên nghiệp. Do đó người ta mới bắt đầu sử dụng một số bán công cụ khác, chủ yếu nằm trong định nghĩa về sở hữu. Định nghĩa doanh nghiệp nhà nước là chủ đạo chẳng hạn. Lực lượng kinh tế nhà nước bây giờ cũng phải chiếm 60 - 70% toàn bộ lực lượng kinh tế Việt Nam. Cách đây khoảng 1-2 năm là 80-90%, mà 80-90% lượng dư nợ tín dụng là cho các xí nghiệp quốc doanh thì xã hội làm gì có tín dụng. Xã hội chỉ còn tín dụng đen là chính.
Nói như thế để bạn hiểu rằng nhà nước muốn điều tiết thì phải có công cụ, và công cụ hành chính đã lạc hậu cùng với toàn cầu hóa, vì nó mâu thuẫn, nó bị ức chế bởi tất cả các công ước quốc tế, các hiệp định quốc tế. Người Việt Nam không thể vô duyên mãi với việc dùng các công cụ hành chính được, người Việt Nam phải tham gia WTO, tham gia TPP, tham gia BTA, tham gia đủ hết, mà khái quát hóa là tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA). Người Việt Nam không thể dùng biện pháp hành chính được, vậy phải dùng biện pháp gì? Phải dùng lực lượng kinh tế nhà nước và phải dùng tính nửa vời của khái niệm về sở hữu mà Đảng ta hay gọi là lực lượng sản xuất, chế độ sở hữu các tư liệu sản xuất. Tính nửa vời của chế độ sở hữu và ưu thế của lực lượng kinh tế nhà nước trở thành một trong những công cụ cơ bản để nhà nước chúng ta giữ vai trò điều tiết nền kinh tế.

Hỏi: Xem xét lại quá trình sau đổi mới, theo ông vì sao đến bây giờ các nhà lý luận của Việt Nam vẫn không thể nào xác định được thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trả lời: Đơn giản vì chúng ta đã có thực tế kinh tế đâu. Nếu nói một cách thật sự thì chúng ta chưa có nền kinh tế. Việt Nam có sản phẩm gì? Nền công nghiệp Việt Nam có những sản phẩm gì? Nền sản xuất Việt Nam có sản phẩm gì? Thị trường của nó ở đâu? Chúng ta cũng à ơi vậy thôi, chúng ta không có các nền kinh tế có thật, cho nên đôi khi chúng ta nói là kinh tế Việt Nam rơi vào bẫy trung bình, tôi thấy rất ngượng khi nói như thế. Chúng ta không có căn bệnh ấy, chúng ta chưa đủ, chưa đạt đến trình độ để có loại căn bệnh như thế. Chúng ta cũng nhận vơ một chút. Muốn gì thì muốn, pha thứ nhất của nền kinh tế phải là nền kinh tế cứng, pha thứ hai là kinh tế mềm, cái mà đại sứ Trần Văn Thình trước đây về Việt Nam có nói. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn hiện nay, đấy là kinh tế tài chính. Đấy là các pha khác nhau, Bắt đầu bằng kinh tế công nghiệp, lên một bước là kinh tế mềm, tức là kinh tế dịch vụ, và lên một bước nữa là nền kinh tế tài chính. Đầu những năm 90 thế giới gọi khu vực tài chính và ngân hàng là khu vực dịch vụ, nhưng năm 95 người ta đã bắt đầu gọi ngân hàng là khu vực đầu tư. Thế giới đã đi qua những chặng như vậy, những mức độ như vậy của phát triển kinh tế. Bây giờ chúng ta có gì?
Chúng ta chưa có nền kinh tế công nghiệp. Chính phủ nói cố gắng năm 2020 về cơ bản chúng ta thành một nước công nghiệp. Tôi nghĩ không có khả năng ấy. Nếu đến năm 2020 chúng ta không phấn đấu thì không cẩn thận là chúng ta không giữ được các trạng thái hiện nay của nền kinh tế Việt Nam, chứ không phải là chúng ta sẽ trở thành một nền kinh tế công nghiệp.

Hỏi: Tại sao ông bi quan thế?
Trả lời: Bởi vì chúng ta không hấp dẫn nữa.

Hỏi: Dù sao ít nhất kinh tế cũng phải tăng trưởng được 5 - 6%?
Trả lời: Tăng trưởng 5 - 6% không phải là sự phát triển. Mọi người vẫn nhầm lẫn giữa tăng trưởng và phát triển, không phải. Tăng trưởng là sự nở tự nhiên của một nền kinh tế, còn phát triển là những dấu hiệu chất lượng của một nền kinh tế. Chúng ta không có dấu hiệu chất lượng thì tại sao chúng ta lại nói là phát triển. Chúng ta sẽ có sự nở tự nhiên của nền kinh tế khoảng dăm ba phần trăm. Cái đó có quan trọng không? Có, vì nếu không có cái đấy thì chúng ta sẽ không thỏa mãn nhu cầu tăng dân số. Dân số tăng lên mà kinh tế không tăng thì chúng ta sẽ đói. Khi dự trữ trong dân nhiều như ở châu Âu hay ở Mỹ chẳng hạn thì người ta chỉ tăng 1 - 2% thôi. Bởi vì bản thân xã hội của nó đã đủ sức nuôi những sản phẩm nó đẻ ra, dự trữ trong một xã hội thu nhập bình quân đầu người tới 40 - 50 ngàn đô la/năm chẳng hạn thì làm sao mà con người tiêu hết được. Chúng ta chưa biết được 40 - 50 ngàn đô la/năm tính trung bình toàn quốc nó là cái gì, cùng với thời gian chúng ta sẽ thấy.
Tôi nhắc lại là chúng ta chưa có một nền kinh tế rõ rệt và chưa có một nền kinh tế có triển vọng rõ rệt, mà ta tạm lấy nghị quyết của TW Đảng về xây dựng công nghiệp hóa hiện đại hóa để làm tiêu chuẩn. Bởi nhà nước chính trị bao giờ cũng đẻ ra các tiêu chuẩn để phấn đấu. Năm 2020 chúng ta không có trạng thái ấy, nếu không cẩn thận thì chúng ta không giữ được trạng thái hiện nay. Không giữ không phải chỉ có nhà cao lên, cầu dài ra. Những thứ ấy cứ có tiền là làm, nhưng làm ra để làm gì, các công cụ ấy nó có đẻ ra lợi ích không. Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam tiêu rất nhiều tiền, nhưng không chỗ nào hoàn thiện. Tại sao lại như vậy? Bởi không có đòi hỏi về việc hoàn vốn. Tôi là một kỹ sư tôi biết rõ là khi nhận nhiệm vụ thiết kế cho một công trình chẳng hạn, người ta phải biết rằng công trình này bỏ ra ngần này tiền thì khấu hao hàng năm là bao nhiêu, nó phục vụ sự phát triển của khu vực kinh tế cụ thể nào. Hiện nay chúng ta xây là xây, không có mục tiêu phục vụ rõ ràng của các công trình cơ sở hạ tầng trên từng khu vực khác nhau, tức là chúng ta không có năng lực để hoàn vốn. Vì không có năng lực hoàn vốn cho nên chúng ta làm chậm hay làm nhanh cũng thế thôi. Hiện nay chúng ta không có sức ép của hoàn vốn.

Hỏi: Ý ông nói những công trình của nhà nước hay của tư nhân?
Trả lời: Tôi nói chung. Nhà nước hay tư nhân xây thì nó cũng thế. Chúng ta cứ cường điệu nhà nước hay tư nhân thì khác nhau. Tôi nghĩ ở nước ta không thế. Bây giờ chỉ cần cổ phần hóa 15- 20% của một doanh nghiệp khổng lồ của nhà nước thì nó không còn gọi là doanh nghiệp nhà nước nữa. Và nhà nước chúng ta cũng lợi dụng triệt để câu chuyện dây dưa như vậy để đỡ mang tiếng về cái gọi là doanh nghiệp nhà nước.

Hỏi: Tức là về bản chất không có thay đổi?
Trả lời: Bản chất không có gì thay đổi. Chúng ta tưởng rằng chúng ta giữ trạng thái sở hữu toàn dân mập mờ, chúng ta có các doanh nghiệp hùng mạnh thuộc sở hữu nhà nước, thế là chúng ta có quyền lực ghê gớm, nhưng không phải thế. Cách đây 30 năm trong một hội thảo tôi dự có anh Ba Huấn, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân TPHCM chủ trì cùng với David Smith, trưởng đại diện của UNDP ở Việt Nam. Khi nói về tư nhân hóa kinh tế Việt Nam các anh ấy đề nghị tôi nói. Tôi nói rằng: bây giờ nếu không tư nhân hóa nền kinh tế Việt Nam được thì nền kinh tế Việt Nam sẽ tư nhân hóa quyền lực chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam thông qua hiện tượng tham nhũng. Tôi nói điều ấy vào năm 1987 và bây giờ nó xảy ra đúng như thế.
Có lẽ chúng ta phải kích lệ hay phải kêu gọi các cơ sở nghiên cứu, ví dụ Hội đồng lý luận TW Đảng phải giải quyết bài toán khái niệm, Ban kinh tế TW Đảng phải nghiên cứu để đưa ra một nội hàm đủ thỏa mãn mục tiêu thực hành xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nền kinh tế ấy, không phải không có. Nền kinh tế ấy là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở của việc tận dụng những định nghĩa rất do dự của Đảng ta đối với các đối tượng sở hữu để cản trở tốc độ tư bản hóa các tài sản quốc gia. Bởi vì nếu không thì anh không làm chủ được quá trình tư bản hóa, không điều chỉnh được chủ nghĩa tư bản. Điều chỉnh được, làm chủ được tốc độ của quá trình tư bản hóa chính là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là anh dắt cổ chủ nghĩa tư bản đi theo tốc độ mà anh muốn. Muốn như thế thì phải có một lực lượng để áp tải nền kinh tế đó là doanh nghiệp nhà nước và có một lực lượng tham gia vào làm chậm lại quá trình tư bản hóa, đó là các định nghĩa nửa vời về sở hữu, ví dụ sở hữu toàn dân. Nếu không có các công cụ ấy, đảng ta vô phương, chính phủ vô phương, và chính phủ buộc phải sử dụng các công cụ hành chính. Bây giờ công cụ hành chính không còn đất sống nữa cho nên người ta mới nói đến pháp quyền. Văn minh pháp quyền là một nền văn minh có thật, tức là anh điều chỉnh bằng luật pháp. Anh điều chỉnh bằng luật pháp thì anh phải luật pháp hóa mục tiêu chính trị mà anh muốn. Trước đây anh lười, anh ra lệnh cho nhanh, bây giờ anh buộc phải lập pháp để cho tất cả mọi người đều biết và được xử lý công bằng trước hệ thống luật pháp của anh, mặc dù hệ thống ấy cũng không tiến bộ lắm, nhưng nó vẫn phải công bằng. Phải làm như thế.

Hỏi: Ông có đề cập đến chuyện vẫn phải đề cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước?
Trả lời: Đấy là tôi nói Đảng này, Nhà nước này muốn điều hành nền kinh tế Việt Nam thì phải như thế. Bây giờ ông Thủ tướng cũng khó mà quát mấy ông tư nhân được. Doanh nghiệp tư nhân to, vay vốn lớn thì anh còn dùng ngân hàng để anh siết nó, nhưng hàng chục triệu doanh nghiệp bé không động đến ngân hàng của anh thì anh không có quyền lực gì đối với nó. Đây là tư duy của đảng, và là tư duy của cả hệ thống kinh tế của chúng ta.

Hỏi: Thế thì bây giờ phải làm cái gì?
Trả lời: Bây giờ phải định nghĩa rõ ràng, phải hiểu rõ ràng và phải nới dần hai đặc điểm ấy. Tức là làm giảm bớt tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước, và nâng chất lượng hay giảm bớt tính mập mờ của các định nghĩa về sở hữu. Tức là cho phép các tài sản có quyền tự do biến thành tư bản. Đó là kết quả của một quá trình cải cách liên tục cả chính trị lẫn kinh tế. Nếu không có một quá trình cải cách liên tục cả chính trị và kinh tế để thay đổi dần dần các lực lượng trong cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam, và thay đổi dần cấu trúc của các khái niệm liên quan đến chế độ sở hữu thì không có phát triển.

Hỏi: Nhưng ông cũng nhìn thấy sự lớn lên rất nhanh của khu vực kinh tế tư nhân, mà ông là một người biểu hiện cực kỳ rõ, từ một công chức nhà nước, sau đấy thì đến bây giờ là một doanh nhân rất thành công. Rõ ràng ông nhìn thấy câu chuyện đấy cũng làm cho Việt Nam thay đổi căn bản so với thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung. Ông nghĩ về câu chuyện đấy như thế nào?
Trả lời: Sự thành công của một vài người thông minh không định nghĩa tính tích cực, hay sự thay đổi tích cực của toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta hay đi tìm một vài ví dụ cá biệt để cường điệu hóa, khái quát hóa để nói hay cho nền kinh tế của chúng ta là không đúng và không khoa học. Anh biết tôi không phải là người đối lập với Đảng và Nhà nước. Khi thảo luận với các bạn là tôi muốn cùng nhau tìm ra cách gì đó để có thể tạo ra sự phát triển. Tôi nghĩ đó là tiến hành các cuộc cải cách để điều chỉnh một số yếu tố mang chất lượng động lực đối với sự phát triển.
Giảm bớt tỷ trọng kinh tế nhà nước, xí nghiệp nhà nước thì nó sẽ tạo không gian cho khu vực tư nhân trồi lên như anh nói. Xác định rõ vai trò của nhà nước, của thể chế kinh tế, xác định rõ hệ thống luật pháp, và đặc biệt là chuyên nghiệp hóa các định nghĩa về khái niệm sở hữu. Cái đó vô cùng quan trọng. Chất lượng sở hữu là giấy thông hành cho các tài sản tham gia vào quá trình xây dựng thị trường, hay nói cách khác là tham gia vào quá trình tư bản hóa tất cả các tiềm năng kinh tế của Việt Nam. Chúng ta luôn nói rằng chúng ta phát triển không tương xứng với tiềm năng là bởi vì chúng ta trói các tiềm năng vào các định nghĩa nửa vời như sở hữu toàn dân. Sở hữu toàn dân là một dây trói. Làm sao con ngựa có thể chạy được khi nó vướng dây?
Có thể nói là tất cả các định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang có hiện nay chính là dựa trên kinh tế nhà nước hùng mạnh, cộng với các khái niệm nửa vời về chế độ sở hữu, về tư liệu sản xuất. Đấy chính là các công cụ cơ bản để định hướng xã hội chủ nghĩa, để hạn chế tốc độ tư bản hóa của tất cả các tiềm năng kinh tế. Chúng ta kêu rằng chúng ta không phát triển tương xứng với tiềm năng là bởi vì chúng ta trói tất cả các lực lượng của chúng ta vào để duy trì một tốc độ phù hợp với thẩm mỹ chính trị của nhà cầm quyền về một nền kinh tế.

Hỏi: Nhưng nếu có một thay đổi nhanh quá liên quan đến chính trị hay kinh tế chẳng hạn thì ông có sợ?
Trả lời: Đương nhiên là sợ. Tôi nói như vậy tức là tôi thể hiện sự thông cảm của tôi đối với nhà cầm quyền, đối với đảng lãnh đạo, đối với chính phủ là họ không thể nào thay đổi nhanh về mặt chính trị được. Bởi vì thay đổi nhanh về chính trị ở trong quan niệm của nhà cầm quyền và biến nó thành một sự thay đổi trong xã hội mà vẫn yên ổn là một việc vô cùng khó. Khi bắt đầu xảy ra việc thảo luận về hiến pháp, tôi đã cảnh báo rất nhiều trí thức là có thể đây là một dấu hiệu họ đang nghiên cứu về dân chủ hóa. Thế nhưng giới trí thức của chúng ta hùng hổ và cuối cùng họ co lại, họ hiểu rằng xã hội này chưa thích hợp với quá trình dân chủ hóa, vì họ không đủ năng lực để quản lý những trí thức có một thái độ hùng hổ như vậy đối với chủ nghĩa xã hội.
Thái độ đối với chủ nghĩa xã hội là vô cùng quan trọng để khuyến khích đảng cộng sản Việt Nam thực hiện các cải cách dân chủ. Nếu thái độ đối với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách thù địch thì họ co lại và tăng cường tất cả các mối quan hệ có chất lượng chuyên chính, giữ gìn ổn định và trật tự xã hội để tránh rủi ro, duy trì một trạng thái làm ăn vừa phải và chúng ta chắc chắn chậm hơn thiên hạ.
Tôi có một bài báo rất nổi tiếng nói về chuyện chúng ta chậm hơn Lào và Campuchia rồi. Chúng ta chậm hơn Lào và Campuchia là bởi vì chúng ta quan niệm về quản trị xã hội về mặt chính trị chặt chẽ hơn. Đương nhiên so với Campuchia thì chúng ta chặt chẽ hơn nhiều, so với Lào chúng ta cũng chặt chẽ hơn, bởi vì nước Lào là nước của các bộ tộc, nhu cầu quản lý chính trị cũng ở mức tượng trưng, còn xã hội Việt Nam đã trở thành xã hội đô thị rồi, nó đòi hỏi phải là quản lý chính trị chặt chẽ hơn.

Hỏi: Cơ sở nào để ông nhận định là Việt Nam thua Lào?
Trả lời: Anh để ý một chút thì anh sẽ thấy. Anh nghe các nhà đầu tư, anh đến Vientiane, ăn cơm tối ở Vientiane, anh sẽ thấy các nhà đầu tư người ta nói chuyện gì. Tôi có bảy năm làm giám đốc một quỹ đầu tư toàn bộ lưu vực sông Mê Kong từ Côn Minh đến Việt Nam. Một năm tôi có năm cuộc họp, Phnompenh, Vientiane, Mianma, Côn Minh và ở Anh. Bảy năm làm như vậy tôi tích lũy không biết bao nhiêu quan sát mới có nhận định đấy.
Lúc bấy giờ, trong một bữa cơm gồm chúng tôi, những nhà đầu tư tài chính và một số tướng lĩnh ở Miến Điện. Tôi hỏi một ông lúc ấy là phó cho ông Than Shwe rằng hệ thống luật pháp các ông thế nào. Ông ta bảo hệ thống luật pháp của chúng tôi là hệ thống luật Anh, và nếu chúng tôi cần thêm cái gì cho nó phù hợp với tình trạng hiện nay của Miến Điện thì chúng tôi thêm vào, còn về cơ bản tính hệ thống và tính lý luận của nó vẫn là luật Anh. Tôi hỏi anh luật pháp của họ được xây dựng trên nền tảng của triết lý luật pháp nước Anh thì làm thế nào mà họ cải cách chậm hơn chúng ta được? Chúng ta cứ bảo tại sao Miến Điện làm được thế trong một thời gian ngắn mà chúng ta không làm được, chúng ta có đến một trăm năm nữa cũng không làm được như ông Thein Sein. Một trăm năm nữa chúng ta cũng không xem luật Anh là nền tảng của luật pháp Việt Nam. Để có được một nền văn hóa luật pháp kiểu như thế mất hàng trăm năm. Chúng ta hàng trăm năm nữa cũng không có điều ấy chứ không phải nói chơi. Đây là vì điếc không sợ súng nên đôi khi cứ nói liều, chứ chúng ta còn lâu mới có hệ thống luật pháp đủ để đảm bảo giúp chính phủ điều hành nền kinh tế này một cách bài bản .

Hỏi: Nhưng chẳng hạn khái niệm đất đai thuộc sở hữu toàn dân thì với câu chuyện thực tiễn các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến điều này như thế nào? Trên thực tế thì người ta không quan tâm?
Trả lời: Người nước ngoài họ cần gì, dễ thì người ta làm, khó thì người ta đi. Nhưng cái quan trọng là gì? Là họ mua được. Đối với tất cả những người làm ăn thì những cái nằm trong tay nhà nước dễ mua hơn cái nằm trong tay tư nhân. Nếu đất đai được tư nhân hóa thì người ta khó mua hơn và mua phải trả giá đắt hơn. Nếu đất đai nằm trong tay nhà nước bằng quyền sở hữu toàn dân thì người ta đút lót, người mua rất rẻ. Rất nhiều bằng chứng để nói rằng mua rất rẻ, mua 100 năm, thậm chí có nơi đề xuất bán 120 năm, bán lâu hơn cả Hồng Kông.


Hỏi: Theo ông lý do gì cơ bản nhất mà chúng ta vẫn cứ nói đến câu chuyện đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tranh luận mãi để sửa hiến pháp cuối cùng chốt lại vẫn thế?
Trả lời: Đấy là kinh nghiệm của đảng cộng sản Liên Xô, nguồn gốc của tất cả cái mà chúng ta có, là di sản của đảng cộng sản Liên Xô, và một phần nào đó của Đảng cộng sản Trung Quốc. Vì Trung Quốc cũng chưa phát triển chính trị vào thời kỳ chủ nghĩa xã hội như Liên Xô. Nếu lấy chủ nghĩa xã hội làm tiêu chuẩn thì Liên Xô là một nước phát triển về chính trị hơn Trung Quốc. Cho nên Liên Xô lãnh đạo cuộc đối đầu chiến tranh lạnh chứ không phải Trung Quốc. Bây giờ tất cả bộ luật mà chúng ta có đều có dấu hiệu của Liên Xô, kể cả Hiến pháp của chúng ta cũng có những dấu hiệu của Liên Xô. Tẩy được cái đó ra khỏi văn hóa luật pháp Việt Nam không dễ, mất khoảng một trăm năm nữa.

Hỏi: Theo ông, nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa liệu nó có mâu thuẫn hoặc có triệt tiêu nhau không?
Trả lời: Không, mục tiêu của hai cái khác nhau. Không triệt tiêu nhau, vì cuối cùng nó hội tụ đến lợi ích của con người. Sớm hay muộn, dù có tham nhũng, có độc ác thì người ta cũng buộc phải hạ cánh trước các vấn đề về con người. Bản chất của nền văn minh chính trị của thế kỷ này là nền văn minh nhân quyền. Chính phủ chúng ta chắc chắn 100% phải tuân thủ đòi hỏi như vậy của thế giới. Tuy nhiên, các mặt này nó mâu thuẫn nội tại giữa nó với nhau, tức là các chất lượng của chủ nghĩa xã hội và sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường là hai yếu tố rất khó điều hòa. Điều hòa bằng cách cải cách theo hướng đối với thị trường càng ngày càng thả cho các lực lượng tham gia một cách tự do, tức là các tài sản được tư bản hóa một cách tự do, còn vai trò của nhà nước co lại một cách hợp lý. Vai trò của nhà nước co lại một cách hợp lý là cải cách chính trị. Mở rộng khái niệm về sở hữu cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường là cải cách chính trị. Cải cách chính trị ấy làm nền tảng cho cải cách kinh tế. Tức là Việt Nam tham gia một cách rộng rãi vào các cộng đồng kinh tế tự do, các hiệp định kinh tế tự do, và các FTA đó giúp kinh tế Việt Nam trở thành kinh tế thị trường. Hiện nay chúng ta vừa tham gia, vừa cưỡng lại nó. Chúng ta như cô gái đi theo anh đàn ông về khách sạn, nhưng vẫn níu cái dây đằng sau để đi chậm lại. Chúng ta không muốn mang tiếng là vào khách sạn sớm, nhưng chúng ta vẫn đi theo khuynh hướng vào khách sạn cùng với nó. Đấy là chính chúng ta bây giờ. Những hiệp định kinh tế tự do nào mà Việt Nam có thể tham gia là chúng ta tham gia hết, thế nhưng chúng ta vẫn cố gắng đi chậm, càng đi chậm càng tốt. Cuối cùng thì nó vẫn lôi mình vào khách sạn, nhưng mình nghĩ rằng mình càng đi chậm càng tốt để cho dần dần nhạt bớt sự ám ảnh của chủ nghĩa xã hội.
Tôi nghĩ cách đấy không phải là cách thông minh, bởi vì ám ảnh của chủ nghĩa xã hội sẽ thay đổi. Chủ nghĩa xã hội sẽ không có ý nghĩa chính trị giống như chúng ta nghĩ 7-10 năm về trước. Chủ nghĩa xã hội dần dần sẽ bình thường hơn. Chủ nghĩa xã hội có cả ở Mỹ, thậm chí đặc trưng chủ nghĩa xã hội ở Mỹ rõ hơn ở Việt Nam. Đặc trưng chủ nghĩa xã hội ở toàn bộ châu Âu cũng rất rõ. Chủ nghĩa xã hội là thế, còn chủ nghĩa xã hội Việt Nam là đảng phải lãnh đạo và duy nhất cầm quyền. Cái khó ở chỗ không phải là dân chủ, không phải là tự do, mà cái khó ở chỗ vậy thì dân chủ và tự do thì đảng ta không cầm quyền một mình nữa. Chúng ta giải thích là nếu không như thế thì mất ổn định. Có mất ổn định thật không? Có. Cái mất ổn định có thật ấy sẽ làm do dự cả những người thích cầm quyền lẫn những người hưởng thụ các kết quả như vậy. Nhiều người về hưu rồi cũng vẫn lo, nó tan rã rồi thì ai trả lương hưu. Đấy là một câu nói ra thì ngượng nhưng nó là có thật.

Hỏi: Câu chuyện xã hội chủ nghĩa gần đây được bàn luận lại, ngay cả giáo sư Stiglitz vừa sang đây gặp giới học giả Việt Nam cũng nói là các ông đúng chứ không phải không. Sau câu chuyện liên quan đến nhà nước Mỹ phải xử lý cuộc khủng hoảng bằng cách can thiệp ghê gớm vào thị trường thì rút cục lại là thế nào?
Trả lời: Stiglitz là một người cánh tả, tôi theo dõi nhân vật này lâu rồi. Trong xã hội phương Tây hay trong trung tâm của chủ nghĩa tư bản có những con người rất tài. Stiglitz là một người tỉnh táo chứ không chỉ là người tài. Những cách nhìn như vậy là cách nhìn cần phải tham khảo, vì họ thấy rằng chúng ta do dự như vậy là phải, bởi nếu không thì chúng ta sẽ lộn nhào cùng với nền kinh tế như nền kinh tế Mỹ.
Có lần tôi nói chuyện với các nhà ngoại giao có chức sắc của Mỹ, họ hỏi tôi: ông nghĩ thế nào về nước Mỹ? Tôi bảo: tôi nghĩ tổng thống Bush phải cân đối giữa việc truy đuổi bọn khủng bố với việc chăm sóc lại nền kinh tế Hoa Kỳ. Và họ bảo rằng: tôi sợ rằng bây giờ ông ấy vẫn còn lang thang để truy đuổi bọn khủng bố. Lợi ích bao giờ cũng là một áp lực để người ta nhận thức. Lợi ích là áp lực đối với tất cả mọi đối tượng, và những người cầm quyền không trong sáng đã kịp thay thế áp lực bằng tham nhũng. Sợ mất quyền lãnh đạo cho nên tham nhũng. Chúng ta cũng phải cẩn thận. Có một quan chức rất cao cấp của Đảng đến đây hỏi tôi, có cách gì để chúng ta không cần động đến cải cách chính trị mà vẫn giải quyết được vấn đề phát triển kinh tế không? Tôi bảo: di chứng của sự không cải cách chính trị hiện nay ở Việt Nam là tham nhũng và lộng hành chính trị. Từ trên xuống dưới đều lộng hành chính trị, Đảng mất dần quyền lực thật sự, đôi khi chúng ta tưởng rằng khi Đảng mất dần quyền lực thật sự thì nó sẽ nhanh đến tự do. Không phải. Nó nhanh đến hỗn loạn, đến đổ vỡ. Bản thân tôi không ân oán giang hồ gì với những người cộng sản, tôi thấy lo cho họ. Lộng hành chính trị và tham nhũng là hai căn bệnh nguy hiểm. Đất nước nghèo đi bởi tham nhũng còn Đảng thì yếu đi bởi lộng hành chính trị. Tôi nói rằng để giải quyết hai căn bệnh này buộc phải cải cách chính trị.

Hỏi: Những biểu hiện của chủ nghĩa xã hội cũng rất đáng ca ngợi theo tinh thần nhân văn. Câu chuyện ví dụ như kìm giá chẳng hạn?
Trả lời: Kìm giá chính là điều chỉnh khoảng cách giàu nghèo.

Hỏi: Những chương trình mục tiêu quốc gia đang thực hiện, câu chuyện cho tiền dân nghèo dịp tết, những việcấy cũng tốt chứ?
Trả lời: Chủ nghĩa xã hội là một triết thuyết hết sức đẹp đẽ về mặt ý tưởng.

Hỏi: Nhưng đổi lại câu chuyện đấy thì phải mở rộng chi tiêu công?
Trả lời: Mở rộng chi tiêu công không phải do chủ nghĩa xã hội. Mở rộng chi tiêu công là do thúc bách của phần trăm, nó không liên quan gì đến chủ nghĩa xã hội. Chi tiêu trên thực tế không “công” bao giờ. Chi tiêu là chi tiêu, làm xong rồi thì có ai đếm xỉa đến thân phận của công trình, của hợp đồng, của dự án.

Hỏi: Nếu đã nhìn thấy sự lấn cấn, do dự trong chủ thuyết phát triển của Việt Nam thì theo ông hình dung đất nước mình sẽ đi theo hướng nào?
Trả lời: Đất nước của chúng ta sẽ đi cùng với nhân loại, nhưng đi chậm hơn, nó bị nhân loại lôi cổ đi đến tương lai. Đừng hy vọng chúng ta sẽ đi bằng con đường khác, Trung Quốc không đi được con đường khác thì Việt Nam đừng hy vọng. Putin tưởng bở rằng mấy quả bom và một ít khí đốt làm cho mình trở thành một kẻ hùng mạnh, nhưng Putin đã phạm phải sai lầm, Putin đang bị nhân loại lôi cổ quay trở lại quỹ đạo cũ. Trung Quốc cũng thế. Còn Việt Nam là một nước bé bé, cho nên các nhà chính trị của chúng ta giống những cô gái bị bắt cóc về khách sạn, không kháng cự để chứng minh mình là kẻ đoan chính nữa mà thể hiện tính đoan chính bằng cách đi chậm lại.

Hỏi: Vì sao các nhà lý luận Việt Nam sau mấy chục năm đổi mới vẫn không muốn làm rõ chuyện này, người ta không thể làm rõ được hay người ta không muốn làm rõ?
Trả lời: Họ thông minh lắm, họ thừa sức làm rõ. Tôi nghe một số anh nói trên ti vi, tôi nhìn vào mắt tôi thấy mâu thuẫn giữa mắt của các anh ấy và cái miệng của anh ấy nói. Tôi nghĩ những nhà lý luận ấy họ chẳng ngốc, họ biết cả. Có những người có thừa khả năng để hiểu được những điều chúng ta vừa nói với nhau. Bài của tôi đã được đăng ở tạp chí lý luận của trường Đảng, ở tạp chí cấp ủy. Họ thông minh, họ biết cả, nhưng có ba loại người, dát không nói là một loại, loại thứ hai là khôn không nói, loại thứ ba là chưa đến lúc nói thì không nói. Những người còn tiếp tục giữ được sự tín nhiệm của các nhà lãnh đạo cao cấp nhất và vẫn là chỗ dựa về mặt lý luận của các nhà lãnh đạo của Bộ chính trị chẳng hạn thì họ không nói là bởi vì chưa đến lúc nói, vì họ biết rõ rằng sẽ có lúc nào đó có thể nói. Bây giờ ai là người biết rõ rằng sẽ có lúc được nói thì tôi không biết, nhưng tôi nghĩ rằng có ba loại như vậy.

Hỏi: Ông nhìn những chuyển động gần đây của nền kinh tế, của chính sách ông có thấy nó có hứa hẹn nào không, đặc biệt là câu chuyện phân bổ nguồn lực, chương trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước của Thủ tướng Chính phủ, câu chuyện cải cách môi trường kinh doanh thật tốt để các doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thêm. Câu chuyện chi tiêu công của nhà nước làm sao phải chặt chẽ lại. Đấy là những cái ít nhiều nó cũng gắn bó với câu chuyện nhận thức về đường đi của đất nước, câu chuyện về thể chế. Những cái đấy có hứa hẹn gì không?
Trả lời: Nếu cô gái thường dân kia lấy việc đi chậm của mình đến khách sạn làm biểu hiện của sự đoan chính thì những nhà lãnh đạo của chúng ta cũng biết sử dụng những chương trình như vậy để thể hiện tính đoan chính về chính trị của mình. Về mặt công nghệ nó không khác gì cô gái mà tôi vừa nói, bởi vì với một nhiệm kỳ vài ba năm nữa thì những lời hứa 100 năm không cần phải chặt chẽ lắm. Để làm được việc xây dựng môi trường kinh tế Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia…phải mất 100 năm nữa. Các nhà lãnh đạo hiện nay chắc chắn không đủ sức khỏe để tồn tại 100 năm nữa cho những mục tiêu như vậy, cho nên Thủ tướng cứ nói thôi. Nhưng nói như vậy không phải hoàn toàn vô ích, nói như vậy để nói rằng người Việt Nam vẫn còn mong muốn tiến bộ.

Hỏi: Nếu nhìn vào hoàn cảnh đất nước hiện nay so với hồi trước ông thấy thế nào?
Trả lời: Chúng ta sẽ rất khó để mà đánh giá chuyện nhìn vào đất nước hiện nay nếu không nhìn vào các nước khác. Tôi luôn luôn nhìn vào các nước khác. Rất nhiều người có thói quen cũ cho rằng chủ nghĩa xã hội khủng hoảng và sụp đổ, mà không thấy rằng chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô dẫn đến chiến tranh lạnh sụp đổ. Chiến tranh lạnh sụp đổ là nền tảng sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây. Khủng hoảng tài chính 2008 cho đến bây giờ là sự sụp đổ của nền kinh tế phương Tây, hay nói cách khác, tất cả thế giới đều rơi vào tình trạng sụp đổ, đều bế tắc, đều khủng hoảng về mặt lý luận phát triển, và thế giới đang đi tìm lý luận cho sự phát triển.
Lúc này ai có ý định dự báo một cách độc lập một nền kinh tế tách rời khỏi toàn bộ thế giới thì đấy là người ngốc. Chúng ta không thể dự báo Việt Nam được nếu chúng ta không hình dung ra nhân loại. Việt Nam bán hàng đi đâu, Việt Nam vay tiền của ai, Việt Nam mua công nghệ của ai, Việt Nam chọn cái ô vũ trang nào để làm chỗ dựa để đối phó với Trung Quốc, tất cả những chuyện như vậy Việt Nam là một đối tượng lệ thuộc, và lệ thuộc thì không thể nói gì đến độc lập được. Nếu anh hỏi tôi như thế này thì đúng hơn: bao giờ Việt Nam đủ thông minh để có thể tận dụng được những biểu hiện có lợi của sự phát triển của thế giới. Tôi nghĩ rằng đấy là một vấn đề. Việc ấy phụ thuộc vào chất lượng của Bộ chính trị. Sang năm thôi là thế giới thay đổi, tháng sau thế giới đang thay đổi. Sự phát triển tình hình ở Ukraina làm châu Âu thay đổi, sự phát triển của Trung Quốc làm cho người Mỹ thay đổi. Việt Nam muốn tận dụng được các thuận lợi mà thế giới có thì Việt Nam buộc phải tự giác về những chuyện như vậy, buộc phải thay đổi.
Thay đổi theo hướng nào? Thay đổi theo hướng là phải xem tự do dân chủ và quyền con người là động lực chính trong việc xây dựng xã hội. Nếu không nhìn thấy tính động lực của các yếu tố vừa rồi đối với nền kinh tế Việt Nam tức là chẳng thấy gì hết. Rất nhiều người cho rằng nói chuyện ấy là nói chuyện lý thuyết lãng mạn nhưng tôi điều hành một công ty, tôi đã làm rất nhiều thí nghiệm về quyền con người ở trong công ty của tôi, tôi hiểu ra rằng, muốn nó lên, muốn nó xuống đều được, nếu chúng ta cải cách chính sách của chúng ta đối với quyền lợi của người lao động. Quyền lợi đối với con người là động lực của con người, mà con người không có động lực thì không thể có phát triển được. Không còn sự phát triển quốc gia nào nằm ngoài sự phát triển con người nữa. Nước Ukraina đã phá nát mình, giới trí thức Ukraina đã phá nát mình. Họ bất cẩn để cho những tên cướp chui vào đất nước mình và nó tạo ra tình trạng như hiện nay.

Hỏi: Ông nhìn thế nào về vai trò của xã hội dân sự mà bây giờ vẫn chưa được thừa nhận, cái mà ông Tuyển vừa nói tuần trước?
Trả lời: Xã hội dân sự là một khái niệm rất thú vị. Nhưng bản thân ông Tuyển không hiểu về xã hội dân sự.

Hỏi: Ông ấy nói có một lý do quan trọng, liên quan đến câu chuyện đàm phán TPP khi mà quyền của người lao động được thành lập hội là sức ép ghê gớm, không thể vượt qua được trong sự đàm phán này.
Trả lời: Những vấn đề chính trị, những vấn đề cải cách chính trị ở Việt Nam chịu rất nhiều sức ép của quốc tế. Nhưng ông Tuyển không phải là nhân vật chính trị đủ để hiểu rằng có những thứ, những đòn hóa giải khác liên quan đến những vấn đề chính trị trực tiếp hơn, sát sườn hơn đối với các lực lượng cho phép Việt Nam tham gia vào những chuyện như vậy. Vấn đề nhân quyền là vấn đề lâu dài, vấn đề xã hội dân sự là vấn đề lâu dài, vấn đề ấy không nên nói vào lúc này bởi nó sẽ làm nhiễu. Nói cái đấy cũng không sai nhưng tôi cho rằng vào lúc này không nên nói, bởi không làm được. Còn xã hội dân sự nó vẫn tồn tại.

Hỏi: Trên thực tế nó vẫn tồn tại nhưng địa vị của nó không được công nhận chính thức?
Trả lời: Đảng này vẫn lãnh đạo xã hội dân sự. Năm 1946 bố tôi là Chủ tịch Liên Việt của một tỉnh, đến khi những người Việt minh cầm quyền thật sự, ông vào Đảng và thôi mặt trận đó. Nó không đơn giản như anh Tuyển nói. Những nhà chính trị chịu trách nhiệm thật họ có nhiều cách đàm phán. Đối với người Việt không bao giờ được phép đưa các đòi hỏi quốc tế ra để nhân nhượng chính trị. Một nhà chính trị tinh khôn là người ta phải tránh nói những điều ấy.

Hỏi: Ông ấy nói ở lúc này cũng là một câu chuyện thúc đẩy nhận thức xã hội?
Trả lời: Xã hội hiểu hơn anh Tuyển về điều đó.

Hỏi: Khi còn đóng góp cho văn kiện Đại hội X năm 2006, không khí về thảo luận nó còn mạnh mẽ hơn, càng về sau càng chìm dần?
Trả lời: Đóng góp cho cách mạng Tháng Tám nó còn cảm hứng hơn nữa. Nhiệt tình chính trị là một đối tượng dễ già nhất. Các nhà lãnh đạo cũng khôn lắm, họ hiểu rằng đến lúc nào đó xã hội nó sẽ phát triển thành sức ép tập thể, sức ép cộng đồng thì họ sẽ theo. Họ không bảo thủ như mọi người tưởng.

Hỏi: Khái niệm của ông về ân xá kinh tế đưa ra vừa rồi có khá nhiều tranh cãi?
Trả lời: Đương nhiên tôi muốn đưa ra ở mức ấy thôi chứ không muốn hơn nữa. Ân xá kinh tế là một khái niệm đa chiều, rất hay và thú vị. Ân xá kinh tế có thể hiểu một cách thô thiển nhất là bắt được trộm, anh đưa đồ ăn trộm đây rồi tôi tha là cách đơn giản nhất. Hoặc treo nợ cũng là ân xá. Tình trạng này thì đảng ta không giải quyết nổi nợ xấu, 80% dư nợ tín dụng của Việt Nam là nợ xấu. Chúng ta có thể thấy rất rõ nếu nhìn sâu vào các đại dự án.

Hỏi: Một khi cho rằng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì không một chính phủ nào làm sai được?
Trả lời: Nhưng nếu không phải nền kinh tế quốc doanh là chủ đạo thì cũng không làm được gì. Nhiều người cứ nói tại vì kinh tế nhà nước là chủ đạo nên nó mới thế, nhưng bây giờ kinh tế nhà nước không chủ đạo thì nó là gì không ai biết được. Nếu ai hiểu nền kinh tế Việt Nam thì sẽ thấy nó còn tệ hơn nhiều. Lý do là không ăn cắp thì cũng lãng phí, năng lực lãng phí của người Việt Nam chiếm vào khoảng 90% tổng số năng lực phá hoại kinh tế.

Hỏi: Nếu nói thế thì ngược với xu hướng của nền kinh tế? Cách đây 30 năm khi còn kinh tế kế hoạch hóa, không có tư nhân thì rõ ràng là rất kinh hoàng?
Trả lời: Không, anh nhầm to, nó không kinh hoàng gì cả, nó đủ năng lực để chúng ta tiến hành kháng chiến. Bởi vì lúc bấy giờ các bạn chưa biết gì, chưa có kinh nghiệm về nền kinh tế bao cấp. Lúc ấy người dân người ta khổ nhưng người ta phơi phới. Bây giờ thì cholesterol cao, mỡ máu nhiều, rồi béo phì, ngày xưa thì làm gì có ăn. Bà bác sĩ chữa bệnh cho tôi đề nghị là duy trì lại chế độ ăn thời kỳ bao cấp, tôi sẽ không còn mỡ máu nữa.
Đừng nghĩ thế. Nếu suy nghĩ như vậy tức là chúng ta tưởng là đã tìm được lối ra. Tôi nghĩ là chúng ta chưa tìm thấy lối ra.

Hỏi: Tìm làm gì nữa, cả thế giới người ta đi theo kinh tế thị trường?
Trả lời: Thế giới có cả những dân tộc sụp đổ như người Maya. Tại sao người Mông Cổ sụp đổ? Tại sao Thành Cát Tư Hãn vĩ đại, Hốt Tất Liệt vĩ đại như vậy mà lại sụp đổ?

Hỏi: Thế tại sao mình không đi theo những cái mà thế giới người ta đi, tìm làm gì?
Trả lời: Đi làm sao được, anh tưởng thế giới người ta đi là mình đi theo được? Đi theo thì phải có năng lực tương tự. Chúng ta làm gì có năng lực tương tự mà đi theo. Đấy là những câu hỏi mà rất nhiều đại trí thức hỏi tôi. Tôi trả lời là không đi theo được.

Hỏi: Nhưng mới chỉ là đi theo những dấu hiệu ban đầu, mở rộng cho tư nhân, rồi một số biểu hiện như chứng khoán mà nó làm thay đổi ghê gớm?
Trả lời: Động cơ của nó là thu tiền về thì nó làm được, còn nếu phát tiền đi thì nó không làm được. Làm sao mở rộng được các quyền. Thời kỳ mới mở cửa, như tôi là cán bộ cấp vụ của nhà nước ra ngoài, đổi địa vị cấp vụ lấy một sự tự do bên ngoài rất oai. Rất nhiều thứ trưởng, bộ trưởng chơi với tôi hơi tị, nhưng đến bây giờ nhìn bộ trưởng, thứ trường thì chúng ta thấy rằng mình không là cái gì so với họ. Họ chỉ cần nhón tay một cái thì bằng mình làm cả năm. Chúng mình biết điều ấy, người ta biết điều ấy. Chúng mình như là cảnh sát với kẻ trộm, nhìn vào mắt nhau là biết nhau ngay. Không phải tôi tưởng tượng đâu, tôi sang Trung Quốc, tôi hỏi chủ tịch một tập đoàn hóa chất phân bón Trung Quốc. Ông ta bảo: bạn tôi là bộ trưởng, cậu ấy bảo tôi oai vì có quyền trả lương 5.000USD một tháng, còn cậu ấy không có quyền ấy. Và ông ta bảo với bạn là: anh thì không có quyền trả lương, nhưng anh có quyền bán cái ghế đấy để thu tiền.
Cho nên phải nói với bạn, để có thể nói được đôi điều nói với mọi người tôi phải đi khảo sát mọi chuyện, tôi không nói cái gì chơi chơi. Tôi hỏi phó thống đốc ngân hàng Trung Quốc tại sao các ông duy trì một trạng thái tỷ giá rất điều tiếng. Ông ấy bảo người phương Tây và người Mỹ không hiểu kinh tế Trung Quốc, trong cấu trúc của giá thành xuất xưởng của hàng hóa Trung Quốc có độ rỗng rất lớn mà chúng tôi chưa kịp khai thác hết, chưa kịp cải tiến quản lý để độ xốp này bớt đi, thì tại sao chúng tôi phải động đến vấn đề tỷ giá. Tức là còn nhiều lựa chọn khác. Mình cứ tưởng thế thôi chứ mình không theo được, theo Trung Quốc thì không theo được.
Trung Quốc không có chuyện là mấy anh tị với nhau, không anh nào coi anh nào ra cái gì. Anh nào mà vênh váo được là vênh váo, biết vênh váo cũng không để làm gì nhưng vẫn thích thế. Cái đó gọi là âm mưu, là bản lĩnh thì không phải, gọi là thắng lợi, là uy thế cũng không, đấy là trẻ con. Tất cả ngồi trong một cái thuyền, anh nào cầm búa to là phải thật cẩn thận. Anh tự do nhất, hung hăng nhất cầm búa to thì cái thuyền phải vỡ. Một số người cơ hội thì vỗ tay hoan nghênh những anh cầm búa to và vung búa lớn mà quên mất rằng nó vỡ thuyền thì tất cả đều chết. Để làm một người Việt tiên tiến và một người Việt có ích là rất khó. Làm người Việt có ích thì rất nhiều người Việt không thích mình, họ sẽ bảo tại sao nó hèn thế, tại sao nó lại không nói thẳng. Như tôi chẳng hạn, mặc dù tôi rất thích ông Tuyển nhưng tôi không thích những câu nói vừa rồi. Phải ở vào địa vị ấy mới biết là nó khó thế nào.
Bây giờ đảng ta phải nghiên cứu thật sự về vấn đề này. Tôi nghĩ có những cơ sở có thể nghiên cứu được như Hội đồng lý luận trung ương là nên chủ động. Viện kinh tế của anh Trần Đình Thiên, Viện quản lý kinh tế Trung ương của anh Nguyễn Đình Cung hoặc Viện chiến lược phát triển... Tất cả những cơ sở ấy hùn vào, đưa ra khái niệm, định nghĩa rõ ràng giúp Đảng ta xác định định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là gì. Thực chất là duy trì mối liên lạc giữa xã hội Việt Nam với chủ nghĩa xã hội. Bằng gì? Bằng điều chỉnh các khái niệm.

Hỏi:Ông có thấy một đặc thù là mỗi khi đảng nới ra, mở rộng tự do kinh tế cho người dân, chẳng hạn qua câu chuyện làm kinh tế thì kinh tế đất nước có thay đổi?
Trả lời: Có nhưng mà qua rồi. Nới cho người dân ở mức độ nào đó thì nó chưa có biến dạng chính trị, nhưng nới quyền tự do tới một ngưỡng nào đó rộng hơn thì nó sẽ diến biến thành những biến dạng chính trị. Cho nên tôi mới nói rằng đất sống chung giữa chủ nghĩa xã hội về mặt chính trị và chủ nghĩa tư bản về mặt kinh tế đã bắt đầu hết. Bắt đầu hết đến năm 2000 là hết.

Hỏi: Nhưng năm 2000 mới có luật doanh nghiệp?
Trả lời: Thành lập luật doanh nghiệp là biểu hiện tập trung của sự tự giác của xã hội về kinh doanh. Tôi tham gia vào quá trình xây dựng luật ấy và luật đầu tư. Tôi cũng có làm việc với anh Trần Xuân Giá. Có nhiều người người thông minh, hiểu chính phủ, hiểu nhà nước nhưng không hiểu đời. Bởi nhà nước hay chính phủ có hai mặt, mặt nhà nước và mặt đời. Nói chuyện với mặt đời của nó thì các nhà báo cũng phải cẩn thận.
Xin cảm ơn ông!

Thanked by 1 Member:

#154 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 01/10/2014 - 00:16

Thiên tài, năng khiếu và khả năng sáng tạo?
Nguyễn Huỳnh Mai
Thứ sáu, 26 Tháng 9 2014 23:20


Khả năng sáng tạo là một nhóm chữ quan trọng.
Quan trọng vì khả năng này lúc nào cũng cần thiết.

1. Khó có hai anh chị em hoàn toàn giống nhau, kể cả những anh chị em sinh đôi thật. Khó có hai hoàn cảnh xã hội y như nhau để có thể áp dụng những khuôn mẫu sinh hoạt. Ta vẫn nói «lịch sử không tái diễn hệt như lần trước» cũng như «nước không bao giờ chảy lại trên một dòng sông». Thế có nghĩa là lúc nào ta cũng phải thích ứng, phải sáng tạo.

2. Thông minh cũng có khi được định nghĩa như khả năng tìm ra và áp dụng, tức là sáng tạo, tìm ra được lời đáp thích ứng nhất cho một vấn đề nào đó.

3. Cha mẹ dạy con giúp trang bị cho chúng khả năng và «bản lĩnh». Bản lĩnh gồm các cấu thành như tự tin, tự trọng mà biết kính trọng người đối diện. Tức là vừa có những kiến thức thực tế vừa giàu vốn liếng tâm lý và triết học, để trẻ có thể sống tốt sau này. Cho chúng nhiều vốn để chúng có thể sáng tạo.

4. Thầy dạy trò cũng như thế. Thầy giúp trò phát triển để thích ứng với hoàn cảnh – có vốn tri thức thật đó, nhưng mỗi một trong chúng ta thừa biết, tri thức thời nay rất mau lỗi thời nếu ta không tiếp tục cập nhật. Khả năng sáng tạo, một lần nữa, rất cần để nối kết các mãnh ghép của tri thức.

Muôn lời như một, khả năng sáng tạo rất cần để sống.

Năng khiếu, ít nhất là trong nghĩa hẹp, nhấn mạnh trên một tài đặc biệt có sẵn nơi một ai đó, như năng khiếu về âm nhạc, năng khiếu về văn chương.

Còn thiên tài, tiếng Pháp là génie, là một cái gì có vẻ như bẫm sinh. Ta sẽ bàn đến sau.

Từ sáng tạo đến một tác giả: Pierre-Michel Menger
Từ lâu nhiều người đã cố ý tìm xem ai sẽ nối nghiệp Pierre Bourdieu ở Collège de France. Boudieu mất đã hơn mười năm, và ghế Xã hội học của Học viện này vẫn trống.
Gần đây, Pierre-Michel Menger, một nhà nghiên cứu ở Trung tâm quốc gia khảo cứu khoa học Pháp (CNRS). Ông cũng là giám đốc nghiên cứu ở Trường Cao đẳng Khoa học Xã hội (EHESS) Paris.
tức là ở hai chức vị của Pierre Bourdieu ngày trước – Pierre- Michel Menger vừa được bầu vào «ghế» Xã hội học về công việc sáng tạo ở Collège de France (chaire de « Sociologie du travail créateur »),
Collège de France là Viện Khoa học đặc biệt của Pháp. Đặc biệt vì không phải là Đại học cũng không phải là Trường lớn. Collège de France được xem là Đại học của Đại học, vì là cơ sở uy tín nhất của khoa học. Được bầu làm giáo sư ở Collège de France là vinh danh lớn cho một khoa học gia ở Pháp.

Những nghiên cứu của ông Menger đặt trọng tâm trên việc sáng tạo – khởi thủy là luận án Tiến sĩ của ông trong đó ông đi sâu vào sự sáng tạo trong âm nhạc- . Ông cô đọng những khác biệt giữa các khái niệm thiên tài, năng khiếu và khả năng sáng tạo.
Từ luận án, ông đã quyết định đi “khai quang” vùng đất còn ít được biết và ít nghiên cứu của công việc sáng tạo.
Ngay tới Beethoven, theo ông Menger, cũng không hẳn là một thiên tài. Beethoven có trở thành Beethoven là nhờ sự ủng hộ tiếp sức của những mạnh thường quân thời ấy – để ông có thể tự do tiếp tục viết nhạc và thả mình theo khả năng sáng tạo.

Thiên tài là gì theo Pierre-Michel Menger?
Thiên tài dưới mắt của nhiều người là một khả năng bẫm sinh – từ trên trời rơi xuống – đúng như chữ «thiên» trong thiên tài. Thế nhưng nếu không miệt mài cật lực làm việc thì có lắm thiên tài đi nữa cũng sẽ bị chôn vùi trong tro vụn.

Tại sao có người miệt mài cật lực làm việc ? Làm sao giải nghĩa những động lực giúp ta cố gắng ? Ông Menger nói đến động cơđền bù.

Động cơ là lực đẩy ta tiến tới hay tiếp tục làm một việc nào đó. Lòng mẹ thương con là động cơ khiến người phụ nữ sẳn sàng hi sinh cả thân mình để mưu cầu sự sống hay hạnh phúc cho con.
Mengler phân biệt động cơ nội tại và động cơ bên ngoài.
Tôi làm việc vì như thế thỏa mãn được những giằng co bên trong nội tâm, được thỏa mãn, vui với thành quả thu thập được (động cơ nội tại)
Hay được ngẩng mặt với đời vì kỳ côngcủa mình, vì đã vượt qua thử thách dưới thanh thiên bạch nhật, vì đã mang về một kết quả mà chỉ riêng cá nhân tôi đã thực hiện được (động cơ bên ngoài – sự hảnh diện- ).
Đó là nói về động cơ.

Cái gì phân biệt động cơ và đền bù?
Đền bù là những gì ta nhận được từ tha nhân. Bổng lộc và chức tước. Nhiều người làm việc chỉ vì cái lợi tức thì. Đền bù – cái kiểu học ngành này thì ra trường được lương cao, lợi tức nhiều hơn hay được bia đá ghi danh. Trong đền bù có sự trao đổi, tính toán và minh bạch. Cũng có có cái thực dụng nữa. Dĩ nhiên cũng có những đền bù ròng tinh thần, như việc được tuyên dương.
Nhưng ranh giới giữa động cơ và đền bù mong manh.

Có những đền bù – nhất là những đền bù tinh thần hay đền bù xã hội – rất gần với động cơ. Người phụ nữ ngày xưa thủ tiết thờ chồng để được đời cho bốn tiếng «tiết hạnh khả phong» là người phụ nữ đi theo động cơ nội tại hay vì mong muốn đạt được cái đền bù của xã hội?

Trong công việc sáng tạo, ta thường gặp động cơ hơn đền bù. Van Gogh, Mozart, … đến cuối đời chết trong nghèo khổ nhưng đã sáng tạo đến cùng. Tương tự, giải Nobel là một đền bù lớn nhất mà một nhà khoa học có thể mong đợi nhưng khi nghiên cứu tiểu sử của các nhà khoa học, ta chưa thấy ai làm khoa học vì nhắm cái giải Nobel!

Menger định nghĩa năng khiếu là khả năng cho một việc gì – một khả năng vừa thuộc nội tại của cá nhân vừa tùy thuộc xã hội.
Mozart được sủng ái ở châu Âu vào thời của ông. Ông có … năng khiếu về âm nhạc. Nhưng năng khiếu của ông một phần đã được phát triển và vun trồng bởi hoàn cảnh gia đình – cha ông là maître de chapelle, nhạc sĩ của vua – và những sáng tác thanh nhạc của ông lúc đó là hợp thời. Một cách thái quá, ví dụ như ông sinh ra ở Bali chẳng hạn thì không hẳn Mozart đã được biết tới.
Trong dấu ngoặc, trường học có bổn phận phải phát triển khả năng trẻ là như thế.
Để «thiên tài» và «năng khiếu» không bị mai một.
Chữ thiên tài được để trong dấu ngoặc vì riêng người viết bài này, tất cả chúng ta đều có những thiên tài tiềm ẩn. Được phát hiện hay không là tùy thuộc phần lớn vào hoàn cảnh gia đình xã hội.

Ta vẫn nói thời thế tạo anh hùng.

Pierre-Michel Menger nghiên cứu và viết nhiều về vấn đề này.
Trong «Chân dung của nghệ sĩ», ông phá vở khái niệm của phàm phu tục tử về thiên tài sáng tạo hay năng khiếu bẩm sinh.
Đối với Menger, sáng tạo nghệ thuật cũng là một công việc như bất cứ công việc nào. Ta có thể nghiên cứu sự sáng tạo dưới khía cạnh xã hội học hay kinh tế học – dù rằng nghệ sĩ thuộc một thế giới mà nhiều người trong chúng ta chưa hay không hiểu được.

Trở về trường hợp của Beethoven, Menger đã tránh được hai vết xe đổ. Vết thứ nhất là xem thiên tài như một giải thích cần và đủ cho hiện tượng Beethoven. Vết xe đổ thứ nhì là xem Beethoven như một sản phẩm của thời thế.
Thật sự hiện tượng Beethoven cũng như bất cứ hiện tượng nào, phức tạp hơn nhiều.
Có thể lúc khởi thủy, Beethoven không có tài gì nổi bật hơn các nhạc sĩ đương thời của ông nhưng một số mạnh thường quân ở thành phố Vienna lúc đó đã nâng đở ông, xem ông như một đầu tư đáng giá. Đúng vậy, một mạng xã hội rất cần cho một nhạc sĩ. Sáng tác sẽ không có giá trị nếu không có người nghe. Nhạc sĩ sẽ cạn ngưồn sáng tạo nếu không được hoan nghênh.

Thế nhưng sự ủng hộ của môi trường thôi không đủ.
Những người nổi tiếng trong lĩnh vực âm nhạc hàn lâm là những trường hợp hiếm, ít người sánh ngang tầm, họ có thể làm ta ngợp và thán phục. Nhưng khi đi vào chi tiết, dùng những dụng cụ phân tích thông thường thì ta thấy gì ?
Họ tự lập tự chủ. Không tùy thuộc đền bù xã hội, không sáng tác theo thời. Beethoven như thế ấy. Beethoven sống với nhạc trong đầu và ông sống để sáng tác. Chuyện ủng hộ của mạnh thường quân, với ông, là chuyện nhỏ. Cần nhưng không đủ.

Rời trường hợp của Beethoven, Menger đã khảo sát nghiên cứu thế giới của nghệ sĩ và người sáng tác: từ nguồn gốc xã hội của họ, quá trình họ được đào tạo, những sinh hoạt của họ sau đó, những hành động trước công chúng, … Đồng thời Menger khảo cứu thế giới xung quanh họ : nhà phát hành, giới phê bình, chính sách công, …để có thể phân tích những ảng hưởng hổ tương và đưa ra một lý thuyết về sự sáng tạo dước góc nhìn tổng thể.
Bàn về công việc mình làm, ông Menger thừa nhận rằng ông không tính toán mà chỉ đi theo sở thích và đam mê muốn giải mã một lĩnh vực chưa có nhiều khai phá.
Có thể vì đó, ông đã so sánh nghệ sĩ và nhà khoa học – khoa học là một việc làm cho thỏa mản cao, một việc làm độc lập, … tương lai của nhà khoa học cũng không ổn định, không phải kiểu sáng cấp ô đi tối cấp ô về, hoàn toàn không như những dòng kẻ sọc của một bản đàn, bất di bất dịch.

Thế giới của khoa học gia giống với thế giới của nghệ sĩ?
Làm khoa học, ở nghĩa rộng, là công việc những người bán phần mềm tin học, những nhà cố vấn, người bán lời khuyên tức là phần tri thức, thế giới của các kiến trúc sư, của các nhà báo, những người làm nghề độc lập, bán dự án, …

Họ cũng sáng tạo như nghệ sĩ. Việc làm của họ cũng bất định như nghề của nghệ sĩ và lương bổng cũng không cố định ba cọc ba đồng mỗi tháng. Tương lai cũng khó dự trù trước. Có những văn phòng tư vấn gặp thời, nổi danh và làm giàu trong khi những văn phòng khác thì dù trình độ sáng tạo không kém, lại khiêm tốn hơn.

Sự bất định này ông bàn đến trong nghiên cứu «Công việc sáng tạo. Tự tiến thân trong bất định» Le Travail créateur. S’accomplir dans l’incertain (Gallimard/Seuil, 2009).
Những người không có lương. Họ nhận thù lao nhưng thù lao, nói cho cùng cũng chỉ là một cách tính ước lệ giá trị của công việc họ làm.

Công việc sáng tạo khác không việc thường ở chỗ nào ?
Công việc thường nhật là những công việc đã vào lề, đã được qui hoạch có qui trình. Người làm các công việc này chỉ làm một cách máy móc không cần thêm …gia vị hay sáng tạo cá nhân. Sản phẫm của công việc thường là những sản phẫm đã được vào khuôn mẫu rập nhau. Nhưng công việc có thể thành nhàm chán và người làm việc thành người lệ thuộc.

Trong khi công việc sáng tạo thì thử nghiệm, thành công thất bại tiến triển đều là những kết quả bất ngờ.

Người sáng tạo sống với công việc mình. Đi từ trạng thái thai nghén, ấp ủ, thực hiện, giới thiệu, hoàn chỉnh, thất bại, thành công … Thật sự đó là những công đoạn sôi nổi nhưng cũng rất căng thẳng.

Thành phẫm ra đặc biệt có một không hai. Lợi tức của người sáng tạo cũng bất định.

Nhưng thế giới kinh tế càng ngày càng đòi hỏi nhiều sáng tạo, đổi mới vì hầu như tất cả những công việc thường đều được cơ khí hóa, không cần can thiệp của người..
Đó là kết luận của Pierre-Michel Menger.

Vài tài liệu của Pierre-Michel Menger về vấn đề này:
Portrait de l’artiste en travailleur. NXB Seuil, 2003.
Le Travail créateur. S’accomplir dans l’incertain. NXB Gallimard/Seuil, 2009.
Portrait de l’artiste en travailleur. Métamorphoses du capitalisme. NXB Seuil, 2003.
Profession artiste. Extension du domaine de la création. NXB Seuil/Textuel, 2005.
Le Travail créateur. S’accomplir dans l’incertain. NXB Gallimard/Seuil, 2009.
Les intermittents du spectacle. Sociologie d’une exception. NXB EHESS, 2011.

Theo: vanhoanghean.com.vn

Sửa bởi pth77: 01/10/2014 - 00:22


#155 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 02/10/2014 - 12:43

MỘT NGƯỜI HÀ NỘI
Nguyễn Khải

Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi. Năm 1955, tôi từ kháng chiến trở về một Hà Nội nhỏ hơn trước, vắng hơn trước, còn họ hàng chỉ còn lại có dăm gia đình, vì chồng và con đều đi theo cách mạng. Cô Hiền cũng ở lại, dầu cô chú vẫn sống ở Hà Nội suốt chín năm đánh Pháp, các con lại còn nhỏ, chả có dính líu gì đến chính phủ “ngoài kia” cả.

Họ ở lại chỉ vì không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác. Lại thêm, chú tôi làm nghề giáo học, một ông giáo dạy cấp tiểu học, là người cần thiết cho mọi chế độ, chế độ cộng sản cũng phải khuyến khích trẻ con đi học, học văn hóa và học làm người. Còn chính trị chính em là những lứa tuổi trên, học sinh tú tài và sinh viên đại học.

Tính thế là đúng nhưng tôi vẫn lo, thật ra không có gì đáng để phải lo, nhưng tôi vẫn nghi ngại gia đình này rất khó gắn bó với chế độ mới và chế độ mới cũng không thể tin cậy được ở họ. Là vì họ ở rộng quá, một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn. Với người vô sản, ở quá rộng là một cái tội, trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu nhà tập thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè.

Cái mặc cũng sang trọng quá. Mùa đông ông mặc áo ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm. Lại cái ăn nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định.

Gia đình tôi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi súm sít quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra đĩa, có khi cứ để nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm, hả hê, không cần phải theo bó một quy tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm việc, hay hớm gì cái thứ lễ nghi của… giai cấp tư sản.

Tôi không dám thốt ra miệng nhưng vợ chồng vẫn bảo riêng nhau : “Cô Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì không thể tin cậy được. Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại rắc rối”.

Đã là người gốc Hà Nội thì không thể không nghe nói tới sự giàu có lương thiện của cụ Tú Dâu Hàng Bạc, là nhà ở cuối Hàng Bạc đầu Hàng Mắm. Xưa kia đất ấy là bến sông, mành Nghệ An chở nước mắm ra đổ tại bến và bốc ngay lên nhà. Nước mắm đổ vào các kiệu chôn chìm trong đất, mỗi lần thay phải dùng khăn bông trắng lau chùi sạch. Một dãy nhà chôn kiệu nước mắm và một gian nhà để tiền, tiền kẽm, mang một quan tiền kẽm đã phải vác vai.

Cụ Tú đậu tú tài khoa thi hương cuối cùng khi tuổi đã lớn, sau đó là bỏ hẳn bút lông để theo bút sắt. Cụ Tú ngâm thơ vịnh nguyệt, ăn ở giao tiếp theo kiểu cách nhà quan, dạy con cái cũng theo khuôn phép nhà quan là cái phần hào nhoáng của gia đình. Còn cái phần căn cốt, cái phần được người đời trọng thực nể thực, cái gian nhà tiền ấy đều do hai bàn tay đảm đang của vợ gây dựng nên. Bà chỉ buôn có nước mắm thôi. Thơ của cụ Tú được bạn bè khen nịnh chẳng qua là nhờ ở cái mùi nước mắm Nghệ, nhờ ở cái mùi tiền từ các kiệu nước mắm, con cháu sau này vẫn đùa vụng thế.

Bà Tú Dâu là em ruột bà ngoại tôi và là chị ruột mẹ cô Hiền. Hình như cả ba chị em đều lớn lên ở Hà Nội cùng một thời, cái thời Pháp mới sang, phố phường còn là nhà lá, nhưng chỉ có bà Tú là tiếng tăm hơn cả. Nhìn những tấm ảnh các cụ chụp từ đầu thế kỷ mà cảm động. Các cụ đều không được đẹp, mặt vuông trán ngắn, mắt hẹp và dài, lại hơi xếch một chút, gò má thì cao. Cả ba cụ đều ăn mặc theo cái mốt của thời ấy: khăn vấn bỏ đuôi gà, áo tứ thân bằng hàng tơ dệt thưa gọi là xuyến, mặc quần lĩnh Bưởi và đi hài. Ba bà đặc nhà quê nhưng lại đẻ ra một loạt con gái rất tân thời. Khoảng cuối những năm ba mươi, mẹ già tôi vẫn để răng đen, nhưng đã vấn tóc trần, đeo kiềng cổ và vòng tay bằng vàng chạm vừa thô vừa nặng.

Cô Hiền vào những năm ấy đã cạo răng trắng và uốn tóc, mặc quần áo đồng màu, hoặc đen hết, hoặc trắng hết. Còn nữ trang đã biết dùng đồ ngọc, bạch kim và hạt xoàn. Cũng vào những năm ấy có một số gia đình công chức cao cấp và quan lại, có cả mấy nhà buôn bán tơ lụa, thuốc bắc, kim hoàn, cho con gái lớn mở phòng tiếp khách văn chương, gọi là salon littéraire để mời gọi mấy anh văn sĩ, thi sĩ mới nổi và các cậu sinh viên cao đẳng. Khách văn chương là cái khung phải có, còn đám công tử một mai sẽ thành quan đốc, quan trạng, quan huyện mới là những nhân vật chính của mọi mộng mơ theo kiểu Tự lực văn đoàn.

Ngôi nhà của cô Hiền cũng là một salon nổi tiếng, không phải vì bố mẹ giàu hoặc sang mà vì có con gái lớn quá đẹp, vừa đẹp vừa thông minh, biết cách tự khoe bằng những mẩu chuyện rất duyên dáng của mình. Tôi sở dĩ biết vô ối chuyện vặt vãnh của mấy ông Lan Khai, Đái Đức Tuấn tức Tchya, Phùng Tất Đắc, Lê Văn Trương, Hồ Dzếnh… là do cô tôi kể lại cả. Ông Trương còn nhờ cô đọc giùm bản thảo của nhiều cây bút chưa thành danh, một phần vì tin ở tài thẩm định văn chương của cô, phần nữa cũng vì ông bận quá : bận viết, bận hút và bận cách làm giàu.

Tôi hỏi đùa : “Vậy cái ông Nam Cao là do cô tìm được ra phải không ?” Cô trả lời rất nghiêm trang : “Ông Lê Văn Trương tìm ra. Là do ông nằm hút thuốc phiện ở nhà Trác Vỹ, tiện tay với lấy một chồng bản thảo để kê đầu, rồi tiện tay lôi ra một tập để đọc, cái tập ấy có tên “Cái lò gạch” do một cây bút hoàn toàn vô danh viết ra”.

Được sống năm đầu ở Hà Nội vừa giải phóng với lứa tuổi chúng tôi ngày ấy mới hăm bốn hăm nhăm cái xuân xanh, là cực kỳ khoan khoái. Chín năm xa phố phường, xa ánh điện, không được vào rạp xem chiếu bóng hoặc cải lương, không được vào một cái chợ đông người giữa ban ngày, bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm đều ở Hà Nội, mãi mãi còn ở Hà Nội.

Chúng tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ ? Họ đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, cả cách nói năng nữa. Một lần tôi đến thăm cô chú, thằng em trai đã 14, 15 tuổi chạy ra mở cửa rồi kêu ầm lên : “Mẹ ơi ! Đồng chí Khải đến”. Cô tôi cau mặt gắt : “Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa ?” Bất đồ chú tôi cũng bước tới, nắm tay tôi rồi hỏi hồn nhiên : “Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi”. Cô tôi thở dài, quay người đi. Tôi nói : “Nước được độc lập vui quá cô nhỉ ?” Cô trả lời : “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ ?”.

Theo cô, chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho kẻ ăn người ở. Về sau tổ dân phố lại vận động nhau không nên nuôi người ở. Nhà này trước đây có hai người ở, một anh bếp và một chị vú. Chị vú là vợ anh bếp, đẻ được đứa con nào lại đưa về quê cho bà ngoại nuôi.

Sau ngày giải phóng cô tôi cho anh bếp về quê làm ruộng, còn chị vú vẫn ở lại, vì chủ tớ còn cần dựa vào nhau. Mỗi ngày chị đi chợ, đều có cán bộ bám theo, dò hỏi : “Chị có bị nhà chủ hành hạ không ? Tiền công có đưa đều đặn không ? Thái độ chính trị của họ là như thế nào ?” Chị vú gắt ầm lên : “Nếu họ không tử tế tôi đã xéo đi từ lâu rồi không cần anh phải xui”. Chị ta kể lại chuyện đó cho cả nhà nghe, bình luận : “Cách mạng gì toàn để ý đến những chuyện lặt vặt!”. Bây giờ thì chị vú đã mất rồi, về quê được bốn năm thì mất. Chị trông con cho bà cô tôi từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi mới về quê, tình nghĩa như người trong họ. Anh chồng không lấy vợ khác vì các con đã trưởng thành, anh làm chủ nhiệm một cửa hàng mua bán của xã, ngày giỗ ông chú và ngày tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em.

Trong lý lịch cán bộ tôi không ghi tên cô Hiền. Họ thì xa, bắn súng đại bác chưa chắc đã tới, huống hồ còn là bà tư sản, dính líu vào thêm phiền. Tôi vẫn đinh ninh cô phải thuộc giai cấp tư sản vì cô có gương mặt đặc biệt là tư sản, càng già lại càng rõ. Tôi hỏi cô :
- Tại sao cô không phải học tập cải tạo, cô giấu cũng tài nhỉ?
Cô Hiền cười rất tươi :
- t*o chưa đủ tiêu chuẩn.
Tôi cũng cười :
- Lại còn chưa đủ.
Cô nói thản nhiên :
- t*o có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được.

Tôi nín lặng vì đó là sự thật. Cửa hàng của cô chỉ bán có một thứ : hoa giấy, các loại hoa giấy và các lẵng hoa đan bằng tre, thêm ít bưu ảnh và sổ tay kỷ niệm. Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt, nhưng chịu thuế rất nhẹ, chỉ có một mình cô làm, các con thì chạy mua vật liệu, hoặc làm giúp phần cuống lá vào dịp Tết ta và Tết tây.

Nhiều bà bạn cũng tỏ ý ngờ vực: “Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?”. Cô tôi trả lời thật nhẹ nhàng: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Tất nhiên là cô khôn hơn các bà bạn của cô và cũng thức thời hơn ông chồng. Sau ngày Hà Nội giải phóng cô vẫn có hai dinh cơ, một nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho thuê. Ông làm nghề dạy học, con đông, đủ ăn là may, có tiền dư để tậu nhà là do ông viết sách giáo khoa cấp tiểu học, được Nha Học chính công nhận và cho in bán.

Năm 56, cô bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở kháng chiến về. Một năm sau có một cán bộ đến hỏi về nhà cửa và có nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún. Cô trả lời tỉnh khô: “Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại”. Cũng trong năm 56, ông chú tôi muốn mua một cái máy in nhỏ để kinh doanh trong ngành in vì chế độ mới không cho phép ông mở trường tư thục. Bà vợ hỏi lại: “Ông có đứng máy được không ?” – Ông chồng trả lời: “Không” – “Ông có sắp chữ được không ?” – “Không”- “Ông sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất có chủ, ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à ?” Ông chồng tính vốn nhát, rút lui ngay.

Cô kết luận với tôi : “Chế độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên t*o chỉ cần đủ ăn”. Làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn, lại không phải lo sợ gì. Tôi hỏi lại : “Còn chú, còn các em ?” – “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, t*o sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dầu họ có đủ tài để không phải sống bám”.

Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội là những người đàn bà có đầu óc rất thực tế. Mọi sự mọi việc đều được các bà tính toán trước cả. Và luôn luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô. Không có cả sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ. Cô tuyên bố thẳng thừng với tôi : “Một đời t*o chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”.

Gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng, không lấy một ông quan nào hết, cũng chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn nhân, đùa vui một thời còn son trẻ thế là đủ, bây giờ phải làm vợ làm mẹ, cô chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc. Có gì mà kinh ngạc, cô đã tính trước cả. Sau khi sinh đứa con gái út, người con thứ năm, cô nói với chồng: “Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục thì con út đã hai mươi, có thể tự lập, khỏi sống bám vào các anh chị”. Là thôi hẳn.

Cô bảo tôi : “m*y bắt nạt vợ m*y quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”. Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn cô thường chú ý sửa chữa cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn. Cô vẫn răn lũ con tôi : “Chúng m*y là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”. Có lần tôi cãi: “Chúng tôi là người của thời loạn, các cụ lại bắt dạy con cái theo thời bình là khó lắm”. Cô ngồi ngẩn ra một lúc, rồi bảo: “t*o chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ còn sau này muốn sống ra sao là tùy”.

Đầu năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu trong Nam, là đợt đầu tiên nên tuyển chọn rất kỹ càng, lứa tuổi từ 18 đến 25, diễn viên cải lương và kịch nói có, nhạc sĩ có, họa sĩ có, giáo viên trung học rất đông, là những chàng trai ưu tú của Hà Nội. Nghe nói khoảng 660 người. Người con trai đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện đăng ký xin đi đánh Mỹ. Tháng 4 năm 1965, lên Thái Nguyên huấn luyện. Tháng 7 rời Thái Nguyên vào Nam.

Họ dừng lại ở Hà Nội vài giờ vào lúc tối, nhưng không một ai biết. Tôi hỏi cô: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ ?” Cô trả lời: “t*o đau đớn mà bằng lòng, vì t*o không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Ba năm cô không nhận được tin tức gì về đứa con đã ra đi, lại đến thằng con kế làm đơn xin tòng quân, cũng đòi vào chiến trường phía trong để gặp anh, nếu anh đã hy sinh thì nối tiếp chí hướng của anh. Tôi hỏi lại cô: “Cô cũng đồng ý cho nó đi à ?” Cô trả lời buồn bã: “t*o không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Rồi cô chép miệng: “t*o cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì”.

Cũng may chú em tôi học rất giỏi, thi vào đại học với số điểm cao, nên nhà trường giữ lại. Tôi đến chúc mừng cô và em, cô nói: “Hiện tại thì nó may hơn anh nó, nhưng nếu anh nó còn sống thì cũng chưa biết đứa nào may hơn đứa nào”. Cô tôi tính toán việc nhà việc nước đại khái là như thế.

Tháng 12 năm 1975, cô Hiền cho con gái xuống nhà gọi vợ chồng tôi tới ăn liên hoan mừng em Dũng đã về. Cô nói: “Nó đeo ba lô bước vào đến giữa nhà t*o còn hỏi, anh muốn mua gì?” Tôi cũng không thể nhận ra nếu được gặp đồng chí thượng úy này ở đâu đó. Gầy ốm quá, da đen quá, râu ria cũng nhiều quá, chẳng còn tí dấu vết gì là một chàng trai của Hà Nội.

Trong mấy chục năm sống dưới chế độ ta, mỗi tháng cô đều tổ chức một bữa ăn bạn bè, gồm các cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh của đất kinh kỳ. Khoảng mươi, mười lăm người gì đó. Cửa hàng đóng từ chiều, các bà lần lượt đến trước, xông ngay vào bếp cùng làm cơm, các ông đến sau, mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, bỏ áo khoác ngoài bên trong còn mặc đồ bộ, thắt cà-vạt, nhưng đã sờn bạc cũ kỹ. Tiệc đã bày xong, vẫn chỉ có mấy ông ngồi tán suông chứ chưa thấy các bà. Rồi cửa trong mở, bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển.

Ngày thường các bà mặc áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, là các cô Lọ Lem của mỗi ngày, có phải nói chuyện mình cũng dễ ăn nói buông tuồng, thiếu ý tứ. Tất cả là bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô tục. Còn lúc này, toàn là những người quí phái mình phải xử sự ra sao nhỉ? Cô hỏi tôi: “Xã hội nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị. Theo anh, ở xã hội ta thì là tầng lớp nào ?”. Tôi cười phá lên: “Thưa cô, là bọn lính chúng tôi, là giai cấp lính chúng tôi, chứ còn ai nữa”.

Cho nên cái mùi lính tráng thâm nhiễm vào mọi nơi mọi chỗ, quan hệ kiểu lính, vui chơi kiểu lính, ăn nói kiểu lính, văn chương cũng là một mùi lính. Là người lính vừa chiến thắng, người lính đang được cả xã hội trọng vọng. Còn bây giờ, sau bữa tiệc mừng đại thắng mười lăm năm, tầng lớp lính đã mất ngôi vị độc tôn của mình rồi. Bây giờ là thời của các giám đốc công ty, các tổng giám đốc công ty, các cố vấn, chuyên viên kinh tế thật giả đủ loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn giá trị cho cả xã hội.

Tôi xin trở lại cái bữa tiệc của buổi tối hôm ấy, bữa tiệc của mấy người thượng lưu của Hà Nội đã mất ngôi tiếp đãi, chiều nịnh hai anh bộ đội từ một thành phố lớn nhất nước trở về. Nói cho thật, Dũng là nhân vật chính, còn tôi chỉ là một loại nhân vật phụ, ghé gẩm vào cái vinh quang chung mà thôi. Trong bữa tiệc hình như tôi nói có hơi nhiều, nói về thành phố Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của mình, về người dân Sài Gòn cũng lịch thiệp nhã nhặn hơn người dân Hà Nội. Những người ngồi nghe đều nín lặng, không một ai hỏi lại, không một ai bình phẩm gì thêm. Tôi đã nói điều gì thất thố ?

Một ông già hướng mặt về phía Dũng bảo: “Đồng chí bộ đội có chuyện gì vui kể nghe nào?” Dũng nói: “Thưa các bác, chỉ có những chuyện không được vui lắm”. Một bà nói: “Cứ nói, người ở xa về có quyền muốn nói gì thì nói”. Dũng nói rằng trong nửa năm nay anh không ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người, bây giờ còn lại khoảng trên dưới bốn chục.

Anh kể về một người bạn cùng trung đoàn, cùng một cấp thượng úy, tên là Tuất. Khi chuyến tàu từ Thái Nguyên tiến vào ga Hà Nội đã gần nửa đêm. Vừa mưa to xong, ánh điện lòe nhòe trên lá cây, trên những mặt đường vắng hun hút, trên sân ga Hà Nội. Tàu vừa dừng lại thì từ đâu đó bật lên tiếng loa rất sâu, rất vang : “Quí khách chú ý ! Quí khách chú ý ! Chuyến tàu từ Thái Nguyên…”. Tuất ngồi cạnh Dũng chợt nhoài người qua mặt bạn, gần như đưa cả nửa thân người qua khuôn cửa sổ, hất mặt lên phía có tiếng loa kêu nho nhỏ: “Dũng ơi, Dũng, tiếng của mẹ mình đấy ! Tiếng của mẹ mình đấy !…”. Không một ai được phép rời khỏi toa tầu, không một người thân nào được biết trước để chờ sẵn ở sân ga, để được nhìn nhau lần cuối, nói với nhau một lời cuối. Tất cả đều phải bí mật. Dũng kể tiếp:

- Thằng Tuất hy sinh ở trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Cháu về Hà Nội là muốn nhào ngay lại nhà ga, đến phòng phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh nhau trong suốt mười năm. Vậy mà phải mấy ngày sau cháu mới dám đến. Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hy sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm nay. Bà bước ra giữa một đám đông nhưng cháu vẫn nhận ngay được là mẹ của Tuất. Tuất vẫn nói là hắn giống mẹ hơn giống cha. Cháu chỉ vừa kịp nói: Thưa cô, cháu là Dũng… nước mắt đã đầm đìa, rồi cháu òa khóc y hệt một đứa trẻ. Bà níu chặt lấy một cánh tay của cháu nhưng không khóc. Và bà nói run rẩy : “Nín đi con, nín đi Dũng! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi”.

Nhiều năm đã trôi qua. Tôi sống ở thành phố H-C-M thỉnh thoảng có việc phải ra Hà Nội đều ghé lại thăm cô Hiền. Chú tôi đã mất rồi. Các em đã có gia đình riêng. Chúng nó cũng đã bắt đầu già. Lớp các cụ trong họ chỉ còn vài người, cô Hiền là một. Cô đã yếu nhiều, đã già hẳn, ngoài bẩy mươi rồi còn gì, nhưng cô vẫn là người của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Nơi tiếp khách của cô sau tấm bình phong cao hơn đầu người bằng gỗ chạm suốt mấy chục năm không hề thay đổi.

Một bộ sa lông gụ “cái khánh”, cái sập gụ chân quì chạm rất đẹp nhưng không khảm, cái tủ chùa một cánh bên trong bày một cái lọ men Thúy Hồng, một cái lư đời Hán, một cái liễn hấp sâm Giang Tây, và mấy thứ bình lọ màu men thì thường nhưng có dáng lạ, chả rõ từ đời nào. Cô đang lau đánh một cái bát thủy tiên men đỏ, hai cái đầu rồng gắn nổi bằng đồng, miệng chân cũng đều bịt đồng, thật đẹp. Bên ngoài trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không làm ướt, lại nhìn một bà lão (nếu là một thiếu nữ thì phải hơn) lau đánh cái bát bày thủy tiên thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn một cái tết Hà Nội.

Năm nay chắc chưa thể có thủy tiên. Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà lại không buôn được vài ngàn củ thủy tiên nhỉ ? Ví thử có thủy tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thủy tiên? Lại thêm cái cách sống, cái tâm lý sống ồ ạt, xô bồ, vụ lợi của đám người vừa thoát khỏi cái chết cái khổ đã dễ gì có được sự bình tĩnh để thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một rò hoa thủy tiên. Cô Hiền hỏi :

- Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá thế nào, dân tình thế nào ?
Tôi vừa cười vừa nói :
- Chưa bao giờ Hà Nội vui như bây giờ. Phố xá vui, mặt người vui.
- Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại.
Tôi nói :
- Có đúng một phần, phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn nghe những người Hà Nội buôn bán, ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài đường là đủ rõ.

Nói thế cũng hơi nghiệt. Vì có mấy việc vừa xảy ra làm tôi tức, tức và đau. Tôi đạp xe ở đường Phan Đình Phùng, tôi đạp chậm, vừa đạp vừa nghĩ ngợi. Một ông bạn trẻ đạp xe như gió thúc mạnh bánh xe vào đít xe tôi, may mà gượng kịp. Tôi quay lại nói cũng nhẹ nhàng : “Cậu đi đâu mà vội thế ?”. Hắn không trả lời, đạp vượt qua xe tôi, rồi quay mặt lại chửi một câu đến sững sờ: “Tiên sư cái anh già !”.

Lại một buổi sáng tôi đến thăm một người bạn ở quận Đống Đa, đã lâu không đến nên quên đường, lát lát phải hỏi thăm. Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất cằm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ. Tôi có than phiền với vợ chồng bạn về sự thiếu lễ độ của người Hà Nội, cô con gái đang cho con bú góp lời liền: “Ông ăn mặc tẩm như thế lại đi xe đạp họ khinh là phải, thử đội mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cưỡi con cúp xem, thưa gửi tử tế ngay”. Tôi cười nhăn nhó: “Lại ra thế !”.

Cô Hiền không bình luận một lời nào về những nhận xét không mấy vui vẻ của tôi về Hà Nội. Cô than thở với tôi rằng dạo này cô thường nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm, y hệt một bà già nhà quê. Mùa hè năm nọ, bão vào Hà Nội gào rú một đêm, sáng ra mở cửa nhìn sang đền Ngọc Sơn mà hãi. Cây si cổ thụ đổ nghiêng tàn cây đè lên hậu cung, một phần bộ rễ bật gốc chỏng ngược lên trời. Lập tức cô nghĩ ngay tới sự khác thường, sự dời đổi, điềm xấu, là sự ra đi của một thời.

Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi. Cô nói với tôi thế, đã biết nói thế đâu phải đã già. Mấy ngày sau, cô kể tiếp, thành phố cho máy cẩu tới đặt bên kia bờ, quàng dây tời vào thân cây si rồi kéo dần lên, mỗi ngày một tí. Sau một tháng, cây si lại sống, lại trổ ra lá non, vẫn là cây si của nhiều thế hệ Hà Nội, nghĩ cứ lạ, tưởng là chết đứt bổ ra làm củi, mà lại sống. Cô nói thêm : “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”.

Cô muốn mở rộng sự tính toán vốn dĩ đã rất khôn ngoan của mình lên thêm một tầng nữa chăng, cái tầng vô hình, không thể biết, nhưng phải biết là trên đời này còn có nhiều lý sự không thể biết để khỏi bị bó vào những cái có thể biết. Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, lại một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng.

NGUYỄN KHẢI
19-1-1990


#156 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 03/10/2014 - 17:35

BHUTAN-NƠI CHỈ CÓ YÊU THƯƠNG
Nam Nguyen (facebook)

Đã quá trưa mà đoàn người này mới bắt đầu lên núi. Gọi là đoàn nhưng thực chất chỉ có năm người, ông trưởng đoàn và hai cô hướng dẫn viên du lịch là người bản xứ, còn hai người nước ngoài gồm Thomas (người Đức) và Mai (Việt Nam). Những đoàn du khách đang lục tục đi xuống rồi, hướng dẫn viên chào nhau và bảo rằng đừng đi nữa, chưa lên đến nơi thì thiền viện đóng cửa rồi, mất công. Trưởng đoàn dịch lại, nhưng Mai kiên quyết đề nghị cứ đi, mặc kệ du khách đi xuống cứ cười và trêu đoàn của cô phí công toi, chỉ lên ngắm cảnh được thôi! Cô không thể đến Bhutan hơn chục ngày mà lại không ghé thăm Hổ Huyệt Tự hay Thiền viện Taktshang Goemba.

Mai làm việc cho một tổ chức từ thiện quốc tế, nơi Thomas là một trong những lãnh đạo cao nhất, và lần đầu tiên gặp nhau ở Việt Nam cô đã được tổ chức giao nhiệm vụ dẫn ông sếp châu Âu này đi ăn chay, vì đơn giản cả Thomas, cả Mai đều là những người ăn chay chặt chẽ (vegan-người không ăn và dùng bất cứ sản phẩm nào có nguồn gốc động vật)! Chính vì thế khi Thomas được Quốc vương Bhutan mời đích danh sang dự hội nghị nhằm vinh danh các nhà từ thiện đã có nhiều công trạng đối với Vương quốc Bhutan, thì ông đã đề nghị tổ chức cho phép Mai sang cùng, như một lời cảm ơn đối với cô gái Việt Nam đã giúp ông rất nhiều...

Chuyến đi đã gần kết thúc, và vô cùng hữu ích đối với Mai về mặt Phật pháp cũng như tính chất công việc. Mai được theo đoàn đi từ Đông sang Tây đất nước Bhutan, dự rất nhiều cuộc họp với lãnh đạo và dân địa phương, và thường những buổi gặp này diễn ra ngay tại chùa chính của địa phương đó, “Dzong” là một dạng chùa, cũng là “ủy ban nhân dân” hay “tòa thị chính” luôn, nhưng ở đất Phật này là vậy, và do đó cô cũng thăm được rất nhiều chùa. Mai cũng rất nhanh chóng hòa nhập với nếp sống nơi đây, nơi đa số người dân rất sùng tín Phật pháp, sống “chậm” hết mức có thể, không bao giờ có sự bon chen (trừ những nơi có người Ấn Độ xuất hiện- họ cũng ở khắp nơi, và “làm kinh tế” hăng hái lắm, chứ không như người địa phương) và vô cùng yêu cũng như có ý thức bảo vệ thiên nhiên. Chỉ có điều chuyến đi này dành cho những người đã sống và làm việc nhiều ở Bhutan, nên không có kế hoạch thăm Taktshang Goemba, nên Mai “bắt” sếp của mình phải đưa cô đi bằng được hôm nay, chứ sáng sớm mai họ đã phải bay khỏi thủ đô Thimphu. Và thế là sau cuộc họp cuối cùng với Bộ Nông nghiệp Bhutan Thomas cùng với hai người hướng dẫn viên (theo tiêu chuẩn của họ, mỗi đại biểu đi đâu cũng được một hướng dẫn viên đi kèm) đưa Mai đến miền đất Phật, và đích thân Giám đốc công ty du lịch xung phong dẫn khách quý đi, vừa đủ một ô tô.

Sangay-tên ông chủ công ty du lịch này-lớn lên đã là một đứa trẻ mồ côi, nhà chùa nuôi anh ta từ tấm bé và đặt cho cái tên này, có nghĩa là “Tiểu Phật”. Chính Thomas đã phụ trách chương trình viện trợ giáo dục cho hàng nghìn trẻ em sống tại chùa từ nhỏ, và ông đã biết “Tiểu Phật” gần hai chục năm nay, Sangay đối với ông cũng như học trò đối với người thày, người cha vậy. Thế nên cả gần chục ngày nay Sangay theo sát đoàn để giúp đỡ Thomas và Mai mọi mặt, mặc dù chế độ chăm sóc đã rất chu đáo, và tiếng Anh ở Bhutan đủ để đi khắp đất nước (trẻ con từ bé học song ngữ)! Mai đùa rằng có “Tiểu Phật” đi cùng thì thể nào cô cũng lên được tới động của Phật-Tiger Nest- bất chấp sức khỏe yếu vì ăn chay từ quá bé cũng như bệnh sợ độ cao cố hữu của mình (chính vì thế đáng nhẽ có thể thuê ngựa, la để cưỡi lên núi, thì tất cả phải theo cô đi bộ, bởi vì ngay ngồi trên la cô lại càng chóng mặt, sợ ngã...).

Taktshang Goemba (người nước ngoài hay gọi là Tiger Nest-Hổ huyệt tự-“hang hổ”là mật thất tu hành của Guru Rinpoche-người tu hành có năng lực mạnh như hổ theo truyền thuyết). Guru Rinpoche-Đức Phật hóa thân (Đức Liên Hoa Sinh)-người mà toàn dân Bhutan gọi thành kính là “Guru”, người đã mang đạo Kim Cang Thừa đến đất Bhutan-đã cưỡi hổ bay đến hang Paro này và lập thất, thiền trong ba tháng. Từ chân núi lên đến Tiger Nest cũng cao gần như từ dưới lên tới chùa Đồng ở Yên Tử, nhưng toàn đường đất nhô lên rồi trụt xuống-người Bhutan tuyệt đối không dùng gạch đá, bê tông, xi măng...để làm đường, vì không muốn động chạm tới thiên nhiên, nên đi vô cùng mệt, đặc biệt đối với Mai. Đi cuối đoàn, Thomas lẳng lặng nghe “Tiểu Phật” kể chuyện về Guru cho Mai quên bớt mệt, ông thầm cảm phục cô gái Việt với quyết tâm sắt đá này, và thầm lo không biết cô có đủ sức xuống không, vì đã lên đây nhiều lần, ông biết đi thế này chỉ ngắm cảnh được thôi, chứ động đã đóng cửa rồi!

Đã quá rằm tháng giêng, trời vẫn còn rất lạnh nhưng tuyết đã gần hết rồi, chỉ còn đọng trên những cành cây, tảng đá, và có những thác nước nhỏ vẫn còn đóng băng nguyên trạng, cảnh vật đẹp tuyệt vời nhưng thấy bước đi của Mai ngày một nặng nhọc, ông chỉ còn cách bảo cô: “hãy niệm tên Ngài Guru và em sẽ đến đích” và niệm Phật cùng cô...

Trời chiều chạng vạng, nhìn lên dãy núi phía trước cùng với mây mờ mỗi người sẽ nhìn thấy, cảm thấy những hình ảnh khác nhau, và theo truyền tụng của người Bhutan thì càng sùng kính, ta càng dễ thấy Phật. Mai thấy rất rõ cả dãy núi mang dáng vẻ của một ông voi khổng lồ, và tại nơi là cái mắt voi, rõ ràng có hình bóng của Guru ngồi vắt vẻo tại đó. Nhưng khi Mai hỏi hai cô gái hướng dẫn viên, thì mỗi người lại thấy một cảnh khác nhau! Họ dặn Mai: trên động có một tảng đá có vết tay của Guru, đến nơi phải đặt ngón tay vào đó và ước nguyện mấy điều, đều sẽ được linh nghiệm. Nhưng đi lên mệt thế này, thì đến nơi không ai, kể cả dân bản xứ, cũng không nhớ sẵn được những điều ước đã “chuẩn bị” sẵn, hãy cứ để những ý nghĩ đầu tiên bất chợt nảy ra là điều ước của mình! Gần tối, đoàn mới leo tới đỉnh Taktshang Goemba...

Mai được nhường đặt ngón tay vào vết tay Guru đầu tiên, và ba điều ước nảy ra trong đầu cô là:
-xin cho bố mẹ được mạnh khỏe lâu dài
-xin cho một thành viên trong gia đình khỏi được bệnh nan y
-xin cho người em trai út đang làm ăn bên Trung Quốc về với bố mẹ, vì các cụ rất lo cho nó và rất thương nhớ cậu em này!
Thomas cũng như mọi người, cũng đặt ngón tay vào vết đó và ước điều gì chỉ mình ông ta biết...

Mai quỳ trước cửa động giờ này đã đóng, và niệm tên Đức Liên Hoa Sinh, cô nguyện nếu được vào động nơi đất Phật thì “sẽ dành toàn bộ những năm còn lại của cuộc đời, nếu con có thể làm được gì thì xin Thày chỉ cho con biết đường đi để con đi đến cùng, làm tất cả những gì con có thể làm cho tất cả mọi người!”
Trong lúc Mai lầm rầm cầu nguyện, thì “Tiểu Phật” đứng nói chuyện với tay công an trung niên đứng gác cửa động. “Tiểu Phật” kể chuyện hôm nay phải tự dẫn quý khách lên đây, bởi có người thày đã giúp đỡ, cưu mang anh ta từ bé trong chùa, và hàng nghìn trẻ con khác nữa. Trong đầu người dân Bhutan không bao giờ có ý định xin xỏ hay “đút lót”, kể cả những “doanh nhân thành đạt” như Sangay (ví dụ là Sangay mua được miếng đất rất to ở Thủ đô và thừa tiền để xây cả khu đất ấy thành một khách sạn bề thế, thế nhưng anh chàng nhất quyết chỉ chọn phương án thiết kế xây nửa đất thôi, còn lại để trồng cây, trồng hoa, chỉ vì như thế đẹp hơn-mặc dù Thomas hay Mai thuyết phục ngược lại suốt cả chục ngày nay!). Người công an rơm rớm nước mắt, ông ta kể vì bản thân rất tín tâm, ông muốn gần với Đức Phật hơn nên chuyên xin gác những khóa đêm, và gác hộ thêm cả cho đồng nghiệp khác, cũng chỉ mong chóng về hưu sẽ lên hẳn đây để phục vụ thiền viện của Guru! Và vì cảm phục những công lao của Thomas đối với trẻ em Bhutan, ông ấy quyết định mở cửa cho tất cả vào động, đi đến Cửa Vàng của mật thất, tất nhiên không quên đề nghị tất cả phải tuân thủ như mọi khi, là không được chụp ảnh!

Thế là ước mơ của Mai thành hiện thực, cô cảm thấy vinh hạnh vô bờ! Khi đoàn rời động thì trăng tròn đã chiếu sáng vành vạnh, cảnh vật tĩnh lặng tuyệt đối, đêm rất lạnh! Khi đi xuống, bệnh sợ độ cao của Mai càng phát tác mạnh, cô không thể đi, thậm chí không thở mạnh được, hết hai cô hướng dẫn viên lại đến “Tiểu Phật” và Thomas phải xốc nách cô đi, điều duy nhất cô còn làm được là cầu cứu Guru trong tâm tưởng. Rồi cô bỗng thấy không xa, trên một tảng đá, Thầy-Đức Liên Hoa Sinh ngồi chống cằm lên đầu gối một chân co, một chân duỗi, đang nheo mắt cười nhạo cô, xung quanh Guru là cả một vầng trắng sáng lóa! Cô bảo mọi người hãy để cô đứng lại lạy Ngài, cô chỉ cho Thomas và “Tiểu Phật” chỗ Ngài ngồi, nhưng họ thì không nhìn thấy ai. Họ không dám cười cô, mặc dù cô bảo họ là cô hoàn toàn bình thường, chẳng lẽ họ lại nghĩ cô đang bị ảo ảnh à?(mà họ nghĩ Mai bị thế thật, nên càng xốc cô đi). Hai cô gái đã xuống trước một đoạn khá xa, thì bất chợt ba người còn lại trông thấy một thanh niên đang ngồi trên mỏm đá ngước lên trời ngắm trăng...Người thanh niên chợt nói với “Tiểu Phật” bằng tiếng địa phương: “này ba người, cô gái này mệt nặng lắm rồi, các người có muốn uống chút trà nóng không?”. Cả ba cùng muốn uống, thanh niên bảo tất cả đứng đấy chờ, đừng đi đâu, anh ta quay lại ngay, nói rồi đi khuất luôn vào rừng. Chờ mãi, chờ mãi không thấy người quay lại, Thomas đề nghị đi tiếp, nhưng “Tiểu Phật” nhất quyết bảo phải chờ. Sangay bảo vùng này làm gì có dân cư, lại càng không có nhà cửa, làm gì có ai có trà nóng, nhưng Bhutan tuyệt đối an toàn, ta cứ chờ, sẽ có kỳ tích xuất hiện! Và quả thật chàng trai kia quay lại, mang một bình trà ấm, chia cho ba người uống, rồi niệm Phật, lại mang bình trà đi vào rừng. Chẳng phải ai bảo ai, cả ba người biết đó là hiện thân của Đức Phật! Và điều kỳ diệu xảy ra, tự nhiên Mai cảm thấy phấn khích vô cùng, cô tự đi băng băng xuống núi, như đi trong một giấc mơ êm dịu, không chỉ đi mà còn nói chuyện huyên thuyên không dứt với cả bốn người-vâng, cô đã đuổi kịp cả hai cô hướng dẫn viên đi trước kia và xuống núi an toàn!

Chuyến đi Thiền viện Taktshang Goemba này cả năm người không bao giờ quên, nhất là Mai. Cả ba điều ước của cô đã thành hiện thực: chỉ trong tuần đó người em trai bỏ Trung Quốc về Việt Nam, nay lấy vợ ở hẳn với bố mẹ; trong vòng nửa năm sau người nhà bị bạo bệnh của cô đã tìm ra phương thuốc chữ khỏi hẳn, và cho đến nay bố mẹ cô vẫn khỏe mạnh, an lành! Cô đang thực hiện ước nguyện lớn mà cô đã nguyện trước cửa động Phật: làm từ thiện cho đến cuối đời! Thomas cũng đã thực hiện được điều ước của mình (hóa ra “chàng” ước sẽ được gắn chặt đời mình với cô bé bướng bỉnh này, và nay vợ chồng họ vẫn đang sống với nhau hạnh phúc). “Tiểu Phật” đã xây xong khách sạn của mình ở thủ đô, tất nhiên theo phương án “đẹp” tức là chừa nửa đất lại để trồng hoa, trồng cây...

P.S. Tôi có lẽ cũng không tin được vào câu chuyện cổ tích này, nếu không phải là người quen của hai nhân vật chính và nhiều lần được nghe kể về chuyến đi định mệnh của họ về đất Phật. Và tôi sắp quen được nhân vật thứ ba-“Tiểu Phật”-anh ta sẽ sang Việt Nam sau Tết Ta năm nay. Sangay sang thăm vợ chồng Mai (họ sống và làm việc ở nhiều nước nhưng Tết âm lịch hay đón ở Việt Nam), và khi quay về anh sẽ đưa một đoàn khách du lịch Việt sang Bhutan-nơi chỉ có an bình và yêu thương-và tôi cũng sẽ thực hiện được ước mơ mấy năm nay của mình: tôi cũng sẽ đi theo đoàn đấy, cùng với vợ chồng Mai và một số người bạn nữa, chúng tôi đã hẹn mà chưa đi được. Để xem lần này Thiền viện Taktshang Goemba có mang lại cho tôi điều may mắn nào không...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Đất Phật nơi có thiền viện của Ngài ...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Đức Liên Hoa Sinh

#157 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 04/10/2014 - 12:03

Thái độ sống



Nguyễn Tất Thịnh
Giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia
02:59' PM - Thứ sáu, 03/10/2014

Tôi gửi đến bạn đọc Ba Câu chuyện dưới đây tôi viết ra từ đáy lòng, bởi những gì tôi đã được chứng kiến, đã trải nghiệm. Những câu chuyện, tự nó đã là điều tôi hằng muốn chia sẻ với các Bạn…

Tôi đặt tên cho Ba Câu Chuyện này của mình cái tên chung : THÁI ĐỘ SỐNG

Câu chuyện 1 : Người khách Tây đi du lịch

Một buổi chiều muộn, mưa lạnh lâm thâm, tôi đánh xe rời khỏi cánh cổng Học viện về nhà, tràn dâng trong người sự mệt mỏi. Đi được một đoạn đường ngắn, gần đến Ngã tư khá rộng Nguyễn Chí Thanh – Huỳnh Thúc Kháng…Dòng xe bị kẹt cứng….Sốt ruột vì chờ đợi nhiều người phóng xe máy lên thảm cỏ rất đẹp bên cạnh để cố len lên phía trước…Tất cả lại càng khó lòng có thể nhích lên được…Mọi người nghển cổ nhìn lên phía Ngã tư chỉ cách đó hơn trăm mét : Hai anh Cảnh sát giao thông đã rất cố gắng, lúc đứng, lúc đi ngược xuôi cầm gậy chỉ đường ra hiệu mà không cải thiện thêm được mấy tí…dường như đã oải, hai anh lách đứng trên vỉa hè…

Đám đông người đen kịt trên đường…Bên cạnh tôi nhiều lời tục tĩu đã văng ra vu vơ và với nhau…Lòng tôi thật chán chường…cố gắng nhích từng cm sau từng khoảng thời gian dài…

Bỗng nhìn về phía trước sát Ngã tư, một anh Tây khoảng 30 tuổi, đầu đội mũ bảo hiểm xe đạp đua, trong trang phục quần bò và áo len mỏng, lưng đeo ba lô, đang vác trên đầu chiếc xe đạp địa hình. Anh ta cố tìm cách len ra khỏi đám đông đang kẹt cứng ở đó…Nhiều người bên cạnh tôi nói : giá mà mình khỏe như thằng đó nhỉ, vác xe về nhà cho nhanh…

Anh Tây trẻ đó đã len lên được vỉa hè, chỗ đó rộng hơn và có thể đã tương đối thuận lợi cho anh ta đi tiếp ra khỏi chỗ kẹt tắc này. Nhưng ô kìa…Anh ta dựng chiếc xe đạp vào gốc cây ở vỉa hè, rồi lại cố len lách đến chính giữa Ngã tư…rồi bằng những động tác ngô nghê của người không có nghề, hăng hái tả xung hữu đột, hò hét bằng thứ tiếng nước nào đó…ra hiệu và hướng dẫn cho những người đang kẹt ở xung quanh đó nên đi như thế nào….Ô hay, rất nhanh chóng tình trạng kẹt cứng xung quanh Ngã tư được giải tỏa…Hai anh Cảnh sát xăm xắn trở lại công việc…Và kì lạ hơn…một người đàn ông trung niên bị tâm thần, hàng ngày tôi vẫn gắt gặp lang thang ở các Ngã ba Ngã tư quanh đấy cũng từ đâu xuất hiện ! Họ như cùng nhau hăng hái phối hợp gỡ nút tắc giao thông lúc này….Dòng xe được lưu thoát…

Khi tôi đi ngang qua họ…giơ tay chào như một biểu hiện cảm ơn…Mọi người hối hả lao đi trên con đường đã thông thoáng…Tôi như thấy hết mệt....Nhưng thay vào đó lại trào dâng trong một ý nghĩ: Ngày mai chúng ta, những con người tỉnh táo, chủ nhân thực sự của đất nước này sẽ tháo gỡ các ách tắc trong cuộc sống của mình như thế nào đây???...

Câu chuyện 2 : Ông già trên bãi biển

Được vài ngày nghỉ hè, tôi chọn Sầm Sơn để thư giãn….Tôi đặc biệt thích dậy sớm hơn thường lệ bách bộ ra bãi biển tắm và ngồi một mình trên chiến ghế rộng ngả người, tĩnh lặng trong lòng ngắm nhìn đắm đuối ra Biển khơi… Tôi không có hứng thú quan sát ngó nghiêng bao người đi lại, dong chơi quanh trên bờ biển.

Nhưng đến sáng ngày thứ ba, một người đàn ông luống tuổi, mảnh khảnh nhưng thanh t*o, khoảng trên 60 đi vào trong mắt tôi – hai buổi sáng trước tôi cũng nhìn thưa thoáng thấy mà không hề để ý. Ông đeo một chiếc giỏ mây đi dọc bãi biển mót nhặt từng con ốc nhỏ vương **** không kịp xuống Biển cùng với Thủy triều. Từng lúc sau, như cái giỏ cũng đã lưng lưng, ông mang ra mép nước thả hết chúng xuống…rồi lại như thế cho đến lúc Mặt trời đã hơi cao bóng…Ông ngồi khoanh tay bó gối trên cát hướng ra Biển, vẻ mặt có vẻ thư thái như vừa làm xong được điều gì quan trọng. Sát bên cạnh ông một đám khá đông các thanh niên tuấn tú, có vẻ như sinh viên…ngồi vòng tròn chuyện phiếm vui vẻ.

Một cậu chàng quay lại ông xởi lởi hỏi : này bác già ơi…mấy sáng nay bọn cháu cứ thấy bác làm cái trò gì thế ạ ? À, t*o nhặt những con sò con ốc nhỏ còn sống mang chúng ra Biển, khỏi bị nắng thiêu chết mà uổng cháu ạ – Ông vui trả lời, mắt vẫn nheo hướng ra Biển. Ôi giời…bác có làm mãi thế được không ? Mà rồi bọn sò ốc ấy ra được Biển biết đâu lại chui vào lưới người ta đánh mang ra chợ bán rồi cho thiên hạ xào nấu ăn sống nuốt tươi đó thôi…Cả đám cười tóe lên hưởng ứng câu nói dí dủm của cậu chàng.

Này cháu – Ông ấy hỏi – m*y là sinh viên ư? Đang học gì thế ? Dạ…Cậu chàng kéo dài giọng làm dáng lễ độ, nhưng cợt nhả, trả lời : Bác khí quan tâm nhẩy, cháu đang học đại học Y Hà Lội…

- Thế đời m*y về sau cứu được bao nhiêu người mà phải học Y, nghe nói lâu và vất vả lắm…
- Giời ạ, bác lạ nhỉ, ở đời cứu được một người là quí, thế cứ phải là đi thi Olimpic như Huỳnh Đức mới cần thể dục thể thao chắc? Mà bao nhiêu người tập tành mãi có được huân chương như Huỳnh Đức đâu nhưng vẫn cứ tiếp tục tập đấy thôi?
- Thế đấy cháu ạ! t*o cũng biết không cứu xuể bọn sò ốc vương trên bãi biển, và số phận chúng chẳng sẽ biết như thế nào. Nhưng t*o vẫn làm vì đó là niềm vui sống của t*o, cũng như m*y đang vui học Y đó thôi. Có được một chút niềm vui ấy cũng có tác dụng giống như chúng m*y đang học hay thể thao vậy…
- Ní nuận hay lắm cụ ạ…Cậu chàng thốt lên đùa cợt, nhưng rồi chững lại, giọng chùng xuống, đủ nghe thấy rõ được : này bác ơi… nhưng thật đúng quá…Cậu ta đứng dậy tách khỏi đám bạn bước về phía Ông ấy, ngồi xuống bên cạnh, cùng quay mặt ra phía Biển, không nói gì thêm với nhau nữa…nhưng có vẻ như đôi bạn vong niên thân tình!

Tôi bước ra bờ sóng đang dạt dào, từ từ ra xa và ngửa mặt lên bơi…bơi…ngước nhìn Mặt Trời đã rất cao… Một buổi sáng như nói với tôi về những ngày muôn vàn trong Cuộc sống của mình…

Câu chuyện 3 : Gia đình người bạn tôi

Hai người ấy, họ là vợ chồng bằng tuổi nhau, cùng là bạn học của tôi ngày xưa…thân thiết cho đến bây giờ…
Họ đều là Trí thức, đã trải qua bao khó khăn trong cuộc sống như muôn vàn người cùng thời…chỉ sinh được duy nhất một cô con gái xinh xắn. Chúng bạn tôi thường gọi họ là đôi Uyên Ương, còn họ gọi cô con gái của mình là Họa Mi…Gia đình họ đúng như tên gọi ấy vậy, hạnh phúc và đầm ấm lắm… không chỉ là bây giờ, khi đã có cuộc sống rất đảm bảo…

Cô con gái giỏi giang, càng lớn càng xinh đẹp và nết na….Nơi thành phố thời buổi này, ai biết cũng tấm tắc ca ngợi là quí hóa lắm. Cô con gái tốt nghiệp đại học loại giỏi, ra trường, chủ động xin làm việc tại một Ngân hàng lớn trong thành phố, lương khởi điểm khá cao như ghi nhận của Ban lãnh đạo về sự xuất xắc của cô bé. Cuộc sống tươi đẹp đó trôi qua được hai năm…

…Một hôm cô bé ốm nặng, bố mẹ cho đi khám….Trời Đất ơi!!!…Họ tưởng như chết đứng ngay lúc đó vì mọi chẩn đoán đều khẳng định : Cô con gái duy nhất của họ bọ bệnh ung thư máu! Họ đau khổ tuyệt vọng còn hơn chính mình bị rơi xuống vực thẳm địa ngục ! Nhưng tình yêu thương con vô bờ bến đã khiến họ giữ được sự bình thường mỗi khi đối mặt trò chuyện bên con gái…Cũng không thể dấu con mãi. Cô bé sau khi biết sự thật cũng tuyệt vọng khủng hoảng đến mức không thiết sống thêm ngày nào nữa chỉ để mà phải chờ đợi cái chết đau đớn sắp đến….Biết rằng không có cách nào cứu được con gái thân yêu nữa, Hai vợ chồng đã biến những ngày còn lại ngắn ngủi của con mình thành những ngày, những giờ phút có thể đem đến cho con gái những điều tuyệt vời nhất…Họ đã cùng xin nghỉ việc không lương, thường xuyên bên con gái…nhưng hoàn toàn không phải với vẻ thiểu não đau đớn hoặc với những sự động viên an ủi của người đang khỏe mạnh với người bị trọng bệnh….Mạnh mẽ, vui vẻ, nồng ấm…Họ mang đến giường con gái âm nhạc, tranh vẽ, thơ ca, hoa thơm…như con gái thường yêu thích…cho đến những cảm nhận thú vị về thiên nhiên mỗi ngày…Họ dồn hết tình cảm và khả năng để con gái không còn cảm thấy đang bị bệnh, không thấy phải cần đến bác sĩ bênh cạnh, cho dù mọi điều họ thực hiện chăm sóc bệnh đều theo chỉ dẫn thấu đáo của bác sĩ giỏi….Mỗi ngày là một niềm vui thích bất ngờ đem đến cho con gái…Và có gì có thể làm một người bệnh như thế vui bất ngờ được đây nếu không phải là hai vợ chồng họ toàn tâm và tích cực sống với từng giây, từng li ti suy nghĩ, tâm lí của con mình !? …

Rồi cái chết không đợi cũng đến với con gái họ…phũ phàng!!!

Chúng tôi, những người bạn xưa cùng rất nhiều người khác đến đưa con gái họ về nới an nghỉ cuối cùng…Những vòng hoa, những bó hoa trắng rất nhiều xung quanh huyệt mộ đã được đào sẵn…những thanh niên trai gái cùng học với cô bé ngày xưa dựa vào vai nhau nức nở thương tiếc bạn…Những người lớn chúng tôi đứng quanh đó bao nhiêu người không cầm được những dòng nước mắt cảm thương đau xót….Hai vợ chồng bạn tôi, mặc bộ đồ trắng sang trọng, sát bên nhau, cùng quì xuống bờ đất còn tươi mới đào, nhìn đăm đăm chiếc quan tài trắng đang được phu mộ hạ dần xuống lòng huyệt, trên tay mỗi người một bông hồng trắng….Cả hai đều mỉm cười, ánh mắt long lanh như nắng nhẹ….vẫy bông hoa trên tay, họ cứ nói mãi nhẹ nhàng : Con gái yêu ơi…Con của Cha Mẹ ơi…Họa Mi ơi….Con đi vui nhé…Cha mẹ luôn bên con….Cha mẹ luôn cùng hát với con mỗi ngày…Con gái ơi….

Tôi quì xuống bờ huyệt bên kia, đối diện họ, nghe từng tiếng rõ ràng..nước mắt tuôn rơi không sao kìm được…Cầm bông Hoa Hồng Trắng vẫy chào cháu….

Huyệt mộ đã xong…mọi người nấn ná, như muốn đến bên họ như cùng chia sẻ…nhưng họ vẫn quì bên nấm mộ đã đắp xong…Mọi người cũng dần về hết….Còn tôi ở lại, lặng lẽ đứng mãi sau lưng họ…Đến bây giờ tôi mới hiểu rằng : Cho dù thế nào, hãy sống tốt đẹp với nhau như đây là lần cuối có thể gặp nhau…

Thanked by 2 Members:

#158 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 09/10/2014 - 15:15

Năng lượng mới - Hình xuyến Torus:


Thanked by 1 Member:

#159 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 14/10/2014 - 01:19

Thiền và Thở
BS. Đỗ Hồng Ngọc


Câu hỏi đặt ra là vì sao bệnh viện mở ra ngày càng nhiều mà lúc nào cũng “quá tải”? Vì sao con người bây giờ tiện nghi dồi dào mà đau ốm triền miên? Vì sao bệnh nhiễm gia tăng và bệnh do hành vi lối sống ngày một phát triển trong khi khoa học y học tiến như vũ bão? Rõ ràng sức khỏe không phải là chuyện của y tế. Sức khỏe là chuyện của mỗi người, của mọi người. Đời sống càng tiện nghi, nhu cầu vật chất càng được thõa mãn thì con người càng xa lạ với tự nhiên, với chính mình. Stress chính là nguyên nhân của 60-90% bệnh lý đưa người ta đến bác sĩ. Mà bác sĩ thì chỉ chữa được cái đau chứ không chữa được cái khổ, chữa được cái bệnh, chứ không chữa được cái hoạn.

Thiền có thể góp phần giải quyết căn cơ. Nhưng thiền là gì? Cách nào? Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, một nhà minh triết – Đức Phật- bảo đừng vội tin, cứ đến nếm thử đi rồi biết. Đến và nếm thử. Đến là thực hành. Làm đi, đừng nói nữa. Đừng “hí luận” nữa. Nếm thử là cảm nhận. Phải tự mình cảm nhận, tự mình thể nghiệm để cảm nhận, không thể nhờ ai khác.

Hãy bắt đầu từ việc đơn giản nhất mà cốt lõi nhất: Đó là Thở. Và là Thở bụng. Ô hay, thở phải bằng ngực chứ, phổi nằm ở ngực kia mà? Phổi nằm ở ngực, nhưng thở nằm ở… bụng. Cứ nhìn một em bé đang ngủ say mà xem! Cứ nhìn một người bình thường đang ngủ yên mà xem! Chỉ có cái bụng là phình lên xẹp xuống, còn cái ngực thì… im re. Thật vậy, khi cái ngực mà khò khè, cò cử thì đã bị bệnh rồi. Nói khác đi, cách thở sinh lý, thở thiên nhiên, thở bình thường nhất chính là thở bụng. Người khỏe thì luôn thở bụng nên thở bụng làm cho ta khỏe. “Bí quyết” nằm ở chỗ đơn giản nhất đó. Các phương pháp khí công, dưỡng sinh, yoga, thiền… đều bắt đầu bằng tập thở bụng. Tại sao phải tập? Bởi không biết tự lúc nào con người lại xa rời cái nguồn gốc tự nhiên của mình, bày ra thở ngực, cũng như thay vì ăn những thức ăn lành mạnh sẵn có trong thiên nhiên thì bày đặt chế biến đủ kiểu cho nó hư đi! Do vậy, thở phải được rèn tập trở lại. Về sinh lý, cơ hô hấp chính của ta là cơ hoành, cơ vắt ngang giữa bụng và ngực chớ không phải cơ gian sườn hay cơ cổ. Khi các cơ gian sườn, cơ cổ mà ráng sức phì phò thì đã bệnh rồi!

Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là THỞ. Kinh viết “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn…”. Tóm lại, là luôn quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở. Chỉ có vậy. Nhưng khi đọc câu “Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra…” có thể gây nhầm lẫn, bởi ai mà chả biết thở cơ chứ! Thế nhưng ở đây không phải là biết thở, mà là nhận thức được (recognize), ý thức rõ (realize), cảm nhận được (perceive) cái sự thở, cái hơi thở đang đi vào và đang đi ra kia kìa. Đó mới là điều cốt lõi! Nhận thức, ý thức, cảm nhận, ấy chính là niệm (nhớ), là quán ( quan sát, suy tưởng) về sự thở, về hơi thở. Nhờ đó mà một mặt, ta giải thoát tâm ta khỏi những vướng mắc lăng xăng, một mặt ta nhận ra ý nghĩa cuộc sống và từ đó, buông bỏ bao nỗi lo toan, sợ hãi của kiếp nhân sinh để có cuộc sống có sức khỏe và hạnh phúc.

Câu hỏi đặt ra là tại sao quán sát hơi thở? Quán sát hơi thở thì có gì hay? Sao lại không chọn các đối tượng khác để quán sát? Thật ra thì quán sát cái gì cũng được cả, bởi tất cả đều là pháp- nhứt thiết pháp giai thị Phật pháp- nhưng quán sát hơi thở thì có điều kiện để thấy “ngũ uẩn giai không” hơn, tức thấy vô ngã hơn. Vô ngã ở đây không còn là một ý niệm, một khái niệm mà là một trạng thái. Để thấy “vô ngã” thì tốt nhất là quán sát từ “ngã”, từ hơi thở là tốt nhất, một đối tượng sẵn có ngay trong bản thân mình. Tim đập cũng lúc nhanh lúc chậm, nhưng khó theo dõi, hoàn toàn ngoài ý muốn, khó can thiệp. Dạ dày thì làm vịệc âm thầm, khó quan sát. Các bộ phận khác cũng vậy. Trừ hơi thở! Hơi thở dễ quan sát nhất vì nó nằm ngay trước mũi mình, ngay dưới mắt mình! Lúc nào cũng phải thở. Ở đâu cũng phải thở. Cái hay nữa là quán sát nó thì không ai nhìn thấy, chỉ riêng ta biết với ta thôi! Mỗi phút lại phải thở cả chục lần. Lúc mau lúc chậm, lúc ngắn lúc dài, lúc phì phò lúc êm dịu. Hơi thở lại rất nhạy với cảm xúc. Trước một cảnh đẹp, ta “nín thở”. Lúc lo âu, ta hổn hển. Lúc sảng khoái ta lâng lâng. Lúc sợ hãi, hồi hộp ta thở nhiều kiểu khác nhau, muôn hình vạn trạng. Và nhờ đó mà thấy vô thường. Nhờ đó mà ta quán sát được cái tâm ta. Thở cũng gắn với các hoạt động cơ bắp. Khi mệt, ta mệt “bỡ hơi tai”, mệt đứt hơi, mệt hết hơi; khi khỏe, ta thở nhẹ nhàng sảng khoái! Nhờ đó mà ta quán sát được cái thân ta. Rõ ràng chỉ có hơi thở mới là một sợi dây nhạy cảm buộc vào thân vào tâm, là cái cầu nối giữa thân và tâm. Không chỉ thế, thở còn vừa là ý thức, vừa là vô thức. Như không cần ta. Như ở ngoài ta. Như không có ta. Quan sát thở, ta còn có dịp đào sâu xuống…vô thức. Ta thấy thở gắn với sự sống chết của kiếp người. Còn sống là còn thở, chết là hết thở, là tắt thở, là ngừng thở. Để ý một chút ta sẽ thấy đời người thực ra chỉ là… một hơi thở! Khi chào đời em bé khóc thét lên một tiếng thật to để hít mạnh không khí vào phổi để rồi khi lìa đời, cụ già lại thở hắt ra một cái, trả lại cho đời tất cả những gì mình đã vay mượn! Giữa hai lần thở vào thở ra đó là những đợt thở… lăn tăn như những làn sóng nhỏ, mà nối kết các làn sóng nhỏ lăn tăn đó lại với nhau ta có cuộc rong chơi trong cõi “Ta bà”! Mỗi hơi thở vào ra trung bình khoảng 5-10 giây. Mỗi giây, trong cơ thể con người đã có hằng trăm triệu tế bào hồng cầu bị hủy diệt và hằng trăm triệu hồng cầu khác được sản sinh. Quán sát hơi thở do đó ta thấy đựơc sự sinh diệt.

Thở có thể làm chuyển biến tâm trạng ta, chuyển hóa cảm xúc ta, cả hành vi ta nữa. Đang sôi giận mà kịp nhớ lại, quán sát sự thở của mình thấy nó phập phều kỳ cục, tức cười, bèn quên giận mà hơi thở được điều hoà trở lại lúc nào không hay: điểm hưng phấn trên vỏ não đã bị dịch chuyển! Nói khác đi, ta có thể dùng cách quán sát hơi thở để tự kiểm sóat cảm xúc và hành vi của mình. Quán sát hơi thở cũng lôi kéo ta trở về hiện tại tức khắc- không còn đắm mình trong dĩ vãng hay tương lai. Bởi vì thở là thở trong hiện tại. Ở đây và bây giờ.

Giận dữ , lo âu, sợ hãi tiêu tốn rất nhiều năng lượng. Cho nên những lúc đó ta dễ cảm thấy kiệt sức! Ngủ là một cách giảm tiêu hao năng lượng, nhưng vẫn còn co cơ, vẫn còn chiêm bao. Một đêm ác mộng sẽ thấy bải hoải toàn thân khi thức giấc!Thiền giúp tiết giảm tiêu thụ năng lượng một cách đáng kể, còn hơn cả giấc ngủ. Một khi cơ thể giảm tiêu thụ năng lượng thì các tế bào được nghỉ ngơi, nên toàn thân cảm thấy thấy nhẹ nhàng sảng khoái. Trạng thái nhẹ nhàng sảng khóai đó xảy ra trên từng tế bào của cơ thể. Một cảm giác lâng lâng dễ chịu toàn thân của hành giả, phải chăng đó chính là trạng thái hỷ lạc (thiền duyệt?).

Phổi ta như một cái máy bơm, “phình xẹp” để đưa khí vào ra là nhờ có áp suất thay đổi. Khi áp suất âm trong phổi và các phế nang thì khí bên ngoài tự động lùa vào, tuôn vào, lấp đầy phổi và các phế nang, cho đến một lúc lượng khí bên trong đầy dần lên thì chuyển sang áp suất dương, phổi sẽ đẩy khí ra. Có một thời điểm áp suất cân bằng nhau, hay nói cách khác, áp suất bằng không (0=zéro), thì khí bên trong cơ thể và bên ngoài vũ trụ chan hòa thành một, không phân biệt. Đó chính là quãng lặng. Quãng lặng đó ở cuối thì thở ra – trước khi thở vào trở lại – thường kéo dài, thong dong, nhẹ nhàng, yên tịnh, vì không hề tốn năng lượng. Như chim lượn bay, không phải vỗ cánh, như xe ngon trớn chạy ở số không, không tốn nhiên liệu! Đó chính là giai đoạn “Prana”. Pra có nghĩa là trước và Ana là thở vào ( trước thì thở vào cũng có nghĩa là sau thì thở ra). Prana đã được biết đến từ xa xưa. Yoga, khí công, cũng như y học Đông phương nói chung đã nói đến Prana từ thời cổ đại. Trong yoga có “pranayama” là kiểm soát hơi thở. Trong thiền định, không còn phải là vấn đề kiểm soát hơi thở nữa mà hơi thở sẽ tự kiểm soát! Đến một lúc nào đó, khi vào sâu trong thiền định, hành giả sẽ không cảm nhận mình thở nữa. Hơi thở nhẹ gần như ngưng bặt. An tịnh. Hòa tan. Tan biến. Có thể nói đến một phương pháp thiền tập- tạm gọi là “Pranasati” chăng?- tức đặt “niệm” vào quãng lặng, và thực chất cũng không còn cả niệm, một sự “vô niệm” hoàn toàn chăng? Những hành giả giàu kinh nghiệm (thiện xảo) cho biết có thể vào định ngay hơi thở đầu tiên có lẽ nhờ rèn tập mà khoảng lặng ngày càng dài ra, mênh mông ra như không còn biên giới, như hòa tan vào hư không, lắng đọng, thanh thoát. Lúc đó không còn ý niệm về không gian, thời gian, về ta, về người… Tiến trình hô hấp vẫn diễn ra, sâu trong các tế bào, nhưng ở mức thấp nhất, nhẹ nhàng nhất, tiêu thụ năng lượng tối thiểu và do vậy nhu cầu sản xuất năng lượng không còn đòi hỏi nữa, các tế bào ở trong trạng thái hoàn toàn tĩnh lặng, “nghỉ ngơi”!

Khi nói đến thiền, ta thường nghĩ ngay đến ngồi: ngồi thiền. Rồi nào kiết già, bán già, hết sức phức tạp và bí hiểm như chỉ dành riêng cho một giới nào đó. Thiền thực ra không nhất thiết phải ngồi, không nhất thiết phải kiết già, bán già. Đi đứng nằm ngồi gì cũng thiền được. Người Nhật, người Tây Tạng có cách “ngồi” thiền riêng của họ, người Tây phương có cách khác hơn, miễn sao có một tư thế thoải mái, dễ chịu là được. Thế nhưng cách ngồi tréo chân (kiết già, bán già) lại có lợi ích hơn cả. Tại sao? Tại vì khi ta đứng, ta đi, các bắp cơ phía trước của hai chân phải co lại để nâng đỡ cả thân mình, trong khi các bắp cơ phía sau thì duỗi ra. Lúc ngồi tréo chân ta đã làm cho hoạt động các bắp cơ đổi chiều. Đây là phương pháp “đối chứng trị liệu”. Khi đi bộ lâu, mỏi chân, ta ngồi xuống, xếp bằng và hít thở một lúc sẽ thấy hai chân bớt mỏi rất nhanh. Cơ nào đã duỗi lâu thì được co lại, cơ nào đã co lâu thì được duỗi ra! Thiền hay yoga do vậy khai thác kỹ thuật này để trị liệu rất có hiệu quả sự mỏi mệt, không kể ngồi theo cách này cũng giúp làm giảm sự tiêu thụ oxy đáng kể!

Giữ lưng thẳng đứng cũng là một yêu cầu vô cùng quan trọng trong thiền. Ta dễ có khuynh hướng chiều theo độ cong tự nhiên của cột sống dưới sức nặng của thân thể do trọng lực- và nhất là do tuổi tác- dễ dẫn đến cong vẹo cột sống hoặc đau cột sống cổ, đau thắt lưng. Ở tuổi trung niên nhiều người đã bị những cơn đau dữ dội đến phát khóc. Đó là những cơn đau cấp tính, nếu nghỉ ngơi hoàn toàn và uống thuốc theo toa bác sĩ chừng mươi ngày sẽ khỏi, nhưng không khỏi hẳn, dễ tái phát do tư thế chưa được điều chỉnh. Bởi nguồn gốc sâu xa hơn của đau cột sống, đau thắt lưng lại là do stress, nếp sống căng thẳng phải chịu đựng, dồn nén lâu ngày. Cơn đau là tiếng chuông báo động để ta “tỉnh ngộ”! Một người cúi gầm suốt ngày trước máy vi tính hay tivi thì sớm muộn cũng bị những hội chứng về cột sống. Một người đi chùa lạy Phật mà tư thế không đúng thì lâu ngày cũng bị đau cột sống như vậy! Nhất là khi đã có tuổi, cột sống có khuynh hướng cứng lại, mất đàn hồi, các lớp sụn độn giữa hai đốt sống dễ bị bẹp, có khi “xì” ra một bên, chèn ép gây đau. Do vậy, giữ lưng thẳng đứng trong lúc ngồi thiền là điều cần thiết. Kết hợp với tập thể dụng bụng, có nghĩa là tập cho thắt lưng được dẻo dai, cũng sẽ làm chậm tiến trình lão hóa.

Trong thiền, một yếu tố rất quyết định nữa là sự thả lỏng toàn thân,“buông xả” toàn thân, mà có người ví như thả trôi theo dòng nước. Thả lỏng toàn thân là cách làm cho toàn thân như rủ xuống, xẹp xuống, bình bồng, không còn căng cứng nữa! Có thể nói cơ thể ta như chỉ gồm có hai thành phần: “thân xác” và “thân hơi”. Thả lỏng là “xì” cho xẹp cái thân hơi đó- mà tiếng Việt ta có một từ rất hay là “xả hơi”! Khi quá mệt, quá căng thẳng thì ta cần “xả hơi”! Khi đó, không một bộ phận nào của cơ thể còn phải căng nữa, phải gồng nữa, kể cả vỏ não. Tiêu hao năng lượng cho trương lực cơ ( tonus musculaire) và hoạt động của vỏ não sẽ giảm thấp nhất có thể được. Y học chứng minh tiêu hao năng lượng trong thiền rất thấp, dưới mức chuyển hóa cơ bản, thấp hơn cả khi ngủ, nhờ vậy mà năng lượng được tích lũy tốt hơn, giúp chữa nhiều thứ bệnh hoạn một cách hiệu quả.

Cơ thể ta có khoảng trăm ngàn tỷ tế bào. Mỗi tế bào thực chất là một “sinh vật” háo ăn, háo làm, háo tiêu thụ oxy ( để kết hợp với thức ăn qua những phản ứng gọi là oxyt-hóa) nhằm tạo ra năng lượng cho cơ thể hoạt động. Nhưng oxyt-hóa càng mạnh thì càng tạo thêm các gốc tự do và các chất… bã, làm cho cơ thể mau mệt mỏi, mau già nua! Giống như một thanh sắt để ngoài nắng gió một thời gian sẽ bị oxyt-hóa thành rỉ sét ngay. Khi cơ thể có cách nào làm giảm tiêu thụ năng lượng không cần thiết thì các tế bào cũng sẽ được nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng.

Khi cơ thể đã chùng xuống, đã giãn cơ, tức giảm tiêu hao năng lượng một cách đáng kể rồi thì cũng sẽ thấy bớt cần thiết phải cung cấp các dưỡng chất qua thức ăn (bột, đạm, dầu mỡ)… vốn là nguồn tạo năng lượng! Ăn ít mà vẫn đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng thì cơ thể đỡ vất vả, các tế bào đỡ hùng hục làm việc, tinh thần sẽ sảng khoái. Các nghiên cứu trên sinh vật bị cho nhịn đói vừa phải thấy sống lâu hơn và trẻ lâu hơn!

Các nghiên cứu y sinh học cho thấy các nhà sư có thể làm giảm nhu cầu oxygen đến 40% trong lúc thiền. Lúc đầu các nhà khoa học nghĩ thiền chắc cũng giống như ngủ hay nghỉ ngơi tích cực, nhưng thật ra khác hẳn! Thiền khoảng 30-40 phút thì mức lactate trong động mạch giảm, phenylalanine tăng 20%, giảm các họat động hệ giao cảm trên bề mặt da, giảm nhịp tim và hô hấp đáng kể.

Cortisol và ACTH cũng giảm, do đó, không bị stress; trong khi Arginine và Vasopressin, được coi là có vai trò trong học tập và trí nhớ gia tăng đáng kể. Nhiều nghiên cứu ngày càng sâu hơn về beta-endorphin, corticotropin, melatonin, DHEA… hứa hẹn giải thích cơ chế tác dụng của thiền trên nhiều mặt… trong tương lai.

Những năm gần đây, nhờ có các phương tiện như PET (positron emission tomography) hay SPECT (single photon emission tomography) và fMRI (functional magnetic resonance imaging) để đo hoạt động tưới máu não, cho thấy một số vùng được tưới nhiều hơn vùng khác, chứng minh thiền khác với giấc ngủ, mà đó là một trạng thái tỉnh giác an tịnh (state of restful alertness). Kỹ thuật fMRI cho thấy hoạt động tưới máu não gia tăng ở vùng liên quan đến sự chú ý (vùng lateral prefrontal và parietal), cũng như gia tăng ở vùng kiểm soát tự động, tỉnh thức (pregenual anterior angulate, amygdala, midbrain và hypothalamus). Nhưng nói chung, tưới máu não trong thời gian thiền rõ ràng là giảm một cách đáng kể, chỉ tập trung vào một số vùng nhất định như đã nêu trên. Điều này cho thấy thiền giả không tiêu hao nhiều năng lựơng cho các hoạt động vỏ não.

Các nghiên cứu về sinh lý học trong thiền vẫn còn đang tiếp tục nhưng rõ ràng thiền có khả năng làm giảm stress, giảm huyết áp và tạo sự sảng khoái, là yếu tố của sức khỏe, của chất lượng cuộc sống. Thiền ngày càng trở nên một kỹ thuật trị liệu hiệu quả trong y sinh học, nhất là lĩnh vực tâm lý trị liệu, nên đã có nhiều ứng dụng thực tiễn trong y khoa.

Nghiên cứu về lâm sàng cho thấy thiền giúp giảm thời gian nằm viện của bệnh nhân, giảm lo âu, trầm cảm, giảm 50% các triệu chứng tâm thần nói chung. Người hành thiền hơn 5 năm có tuổi già sinh lý trẻ hơn 12 năm so với người cùng tuổi, dựa trên 3 yếu tố là huyết áp, khả năng điều tiết nhìn gần của thị giác và khả năng phân biệt của thính giác. Học sinh cấp 2 có thực tập thiền trên 2 tháng, có kết quả học tập tốt hơn, có khả năng tập trung, thói quen làm việc, cải thiện hành vi (giảm xung đột, hung hăng), tự tin hơn, có khả năng hợp tác và quan hệ tốt hơn với người khác. Thiền giúp làm giảm cân, giảm béo phì, giảm nghiện thuốc lá, rượu, các chất ma túy nói chung.

Bầu khí quyển chúng ta thở hôm nay so với cách đây 700 triệu năm – tức là khi có những sinh vật đơn bào đầu tiên trên trái đất- thì cũng chẳng khác biệt! Với người anh em đơn bào đó thì ta cũng đang cùng hút chung một bầu khí, cùng bú chung một “núm vú” vũ trụ, cùng với muôn loài khác nữa! Các sinh vật cùng chia sẻ một cách…bình đẳng, không phân biệt và theo nhu cầu như vậy. Ta hút lấy oxy của không khí, lại tạo ra carbonic; trong khi cây cỏ hút carbonic lại tạo ra oxy. Con thằn lằn, con tắc kè, con ễnh ương… cũng phình ra xẹp vào như ta vậy. Bầu khí quyển vẫn không thay đổi, không thêm bớt. Nhưng chính con người có thể làm hại môi trường sống của mình mà không hay nếu cứ theo đà hủy diệt sự sống của thiên nhiên và muôn loài trên hành tinh xanh này!

Hãy nương tựa chính mình. Bởi nói cho cùng, ai có thể “thở” giùm ai? Ai có thể “thiền” giùm ai?

Đỗ Hồng Ngọc(Tủ sách Phật học TỪ QUANG, Chùa Xá Lợi, Tập 1-2012)

Sửa bởi pth77: 14/10/2014 - 01:22


#160 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 14/10/2014 - 01:39

Vẻ đẹp Tâm Thiện và khai phát Tâm Năng
Nguyễn Tất Thịnh
05:59' PM - Thứ bảy, 11/10/2014


Bàn về chữ Tâm

Tôi tạm hiểu : Với mỗi người, bản chất Ngũ hành của Tâm là :
- Cách thể hiện từ trong Bản Tính
- Cách suy nghĩ từ trong Bản Thức
- Cách cư xử từ trong Bản Năng
- Cách dẫn dắt từ trong Bản Thể
- Cách mưu cầu từ trong Bản Vị


Vì thế, với tất cả sự quan sát và trải nghiệm của mình, tôi nhận ra rằng :

1. Tâm vô ưu , Đầu mới nghĩ được xa. Nếu không, bói toán rối bời
2. Tâm rộng mở, mới thấy được bao la. Nếu không, tù túng hẹp hòi
3. Tâm có thành, mới làm lòng người thuận. Nếu không, bè phái xung khắc
4. Tâm có tĩnh, mới nghe tỏ được ý Đời động. Nếu không, hóng hớt bấn loạn
5. Tâm nhân ái, mới có thể bao dung. Nếu không, oán báo trùng lai
6. Tâm tỏa sáng, mới đi qua được u tối. Nếu không, hắc ám bịt bùng bủa vây
7. Tâm căn thiện, mới giữ được mọi sự lành. Nếu không, bất lường ác báo
8. Tâm thuần khiết, mới cảm thụ được luật Trời. Nếu không, hành sa nghịch cảnh
9. Tâm có Trí, mới đạt được ngộ năng. Nếu không, ảo tưởng mê muội
10. Tâm hướng Thượng, mới đắc Đạo Đời. Nếu không, phù phiếm sa đọa


Trong bài ngắn này, tôi muốn nói rằng : Có Ba Loại vẻ đẹp chính yếu của mỗi người :

- Vẻ đẹp Hình thức ( Trời phú / Trang phục / Phong cách ) --> Cần trang điểm hàng ngày
- Vẻ đẹp Thể chất ( Thể tạng / Sức sống / Tinh thần ) --> Cần rèn luyện hàng ngày
- Vẻ đẹp Lương Thiện ( Anh minh / Lịch duyệt / Nhân ái ). --> Cần tu thân hàng ngày.


Cốt gốc của vẻ đẹp thứ ba : Lương Thiện là Tâm của người đó như thế nào. Bạn đã gặp những người dù nhiều tuổi mà họ rất đẹp không ? Bạn có thấy một quan chức to nào mà đầy cảm giác về sự bất lương chưa ? Đã chứng kiến kẻ trọc phú đáng khinh khi thương hại đến như thế nào chưa ?..Chúng ta đi trong Cuộc đời mới càng thấu hiểu : Vẻ đẹp của Ai đó do có được Tâm Thiện là vẻ đẹp tối cao, thuyết phục nhất khiến mọi người khác có thể cảm và thấy được cả về hình thức và nội dung...chứ không phải là tuổi trẻ hay chức vụ hay giàu có…

Để rèn luyện Tâm Thiện, Cao nhân học cách khai mở Tâm năng. Vì Tâm thiện không phải là mong ước, hay cố trong ý nghĩ nhất thời mà có được. Bởi thế rất nhiều người hiểu, có quan niệm đúng và hay về Tâm Thiện nhưng không thực hành được. Tâm Thiện và Tâm năng thì thực hành được Cuộc sống An lạc.

Năm điều cơ bản rèn luyện Tâm năng hướng tạo Tâm Thiện :

- Thu nạp Năng Lượng của Vũ Trụ vào Tâm căn --> Bản Thể
- Thu nạp Tinh Thần của Thượng Đế vào Tâm căn --> Bản Thức
- Thu nap Tính Đạo của Chúa Trời vào Tâm căn --> Bản Tính
- Thu nạp Tính Đức của Phật Tổ vào Tâm căn --> Bản Vị
- Thu nạp Hoạt Sinh của Thái Dương vào Tâm căn --> Bản Năng


Những Danh từ ở trên ( Vũ trụ , Thượng đế....) là những khái niệm quy ước mang ý nghĩa phổ quát và mặc định, vĩ đại và tuyệt đối. Ví dụ:
- Vũ Trụ: phổ quát và mặc định là chứa đựng nguồn năng lượng vĩ đại nhất, lớn lao nhất
- Thượng Đế : phổ quát và mặc định chứa đựng nguồn tinh thần ví đại, lớn lao nhất
- Chúa Trời : phổ quát và mặc định sự chỉ dẫn các quy luật vĩ đại, lớn lao nhất
- Đức Phật : phổ quát và mặc định khả năng cân bằng vĩ đại , lớn lao nhất
- Thái Dương : phổ quát và mặc định dòng chuyển hóa vĩ đại, lớn lao nhất


Với cách định nghĩa như vậy thì cách ai đó cho rằng : làm gì có Thượng Đế hay Chúa Trời...? Sẽ là biến những khái niệm tuyệt vời, tuyệt đối đó gán với 'con người trần mắt thịt ' mất rồi. Ngay cả Phật Tổ rõ ràng là 'Có' , mà ban đầu là Tất Đạt Đa...nhưng sau này chuyển hóa thành khái niệm Đức ( quy tắc tu rèn ). Còn là thực 'Có' hay 'Không' tùy vào năng lực chứng ngộ của Bạn thôi. ( Trong Kinh Dịch có vô vàn những khái niệm quy ước, nhưng lại không có ý nghĩa phổ quát, lý giải tùy tiện, xê dịch mù mờ... vì Kinh Dịch phương Đông dựa vào các 'bộ Sao' không 'hữu Thực' như Chiêm Tinh phương Tây, nên cách bói toán dựa vào 'khoa ăn nói' của các thày bói ).

Khi Tâm đã Thiện, lại học cách Thiền định / Khí công để tập trung quán tưởng, cùng với lưu hoạt Luân xa thể chất, người ta dần ngộ ra những khái niệm nói trên là gì, dần tạo nên khả năng chuyển hóa thực những ý nghĩa đó vào chính Tâm căn của con người mà sinh ra Tâm Thiện và Tâm Năng.

Bạn nên biết ý nghĩ tập trung liên tưởng cao độ ( quán tưởng ) có năng lực siêu nhiên ( năng lượng + khả năng ), hoạt động theo nguyên lý Trường 'Tooc xin'. Cho nên điều kỳ diệu tôi nói trên là hoàn toàn có thể !
Bằng cách như thế, sẽ dẫn đến sự chuyển hóa sau ( gắn với 5 thuộc tính của sức mạnh của một con người (Sinh / Thần / Khí / Chí / Hoạt ) mà khi Tâm năng được khai phát sẽ đạt được toàn dụng và hài hòa :

- Thu nạp Năng Lượng của Vũ Trụ vào Tâm căn -> Bản Thể -> Sinh ( Nguyên )
- Thu nạp Tinh Thần của Thượng Đế vào Tâm căn --> Bản Thức -> Thần ( Thái )
- Thu nạp Tính Đạo của Chúa Trời vào Tâm căn -> Bản Tính -> Chí ( Huệ )
- Thu nạp Tính Đức của Phật Tổ vào Tâm căn -> Bản Vị -> Khí ( Thiện )
- Thu nạp Hoạt Sinh của Thái Dương vào Tâm căn -> Bản Năng -> Năng ( Nhiệt )

Như thế chúng ta biết được tại sao những Cao tăng thành Thiện lại đẹp đẽ và có sức khỏe như vậy. Và Đức Chúa Trời, Đức Phật Tổ trở thành không có tuổi. Bởi vậy đi theo dòng thời gian, thấy hân hoan mỗi mùa Xuân trở lại vì phát hiên thêm ở mình ở Đời một vẻ đẹp mới mà trước kia chưa từng thấy, bởi thế không tiếc nuối thời Xuân thì. Có người mà xuất hiện ở đâu nơi đó hân hoan, cất tiếng nói thì lời đẹp ý hay, nụ cười thì như bình minh rạng rỡ...đem đến cho người khác niềm sống, lạc quan, sự tin tưởng tương lai, cảm xúc hạnh phúc hiện tại... Vì họ đẹp bởi Tâm Thiện và sức mạnh Tâm năng... lan tỏa vào đời sống và người khác !

Tôi cũng có gặp, hay nhìn qua những hoàn cảnh khác nhau một số quan chức, tôi mong sao họ nhận ra mà tu rèn được dần như thế...

Sửa bởi pth77: 14/10/2014 - 01:43


Thanked by 1 Member:

#161 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 17/10/2014 - 11:03

Đọc và suy ngẫm về 108 lời khuyên của Đức Đạt Lai Lạt Ma
Đăng ngày Thứ năm, 21 Tháng 8 2014 09:15

Tư tưởng Đạt Lai Lạt Ma có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muông thú và tàn phá thiên nhiên.

Dưới đây là 108 lời khuyên được chọn lọc qua các tác phẩm và phát ngôn của người lãnh đạo tinh thần Phật giáo Tây Tạng.

1. Mỗi khi cảm thấy hoang mang và mất tự tin thì hãy nghĩ ngay đến các phẩm năng tuyệt vời của con người mà mình đang có, các phẩm năng ấy của quý vị chỉ mong sao được nẩy nở thêm. Vậy hãy giữ lòng hân hoan nhìn vào kho tàng quý giá đó đang được cất dấu bên trong nội tâm của quý vị: Hân hoan là một sức mạnh, vì vậy quý vị hãy phát huy nó.
2. Điều cốt yếu có thể mang lại hạnh phúc cho quý vị chính là biết hài lòng với những gì đang là chính mình trong những giây phút hiện tại. Sự toại nguyện bên trong nội tâm đó sẽ biến cải cảm quan của quý vị khi phóng nhìn vào vạn vật chung quanh, và nhất định quý vị sẽ tìm thấy sự an bình trong tâm thức.
3. Khi có kẻ gây ra tổn thương cho mình thì không nên do dự một chút nào cả, hãy tha thứ cho họ. Lý do là vì nếu nghĩ đến những gì đã thúc đẩy họ hành động như vậy thì quý vị tất sẽ thấy rằng đấy chính là những thứ khổ đau mà họ đang phải gánh chịu, chứ không phải là do họ quyết tâm và cố tình làm tổn thương và gây tai hại cho quý vị. Tha thứ là một cách xử sự tích cực dựa vào sự suy nghĩ, chứ không hề là một việc bỏ qua cho xong chuyện. Tha thứ là một hành động ý thức, căn cứ trên sự hiểu biết và chấp nhận thực trạng của những tình huống xảy ra với mình.
4. Hãy bố thí cho kẻ khác mà không mong đợi một sự hồi đáp nào và cũng không tính toán gì cả. Không vì mong muốn tìm sự thích thú mà bố thí hay là để người khác yêu quý mình, thì như thế mới đúng thật là một hành động bố thí mang lại niềm hạnh phúc cho mình. Đạo đức chính là những gì căn cứ trên lòng quyết tâm giúp đỡ kẻ khác. Điều duy nhất có thể mang tất cả chúng sinh có giác cảm đến gần với nhau chính là tình Thương Yêu.
5. Hãy cám ơn kẻ thù của quý vị vì họ là những vị thầy quan trọng nhất của mình. Họ tập cho quý vị đương đầu với khổ đau và phát huy sự nhẫn nhục, sự bao dung và lòng từ bi. Họ không chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào.
6. Trang sức đẹp nhất mà quý vị đang có chính là tình thương yêu và lòng từ bi. Nếu quý vị tìm hiểu những gì có thể giúp mình đạt được hạnh phúc và mang lại an vui, thì quý vị tất sẽ phải nhận thấy trước hết là chúng liên quan chặt chẽ với các phẩm tính con người mà quý vị đang cố gắng trau dồi trong tâm hồn quý vị, và sau đó là cách suy nghĩ của tâm thức quý vị.
7. Không thể thực hiện được sự giải trừ vũ khí bên ngoài, nếu không có sự giải trừ vũ khí từ trong nội tâm mình. Bạo lực làm phát sinh ra bạo lực. Chỉ có sự an bình trong tâm thức mới có thể mang lại một cuộc sống thanh thản và phi-đối-nghịch. Sự giải trừ vũ khí toàn cầu là một trong những giấc mơ tha thiết nhất của tôi. Thế nhưng đấy cũng chỉ là một giấc mơ mà thôi. . .
8. Khổ đau trong tâm thần và về mặt tình cảm mà quý vị đang gánh chịu cũng tương tư như một người chỉ dẫn giúp quý vị trông thấy thái độ của mình là đúng hay sai. Tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời mà mình đang sống sẽ giúp lòng mình lắng xuống, hoặc giúp mình vượt lên trên những nỗi khổ đau đang gánh chịu, điều ấy có nghĩa là phải biến cải sự suy nghĩ trong tâm thức mình.
9. Hãy hân hoan trước hạnh phúc của kẻ khác, bởi vì đấy cũng là một dịp để mình tạo ra những phút giây vui sướng cho riêng mình. Hãy hân hoan khi chính mình được hạnh phúc, bởi vì thương yêu kẻ khác chỉ có thể thực hiện được bằng cách không nghĩ đến niềm yêu thương của chính mình. Thương yêu kẻ khác sẽ giúp quý vị phát huy được sự vững tâm và lòng tin tưởng. Phương cách mà quý vị cảm nhận về các cảnh huống xảy ra trong sự hiện hữu của mình sẽ đưa đến các thể dạng hoặc trung hòa, hạnh phúc hay khổ đau mà quý vị cảm nhận được trong cuộc sống của mình.
10. Tình yêu thương và lòng từ bi sẽ làm tan biến nỗi sợ hãi phát sinh từ cảm nhận cho rằng sự sống của mình chỉ là một sự áp đặt mà mình không có quyền lựa chọn. Một khi các xúc cảm tích cực ấy hiển lộ trong nội tâm mình thì sự tự tin cũng sẽ hiển hiện và mọi nỗi sợ hãi sẽ tan biến hết. Chính tâm thức mình đã tạo ra cái thế giới mà mình đang sống.
11. Tập khắc phục tâm thức là cách giúp mình sống hài hòa với chính mình và kẻ khác, dù là mình đang phải đối phó với bất cứ một cảnh huống nào. Không có một điều gì hay bất cứ ai có thể làm cho một người nào đó cảm thấy bất hạnh, nếu người này có một tâm thức minh mẫn đã loại bỏ được những xúc cảm phát sinh từ những xúc cảm đối nghịch.
12. Không thể nào tìm thấy được hạnh phúc nếu chúng ta không nhìn vào hiện thực mà chỉ biết đuổi theo ảo giác. Hiện thực không tốt đẹp cũng chẳng xấu xa gì cả. Vạn vật là như thế, không thể nào đúng với ý mình mong muốn là phải như thế. Quán thấy và chấp nhận điều ấy chính là một trong những chiếc chìa khoá mang lại hạnh phúc.
13. Phật Giáo dạy rằng những giây phút trước khi lìa đời thật hệ trọng, bởi vì đấy là dịp may cuối cùng giúp mình chuẩn bị cho sự hiện hữu của mình trong giai đoạn trung ấm (bardo) - tức là thế giới chuyển tiếp giữa cái chết và sự tái sinh - khởi sự hiện ra sau hơi thở cuối cùng. Nếu muốn được sống với một tâm thức an bình trong những giây phút cuối cùng ấy, thì người tu tập phải chuẩn bị suốt cả đời mình, và ngay trong những giây phút cuối cùng ấy phải tập trung tâm thức hướng vào một cảm tính nhân từ thật sâu xa, hoặc hướng vào mối dây tình cảm giữa người thầy và môn đệ, hoặc là vào Tánh Không và Vô Thường, hầu giúp mình tái sinh trong một hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Những giây phút trước khi lâm chung thật hết sức quan trọng vì đấy là lúc mà chúng ta có thể chủ động được thể dạng mà mình sẽ tái sinh.
Khi đã hiểu được cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào thì chúng ta nên hiểu rằng mình phải sống một cách thật trọn vẹn trong từng giây phút một, và chết trong an bình.
14. Các sự giận dữ, hận thù, ghét bỏ luôn phải cần đến một đối tượng để bộc phát, tương tự như lửa cần phải có củi khô để bốc cháy. Mỗi khi gặp phải nghịch cảnh, hoặc có kẻ khiêu khích mình hay làm hại mình, thì quý vị hãy tận dụng sức mạnh của phẩm tính nhẫn nhục để giúp mình không rơi vào sự chi phối của các thứ xúc cảm tiêu cực. Nhẫn nhục phát sinh từ khả năng chịu đựng không lay chuyển của mình. Nếu quý vị phát huy được sự nhẫn nhục thì sẽ không có bất cứ điều gì hay bất cứ một ai có thể khuấy động được tâm thức của quý vị.
15. Hãy tổ chức cuộc sống của mình hướng vào những gì giá trị có thể mang lại một ý nghĩa nào đó cho sự hiện hữu của mình, có nghĩa là không để cho các thứ lạc thú và những gì trần tục lôi cuốn mình vào một cuộc sống bên ngoài con người của chính mình. Hãy mang lại cho mình một kiếp sống biết gánh vác một trọng trách lớn lao: đó là lý tưởng phục vụ kẻ khác.
16. Nếu đã là một hành động nhân từ thì không thể nào có thể đánh giá nó là nhỏ hay to lớn được, bởi vì tất cả mọi hành động nhân từ đều góp phần vào việc xây dựng hòa bình trên thế giới. Điều hệ trọng duy nhất là hiến dâng tất cả cho kẻ khác và lấy đó làm niềm hạnh phúc cho mình. Phẩm tính lớn nhất của con người là lòng vị tha.
17. Đừng đánh mất thì giờ vì ganh tị hay cải vả. Hãy suy tư về vô thường để ý thức được giá trị của sự sống. Nếu muốn tạo ra sự an bình trong tâm thức và con tim mình thì phải thay đổi các thói quen tâm thần. Nếu không muốn hóa điên vào lúc bắt buộc phải rời bỏ thế giới này, thì quý vị phải tu tập ngay từ bây giờ để hiểu rằng không nên bám víu vào mọi sự vật và đừng mơ tưởng rằng đấy là những thứ mà rồi đây mình có thể mang theo khi chết.
18. Chớ bỏ mặc tấm thân này, nhưng cũng đừng quan tâm đến nó một cách quá đáng, mà phải kính trọng nó, chăm sóc nó như một thứ dụng cụ quý giá và cần thiết hầu giúp cho tâm thức mình đạt được Giác Ngộ.
19. Các hành động mà quý vị thực thi phản ảnh từ tư duy và các cảm tính của quý vị. Tự chúng thì các hành động ấy không mang tính cách tích cực hay tiêu cực. Tích cực hay tiêu cực là tùy thuộc vào sự chủ tâm thúc đẩy và làm phát sinh ra các hành động ấy. Chính sự chủ tâm sẽ tạo ra nghiệp, tức là những cảm nhận tạo ra bởi quy luật nguyên nhân và hậu quả, khiến quý vị cảm thấy cuộc sống của mình có vẻ như là hạnh phúc hay khổ đau.
20. Đối với với việc bố thí trước hết là không được làm tổn thương kẻ khác. Đấy cũng là cách không gây ra tai hại cho chính mình, bởi vì nếu tạo ra sự sai trái cho kẻ khác thì chính đấy cũng là cách tự gây ra tổn thương cho chính mình.
21. Không thể nào nắm bắt được hiện tại. Không có gì tồn tại mãi trong thế giới này, không có bất cứ gì tự chúng có thể hiện hữu được. Vậy thì cố gắng nắm bắt và chiếm giữ các đối tượng giác cảm mà quý vị cảm nhận được trong hiện tại để mà làm gì? Tự nơi chúng, chúng không hàm chứa một thực thể nào cả. Chúng chỉ là hậu quả của vô số nguyên nhân và điều kiện đã tạo tác ra chúng. Chúng không sinh ra để mà tồn tại, chẳng qua cũng vì chúng luôn biến đổi trong từng giây phút một. Vì thế quý vị không nên nắm bắt bất cứ một thứ gì cả.
22. Sự thèm muốn không kiềm chế được sẽ biến tâm thức con người trở thành nô lệ và nó sẽ không bao giờ để cho tâm thức được yên vì nó luôn thúc đẩy tạo ra vô số các cảnh huống trong sự sinh hoạt hằng ngày, nhằm giúp nó đuổi theo các đối tượng của sự thèm muốn mà nó chưa đạt được. Kiềm chế và khắc phục được sự thèm muốn sẽ giải thoát con người ra khỏi mọi cảnh huống xảy ra, dù đấy là hạnh phúc hay khổ đau, và sẽ mang lại sự an bình cho con tim và tâm thức mình.
23. Tập nhẫn nhục là tập phát động lòng từ bi đối với những kẻ làm mình tổn thương, nhưng không chấp nhận để cho họ tàn phá mình. Lòng từ bi là vị lương y tốt nhất để chữa lành tâm thức, giải thoát cho tâm thức khỏi những sự bám víu và các xung năng đối nghịch.
24. Chẳng qua là vì vô minh và thiếu sự nhận xét sáng suốt nên chúng ta liên tiếp tạo ra mọi thứ bất hạnh cho mình. Tâm thức luôn bị giằng co giữa những gì mà mình ưa thích và những gì mà mình ghét bỏ. Chúng ta hành động như bất cần quan tâm đến các cảnh huống đang hiện ra với mình. Chúng ta quên rằng tất cả không có gì tồn tại và tự nó hiện hữu cả. Chúng ta cũng quên là mình có thể chết bất cứ lúc nào.
25. Bám víu vào các đối tượng của giác cảm sẽ làm cho tâm thức thèm thuồng và bệnh hoạn. Gom góp được thật nhiều của cải không có nghĩa là làm cho tâm thức được an bình một cách tương xứng. Hãy nhìn vào những kẻ có đầy đủ tiện nghi vật chất, họ có thể tự cung phụng cho mình suốt đời, thế nhưng họ vẫn sống trong tình trạng âu lo, buồn khổ, bất toại nguyện và khép kín. Họ không hiểu rằng hiến dâng sẽ mang lại một niềm hân hoan to lớn nhất. Họ cũng không thể hiểu được là không cần phải có thật nhiều của cải mới đủ sức hiến dâng một nụ cười hầu giúp cho kẻ khác được sung sướng. Các tiện nghi vật chất của họ thật dồi dào, thế nhưng chúng không hề mang lại cho họ được một mảy may hạnh phúc nào, bởi vì chỉ có một cách duy nhất trong số tất cả các phương tiện mà chúng ta có thể có được nhằm giúp cải thiện cuộc sống nội tâm của mình: đấy là sự tu sửa tâm linh.
26. Tôi xin nguyện được sử dụng sự hiện hữu này của tôi và không dám phí phạm một giây phút nào, để góp phần vào việc giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau và những nguyên nhân gây ra khổ đau, và giúp chúng sinh tìm thấy hạnh phúc cũng như nhìn thấy những nguyên nhân nào sẽ mang đến hạnh phúc. Tôi xin luôn ghi nhớ rằng việc phát lộ lòng từ bi đối với chúng sinh sẽ phải bắt đầu trước hết bằng cách phát lộ lòng từ bi đối với chính mình, nhưng sự phát lộ đó không được hàm chứa một chút dấu vết nào của sự ích kỷ, bởi vì tất cả chúng ta đều thuộc chung trong cùng một cộng đồng chúng sinh.
27. Sự vững tin đạt được bằng phép thiền định phân tích sẽ giúp biến cải được tâm thức mình. Sự biến cải đó đòi hỏi nhiều thời gian, và việc thực hiện cũng rất gần với các phương pháp khoa học. Phân tích các thứ xúc cảm làm cho mình bị đảo điên và xao động sẽ giúp mình biết chọn lựa những liều thuốc hóa giải nào hiệu nghiệm và phù hợp nhất với những gì mà mình mong cầu, chẳng hạn như thoát ra khỏi sự chi phối của các xúc cảm bấn loạn nhằm giúp mình đạt được sự giác ngộ. Nên nhớ rằng hai xung năng đối nghịch không thể nào có thể cùng hòa nhập với nhau trong tâm thức được. Do đó trong trường hợp nếu chúng ta nổi giận với một người nào đó chẳng hạn, thì hãy nghĩ ngay là phải phát lộ tình thương đối với người ấy. Nếu làm phát sinh được tình thương trong lòng mình thì sự giận dữ cũng sẽ biến mất trong tâm thức mình. Tình thương là liều thuốc hóa giải sự giận dữ.
28. Tất cả đều mang tính cách vô thường, và cũng chính nhờ đó mà chúng ta mới có thể biến cải được tâm thức và các xúc cảm bấn loạn làm xao động tâm thức mình. Chẳng hạn như sự phát lộ của các xúc cảm hận thù và giận dữ đều phải lệ thuộc vào các cảnh huống xảy ra. Tự nơi chúng, chúng không hề hàm chứa một sự hiện thực nào, cũng không hiện hữu một cách thường xuyên trong tâm thức mình, và cũng chính nhờ thế mà chúng ta mới có thể khắc phục, biến cải và loại trừ được chúng. Nếu muốn thực hiện được việc ấy thì nhất thiết phải đặt chúng vào các bối cảnh mà chúng phát sinh và phân tích xem chúng bộc phát trong các tình huống như thế nào, hầu giúp mình tìm hiểu chúng. Thực hiện được một thể dạng phúc hạnh lâu bền có nghĩa là loại trừ ra khỏi tâm thức những xúc cảm tiêu cực.
29. Khổ đau không phải là phi lý và cũng không phải là vô ích, đơn giản đấy chỉ là kết quả của nghiệp mà thôi, đấy là quy luật nguyên nhân và hậu quả chi phối các chu kỳ hiện hữu. Thật hết sức khó để hiểu được điều này nếu không tin vào hiện tượng tái sinh. Tư duy và hành động của mình từ những kiếp sống quá khứ sẽ tạo ra hậu quả - có thể là tích cực hay tiêu cực, tất cả đều tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy làm phát sinh ra chúng. Nguyên tắc ấy lúc nào cũng đúng, đối với bất cứ một dân tộc nào hay trong một xứ sở nào. Những gì xảy ra với dân tộc Tây Tạng là kết quả của nghiệp. Thế nhưng tuyệt nhiên điều đó không có nghĩa là không được phép tìm cách tái lập nhân quyền ở Tây Tạng, cũng như tín ngưỡng, nền triết học đặc thù và văn hoá ngàn năm, tiêu biểu cho nền văn minh của chúng tôi phải được tôn trọng. Không nên nhầm lẫn nghiệp với định mệnh, mà phải rút tỉa kinh nghiệm từ các bài học trong cuộc sống hầu giúp mình biết hành động một cách tích cực và có trách nhiệm hơn.
30. Làm thế nào để có thể phát triển hoà bình trên thế giới nếu không biết kính trọng thiên nhiên? Tất cả chúng ta, từ con người cho đến muôn thú, đều gắn bó với nhau trong cùng một ước vọng mang tính cách toàn cầu ấy là xa lánh khổ đau và tạo được những điều kiện thuận lợi hầu mang lại cho mình một cuộc sống tốt đẹp và an lành. Điều hết sức quan trọng cần phải luôn tự nhắc nhở mình là sự mong muốn thoát khỏi khổ đau chính là quyền căn bản nhất của tất cả chúng sinh có giác cảm. Nhằm giúp mọi người biết tôn trọng đặc quyền ấy chúng ta phải tự biến cải lấy chính mình trước hết để làm gương cho kẻ khác.
31. Luyện tập để phát động lòng từ bi là tâm điểm của con đường Phật Giáo. Phát huy phẩm tính ấy là một điều thật cần thiết, bởi vì nó sẽ giúp chúng ta hành động một cách đúng đắn hơn vì sự an vui của kẻ khác và cũng giúp mình hiểu được phải làm thế nào để không tạo ra thêm cội nguồn mang lại khổ đau cho mình và cho những khác, tức là không tạo ra thêm nghiệp Từ bi là một thứ xúc cảm thật sâu xa hướng vào tất cả những người đang phải gánh chịu khổ đau, không chút mảy may phân biệt. Lòng từ bi phát sinh từ ước vọng sâu xa được giúp đỡ kẻ khác. Nếu một người tu hành Phật Giáo muốn duy trì được sức mạnh của niềm ước vọng đó thì hằng ngày phải tự nhắc nhở mình bằng câu sau đây: "Cầu mong sao cho tôi có thể giúp đỡ được tất cả chúng sinh có giác cảm loại trừ được khổ đau và cả cội nguồn gây ra khổ đau, hầu giúp họ trông thấy được đâu là các nguyên nhân và điều kiện mang lại cho mình sự giác ngộ.
32. Tất cả chúng ta đều mong muốn được hạnh phúc, không một ai muốn gánh chịu khổ đau. Nếu muốn biến cải tâm thức mình thì thật hết sức quan trọng là phải hiểu được điều đó. Khi nào ý thức được hiện thực ấy thì tức khắc một niềm quý mến bao la và một tình thương cảm mênh mông đối với đồng loại sẽ hiển lộ trong tâm thức mình. Thế nhưng điều ấy chỉ có thể thực hiện được khi nào chúng ta cũng biết tỏ lộ tình thương và sự kính trọng đối với chính mình. Thật hết sức hão huyền nếu nghĩ rằng mình đủ sức yêu thương kẻ khác trong khi đó thì mình lại thù ghét mình và không chấp nhận thực trạng của chính mình.
33.Nguyên tắc tương liên giữa chúng sinh và mọi hiện tượng cho thấy là cá nhân mình luôn liên kết với kẻ khác, với thiên nhiên và cả vũ trụ này. Tất cả chúng ta đều lệ thuộc vào nhau, điều đó cho thấy là chúng ta phải gánh chịu trách nhiệm về cách suy nghĩ, phương cách sống, cũng như từng hành động thật nhỏ nhặt của mình, bởi vì tất cả những thứ ấy đều ảnh hưởng đến toàn thể vũ trụ. Hơn nữa, bởi vì tất cả những gì hiện hữu đều tương tác chặt chẽ với nhau, nên chúng ta phải có bổn phận giúp đỡ tất cả chúng sinh có giác cảm loại bỏ khổ đau và nhận thấy được đâu là cội nguồn của hạnh phúc. Giúp đỡ chúng sinh cũng có nghĩa là phải đối phó với các nguyên nhân mang lại khổ đau, trực tiếp liên hệ đến tất cả chúng ta. Đấy là cách hiểu biết đúng đắn về quy luật tương liên.
34. Dù được một vị thầy giúp đỡ hay không, thì mỗi người trong chúng ta đều phải tự mình tìm lấy một phương cách tu tập phù hợp với mình nhất và đáp ứng được các nhu cầu riêng của mình. Tiêu chuẩn trên đây là điều tiên quyết giúp mình biến cải nội tâm, mang lại an bình cho tâm thức và phát huy các phẩm tính tích cực hầu giúp mình trở thành một con người tốt. Do đó điều hết sức quan trọng là các vị thầy phải biết thuyết giảng tùy theo xu hướng tâm linh và khả năng tinh thần của từng người, tương tự như chính Đức Phật đã từng làm như vậy vào thời đại của Ngài. Quý vị nào có ăn uống giống hệt với những người hàng xóm của mình đâu - mỗi người ẩm thực tùy theo sự cấu tạo cơ thể của mình – thì đối với các món ăn tinh thần cũng thế thôi.
35. Hạnh phúc của mình lệ thuộc vào hạnh phúc của kẻ khác, vì thế thật hết sức hệ trọng là phải cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để giúp kẻ khác đạt được hạnh phúc. Đôi khi chúng ta cũng có cảm giác bất lực không sao có thể cứu giúp kẻ khác được, thế nhưng chúng ta không được nản lòng mà phải tiếp tục hành động trong chiều hướng tích cực. Nếu làm được như thế thì chúng ta mới có thể triển khai được trong nội tâm mình khả năng phát động lòng vị tha đích thật mang lại sự an bình trong tâm thức mình.
36. Nếu việc giúp đỡ kẻ khác tỏ ra quá khó khăn đối với mình, thì cứ hành động như là một người ích kỷ cũng chẳng sao, thế nhưng phải hành động một cách thông minh. Nói như thế có nghĩa là phải hiểu rằng làm được điều tốt cho kẻ khác sẽ tạo ra những mối dây liên hệ thân thiện hơn với họ và đưa đến những điều kiện thuận lợi hơn hầu giúp mình mang lại hạnh phúc và tìm thấy sự thanh thản cho chính mình.
37. Các phương pháp khơi động lòng từ bi phải được phát huy song song với sự hiểu biết và trí tuệ thì mới có thể đưa đến các hành động đúng đắn và thích nghi được. Sự hiểu biết và trí tuệ không thể thiếu sót trong việc tìm hiểu bản thể đích thật của mọi sự vật và bản chất căn bản của tâm thức. Một sự thẩm định chính xác những gì mà mình cảm nhận được cũng như những gì mà mình đang sống chỉ có thể thực hiện được bằng cách quan sát một vật thể hay một cảnh huống dưới nhiều góc cạnh khác nhau, hầu có thể mang lại một giải đáp thích nghi và minh bạch giúp mình vượt lên trên các phản ứng và xúc cảm tiêu cực.
38. Nếu muốn đạt được sự giác ngộ, thì điều hết sức quan trọng là phải cảm nhận được thực tại một cách đúng đắn. Nhằm giúp nắm bắt dễ dàng hơn thực tại ấy, Phật Giáo chủ trương phải vận dụng khái niệm về hai sự thật: sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối. Sự thật tương đối là những gì mà chúng ta cảm nhận được bằng các giác quan của mình. Sự thật tuyệt đối không thể mô tả ra được bởi vì nó vượt lên trên mọi khái niệm. Theo kinh sách, hai sự thật đó bổ khuyết cho nhau, không thể tách rời nhau và phải luôn luôn lệ thuộc vào nhau, tương tự như một con chim cần phải có đôi cánh để bay. Hiện thực phải nhờ vào cả hai sự thật ấy.
39. Thông thường thì chúng ta cảm nhận bản chất của mọi sự vật một cách sai lầm. Sự lệch lạc giữa những gì đúng thật và những gì mà mình cảm nhận được chính là nguyên nhân đưa đến khổ đau. Biến cải tâm thức để nhìn thấy hiện thực cũng có nghĩa là tập nhìn hiện thực đúng với hiện thực, không diễn đạt, trung thực với từng giây phút trong hiện tại. Nhờ đó chúng ta sẽ không còn nắm bắt hiện thực tùy theo các phóng tưởng của tâm thức mình nữa. Đấy là điều kiện căn bản nhất giúp cho tâm thức được an bình.
40. Đối mặt với khổ đau của kẻ khác cũng có thể sẽ khiến mình cảm thấy kinh hoàng và bị tràn ngập bởi nỗi khổ đau của họ, và đấy lại có thể làm gia tăng thêm khó khăn cho chính mình. Các cảm giác ấy không phải là những kinh nghiệm cảm nhận phát sinh từ lòng từ bi. Nếu đúng là trường hợp của lòng từ bi đích thật, thì một sự can đảm vô biên tất sẽ phải bùng lên trong lòng mình, thay vì là sự bất an hay kinh hoàng. Lòng ước mong cố gắng làm tất cả những gì mà mình có thể làm được nhằm làm vơi đi khổ đau của kẻ khác sẽ vụt trở thành quan trọng hơn là những khổ đau của riêng mình. Các hành động thúc đẩy bởi lòng từ bi sẽ mang lại một niềm hân hoan vô tận.
41. Mọi vật thể cấu hợp chỉ rồi để tan biến mà thôi, chúng đều vô thường, tạm thời và có tính cách giai đoạn. Thân xác chúng ta cũng thế, nhưng tiếc thay chúng ta lại thường hay quên đi điều ấy, chẳng qua là vì chúng ta bám víu vào thân xác mình một cách quá đáng. Đối với một số người mỗi khi nghĩ đến sự thật ấy thì họ cảm thấy khổ đau vô ngần. Nhận biết được thế nào là bản thể đích thật của mọi sự vật sẽ giúp chúng ta chấp nhận dễ dàng hơn là chẳng có gì tự chúng hiện hữu cả, và bản chất của khổ đau cũng thế, cũng phù du, nhất thời và không hiện hữu một cách tự tại. Sự hiểu biết ấy giúp chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều mỗi khi gặp phải những cảnh huống khó khăn và bực dọc trong cuộc sống, hoặc phải đối phó với một số thử thách nào đó.
42. Một vài khát vọng hay ước mong nào đó cũng có thể chấp nhận được trên bước đường tu tập tâm linh. Chẳng hạn như đối với một người tu tập Đạo Pháp thì đấy là niềm ước mong khắc phục được tâm thức mình, và đối với những người tin có Trời thì niềm ước mong của họ là làm sao cho Trời được vui lòng. Những ước mong ấy đều chính đáng. Trái lại, những thứ ham muốn hướng vào các đối tượng bên ngoài chỉ tạo ra sự bám víu và các xúc cảm tiêu cực trong tâm thức mình mà thôi, các thứ ham muốn này quả thật không chính đáng một chút nào cả. Thật hết sức quan trọng là phải giới hạn các thứ thèm muốn và trói buộc ấy. Quả chỉ là một ảo giác khi tin rằng thế giới bên ngoài một ngày nào đó sẽ có thể làm thoả mãn được các khát vọng của mình.
43. Người Tây Tạng rất quan tâm đến thời kỳ đang mang thai. Kể từ lúc mới bắt đầu thụ thai cho đến hết thời gian khi thai nhi còn trong bụng, người mẹ phải giữ tâm thức thật thanh thản, và luôn cảm thấy hạnh phúc và an bình, đấy là cách giúp cho con mình nẩy nở một cách hài hoà. Trong thế giới Tây phương, thái độ giữ gìn ấy ngày càng phổ biến, và nhiều người cũng đã bắt đầu ý thức được rằng một người mẹ lo âu, giận dữ, tham lam, ganh ghét, sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến thai nhi trong bụng mình. Chúng ta cũng nên khuyến khích người mẹ cho con bú nếu có thể được, vì dòng sữa mẹ nói lên lòng yêu quý con người. Các khám phá y khoa cũng cho biết là các cử chỉ âu yếm đối với một hài nhi sẽ giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển não bộ của nó.
44. Cải thiện tâm thức mình đôi khi có vẻ như là một việc rất khó thực hiện đối với những người tây phương với cuộc sống tân tiến và trong bối cảnh sinh hoạt của xã hội ngày nay. Dầu sao thì tất cả cũng còn tùy thuộc vào sức mạnh của lòng quyết tâm của mình, vì sức mạnh ấy sẽ mang lại cho mình lòng nhiệt tâm vô biên giúp mình bước vào sự tu tập không một chút chần chờ, dù là đang ở trong hoàn cảnh nào. Vì thế, nếu thực tâm thì nhất định chúng ta cũng có thể tu tập để biến cải tâm thức mình và đồng thời vẫn tiếp tục đảm đang công ăn việc làm, đời sống gia đình, các sinh hoạt khác, cũng như các công việc lặt vặt hằng ngày.
45. Biến cải tâm thức, phát huy các phẩm tính của tình thương và lòng từ bi, cải thiện con người của mình, tất cả những thứ ấy đều nhất thiết tùy thuộc vào sức mạnh của lòng quyết tâm của chính mình. Nhằm củng cố và khơi động sức mạnh ấy, cần nhất là phải quay nhìn vào nội tâm mình, quan sát chính mình một cách cẩn thận, và phát động niềm ước vọng sẽ cố gắng tự cải thiện mình và học hỏi thêm. Nhờ trí thông minh chúng ta phải biết cố gắng giữ vững đường hướng tích cực ấy, và từ đó trí tuệ cũng sẽ tăng trưởng một cách tương xứng. Cách tiếp cận trên đây, ít nhất là đối với các bước đầu tu tập, nhất thiết phải dựa vào trí tuệ và lý trí.
46. Sự sinh hoạt nghề nghiệp trong cuộc sống thường nhật chiếm rất nhiều thì giờ, thế nhưng không phải vì thế mà mọi người không tìm được những khoảng thòi gian để thư giãn: nào là đi dạo mát, đi chơi cuối tuần hay đi nghỉ hè. Nếu thật sự mong muốn biến cải chính mình thì thiết nghĩ lúc nào quý vị cũng có thể tìm được thì giờ để thực hiện việc ấy. Chỉ cần niềm ước vọng của quý vị phải thật sâu xa.
47. Trong giai đoạn đầu khi mới bước vào con đường tu tập tâm linh thì mọi sự đều có vẻ rất khó. Thế nhưng cũng chính nhờ đó mà mình mới gặt hái được nhiều kinh nghiệm hơn, và dần dần niềm khát khao và lòng quyết tâm của mình muốn được bước theo con đường ấy sẽ trở nên vững vàng và kiên quyết hơn, giúp mình biến cải tâm thức trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù là tại nơi làm việc hay trong bối cảnh gia đình, hoặc trong những lúc phải làm các công việc lặt vặt hằng ngày. Nhờ đó chúng ta sẽ trở nên tỉnh giác và chú tâm hơn. Cách hành xử ấy sẽ phản ảnh thật rõ nét qua các sự sinh hoạt và thái độ hành xử của mình đối với những người chung quanh.
Tu tập Đạo Pháp tức là tự tu sửa trong từng giây phút một hầu biến cải chính mình, bằng cách sử dụng thì giờ của mình một cách thật khôn khéo.
48. Nếu chúng ta cảm thấy ham muốn được thành công như một người bạn đồng nghiệp may mắn hơn mình, hoặc cảm thấy ganh tị khi trông thấy một kẻ nào đó có một vật gì quý giá, thì hãy tức khắc tìm cách chuyển hóa ngay tâm thức mình bằng các liều thuốc hoá giải nhằm giúp mình loại bỏ các xúc cảm tiêu cực ấy. Nếu muốn đối phó với các tình trạng như trên đây thì cách tốt nhất là chúng ta nên tập phát lộ lòng hân hoan và vui sướng trước hạnh phúc của kẻ khác.
49. Không có một giới hạn nào có thể ngăn chận được niềm khát vọng của chúng ta trước sự mong cầu tìm hiểu tâm thức mình và khả năng triển khai các phẩm tính con người của mình. Chúng ta có thể phát huy niềm khát vọng ấy đến vô tận, có nghĩa là mình sẽ chẳng bao giờ cảm thấy thỏa mãn với những gì mà mình đã thực hiện được. Thế nhưng tại sao mình lại không bao giờ có thể triển khai trọn vẹn được các phẩm tính như lòng từ bi, tình thương yêu và sự bao dung? Bởi vì lòng khát vọng triển khai các phẩm tính nội tâm ấy thật vô cùng sâu xa, bát ngát và vô biên.
50. Chúng ta phải thật cảnh giác đối với bản chất của các động cơ thúc đẩy mình. Nếu bản chất ấy mang tính cách nhân từ thì tất nó sẽ phải phản ảnh qua từng hành động trên thân xác, ngôn từ và tâm thức mình. Thay đổi các thói quen tâm thần thật hết sức cần thiết hầu giúp cải thiện tâm thức và các hành động phát sinh từ tâm thức. Chẳng hạn như không được gây ra những điều sai trái cho kẻ khác, luôn phải tự cảnh giác không để mình bị chi phối bởi các sự kiêu ngạo và ganh tị, không nên lúc nào cũng cứ tính toán về chuyện được thua; chẳng qua là vì khi nào các thứ xúc cảm tiêu cực ấy không còn xâm chiếm mình nữa thì cung cách hành xử của mình cũng theo đó mà thay đổi, chúng ta sẽ trở nên vị tha hơn, và sự sinh hoạt của chúng ta trong cộng đồng xã hội cũng sẽ mang lại lợi ích cho người khác.
51. Mỗi con người đều có một bản chất riêng và các xu hướng khác nhau, vì thế thật khó để bảo rằng một thứ gì đó lại có thể mang tính cách lợi ích chung cho tất cả mọi người. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng cũng có thể khuyên tất cả mọi người hãy trau dồi tinh thần giác ngộ, đấy là tình thương người và lòng quyết tâm tự cải thiện chính mình hầu có thể giúp đỡ kẻ khác, và giúp mình biết suy tư về vô thường dưới tất cả các khía cạnh khác nhau.
Vô thường dưới các góc cạnh và dễ nhận thấy sẽ hiện ra qua các thể dạng vật chất của sự hiện hữu; vô thường hơn hiện ra trong từng giây phút một đối với con người của mình, đối với bối cảnh chung quanh và cả bên trong tâm thức mình. Thiền định về vô thường sẽ giúp hiểu được bản chất đích thật của khổ đau là gì. Sự hiểu biết về bản chất ấy sẽ giúp mình tránh khỏi những điều kiện và nguyên nhân làm phát sinh ra các hậu quả tiêu cực trong các kiếp sống của mình, và cũng sẽ giúp mang lại sự an bình trong tâm thức mình.
52. Chúng ta gán cho quá khứ và tương lai một tầm quan trọng quá to lớn. Chúng ta sống và xem quá khứ cũng như tương lai cứ đang sờ sờ ra đó, để rồi lại quên mất đi là mình đang sống trong hiện tại. Điều thiết yếu nhất là phải sống trong từng khoảnh khắc của hiện tại, bởi vì đấy là những lúc duy nhất mà chúng ta có thể thật sự biến cải tâm thức mình bằng cách phát huy những xúc cảm tích cực giúp mình có thể chăm lo cho kẻ khác.
53.Thiền định là một cách suy tư giúp chúng ta nắm bắt hiện tại dễ dàng hơn, và để sống với nó một cách thanh thản hơn, không bị ám ảnh bởi những gì thích thú hay ghét bỏ như khi phóng nhìn vào quá khứ hay tương lai. Mỗi khi gặp phải một vấn đề khó khăn thì điều hết sức thiết yếu là phải đánh giá sự cố ấy đúng với tầm quan trọng của nó. Nếu có một giải pháp thì nên mang ra thực hiện ngay. Thế nhưng nếu không có một giải pháp nào cả thì dù có lo âu cũng vô ích, nếu không thì cũng chỉ là cách khiến cho sự bất an của mình nặng nề thêm thế thôi. Vậy thì lo âu để mà làm gì?
Nếu phân tích các nguyên nhân và điều kiện gây ra cảnh huống đó, thì tất chúng ta sẽ phải nhận thấy rằng chúng nhiều vô kể. Phát huy một tầm nhìn bao quát hơn về những gì mình đang sống sẽ giúp chúng ta không gán cho một nguyên nhân nào hay một đối tác duy nhất nào là lý do đã gây ra khó khăn hay mang lại hạnh phúc cho mình. Đấy là cách giúp mình phân tích chính xác hơn những gì xảy đến với mình và sẽ giúp mình bớt lệ thuộc vào các điều kiện bên ngoài.
54. Các tư duy và xúc cảm tiêu cực che lấp bản thể đích thật hay bản chất rạng ngời của chúng ta. Chúng có quá nhiều và chẳng may nếu không khắc phục được chúng thì chúng sẽ xô mình vào bất cứ một cảnh huống nào tùy ý chúng. Dù là đối với một người Phật Giáo hay không Phật Giáo thì tất cả cũng đều có thể suy nghĩ và tự hỏi xem mình thật sự có thể phát biểu như sau hay không: Có chăng một cái tôi nào đó đang suy nghĩ rằng đây là tôi hay không
Phải chăng có một cái gì đó gọi là tôi hay cái tôi đang hiện hữu ở một nơi nào đó hay không? Nhờ vào sự tu tập hay là các phương cách suy tư chúng ta sẽ có thể phân biệt được giữa một người đang cảm nhận một xúc cảm nào đó - chẳng hạn như ganh ghét, giận dữ, hận thù - và chính xúc cảm đang tràn ngập tâm trí người ấy. Sau khi đã quen dần với sự phân tích ấy, chúng ta sẽ xác định dễ dàng hơn những gì đang xảy ra bên trong chúng ta hầu giúp mình tách rời tâm thức ra khỏi những gì đang khuấy động nó. Đấy cũng chính là cách giúp mình chủ động chúng.
55. Mỗi khi cảm thấy bị căng thẳng và lo âu không sao kiềm chế được, thì hãy nhìn vào cái tôi và quan sát nó đang chi phối mình như thế nào. Nếu chịu khó tìm hiểu xem bản chất đích thật của nó là gì thì phép nội quan này sẽ giúp chúng ta làm nhẹ bớt đi những thứ lo âu ấy của mình.
56. Tìm hiểu thế nào là sự tương liên giữa con người và mọi hiện tượng là cách giúp phát huy phẩm tính phi-bạo-lực trên toàn thể thế giới và trong mỗi con người chúng ta. Nguyên lý tương liên là một trong những nguyên lý căn bản nhất trong giáo lý nhà Phật. Tất cả mọi sự vật cũng như tất cả mọi chúng sinh chỉ có thể hiện hữu bằng cách tương liên với nhau và với cả thế giới này. Không có bất cứ gì tự nó hiện hữu, mà luôn phải lệ thuộc vào một chuỗi níu kéo bất tận giữa nguyên nhân và điều kiện, và chính những thứ này cũng còn phải lệ thuộc vào nhau.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>57. </strong>Các hiện tượng biến đổi không ngừng vì quy luật tương liên và tương tác chi phối mọi chúng sinh và mọi hiện tượng. Hiện chúng ta cũng đang biến đổi không ngừng, bởi vì các nguyên nhân và điều kiện đều nhất thiết phải tương liên và tương tác với nhau. Thế nhưng người ta lại có khuynh hướng đổ lỗi cho một biến cố nào đó như là một thứ nguyên nhân chủ yếu và duy nhất, dù là mang tính cách tốt lành hay tệ hại.</p>
<p style="text-align: justify;">Vì thế người ta thường dồn tất cả mọi nỗ lực để tìm cách chiếm giữ hay loại trừ nguyên nhân ấy tùy theo là nó mang tính cách lợi ích hay nguy hại.</p>
<p style="text-align: justify;">Thái độ đó cho thấy rằng chúng ta chẳng hiểu gì cả về nguyên lý tương liên và tương tác giữa tất cả mọi chúng sinh và mọi hiện tượng.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>58. </strong>Không thể có một nguyên nhân hay một con người duy nhất nào lại có thể là cội nguồn mang lại hạnh phúc hay khổ đau cho mình. Nếu muốn thấu hiểu được điều ấy thì nhất thiết chúng ta cần phải phát huy một tầm nhìn thật bao quát và toàn diện về mọi sự vật, và mở rộng sự quán thấy của mình về hiện thực. Và đấy cũng là cách giúp ý thức được những gì mà mình đang sống là kết quả mang lại từ vô số các nguyên nhân và điều kiện chi phối bởi nguyên lý tương liên.</p>
<p style="text-align: justify;">Do đó quả hết sức vô lý khi chúng ta khiển trách một người nào đó chẳng hạn, như là một người duy nhất nắm giữ toàn bộ quyền lực tạo ra một tình huống đớn đau cho mình. Chính vì thế nên thật hết sức quan trọng là phải thay đổi thái độ đã khiến mình thốt lên rằng: &amp;quot;đấy là do lỗi của người khác&amp;quot; hay &amp;quot;đấy là vì tình trạng xảy ra đã là như thế&amp;quot;.</p>
<p style="text-align: justify;">Cách nắm bắt hiện thực theo cung cách đó hoàn toàn sai lầm. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về những gì xảy ra trong cuộc sống của mình, dù là tốt đẹp hay tệ hại. Đấy là quy luật của nghiệp, tức là quy luật nguyên nhân hậu quả chi phối tất cả mọi con người không một chút thiên vị nào. Hiểu được và chấp nhận điều ấy sẽ giúp mang lại an bình cho tâm thức.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>59. </strong>Người ta thường bảo rằng một người có tâm trí hẹp hòi là một người kém trí tuệ, và một người có một tầm nhìn bao quát hơn thì được gọi là một hiền nhân. Sự thấu triệt về nguyên lý tương liên, phối hợp với trí tuệ và sự hiểu biết, sẽ mở rộng tâm thức mình và giúp mình biết dừng lại đúng lúc để có thể nhìn vào những gì mà mình đang sống.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>60. </strong>Mỗi khi nghĩ đến nguyên lý tương liên và hiểu được đấy là gì, thì điều này cũng có nghĩa là nhận thấy được bản chất đích thật của mọi sự vật và trông thấy được sự vận hành của hiện thực. Điều ấy sẽ biến cải sự cảm nhận của mình về thế giới này và làm thay đổi các thói quen cũng như cung cách hành xử của mình.</p>
<p style="text-align: justify;">Vì thế mỗi khi phải chịu đựng một cảnh huống đau buồn thì cũng không nên để mình rơi vào cảnh tuyệt vọng và cho rằng đấy là một sự bất công! Tốt hơn là nên nghĩ đến tất cả những người khác cũng đang phải trải qua những khó khăn như mình, và đồng thời phát huy một tầm nhìn về tất cả mọi sự việc một cách bao quát hơn.</p>
<p style="text-align: justify;">Thay vì chỉ biết nghĩ đến những sự đớn đau đang hành hạ mình thì chúng ta nên cố gắng hy sinh tất cả để giúp đỡ những kẻ đang phải gánh chịu những sự đớn đau tương tự như mình, và đấy cũng là cách giúp tâm trí mình được thanh thản hơn. Dù rằng trong những bước đầu điều đó có vẻ khó thực hiện, bởi vì nó đòi hỏi mình phải bớt ích kỷ, thế nhưng dần dần thì chúng ta sẽ cảm nhận được một sự an bình đích thật hiện ra trong tâm thức mình.</p>
<p style="text-align: justify;">Phép luyện tập trên đây cũng có thể mang ra áp dụng trong các trường hợp cảm nhận được một niềm hạnh phúc lớn lao, và chúng ta sẽ mang niềm hạnh phúc ấy để hiến dâng cho tất cả chúng sinh.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>61. </strong>Trí tuệ giúp hình dung ra được sự vận hành của quy luật tương liên, trong khi đó thì sự hiểu biết sẽ giúp nắm bắt được bản chất đích thật của mọi sự vật là gì. Luôn ghi nhớ những điều ấy trong tâm nhằm giúp mình phát huy lòng từ bi và tình thương yêu kẻ khác. Thật hết sức rõ ràng là việc phát lộ tình thương và lòng từ bi đối với kẻ khác không những sẽ mang lại sự tốt lành cho họ mà còn cho cả chính mình. Trái lại nếu gây ra tai hại cho kẻ khác thì đó cũng là cách tự gây ra tai hại cho mình.</p>
<p style="text-align: justify;">Trong trường hợp thứ nhất cả hai đều được lợi, và trong trường hợp thứ hai cả hai đều thua thiệt.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>62. </strong>Sự hiểu biết về quy luật tương liên thật hết sức cần thiết nhằm giúp hiểu được thế nào là khủng bố và cuồng tín. Người ta cứ nghĩ rằng loại bỏ được những thứ ấy là có thể giải quyết được các khó khăn. Dĩ nhiên là chúng ta không thể làm ngơ trước tính cách nghiêm trọng trước các hành động gây ra bởi những kẻ cực đoan, vì thái độ ấy là cả một sự sai lầm. Thế nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng các hành vi ấy phát sinh từ rất nhiều nguyên nhân và điều kiện. Có vô số lý do đã góp phần đưa đến thái độ ấy. Một số người vì quá lệ thuộc vào các truyền thống tôn giáo của mình nên thường có những quan điểm hạn hẹp, tự tách rời mình ra khỏi hiện thực, và đã tự tạo ra cho mình cung cách hành xử đó.</p>
<p style="text-align: justify;">Một quan điểm mở rộng và sáng suốt hơn về mọi sự vật trong cả hai lãnh vực ngắn hạn và lâu dài sẽ giúp cho họ vững tâm và có nhiều nghị lực hơn, và điều ấy cũng sẽ giúp họ biết chọn cho mình một cách hành xử khác hơn.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>63. </strong>Thật hết sức quan trọng là phải tự tạo ra cho mình một số kỷ cương mang tính cách cá nhân nhằm giúp mình biến cải nội tâm mình. Các kỷ cương ấy không phản ảnh một sự áp đặt nào từ bên ngoài dù với bất cứ lý do gì, mà nhất thiết phải phát sinh từ sự hiểu biết về mọi sự vật và từ sự ý thức về những điều lợi ích mang lại từ việc giữ gìn các kỷ cương ấy.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>64. </strong>Nếu chúng ta muốn trau dồi thêm về nghề nghiệp của mình hoặc muốn mang lại thêm cho mình nhiều hiểu biết hơn về một chủ đề nào đó, thì tất nhiên chúng ta phải sẵn sàng dành thì giờ để nghiên cứu và thực hành. Chúng ta phải biết cân nhắc xem đâu là những gì ưu tiên và thiết thực nhất đối với mình, và từ đó hãy ra sức thực hiện mục đích hay các ước vọng mà mình đã chọn. Trong đời sống tâm linh cũng thế, hãy chọn cho mình các kỷ cương phù hợp nhất.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>65. </strong>Tất cả chúng ta đều là con người như nhau và đều có những khát vọng như nhau. Tôi cũng chẳng khác gì với quý vị. Mỗi khi gặp phải khó khăn thì tôi cũng phải nhìn vào bên trong tâm thức mình, phân tích những gì đang xảy ra nhằm mang lại một chút sáng suốt nào đó. Đấy là một cách phản ứng rất tích cực mà mỗi người trong chúng ta đều có thể làm được.</p>
<p style="text-align: justify;">Chúng ta sống trong những xứ sở mà các điều kiện vật chất, kỹ thuật cũng như các tiện nghi thật dồi dào, thế nhưng cũng không phải vì thế mà chúng ta đặt hết niềm tin là sẽ tìm được hạnh phúc bằng cách duy nhất chỉ nhờ vào các bối cảnh thuộc bên ngoài nội tâm mình.</p>
<p style="text-align: justify;">Sự an vui, thanh thản và an bình chỉ có thể phát huy bên trong tâm thức mình. Vì thế việc tạo ra các điều kiện cần thiết giúp cho sự phát huy ấy cũng phải được thực hiện từ bên trong tâm thức mình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>66. </strong>Chúng ta phải cố gắng tạo ra một sự an vui lâu dài cho mình. Tạm thời che dấu những sự lo âu trong chốc lát cũng không phải là chuyện quá khó. Chẳng hạn như uống một cốc rượu bia thật mát, men rượu sẽ khiến mình cảm thấy vui vẻ. Thế nhưng sự vui vẻ ấy rất hời hợt và phù du vì nỗi lo buồn rồi sẽ trở lại.</p>
<p style="text-align: justify;">Nếu muốn kiến tạo một sự an vui lâu bền thì phải cải thiện phương cách vận hành của tâm thức mình. Đấy là lời khuyên mà tôi hằng nhắn nhủ với tất cả bạn bè của tôi.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>67. </strong>Không nhất thiết phải theo một tôn giáo nào thì mới có thể biến cải được tâm thức mình. Dù tin hay không tin vào tôn giáo thì bất cứ một con người nào cũng đều có thể biến cải tâm thức mình. Dù rằng các truyền thống tâm linh có đưa ra các phương tiện giúp đạt được mục đích ấy, thì đấy cũng không phải là con đường duy nhất buộc mình phải theo.</p>
<p style="text-align: justify;">Chính vì lý do thật dứt khoát ấy nên tôi vẫn thường quảng bá về một &amp;quot;nền tảng đạo đức nghìn năm&amp;quot; có thể áp dụng cho tất cả mọi con người, dù có đức tin hay không.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>68. </strong>Tất cả mọi chủ trương đặc thù về tôn giáo hay văn hoá đều đi đến chỗ lỗi thời, chính nhờ thế nên tất cả mọi con người mới có thể đến gần với nhau trên một nền tảng đạo đức phi tôn giáo, được thiết lập dựa vào các nguyên tắc nhân bản mang tính cách toàn cầu hơn.</p>
<p style="text-align: justify;">Đấy mới đúng là một cuộc cách mạng đích thật dựa trên những phẩm tính của con người như lòng từ bi, tình thương yêu, lòng khoan dung, sự kính trọng và biết ý thức trách nhiệm của mình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>69. </strong>Phải biết tôn trọng sự an vui của tất cả chúng sinh, vì thế không được làm điều gì sai trái hay gây tổn thương cho một chúng sinh nào, đấy là điều căn bản nhất trong nền tảng đạo đức Phật Giáo. Đó cũng là nền móng của thái độ phi-bạo-lực, của lòng từ bi và tình thương yêu kẻ khác. Nếu mục đích tối hậu là tạo ra sự an vui cho kẻ khác càng nhiều càng tốt và mang lại những sự lợi ích lớn lao cho họ, thì thật hết sức quan trọng là phải cố gắng với tất cả sức lực của mình, trong từng giây phút một hầu có thể đạt được mục đích đó.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>70. </strong>Giới luật (shila) là một trong các yếu tố giúp chúng ta đạt được giác ngộ, các yếu tố khác gồm có phép thiền định (samadhi), sự hiểu biết hay trí tuệ (prajna). Tất cả các thành phần này đều bổ sung cho nhau.</p>
<p style="text-align: justify;">Sống bất chấp giới luật nhất định sẽ tạo ra một cung cách hành xử làm tổn hại đến kẻ khác. Sống lối đó không những gây ra những điều tai hại cho kẻ khác mà còn là cách gieo những hạt giống khổ đau cho chính mình. Phải luôn ý thức thật minh bạch điều này hầu giúp mình phát huy một căn căn bản đạo đức dựa vào sự hiểu biết và trí tuệ. Phẩm tính đạo đức cao quý nhất là biết đặt hạnh phúc của kẻ khác lên trên hạnh phúc của chính mình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>71. </strong>Các xúc cảm bấn loạn sẽ khiến cho tâm thức u mê không nghĩ đến hậu quả mang lại từ các hành động của mình, và chúng sẽ thúc đẩy chúng ta hành xử một cách tiêu cực đối với kẻ khác. Biến cải tâm thức có nghĩa là làm tan biến hoàn toàn những nhân tố tâm thần mang tính cách tàn phá, đang tàng ẩn bên trong nội tâm mình.</p>
<p style="text-align: justify;">Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì chúng ta phải tập thiền định và nghĩ đến những sự lợi ích mang lại từ sự giữ gìn kỷ cương đạo đức và phải từ bỏ những mối quan tâm ích kỷ mà mình hằng ấp ủ. Nên chăm lo cho kẻ khác và hướng sự chú tâm và tư duy của mình vào họ một cách thật tích cực. Đấy sẽ là cách giúp mình dần dần thực hiện được mục đích tối hậu của việc giữ gìn đạo đức là mang lại mọi sự tốt lành cho tất cả chúng sinh. Thế nhưng tất cả những điều này cũng chỉ có thể thực hiện được khi nào chúng ta biết giữ gìn giới luật nhằm tạo cho mình một cung cách hành xử ngay thật, đúng đắn và chân thật.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>72. </strong>Nếu hiểu rằng trong nội tâm mình luôn tàng ẩn một tiềm năng vô tận giúp mình phát lộ tình thương mến, thì đấy sẽ là cách giúp mình phát huy được sự trìu mến, tình thương yêu và lòng từ bi đối với kẻ khác. Tất cả chúng ta đều có thể cảm nhận được các cảm tính thương yêu hướng vào kẻ khác, các cảm tính ấy phát lộ một cách tự động và thật tự nhiên giữa một người mẹ và đứa hài nhi con mình đang bồng bế trên tay. Nếu thiếu những cảm tính tự nhiên ấy của một người mẹ thì chúng ta nào có thể sống còn đến ngày hôm nay. Đấy là một thứ cảm tính tự tại nơi con người, và cũng chính nhờ đó mà tất cả chúng ta đều hàm chứa một khả năng cảm nhận được sự trìu mến hiện ra chung quanh ta.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>73. </strong>Chúng ta thường không quan tâm đến một thể dạng kỷ cương thật quan trọng, là không được hành xử thiếu đạo đức với chính. Chúng ta chẳng những không được làm hại kẻ khác mà cũng không được phép làm hại cả chính mình. Chúng ta sẽ không sao mang lại sự tốt lành cho kẻ khác được nếu chính chúng ta lại căm ghét chính mình! Phải hiểu rằng tất cả chúng ta đều mang khát vọng thật sâu xa tìm được hạnh phúc, khát vọng ấy thật chính đáng. Ý thức được điều này và tạo ra các điều kiện giúp mình được sung sướng thì nhờ đó mình mới có thể triển khai thêm cảm tính hạnh phúc đó để phát lộ ra với tất cả mọi người.</p>
<p style="text-align: justify;">Vì thế mỗi khi xướng lên những lởi ước nguyện của người bồ-tát giúp đỡ tất cả chúng sinh đạt được giác ngộ, thì trước hết mình cũng phải ước nguyện thực hiện được điều ấy cho chính mình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>74. </strong>Đôi khi cũng xảy ra trường hợp mình gây ra tai hại cho kẻ khác mà chính mình lại không hề hay biết. Trong trường hợp này tác động của nghiệp sẽ không giống như tác động gây ra bởi các hành động tiêu cực mang tính cách cố ý. Động cơ thúc đẩy mình hành động mới là yếu tố quan trọng quyết định hậu quả mang lại từ các hành động và tư duy của mình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>75. </strong>Động cơ thúc đẩy hành động đôi khi tạo ra các tác động ảnh hưởng đến hậu quả của nghiệp, quan trọng hơn cả chính hành động gây ra. Lấy thí dụ như trong trường hợp khi mình có ý định làm hại một người nào đó, nhưng bề ngoài và ngay trong lúc ấy thì mình vẫn giữ im lặng không hé lộ một lời cộc cằn hay làm tổn thương nào cả. Điều đó không có nghĩa là mình không phát lộ bên trong thâm tâm mình một sự sự hung hãn đối với người ấy. Trên thực tế thì mình đang phát lộ một sự mong muốn làm hại, thế nhưng trên phương diện hành động thì lại giữ một thái độ đạo đức giả. Do đó có một sự mâu thuẫn giữa tư duy và hành động của mình. Theo quan điểm Phật Giáo trên trên phương diện đạo đức và nghiệp, thì chính là động cơ thúc đẩy và điều khiển các tư duy của mình mới là điều thực sự quan trọng.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>76. </strong>Đức Phật từng dạy rằng: &amp;quot;Chúng ta là những gì mà chúng ta suy nghĩ, chúng ta tạo ra thế giới bằng tư duy của chính mình&amp;quot;. Cung cách hành xử và sự giữ gìn đạo đức đúng đắn sẽ ảnh hưởng một cách tích cực đến toàn thế giới, điều đó cho thấy rằng mọi sự vật không nhất thiết chỉ là ảo giác hay là các phóng tưởng tâm thần.</p>
<p style="text-align: justify;">Phương cách mà chúng ta cảm nhận về thế giới là một sự phóng tưởng, một sự tạo tác tâm thần mang tính cách cá biệt đối với mỗi người. Bằng chứng là sự đánh giá giữa hai người đối với cùng một vật thể có thể là sẽ khác nhau: một người thì cho là đẹp, người kia lại cho là xấu. Kinh sách giảng rằng phương cách mà chúng ta cảm nhận về thế giới là kết quả phát sinh từ tổng thể của nghiệp mà chúng ta đã tạo ra từ vô lượng kiếp. Chúng ta có thể bảo rằng thế giới mà mình trông thấy qua vị thế con người là một phản ảnh phát sinh từ những kinh nghiệm cảm nhận mang tính cách tạo nghiệp, đã được ghi nhận bởi dòng tri thức của mình xuyên qua vô lượng kiếp.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>77. </strong>Phải luôn tin tưởng nơi con người. Thật vậy con người trong thâm tâm rất tốt và tràn ngập ánh từ bi, chẳng qua là vì mỗi con người đều hàm chứa tiềm năng trở thành một vị Phật. Tuy nhiên không phải vì thế mà mình không cần phải sáng suốt để nhận thấy các xúc cảm hung hãn có thể ẩn chứa nơi mỗi con người khích động họ hành động.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>78. </strong>Sự hiểu biết, kinh nghiệm, sự quan sát cũng như các ngành y khoa, tất cả đều công nhận là một tâm thức lắng dịu, phi-bạo-lực sẽ mang lại một cuộc sống an bình và hài hòa. Độc ác, hận thù, các ám ảnh trong tâm thần có thể đưa đến các tác động ảnh hưởng đến thân xác và tình trạng sức khoẻ bình thường. Trái lại, một phong cách thanh thản và thư giãn sẽ gây ra các tác động tích cực làm thuyên giảm tình trạng ốm đau.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>79. </strong>Niềm hạnh phúc cũng như những nỗi khổ đau của chúng ta và của tất cả chúng sinh đều liên hệ với nhau thật chặt chẽ. Ý thức được sự liên hệ đó sẽ giúp mình phát huy được tình thương yêu, sự cởi mở và ân cần đối với kẻ khác. Tất cả chúng ta đều có thể tạo ra cho mình những kinh nghiệm cảm nhận ấy mà chẳng cần phải nhờ đến các giáo điều do các triết thuyết hay các truyền thống tôn giáo quảng bá.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>80. </strong>Mỗi khi cảm thấy một sự thèm khát hay bấn loạn hiện ra trong tâm thức thì chúng ta phải theo dõi ngay các tư duy và xúc cảm tiêu cực có thể xảy ra hầu giúp mình không rơi vào sự kiềm tỏa của chúng. Ý thức được sự hiển hiện của chúng sẽ giúp mình tránh được các hành động mang lại hậu quả của nghiệp tiêu cực. Chẳng hạn như nếu một người nào đó nhục mạ mình và ngay tức khắc mình phản ứng lại bằng sự giận dữ, thì sự kiện đó cho thấy là mình đã bị &amp;quot;điều khiển&amp;quot; bởi sự giận dữ do chính mình tạo ra, và không kịp suy nghĩ chín chắn hơn hầu có thể tìm một giải pháp tốt đẹp và thích nghi đối với sự việc đã xảy ra. Trường hợp đó cho thấy là chúng ta không chủ động được các hành động của mình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>81. </strong>Giữ gìn kỷ cương đối với chính mình không có nghĩa là tự nhủ: &amp;quot;Tôi không được làm việc này hay việc nọ vì đấy là các điều cấm kỵ&amp;quot;, mà đúng hơn là phải biết nghĩ đến các hậu quả ngắn hạn và lâu dài phát sinh từ cung cách suy nghĩ và các hành động của mình, hầu giúp mình ý thức được rằng một số hành động nào đó có thể gây ra khổ đau cho mình và cho kẻ khác. Cách giữ gìn kỷ cương căn cứ trên cách lý luận và phân tích ấy dễ áp dụng hơn so với những thứ kỷ cương dựa vào sự sợ hãi, chẳng hạn như sợ một người công an.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>82. </strong>Đạo đức giữ một vai trò ngày càng quan trọng hơn trong các xã hội tân tiến ngày nay. Thời buổi ngày nay không còn như trước nữa, các cơ quan truyền thông cũng như dư luận quần chúng luôn tìm cách xét đoán tác phong đạo đức của các nhà lãnh đạo, các chính trị gia, các bác sĩ, khoa học gia, cũng như các quan tòa và cả những người khác nữa. Nếu họ không biết tôn trọng đạo đức thì quần chúng và các cơ quan truyền thông sẽ phê phán và tố cáo họ thật quyết liệt. Các cách phản ứng đó buộc những người tham gia chính quyền phải hành động ngay thẳng hơn và bớt đạo đức giả hơn.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>83. </strong>Vai trò của các cơ quan truyền thông rất quan trọng trong các xã hội dân chủ của chúng ta ngày nay và sống trong các xã hội đó chúng ta được thừa hưởng sự tự do. Các cơ quan truyền thông luôn cố gắng quảng bá các giá trị nhân bản và tôn trọng tính cách khách quan. Tôi thường ví vai trò của các cơ quan truyền thông với cái vòi của một con voi, tức là phải thò mũi đánh hơi khắp mọi nơi hầu có thể tố giác những cảnh bất công và các sự bế tắc trong xã hội. Tuy nhiên ngoài việc tố cáo ra cũng không được quên là trước hết phải nhắc đến những gì tích cực trong thế giới này. Thông thường mỗi khi có một thảm họa xảy ra và biến thành một &amp;quot;tin tức&amp;quot; mang tính cách thời sự, thì người ta thường có khuynh hướng nói đến quá nhiều. Các thảm trạng và các chuyện bi thương tràn ngập các phương tiện truyền thông, trong khi đó những gì tích cực mang lại từ các nghĩa cử, lòng vị tha cũng như các công trình vô cùng ích lợi, đang xảy ra hằng ngày, nhan nhãn khắp nơi trên thế giới, thì chẳng mấy ai quan tâm đến. Thật là một điều đáng tiếc bởi vì những hành động tích cực ấy có thể làm gương cho nhiều người khác noi theo. Nếu chỉ nói đến những khía cạnh tiêu cực của bản chất con người, thì đến một lúc nào đó cũng có thể không còn ai tin vào bản chất tốt của con người nữa.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>84. </strong>Ngũ giác góp phần tạo ra các xúc cảm của con người. Vì thế âm nhạc, hội họa, nghệ thuật mang tính cách thiêng liêng nói chung có thể tạo ra các tác động ảnh hưởng đến các thể dạng xúc cảm của chúng ta và do đó cũng có thể giúp chúng ta chuyển hóa các xúc cảm tiêu cực nhằm biến chúng trở thành tích cực hơn.</p>
<p style="text-align: justify;">Đặc biệt nhất là đối với âm nhạc, bởi vì âm nhạc hàm chứa một phẩm năng mở ra cho chúng ta các cấp bậc thật sâu kín trong con người của mình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>85. </strong>Một cách tổng quát, thật hết sức quan trọng là phải tránh không được làm hại kẻ khác bằng bất cứ một hình thức bạo lực nào. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt nào đó, một tai hại nhỏ cũng có thể giúp tránh khỏi một tai hại to lớn hơn. Do đó, không nhất thiết bắt buộc lúc nào cũng phải áp dụng một cách máy móc các quy luật tổng quát, mà phải luôn xét đoán một cách thật cụ thể tùy theo từng cảnh huống xảy ra với mình. Tóm lại là tùy theo từng trường hợp cần phải cân nhắc giữa an vui và khổ đau với mục đích tạo ra khổ đau ít nhất.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>86. </strong>Mọi sự đều tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy, kể cả đối với khoa học. Chẳng hạn như trường hợp nếu sử dụng các khám phá về di truyền học để chữa trị bệnh tật thì đấy là một việc đáng khuyến khích. Thế nhưng nếu sử dụng các tiến bộ trong ngành khoa học này để làm hại kẻ khác thì đấy là một hành vi bạo lực.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>87. </strong>Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo. Không nên chỉ biết chờ đợi các đối tượng bên ngoài mang lại cho mình an vui và hạnh phúc, mà nên quan tâm đến phương cách vận hành của tâm thức mình nhằm biến cải nó. Đối với tôi, vấn đề tâm linh đích thật chính là cách phải biết suy nghĩ và hành động với tấm lòng vị tha.</p>
<p style="text-align: justify;">Một cuộc cách mạng tâm linh không phát sinh từ các điều kiện hay các tiến bộ bên ngoài, chẳng hạn như các máy vi tính hay các cách biến đổi và chữa trị não bộ, mà đúng hơn là nhờ vào những gì là mình, thuộc bên trong nội tâm mình, đấy là lòng mong muốn thật sâu xa được tự biến cải hầu giúp mình trở nên một con người cao cả hơn. Đấy là những điều mà chúng ta phải luyện tập, và cũng chỉ có cách ấy mới giúp cho một cuộc cách mạng tâm linh có thể xảy ra được.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>88. </strong>Các xúc cảm tiêu cực hiện ra bên trong tâm thức, tạo ra các tác động ảnh hưởng đến tâm thức và chi phối nó và do đó đã khiến cho con người trở thành nô lệ cho những gì tạo ra chính mình. . . Hầu hết các xúc cảm ấy phát sinh và tan biến một cách đột ngột, tương tự như lúc chúng sinh ra. Điều này không có nghĩa là chúng ta không cần phải e sợ sức mạnh của chúng, sức mạnh đó thật khủng khiếp vì nó có thể tàn phá chính mình và cả kẻ khác. Dù rằng Phật Giáo có đưa ra nhiều phương pháp ngăn chận và chuyển hóa các xúc cảm ấy ngay từ lúc chúng mới bắt đầu hiển hiện, thế nhưng tốt hơn hết là chúng ta cũng nên chú ý đến những gì xảy ra trong nội tâm mình. Sự chú tâm ấy chỉ có thể mang lại hiệu quả khi nào chúng ta nắm vững được các lý do thúc đẩy mình. Đấy là tất cả sự khác biệt giữa một phép tu tập tự mình chọn lựa nhằm giúp mình thăng tiến theo đường hướng mà mình mong muốn, và một phép tu tập mang tính cách áp đặt, khiến hầu hết mọi người vào một lúc nào đó sẽ trở nên bất mãn và chống lại. Chủ động được tâm thức mình có nghĩa là biết phân biệt các nguyên nhân nào đã thúc đẩy mình trên đường tu tập ấy, hầu giúp mình làm gia tăng nhiều hơn nữa sự tự tin và lòng quyết tâm của mình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>89. </strong>Làm cho nghiệp - tức là các tác động của quy luật nguyên nhân và hậu quả chi phối các chu kỳ hiện hữu - phải chấm dứt có nghĩa là xóa bỏ vô minh căn bản điều khiển toàn bộ các kiếp sống của mình. Vô minh làm phát sinh ra mọi thứ xúc cảm, nhất là các sự thèm khát, hận thù, ganh ghét, ham muốn, cũng như tất cả những thứ xúc cảm mang tính cách tiêu cực khác. Các thứ xúc này sẽ còn tiếp tục chi phối tâm thức chúng ta và biến nó trở thành nô lệ cho đến khi nào chúng ta chưa đạt được sự giác ngộ và loại bỏ được mọi thứ khổ đau. Điều này đáng cho chúng ta phải suy nghĩ hầu giúp mình tìm cách thoát ra khỏi các thứ xúc cảm tạo ra bởi tình trạng vô minh đó.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>90. </strong>Việc tu hành đích thật không phải là ở những nơi thờ phượng, mà là ở bên ngoài các nơi ấy, ở ngay giữa thế giới này, nơi mà chúng ta phải đối đấu với những cảnh huống của sự sống đích thật và chung đụng với những con người có thể gây ra mọi sự hận thù, thương yêu, thèm khát. . .</p>
<p style="text-align: justify;">Tu tập theo một tôn giáo nào cũng thế, không phải giản dị chỉ có việc khẩn cầu, mà đúng hơn là phải phát huy các xúc cảm tích cực như: tình nhân ái, lòng từ bi, lòng tốt, sự rộng lượng, biết ý thức trách nhiệm, hiến dâng không chờ đợi một sự hồi đáp nào và cũng không cần suy nghĩ ai là bạn hay thù.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>91. </strong>Nếu muốn vượt lên trên các xúc cảm tiêu cực thì nhất thiết chúng ta phải sử dụng đến trí thông minh của mình hầu phát huy sự hiểu biết giúp mình gia tăng thêm sức mạnh cho các xúc cảm tích cực, chẳng hạn như lòng từ bi, sự tin tưởng, tình thương và lòng nhân ái.</p>
<p style="text-align: justify;">Phát huy trí tuệ và sự hiểu biết song song với các xúc cảm tích cực, là cách duy nhất giúp chúng ta không những vượt lên trên các xúc cảm tiêu cực mà còn loại bỏ được chúng.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>92. </strong>Khổ đau trong tâm thần có thể bộc phát mãnh liệt hơn các khổ đau trên thân xác. Một người dù đang ốm đau, hoặc sống trong cảnh cơ hàn hay phải đối phó với mọi thứ khó khăn nhưng nếu biết giữ cho tâm thức lắng dịu và thanh thản thì vẫn có thể cảm thấy hạnh phúc. Tệ lắm thì hoàn cảnh cũng không tạo ra sự buồn phiền cho người ấy, hoặc chỉ gây ảnh hưởng tối thiểu mà thôi.</p>
<p style="text-align: justify;">Trái lại, một người sống trong một bối cảnh hài hòa thế nhưng nếu tâm thức thường xuyên bị các xúc cảm xung đột khuấy động thì sẽ không sao có thể đạt được những gì trên đây. Điều quan trọng hơn hết là nếu muốn tìm thấy một cuộc sống hạnh phúc thì phải tạo ra sự an bình trong tâm thức mình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>93. </strong>Hận thù, bám víu và ganh ghét sẽ làm cho tâm thức mất thăng bằng và khiến nó không còn giữ được sự bình thản trong các mối giao tiếp với người khác. Giữ một thái độ bình thản không có nghĩa là vô tình hay không cảm thấy liên hệ với các nỗi khổ đau của tất cả chúng sinh. Trái lại chọn thái độ ấy có nghĩa là phải đối xử với tất cả mọi người một cách bình đẳng không thiên vị, cũng không ghét bỏ, luôn với lòng từ bi và tình thương yêu, và nhất là phải giúp tất cả chúng sinh đạt được giác ngộ với tất cả nghị lực của mình, không phân biệt bất cứ một chúng sinh nào.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>94. </strong>Chúng ta thường hay chờ đợi người mà mình giúp đỡ bày tỏ sự biết ơn của họ bằng cách này hay cách khác. Nếu người này không tỏ bày gì cả thì chúng ta cũng có thể cảm thấy bùng lên trong tâm thức mình một sự tức giận hay oán hờn nào đó, hoặc cũng có thể nghĩ đến chuyện gây ra tai hại cho người ấy. Nếu chúng ta hằng tập luyện tâm thức và biết quán xét những gì xảy ra trong nội tâm mình, thì chúng ta sẽ có thể chận đứng được quá trình đang xảy ra và loại bỏ được các xúc cảm bấn loạn thúc đẩy chúng ta thực thi những hành động bạo lực.</p>
<p style="text-align: justify;">Ngoài ra cũng còn một giải pháp khác tương đối dễ thực hiện hơn, đấy là cách xem người mà mình đang phải đối phó như là một người thầy đứng ra tập cho mình phát huy sự nhẫn nhục và lòng từ bi. Hãy nghĩ ngay đến phương pháp này mỗi khi phải đối phó với các cảnh huống tương tự. Sau khi đã thực hiện được bước đầu thì quý vị sẽ cảm thấy chuyện ấy ngày càng trở nên dễ dàng hơn với mình, và nhờ đó quý vị sẽ tạo được sự an bình trong tâm thức mình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>95. </strong>Có nhiều phương cách luyện tập về sự kiên nhẫn. Thấu triệt được quy luật về nghiệp là một trong những phương cách đó. Vì thế khi nào gặp phải khó khăn trong công ăn việc làm hoặc phải đối phó với một vấn đề nào đó, thì quý vị hãy nghĩ ngay đến sự kiện chính mình phải chịu trách nhiệm về những thứ khổ đau mà mình đang gánh chịu, bởi vì chính mình đã tạo ra nguyên nhân mang lại những thứ khổ đau ấy cho mình.</p>
<p style="text-align: justify;">Thật vậy, dù rằng điều ấy cũng chẳng giải quyết được gì, thế nhưng cũng có thể giúp quý vị nhìn vào cảnh huống xảy ra bớt căng thẳng hơn, và biết dừng lại để quan sát cẩn thận hơn và ý thức được là mình phải tìm mọi cách để không gây ra thêm các nghiệp mới khác nữa bằng các tư duy kém &amp;quot;tốt lành&amp;quot; mà mình đang có.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>96. </strong>Vững tin nơi mình và các phẩm tính của mình không có nghĩa là một sự kiêu ngạo. Thật hết sức quan trọng là phải tự tin nơi mình, nơi tài năng và các phẩm tính cá biệt của mình, đấy là cách phát động lòng vững tin nơi sự hiện hữu của mình. Thật vậy dựa vào cơ sở đó mà các phẩm năng của mình mới có thể tạo ra được sự tốt lành và thân thiện cũng như lòng từ bi và tình nhân ái. Đức tin và sự tin tưởng thật hết sức cần thiết để phát huy các phẩm tính con người. Đấy là những mảnh đất mầu mỡ giúp cho những hạt giống nẩy mầm tạo ra các xúc cảm tích cực.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>97. </strong>Những người trưởng thành, dù có phải là cha mẹ của những đứa trẻ mà mình đang phải chăm sóc hay không, cũng đều có bổn phận phải nhất mực thương yêu chúng. Thật vậy, giáo dục nào có phải chỉ là phát triển trí óc, mà còn phải làm nẩy nở sự bén nhạy của tâm thức và con tim cũng như các phẩm tính khác của con người, chẳng hạn như lòng từ bi, sự ân cần, tình nhân ái và ý thức trách nhiệm.</p>
<p style="text-align: justify;">Hơn nữa đối với việc giáo dục các trẻ nhỏ thì còn phải giảng dạy cho chúng hiểu rằng tất cả chúng ta đều liên hệ với nhau trên toàn thế giới này. Đấy là cách giúp chúng biết ý thức sâu xa hơn về hậu quả mang lại từ sự suy nghĩ và các hành động của chúng.</p>
<p style="text-align: justify;">Sau hết, còn một điều thật quan trọng nữa là người lớn phải làm gương cho những đứa trẻ mà mình phải hướng dẫn và dạy dỗ, bởi vì làm gương là cách giảng dạy tốt nhất về những gì mà mình muốn truyền đạt lại sau này.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>98. </strong>Quả chỉ là ảo tưởng khi nghĩ rằng mình có thể biến cải kẻ khác mà không cần phải biến cải chính mình trước hết. Sự tiến triển hòa bình trên thế giới phải khởi sự bằng cách làm giảm bớt các sự xung đột đưa đến tình trạng xáo trộn giữa một số quốc gia, nhằm làm cho chiến tranh phải chấm dứt. Đối với việc làm giảm bớt sự bất công trong xã hội hầu kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn thì phải bắt đầu trước nhất bằng cách biến cải chính cá nhân con người của mình, đấy là cách tạo ra ảnh hưởng trực tiếp tác động đến môi trường chung quanh mình, gồm những người thân thuộc và gia đình mình.</p>
<p style="text-align: justify;">Một khi đã tạo được một bầu không khí từ bi và ân cần, thấm đượm tình nhân ái và những niềm hân hoan trong chu vi nhỏ hẹp đó, thì khi ấy mới có thể nghĩ đến việc mở rộng tầm tác động của các ảnh hưởng ấy vào các môi trường to rộng hơn gồm bạn hữu, láng giềng, và tiếp tục nhân lên ngày càng đông đảo hơn. Người phương tây thường gọi đấy mà &amp;quot;hiệu ứng của tuyết lăn&amp;quot;.</p>
<p style="text-align: justify;">Khi nào đã biến cải được tâm thức mình thì chúng ta mới bắt đầu biết quan tâm đến kẻ khác nhiều hơn, đấy chẳng qua là nhờ vào sức mạnh của lòng vị tha đã được nẩy nở trong nội tâm mình. Dựa vào tình thương yêu đó chúng ta sẽ có thể tạo ra các ảnh hưởng tác động đến toàn thế giới, và góp phần mình vào việc xây dựng hòa bình giữa con người và các quốc gia. Đấy là một điều vô cùng hệ trọng.<strong> </strong></p>
<p style="text-align: justify;"><strong>99. </strong>Trong cuộc sống thường nhật, nếu giữ cho tâm thức chúng ta càng thăng bằng, an bình và toại nguyện thì chúng ta sẽ càng cảm nhận được nhiều hạnh phúc hơn. Một tâm thức càng tỏ ra bất trị, không được luyện tập và tiêu cực, càng gây ra cho mình nhiều khổ đau trên phương diện tâm thần cũng như thể xác. Vì thế thật hết sức rõ ràng là một tâm thức kỷ cương và toại nguyện chính là cội nguồn mang lại hạnh phúc.</p>
<p style="text-align: justify;">Khi nào chúng ta khám phá ra được được thể dạng tâm thức kỷ cương và thanh thản ấy và làm cho nó thăng tiến đến một mức độ nào đó thì nó sẽ được gọi là &amp;quot;sự thật trên con đường đưa đến sự đình chỉ&amp;quot;. Các ảo giác sẽ bị loại trừ ra khỏi tâm thức, [và sở dĩ các ảo giác ấy đã phát sinh] là vì một sự nhầm lẫn từ nguyên thủy đã khiến mình nắm bắt các sự vật và biến cố [và xem chúng là thật].</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>100. </strong>Giáo huấn Phật giáo dạy cho chúng ta biết rằng trên dòng tiếp nối liên tục của các kiếp sống của mình, tất cả chúng sinh vào một lúc nào đó đều đã từng là cha hay mẹ mình. Tin vào sự kiện ấy sẽ làm giảm bớt ngay tức khắc các sự xung đột có thể xảy ra giữa hai con người với nhau, và đồng thời cũng gợi lên một tầm nhìn khác hơn đối với những người mà mình vẫn thường gọi là kẻ thù. Phải hiểu rằng tất cả những cảm nhận tiêu cực đều là hậu quả từ nghiệp trong quá khứ đã làm biến dạng cách nhìn của mình đối với một người mà mình nghĩ rằng đấy là một kẻ thù. Thế nhưng kẻ thù ấy cũng chỉ là các biểu hiện bên ngoài phát sinh từ các nhân tố do chính mình góp phần tạo dựng ra, và đấy chính là những gì đã làm biến đổi sự cảm nhận của chính mình. Thật hết sức quan trọng là phải ý thức được điều ấy, hầu giúp mình không tạo ra các xúc cảm tiêu cực đối với người khác hay đối với các nhân tố bên ngoài, và các nhân tố này thật ra cũng chẳng mang một trách nhiệm nào đối với những gì xảy ra với mình [bởi vì tất cả là do nghiệp của mình mà ra].</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>101. </strong>Thật hết sức quan trọng là chúng ta phải sống hòa mình với thế giới hầu có thể mang lại lợi ích cho kẻ khác. Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì phải hòa nhập với hiện thực và thời đại mà mình đang sống.</p>
<p style="text-align: justify;">Mang trọng trách của một người tu hành tôi có bổn phận phải cố gắng không ngừng trong việc đặt tín ngưỡng của tôi vào tầm tay của tất cả mọi người và phải làm thế nào để tín ngưỡng ấy có thể được áp dụng một cách dễ dàng trong thế giới tân tiến ngày nay.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>102. </strong>Tại các nước dân chủ nơi mà nhân quyền được tôn trọng, thì quyền được làm một con thú lại bị chà đạp một cách quá đáng. Theo nguyên lý tương liên giữa mọi chúng sinh và hiện tượng, tất cả chúng ta đều liên đới với nhau. Chúng ta thường dễ quên và không hề quán xét về hậu quả phát sinh từ cung cách hành xử tiêu cực sẽ gây ra những ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống của mình, trong ngắn hạn cũng như về lâu dài. Sự khai thác quá đáng súc vật và thiên nhiên sẽ gây ra trong tương lai những tác động vô cùng nguy hại, nhất là đối với thực phẩm và tình trạng sức khoẻ nói chung. Nếu chịu khó suy nghĩ thêm một chút thì tất chúng ta sẽ phải hiểu rằng thật hết sức cần thiết là phải tổ chức các hệ thống xã hội như thế nào để có thể bảo vệ môi trường và súc vật.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>103. </strong>Hầu hết các nguyên lý tôn giáo đều phát sinh từ cách quan sát thái độ và các xúc cảm của con người. Các nguyên lý ấy nhằm vào mục đích làm gia tăng thêm các phẩm tính tích cực của con người, chẳng hạn như lòng từ bi, tình nhân ái và sự tương trợ lẫn nhau. Giáo huấn và sự tu tập giúp cho người Phật Giáo đạt được niết bàn, tức là sự giải thoát khỏi mọi khổ đau. Ước vọng đạt được mục đích tối thượng ấy không có nghĩa là lơ là không quan tâm đến hoàn cảnh sống của mình. Tạo được các điều kiện sinh sống thuận lợi cũng là cách giúp chúng ta trợ giúp các chúng sinh khác được dễ dàng hơn. Chẳng hạn như trường hợp không có tiền thì không sao sống được. Điều đó quả thật hết sức chính đáng, thế nhưng phải đặt đồng tiền đúng vào vị trí của nó, chớ nên xem nó là một vị trời toàn năng. Quả thật là một điều hoàn toàn sai nếu nghĩ rằng đồng tiền có thể làm thoả mãn được các nhu cầu chủ yếu và căn bản của mình. Điều ưu tiên hơn hết là phải đạt được một tâm thức lành mạnh, vận hành theo chiều hướng tích cực hầu mang lại sự an bình cho con tim của mình. Tất cả các thứ khác đều là phụ thuộc.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>104. </strong>Quyền năng duy nhất và đích thật mà chúng ta có thể có được là phục vụ kẻ khác. Theo tôi, quyền năng ấy mới đúng thật là một thứ quyền năng chính đáng. Tất cả các hình thức quyền lực khác, nhất là quyền lực dựa vào sức mạnh của đồng tiền, luôn đòi hỏi phải thật cẩn trọng và ý thức, thế nhưng tiếc thay những người nắm giữ các quyền lực ấy lại thường hay quên mất điều này. Họ phải quan tâm nhiều hơn nữa hầu có thể cân nhắc kỹ lưỡng hơn để tìm hiểu xem các động cơ nào đã thúc đẩy mình hành động.</p>
<p style="text-align: justify;">Đối với những người làm chính trị cũng thế: dân chủ được xây dựng trên nguyên tắc phân quyền: tức hành pháp, lập pháp và tư pháp phải độc lập với nhau. Sự tách biệt đó là một cách bảo vệ chống lại những kẻ say mê quyền lực một cách điên rồ.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>105. </strong>Trên phương diện con người, tôi không hề phân biệt giữa một vị lãnh đạo quốc gia và một công dân khiêm tốn. Tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau. Chúng ta đều có những nhu cầu căn bản như nhau. Việc tu sửa tâm linh thật cần thiết cho tất cả mọi người. Tuy nói thế, nhưng tôi nghĩ rằng việc tu sửa sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn đối với những người nắm giữ trọng trách quốc gia, so với những &amp;quot;người dọ dẫm bước theo một con đường và sống bên ngoài thế tục&amp;quot;. Một vị lãnh đạo chính phủ, một chính trị gia hay một chủ nhân xí nghiệp là những nhân vật quan trọng trong xã hội. Các hành động mang tính cách tích cực hay tiêu cực của họ sẽ gây ra nhiều tác động hơn đối với đời sống của một số lớn con người. Nếu muốn tạo ra tính cách tích cực và các động cơ thúc đẩy chính đáng thì họ phải biết tu sửa tâm linh hầu giúp mình không phạm vào những hành động gây ra sai trái cho kẻ khác trên một bình diện thật rộng lớn. Quả hết sức khẩn cấp là những người lãnh đạo phải biết phát huy thái độ thương người và phải biết ý thức trách nhiệm của mình. Thế giới rất cần đến các điều ấy để kiến tạo hòa bình.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>106. </strong>Cách nay vài mươi năm, chẳng có ai quan tâm đến vấn đề môi sinh. Các nhà lãnh đạo và cả quần chúng đều sai lầm khi nghĩ rằng tài nguyên trên địa cầu sẽ bất tận. Ngày nay, hầu hết các đảng phái chính trị đều nói đến môi sinh. Sự chuyển hướng này sở dĩ đã xảy ra là nhờ vào các kinh nghiệm thực tế. Dù rằng hiện nay tất cả các chính quyền lãnh đạo chưa hoàn toàn tích cực trong việc bảo toàn tài nguyên thiên nhiên cũng như việc ngăn ngừa các hiệu ứng nhà kính và tệ nạn phá rừng gia tăng, thế nhưng rồi đây tất cả cũng sẽ phải dần dần bước theo con đường đã được vạch ra. Niềm hy vọng đó đã mang lại cho tôi thật nhiều can đảm giúp tôi hành động nhằm kiến tạo một tương lai tốt đẹp hơn.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>107. </strong>Các chúng sinh giác ngộ là tấm gương cho tất cả những người tu tập noi theo. Các chúng sinh ấy khuyến khích chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để có thể trở thành như họ, hầu giúp mình phát huy được trí tuệ và lòng từ bi như họ. Trí thông minh chỉ có thể giúp thực hiện được mục đích ấy khi nào nó không còn bị điều khiển bởi các thứ xúc cảm tiêu cực và độc hại, là nguồn gốc của khổ đau. Vì thế, trí thông minh khi được thúc đẩy bởi một động cơ tốt lành sẽ là một sự trợ lực quý báu vô ngần.</p>
<p style="text-align: justify;"><strong>108. </strong>Tình mẫu tử buộc chặt giữa người mẹ và con mình, không hề phát sinh từ một sự bám víu mang tính cách đam mê nào cả. Người mẹ không bao giờ chờ đợi bất cứ gì nơi đứa hài nhi trong vòng tay mình, mà chỉ cảm thấy là mình phải có bổn phận đối với nó, và luôn mong rằng sẽ tạo được niềm vui và mang lại sự an lành cho con mình dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tình thương yêu đó nếu không bị biến dạng, sẽ rất gần với lòng từ bi đích thật. Thật vậy trong sâu thẳm của lòng từ bi không có một chút bóng dáng nào của sự bám víu. Chính vì thế mà lòng từ bi đích thật phải được phát lộ không phân biệt giữa bạn hữu và kẻ thù. Khi nào đã đạt được cấp bậc tu tập ấy thì quý vị cũng sẽ không còn phân biệt giữa các chúng sinh với nhau, quý vị cầu mong cho tất cả đều được an vui. Quý vị chăm lo cho tất cả mọi người, vô điều kiện và không phân biệt một ai, kể cả đối với một người đang đứng trước mặt mình và đang tìm cách ám hại mình. Điều đó không làm cho quý vị xao xuyến bởi vì quý vị đã tìm thấy được sự an bình bên trong tâm thức mình. Tuy nhiên điều đó cũng không cấm cản quý vị phải thận trọng và tìm các biện pháp ngăn ngừa cần thiết, thế nhưng không được phát lộ một sự hận thù, giận dữ hay oán hờn nào.</p>
<p style="text-align: justify;"><em><strong>Theo sách 108 lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma</strong></em></p>

Sửa bởi pth77: 17/10/2014 - 11:31


#162 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 17/10/2014 - 11:57

Mod có ghé qua thì làm ơn sửa giùm tui bài trên với, đang làm dở thì mất, cảm ơn nhiều.
nguon:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi pth77: 17/10/2014 - 11:59


#163 ngonngon

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 684 Bài viết:
  • 446 thanks

Gửi vào 17/10/2014 - 12:32

1. Mỗi khi cảm thấy hoang mang và mất tự tin thì hãy nghĩ ngay đến các phẩm năng tuyệt vời của con người mà mình đang có, các phẩm năng ấy của quý vị chỉ mong sao được nẩy nở thêm. Vậy hãy giữ lòng hân hoan nhìn vào kho tàng quý giá đó đang được cất dấu bên trong nội tâm của quý vị: Hân hoan là một sức mạnh, vì vậy quý vị hãy phát huy nó.
2. Điều cốt yếu có thể mang lại hạnh phúc cho quý vị chính là biết hài lòng với những gì đang là chính mình trong những giây phút hiện tại. Sự toại nguyện bên trong nội tâm đó sẽ biến cải cảm quan của quý vị khi phóng nhìn vào vạn vật chung quanh, và nhất định quý vị sẽ tìm thấy sự an bình trong tâm thức.
3. Khi có kẻ gây ra tổn thương cho mình thì không nên do dự một chút nào cả, hãy tha thứ cho họ. Lý do là vì nếu nghĩ đến những gì đã thúc đẩy họ hành động như vậy thì quý vị tất sẽ thấy rằng đấy chính là những thứ khổ đau mà họ đang phải gánh chịu, chứ không phải là do họ quyết tâm và cố tình làm tổn thương và gây tai hại cho quý vị. Tha thứ là một cách xử sự tích cực dựa vào sự suy nghĩ, chứ không hề là một việc bỏ qua cho xong chuyện. Tha thứ là một hành động ý thức, căn cứ trên sự hiểu biết và chấp nhận thực trạng của những tình huống xảy ra với mình.
4. Hãy bố thí cho kẻ khác mà không mong đợi một sự hồi đáp nào và cũng không tính toán gì cả. Không vì mong muốn tìm sự thích thú mà bố thí hay là để người khác yêu quý mình, thì như thế mới đúng thật là một hành động bố thí mang lại niềm hạnh phúc cho mình. Đạo đức chính là những gì căn cứ trên lòng quyết tâm giúp đỡ kẻ khác. Điều duy nhất có thể mang tất cả chúng sinh có giác cảm đến gần với nhau chính là tình Thương Yêu.
5. Hãy cám ơn kẻ thù của quý vị vì họ là những vị thầy quan trọng nhất của mình. Họ tập cho quý vị đương đầu với khổ đau và phát huy sự nhẫn nhục, sự bao dung và lòng từ bi. Họ không chờ đợi bất cứ một sự hồi đáp nào.
6. Trang sức đẹp nhất mà quý vị đang có chính là tình thương yêu và lòng từ bi. Nếu quý vị tìm hiểu những gì có thể giúp mình đạt được hạnh phúc và mang lại an vui, thì quý vị tất sẽ phải nhận thấy trước hết là chúng liên quan chặt chẽ với các phẩm tính con người mà quý vị đang cố gắng trau dồi trong tâm hồn quý vị, và sau đó là cách suy nghĩ của tâm thức quý vị.
7. Không thể thực hiện được sự giải trừ vũ khí bên ngoài, nếu không có sự giải trừ vũ khí từ trong nội tâm mình. Bạo lực làm phát sinh ra bạo lực. Chỉ có sự an bình trong tâm thức mới có thể mang lại một cuộc sống thanh thản và phi-đối-nghịch. Sự giải trừ vũ khí toàn cầu là một trong những giấc mơ tha thiết nhất của tôi. Thế nhưng đấy cũng chỉ là một giấc mơ mà thôi. . .
8. Khổ đau trong tâm thần và về mặt tình cảm mà quý vị đang gánh chịu cũng tương tư như một người chỉ dẫn giúp quý vị trông thấy thái độ của mình là đúng hay sai. Tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời mà mình đang sống sẽ giúp lòng mình lắng xuống, hoặc giúp mình vượt lên trên những nỗi khổ đau đang gánh chịu, điều ấy có nghĩa là phải biến cải sự suy nghĩ trong tâm thức mình.
9. Hãy hân hoan trước hạnh phúc của kẻ khác, bởi vì đấy cũng là một dịp để mình tạo ra những phút giây vui sướng cho riêng mình. Hãy hân hoan khi chính mình được hạnh phúc, bởi vì thương yêu kẻ khác chỉ có thể thực hiện được bằng cách không nghĩ đến niềm yêu thương của chính mình. Thương yêu kẻ khác sẽ giúp quý vị phát huy được sự vững tâm và lòng tin tưởng. Phương cách mà quý vị cảm nhận về các cảnh huống xảy ra trong sự hiện hữu của mình sẽ đưa đến các thể dạng hoặc trung hòa, hạnh phúc hay khổ đau mà quý vị cảm nhận được trong cuộc sống của mình.
10. Tình yêu thương và lòng từ bi sẽ làm tan biến nỗi sợ hãi phát sinh từ cảm nhận cho rằng sự sống của mình chỉ là một sự áp đặt mà mình không có quyền lựa chọn. Một khi các xúc cảm tích cực ấy hiển lộ trong nội tâm mình thì sự tự tin cũng sẽ hiển hiện và mọi nỗi sợ hãi sẽ tan biến hết. Chính tâm thức mình đã tạo ra cái thế giới mà mình đang sống.
11. Tập khắc phục tâm thức là cách giúp mình sống hài hòa với chính mình và kẻ khác, dù là mình đang phải đối phó với bất cứ một cảnh huống nào. Không có một điều gì hay bất cứ ai có thể làm cho một người nào đó cảm thấy bất hạnh, nếu người này có một tâm thức minh mẫn đã loại bỏ được những xúc cảm phát sinh từ những xúc cảm đối nghịch.
12. Không thể nào tìm thấy được hạnh phúc nếu chúng ta không nhìn vào hiện thực mà chỉ biết đuổi theo ảo giác. Hiện thực không tốt đẹp cũng chẳng xấu xa gì cả. Vạn vật là như thế, không thể nào đúng với ý mình mong muốn là phải như thế. Quán thấy và chấp nhận điều ấy chính là một trong những chiếc chìa khoá mang lại hạnh phúc.
13. Phật Giáo dạy rằng những giây phút trước khi lìa đời thật hệ trọng, bởi vì đấy là dịp may cuối cùng giúp mình chuẩn bị cho sự hiện hữu của mình trong giai đoạn trung ấm (bardo) - tức là thế giới chuyển tiếp giữa cái chết và sự tái sinh - khởi sự hiện ra sau hơi thở cuối cùng. Nếu muốn được sống với một tâm thức an bình trong những giây phút cuối cùng ấy, thì người tu tập phải chuẩn bị suốt cả đời mình, và ngay trong những giây phút cuối cùng ấy phải tập trung tâm thức hướng vào một cảm tính nhân từ thật sâu xa, hoặc hướng vào mối dây tình cảm giữa người thầy và môn đệ, hoặc là vào Tánh Không và Vô Thường, hầu giúp mình tái sinh trong một hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Những giây phút trước khi lâm chung thật hết sức quan trọng vì đấy là lúc mà chúng ta có thể chủ động được thể dạng mà mình sẽ tái sinh.
Khi đã hiểu được cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào thì chúng ta nên hiểu rằng mình phải sống một cách thật trọn vẹn trong từng giây phút một, và chết trong an bình.
14. Các sự giận dữ, hận thù, ghét bỏ luôn phải cần đến một đối tượng để bộc phát, tương tự như lửa cần phải có củi khô để bốc cháy. Mỗi khi gặp phải nghịch cảnh, hoặc có kẻ khiêu khích mình hay làm hại mình, thì quý vị hãy tận dụng sức mạnh của phẩm tính nhẫn nhục để giúp mình không rơi vào sự chi phối của các thứ xúc cảm tiêu cực. Nhẫn nhục phát sinh từ khả năng chịu đựng không lay chuyển của mình. Nếu quý vị phát huy được sự nhẫn nhục thì sẽ không có bất cứ điều gì hay bất cứ một ai có thể khuấy động được tâm thức của quý vị.
15. Hãy tổ chức cuộc sống của mình hướng vào những gì giá trị có thể mang lại một ý nghĩa nào đó cho sự hiện hữu của mình, có nghĩa là không để cho các thứ lạc thú và những gì trần tục lôi cuốn mình vào một cuộc sống bên ngoài con người của chính mình. Hãy mang lại cho mình một kiếp sống biết gánh vác một trọng trách lớn lao: đó là lý tưởng phục vụ kẻ khác.
16. Nếu đã là một hành động nhân từ thì không thể nào có thể đánh giá nó là nhỏ hay to lớn được, bởi vì tất cả mọi hành động nhân từ đều góp phần vào việc xây dựng hòa bình trên thế giới. Điều hệ trọng duy nhất là hiến dâng tất cả cho kẻ khác và lấy đó làm niềm hạnh phúc cho mình. Phẩm tính lớn nhất của con người là lòng vị tha.
17. Đừng đánh mất thì giờ vì ganh tị hay cải vả. Hãy suy tư về vô thường để ý thức được giá trị của sự sống. Nếu muốn tạo ra sự an bình trong tâm thức và con tim mình thì phải thay đổi các thói quen tâm thần. Nếu không muốn hóa điên vào lúc bắt buộc phải rời bỏ thế giới này, thì quý vị phải tu tập ngay từ bây giờ để hiểu rằng không nên bám víu vào mọi sự vật và đừng mơ tưởng rằng đấy là những thứ mà rồi đây mình có thể mang theo khi chết.
18. Chớ bỏ mặc tấm thân này, nhưng cũng đừng quan tâm đến nó một cách quá đáng, mà phải kính trọng nó, chăm sóc nó như một thứ dụng cụ quý giá và cần thiết hầu giúp cho tâm thức mình đạt được Giác Ngộ.
19. Các hành động mà quý vị thực thi phản ảnh từ tư duy và các cảm tính của quý vị. Tự chúng thì các hành động ấy không mang tính cách tích cực hay tiêu cực. Tích cực hay tiêu cực là tùy thuộc vào sự chủ tâm thúc đẩy và làm phát sinh ra các hành động ấy. Chính sự chủ tâm sẽ tạo ra nghiệp, tức là những cảm nhận tạo ra bởi quy luật nguyên nhân và hậu quả, khiến quý vị cảm thấy cuộc sống của mình có vẻ như là hạnh phúc hay khổ đau.
20. Đối với với việc bố thí trước hết là không được làm tổn thương kẻ khác. Đấy cũng là cách không gây ra tai hại cho chính mình, bởi vì nếu tạo ra sự sai trái cho kẻ khác thì chính đấy cũng là cách tự gây ra tổn thương cho chính mình.
21. Không thể nào nắm bắt được hiện tại. Không có gì tồn tại mãi trong thế giới này, không có bất cứ gì tự chúng có thể hiện hữu được. Vậy thì cố gắng nắm bắt và chiếm giữ các đối tượng giác cảm mà quý vị cảm nhận được trong hiện tại để mà làm gì? Tự nơi chúng, chúng không hàm chứa một thực thể nào cả. Chúng chỉ là hậu quả của vô số nguyên nhân và điều kiện đã tạo tác ra chúng. Chúng không sinh ra để mà tồn tại, chẳng qua cũng vì chúng luôn biến đổi trong từng giây phút một. Vì thế quý vị không nên nắm bắt bất cứ một thứ gì cả.
22. Sự thèm muốn không kiềm chế được sẽ biến tâm thức con người trở thành nô lệ và nó sẽ không bao giờ để cho tâm thức được yên vì nó luôn thúc đẩy tạo ra vô số các cảnh huống trong sự sinh hoạt hằng ngày, nhằm giúp nó đuổi theo các đối tượng của sự thèm muốn mà nó chưa đạt được. Kiềm chế và khắc phục được sự thèm muốn sẽ giải thoát con người ra khỏi mọi cảnh huống xảy ra, dù đấy là hạnh phúc hay khổ đau, và sẽ mang lại sự an bình cho con tim và tâm thức mình.
23. Tập nhẫn nhục là tập phát động lòng từ bi đối với những kẻ làm mình tổn thương, nhưng không chấp nhận để cho họ tàn phá mình. Lòng từ bi là vị lương y tốt nhất để chữa lành tâm thức, giải thoát cho tâm thức khỏi những sự bám víu và các xung năng đối nghịch.
24. Chẳng qua là vì vô minh và thiếu sự nhận xét sáng suốt nên chúng ta liên tiếp tạo ra mọi thứ bất hạnh cho mình. Tâm thức luôn bị giằng co giữa những gì mà mình ưa thích và những gì mà mình ghét bỏ. Chúng ta hành động như bất cần quan tâm đến các cảnh huống đang hiện ra với mình. Chúng ta quên rằng tất cả không có gì tồn tại và tự nó hiện hữu cả. Chúng ta cũng quên là mình có thể chết bất cứ lúc nào.
25. Bám víu vào các đối tượng của giác cảm sẽ làm cho tâm thức thèm thuồng và bệnh hoạn. Gom góp được thật nhiều của cải không có nghĩa là làm cho tâm thức được an bình một cách tương xứng. Hãy nhìn vào những kẻ có đầy đủ tiện nghi vật chất, họ có thể tự cung phụng cho mình suốt đời, thế nhưng họ vẫn sống trong tình trạng âu lo, buồn khổ, bất toại nguyện và khép kín. Họ không hiểu rằng hiến dâng sẽ mang lại một niềm hân hoan to lớn nhất. Họ cũng không thể hiểu được là không cần phải có thật nhiều của cải mới đủ sức hiến dâng một nụ cười hầu giúp cho kẻ khác được sung sướng. Các tiện nghi vật chất của họ thật dồi dào, thế nhưng chúng không hề mang lại cho họ được một mảy may hạnh phúc nào, bởi vì chỉ có một cách duy nhất trong số tất cả các phương tiện mà chúng ta có thể có được nhằm giúp cải thiện cuộc sống nội tâm của mình: đấy là sự tu sửa tâm linh.
26. Tôi xin nguyện được sử dụng sự hiện hữu này của tôi và không dám phí phạm một giây phút nào, để góp phần vào việc giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau và những nguyên nhân gây ra khổ đau, và giúp chúng sinh tìm thấy hạnh phúc cũng như nhìn thấy những nguyên nhân nào sẽ mang đến hạnh phúc. Tôi xin luôn ghi nhớ rằng việc phát lộ lòng từ bi đối với chúng sinh sẽ phải bắt đầu trước hết bằng cách phát lộ lòng từ bi đối với chính mình, nhưng sự phát lộ đó không được hàm chứa một chút dấu vết nào của sự ích kỷ, bởi vì tất cả chúng ta đều thuộc chung trong cùng một cộng đồng chúng sinh.
27. Sự vững tin đạt được bằng phép thiền định phân tích sẽ giúp biến cải được tâm thức mình. Sự biến cải đó đòi hỏi nhiều thời gian, và việc thực hiện cũng rất gần với các phương pháp khoa học. Phân tích các thứ xúc cảm làm cho mình bị đảo điên và xao động sẽ giúp mình biết chọn lựa những liều thuốc hóa giải nào hiệu nghiệm và phù hợp nhất với những gì mà mình mong cầu, chẳng hạn như thoát ra khỏi sự chi phối của các xúc cảm bấn loạn nhằm giúp mình đạt được sự giác ngộ. Nên nhớ rằng hai xung năng đối nghịch không thể nào có thể cùng hòa nhập với nhau trong tâm thức được. Do đó trong trường hợp nếu chúng ta nổi giận với một người nào đó chẳng hạn, thì hãy nghĩ ngay là phải phát lộ tình thương đối với người ấy. Nếu làm phát sinh được tình thương trong lòng mình thì sự giận dữ cũng sẽ biến mất trong tâm thức mình. Tình thương là liều thuốc hóa giải sự giận dữ.
28. Tất cả đều mang tính cách vô thường, và cũng chính nhờ đó mà chúng ta mới có thể biến cải được tâm thức và các xúc cảm bấn loạn làm xao động tâm thức mình. Chẳng hạn như sự phát lộ của các xúc cảm hận thù và giận dữ đều phải lệ thuộc vào các cảnh huống xảy ra. Tự nơi chúng, chúng không hề hàm chứa một sự hiện thực nào, cũng không hiện hữu một cách thường xuyên trong tâm thức mình, và cũng chính nhờ thế mà chúng ta mới có thể khắc phục, biến cải và loại trừ được chúng. Nếu muốn thực hiện được việc ấy thì nhất thiết phải đặt chúng vào các bối cảnh mà chúng phát sinh và phân tích xem chúng bộc phát trong các tình huống như thế nào, hầu giúp mình tìm hiểu chúng. Thực hiện được một thể dạng phúc hạnh lâu bền có nghĩa là loại trừ ra khỏi tâm thức những xúc cảm tiêu cực.
29. Khổ đau không phải là phi lý và cũng không phải là vô ích, đơn giản đấy chỉ là kết quả của nghiệp mà thôi, đấy là quy luật nguyên nhân và hậu quả chi phối các chu kỳ hiện hữu. Thật hết sức khó để hiểu được điều này nếu không tin vào hiện tượng tái sinh. Tư duy và hành động của mình từ những kiếp sống quá khứ sẽ tạo ra hậu quả - có thể là tích cực hay tiêu cực, tất cả đều tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy làm phát sinh ra chúng. Nguyên tắc ấy lúc nào cũng đúng, đối với bất cứ một dân tộc nào hay trong một xứ sở nào. Những gì xảy ra với dân tộc Tây Tạng là kết quả của nghiệp. Thế nhưng tuyệt nhiên điều đó không có nghĩa là không được phép tìm cách tái lập nhân quyền ở Tây Tạng, cũng như tín ngưỡng, nền triết học đặc thù và văn hoá ngàn năm, tiêu biểu cho nền văn minh của chúng tôi phải được tôn trọng. Không nên nhầm lẫn nghiệp với định mệnh, mà phải rút tỉa kinh nghiệm từ các bài học trong cuộc sống hầu giúp mình biết hành động một cách tích cực và có trách nhiệm hơn.
30. Làm thế nào để có thể phát triển hoà bình trên thế giới nếu không biết kính trọng thiên nhiên? Tất cả chúng ta, từ con người cho đến muôn thú, đều gắn bó với nhau trong cùng một ước vọng mang tính cách toàn cầu ấy là xa lánh khổ đau và tạo được những điều kiện thuận lợi hầu mang lại cho mình một cuộc sống tốt đẹp và an lành. Điều hết sức quan trọng cần phải luôn tự nhắc nhở mình là sự mong muốn thoát khỏi khổ đau chính là quyền căn bản nhất của tất cả chúng sinh có giác cảm. Nhằm giúp mọi người biết tôn trọng đặc quyền ấy chúng ta phải tự biến cải lấy chính mình trước hết để làm gương cho kẻ khác.
31. Luyện tập để phát động lòng từ bi là tâm điểm của con đường Phật Giáo. Phát huy phẩm tính ấy là một điều thật cần thiết, bởi vì nó sẽ giúp chúng ta hành động một cách đúng đắn hơn vì sự an vui của kẻ khác và cũng giúp mình hiểu được phải làm thế nào để không tạo ra thêm cội nguồn mang lại khổ đau cho mình và cho những khác, tức là không tạo ra thêm nghiệp "xấu". Từ bi là một thứ xúc cảm thật sâu xa hướng vào tất cả những người đang phải gánh chịu khổ đau, không chút mảy may phân biệt. Lòng từ bi phát sinh từ ước vọng sâu xa được giúp đỡ kẻ khác. Nếu một người tu hành Phật Giáo muốn duy trì được sức mạnh của niềm ước vọng đó thì hằng ngày phải tự nhắc nhở mình bằng câu sau đây: "Cầu mong sao cho tôi có thể giúp đỡ được tất cả chúng sinh có giác cảm loại trừ được khổ đau và cả cội nguồn gây ra khổ đau, hầu giúp họ trông thấy được đâu là các nguyên nhân và điều kiện mang lại cho mình sự giác ngộ.
32. Tất cả chúng ta đều mong muốn được hạnh phúc, không một ai muốn gánh chịu khổ đau. Nếu muốn biến cải tâm thức mình thì thật hết sức quan trọng là phải hiểu được điều đó. Khi nào ý thức được hiện thực ấy thì tức khắc một niềm quý mến bao la và một tình thương cảm mênh mông đối với đồng loại sẽ hiển lộ trong tâm thức mình. Thế nhưng điều ấy chỉ có thể thực hiện được khi nào chúng ta cũng biết tỏ lộ tình thương và sự kính trọng đối với chính mình. Thật hết sức hão huyền nếu nghĩ rằng mình đủ sức yêu thương kẻ khác trong khi đó thì mình lại thù ghét mình và không chấp nhận thực trạng của chính mình.
33. Nguyên tắc tương liên giữa chúng sinh và mọi hiện tượng cho thấy là cá nhân mình luôn liên kết với kẻ khác, với thiên nhiên và cả vũ trụ này. Tất cả chúng ta đều lệ thuộc vào nhau, điều đó cho thấy là chúng ta phải gánh chịu trách nhiệm về cách suy nghĩ, phương cách sống, cũng như từng hành động thật nhỏ nhặt của mình, bởi vì tất cả những thứ ấy đều ảnh hưởng đến toàn thể vũ trụ. Hơn nữa, bởi vì tất cả những gì hiện hữu đều tương tác chặt chẽ với nhau, nên chúng ta phải có bổn phận giúp đỡ tất cả chúng sinh có giác cảm loại bỏ khổ đau và nhận thấy được đâu là cội nguồn của hạnh phúc. Giúp đỡ chúng sinh cũng có nghĩa là phải đối phó với các nguyên nhân mang lại khổ đau, trực tiếp liên hệ đến tất cả chúng ta. Đấy là cách hiểu biết đúng đắn về quy luật tương liên.
34. Dù được một vị thầy giúp đỡ hay không, thì mỗi người trong chúng ta đều phải tự mình tìm lấy một phương cách tu tập phù hợp với mình nhất và đáp ứng được các nhu cầu riêng của mình. Tiêu chuẩn trên đây là điều tiên quyết giúp mình biến cải nội tâm, mang lại an bình cho tâm thức và phát huy các phẩm tính tích cực hầu giúp mình trở thành một con người tốt. Do đó điều hết sức quan trọng là các vị thầy phải biết thuyết giảng tùy theo xu hướng tâm linh và khả năng tinh thần của từng người, tương tự như chính Đức Phật đã từng làm như vậy vào thời đại của Ngài. Quý vị nào có ăn uống giống hệt với những người hàng xóm của mình đâu - mỗi người ẩm thực tùy theo sự cấu tạo cơ thể của mình – thì đối với các món ăn tinh thần cũng thế thôi.
35. Hạnh phúc của mình lệ thuộc vào hạnh phúc của kẻ khác, vì thế thật hết sức hệ trọng là phải cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để giúp kẻ khác đạt được hạnh phúc. Đôi khi chúng ta cũng có cảm giác bất lực không sao có thể cứu giúp kẻ khác được, thế nhưng chúng ta không được nản lòng mà phải tiếp tục hành động trong chiều hướng tích cực. Nếu làm được như thế thì chúng ta mới có thể triển khai được trong nội tâm mình khả năng phát động lòng vị tha đích thật mang lại sự an bình trong tâm thức mình.
36. Nếu việc giúp đỡ kẻ khác tỏ ra quá khó khăn đối với mình, thì cứ hành động như là một người ích kỷ cũng chẳng sao, thế nhưng phải hành động một cách thông minh. Nói như thế có nghĩa là phải hiểu rằng làm được điều tốt cho kẻ khác sẽ tạo ra những mối dây liên hệ thân thiện hơn với họ và đưa đến những điều kiện thuận lợi hơn hầu giúp mình mang lại hạnh phúc và tìm thấy sự thanh thản cho chính mình.
37. Các phương pháp khơi động lòng từ bi phải được phát huy song song với sự hiểu biết và trí tuệ thì mới có thể đưa đến các hành động đúng đắn và thích nghi được. Sự hiểu biết và trí tuệ không thể thiếu sót trong việc tìm hiểu bản thể đích thật của mọi sự vật và bản chất căn bản của tâm thức. Một sự thẩm định chính xác những gì mà mình cảm nhận được cũng như những gì mà mình đang sống chỉ có thể thực hiện được bằng cách quan sát một vật thể hay một cảnh huống dưới nhiều góc cạnh khác nhau, hầu có thể mang lại một giải đáp thích nghi và minh bạch giúp mình vượt lên trên các phản ứng và xúc cảm tiêu cực.
38. Nếu muốn đạt được sự giác ngộ, thì điều hết sức quan trọng là phải cảm nhận được thực tại một cách đúng đắn. Nhằm giúp nắm bắt dễ dàng hơn thực tại ấy, Phật Giáo chủ trương phải vận dụng khái niệm về hai sự thật: sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối. Sự thật tương đối là những gì mà chúng ta cảm nhận được bằng các giác quan của mình. Sự thật tuyệt đối không thể mô tả ra được bởi vì nó vượt lên trên mọi khái niệm. Theo kinh sách, hai sự thật đó bổ khuyết cho nhau, không thể tách rời nhau và phải luôn luôn lệ thuộc vào nhau, tương tự như một con chim cần phải có đôi cánh để bay. Hiện thực phải nhờ vào cả hai sự thật ấy.
39. Thông thường thì chúng ta cảm nhận bản chất của mọi sự vật một cách sai lầm. Sự lệch lạc giữa những gì đúng thật và những gì mà mình cảm nhận được chính là nguyên nhân đưa đến khổ đau. Biến cải tâm thức để nhìn thấy hiện thực cũng có nghĩa là tập nhìn hiện thực đúng với hiện thực, không diễn đạt, trung thực với từng giây phút trong hiện tại. Nhờ đó chúng ta sẽ không còn nắm bắt hiện thực tùy theo các phóng tưởng của tâm thức mình nữa. Đấy là điều kiện căn bản nhất giúp cho tâm thức được an bình.
40. Đối mặt với khổ đau của kẻ khác cũng có thể sẽ khiến mình cảm thấy kinh hoàng và bị tràn ngập bởi nỗi khổ đau của họ, và đấy lại có thể làm gia tăng thêm khó khăn cho chính mình. Các cảm giác ấy không phải là những kinh nghiệm cảm nhận phát sinh từ lòng từ bi. Nếu đúng là trường hợp của lòng từ bi đích thật, thì một sự can đảm vô biên tất sẽ phải bùng lên trong lòng mình, thay vì là sự bất an hay kinh hoàng. Lòng ước mong cố gắng làm tất cả những gì mà mình có thể làm được nhằm làm vơi đi khổ đau của kẻ khác sẽ vụt trở thành quan trọng hơn là những khổ đau của riêng mình. Các hành động thúc đẩy bởi lòng từ bi sẽ mang lại một niềm hân hoan vô tận.
41. Mọi vật thể cấu hợp chỉ rồi để tan biến mà thôi, chúng đều vô thường, tạm thời và có tính cách giai đoạn. Thân xác chúng ta cũng thế, nhưng tiếc thay chúng ta lại thường hay quên đi điều ấy, chẳng qua là vì chúng ta bám víu vào thân xác mình một cách quá đáng. Đối với một số người mỗi khi nghĩ đến sự thật ấy thì họ cảm thấy khổ đau vô ngần. Nhận biết được thế nào là bản thể đích thật của mọi sự vật sẽ giúp chúng ta chấp nhận dễ dàng hơn là chẳng có gì tự chúng hiện hữu cả, và bản chất của khổ đau cũng thế, cũng phù du, nhất thời và không hiện hữu một cách tự tại. Sự hiểu biết ấy giúp chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều mỗi khi gặp phải những cảnh huống khó khăn và bực dọc trong cuộc sống, hoặc phải đối phó với một số thử thách nào đó.
42. Một vài khát vọng hay ước mong nào đó cũng có thể chấp nhận được trên bước đường tu tập tâm linh. Chẳng hạn như đối với một người tu tập Đạo Pháp thì đấy là niềm ước mong khắc phục được tâm thức mình, và đối với những người tin có Trời thì niềm ước mong của họ là làm sao cho Trời được vui lòng. Những ước mong ấy đều chính đáng. Trái lại, những thứ ham muốn hướng vào các đối tượng bên ngoài chỉ tạo ra sự bám víu và các xúc cảm tiêu cực trong tâm thức mình mà thôi, các thứ ham muốn này quả thật không chính đáng một chút nào cả. Thật hết sức quan trọng là phải giới hạn các thứ thèm muốn và trói buộc ấy. Quả chỉ là một ảo giác khi tin rằng thế giới bên ngoài một ngày nào đó sẽ có thể làm thoả mãn được các khát vọng của mình.
43. Người Tây Tạng rất quan tâm đến thời kỳ đang mang thai. Kể từ lúc mới bắt đầu thụ thai cho đến hết thời gian khi thai nhi còn trong bụng, người mẹ phải giữ tâm thức thật thanh thản, và luôn cảm thấy hạnh phúc và an bình, đấy là cách giúp cho con mình nẩy nở một cách hài hoà. Trong thế giới Tây phương, thái độ giữ gìn ấy ngày càng phổ biến, và nhiều người cũng đã bắt đầu ý thức được rằng một người mẹ lo âu, giận dữ, tham lam, ganh ghét, sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến thai nhi trong bụng mình. Chúng ta cũng nên khuyến khích người mẹ cho con bú nếu có thể được, vì dòng sữa mẹ nói lên lòng yêu quý con người. Các khám phá y khoa cũng cho biết là các cử chỉ âu yếm đối với một hài nhi sẽ giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển não bộ của nó.
44. Cải thiện tâm thức mình đôi khi có vẻ như là một việc rất khó thực hiện đối với những người tây phương với cuộc sống tân tiến và trong bối cảnh sinh hoạt của xã hội ngày nay. Dầu sao thì tất cả cũng còn tùy thuộc vào sức mạnh của lòng quyết tâm của mình, vì sức mạnh ấy sẽ mang lại cho mình lòng nhiệt tâm vô biên giúp mình bước vào sự tu tập không một chút chần chờ, dù là đang ở trong hoàn cảnh nào. Vì thế, nếu thực tâm thì nhất định chúng ta cũng có thể tu tập để biến cải tâm thức mình và đồng thời vẫn tiếp tục đảm đang công ăn việc làm, đời sống gia đình, các sinh hoạt khác, cũng như các công việc lặt vặt hằng ngày.
45. Biến cải tâm thức, phát huy các phẩm tính của tình thương và lòng từ bi, cải thiện con người của mình, tất cả những thứ ấy đều nhất thiết tùy thuộc vào sức mạnh của lòng quyết tâm của chính mình. Nhằm củng cố và khơi động sức mạnh ấy, cần nhất là phải quay nhìn vào nội tâm mình, quan sát chính mình một cách cẩn thận, và phát động niềm ước vọng sẽ cố gắng tự cải thiện mình và học hỏi thêm. Nhờ trí thông minh chúng ta phải biết cố gắng giữ vững đường hướng tích cực ấy, và từ đó trí tuệ cũng sẽ tăng trưởng một cách tương xứng. Cách tiếp cận trên đây, ít nhất là đối với các bước đầu tu tập, nhất thiết phải dựa vào trí tuệ và lý trí.
46. Sự sinh hoạt nghề nghiệp trong cuộc sống thường nhật chiếm rất nhiều thì giờ, thế nhưng không phải vì thế mà mọi người không tìm được những khoảng thòi gian để thư giãn: nào là đi dạo mát, đi chơi cuối tuần hay đi nghỉ hè. Nếu thật sự mong muốn biến cải chính mình thì thiết nghĩ lúc nào quý vị cũng có thể tìm được thì giờ để thực hiện việc ấy. Chỉ cần niềm ước vọng của quý vị phải thật sâu xa.
47. Trong giai đoạn đầu khi mới bước vào con đường tu tập tâm linh thì mọi sự đều có vẻ rất khó. Thế nhưng cũng chính nhờ đó mà mình mới gặt hái được nhiều kinh nghiệm hơn, và dần dần niềm khát khao và lòng quyết tâm của mình muốn được bước theo con đường ấy sẽ trở nên vững vàng và kiên quyết hơn, giúp mình biến cải tâm thức trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù là tại nơi làm việc hay trong bối cảnh gia đình, hoặc trong những lúc phải làm các công việc lặt vặt hằng ngày. Nhờ đó chúng ta sẽ trở nên tỉnh giác và chú tâm hơn. Cách hành xử ấy sẽ phản ảnh thật rõ nét qua các sự sinh hoạt và thái độ hành xử của mình đối với những người chung quanh.
Tu tập Đạo Pháp tức là tự tu sửa trong từng giây phút một hầu biến cải chính mình, bằng cách sử dụng thì giờ của mình một cách thật khôn khéo.
48. Nếu chúng ta cảm thấy ham muốn được thành công như một người bạn đồng nghiệp may mắn hơn mình, hoặc cảm thấy ganh tị khi trông thấy một kẻ nào đó có một vật gì quý giá, thì hãy tức khắc tìm cách chuyển hóa ngay tâm thức mình bằng các liều thuốc hoá giải nhằm giúp mình loại bỏ các xúc cảm tiêu cực ấy. Nếu muốn đối phó với các tình trạng như trên đây thì cách tốt nhất là chúng ta nên tập phát lộ lòng hân hoan và vui sướng trước hạnh phúc của kẻ khác.
49. Không có một giới hạn nào có thể ngăn chận được niềm khát vọng của chúng ta trước sự mong cầu tìm hiểu tâm thức mình và khả năng triển khai các phẩm tính con người của mình. Chúng ta có thể phát huy niềm khát vọng ấy đến vô tận, có nghĩa là mình sẽ chẳng bao giờ cảm thấy thỏa mãn với những gì mà mình đã thực hiện được. Thế nhưng tại sao mình lại không bao giờ có thể triển khai trọn vẹn được các phẩm tính như lòng từ bi, tình thương yêu và sự bao dung? Bởi vì lòng khát vọng triển khai các phẩm tính nội tâm ấy thật vô cùng sâu xa, bát ngát và vô biên.
50. Chúng ta phải thật cảnh giác đối với bản chất của các động cơ thúc đẩy mình. Nếu bản chất ấy mang tính cách nhân từ thì tất nó sẽ phải phản ảnh qua từng hành động trên thân xác, ngôn từ và tâm thức mình. Thay đổi các thói quen tâm thần thật hết sức cần thiết hầu giúp cải thiện tâm thức và các hành động phát sinh từ tâm thức. Chẳng hạn như không được gây ra những điều sai trái cho kẻ khác, luôn phải tự cảnh giác không để mình bị chi phối bởi các sự kiêu ngạo và ganh tị, không nên lúc nào cũng cứ tính toán về chuyện được thua; chẳng qua là vì khi nào các thứ xúc cảm tiêu cực ấy không còn xâm chiếm mình nữa thì cung cách hành xử của mình cũng theo đó mà thay đổi, chúng ta sẽ trở nên vị tha hơn, và sự sinh hoạt của chúng ta trong cộng đồng xã hội cũng sẽ mang lại lợi ích cho người khác.
51. Mỗi con người đều có một bản chất riêng và các xu hướng khác nhau, vì thế thật khó để bảo rằng một thứ gì đó lại có thể mang tính cách lợi ích chung cho tất cả mọi người. Tuy nhiên tôi nghĩ rằng cũng có thể khuyên tất cả mọi người hãy trau dồi tinh thần giác ngộ, đấy là tình thương người và lòng quyết tâm tự cải thiện chính mình hầu có thể giúp đỡ kẻ khác, và giúp mình biết suy tư về vô thường dưới tất cả các khía cạnh khác nhau.
Vô thường dưới các góc cạnh "thô thiển" và dễ nhận thấy sẽ hiện ra qua các thể dạng vật chất của sự hiện hữu; vô thường "tinh tế" hơn hiện ra trong từng giây phút một đối với con người của mình, đối với bối cảnh chung quanh và cả bên trong tâm thức mình. Thiền định về vô thường sẽ giúp hiểu được bản chất đích thật của khổ đau là gì. Sự hiểu biết về bản chất ấy sẽ giúp mình tránh khỏi những điều kiện và nguyên nhân làm phát sinh ra các hậu quả tiêu cực trong các kiếp sống của mình, và cũng sẽ giúp mang lại sự an bình trong tâm thức mình.
52. Chúng ta gán cho quá khứ và tương lai một tầm quan trọng quá to lớn. Chúng ta sống và xem quá khứ cũng như tương lai cứ đang sờ sờ ra đó, để rồi lại quên mất đi là mình đang sống trong hiện tại. Điều thiết yếu nhất là phải sống trong từng khoảnh khắc của hiện tại, bởi vì đấy là những lúc duy nhất mà chúng ta có thể thật sự biến cải tâm thức mình bằng cách phát huy những xúc cảm tích cực giúp mình có thể chăm lo cho kẻ khác.
53. Thiền định là một cách suy tư giúp chúng ta nắm bắt hiện tại dễ dàng hơn, và để sống với nó một cách thanh thản hơn, không bị ám ảnh bởi những gì thích thú hay ghét bỏ như khi phóng nhìn vào quá khứ hay tương lai. Mỗi khi gặp phải một vấn đề khó khăn thì điều hết sức thiết yếu là phải đánh giá sự cố ấy đúng với tầm quan trọng của nó. Nếu có một giải pháp thì nên mang ra thực hiện ngay. Thế nhưng nếu không có một giải pháp nào cả thì dù có lo âu cũng vô ích, nếu không thì cũng chỉ là cách khiến cho sự bất an của mình nặng nề thêm thế thôi. Vậy thì lo âu để mà làm gì?
Nếu phân tích các nguyên nhân và điều kiện gây ra cảnh huống đó, thì tất chúng ta sẽ phải nhận thấy rằng chúng nhiều vô kể. Phát huy một tầm nhìn bao quát hơn về những gì mình đang sống sẽ giúp chúng ta không gán cho một nguyên nhân nào hay một đối tác duy nhất nào là lý do đã gây ra khó khăn hay mang lại hạnh phúc cho mình. Đấy là cách giúp mình phân tích chính xác hơn những gì xảy đến với mình và sẽ giúp mình bớt lệ thuộc vào các điều kiện bên ngoài.
54. Các tư duy và xúc cảm tiêu cực che lấp bản thể đích thật hay bản chất rạng ngời của chúng ta. Chúng có quá nhiều và chẳng may nếu không khắc phục được chúng thì chúng sẽ xô mình vào bất cứ một cảnh huống nào tùy ý chúng. Dù là đối với một người Phật Giáo hay không Phật Giáo thì tất cả cũng đều có thể suy nghĩ và tự hỏi xem mình thật sự có thể phát biểu như sau hay không: "Có chăng một 'cái tôi' nào đó đang suy nghĩ rằng đây là 'tôi' hay không".
Phải chăng có một cái gì đó gọi là "tôi" hay "cái tôi" đang hiện hữu ở một nơi nào đó hay không? Nhờ vào sự tu tập hay là các phương cách suy tư chúng ta sẽ có thể phân biệt được giữa một người đang cảm nhận một xúc cảm nào đó - chẳng hạn như ganh ghét, giận dữ, hận thù - và chính xúc cảm đang tràn ngập tâm trí người ấy. Sau khi đã quen dần với sự phân tích ấy, chúng ta sẽ xác định dễ dàng hơn những gì đang xảy ra bên trong chúng ta hầu giúp mình tách rời tâm thức ra khỏi những gì đang khuấy động nó. Đấy cũng chính là cách giúp mình chủ động chúng.
55. Mỗi khi cảm thấy bị căng thẳng và lo âu không sao kiềm chế được, thì hãy nhìn vào "cái tôi" và quan sát "nó" đang chi phối mình như thế nào. Nếu chịu khó tìm hiểu xem bản chất đích thật của "nó" là gì thì phép nội quan này sẽ giúp chúng ta làm nhẹ bớt đi những thứ lo âu ấy của mình.
56. Tìm hiểu thế nào là sự tương liên giữa con người và mọi hiện tượng là cách giúp phát huy phẩm tính phi-bạo-lực trên toàn thể thế giới và trong mỗi con người chúng ta. Nguyên lý tương liên là một trong những nguyên lý căn bản nhất trong giáo lý nhà Phật. Tất cả mọi sự vật cũng như tất cả mọi chúng sinh chỉ có thể hiện hữu bằng cách tương liên với nhau và với cả thế giới này. Không có bất cứ gì tự nó hiện hữu, mà luôn phải lệ thuộc vào một chuỗi níu kéo bất tận giữa nguyên nhân và điều kiện, và chính những thứ này cũng còn phải lệ thuộc vào nhau.
57. Các hiện tượng biến đổi không ngừng vì quy luật tương liên và tương tác chi phối mọi chúng sinh và mọi hiện tượng. Hiện chúng ta cũng đang biến đổi không ngừng, bởi vì các nguyên nhân và điều kiện đều nhất thiết phải tương liên và tương tác với nhau. Thế nhưng người ta lại có khuynh hướng đổ lỗi cho một biến cố nào đó như là một thứ nguyên nhân chủ yếu và duy nhất, dù là mang tính cách tốt lành hay tệ hại.
Vì thế người ta thường dồn tất cả mọi nỗ lực để tìm cách chiếm giữ hay loại trừ nguyên nhân ấy tùy theo là nó mang tính cách lợi ích hay nguy hại.
Thái độ đó cho thấy rằng chúng ta chẳng hiểu gì cả về nguyên lý tương liên và tương tác giữa tất cả mọi chúng sinh và mọi hiện tượng.
58. Không thể có một nguyên nhân hay một con người duy nhất nào lại có thể là cội nguồn mang lại hạnh phúc hay khổ đau cho mình. Nếu muốn thấu hiểu được điều ấy thì nhất thiết chúng ta cần phải phát huy một tầm nhìn thật bao quát và toàn diện về mọi sự vật, và mở rộng sự quán thấy của mình về hiện thực. Và đấy cũng là cách giúp ý thức được những gì mà mình đang sống là kết quả mang lại từ vô số các nguyên nhân và điều kiện chi phối bởi nguyên lý tương liên.
Do đó quả hết sức vô lý khi chúng ta khiển trách một người nào đó chẳng hạn, như là một người duy nhất nắm giữ toàn bộ quyền lực tạo ra một tình huống đớn đau cho mình. Chính vì thế nên thật hết sức quan trọng là phải thay đổi thái độ đã khiến mình thốt lên rằng: "đấy là do lỗi của người khác" hay "đấy là vì tình trạng xảy ra đã là như thế".
Cách nắm bắt hiện thực theo cung cách đó hoàn toàn sai lầm. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về những gì xảy ra trong cuộc sống của mình, dù là tốt đẹp hay tệ hại. Đấy là quy luật của nghiệp, tức là quy luật nguyên nhân hậu quả chi phối tất cả mọi con người không một chút thiên vị nào. Hiểu được và chấp nhận điều ấy sẽ giúp mang lại an bình cho tâm thức.
59. Người ta thường bảo rằng một người có tâm trí hẹp hòi là một người kém trí tuệ, và một người có một tầm nhìn bao quát hơn thì được gọi là một hiền nhân. Sự thấu triệt về nguyên lý tương liên, phối hợp với trí tuệ và sự hiểu biết, sẽ mở rộng tâm thức mình và giúp mình biết dừng lại đúng lúc để có thể nhìn vào những gì mà mình đang sống.
60. Mỗi khi nghĩ đến nguyên lý tương liên và hiểu được đấy là gì, thì điều này cũng có nghĩa là nhận thấy được bản chất đích thật của mọi sự vật và trông thấy được sự vận hành của hiện thực. Điều ấy sẽ biến cải sự cảm nhận của mình về thế giới này và làm thay đổi các thói quen cũng như cung cách hành xử của mình.
Vì thế mỗi khi phải chịu đựng một cảnh huống đau buồn thì cũng không nên để mình rơi vào cảnh tuyệt vọng và cho rằng đấy là một sự bất công! Tốt hơn là nên nghĩ đến tất cả những người khác cũng đang phải trải qua những khó khăn như mình, và đồng thời phát huy một tầm nhìn về tất cả mọi sự việc một cách bao quát hơn.
Thay vì chỉ biết nghĩ đến những sự đớn đau đang hành hạ mình thì chúng ta nên cố gắng hy sinh tất cả để giúp đỡ những kẻ đang phải gánh chịu những sự đớn đau tương tự như mình, và đấy cũng là cách giúp tâm trí mình được thanh thản hơn. Dù rằng trong những bước đầu điều đó có vẻ khó thực hiện, bởi vì nó đòi hỏi mình phải bớt ích kỷ, thế nhưng dần dần thì chúng ta sẽ cảm nhận được một sự an bình đích thật hiện ra trong tâm thức mình.
Phép luyện tập trên đây cũng có thể mang ra áp dụng trong các trường hợp cảm nhận được một niềm hạnh phúc lớn lao, và chúng ta sẽ mang niềm hạnh phúc ấy để hiến dâng cho tất cả chúng sinh.
61. Trí tuệ giúp hình dung ra được sự vận hành của quy luật tương liên, trong khi đó thì sự hiểu biết sẽ giúp nắm bắt được bản chất đích thật của mọi sự vật là gì. Luôn ghi nhớ những điều ấy trong tâm nhằm giúp mình phát huy lòng từ bi và tình thương yêu kẻ khác. Thật hết sức rõ ràng là việc phát lộ tình thương và lòng từ bi đối với kẻ khác không những sẽ mang lại sự tốt lành cho họ mà còn cho cả chính mình. Trái lại nếu gây ra tai hại cho kẻ khác thì đó cũng là cách tự gây ra tai hại cho mình.
Trong trường hợp thứ nhất cả hai đều được lợi, và trong trường hợp thứ hai cả hai đều thua thiệt.
62. Sự hiểu biết về quy luật tương liên thật hết sức cần thiết nhằm giúp hiểu được thế nào là khủng bố và cuồng tín. Người ta cứ nghĩ rằng loại bỏ được những thứ ấy là có thể giải quyết được các khó khăn. Dĩ nhiên là chúng ta không thể làm ngơ trước tính cách nghiêm trọng trước các hành động gây ra bởi những kẻ cực đoan, vì thái độ ấy là cả một sự sai lầm. Thế nhưng chúng ta cũng phải hiểu rằng các hành vi ấy phát sinh từ rất nhiều nguyên nhân và điều kiện. Có vô số lý do đã góp phần đưa đến thái độ ấy. Một số người vì quá lệ thuộc vào các truyền thống tôn giáo của mình nên thường có những quan điểm hạn hẹp, tự tách rời mình ra khỏi hiện thực, và đã tự tạo ra cho mình cung cách hành xử đó.
Một quan điểm mở rộng và sáng suốt hơn về mọi sự vật trong cả hai lãnh vực ngắn hạn và lâu dài sẽ giúp cho họ vững tâm và có nhiều nghị lực hơn, và điều ấy cũng sẽ giúp họ biết chọn cho mình một cách hành xử khác hơn.
63. Thật hết sức quan trọng là phải tự tạo ra cho mình một số kỷ cương mang tính cách cá nhân nhằm giúp mình biến cải nội tâm mình. Các kỷ cương ấy không phản ảnh một sự áp đặt nào từ bên ngoài dù với bất cứ lý do gì, mà nhất thiết phải phát sinh từ sự hiểu biết về mọi sự vật và từ sự ý thức về những điều lợi ích mang lại từ việc giữ gìn các kỷ cương ấy.
64. Nếu chúng ta muốn trau dồi thêm về nghề nghiệp của mình hoặc muốn mang lại thêm cho mình nhiều hiểu biết hơn về một chủ đề nào đó, thì tất nhiên chúng ta phải sẵn sàng dành thì giờ để nghiên cứu và thực hành. Chúng ta phải biết cân nhắc xem đâu là những gì ưu tiên và thiết thực nhất đối với mình, và từ đó hãy ra sức thực hiện mục đích hay các ước vọng mà mình đã chọn. Trong đời sống tâm linh cũng thế, hãy chọn cho mình các kỷ cương phù hợp nhất.
65. Tất cả chúng ta đều là con người như nhau và đều có những khát vọng như nhau. Tôi cũng chẳng khác gì với quý vị. Mỗi khi gặp phải khó khăn thì tôi cũng phải nhìn vào bên trong tâm thức mình, phân tích những gì đang xảy ra nhằm mang lại một chút sáng suốt nào đó. Đấy là một cách phản ứng rất tích cực mà mỗi người trong chúng ta đều có thể làm được.
Chúng ta sống trong những xứ sở mà các điều kiện vật chất, kỹ thuật cũng như các tiện nghi thật dồi dào, thế nhưng cũng không phải vì thế mà chúng ta đặt hết niềm tin là sẽ tìm được hạnh phúc bằng cách duy nhất chỉ nhờ vào các bối cảnh thuộc bên ngoài nội tâm mình.
Sự an vui, thanh thản và an bình chỉ có thể phát huy bên trong tâm thức mình. Vì thế việc tạo ra các điều kiện cần thiết giúp cho sự phát huy ấy cũng phải được thực hiện từ bên trong tâm thức mình.
66. Chúng ta phải cố gắng tạo ra một sự an vui lâu dài cho mình. Tạm thời che dấu những sự lo âu trong chốc lát cũng không phải là chuyện quá khó. Chẳng hạn như uống một cốc rượu bia thật mát, men rượu sẽ khiến mình cảm thấy vui vẻ. Thế nhưng sự vui vẻ ấy rất hời hợt và phù du vì nỗi lo buồn rồi sẽ trở lại.
Nếu muốn kiến tạo một sự an vui lâu bền thì phải cải thiện phương cách vận hành của tâm thức mình. Đấy là lời khuyên mà tôi hằng nhắn nhủ với tất cả bạn bè của tôi.
67. Không nhất thiết phải theo một tôn giáo nào thì mới có thể biến cải được tâm thức mình. Dù tin hay không tin vào tôn giáo thì bất cứ một con người nào cũng đều có thể biến cải tâm thức mình. Dù rằng các truyền thống tâm linh có đưa ra các phương tiện giúp đạt được mục đích ấy, thì đấy cũng không phải là con đường duy nhất buộc mình phải theo.
Chính vì lý do thật dứt khoát ấy nên tôi vẫn thường quảng bá về một "nền tảng đạo đức nghìn năm" có thể áp dụng cho tất cả mọi con người, dù có đức tin hay không.
68. Tất cả mọi chủ trương đặc thù về tôn giáo hay văn hoá đều đi đến chỗ lỗi thời, chính nhờ thế nên tất cả mọi con người mới có thể đến gần với nhau trên một nền tảng đạo đức phi tôn giáo, được thiết lập dựa vào các nguyên tắc nhân bản mang tính cách toàn cầu hơn.
Đấy mới đúng là một cuộc cách mạng đích thật dựa trên những phẩm tính của con người như lòng từ bi, tình thương yêu, lòng khoan dung, sự kính trọng và biết ý thức trách nhiệm của mình.
69. Phải biết tôn trọng sự an vui của tất cả chúng sinh, vì thế không được làm điều gì sai trái hay gây tổn thương cho một chúng sinh nào, đấy là điều căn bản nhất trong nền tảng đạo đức Phật Giáo. Đó cũng là nền móng của thái độ phi-bạo-lực, của lòng từ bi và tình thương yêu kẻ khác. Nếu mục đích tối hậu là tạo ra sự an vui cho kẻ khác càng nhiều càng tốt và mang lại những sự lợi ích lớn lao cho họ, thì thật hết sức quan trọng là phải cố gắng với tất cả sức lực của mình, trong từng giây phút một hầu có thể đạt được mục đích đó.
70. Giới luật (shila) là một trong các yếu tố giúp chúng ta đạt được giác ngộ, các yếu tố khác gồm có phép thiền định (samadhi), sự hiểu biết hay trí tuệ (prajna). Tất cả các thành phần này đều bổ sung cho nhau.
Sống bất chấp giới luật nhất định sẽ tạo ra một cung cách hành xử làm tổn hại đến kẻ khác. Sống lối đó không những gây ra những điều tai hại cho kẻ khác mà còn là cách gieo những hạt giống khổ đau cho chính mình. Phải luôn ý thức thật minh bạch điều này hầu giúp mình phát huy một căn căn bản đạo đức dựa vào sự hiểu biết và trí tuệ. Phẩm tính đạo đức cao quý nhất là biết đặt hạnh phúc của kẻ khác lên trên hạnh phúc của chính mình.
71. Các xúc cảm bấn loạn sẽ khiến cho tâm thức u mê không nghĩ đến hậu quả mang lại từ các hành động của mình, và chúng sẽ thúc đẩy chúng ta hành xử một cách tiêu cực đối với kẻ khác. Biến cải tâm thức có nghĩa là làm tan biến hoàn toàn những nhân tố tâm thần mang tính cách tàn phá, đang tàng ẩn bên trong nội tâm mình.
Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì chúng ta phải tập thiền định và nghĩ đến những sự lợi ích mang lại từ sự giữ gìn kỷ cương đạo đức và phải từ bỏ những mối quan tâm ích kỷ mà mình hằng ấp ủ. Nên chăm lo cho kẻ khác và hướng sự chú tâm và tư duy của mình vào họ một cách thật tích cực. Đấy sẽ là cách giúp mình dần dần thực hiện được mục đích tối hậu của việc giữ gìn đạo đức là mang lại mọi sự tốt lành cho tất cả chúng sinh. Thế nhưng tất cả những điều này cũng chỉ có thể thực hiện được khi nào chúng ta biết giữ gìn giới luật nhằm tạo cho mình một cung cách hành xử ngay thật, đúng đắn và chân thật.
72. Nếu hiểu rằng trong nội tâm mình luôn tàng ẩn một tiềm năng vô tận giúp mình phát lộ tình thương mến, thì đấy sẽ là cách giúp mình phát huy được sự trìu mến, tình thương yêu và lòng từ bi đối với kẻ khác. Tất cả chúng ta đều có thể cảm nhận được các cảm tính thương yêu hướng vào kẻ khác, các cảm tính ấy phát lộ một cách tự động và thật tự nhiên giữa một người mẹ và đứa hài nhi con mình đang bồng bế trên tay. Nếu thiếu những cảm tính tự nhiên ấy của một người mẹ thì chúng ta nào có thể sống còn đến ngày hôm nay. Đấy là một thứ cảm tính tự tại nơi con người, và cũng chính nhờ đó mà tất cả chúng ta đều hàm chứa một khả năng cảm nhận được sự trìu mến hiện ra chung quanh ta.
73. Chúng ta thường không quan tâm đến một thể dạng kỷ cương thật quan trọng, là không được hành xử thiếu đạo đức với chính. Chúng ta chẳng những không được làm hại kẻ khác mà cũng không được phép làm hại cả chính mình. Chúng ta sẽ không sao mang lại sự tốt lành cho kẻ khác được nếu chính chúng ta lại căm ghét chính mình! Phải hiểu rằng tất cả chúng ta đều mang khát vọng thật sâu xa tìm được hạnh phúc, khát vọng ấy thật chính đáng. Ý thức được điều này và tạo ra các điều kiện giúp mình được sung sướng thì nhờ đó mình mới có thể triển khai thêm cảm tính hạnh phúc đó để phát lộ ra với tất cả mọi người.
Vì thế mỗi khi xướng lên những lởi ước nguyện của người bồ-tát giúp đỡ tất cả chúng sinh đạt được giác ngộ, thì trước hết mình cũng phải ước nguyện thực hiện được điều ấy cho chính mình.
74. Đôi khi cũng xảy ra trường hợp mình gây ra tai hại cho kẻ khác mà chính mình lại không hề hay biết. Trong trường hợp này tác động của nghiệp sẽ không giống như tác động gây ra bởi các hành động tiêu cực mang tính cách cố ý. Động cơ thúc đẩy mình hành động mới là yếu tố quan trọng quyết định hậu quả mang lại từ các hành động và tư duy của mình.
75. Động cơ thúc đẩy hành động đôi khi tạo ra các tác động ảnh hưởng đến hậu quả của nghiệp, quan trọng hơn cả chính hành động gây ra. Lấy thí dụ như trong trường hợp khi mình có ý định làm hại một người nào đó, nhưng bề ngoài và ngay trong lúc ấy thì mình vẫn giữ im lặng không hé lộ một lời cộc cằn hay làm tổn thương nào cả. Điều đó không có nghĩa là mình không phát lộ bên trong thâm tâm mình một sự sự hung hãn đối với người ấy. Trên thực tế thì mình đang phát lộ một sự mong muốn làm hại, thế nhưng trên phương diện hành động thì lại giữ một thái độ đạo đức giả. Do đó có một sự mâu thuẫn giữa tư duy và hành động của mình. Theo quan điểm Phật Giáo trên trên phương diện đạo đức và nghiệp, thì chính là động cơ thúc đẩy và điều khiển các tư duy của mình mới là điều thực sự quan trọng.
76. Đức Phật từng dạy rằng: "Chúng ta là những gì mà chúng ta suy nghĩ, chúng ta tạo ra thế giới bằng tư duy của chính mình". Cung cách hành xử và sự giữ gìn đạo đức đúng đắn sẽ ảnh hưởng một cách tích cực đến toàn thế giới, điều đó cho thấy rằng mọi sự vật không nhất thiết chỉ là ảo giác hay là các phóng tưởng tâm thần.
Phương cách mà chúng ta cảm nhận về thế giới là một sự phóng tưởng, một sự tạo tác tâm thần mang tính cách cá biệt đối với mỗi người. Bằng chứng là sự đánh giá giữa hai người đối với cùng một vật thể có thể là sẽ khác nhau: một người thì cho là đẹp, người kia lại cho là xấu. Kinh sách giảng rằng phương cách mà chúng ta cảm nhận về thế giới là kết quả phát sinh từ tổng thể của nghiệp mà chúng ta đã tạo ra từ vô lượng kiếp. Chúng ta có thể bảo rằng thế giới mà mình trông thấy qua vị thế con người là một phản ảnh phát sinh từ những kinh nghiệm cảm nhận mang tính cách tạo nghiệp, đã được ghi nhận bởi dòng tri thức của mình xuyên qua vô lượng kiếp.
77. Phải luôn tin tưởng nơi con người. Thật vậy con người trong thâm tâm rất tốt và tràn ngập ánh từ bi, chẳng qua là vì mỗi con người đều hàm chứa tiềm năng trở thành một vị Phật. Tuy nhiên không phải vì thế mà mình không cần phải sáng suốt để nhận thấy các xúc cảm hung hãn có thể ẩn chứa nơi mỗi con người khích động họ hành động.
78. Sự hiểu biết, kinh nghiệm, sự quan sát cũng như các ngành y khoa, tất cả đều công nhận là một tâm thức lắng dịu, phi-bạo-lực sẽ mang lại một cuộc sống an bình và hài hòa. Độc ác, hận thù, các ám ảnh trong tâm thần có thể đưa đến các tác động ảnh hưởng đến thân xác và tình trạng sức khoẻ bình thường. Trái lại, một phong cách thanh thản và thư giãn sẽ gây ra các tác động tích cực làm thuyên giảm tình trạng ốm đau.
79. Niềm hạnh phúc cũng như những nỗi khổ đau của chúng ta và của tất cả chúng sinh đều liên hệ với nhau thật chặt chẽ. Ý thức được sự liên hệ đó sẽ giúp mình phát huy được tình thương yêu, sự cởi mở và ân cần đối với kẻ khác. Tất cả chúng ta đều có thể tạo ra cho mình những kinh nghiệm cảm nhận ấy mà chẳng cần phải nhờ đến các giáo điều do các triết thuyết hay các truyền thống tôn giáo quảng bá.
80. Mỗi khi cảm thấy một sự thèm khát hay bấn loạn hiện ra trong tâm thức thì chúng ta phải theo dõi ngay các tư duy và xúc cảm tiêu cực có thể xảy ra hầu giúp mình không rơi vào sự kiềm tỏa của chúng. Ý thức được sự hiển hiện của chúng sẽ giúp mình tránh được các hành động mang lại hậu quả của nghiệp tiêu cực. Chẳng hạn như nếu một người nào đó nhục mạ mình và ngay tức khắc mình phản ứng lại bằng sự giận dữ, thì sự kiện đó cho thấy là mình đã bị "điều khiển" bởi sự giận dữ do chính mình tạo ra, và không kịp suy nghĩ chín chắn hơn hầu có thể tìm một giải pháp tốt đẹp và thích nghi đối với sự việc đã xảy ra. Trường hợp đó cho thấy là chúng ta không chủ động được các hành động của mình.
81. Giữ gìn kỷ cương đối với chính mình không có nghĩa là tự nhủ: "Tôi không được làm việc này hay việc nọ vì đấy là các điều cấm kỵ", mà đúng hơn là phải biết nghĩ đến các hậu quả ngắn hạn và lâu dài phát sinh từ cung cách suy nghĩ và các hành động của mình, hầu giúp mình ý thức được rằng một số hành động nào đó có thể gây ra khổ đau cho mình và cho kẻ khác. Cách giữ gìn kỷ cương căn cứ trên cách lý luận và phân tích ấy dễ áp dụng hơn so với những thứ kỷ cương dựa vào sự sợ hãi, chẳng hạn như sợ một người công an.
82. Đạo đức giữ một vai trò ngày càng quan trọng hơn trong các xã hội tân tiến ngày nay. Thời buổi ngày nay không còn như trước nữa, các cơ quan truyền thông cũng như dư luận quần chúng luôn tìm cách xét đoán tác phong đạo đức của các nhà lãnh đạo, các chính trị gia, các bác sĩ, khoa học gia, cũng như các quan tòa và cả những người khác nữa. Nếu họ không biết tôn trọng đạo đức thì quần chúng và các cơ quan truyền thông sẽ phê phán và tố cáo họ thật quyết liệt. Các cách phản ứng đó buộc những người tham gia chính quyền phải hành động ngay thẳng hơn và bớt đạo đức giả hơn.
83. Vai trò của các cơ quan truyền thông rất quan trọng trong các xã hội dân chủ của chúng ta ngày nay và sống trong các xã hội đó chúng ta được thừa hưởng sự tự do. Các cơ quan truyền thông luôn cố gắng quảng bá các giá trị nhân bản và tôn trọng tính cách khách quan. Tôi thường ví vai trò của các cơ quan truyền thông với cái vòi của một con voi, tức là phải thò mũi đánh hơi khắp mọi nơi hầu có thể tố giác những cảnh bất công và các sự bế tắc trong xã hội. Tuy nhiên ngoài việc tố cáo ra cũng không được quên là trước hết phải nhắc đến những gì tích cực trong thế giới này. Thông thường mỗi khi có một thảm họa xảy ra và biến thành một "tin tức" mang tính cách thời sự, thì người ta thường có khuynh hướng nói đến quá nhiều. Các thảm trạng và các chuyện bi thương tràn ngập các phương tiện truyền thông, trong khi đó những gì tích cực mang lại từ các nghĩa cử, lòng vị tha cũng như các công trình vô cùng ích lợi, đang xảy ra hằng ngày, nhan nhãn khắp nơi trên thế giới, thì chẳng mấy ai quan tâm đến. Thật là một điều đáng tiếc bởi vì những hành động tích cực ấy có thể làm gương cho nhiều người khác noi theo. Nếu chỉ nói đến những khía cạnh tiêu cực của bản chất con người, thì đến một lúc nào đó cũng có thể không còn ai tin vào bản chất tốt của con người nữa.
84. Ngũ giác góp phần tạo ra các xúc cảm của con người. Vì thế âm nhạc, hội họa, nghệ thuật mang tính cách thiêng liêng nói chung có thể tạo ra các tác động ảnh hưởng đến các thể dạng xúc cảm của chúng ta và do đó cũng có thể giúp chúng ta chuyển hóa các xúc cảm tiêu cực nhằm biến chúng trở thành tích cực hơn.
Đặc biệt nhất là đối với âm nhạc, bởi vì âm nhạc hàm chứa một phẩm năng mở ra cho chúng ta các cấp bậc thật sâu kín trong con người của mình.
85. Một cách tổng quát, thật hết sức quan trọng là phải tránh không được làm hại kẻ khác bằng bất cứ một hình thức bạo lực nào. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt nào đó, một tai hại nhỏ cũng có thể giúp tránh khỏi một tai hại to lớn hơn. Do đó, không nhất thiết bắt buộc lúc nào cũng phải áp dụng một cách máy móc các quy luật tổng quát, mà phải luôn xét đoán một cách thật cụ thể tùy theo từng cảnh huống xảy ra với mình. Tóm lại là tùy theo từng trường hợp cần phải cân nhắc giữa an vui và khổ đau với mục đích tạo ra khổ đau ít nhất.
86. Mọi sự đều tùy thuộc vào động cơ thúc đẩy, kể cả đối với khoa học. Chẳng hạn như trường hợp nếu sử dụng các khám phá về di truyền học để chữa trị bệnh tật thì đấy là một việc đáng khuyến khích. Thế nhưng nếu sử dụng các tiến bộ trong ngành khoa học này để làm hại kẻ khác thì đấy là một hành vi bạo lực.
87. Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo. Không nên chỉ biết chờ đợi các đối tượng bên ngoài mang lại cho mình an vui và hạnh phúc, mà nên quan tâm đến phương cách vận hành của tâm thức mình nhằm biến cải nó. Đối với tôi, vấn đề tâm linh đích thật chính là cách phải biết suy nghĩ và hành động với tấm lòng vị tha.
Một cuộc cách mạng tâm linh không phát sinh từ các điều kiện hay các tiến bộ bên ngoài, chẳng hạn như các máy vi tính hay các cách biến đổi và chữa trị não bộ, mà đúng hơn là nhờ vào những gì là mình, thuộc bên trong nội tâm mình, đấy là lòng mong muốn thật sâu xa được tự biến cải hầu giúp mình trở nên một con người cao cả hơn. Đấy là những điều mà chúng ta phải luyện tập, và cũng chỉ có cách ấy mới giúp cho một cuộc cách mạng tâm linh có thể xảy ra được.
88. Các xúc cảm tiêu cực hiện ra bên trong tâm thức, tạo ra các tác động ảnh hưởng đến tâm thức và chi phối nó và do đó đã khiến cho con người trở thành nô lệ cho những gì tạo ra chính mình. . . Hầu hết các xúc cảm ấy phát sinh và tan biến một cách đột ngột, tương tự như lúc chúng sinh ra. Điều này không có nghĩa là chúng ta không cần phải e sợ sức mạnh của chúng, sức mạnh đó thật khủng khiếp vì nó có thể tàn phá chính mình và cả kẻ khác. Dù rằng Phật Giáo có đưa ra nhiều phương pháp ngăn chận và chuyển hóa các xúc cảm ấy ngay từ lúc chúng mới bắt đầu hiển hiện, thế nhưng tốt hơn hết là chúng ta cũng nên chú ý đến những gì xảy ra trong nội tâm mình. Sự chú tâm ấy chỉ có thể mang lại hiệu quả khi nào chúng ta nắm vững được các lý do thúc đẩy mình. Đấy là tất cả sự khác biệt giữa một phép tu tập tự mình chọn lựa nhằm giúp mình thăng tiến theo đường hướng mà mình mong muốn, và một phép tu tập mang tính cách áp đặt, khiến hầu hết mọi người vào một lúc nào đó sẽ trở nên bất mãn và chống lại. Chủ động được tâm thức mình có nghĩa là biết phân biệt các nguyên nhân nào đã thúc đẩy mình trên đường tu tập ấy, hầu giúp mình làm gia tăng nhiều hơn nữa sự tự tin và lòng quyết tâm của mình.
89. Làm cho nghiệp - tức là các tác động của quy luật nguyên nhân và hậu quả chi phối các chu kỳ hiện hữu - phải chấm dứt có nghĩa là xóa bỏ vô minh căn bản điều khiển toàn bộ các kiếp sống của mình. Vô minh làm phát sinh ra mọi thứ xúc cảm, nhất là các sự thèm khát, hận thù, ganh ghét, ham muốn, cũng như tất cả những thứ xúc cảm mang tính cách tiêu cực khác. Các thứ xúc này sẽ còn tiếp tục chi phối tâm thức chúng ta và biến nó trở thành nô lệ cho đến khi nào chúng ta chưa đạt được sự giác ngộ và loại bỏ được mọi thứ khổ đau. Điều này đáng cho chúng ta phải suy nghĩ hầu giúp mình tìm cách thoát ra khỏi các thứ xúc cảm tạo ra bởi tình trạng vô minh đó.
90. Việc tu hành đích thật không phải là ở những nơi thờ phượng, mà là ở bên ngoài các nơi ấy, ở ngay giữa thế giới này, nơi mà chúng ta phải đối đấu với những cảnh huống của sự sống đích thật và chung đụng với những con người có thể gây ra mọi sự hận thù, thương yêu, thèm khát. . .
Tu tập theo một tôn giáo nào cũng thế, không phải giản dị chỉ có việc khẩn cầu, mà đúng hơn là phải phát huy các xúc cảm tích cực như: tình nhân ái, lòng từ bi, lòng tốt, sự rộng lượng, biết ý thức trách nhiệm, hiến dâng không chờ đợi một sự hồi đáp nào và cũng không cần suy nghĩ ai là bạn hay thù.
91. Nếu muốn vượt lên trên các xúc cảm tiêu cực thì nhất thiết chúng ta phải sử dụng đến trí thông minh của mình hầu phát huy sự hiểu biết giúp mình gia tăng thêm sức mạnh cho các xúc cảm tích cực, chẳng hạn như lòng từ bi, sự tin tưởng, tình thương và lòng nhân ái.
Phát huy trí tuệ và sự hiểu biết song song với các xúc cảm tích cực, là cách duy nhất giúp chúng ta không những vượt lên trên các xúc cảm tiêu cực mà còn loại bỏ được chúng.
92. Khổ đau trong tâm thần có thể bộc phát mãnh liệt hơn các khổ đau trên thân xác. Một người dù đang ốm đau, hoặc sống trong cảnh cơ hàn hay phải đối phó với mọi thứ khó khăn nhưng nếu biết giữ cho tâm thức lắng dịu và thanh thản thì vẫn có thể cảm thấy hạnh phúc. Tệ lắm thì hoàn cảnh cũng không tạo ra sự buồn phiền cho người ấy, hoặc chỉ gây ảnh hưởng tối thiểu mà thôi.
Trái lại, một người sống trong một bối cảnh hài hòa thế nhưng nếu tâm thức thường xuyên bị các xúc cảm xung đột khuấy động thì sẽ không sao có thể đạt được những gì trên đây. Điều quan trọng hơn hết là nếu muốn tìm thấy một cuộc sống hạnh phúc thì phải tạo ra sự an bình trong tâm thức mình.
93. Hận thù, bám víu và ganh ghét sẽ làm cho tâm thức mất thăng bằng và khiến nó không còn giữ được sự bình thản trong các mối giao tiếp với người khác. Giữ một thái độ bình thản không có nghĩa là vô tình hay không cảm thấy liên hệ với các nỗi khổ đau của tất cả chúng sinh. Trái lại chọn thái độ ấy có nghĩa là phải đối xử với tất cả mọi người một cách bình đẳng không thiên vị, cũng không ghét bỏ, luôn với lòng từ bi và tình thương yêu, và nhất là phải giúp tất cả chúng sinh đạt được giác ngộ với tất cả nghị lực của mình, không phân biệt bất cứ một chúng sinh nào.
94. Chúng ta thường hay chờ đợi người mà mình giúp đỡ bày tỏ sự biết ơn của họ bằng cách này hay cách khác. Nếu người này không tỏ bày gì cả thì chúng ta cũng có thể cảm thấy bùng lên trong tâm thức mình một sự tức giận hay oán hờn nào đó, hoặc cũng có thể nghĩ đến chuyện gây ra tai hại cho người ấy. Nếu chúng ta hằng tập luyện tâm thức và biết quán xét những gì xảy ra trong nội tâm mình, thì chúng ta sẽ có thể chận đứng được quá trình đang xảy ra và loại bỏ được các xúc cảm bấn loạn thúc đẩy chúng ta thực thi những hành động bạo lực.
Ngoài ra cũng còn một giải pháp khác tương đối dễ thực hiện hơn, đấy là cách xem người mà mình đang phải đối phó như là một người thầy đứng ra tập cho mình phát huy sự nhẫn nhục và lòng từ bi. Hãy nghĩ ngay đến phương pháp này mỗi khi phải đối phó với các cảnh huống tương tự. Sau khi đã thực hiện được bước đầu thì quý vị sẽ cảm thấy chuyện ấy ngày càng trở nên dễ dàng hơn với mình, và nhờ đó quý vị sẽ tạo được sự an bình trong tâm thức mình.
95. Có nhiều phương cách luyện tập về sự kiên nhẫn. Thấu triệt được quy luật về nghiệp là một trong những phương cách đó. Vì thế khi nào gặp phải khó khăn trong công ăn việc làm hoặc phải đối phó với một vấn đề nào đó, thì quý vị hãy nghĩ ngay đến sự kiện chính mình phải chịu trách nhiệm về những thứ khổ đau mà mình đang gánh chịu, bởi vì chính mình đã tạo ra nguyên nhân mang lại những thứ khổ đau ấy cho mình.
Thật vậy, dù rằng điều ấy cũng chẳng giải quyết được gì, thế nhưng cũng có thể giúp quý vị nhìn vào cảnh huống xảy ra bớt căng thẳng hơn, và biết dừng lại để quan sát cẩn thận hơn và ý thức được là mình phải tìm mọi cách để không gây ra thêm các nghiệp mới khác nữa bằng các tư duy kém "tốt lành" mà mình đang có.
96. Vững tin nơi mình và các phẩm tính của mình không có nghĩa là một sự kiêu ngạo. Thật hết sức quan trọng là phải tự tin nơi mình, nơi tài năng và các phẩm tính cá biệt của mình, đấy là cách phát động lòng vững tin nơi sự hiện hữu của mình. Thật vậy dựa vào cơ sở đó mà các phẩm năng của mình mới có thể tạo ra được sự tốt lành và thân thiện cũng như lòng từ bi và tình nhân ái. Đức tin và sự tin tưởng thật hết sức cần thiết để phát huy các phẩm tính con người. Đấy là những mảnh đất mầu mỡ giúp cho những hạt giống nẩy mầm tạo ra các xúc cảm tích cực.
97. Những người trưởng thành, dù có phải là cha mẹ của những đứa trẻ mà mình đang phải chăm sóc hay không, cũng đều có bổn phận phải nhất mực thương yêu chúng. Thật vậy, giáo dục nào có phải chỉ là phát triển trí óc, mà còn phải làm nẩy nở sự bén nhạy của tâm thức và con tim cũng như các phẩm tính khác của con người, chẳng hạn như lòng từ bi, sự ân cần, tình nhân ái và ý thức trách nhiệm.
Hơn nữa đối với việc giáo dục các trẻ nhỏ thì còn phải giảng dạy cho chúng hiểu rằng tất cả chúng ta đều liên hệ với nhau trên toàn thế giới này. Đấy là cách giúp chúng biết ý thức sâu xa hơn về hậu quả mang lại từ sự suy nghĩ và các hành động của chúng.
Sau hết, còn một điều thật quan trọng nữa là người lớn phải làm gương cho những đứa trẻ mà mình phải hướng dẫn và dạy dỗ, bởi vì làm gương là cách giảng dạy tốt nhất về những gì mà mình muốn truyền đạt lại sau này.
98. Quả chỉ là ảo tưởng khi nghĩ rằng mình có thể biến cải kẻ khác mà không cần phải biến cải chính mình trước hết. Sự tiến triển hòa bình trên thế giới phải khởi sự bằng cách làm giảm bớt các sự xung đột đưa đến tình trạng xáo trộn giữa một số quốc gia, nhằm làm cho chiến tranh phải chấm dứt. Đối với việc làm giảm bớt sự bất công trong xã hội hầu kiến tạo một thế giới tốt đẹp hơn thì phải bắt đầu trước nhất bằng cách biến cải chính cá nhân con người của mình, đấy là cách tạo ra ảnh hưởng trực tiếp tác động đến môi trường chung quanh mình, gồm những người thân thuộc và gia đình mình.
Một khi đã tạo được một bầu không khí từ bi và ân cần, thấm đượm tình nhân ái và những niềm hân hoan trong chu vi nhỏ hẹp đó, thì khi ấy mới có thể nghĩ đến việc mở rộng tầm tác động của các ảnh hưởng ấy vào các môi trường to rộng hơn gồm bạn hữu, láng giềng, và tiếp tục nhân lên ngày càng đông đảo hơn. Người phương tây thường gọi đấy mà "hiệu ứng của tuyết lăn".
Khi nào đã biến cải được tâm thức mình thì chúng ta mới bắt đầu biết quan tâm đến kẻ khác nhiều hơn, đấy chẳng qua là nhờ vào sức mạnh của lòng vị tha đã được nẩy nở trong nội tâm mình. Dựa vào tình thương yêu đó chúng ta sẽ có thể tạo ra các ảnh hưởng tác động đến toàn thế giới, và góp phần mình vào việc xây dựng hòa bình giữa con người và các quốc gia. Đấy là một điều vô cùng hệ trọng.
99. Trong cuộc sống thường nhật, nếu giữ cho tâm thức chúng ta càng thăng bằng, an bình và toại nguyện thì chúng ta sẽ càng cảm nhận được nhiều hạnh phúc hơn. Một tâm thức càng tỏ ra bất trị, không được luyện tập và tiêu cực, càng gây ra cho mình nhiều khổ đau trên phương diện tâm thần cũng như thể xác. Vì thế thật hết sức rõ ràng là một tâm thức kỷ cương và toại nguyện chính là cội nguồn mang lại hạnh phúc.
Khi nào chúng ta khám phá ra được được thể dạng tâm thức kỷ cương và thanh thản ấy và làm cho nó thăng tiến đến một mức độ nào đó thì nó sẽ được gọi là "sự thật trên con đường đưa đến sự đình chỉ". Các ảo giác sẽ bị loại trừ ra khỏi tâm thức, [và sở dĩ các ảo giác ấy đã phát sinh] là vì một sự nhầm lẫn từ nguyên thủy đã khiến mình nắm bắt các sự vật và biến cố [và xem chúng là thật].
100. Giáo huấn Phật giáo dạy cho chúng ta biết rằng trên dòng tiếp nối liên tục của các kiếp sống của mình, tất cả chúng sinh vào một lúc nào đó đều đã từng là cha hay mẹ mình. Tin vào sự kiện ấy sẽ làm giảm bớt ngay tức khắc các sự xung đột có thể xảy ra giữa hai con người với nhau, và đồng thời cũng gợi lên một tầm nhìn khác hơn đối với những người mà mình vẫn thường gọi là kẻ thù. Phải hiểu rằng tất cả những cảm nhận tiêu cực đều là hậu quả từ nghiệp trong quá khứ đã làm biến dạng cách nhìn của mình đối với một người mà mình nghĩ rằng đấy là một kẻ thù. Thế nhưng kẻ thù ấy cũng chỉ là các biểu hiện bên ngoài phát sinh từ các nhân tố do chính mình góp phần tạo dựng ra, và đấy chính là những gì đã làm biến đổi sự cảm nhận của chính mình. Thật hết sức quan trọng là phải ý thức được điều ấy, hầu giúp mình không tạo ra các xúc cảm tiêu cực đối với người khác hay đối với các nhân tố bên ngoài, và các nhân tố này thật ra cũng chẳng mang một trách nhiệm nào đối với những gì xảy ra với mình [bởi vì tất cả là do nghiệp của mình mà ra].
101. Thật hết sức quan trọng là chúng ta phải sống hòa mình với thế giới hầu có thể mang lại lợi ích cho kẻ khác. Nếu muốn thực hiện được điều ấy thì phải hòa nhập với hiện thực và thời đại mà mình đang sống.
Mang trọng trách của một người tu hành tôi có bổn phận phải cố gắng không ngừng trong việc đặt tín ngưỡng của tôi vào tầm tay của tất cả mọi người và phải làm thế nào để tín ngưỡng ấy có thể được áp dụng một cách dễ dàng trong thế giới tân tiến ngày nay.
102. Tại các nước dân chủ nơi mà nhân quyền được tôn trọng, thì quyền được làm một con thú lại bị chà đạp một cách quá đáng. Theo nguyên lý tương liên giữa mọi chúng sinh và hiện tượng, tất cả chúng ta đều liên đới với nhau. Chúng ta thường dễ quên và không hề quán xét về hậu quả phát sinh từ cung cách hành xử tiêu cực sẽ gây ra những ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống của mình, trong ngắn hạn cũng như về lâu dài. Sự khai thác quá đáng súc vật và thiên nhiên sẽ gây ra trong tương lai những tác động vô cùng nguy hại, nhất là đối với thực phẩm và tình trạng sức khoẻ nói chung. Nếu chịu khó suy nghĩ thêm một chút thì tất chúng ta sẽ phải hiểu rằng thật hết sức cần thiết là phải tổ chức các hệ thống xã hội như thế nào để có thể bảo vệ môi trường và súc vật.
103. Hầu hết các nguyên lý tôn giáo đều phát sinh từ cách quan sát thái độ và các xúc cảm của con người. Các nguyên lý ấy nhằm vào mục đích làm gia tăng thêm các phẩm tính tích cực của con người, chẳng hạn như lòng từ bi, tình nhân ái và sự tương trợ lẫn nhau. Giáo huấn và sự tu tập giúp cho người Phật Giáo đạt được niết bàn, tức là sự giải thoát khỏi mọi khổ đau. Ước vọng đạt được mục đích tối thượng ấy không có nghĩa là lơ là không quan tâm đến hoàn cảnh sống của mình. Tạo được các điều kiện sinh sống thuận lợi cũng là cách giúp chúng ta trợ giúp các chúng sinh khác được dễ dàng hơn. Chẳng hạn như trường hợp không có tiền thì không sao sống được. Điều đó quả thật hết sức chính đáng, thế nhưng phải đặt đồng tiền đúng vào vị trí của nó, chớ nên xem nó là một vị trời toàn năng. Quả thật là một điều hoàn toàn sai nếu nghĩ rằng đồng tiền có thể làm thoả mãn được các nhu cầu chủ yếu và căn bản của mình. Điều ưu tiên hơn hết là phải đạt được một tâm thức lành mạnh, vận hành theo chiều hướng tích cực hầu mang lại sự an bình cho con tim của mình. Tất cả các thứ khác đều là phụ thuộc.
104. Quyền năng duy nhất và đích thật mà chúng ta có thể có được là phục vụ kẻ khác. Theo tôi, quyền năng ấy mới đúng thật là một thứ quyền năng chính đáng. Tất cả các hình thức quyền lực khác, nhất là quyền lực dựa vào sức mạnh của đồng tiền, luôn đòi hỏi phải thật cẩn trọng và ý thức, thế nhưng tiếc thay những người nắm giữ các quyền lực ấy lại thường hay quên mất điều này. Họ phải quan tâm nhiều hơn nữa hầu có thể cân nhắc kỹ lưỡng hơn để tìm hiểu xem các động cơ nào đã thúc đẩy mình hành động.
Đối với những người làm chính trị cũng thế: dân chủ được xây dựng trên nguyên tắc phân quyền: tức hành pháp, lập pháp và tư pháp phải độc lập với nhau. Sự tách biệt đó là một cách bảo vệ chống lại những kẻ say mê quyền lực một cách điên rồ.
105. Trên phương diện con người, tôi không hề phân biệt giữa một vị lãnh đạo quốc gia và một công dân khiêm tốn. Tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau. Chúng ta đều có những nhu cầu căn bản như nhau. Việc tu sửa tâm linh thật cần thiết cho tất cả mọi người. Tuy nói thế, nhưng tôi nghĩ rằng việc tu sửa sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn đối với những người nắm giữ trọng trách quốc gia, so với những "người dọ dẫm bước theo một con đường và sống bên ngoài thế tục". Một vị lãnh đạo chính phủ, một chính trị gia hay một chủ nhân xí nghiệp là những nhân vật quan trọng trong xã hội. Các hành động mang tính cách tích cực hay tiêu cực của họ sẽ gây ra nhiều tác động hơn đối với đời sống của một số lớn con người. Nếu muốn tạo ra tính cách tích cực và các động cơ thúc đẩy chính đáng thì họ phải biết tu sửa tâm linh hầu giúp mình không phạm vào những hành động gây ra sai trái cho kẻ khác trên một bình diện thật rộng lớn. Quả hết sức khẩn cấp là những người lãnh đạo phải biết phát huy thái độ thương người và phải biết ý thức trách nhiệm của mình. Thế giới rất cần đến các điều ấy để kiến tạo hòa bình.
106. Cách nay vài mươi năm, chẳng có ai quan tâm đến vấn đề môi sinh. Các nhà lãnh đạo và cả quần chúng đều sai lầm khi nghĩ rằng tài nguyên trên địa cầu sẽ bất tận. Ngày nay, hầu hết các đảng phái chính trị đều nói đến môi sinh. Sự chuyển hướng này sở dĩ đã xảy ra là nhờ vào các kinh nghiệm thực tế. Dù rằng hiện nay tất cả các chính quyền lãnh đạo chưa hoàn toàn tích cực trong việc bảo toàn tài nguyên thiên nhiên cũng như việc ngăn ngừa các hiệu ứng nhà kính và tệ nạn phá rừng gia tăng, thế nhưng rồi đây tất cả cũng sẽ phải dần dần bước theo con đường đã được vạch ra. Niềm hy vọng đó đã mang lại cho tôi thật nhiều can đảm giúp tôi hành động nhằm kiến tạo một tương lai tốt đẹp hơn.
107. Các chúng sinh giác ngộ là tấm gương cho tất cả những người tu tập noi theo. Các chúng sinh ấy khuyến khích chúng ta cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa để có thể trở thành như họ, hầu giúp mình phát huy được trí tuệ và lòng từ bi như họ. Trí thông minh chỉ có thể giúp thực hiện được mục đích ấy khi nào nó không còn bị điều khiển bởi các thứ xúc cảm tiêu cực và độc hại, là nguồn gốc của khổ đau. Vì thế, trí thông minh khi được thúc đẩy bởi một động cơ tốt lành sẽ là một sự trợ lực quý báu vô ngần.
108. Tình mẫu tử buộc chặt giữa người mẹ và con mình, không hề phát sinh từ một sự bám víu mang tính cách đam mê nào cả. Người mẹ không bao giờ chờ đợi bất cứ gì nơi đứa hài nhi trong vòng tay mình, mà chỉ cảm thấy là mình phải có bổn phận đối với nó, và luôn mong rằng sẽ tạo được niềm vui và mang lại sự an lành cho con mình dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tình thương yêu đó nếu không bị biến dạng, sẽ rất gần với lòng từ bi đích thật. Thật vậy trong sâu thẳm của lòng từ bi không có một chút bóng dáng nào của sự bám víu. Chính vì thế mà lòng từ bi đích thật phải được phát lộ không phân biệt giữa bạn hữu và kẻ thù. Khi nào đã đạt được cấp bậc tu tập ấy thì quý vị cũng sẽ không còn phân biệt giữa các chúng sinh với nhau, quý vị cầu mong cho tất cả đều được an vui. Quý vị chăm lo cho tất cả mọi người, vô điều kiện và không phân biệt một ai, kể cả đối với một người đang đứng trước mặt mình và đang tìm cách ám hại mình. Điều đó không làm cho quý vị xao xuyến bởi vì quý vị đã tìm thấy được sự an bình bên trong tâm thức mình. Tuy nhiên điều đó cũng không cấm cản quý vị phải thận trọng và tìm các biện pháp ngăn ngừa cần thiết, thế nhưng không được phát lộ một sự hận thù, giận dữ hay oán hờn nào.
Theo sách 108 lời dạy của Đức Đạt Lai Lạt Ma

gốc- copied ra word- đổi font- copied vào

Thanked by 1 Member:

#164 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 20/10/2014 - 12:07

CÁC BÀI SONG CA NAM & NỮ HAY NHẤT
(Như một món quà tặng chị em phụ nữ nhân ngày 20/10)
Nam Nguyen (facebook)

1. Lời của gió - Hồng Nhung & Quang Vinh (Duy Thái)

(Anh Thơ & Tấn Minh)
(Thu Phương & Huy MC)

2. Tình Khúc Cho Em - Khánh Ly & Elvis Phương (Lê Uyên Phương)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(Lê Uyên & Phương)

3. Tình ta biển bạc đồng xanh - Anh Thơ & Trọng Tấn (Hoàng Sông Hương)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



4. Trên Đỉnh Mùa Đông - Duy Quang & Ngọc Lan (Trần Thiện Thanh)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



5. Khi Người Yêu Tôi Khóc – Bằng Kiều & Trần Thu Hà (Trần Thiện Thanh)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



6. Trước Ngày Hội Bắn - Anh Thơ & Việt Hoàn (Trịnh Quý)
https://www.youtube.com/watch?v=l8FS3ymBw5w

7. Như Một Lời Chia Tay - Hồng Nhung & Quang Dũng (Trịnh Công Sơn)
https://www.youtube.com/watch?v=vmkhJxiRoek

8. Tình ca Tây Bắc - NSƯT Kiều Hưng - NSƯT Bích Liên (Nhạc: Bùi Đức Hạnh, lời thơ: Cẩm Giang)
https://www.youtube.com/watch?v=n3rLoeet4N4

9. Trái tim không ngủ yên- Mỹ Linh & Bằng Kiều (Thanh Tùng)
https://www.youtube.com/watch?v=w776o3T0gvI

10. Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây - Trung Đức & Thu Hiền (Hoàng Hiệp-Phạm Tiến Duật)
https://www.youtube.com/watch?v=f8qQv4dhthU

11. Lời Cuối Cho Em_Tuấn Vũ & Thanh Tuyền (Nguyễn Vũ)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(Bằng Kiều & Trần Thu Hà)
https://www.youtube.com/watch?v=0_XW7_0PlBU (Quang Dũng & Thanh Thảo)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(Phan Đình Tùng & Hồng Ngọc)

12. Đoạn Cuối Tình Yêu - Chế Linh & Thanh Tuyền (Tú Nhi)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



13. Lời Gọi Chân Mây - Lê Uyên&Phương

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



14. Yêu thương mong manh - Bằng Kiều & Minh Tuyết (Đức Trí)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



15. Trả lại em yêu -Thanh Lan & Nhật Trường (Phạm Duy)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



16. Như đã dấu yêu –Thanh Lam & Lê Hiếu (Đức Huy)
https://www.youtube.com/watch?v=jErKLh6YEos
https://www.youtube.com/watch?v=WdcndUcSrdI (Bằng Kiều & Minh Tuyết)

17. Lâu Đài Tình Ái- Hương Lan & Thái Châu (Trần Thiện Thanh)
https://www.youtube.com/watch?v=F9apY6KOEcQ

18. Em Về Tinh Khôi - Bằng Kiều & Phương Thanh (Quốc Bảo)
https://www.youtube.com/watch?v=2JFlapZdBAc

19. Con đường xưa em đi - Hương Lan & Chế Linh (Châu Kỳ)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



20. Cơn Mưa Tình Yêu - Phương Linh & Hà Anh Tuấn (Mạnh Quân)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



21. Chia tay hoàng hôn- Thanh Lam & Tùng Dương (Thanh Tùng)
https://www.youtube.com/watch?v=MFLCBWhyzGY

22. Con kênh ta đào – Kiều Hưng & Lê Dung (Phạm Tuyên)
https://www.youtube.com/watch?v=nmjGiqQNcFk
https://www.youtube.com/watch?v=qCiwXy6XmB0 (Ngọc Tân & Thanh Hoa)

23. Vị ngọt đôi môi – Thanh Thảo & Quang Dũng (Lê Hựu Hà)
https://www.youtube.com/watch?v=tSGNEgT0Duo

24. Dòng sông quê anh, dòng sông quê em - Kiều Hưng & Lê Dung (Đoàn Bổng)
https://www.youtube.com/watch?v=9tERGVNGif8

25. Mùa đông của anh - Ngọc Lan & Duy Quang (Trần Thiện Thanh)
https://www.youtube.com/watch?v=yXTAyuB4lvs

26. Tình bơ vơ – Hương Lan & Tuấn Vũ (Lam Phương)
https://www.youtube.com/watch?v=DaujFN8D3cs

27. Thôi Anh Hãy Về - Lam Trường & Thu Phương (Nguyễn Ngọc Thiện)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



28. Rặng trâm bầu- Thu Hiền & Kiều Hưng (Thái Cơ)
https://www.youtube.com/watch?v=yJlvgfPSekw

29. Duyên kiếp –Lan Hương & Tuấn Vũ (Lam Phương)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



30. Hãy Yêu Nhau Đi- Lan Anh & Tấn Minh (Trịnh Công Sơn)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(Bằng Kiều & Trần Thu Hà)

BÌNH LUẬN:
Tôi biết xếp hạng cho ca khúc, nhất lại là song ca nam nữ, cực khó, bởi vì phụ thuộc cả vào tác giả âm nhạc lẫn đôi nghệ sỹ trình diễn-chưa kể đến chuyện khán thính giả mỗi người một ý- do đó không có kỳ vọng danh sách TOP 30 này có thể làm thỏa mãn tất cả các bạn.
“Lời của gió” xin xếp lên vị trí hàng đầu, bởi vì nó là một trong số ít các bài hát viết riêng để dành cho song ca, và đó là sự gặp gỡ “định mệnh” của tác giả Duy Thái, nhạc sỹ Quang Vinh và nhất là giọng ca 18 tuổi của cô bé Hồng Nhung, lúc đó còn vô tư và vô cùng trong trẻo. Và bài hát được đông đảo người nghe đón ngay lập tức, năm đó là 1987. Lời của gió không chỉ đưa tên tuổi của Hồng Nhung – Quang Vinh bay cao mà còn góp phần quan trọng giúp Duy Thái từ một nghệ sỹ kịch trở thành một nhạc sỹ được đảo công chúng biết đến và mến mộ. Sau này rất nhiều cặp ca sỹ hát lại thành công ca khúc này, nhưng chưa ai hát hay được hơn nguyên bản-cũng chính bởi thiếu cái sự “trong trẻo” đầu đời ấy. Với sự xuất hiện của karaoke, bài hát là một trong các lựa chọn hàng đầu, nếu bạn muốn song ca...
Bài thứ hai có thể nhiều người không để ý, tuyệt phẩm này của cặp đôi Lê Uyên & Phương (thực ra có thể đưa tất cả các ca khúc của cặp đôi này vào danh sách, nhưng tôi chỉ đưa 2 bài). Bài thứ ba theo tôi đang là lựa chọn số một ở các quán karaoke hay các buổi văn nghệ...
Qua danh sách này, có thể thấy mấy điều sau:
-Trần Thiện Thanh là tác giả có nhiều tác phẩm được đem ra hát song ca nhất, rất nhiều bài hay! Ngoài các bài trong danh sách này, ông vẫn còn mấy bài song ca nữa...
-Một số ca sỹ hát song ca rất hợp, có thể hát với rất nhiều đồng nghiệp: Duy Quang, Elvis Phương, Bằng Kiều, Ngọc Lan...Đáng tiếc một số giọng ca bất hủ lại ít song ca, ví dụ ca sỹ Lệ Thu hầu như chỉ song ca với nữ!
-Có những cặp đôi rất thành công về song ca, cái này chắc nhiều người biết: Chế Linh & Thanh Tuyền, Hương Lan & Tuấn Vũ, Bằng Kiều & Trần Thu Hà, Bằng Kiều & Minh Tuyết, Trung Đức & Thu Hiền, Anh Thơ & Trọng Tấn...
-Các bài song ca hay thường trầm buồn, rất ít nhạc sôi động như “Lời của gió”! Do vậy bài đó càng xứng đáng với vị trí quán quân của bảng xếp hạng này! Xin xem lại cả phần biểu diễn của Anh Thơ & Tấn Minh cũng như Thu Phương và Huy MC...
Có sót bài hát hay nào mong ACE bổ sung, cũng vì chỉ có 30 bài nên khó “đủ mặt anh tài” được!

Thanked by 1 Member:

#165 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 27/10/2014 - 10:42

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Những câu chuyện về đàn bà

Người đàn bà ngồi tựa vào tường trên lối mòn của một con hẻm. Mệt mỏi và thiếp đi cạnh quang gánh của mình. Hai đầu gánh là đủ thứ quà vặt như bánh tráng, kẹo, đến chanh, ớt… rồi có cả đồ chơi trẻ con chằng cột. Chị như muốn kéo cả thế giới chung quanh đi theo mình trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn không có ngày tháng cuối.

Hình ảnh đó đẹp đến mức tôi dừng lại, muốn chụp tấm ảnh làm kỷ niệm thì chị choàng tỉnh. Chị sợ hãi hỏi tôi chụp ảnh để làm gì. Có lẽ những cuộc rượt đuổi hàng rong trên hè phố là cơn ác mộng triền miên khiến chị không bao giờ có được chút thanh thản. Trò chuyện ít lâu, mới biết chị đi từ Quảng Ngãi vào bán hàng rong để gửi tiền về giúp cho gia đình. Tháng nhiều thì được 700-800 ngàn. Tháng ít thì 300-400 ngàn.

Người phụ nữ ấy chỉ là một trong hàng trăm ngàn con người đang lưu lạc mưu sinh trên đất nước này. Ẩn trong nụ cười hay lời rao hàng đơn giản đó, là những câu chuyện đời trôi dạt theo miếng ăn, trắc trở hơn những câu chuyện dài truyền hình giả tạo, nhưng buồn thay, chẳng có mấy người xem.

Khi chị ngồi giở mẩu giấy ghi lại tiền nong đã buôn bán trong ngày. Những ngón tay lần mò trên con số ngắn và nhỏ hơn biết bao lần những biên lai tính tiền thường nhật trong thành phố. Những ngón tay của chị nhiều ngày tháng không có được hơi ấm của chồng. Bao nhiêu người phụ nữ trên đất nước này đã bước lên chuyến xe đời khốn khó và không biết ngày nào có lại được hơi ấm từ người đàn ông của mình? Một trong những người phụ nữ như vậy mà tôi gặp nói rằng bà đã rời khỏi nhà gần 15 năm, sống một mình, làm lụng gửi tiền về quê nhưng chưa bao giờ có ý định chọn một tấm chồng khác.

Khi tôi xin được chụp hình chung với gánh hàng rong của người phụ nữ từ Quảng Ngãi, chị hốt hoảng nói không được. Hỏi mãi, thì chị mới nói thật là sợ chụp hình chung, nếu lỡ chồng đang đi làm ở quê thấy được, tưởng chị “mèo mỡ” sẽ buồn giận, tội nghiệp lắm.

Tôi cứ ước mình viết được một bài hát về người phụ nữ này, hay những người phụ nữ tương tự như vậy. Những nốt nhạc không bật ra được, cứ nghẹn lại trong hốc sâu nào đó. Những người đàn bà được mô tả đẹp như cổ tích trong văn chương, hội hoạ… thường thấy, chưa bao giờ có đủ hình ảnh quê mùa và ngọt ngào đến vậy. Không cần cầm súng hay bước ra bục tuyên hô, những người đàn bà vô danh này chống chọi cho một linh hồn đất Việt mong manh, giữa thời phụ nữ đang phải là một cái gì đó rất khác lạ.

Nhưng tôi vẫn còn nợ một bài hát khác, về những người phụ nữ Việt vô danh khác.

Trên một chuyến đi, may mắn được ngồi cùng vài cô gái Việt Nam lấy chồng Đài Loan về thăm quê, tôi bèn xin hỏi chuyện đời sống của họ. Nói về chuyện báo chí Việt Nam vẫn mô tả cuộc sống đi lấy chồng Đài Loan như địa ngục hay nô lệ, các cô nhìn nhau, rồi nhìn tôi cười.

“Cũng có những người không may, nhưng không phải ai cũng vậy, anh à”, một cô gái đồng hương Cần Thơ giải thích. Những cô gái rất trẻ nói về cuộc sống mới của mình. Họ nói rằng đã chọn hài lòng với cô đơn, hài lòng với những khó khăn mà họ phải trãi qua, ít nhất để cho mình, cho cha mẹ mình thoát nghèo khó. Ở miền Tây, có rất nhiều nơi được đặt tên là làng Đài Loan, làng Hàn Quốc… chỉ vì những đứa con gái lấy chồng xa xứ tằn tiện chi tiêu chỉ để dựng lại nhà cho gia đình mình.

Khi được hỏi về nạn bạo hành gia đình của các cô lấy chồng ngoại quốc. Một người lại nhìn tôi cười, hỏi rằng “bộ anh không không biết là lấy chồng dưới quê xứ mình cũng bị đánh tới chết cũng không ai cứu à?”.

Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này mở ra cho tôi một góc nhìn khác về những người phụ nữ Việt tìm duyên tha hương. Chắc chắn họ không hoàn toàn những kẻ điên cuồng hay mất nhân cách như báo chí vẫn gièm xiểm. Thật buồn khi có một thời đại mà những người phụ nữ Việt phải chọn cuộc sống khác hơn ở quê hương mình. Rất nhiều người đã phỉ báng họ. Nhưng giữa chọn lựa rất thực tế, có thể tự xoay sở cho đời mình, họ đủ thành thật để không màng một tiếng thơm hảo. Nỗi buồn xin gửi lại cho quốc gia và thời cuộc, họ chỉ là nạn nhân.

Có thể rồi những người phụ nữ này bình an, nhưng họ khó mà có được hạnh phúc. Điều mà mọi tôn giáo dạy con người đi tìm, cả thế gian mơ đến thì họ chấp nhận lìa bỏ trong kiếp sống tạm, để có thể làm được gì đó cho gia đình, hoặc không là gánh nặng ở quê nhà. Cũng như người đàn bà mưu sinh đến từ Quảng Ngãi, bao giờ thì những người phụ nữ lấy chồng xa này sẽ có, hay cảm nhận được hơi ấm của hạnh phúc đời mình?

Trong những ngày xưng tụng phụ nữ được ghi vào lịch, hình bóng “xấu xí” của những người phụ nữ này chắc không thể có trong diễn văn hay những bông hoa đẹp, dù là phô diễn. Cũng không có những bài ca nào chia sẻ, hát về họ giữa một hiện trạng đất nước thiếu những trái tim biết yêu thật thà. Những bài ca chỉ vang lên lời xảo biện.

Một đất nước thật đáng buồn, nếu chỉ còn biết có hot girl hay xưng tụng một giai cấp khoe khoang mua sắm tiền tỉ, thèm khát những vẻ đẹp bề ngoài. Khi trò vui che lấp các số phận, đến một ngày nào đó, tất cả chỉ là mồi thiêu như các loại hàng mã trong niên đại cô hồn. Thật ghê sợ những đêm hoa đăng tranh đua vùi chôn sự thật mà lẽ ra chúng ta cần phải đối diện.

Tôi ước mình viết được bài ca để hát về câu chuyện của những người đàn bà vô danh ấy, một ngày nào đó. Những số phận ấy tầm thường mà khác thường. Nhưng những nốt nhạc hiện thực vẫn chưa thể vang lên, vì vừa chớm thì đã chết lặng trong những cuộc vui hoa đăng bất tận trên đất nước này. Những tượng đài tốn kém mọc lên, những bông hoa đủ màu ngập ngụa đất nước, rực rỡ như phấn son, che lấp giọt mồ hôi hay nước mắt con người.

Theo:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn








Similar Topics Collapse

2 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |