Jump to content

Advertisements




NHỮNG CÂU CHUYỆN THƯỜNG NGÀY


256 replies to this topic

#91 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 18/06/2014 - 03:22

SỰ THẬT VỀ CHUYỆN “CÕNG RẮN CẮN GÀ NHÀ”
CỦA NGUYỄN ÁNH-GIA LONG


Sau khi bài viết về sự trả thù của Nguyễn Ánh –Gia Long đối với nhà Tây Sơn được giới thiệu, ngoài những ý kiến chí tình của bạn bè yêu sử, tôi còn nhận được tin nhắn của bạn Biên Cương nêu lên một số ý kiến đáng chú ý về chuyện "cõng rắn cắn gà nhà" của nhân vật này và thúc giục tôi trình bày tiếp quan điểm của mình về vấn đề trên. Tôi đã phải xin khất lại vào một tương lai không định trước, vì sợ rằng các bạn yêu sử sẽ phải “bội thực” trước liên tiếp hai vấn đề gai góc. Song, mấy ngày qua, theo dõi việc trao đổi giữa một số bạn, tôi lại thấy vấn đề trở nên “khẩn cấp” hơn, vì hầu như không có sự nắm vững được một phần hay toàn phần sự thật khách quan trong vấn đề tham gia của người Pháp vào cuộc nội chiến nhà Nguyễn-nhà Tây Sơn. Vì vậy, tôi đành phải trở lại chuyện này, song chỉ xin giới hạn vào một chủ đề duy nhất là sự có mặt của người Pháp trong cuộc nội chiến mà ngày nay hầu như ai cũng quen với cụm từ “cõng rắn cắn gà nhà”, qua việc làm rõ các chi tiết sau: có bao nhiêu người Pháp tham gia vào cuộc nội chiến? – Những người Pháp đó chiến đấu trong đạo quân của Nguyễn Ánh dưới danh nghĩa nào? – Họ đóng góp ra sao vào chiến thắng của Nguyễn Ánh trước nhà Tây Sơn? – và Nguyễn Ánh đã đối xử với họ như thế nào sau khi cuộc nội chiến kết thúc?
Lảm rõ được những điều này, căn cứ vào những dữ liệu lịch sử khách quan, là ta đã có thể có một cái nhìn rõ nét về thực chất câu "cõng rắn cắn gà nhà" quen thuộc. Song để lý giải những yếu tố trên, trước hết xin đi vào một số chi tiết được tóm lược trong chuyến đi Pháp của giám mục Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh cùng việc ký và thi hành thỏa hiệp Việt-Pháp năm 1787 như thế nào.

* BÁ ĐA LỘC VÀ THỎA ƯỚC NĂM 1787
Bá Đa Lộc cùng hoàng tử Cảnh và vài quan lại trung cấp xuống tàu đi Pháp từ cuối năm 1784, ghé lại Pondichéry, phần đất Ấn Độ thuộc quyền quản lý của Pháp, ở lại đó một thời gian rồi đến Pháp khoảng giữa năm 1787. Ngày 28.11.1787, Bá Đa Lộc với tư cách đại diện chúa Nguyễn Ánh ký với bá tước De Montmorin, thượng thư bộ Ngoại giao, đại diện Pháp hoàng Louis 16 bản thỏa ước gồm 10 điều khoản, gọi là thỏa ước Versailles, trong đó có hai điểm chính:
- Pháp giúp Nguyễn Ánh 4 tàu chiến và 1.650 quân.
- Nguyễn Ánh chịu nhượng cho Pháp sử dụng hai hòn đảo (Côn đảo và hòn đảo dẫn vào thương cảng Hội An).
Triều đình Pháp ủy nhiệm việc thi hành thỏa ước này cho bá tước De Conway, thồng đốc Pondichéry (Ấn Độ). Hẳn nhiên là trên đường về, Bá Đa Lộc ghé lại Pondichéry để bàn với De Conway các biện pháp thi hành thỏa ước. Song ông ta không ngờ đã gặp phải thái độ bất thân thiện của De Conway và mâu thuẫn giữa hai người ngày càng sâu sắc. Một số người nghĩ rằng việc không thể thi hảnh thỏa ước này là do sự mâu thuẫn giữa De Conway và Bá Đa Lộc, kỳ thực đó chỉ là lý do phụ, lý do chính là lúc bấy giờ, ngân khố của Pháp đã kiệt quệ, Pondichéry cũng không có khả năng huy động người, tàu bè để giúp Nguyễn Ánh. Trong tình thế không thể hoàn thành sứ mạng được giao, Bá Đa Lộc không về ngay Đại Việt mà lần khân ở đó để tính kế sao cho đỡ mất mặt với Nguyễn Ánh. Cuối cùng, ông ta quyên góp tiền của, chiêu mộ một số cựu sĩ quan cùng chuyên viên kỹ thuật Pháp đang rảnh rang để đưa về Đại Việt trình diện chúa Nguyễn. Họ gồm có không đến một chục người như: Philippe Vannier (sau có tên Việt là Nguyễn Văn Chấn), Olivier de Puymanel, Dayot, De Forçant, Laurent de Barisy…Riêng Puymanel, người Việt gọi là ông Tín, nguyên là Đại tá công binh, đã phụ trách xây thành Sài Gòn năm 1790, và là người đầu tiên áp dụng mô hình kiến trúc Vauban nổi tiếng của châu Âu vào việc xây dựng thành quách VN tại nhiều nơi. Riêng người Pháp tên J.B. Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng) mãi đến năm 1793 mới đến Đại Việt, không đến một lượt với những người trên như nhiểu người lầm tưởng.

* Ý KIẾN VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LÀM RÕ
1) Với những dữ liệu trên, điều trước tiên cần xác định và nhấn mạnh là thỏa ước Versailles 1787 ký giữa Bá Đa Lộc và bá tước De Montmorin đã chết từ trong trứng nước, chưa có một ngày hay một điều khoản nào được thi hành. Đã không có chuyện nhường đảo Côn Lôn hay cửa vào Hội An cho Pháp, và cũng không có một binh lính nào của chính phủ Pháp được cử đến Đại Việt. Năm 1817, vài sĩ quan của Pháp ghé tàu La Cybèle lại Việt Nam, chuyển yêu cầu của Paris kêu phía Việt Nam thi hành điều khoản nhường hai hòn đảo. Vua Gia Long đã trả lời thẳng thừng với họ là thỏa ước đã không được họ thi hành thì không có lý do gì phía VN thi hành về phần mình cả.

2) Cần minh định rằng số không đến 10 sĩ quan, chuyên viên Pháp tới Đại Việt năm 1789 không phải là người của chính phủ Pháp cử sang để thực hiện thỏa ước Versailles. Họ chỉ là những cá nhân có đủ tự do hoạt động riêng và tình nguyện sang giúp Nguyễn Ánh theo lời yêu cầu của giám mục Bá Đa Lộc.

3) Trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn, mấy người Pháp đó được chúa Nguyễn Ánh sử dụng vào những việc khác nhau, nhiều nhất là điều khiển các tàu chiến trong việc đánh nhau với quân Tây Sơn, dưới quyền quan Trung quân người Việt, ví dụ Chaigneau Nguyễn Văn Thắng được giao cai quản tàu Long phi, còn Vannier Nguyễn Văn Chấn cai quản tàu Phụng phi…Như vậy, điều có thể thấy rõ là những người Pháp này chỉ là những công cụ trong bàn tay sử dụng của chúa Nguyễn Ánh và các tướng lãnh Việt. Không như có người cho rằng họ đã quyết định thắng lợi của cuộc nội chiến (!). Xác định xong điều này, chúng ta đã có thể tạm kết luận về thực chất của câu “cõng rắn cắn gà nhà” như thế nào. Ngay cả trường hợp có thi hành thỏa ước Versailles thì con số 1.650 lính Pháp cũng không thấm vào đâu so với mấy vạn quân thiện chiến đang nằm dưới quyền chỉ huy của các tướng lãnh tài ba của Nguyễn Ánh. Vì vậy giữa chuyện Nguyễn Ánh với mấy vạn hùng binh Việt trong tay sử dụng thêm một nhúm 5-7 người Pháp với việc vua Lê Chiêu Thống với hai bàn tay trắng đưa 20 vạn quân Thanh sang chiếm cứ nước ta là một sự khác biệt như nước với lửa, như ngày với đêm. Không một người tỉnh táo nào lại có thể đồng nhất hóa hành vi của vua Chiêu Thống với việc làm của Nguyễn Ánh được. Dựa vào chút “yếu tố nước ngoài” đó mà khoác cho ông cái tội "cõng rắn cắn gà nhà" thì thật là chuyện …giả tưởng. Giả dụ có ai cắc cớ đưa ra một định đề là hễ trong quân đội có người nước ngoài, dù ít dù nhiều là đều có tội “cõng rắn” thì chính anh em nhà Tây Sơn đã “cõng” trước hơn ai hết, khi vào năm 1774, họ đã thu nhận hai thảo khấu người Hoa là Tập Đình và Lý Tài vào hàng ngũ của họ.

4) Có nhiều ngộ nhận trong mối quan hệ giữa Nguyễn Ánh và những người Pháp giúp ông với tính cách cá nhân, đặc biệt với Bá Đa Lộc. Nhiều cây bút tô vẽ vị giám mục này như một bậc quân sư nhiều thế lực chuyên khuynh loát Nguyễn Ánh. Chúng ta biết rằng, với các giáo sĩ, từ Alexandre de Rhodes đến Bá Đa Lộc, và về sau nữa, mục tiêu tối hậu của họ là kết nạp nhiều giáo dân Thiên Chúa giáo và cố lái các vương công Việt theo con đường tôn giáo của họ. Bá Đa Lộc đã thành công một phần trong ý đồ này khi có gần 5 năm trời “giáo dục” hoàng tử Cảnh về triết lý Công giáo, và khi trưởng thành, được phong làm Đông cung Thái tử, Nguyễn Phúc Cảnh đã công khai đả kích việc thờ cúng, quỳ lạy của người Việt. Bá Đa Lộc cũng giở “chiến thuật” tiếp cận tâm linh kiểu đó với Nguyễn Ánh, nhưng ông ta đã chạm phải bức tường sắt đá của Nguyễn vương. Hội truyền giáo hải ngọai Paris còn lưu giữ bản dịch ra tiếng Pháp một lá thư do chúa Nguyễn Ánh viết gửi cho Bá Đa Lộc, trong đó, bằng những lời lẽ tế nhị nhưng kiên quyết, ông bảo vệ sinh hoạt thờ cúng của người Việt mà Bá Đa Lộc cho là mê tín và không để lộ cho Bá Đa Lộc thấy được chút suy suyển nào trong lập trường của ông. Mưu toan đó của Bá Đa Lộc còn bị các cận thần của Nguyễn Ánh nhận ra và họ phản ứng bằng cách cô lập ông ta, đến nỗi gần suốt thập niên 1790, Bá Đa Lộc gửi hàng chục bức thư cho các giáo sĩ bạn ở nhiều nơi, nói lên nỗi chán chường, thất vọng, và ngỏ ý muốn trở về Pháp sớm. Một chi tiết này cũng nói lên được cách đối nhân xử thế của Nguyễn Ánh: dù dứt khoát không nhân nhượng Bá Đa Lộc, song khi ông này chết, Nguyễn Ánh vẫn nhớ công gian khổ, sai Đông cung Cảnh vào Sài Gòn làm chủ lễ tang Bá Đa Lộc kéo dài hàng tháng trời.
Với những người Pháp theo giúp ông hàng chục năm trời cũng vậy, Nguyễn Ánh xử sự rất phân minh. Chiến thắng xong, ông phong cho các đại công thần như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Lê Chất … các chức vụ vào hàng chánh nhất phẩm và tước vị đến Quận công. Những người Pháp theo ông như Chaigneau, Vannier… được phong cao nhất là chức Chưởng cơ, tòng nhị phẩm và tước vị là tước hầu. Thập niên 1800, sau khi chiến cuộc kết thúc, nhiều người Pháp trong số kể trên, hoặc nhớ nhà, hoặc không mấy ưng ý với địa vị được phong, đã lần lượt bỏ về nước. Đến thập niên 1810, chỉ còn hai người Pháp ở lại với triều đình Gia Long là Chaigneau Nguyễn Văn Thắng và Vannier Nguyễn Văn Chấn, nguyên nhân chính là ông Thắng có người vợ Việt tên Benoite Hồ Thị Huề, còn ông Chấn có vợ là bà Nguyễn Thị Sen (Liên). Dù vậy, sau khi vua Gia Long băng, hai ông cũng chán nản trước sự cư xử của vua Minh Mạng nên đến năm 1824, cả hai đưa cả gia đình về Pháp luôn. Nói điều này để xin đừng cho rằng những người Pháp từng phục vụ dưới trướng Nguyễn Ánh là đầu mối của việc Pháp xâm lăng Việt Nam hơn 50 năm sau đó. Thậm chí chuyện cấm, giết đạo, chuyện gọi là “bế quan tỏa cảng” cũng chỉ là những lý do mặt nổi thôi, mọi hành động của Pháp đều nằm trong chiến lược chiếm lấy thuộc địa bằng bất cứ lý do nào, trong khuôn khổ cuộc chạy đua tranh giành thuộc địa gay gắt giữa hai đế quốc Anh và Pháp.
Lê Nguyễn – 7.3.2014

Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) (1741-1799)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Philippe Vannier (Nguyễn Văn Chấn) 1762-1842


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Jean Baptiste Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng) 1769-1832

Sửa bởi pth77: 18/06/2014 - 03:25


Thanked by 1 Member:

#92 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 19/06/2014 - 04:14

Bộ Hình Ảnh Và Những “Tiếng Rao Hà Nội” Thuở Xưa (Phần 1)


Hình ảnh những gánh hàng rong, và hình ảnh của cả những "tiếng rao Hà Nội" hiện đang được gìn giữ, trân trọng tại thư viện EFEO, thành phố Paris (Pháp).

Tiếng rao của những gánh hàng rong là một nét đặc trưng riêng biệt trên những góc phố ở Việt Nam. Với các du khách nước ngoài khi đến Việt Nam, dù rào cản ngôn ngữ khiến những âm thanh đó có phần khó hiểu, nhưng tiếng rao cùng với sự giản dị của các gánh hàng vẫn khiến họ cảm thấy thích thú, ấn tượng.
Tại thư viện EFEO, thành phố Paris (Pháp) hiện đang lưu giữ rất nhiều bản thảo quý giá với tựa đề “Những gánh hàng rong và tiếng rao trên những con phố ở Hà Nội”. Tác phẩm được thực hiện bởi những học sinh của trường Mỹ thuật Đông Dương và tác giả người Pháp F de Fénis, năm 1929.


Dưới định dạng 39x20 cm, một số bức tranh còn được tô màu vô cùng sinh động cùng với những đoạn trích tiếng rao bằng tiếng Việt là phần diễn giải bằng tiếng Pháp giúp các độc giả quốc tế có thể cảm nhận được phần nào nét văn hóa đặc trưng của người dân Việt Nam.

Dưới đây là toàn bộ hình ảnh có trong tác phẩm đã được chụp lại. Xin chia làm hai phần để bài không quá dài.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trang bìa và phần mở đầu của cuốn sách. Lời dẫn cũng như phần chú giải có trong cuốn sách đều được viết tay với 2 ngôn ngữ Việt và Pháp.



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Phần lớn các tiếng rao ở Hà Nội là dành cho các loại bánh làm từ gạo. Bên cạnh đó cũng có các món ăn dạng sợi như bún, phở, các loại hoa quả, đồ uống v..v. Cũng có một số tiếng rao không liên quan đến việc ăn uống như tiếng rao của các hàng thu mua chậu, bát sứ vỡ, giẻ rách sắt vụn...

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Gánh hàng phở

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chum chậu bát sứ vở hàn không (thợ hàn)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai giẻ rách sắt vụn bán không nào

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Những người bán hàng rong tụ tập ở khu vực bờ hồ Hoàn Kiếm.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai ăn bánh tây ra mua

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Nước vối nóng ăn thuốc không.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai mua ngô rang hạt dẻ ra mua

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai dâu chín của nhà ra mua

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bánh giò bánh dầy

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


"Se cấu, se cấu" kem vanilla

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai bánh chưng bánh cốm ra mua


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Phần 2


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai bánh cuốn ra mua

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai cháo đậu xanh ra mua

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


"Le bánh cuốn"

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai mua bánh vừng không

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bánh giò bánh dày

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chè hạt sen

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai mía ra mua

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai bánh tây ra mua

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai có chai cốc vở bán không

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai kẹo vừng kẹo lạc kẹo bột trạm ô mai ra mua

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai lạc rang ra mua

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ai nem sốt mua". "Ai nem mua đi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trung Bắc, Thực Nghiệp, Khai Hoá" (tên của 3 tờ báo thời thuộc địa).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Theo Belle Indochine

Thanked by 4 Members:

#93 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 23/06/2014 - 03:43

TRUYỆN KHÔNG KỂ TRONG TRUYỀN KÌ

Ông huyện ấy chỉ mê những chuyện ma quỉ, thần tiên, quái dị… mà chẳng thiết gì đến việc quan. Vì thế công việc bê trễ, chồng chất lâu ngày không ai giải quyết. Có người quở thì ông bảo: “Nhà nước ví như cái lồng. Lồng lớn thì nhốt được chim công, chim phượng. Lồng bé thì chỉ nhốt những chích choè, chim sẻ mà thôi. Rốt cuộc phượng hoàng vẫn bay lượn nơi hoang dã mà không ai biết có chúng ở trên đời”. Câu nói ấy đến tai nhà vua, vua phán: “Gã này muốn ví mình với phượng hoàng đây. Lại có ý chê cái “lồng” của ta hẹp. Đã thế cho gã đi mà bay lượn nơi hoang dã, không cần đến làm gì”. Rồi xuống chiếu bãi chức ông. Chiếu chưa đến nơi thì ông đã treo mũ áo ở công đường mà bỏ đi rồi.
Ông đi đâu? Cố nhiên là về quê thu xếp việc nhà rồi lang thang đây đó. Một bữa đi qua cánh đồng nọ, ngồi nghỉ dưới bóng mát của một cây gạo cổ thụ giữa cánh đồng, thấy mấy đứa trẻ chăn trâu đang chuẩn bị chơi bi. Một đứa bảo:
- Đêm qua chỉ có bốn “cậu” chơi ở đây. Còn một “cậu” nữa đi đâu mất rồi?
Đứa khác bảo:
- Chắc là được đầu thai. Trong làng đêm qua có người mới đẻ. Một đứa khác lại bảo:
- Chiều nay có mưa lớn, lại có dông. Nhớ báo cho mọi người biết…
Ông nghe thấy lạ quá bèn sán lại hỏi:
- Các cháu nói gì thế, “cậu” là những ai vậy?
Lũ trẻ tranh nhau trả lời:
- Là những con ma trẻ con. Chỗ gốc cây này ban ngày là của chúng cháu, ban đêm là của ma. Ban ngày chúng cháu chơi trò gì, ban đêm ma cũng chơi trò ấy. Chúng cháu để lại đây năm hòn bi, hôm nay chỉ còn bốn, mất một hòn màu trắng, vì thế mà chúng cháu biết.
Ông nghe càng thấy lạ. Lại hỏi tiếp:
- Thế sao các cháu biết chiều nay có trận mưa dông?
- À! – một đứa buột miệng trả lời – Đó là các “cậu” báo cho biết…
Nó nói chưa dứt câu thì mấy đứa trẻ kia vội suỵt! suỵt!, rồi đưa một ngón tay trỏ lên mồm, mắt nháy nhau ra ý bảo đứa kia chớ nói cho ông biết.
Đứa trẻ vừa nói chợt thấy mình bị lỡ lời mặt hơi tái đi, nó cúi đầu lẩm bẩm những câu khó hiểu:
- Tại sao phải như thế nhỉ? Cho dù có là một trận mưa dông, thì mỗi năm cũng biết bao nhiêu lần như thế…
Ông hiểu là không thể khai thác gì thêm ở lũ trẻ, bèn nhìn xuống, thấy mấy viên bi xanh, đỏ, tím, vàng được xắp xếp một cách cố ý trên mặt đất. Ông đoán chắc là mấy đứa trẻ này căn cứ vào đó mà biết trời mưa hay nắng đây. Song tất cả câu chuyện từ đầu có vẻ cứ như hoang đường, làm ông bán tin bán nghi. Ông quyết định phải vào làng điều tra cho rõ mọi điều.
Quả là trong làng đêm qua có một người đàn bà mới trở dạ đẻ. Hỏi thăm đến cổng nhà người đàn bà ấy rồi, ông cứ nấn ná không biết có nên vào hay không, sợ tục ở đây kiêng vía người lạ. May quá có một bà già từ trong bước ra. Ông vội túm lấy hỏi thăm:
- Xin hỏi bà người mới đẻ đêm qua có gì lạ không?
Bà lão có vẻ mừng rỡ khi thấy ông hỏi như thế. Bèn trả lời ngay:
- Thế ra ông là thầy hay sao mà biết. Phải rồi, nửa đêm qua con dâu nhà tôi sinh cháu trai, trong tay nắm một viên ngọc màu trắng. Tôi đang định mời thầy đến xem đó là điềm gì. Nhân gặp được ông đây, trăm sự nhờ ông xem cho cháu.
Ông nghe nói mà không khỏi kinh ngạc. Té ra câu chuyện của lũ trẻ ở gốc cây gạo kia là có thật. Có điều đó chỉ là một viên bi đất chứ ngọc nghiếc gì. Thôi thì cứ để cho bà lão tưởng nhầm có khi lại hay. Ông bảo:
- Đó là điềm tốt, không sao cả. Cứ việc cất viên “ngọc” ấy vào đâu cũng được, đừng để nó rơi xuống nước là được rồi.
Nói xong, ông vội vã quay người bước đi, sợ bà ta hỏi thêm câu nữa thì không biết lấy gì mà trả lời. Dù sao ông cũng muốn chứng kiến trận mưa dông buổi chiều, nếu quả thực nó xảy ra, thì việc lũ trẻ với mấy con ma trẻ con kia là điều không còn hồ nghi gì nữa. Ông bèn tìm đến đình làng, thu xếp một chỗ ngồi ở hiên nhà giải vũ, kiên nhẫn chờ đợi.
Chiều hôm đó, trời đang nắng bỗng tối sầm, mây đen ngùn ngụt kéo tới. Rồi xuất hiện một trận cuồng phong cuốn tung bụi đất, cát lở đá bay, cây cối vặn mình răng rắc. Sấm sét gầm rú trên vòm trời lúc này như đã sa xuống gần mặt đất. Lát sau là một trận mưa như trút nước.
Đúng là không còn hồ nghi gì nữa. Có điều tại sao lũ trẻ chăn trâu kia lại “giải mã” được những thông tin của ma quỷ? Tại sao những người lớn, người có học, thông thái như ông lại có mắt cũng như mù? Có lẽ tại đầu óc chúng còn trong sáng, hồn nhiên như những trang giấy trắng, chưa hề vương vấn nợ đời chăng?. Đợi cho tạnh hẳn cơn mưa, bầu trời đã trong xanh trở lại, ông rời khỏi mái đình, thong thả tiến ra phía cánh đồng. Bỗng ông giật mình nghe tiếng trẻ con kêu khóc. Nhìn về phía làng, ông nhận ra thằng bé đã nói với ông câu cuối cùng lúc ở gốc gạo kia đang chạy. Đầu tóc rũ rượi, áo quần tả tơi, nó vừa chạy vừa gào khóc như bị… ma đuổi. Theo sau nó, những người lớn không hiểu nguyên do, cũng chạy theo cố túm nó lại. Song nó cứ giằng ra mà chạy, mà kêu khóc… tiếng nó cứ khản dần, khản dần rồi lịm đi. Nó đã chết.
Ông kinh ngạc, đờ người ra vì đau xót như chính mình vừa bị mất người thân. Hai mắt bất chợt nhòa đi, ông chỉ còn biết quay lưng, bước vội đi như một kẻ trốn chạy. Bỗng một hình ảnh quái gở khác đập vào mắt ông. Cây gạo cổ thụ sum xuê ở giữa cánh đồng, chốn nương náu của những linh hồn bé bỏng ấy đã bị sét đánh chẻ làm đôi, mỗi nửa đổ vật về một hướng. Như một kẻ bị tâm thần, ông quay mặt đi, vừa bước thấp, bước cao, vừa buột mồm lẩm bẩm: “Thiên cơ, ôi! Thiên cơ…”.
Hình ảnh đứa trẻ vừa chạy vừa gào khóc đến khản cổ mà chết và cây gạo bị sét đánh ấy cứ ám ảnh ông mãi. Lại có cảm giác rằng tại mình mà xảy ra những chuyện đau lòng đó. Bất chợt, một điều gì vừa vỡ oà ra trong tâm khảm. Ông quyết định trở về nhà, đóng cửa viết sách, lôi tuốt những chuyện ma quỷ kì dị ra, cả những gì gọi là thiên cơ, địa lậu… mà ông từng được biết hoặc được nghe… tất cả phơi bày ra trên giấy. Bộ sách ấy gọi là: “truyền kì mạn lục”. Sách viết ra làm kinh động cả quỷ thần. Mới hay trong cái “trường” thiên cơ, địa lậu mịt mù, kiếp người bỗng mong manh như kiếp ma, truyện trò chỉ dám như “oanh vàng thỏ thẻ”, viếng thăm chỉ mong có “bướm héo vật vờ”… Có điều lạ là chính câu chuyện trên lại không thấy ông chép trong đó. Sách được khắc in, lập tức được lưu truyền rộng rãi trong đời.
Sau đó ít lâu, vào một đêm mơ màng, bỗng thấy một đứa trẻ con đang mờ mịt đứng bên cạnh giường, ông chợt nhận ra chính là thằng bé bị ma đuổi ngày trước. Nó khoanh tay chào ông và bảo:
- Cháu đến chào ông để đi đầu thai. Nhờ có sách của ông, mà từ “thiên cơ” đến “địa lậu”, bây giờ không còn là việc riêng của trời đất nữa. Điều cháu nói với ông ngày trước, từ nay không còn phải tội nữa rồi.
Nói xong, nó bé dần, bé dần rồi vụt biến đi đâu mất. Ông cũng giật mình tỉnh giấc, không biết mình vừa mơ hay tỉnh. Về sau, bộ “Truyền kì mạn lục” ấy tiếp tục được lưu truyền hết đời nọ đến đời kia, được coi là một “thiên cổ kì bút”. .. cho tới tận bây giờ.
Phạm Lưu Vũ

Thanked by 3 Members:

#94 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 25/06/2014 - 02:27

Những triết lý "để đời" từ một vụ cướp ngân hàng
09:34' PM - Thứ ba, 24/06/2014

Trong vụ cướp nhà băng được cho là ở Quảng Châu - Trung Quốc, một tên cướp hét lên: "Tất cả đứng im, nên nhớ tiền thuộc về Nhà nước, còn mạng sống thuộc về các người". Mọi người trong ngân hàng nghe xong liền im lặng nằm xuống.
Điều này được gọi là: "Cách thức khai tâm - Thay đổi những suy nghĩ theo lối mòn".

- Có cô nhân viên nằm trên bàn trong tư thế khêu gợi, một tên cướp hét lên: "Làm ơn cư xử văn minh, chúng tôi là cướp chứ không phải những kẻ hiếp dâm!"
Điều này được gọi là "Hành xử chuyên nghiệp - Chỉ tập trung vào công việc mà bạn được huấn luyện!"

- Khi tên cướp quay lại, một tên cướp trẻ hơn (có bằng MBA) nói với tên cướp già hơn (kẻ mới tốt nghiệp hết phổ thông): "Đại ca, có phải đếm xem chúng ta cướp được bao nhiêu?". Tên cướp già gằn giọng: "m*y ngu lắm, bao nhiêu tiền, đếm thế nào được? Đợi đi, tối nay TV sẽ nói chúng ta cướp được bao nhiêu!"
Điều này được gọi là: "Kinh nghiệm - Ngày nay thì kinh nghiệm quan trọng hơn bằng cấp, sách vở"

- Sau khi băng cướp rời khỏi, giám đốc chi nhánh định gọi báo cảnh sát. Kế toán trưởng vội vã chạy đến, thì thầm vào tai ngài: "Đợi đã, hay để 5 triệu chúng ta biển thủ vào trong số bị băng cướp lấy mất!"
Điều này được gọi là: "Bơi theo dòng nước - Chuyển đổi những tình huống bất lợi trở thành thuận lợi"

- Người giám đốc tự nhủ: "Vậy thật tuyệt nếu cứ mỗi tháng lại có một vụ cướp!"
Điều này được gọi là: "Hãy loại bỏ những điều khó chịu - Hạnh phúc là điều quan trọng nhất"

- Ngày hôm sau, TV đưa tin 100 triệu đã bị cướp khỏi nhà băng. Những tên cướp đếm đi đếm lại thì chỉ có 20 triệu. Chúng rất giận dữ: "Chúng ta mạo hiểm mạng sống của mình chỉ để lấy 20 triệu, bọn chó đó chỉ ngồi chơi mà cướp được 80 triệu. Đúng là học hành, có bằng cấp thì chúng nó được ngồi cái ghế đấy, cướp tiền siêu đẳng hơn chúng ta!"
Điều này giải thích tại sao: "Kiến thức thì giá trị như... vàng"

Kết luận:
Trong cuộc sống luôn có những điều chúng ta có thể nhanh chóng nhìn ra, có những điều không như chúng ta thấy từ bên ngoài, và chân lý chỉ mang tính tương đối.
Quan trọng nhất là thái độ đối với cuộc sống này, hay cách nhìn chúng ta lựa chọn để mang lại vui vẻ, hạnh phúc cho bản thân, cho những người thân xung quanh mình.
Nguồn: Sưu tầm

Sửa bởi pth77: 25/06/2014 - 02:29


Thanked by 1 Member:

#95 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 25/06/2014 - 03:00

Con người, mẩu bánh mì 150g và con chó
Hoàng Hạnh (ghi theo lời kể của PGS Phạm Vĩnh Cư)
04:19' PM - Thứ ba, 24/06/2014


Trong 900 ngày bi thảm khi Leningrad (nay là St. Peterburg, Nga) bị phong tỏa trong Đại chiến thế giới lần thứ 2, có một người phụ nữ độc thân vẫn chia khẩu phần ăn một ngày là 150 gram bánh mỳ trộn mạt cưa với con chó của mình. Con chó ấy cũng đã chịu nhịn đói chờ bà chủ về chia phần chứ nhất định không động vào mẩu bánh nhỏ xíu trên bàn. Câu chuyện phi thường đó được ghi lại trong “Sách phong tỏa”, đã được tái bản nhiều lần ở Nga.

Giữa mùa đông, trong một căn hộ bình thường tại thành phố Leningrad (khi đó đang trong thời gian bị quân Đức phong tỏa, từ tháng 10/1941 đến tháng 4 – 5/1944), con chó ngồi trên sàn, bụng lép kẹp, nước dãi chảy dòng dòng, mắt dán chặt vào miếng bánh mỳ 150 gram trộn mạt cưa đặt trên bàn. Đó là khẩu phần ăn của chủ nó, một người phụ nữ độc thân, đang sống trong điều kiện vô cùng thiếu thốn tại thành phố bị phong tỏa này. Bà đã phải xếp hàng rất lâu để được lĩnh phần ăn đó, về đến nhà thì đã mệt lử. Nhưng bà nhớ ra là phải đi xếp hàng nhận củi và lại đi. Do quá mệt mỏi, bà đã quên cất miếng bánh vào trong tủ.

Khẩu phần 150 gram bánh mỳ trộn mạt cưa đó là thức ăn cơ bản của gần 3 triệu dân thành phố Cực Bắc trong suốt 900 ngày đêm bị phong tỏa. Hồ Ladoga, nằm phía Đông Bắc thành phố Leningrad, nơi bắt nguồn con sông Neva là nơi duy nhất không bị phong tỏa. Đó là con đường duy nhất mà qua đó nhân dân thành phố Leningrad nhận được tiếp phẩm. Những đoàn xe đi trong đêm trên mặt hồ đóng băng (vì di chuyển vào ban ngày sẽ bị không quân Đức oanh tạc) cũng chỉ mang được số lương thực ít ỏi đó, còn 3 triệu dân cực Bắc phải trải qua ba mùa đông không được sưởi ấm.

Người phụ nữ trở về với số củi ít ỏi chỉ đủ dùng để đun nước, bà thấy con chó của mình đang nằm thở hổn hển, khó nhọc. Bà vội chia miếng bánh mỳ bé con ấy làm đôi, cho con chó một nửa, điều mà bà vẫn làm từ ngày thành phố Leningrad bị phong tỏa. Bà ghi vào nhật ký sự việc ngày hôm ấy với kết luận: “Người cũng không thể yêu người như chó”.

Sau đó mấy ngày, những người láng giềng không thấy người phụ nữ đó ra khỏi căn hộ. Họ hiểu ngay, bà ấy đã chết đói. Người ta cậy mở căn buồng của bà ra và nhìn thấy bà chủ cùng con chó vẫn ôm nhau nhưng đã tắt thở từ lâu.

Hai nhà văn Nga Xô viết, Granin và Adamovich đã may mắn sưu tập được những trang cuối cùng còn sót lại của cuốn nhật ký của người phụ nữ vô danh ấy. Qua đó, người ta có thể hình dung được về cuộc sống của bà với con chó, người bạn chí thân chí cốt trong 900 ngày Leningrad bị phong tỏa. Câu chuyện của họ được công bố trong cuốn “Sách phong tỏa”, đã được tái bản nhiều lần ở Nga.

Thiết nghĩ, cần phải nói rõ thêm về hoàn cảnh sống của 3 triệu người dân Leningrad những ngày ấy. Theo số liệu chính thức của nước Nga Xô viết, trong 900 ngày phong tỏa này, trên 700.000 người đã chết vì đói rét (1).

Qua nhiều công trình khảo cứu lịch sử, cũng như qua những hồi ký của những người sống sót qua 900 ngày ấy, người ta biết được rằng, trong hoàn cảnh ấy, người dân Leningrad đã phải tìm ăn tất cả những gì có thể ăn được: từ chuột, mèo, chó, tôm cá cho đến những đồ dùng bằng da (họ nấu chúng lên để húp nước súp)… Những con chó yêu được chủ nuôi trong thời bình, thường phải hi sinh tính mạng, trở thành đồ ăn kéo dài sự sống không biết được bao lâu nữa cho những người chủ của chúng. Và dĩ nhiên, không ai có thể trách được những người chủ khốn khổ kh*n n*n ấy. Gần đây nhất, Viện sĩ Likhachov, đã sống qua 900 ngày phong tỏa (1907 – 1995) trong tập hồi ký của mình có kể một điều mà từ trước tới nay không ai dám nói lên, không ít người đã ăn thịt người chết.

Xin mạo muội có một lời bình luận của kẻ kể lại câu chuyện này: Một người đàn bà vô danh ấy đã chuộc tội cho tất cả những người đã ăn thịt chó và các loại súc vật khác để kéo dài đôi chút cuộc sống của mình trong 900 ngày bi thảm và oanh liệt ấy. Từ đó, có thể suy ra và chấp nhận một chân lý tôn giáo là, Đức Kitô bằng sự tuẫn nạn tự nguyện của mình quả thật đã chuộc tội cho cả loài người trước Thượng Đế.

Nhân tiện xin kể thêm một chuyện “người thật việc thật” nữa. cũng được thuật lại trong cuốn sách của hai tác giả Nga nói trên. Ở nước Nga thời ấy, có một họa sĩ thiên tài không được chế độ và xã hội thừa nhận là Pavel Philonov. Sau khi ông chết đói, cũng ở Leningrad trong 900 ngày phong tỏa ấy (cần phải chú thích rằng, các văn nghệ sĩ hợp thời đều được đưa bằng máy bay về hậu phương an toàn), em gái của ông, cũng kiệt quệ tuyệt đối như ông, đã nhờ hàng xóm láng giềng cuộn và bó lại những họa phẩm của ông. Một mình người đàn bà ấy đã kéo bó họa phẩm rất nặng ấy đến Viện Bảo tàng Ermitade nhờ cất vào kho. Và bà đã không còn đủ sức để lê chân về đến nhà mình nữa, bà đã chết trên đường về. Nhờ sự hi sinh ấy mà bây giờ nhân loại được thưởng ngoạn hàng chục kiệt tác của một trong những họa sĩ lớn nhất không chỉ của Nga mà của cả thế kỷ 20.


(1) Nghĩa trang tưởng niệm những người đã hi sinh ấy có tên gọi là Piskared, hiện là nghĩa trang viếng thăm đông nhất tại thành phố St. Peterburg.
Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi pth77: 25/06/2014 - 03:00


Thanked by 2 Members:

#96 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 25/06/2014 - 03:28

Đừng sống bằng dối trá

Sau đây là toàn văn của bài tiểu luận của Alexander Solzhenitsyn “Đừng sống bằng dối trá” có lẽ là cái cuối cùng ông viết trên đất quê hương mình – trước khi Liên Xô sụp đổ – đã và lưu hành trong giới trí thức của Moscow tại thời điểm đó. Bài tiểu luận ghi ngày 12 Tháng Hai, cái ngày mà mật vụ đột nhập vào căn hộ để bắt ông. Ngày hôm sau, ông bị lưu đày sang Tây Đức.

Đã có thời thậm chí rỉ tai nhau chúng ta cũng không dám! Bây giờ thì chúng ta viết và đọc sách báo chui, và thỉnh thoảng có tới Viện Khoa Học hút thuốc gặp nhau thì cũng thành thật mà phàn nàn với nhau rằng: Chúng đang giở trò gì đây? Chúng còn xỏ mũi ta tới đâu nữa? Quê hương vừa nghèo vừa điêu tàn mà chúng cứ huyênh hoang khoe nhau những thành tựu trên vũ trụ. Chúng ôm mấy cái chế độ cai trị lạc hậu và dã man, rồi thổi cho lửa nội chiến bùng lên. Chúng rút ruột để nuôi Mao Trạch Đông một cách vô tội vạ – rồi tống cổ chúng ta ra chiến trường đánh nhau với hắn, mà chúng ta phải đi. Trốn sao cho thoát? Chúng thích đưa ai ra tòa thì đưa, chúng nhốt người tỉnh táo vào nhà thương điên – chúng nó luôn giở những trò đó, còn chúng ta thì bất lực.
Mọi thứ sắp rớt xuống đáy cùng. Tinh thần chúng ta đã chết hết, còn thân xác chúng ta và cả con cái chúng ta nữa, cũng sắp bị ném vào lửa cháy rụi. Thế mà chúng ta vẫn bình chân như vại, cứ nhếch mép cười một cách tiểu nhân, và lưỡi không bị ngọng mà vẫn lúng búng trong miệng. Nhưng chúng ta biết làm gì mà ngăn nó cho được? Hay là chúng ta không đủ sức?
Chúng ta bị tước đoạt nhân tính một cách tàn bạo tới mức chỉ vì miếng cơm manh áo qua ngày thôi mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ mọi nguyên tắc và linh hồn của mình, mọi nỗ lực của tiền nhân và mọi cơ hội của hậu thế – miễn sao đừng đụng tới sự tồn tại mong manh của mình là được. Chúng ta không có khí phách, không có tự trọng, không có nhiệt tình. Vũ khí hạch tâm, thế chiến thứ ba chúng ta không sợ. Chúng ta đã nấp kĩ trong hang rồi. Chúng ta chỉ sợ làm người công dân có dũng khí.
Chúng ta chỉ sợ tụt lại phía sau đàn và phải bước đi một mình và đột nhiên thấy mình không có bánh mì ăn, không có lò sưởi ấm và không có một đăng ký hộ khẩu Moscow. Chúng ta đã được tuyên truyền trong các khóa học chính trị, và theo cùng một cách giống hệt nhau, đã được bồi dưỡng các ý tưởng sống yên thân, và mọi thứ sẽ tốt đẹp trong phần còn lại của cuộc đời. Bạn không thể thoát khỏi môi trường và điều kiện xã hội. Cuộc sống hàng ngày định hình ý thức. Cái đó có liên quan gì với chúng ta? Chúng ta có thể làm gì với nó?
Được chứ, được tất cả là đàng khác. Nhưng chúng ta dối lòng mình để an thân. Đừng trách bọn chúng, có trách thì trách chúng ta đi. Có người vặn hỏi: Thì ông muốn nghĩ gì mà chẳng được. Chúng đã dém miệng chúng ta. Có ai chịu nghe chúng ta, có ai thèm đoái hoài chúng ta. Làm sao mà bắt chúng nghe chúng ta nói được? Không thể nào thay đổi được não trạng của chúng.
Tất nhiên là có thể đầu phiếu để loại bọn chúng, nhưng mà đất nước này làm gì có tuyển cử. Ở phương Tây người ta có bãi công và biểu tình phản đối, còn chúng ta thì bị đàn áp thẳng tay, có những cảnh mới nghĩ tới đã thấy rùng mình: Ai dám thình lình bỏ việc mà xuống đường? Song le, những con đường chết chóc mà dân tộc Nga đã mò mẫm trong đau khổ suốt thế kỉ qua không phải dành cho chúng ta, mà quả thật chúng ta không cần đi lại những con đường như vậy.
Bây giờ cái rìu đã làm xong việc, hạt giống gieo xuống đã nảy mầm, chúng ta có thể thấy là những kẻ còn trẻ tuổi mà cuồng vọng, cho là có thể dùng khủng bố, cách mạng đẫm máu và nội chiến để mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho đất nước chúng ta, chính họ là những kẻ lạc lối. Thế đủ rồi, xin cảm ơn các vị giác ngộ cách mạng tiên phong! Bây giờ chúng ta mới biết phương pháp xú uế tất sinh kết quả xú uế. Hãy để cho tay của chú
Cái vòng trói buộc này đã đóng chặt rồi sao? Không còn lối thoát? Và chúng ta chỉ còn một đường duy nhất thôi, là khoanh tay đợi? Đợi cho tới khi có biến? Chừng nào mỗi ngày chúng ta đều thừa nhận, ca ngợi, và nuôi dưỡng – chứ không tự mình chém phăng đi một điều không ai không thấy, là sự dối trá – thì đừng mong có chuyện gì xảy ra.
Bạo động len lỏi vào cuộc sống an bình, cái mặt nó toát ra vẻ ngạo mạn, y như đang khoác một ngọn cờ và hô to: “Bạo động đây. Tránh ra, nhường đường cho t*o, không t*o nghiến nát tụi bay.” Nhưng mà bạo động mau già. Rồi nó mất hết tự tín, và để giữ cho cái mặt ra vẻ khả kính nó rước thằng dối tra về làm đồng minh – vì không phải ngày nào nó cũng thò bàn tay thô bạo của nó ra được, mà thò ra được cũng bất tất chụp hết mọi người. Nó chỉ cần chúng ta ngoan ngoãn phục tùng dối trá và hàng ngày thực hành dối trá – đây chính là yếu huyệt của mọi sự trung thành. Cái chìa khóa đơn giản nhất và dễ làm nhất mở ra cánh cửa tự do, tự do mà bấy lâu nay chúng ta lãng quên, là: Mỗi người cùng tẩy chay dối trá. Mặc dù dối trá che giấu tất cả, mặc dù dối trá phủ lấy tất cả, nhưng tôi tuyệt không nhúng tay.
Làm vậy tức là mở một lối thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn hoang tưởng do chúng ta khoanh tay đứng nhìn mà ra. Cách đó vừa dễ làm nhất vừa tiêu diệt dối trá mau nhất. Vì rũ bỏ dối trá, tức là cắt đứt đường sống của nó. Dối trá giống như bệnh dịch, chỉ có thể sống bám vào một sinh vật.
Chúng ta không cần phải ám thị mình. Chúng ta chưa đủ già dặn để tiến vào các quảng trường mà gào lên sự thật hay biểu hiện tư tưởng của mình. Chưa tới lúc phải làm thế. Nguy hiểm nữa. Chỉ cần điều gì mình không nghĩ thì chúng ta từ chối đừng nói là được.
Đó là con đường của chúng ta, con đường dễ nhất ai cũng làm được, con đường đã chiếu cố sự hèn nhát thâm căn cố đế của chúng ta. Nó dễ hơn phương pháp công dân bất phục tùng của Gandhi xiển dương – dễ tới mức viết những lời này còn nguy hiểm hơn.
Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, thì chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái gì cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ.
Vì thế, dù có dè dặt, mỗi chúng ta hãy lựa cho mình: hoặc là, cam tâm làm nô lệ cho hư ngụy – tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng con cái mình trong tinh thần dối trá không phải vì đó là bản tính của chúng ta, mà chẳng qua là để kiếm ăn nuôi gia đình – hoặc là rũ sạch mọi sự dối trá làm một người lương thiện xứng đáng được con cái và người đồng thời kính trọng.
Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất kì sự dối trá nào. Khi chúng ta đã biết bản chất của hư ngụy ở đâu, thì chúng ta mỗi người sẽ biết cách nhìn ra đâu là dối, đâu là thật.
Và từ đó trở đi chúng ta sẽ:
  • Bằng mọi cách không viết, kí, hay in một lời nào chúng ta cho là bóp méo sự thật;
  • Không nói những lời như thế, dù là nói chuyện riêng hay nói trước đông người, tự ý mình hay theo ý người khác, dù làm công tác cỗ vũ, dạy học, giáo dục hay đóng trò trên sân khấu;
  • Không mô tả, cổ vũ, hay truyền đi một ý tưởng nào chúng ta thấy rõ ràng là sai hay bóp méo sự thật, dù bằng hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc;
  • Không trích lời người khác nói hoặc viết mà không đặt lời trích vào ngữ cảnh, để lấy lòng ai đó, hay để lót đường cho mình, hay để thành công trong công việc nếu mình không hoàn toàn đồng ý với ý tưởng trích dẫn, hoặc nếu ý trích dẫn đó không phản ánh chân thực bản chất vấn đề;
  • Không để cho mình bị ép phải dự những cuộc biểu dương hay hội họp nào trái với sở thích hay ý nguyện mình, không cầm hoặc giương lên những tiêu ngữ hay biểu ngữ nào mình không hoàn toàn chấp nhận;
  • Không giơ tay biểu đồng tình cho một đề xuất mà ta không thành thật tán đồng, không bầu cho người mình cho không xứng đáng hay đáng ngờ về tài năng, dù bầu công khai hay bí mật;
  • Không để cho mình bị lôi tới những cuộc họp mà mình đoán người ta sẽ bức mình thảo luận hoặc bóp méo một vấn đề;
  • Lập tức bước ra khỏi những cuộc họp, hội nghị, thuyết trình, biểu diễn, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói láo, rêu rao những rác rưởi ý thức hệ, hoặc những lời tuyên truyền lố bịch;
  • Không đóng góp hoặc mua những báo chí bóp méo thông tin hoặc giấu giếm những sự thật hiển nhiên.
  • Tất nhiên là chúng ta chưa liệt kê hết mọi biến thái hư ngụy cần phải liệt kê. Nhưng người nào thanh luyện mình sẽ nhờ lương tâm trong sạch mà phân biệt được chân ngụy.
Những người chọn con đường này ban đầu cuộc sống sẽ rất thay đổi. Có người bị mất việc. Những người trẻ muốn sống chân thật, thì những việc như thế này sẽ làm cho đời thanh xuân của họ ra phức tạp, vì khóa học bắt buộc nào cũng nhét toàn dối trá, không thể không chọn lọc.
Nhưng không có lối đi nào dễ dãi hơn cho người muốn làm người lương thiện. Ngày nào chúng ta cũng có người phải đối diện ít nhất là một trong những tình huống trên, cho dù là trong những ngành khoa học kĩ thuật vô thưởng vô phạt dễ tìm được chỗ nương náu nhất. Hoặc là chân thật, hoặc là hư ngụy: một đường đi tới tự do tinh thần, một đường đi tới nô lệ tinh thần.
Còn những kẻ không đủ dũng khí bảo vệ linh hồn mình– các người chớ vin vào mấy quan điểm ‘tiến bộ’ của mình mà kiêu ngạo, chớ huyênh hoang mình là hàn lâm học sĩ, là nghệ sĩ nhân dân, là yếu nhân có nhiều công trạng, hay là đại tướng – các người hãy tự nói với mình: Mình thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi.
Lối phản kháng này tuy nhu nhược nhất trong mọi lối phản kháng cũng không phải là dễ. Tất nhiên là dễ hơn tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không dìm thân anh, mắt anh không bị nung cho nổ ra, và gia đình anh sẽ không lúc nào thiếu cơm ăn nước uống.
Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, dân Tiệp Khắc, họ bị chúng ta phản bội và lừa dối, chẳng là họ đã cho chúng ta thấy nếu trong lồng ngực có một trái tim cao thượng thì tấm ngực mỏng manh kia có thể đứng lên chống lại xe thiết giáp đấy sao?
Anh bảo làm thế không dễ? Nhưng trong mọi cách thì cách đó là dễ nhất. Cách đó có thể nguy tới tánh mạng, nhưng muốn cứu linh hồn thì không còn cách nào khác. Phải, con đường đó không phải là con đường dễ đi. Nhưng mà có nhiều người, rất nhiều nữa là khác, năm này qua năm nọ đã theo đuổi lí tưởng ấy, chỉ vì họ lấy chân thật làm lẽ sống.
Cho nên anh không phải là người đầu tiên chọn đi đường này, anh chỉ gia nhập dòng người đã dấn thân vào đó. Nếu chúng ta nâng đỡ nhau và sát cánh nhau thì con đường này sẽ dễ đi và ngắn bớt lại. Nếu chúng ta đông tới hàng ngàn người thì bọn chúng sẽ không làm gì được chúng ta. Nếu chúng ta lên tới hàng vạn người thì đất nước này sẽ khoác bộ mặt mới đến mức chúng ta không còn nhận ra nữa. Nếu chúng ta khiếp nhược quá, thì đừng trách người ta đàn áp mình mãi.
Chính chúng ta đang tự mình đàn áp mình đấy. Lúc đó thì hãy khom lưng xuống nữa, hãy rên xiết nữa, và đợi tới ngày những người anh em của chúng ta, các nhà sinh học, tìm ra cách đọc được tư tưởng của chúng ta, một thứ tư tưởng vô giá trị và tuyệt vọng.
Và nếu thậm chí đã chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, thì chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không còn cách gì cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin:

“Đồ súc sinh thì làm gì có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.”

Alexander Solzhenitsyn,

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi pth77: 25/06/2014 - 03:30


Thanked by 2 Members:

#97 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 26/06/2014 - 03:29

CAO BIỀN MỘT NHÂN VẬT NHIỀU HUYỀN THOẠI
Nguyễn Cẩm Xuyên

Cao Biền là quan đô hộ nước ta thời Bắc thuộc, được cử sang trấn nhậm Giao Châu từ năm 866 đến 887. Căn cứ Cựu Đường thư, Cao Biền liệt truyện thì Cao Biền thuộc dòng dõi thế gia, từ bé đã giỏi văn chương, lại có tài võ nghệ. Một hôm có hai con diều sóng đôi bay qua, Biền giương cung nhắm bắn, một phát tên trúng cả hai con. Mọi người cả kinh, nhân đó gọi là “Lạc Điêu Thị Ngự Sử“. Năm 865, sau khi đánh thắng quân Nam Chiếu, Cao Biền được cử làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu.

CAO BIỀN ĐẮP THÀNH ĐẠI LA

Cao Biền là nhân vật nổi tiếng trong lịch sử và các huyền thoại còn lưu truyền đến nay. Lúc ở Giao Châu, Cao Biền là quan cai trị hà khắc nhưng cũng có công chỉnh đốn mọi việc và đắp lại thành Đại La.
Theo Đại Việt Sử kí toàn thư thì Thành Đại La nằm bên sông Tô Lịch (1), “vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ… Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian”. Sự sống của nhân dân trong thành khá sầm uất…
Năm 938, Ngô Quyền thắng quân Nam Hán, chấm dứt thời kì Bắc thuộc. Đến năm 1010, Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) mới dời đô về Đại La. Tương truyền lúc thuyền còn đỗ dưới thành, bỗng có con rồng vàng hiện lên trên thuyền ngự nên đổi tên thành là Thăng Long.
Vậy Thăng Long nguyên là thành Đại La, năm 1010 đã trở thành kinh đô nước ta, đến nay vừa tròn 1.000 năm.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bản đồ nước ta (Giao Châu) đời Ngũ Quí (907-959)
(trích Việt Nam Sử lược; Trần Trọng Kim NXB Tổng Hợp TP. H.C.M 2005)

CAO BIỀN TRONG CÁC HUYỀN THOẠI NƯỚC NAM:

Truyện dân gian nước ta nay vẫn còn nhiều truyền thuyết hoang đường về nhân vật Cao Biền như cho rằng Cao Biền thấy đất Giao Châu có nhiều kiểu đất đế vương, thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét, rồi dùng phép thuật phá những nơi có hình thế sơn thuỷ đẹp, và yểm những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu…
Cùng những huyền thoại ca ngợi tài năng của Cao Biền, sử sách nước ta cũng có nhiều truyền thuyết nhằm bài bác những kinh sợ mê tín của quần chúng đối với nhân vật này:

Truyện sông Tô Lịch chép trong Lĩnh Nam Chích Quái đã kể như sau: “Năm Hàm Thông thứ 6, vua Đường Ý Tông sai Cao Biền làm Đô Hộ Tướng Quân, đem binh đánh quân Nam Chiếu. Lúc Biền trở về, nhà vua đặt Tĩnh Hải Quân ở thành Lĩnh Nam, cho Biền làm Tiết Độ Sứ. Biền thông hiểu thiên văn địa lý, xem hình thế đất mà xây thành Đại La ở phía tây Lô Giang, chu vi 30 dặm để ở. Có dòng sông con từ Lô Giang chảy vào phía Tây bắc, cuốn quanh phía nam, ôm lấy thành Đại La rồi lại nhập vào sông Cái.
Hồi đó đang giữa tháng sáu, nước mưa lên cao. Cao Biền cưỡi thuyền nhẹ thuận dòng vào sông con, đi khoảng một dặm bỗng thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, dung mạo dị kì, tắm ở giữa dòng sông, cười nói hớn hở. Biền hỏi họ tên. Đáp: ta họ Tô tên Lịch. Biền lại hỏi: nhà ở đâu? Đáp: nhà ở trong sông này. Dứt lời, lấy tay đập nước bắn tung mù mịt, bỗng nhiên không thấy đâu nữa. Biền biết là thần, bèn đặt tên sông là Tô Lịch.
Một buổi sớm khác, Biền ra đứng ở bờ sông Lô Giang, phía đông thành Đại La, thấy một trận gió lớn nổi lên, sóng nước cuồn cuộn, mây trôi mù mịt, có một dị nhân đứng trên mặt nước, cao hơn hai trượng, mình mặc áo vàng, đầu đội mũ tím, tay cầm hốt vàng rực rỡ một quãng trời, chập chờn lên xuống trong khoảng không. Mặt trời cao ba con sào, khí mây hãy còn chưa tan.
Biền rất kinh dị, muốn yểm thần. Đêm nằm mộng thấy thần tới nói rằng: “Chớ yểm ta, ta là tinh ở Long Đỗ, đứng đầu các địa linh. Ông xây thành ở đây, ta chưa được gặp, cho nên tới xem đó thôi; ta có sợ gì bùa phép?” Biền kinh hãi. Sáng hôm sau, Biền lập đàn niệm chú, lấy kim đồng thiết phù để yểm. Đêm hôm ấy, sấm động ầm ầm, gió mưa dậm dật, đất trời u ám, thần tướng hò reo, kinh thiên động địa. Trong khoảnh khắc, kim đồng thiết phù bật ra khỏi đất, biến thành tro, bay tan trên không. Biền càng kinh hãi, than rằng: “Xứ này có thần linh dị, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ”.
Sau Ý Tông triệu Biền về, quả nhiên Biền bị giết và Cao Tàm được cử sang thay…” (2)

Truyện Dấu trâu vàng ở huyện Tiên Du (Lĩnh Nam Chích Quái) viết về Cao Biền: “…Người đời truyền tụng rằng Cao Biền giỏi thuật số, thông địa lý, thường cưỡi diều giấy bay trên không trung để yểm các nơi thắng cảnh…”.
Tuy có nhiều phép thuật nhưng Cao Biền vẫn thường rất e dè thần linh đất phương Nam. Những truyện Thần Chính Khí Long Đỗ, Tướng quân họ Cao ở Vũ Ninh, đặc biệt truyện Tản Viên Sơn Thánh đã mô tả Cao Biền rất kính nể linh khí phương Nam:

Truyện Tản Viên Sơn Thánh: “… Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt. Núi cao một vạn hai nghìn ba trăm trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm trượng. Ba núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có tên ấy. Theo sách Ai Giao Châu Tự của Đường Tăng thì đại vương núi này là Sơn Tinh họ Nguyễn, vô cùng linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng tai trừ hoạn lập tức có ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết lòng thành kính. Thường thường, vào những ngày quang đãng như có bóng cờ xí thấp thoáng trong hang núi. Dân trong vùng nói rằng đó là Sơn thần hiển hiện.
Khi Cao Biền nhà Đường ở An Nam, muốn yểm những nơi linh tích bèn mổ bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng, mặc quần áo vào, rồi đặt ngồi trên ngai, tế bằng trâu bò, hễ thấy cử động thì vung kiếm mà chém đầu.
Phàm muốn đánh lừa các thần đều dùng thuật đó. Biền đem thuật đó để tiến Đại vương núi Tản Viên, thấy Vương cưỡi ngựa trắng ở trên mây, nhổ nước bọt mà bỏ đi. Biền than rằng: “Linh khí ở phương Nam không thể lường được. Vượng khí đời nào hết được…”.

Sự tích đền Bạch Mã:
Sách Lĩnh Nam Chích Quái, truyện Thần Chính Khí Long Đỗ kể rằng : “Đời Đường, Cao Biền sang đóng ở nước ta, chiếm phủ, xưng vua, đắp thêm La Thành. Vừa đắp xong, một buổi sáng sớm, Biền dạo xem phía ngoài cửa đông thành, bỗng nhiên trời nổi mưa to gió lớn, thấy mây ngũ sắc từ dưới đất dâng lên, ánh sáng lóe mắt. Một dị nhân mặc áo màu sặc sỡ, trang sức trông kỳ vĩ, cưỡi con rồng đỏ, tay cầm giản vàng, lơ lửng trong mây khói, khí thế ngùn ngụt, bay lên lượn xuống hồi lâu mới tan. Biền kinh ngạc, cho là ma quỷ, muốn thiết đàn để cúng. Đêm ấy, mộng thấy có thần nhân đến nói rằng: “Xin ông đừng có bụng nghi ngờ, ta không phải là yêu khí đâu. Ta chính là Long Đỗ Vương Chính Khí Thần, vì muốn xem kỹ thành mới mà hiện ra đó thôi!” Biền tỉnh dậy. Sáng hôm sau họp quần thần, than rằng: “Ta không khuất phục được người phương xa chăng? Đến nỗi để cho loài ngoại quỷ dòm ngó điều không hay của mình ru!”. Có người khuyên lập đàn, và dùng nghìn cân sắt đúc tượng theo hình dạng thần nhân để làm bùa yểm. Biền y theo kế đó. Vừa đọc thần chú bỗng trời đất mù mịt ngày đêm, mưa gió giật đùng đùng, tượng sắt nát vụn ra mà bay lên không. Biền sợ hãi, có ý muốn về phương Bắc. Người đời lấy làm lạ, bèn lập chùa ở mạn phía đông kinh thành.…”
Đây là đền thờ Thần Long Đỗ (3) tức là đền Bạch Mã tại Phố Hàng Buồm (xưa thuộc phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương).

Truyện Tướng quân họ Cao ở Vũ Ninh (Việt Điện U Linh tập): “…Tướng quân họ Cao tên Lỗ, là người huyện Vũ Ninh. Thời An Dương Vương, tướng quân được vuốt thần Kim Quy bèn chế ra nỏ thần Kim Quy.
Khi Cao Biền dẹp quân Nam Chiếu trở về, qua châu Vũ Ninh, tới một chỗ, đêm nằm mộng thấy có một dị nhân mình cao chín thước, diện mạo cương nghị, búi tóc, mặc áo đỏ, tự xưng họ tên mà nói rằng: “Ta ngày trước phò tá An Dương Vương, giết giặc lập đại công, bị Lạc hầu gièm pha mà trừ bỏ. Sau khi ta chết, Thượng Đế thương tình vô tội, một lòng trung liệt nên phong cho làm Quản Lĩnh Đô Thống Tướng Quân ở một dải sơn hà này…; nay ngài trở về bản bộ, nếu không cáo tạ là trái lễ đó!”
Cao Biền tỉnh mộng, bụng còn ghi tên Vũ Ninh, bèn lập đền thờ, nay là Đền Vũ Ninh tức là đền Gia Định, có một hang đá ăn vào sông Đại Than. Đền thường gọi là đền Đô Lỗ, ở xã Đại Than, huyện Gia Định (nay là Gia Bình), tỉnh Bắc Ninh. Còn một đền nữa ở thôn Tráng Liệt, xã Phúc Cầu, huyện Đường An.

Truyền thuyết núi Cánh Diều ở Ninh Bình: Khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch nước Nam rất vượng, muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Truyền thuyết núi Cánh Diều ở Ninh Bình kể rằng Cao Biền khi cưỡi diều giấy bay đến đất Hoa Lư đã bị một đạo sĩ cùng dân chúng ở đây dùng tên bắn. Cao Biền trọng thương, diều gãy cánh rơi xuống một hòn núi, từ đó hòn núi mang tên là núi Cánh Diều.
Ở Thanh Hóa cũng có những truyền thuyết kể về những cuộc so tài giữa Tả Ao – người được mệnh danh là thánh địa lí của nước Nam – với Cao Biền ở núi Hàm Rồng, nhưng xem ra điều này sai với thực tế lịch sử bởi vì theo Phan Huy Chú (Lịch triều hiến chương loại chí) thì Tả Ao sống vào đời Lê sơ ; theo Phan Kế Bính (Nam Hải Dị nhân liệt truyện) thì Tả Ao sống vào cuối đời nhà Mạc, vậy là phải cách thời Cao Biền khoảng từ 6 đến 7 trăm năm; không có lí gì hai nhân vật này lại gặp nhau mà so tài phong thủy được.

Thành ngữ “lẩy bẩy như Cao Biền dậy non”: (chữ “dậy non” ở đây nghĩa là dậy thiếu ngày, tương tự chữ đẻ non…). Cùng với thành ngữ này, truyền thuyết dân gian ta kể chuyện Cao Biền có phép thuật “tản đậu thành binh”. Khi cần quân lính, Cao Biền chỉ gieo đậu vào đất, ủ kín một thời gian, đọc thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính. Truyện kể có lần Cao Biền đọc thiếu thần chú, lúc mở ra những hạt đậu cũng thành binh nhưng còn non, chưa đủ sức nên đi lẩy bẩy.
Một truyền thuyết khác lại kể rằng: khi sang nước Nam để yểm bùa và triệt hạ long mạch, Cao Biền có nuôi 100 âm binh. Đến nước Nam, Cao Biền ở trọ nhà một bà hàng nước và nhờ bà mỗi ngày thắp một nén hương, gọi dậy một âm binh. 100 ngày thắp đủ 100 nén hương sẽ gọi dậy được 100 âm binh. Bà lão nước Nam đã phá âm mưu của Cao Biền, giả vờ quên, thắp cả 100 nén hương trong một ngày. Kết quả là 100 âm binh của Cao Biền đã dậy đủ nhưng mà dậy non, thiếu ngày nên chẳng hiệu quả gì.

Truyền thuyết Mả Cao Biền ở nước Nam:
Cao Biền tuy bị bắt và bị giết ở Trung Quốc(4) nhưng dân ta lại kể về mả Cao Biền ở nước Nam, thậm chí mả lại có ở tận vùng trung Trung bộ; chẳng hạn ở Phú Yên có truyền thuyết mả Cao Biền. Đại khái chuyện kể là sau khi trấn yểm đất thành Đại La không thành, Cao Biền sợ linh khí nước Nam bèn đi mãi về phương nam, đến tận Phú Yên. Tìm được một làng nhỏ ven biển Phú Yên có long mạch, Cao Biền quyết định sinh sống tại đây, không về Bắc nữa. Qua nhiều năm tháng, Cao Biền giúp dân làng nhiều việc, nhất là đã giúp nhiều người xem đất dựng nhà, để mồ mả… Lúc sắp mất, Cao Biền nhờ dân làng giúp lại cho một việc là sau khi chết chôn xác ông vào huyệt đất đã chọn trước.
Nay ở xã An Hải, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên trên một ngọn đồi có mả Cao Biền. Ở đây có câu ca dao:

Nhìn ra thấy mả Cao Biền;

Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên, Chóp Chài.


CAO BIỀN TRONG VĂN HỌC

Trong thơ văn Trung Quốc, Cao Biền là một nhà thơ Đường có nhiều bài thơ khá nổi tiếng. Xin tạm trích ở đây 02 bài thơ ít nhiều bộc lộ tâm tư của một nhà thơ giàu cảm xúc:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Biên phương xuân hứng

Thảo sắc thanh thanh liễu sắc nùng,
Ngọc hồ khuynh tửu mãn kim chung.
Sinh ca liệu lượng tuỳ phong khứ,
Tri tận quan sơn đệ kỷ trùng.

Hứng xuân chốn biên thùy

(Nguyễn Cẩm Xuyên dịch)

Cỏ sắc xanh xanh, liễu sắc nồng,
Rượu ngon hồ ngọc rót đầy chung.
Sênh ca réo rắt vời theo gió,
Vọng đến quan san vượt mấy trùng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Phỏng ẩn giả bất ngộ

Lạc hoa lưu thuỷ nhận Thiên Thai,
Bán tuý nhàn ngâm độc tự lai.
Trù trướng tiên ông hà xứ khứ,
Mãn đình hồng hạnh bích đào khai.

Đến thăm người ở ẩn không gặp

(Nguyễn Cẩm Xuyên dịch)

Hoa rơi nước chảy tưởng Thiên Thai,
Thơ rượu ngà say đến viếng ai .
Buồn quá ! tiên ông đâu vắng tá ?
Đầy sân hồng hạnh bích đào khai.

Những truyện truyền kì về phép thuật của Cao Biền cùng những hiển linh của các vị thần nước Nam đã vô hiệu hóa được mưu của Cao Biền… hầu hết chỉ ghi lại trong Việt Điện U Linh tập, Lĩnh Nam Chích Quái cùng một số các ngọc phả thần tích. Soạn niên của các tác phẩm này tuy còn có ý kiến bàn cãi (5) nhưng chắc chắn là được viết sau thời Cao Biền nhiều thế kỉ; ví dụ như ở bài tựa đầu sách Việt Điện U Linh tập của Lý Tế Xuyên ghi rõ là sách viết năm Kỷ Tị, Khai Hựu nguyên niên, tức là năm 1329. Lĩnh Nam Chích Quái cũng vậy, bài tựa của Vũ Quỳnh cho biết: ông tìm được sách này và tiến hành nhuận chính vào năm 1492; vậy là sách đều được viết sau thời Cao Biền làm quan ở nước ta đến hơn 500 năm. Sau một thời gian dài như vậy, trải qua bao nhiêu cuộc chiến, nguồn tư liệu hầu hết lại chỉ là truyền miệng…nội dung truyện hẳn không thể nào chính xác được.
Riêng việc Cao Biền yểm bùa ở nước Nam thì các bộ sử giá trị của ta như Đại Việt Sử Lược, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư không hề nhắc đến mà chỉ kể lại chuyện nhờ trời giúp sấm sét đánh tan đá núi mà Cao Biền khai thông được kênh Thiên Uy.
Các truyện truyền kì về nhân vật Cao Biền tuy có những chi tiết hoang đường sai với lịch sử song về mặt văn học, cả một quãng sinh hoạt văn hóa của tiền nhân lại hiện lên đầy màu sắc kì bí và đầy những đường nét cực kì sống động./.
—————————————————————–
CHÚ THÍCH:
(1)Trước đời Cao Biền sông chưa có tên này. Tô Lịch là tên do Cao Biền đặt.
(2)Việt Điện U Linh tập cũng có truyện Tô Lịch.
(3) Nguyên tên thần đền Bạch Mã là Long Độ; đời Trần, vì kiêng húy Trần Thủ Độ mà đổi thành “Long Đỗ”. Tương tự như vậy, vì kiêng húy Thái Tổ Lê Lợi mà vào đời Lê “Quảng Lợi” đã đổithành “Quảng Lại” .
(4) Sử Trung Quốc có ghi rõ rằng khi quân Hoàng Sào tiến vào Trường An, Đường Hi Tông khẩn cấp điều Cao Biền đem quân cứu giá. Cao Biền không tuân lệnh mà lại tạo phản, cát cứ ở Dương Châu nên đã bị Đường Hi Tông bãi chức. Vua Đường đã cử Tần Ngạn cùng với Tất Sư Đạc tấn công Dương Châu (887). Thành Dương Châu bị phá, Cao Biền bị bắt, một thời gian sau bị Tần Ngạn và Tất Sư Đạc giết chết.
(5) Giáo sư Hoàng Xuân Hãn khi bàn về lai lịch Việt Điện U Linh tập đã cho rằng Lý Tế Xuyên không thể sống ở đời Trần.

Sửa bởi pth77: 26/06/2014 - 03:30


Thanked by 3 Members:

#98 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 26/06/2014 - 19:01

Thoát Á Luận
Tác giả: FUKUZAWA YUKICHI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Theo Tuần Việt Nam - 15/01/2010
Từ thế kỷ 19, Fukuzawa Yukichi (Nhật Bản) đã viết: “Đường giao thông trên thế giới là phương tiện để làn gió của văn minh phương Tây thổi vào phương Đông. Khắp mọi nơi, không có cỏ cây nào có thể ngăn được làn gió văn minh này”
—————————
Thử nghĩ mà xem, những người phương Tây từ thời cổ kim đến nay đều có cùng dòng dõi giống nhau và họ không khác nhau nhiều lắm. Nếu ngày xưa họ chậm chạp thì ngày nay họ di chuyển hoạt bát và nhanh chóng hơn chính là vì họ lợi dụng được thế mạnh của phương tiện giao thông đó mà thôi. Đối với chúng ta, những người sống ở phương Đông, trừ khi chúng ta có quyết tâm vững chắc muốn chống lại xu thế văn minh phương Tây thì chúng ta mới có thể chống đỡ được, còn nếu không tốt nhất là chúng ta hãy cùng chia sẻ chung số mệnh với nền văn minh ấy.
Nếu chúng ta quan sát kĩ lưỡng tình hình thế giới hiện nay, chúng ta sẽ nhận thấy được rằng chúng ta không thể nào chống lại được sự tấn công dữ dội của nền văn minh ấy. Vậy tại sao chúng ta không cùng nhau bơi nổi trên biển văn minh ấy, cùng nhau tạo ra một làn sóng văn minh ấy, cùng nhau nỗ lực xây dựng và hưởng lạc những thành quả của nền văn minh ấy?
Làn gió văn minh như là sự lan truyền của dịch bệnh sởi. Hiện giờ dịch bệnh sởi khởi phát từ vùng miền tây ở Nagasaki đang lan truyền về phía đông tới vùng Tokyo nhờ tiết trời ấm áp của mùa xuân. Thời điểm này chúng ta sợ sự lan truyền của dịch bệnh này thì phải tìm phương thuốc, nhưng liệu có phương thuốc nào có thể ngăn chặn sự lây lan này không? Tôi có thể chứng minh rằng chúng ta không có một phương thuốc nào ngăn chặn được dịch bệnh cả. Cho dù chúng ta có ngăn chặn được dịch bệnh có thể lây lan này thì hậu quả là con người chúng ta sẽ chỉ có hư hỏng mà thôi.
Trong nền văn minh ấy có cả lợi lẫn hại song song, nhưng lợi luôn nhiều hơn hại, sức mạnh của những điều lợi đó không gì có thể ngăn cản được. Đó chính là điểm mà tôi muốn nói rằng chúng ta không nên tìm cách ngăn cản lại sự lan truyền của nền văn minh ấy. Là những người trí thức, chúng ta hãy góp sức giúp cho sự lan truyền của làn sóng văn minh đó tới toàn dân trong nước để họ thấy được và làm quen với nền văn minh ấy càng sớm càng tốt. Làm được như vậy chính là sự nghiệp của những người trí thức.
Nền văn minh phương Tây đang xâm nhập vào Nhật Bản và có thể tính bắt đầu từ chính sách mở cửa của nước nhà vào thời Gia Vĩnh (Kaei, 1848-1854). Người dân trong nước bắt đầu biết đến những giá trị hữu ích của nền văn minh ấy, và đang dần dần tích cực hướng tới tiếp nhận nền văn minh ấy. Nhưng con đường tiến bộ tiếp cận nền văn minh đang bị cản trở bởi chính phủ già nua lỗi thời. Cho nên đó là vấn đề không thể giải quyết được. Nếu chúng ta duy trì chính phủ hiện nay thì nền văn minh chắc chắn không thể xâm nhập vào được. Đó là vì nền văn minh hiện đại không thể song song tồn tại được cùng với những truyền thống Nhật Bản. Nếu chúng ta tìm cách thoát ra khỏi những truyền thống cũ kĩ đó thì đồng nghĩa với việc phải hủy bỏ chính phủ đương thời đi. Thế thì đương nhiên, nếu chúng ta ngăn cản lại nền văn minh đang xâm nhập vào Nhật Bản thì chúng ta không thể giữ gìn được nền độc lập của chúng ta. Dù thế nào đi chăng nữa thì sự náo động mãnh liệt của nền văn minh thế giới không cho phép vùng Đảo Đông Á cứ tiếp tục ngủ trong sự cô độc nữa.
Trong thời điểm hiện nay, những sĩ phu Nhật Bản chúng ta hãy dựa trên cơ sở đại nghĩa “coi trọng quốc gia và coi nhẹ chính phủ”, thêm nữa chúng ta có cơ may được dựa trên thánh chỉ tôn nghiêm của Thiên Hoàng, nhất định chúng ta phải từ bỏ chính phủ cũ, thành lập chính phủ mới, không phân biệt quan lại triều đình và thần dân, toàn dân trong nước tiếp thu nền văn minh hiện đại phương Tây. Nếu chúng ta làm được như vậy, chúng ta không những có thể thoát ra khỏi sự trì trệ lạc hậu cũ kĩ của nước Nhật Bản mà còn có thể đặt lại được một trật tự mới trên toàn Châu Á. Chủ trương của tôi chỉ gói gọn trong hai chữ “Thoát Á”.
Nước Nhật Bản chúng ta nằm tại miền cực đông Châu Á, giá như chúng ta có tinh thần dân tộc thoát ra khỏi những thói quen cổ hủ của Châu Á mà tiếp cận tới nền văn minh phương Tây thì chúng ta đã có thể hoà nhập với nền văn minh phương Tây rồi. Tuy nhiên, thật không may cho Nhật Bản chúng ta, bên cạnh nước chúng ta có hai nước láng giềng, một nước gọi là Chi Na (Trung Quốc), một nước gọi là Triều Tiên. Cả hai dân tộc của hai nước này giống như dân tộc Nhật Bản chúng ta đều được nuôi dưỡng theo phong tục tập quán, tinh thần và nền giáo dục chính trị kiểu Châu Á cổ lai hi. Tuy nhiên, có lẽ do nhân chủng khác nhau, hoặc do quá trình di truyền khác nhau, hoặc do nền giáo dục khác nhau nên có sự khác biệt đáng kể giữa ba dân tộc. Dân tộc Trung Quốc và Triều Tiên giống nhau nhiều hơn và không có nhiều điểm giống với dân tộc Nhật Bản. Cả hai dân tộc này đều không biết đường lối phát triển quốc gia tự lập.
Ngày nay, trong thời đại phương tiện giao thông tiện lợi, cả hai dân tộc không thể không nhìn thấy được sự hiện hữu của nền văn minh phương Tây. Nhưng họ lại cho rằng những điều mắt thấy tai nghe về nền văn minh phương Tây như vậy cũng không làm họ động tâm động não. Suốt hàng nghìn năm họ không hề thay đổi và vẫn quyến luyến với những phong tục tập quán cũ kĩ bảo thủ. Giữa thời buổi văn minh mới mẻ và đầy khí thế ngày nay mà khi bàn luận về giáo dục thì họ thường lên tiếng giữ gìn nền giáo dục Nho học (Hán học), bàn về giáo lý của trường học thì họ chỉ trích dẫn những lời giáo huấn “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí”, và chỉ phô trương coi trọng hình thức bên ngoài giả tạo, thực chất họ coi thường chân lí và nguyên tắc, còn đạo đức thì hung hăng tàn bạo và vô liêm xỉ không lời nào tả xiết, đã vậy họ lại còn kiêu căng tự phụ.
Theo đánh giá của tôi, trong tình hình lan truyền mạnh mẽ của nền văn minh phương Tây sang phương Đông như hiện nay, hai nước ấy không thể giữ gìn được nền độc lập. Nếu trong hai nước ấy, xuất hiện những nhân tài kiệt xuất mở đầu bằng công cuộc khai quốc, tiến hành cuộc đại cải cách chính phủ của họ theo quy mô như phong trào Duy Tân (Minh Trị Duy Tân) của chúng ta, rồi cải cách chính trị, đặc biệt là tiến hành các hoạt động đổi mới nhân tâm và cách suy nghĩ thì may ra họ mới giữ vững được nền độc lập, còn nếu không làm được như vậy thì chắc chắn chỉ trong vòng vài năm tới hai nước sẽ mất, đất đai của các hai nước ấy sẽ bị phân chia thành thuộc địa của các nước văn minh khác trên thế giới. Vậy lý do tại sao? Đơn giản thôi, vì tại thời điểm mà sự lan truyền của nền văn minh và phong trào khai sáng (bunmei kaika) giống như sự lan truyền bệnh sởi, hai nước Trung Quốc và Triều Tiên đã chống lại quy luật lan truyền tự nhiên ấy của nền văn minh. Họ quyết liệt tìm cách chống lại sự lan truyền nền văn minh ấy ví như họ tự đóng chặt cửa sống trong phòng khép kín không có không khí lưu thông thì sẽ bị chết ngạt.
Tục ngữ có câu “môi hở răng lạnh”, nghĩa là các nước láng giềng không thể tách rời được nhau và giúp đỡ lẫn nhau, nhưng hai nước Trung Quốc và Triều Tiên trong thời điểm hiện nay không đóng vai trò giúp đỡ một chút nào cho nước Nhật chúng ta cả. Dưới nhãn quan của người phương Tây văn minh, họ nhìn vào những gì có ở hai nước Trung Quốc và Triều Tiên thì sẽ đánh giá nước Nhật chúng ta cũng giống hai nước ấy, có nghĩa là họ đánh giá ba nước Trung – Hàn – Nhật giống nhau vì ba nước cùng chung biên giới. Lấy ví dụ, chính phủ Trung Quốc và Triều Tiên chuyên chế cổ phong và không có hệ thống pháp luật nên người phương Tây cũng nghĩ rằng Nhật Bản chúng ta cũng là một nước chuyên chế và không có luật pháp. Các sĩ phu hai nước Trung Quốc và Triều Tiên mê tín hủ lậu không biết đến khoa học là gì thì học giả phương Tây nghĩ Nhật Bản chúng ta cũng chỉ là một nước âm dương ngũ hành. Nếu người Trung Quốc hèn hạ không biết xấu hổ thì nghĩa hiệp của người Nhật cũng bị hiểu nhầm. Nếu ở Triều Tiên có hình phạt thảm khốc thì người Nhật cũng bị người phương Tây coi là không có lòng nhân ái. Chúng ta có thể nêu ra biết bao nhiêu ví dụ cũng không hết được.
Lấy những ví dụ này, tôi ví trường hợp nước Nhật Bản bên cạnh các nước Trung Quốc và Triều Tiên không khác gì trường hợp trong một làng có một người sống bên cạnh toàn những người ngu đần, vô trật tự, hung bạo và nhẫn tâm thì dù người đó có là người đúng đắn lương thiện đến đâu đi chăng nữa cũng bị nhiều người khác cho rằng là “cá mè một lứa”, cũng chẳng khác gì những người hàng xóm. Khi những vụ việc rắc rối này sinh sôi nảy nở có thể gây ảnh hưởng trở ngại lớn tới con đường ngoại giao của chúng ta. Thực tế này là một đại bất hạnh cho nước Nhật Bản!
Vì vậy, nhằm thực hiện sách lược của chúng ta thì chúng ta không còn thời gian chờ đợi sự khai sáng (enlightenment, bunmei kaika) của các nước láng giềng Châu Á để cùng nhau phát triển được mà tốt hơn hết chúng ta hãy tách ra khỏi hàng ngũ các nước Châu Á, đuổi kịp và đứng vào hàng ngũ các nước văn minh phương Tây. Chúng ta không có tình cảm đối xử đặc biệt gì với hai nước láng giềng Trung Quốc và Triều Tiên cả, chúng ta hãy đối xử với hai nước như thái độ của người phương Tây đối xử. Tục ngữ có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, nghĩa là nếu chúng ta chơi với những người bạn xấu, thì chúng ta cũng trở thành người xấu. Đơn giản là chúng ta đoạn tuyệt kết giao với những người bạn xấu ở Châu Á!

Hải Âu, Kuriki Seiichi dịch
*****
Về tác giả: Fukuzawa Yukichi (1835-1901, tên phiên âm Hán Việt: Phúc Trạch Dụ Cát) là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu và rộng nhất đến xã hội Nhật Bản cận đại. Ông là một nhà cải cách chính trị xã hội, nhà giáo dục tiên phong, nhà tư tưởng tiêu biểu của Nhật Bản từ cuối thời Edo, đầu thời kỳ Minh Trị – thời kỳ diễn ra những chuyển biến lớn lao trong lịch sử Nhật Bản.
Tư tưởng của ông có ảnh hưởng rất lớn tới phong trào Khai sáng ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tạo tiền đề cho Nhật Bản trở thành một cường quốc trên thế giới. (Nguồn: Wikipedia)

Thanked by 3 Members:

#99 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 28/06/2014 - 12:44

Chút tình của cô gái vô gia cư

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chút tình người sẽ còn mãi. Ảnh minh họa: Internet

Đây là cái giàu của tôi đã lặn ngụp rất lâu cho đến một hôm. Xin chia sẻ nó dù hay dở xin bạn đọc mua vui.

Tôi vẫn ung dung nằm yên trong tháp ngà ấm áp. Thỉnh thoảng có buớc ra ngoài để hít thở không khí trong lành dưới vòm trời xanh, thì tôi luôn mang cặp kiếng mát nên tôi vẫn thấy rằng cuộc đời này thật đẹp, nhìn đâu đâu cũng đẹp như một đồng cỏ xanh rì có những con buớm bay luợn đầy hạnh phúc.
Cho đến một hôm, hôm ấy tôi có việc phải đi sang thành phố kế bên, trong một lúc vô tình để quên chiếc cặp da có chứa tất cả mọi thứ cá nhân, kể cả giấy tờ tùy thân, khi quay trở lại thấy kiếng xe bị ai đập nát, tôi đã biết ngay chuyện gì đã xảy ra cho tôi và miễn cưỡng trở thành kẻ vô gia cư trong một sớm một chiều.
Tôi thật không bao giờ ngờ đuợc là tôi lại bất hạnh như vậy. Đã mấy muơi năm nay, những cái gọi là rủi ro tôi thật chưa bao giờ biết đối diện. Thế mà giờ đây tôi đã vấp phải một điều ngoài tiên liệu. Tôi tức giận vì đã đánh mất tất cả, luôn cả thượng đế trong một khoảng khắc của một kẻ vẫn cứ tuởng chuyện không may là của ai kia chứ không bao giờ là của mình.
Trong tâm trạng rối bời giữa sợ hãi và giận dữ, tôi đi qua, đi lại bứt đầu vò trán mà chưa biết phải làm sao, khi không có cách nào liên lạc đuợc với bạn bè, nguời thân để thoát ra khỏi bế tắc nhất thời.
Người đông như mắc cửi, bế tắc hoàn bế tắc, tôi như vô hồn dừng chân ngay đầu con phố. Không chắc lắm tai tôi có nghe tiếng gọi, nhưng vì phản ứng tự nhiên của người vô vọng nên tôi quay lại. Thì ra là một cô gái tóc tai luộm thuộm vô gia cư nói với ra.
- Này ông, ông có tiền không? Tiền lẻ cũng đuợc mà.
Tôi xoe tròn con mắt trả lời cô một cách thiếu thiện cảm
- Tôi mà có dư tiền thì giờ đây tôi đâu có đứng đây để có cơ hội cho cô. Mà nói cho bằng đúng ra thì tôi phải hỏi xin cô mới đúng đó. Cô có tiền bố thí cho tôi không?
Cô gái có vẻ chịu đựng về lời day nghiến của tôi nên nhỏ giọng xuống.
- Ồ, tôi thật xin lỗi ông.
Không màng nghe cô trả lời vì tôi đã quay đi thì tiếng cô gái gọi giật lại
- Này ông, hình như ông đang có vấn đề phải không?
Đã không chủ tâm tiếp chuyện với cô, nhưng khi nghe có nguời hỏi thăm đúng lúc tâm trạng bất ổn nên tôi quay lại nhìn cô chia sẻ.
- Chẳng những có vấn đề, mà là vấn đề lớn nữa đó. Cô còn lo thân cô chưa xong, chắc cô không có gì có thể giúp gì tôi đuợc đâu.
Cô gái thật tự tin trả lời tôi.
- Thế à! Nhưng sao ông biết tôi không có gì giúp gì đuợc cho ông cơ chứ, khi mà ông chưa chia sẻ chuyện gì đó đã xảy ra cho ông?
Như người bị thôi miên vì cách nói chuyện rất có trình độ văn hóa, tôi cảm thấy yên tâm buớc lại nhặt tờ báo cũ duới chân rồi lót đít ngồi bệt xuống và kể tình cảnh của tôi, tình cảnh của người lỡ đuờng vừa bị đập kiếng xe mất hết mọi sự, ngoài thân xác rã rượi còn lại mà chưa biết phải làm sao để giải quyết.
Kiên nhẫn ngồi nghe tôi kể xong cô bảo.
- Oh! Nếu thế thì chẳng may cho ông quá. Thành phố này, du khách là món bở của bọn du thử du thực ở đây, ông không phải là người đầu tiên, cũng sẽ không phải là ngươi cuối cùng. Bọn chúng ở đây chúng nó chỉ nhác mắt qua là biết ai là con mồi béo hay gầy.
Rồi cô ân cần hỏi.
- Bây giờ ông định làm gì?
Tôi chán nản trả lời
- Chưa biết, nhưng chắc chắn là tôi phải cần có tiền để mua vé xe đò.
Như nguời bạn thân thiết cô lại hỏi.
- Liệu ông cần bao nhiêu?
Tôi ngờ vực hỏi lại.
- Bộ cô có cho tôi muợn ư?
Cô không cân nhắc câu trả lời mà chỉ nói
- Chưa biết chừng.
Nói rồi cô loay hoay lục cái túi xách và móc ra một xấp tiền đủ mọi mệnh giá, nhưng những tờ có giá một đồng nhàu nát thì nhiều hơn cả, được cẩn thận xếp dưới lớp quần áo bốc mùi ẩm uớt.
Như đoán biết chắc tiền vé xe đò, cô đếm cho tôi số tiền chắc là vừa đủ cho vé xe rồi nói.
- Anh hãy cầm lấy mà đi đi, anh đi mà lo cho đuợc việc, với lại tôi tuy không có dư dả nhiều lắm, nhưng tôi hy vọng số tiền nhỏ này sẽ giúp anh ít nhiều.
Tôi mở choàng mắt chưng hửng truớc cử chỉ và thái độ rộng luợng, tôi thật bối rối không biết phải hành động làm sao trước nghĩa cử tuyệt vời này. Tôi nói.
- Nhưng làm sao tôi có thể cầm lấy tiền của người không quen không biết mà lại nghèo khốn khổ như cô.
Không để tôi nói tiếp. cô cắt ngang.
- Đúng ra lúc khác tôi thật không biết anh đã đuợc đãi ngộ như thế nào, nhưng tôi bảo thật là ngay lúc này anh rất nghèo mà còn nghèo hơn cả tôi đấy. Cầm cứ yên tâm lấy đi đi.
Khi biết chắc là tôi đã gặp đuợc vị cứu tinh. Tôi mạnh dạn hỏi lại
- Nhưng tôi không thể nhận số tiền này mà không biết bằng cách nào tôi có thể hoàn trả lại cô số tiền này.
Cô nguớc nhìn tôi rồi vừa nở nụ cuời vừa nói.
- Anh vừa lo lắng thái quá rồi đó, bộ anh quên luôn là tôi đang là dân vô gia cư sao. Mà đã vô gia cư thì làm gì mà có chỗ nào nhất định cho anh tìm.
Thôi, anh cứ cầm lấy mà làm việc anh cần. Hữu duyên thiên lý năng tuơng ngộ mà lo gì. Còn hoặc là nếu là ý chúa định thì tôi với anh cũng có thể gặp lại đâu đó trong tuơng lai.
Không biết tự lúc nào, chợt có bàn tay ấm áp mềm mại nắm chặt lấy tay tôi rồi khẽ nhét vào lòng bàn tay một cuộn tròn, bóp mhè nhẹ mhư ngầm bảo: anh cũng đừng quá quan trọng hóa nó, vì đã có mấy ai nắm chặt đuợc gì thâu ngày đến tối đâu” cũng lúc ấy hình như trong khóe mắt tôi có giọt nước mắt đang rân ran lịm ra ngoài.
Ngay hôm sau, vì nơi tôi ở chỉ cách non tiếng đồng hồ lái xe nên tôi đã quay trở lại tìm gặp người ân nhân. Tôi đã đến và tôi đã lang thang khu phố để kiếm cô. Như cô nói nếu đó là ý chúa định thì không cần có duyên để gặp lại.
Từ đó, tôi chưa bao giờ gặp lại cô, nhưng những người bạn không nhà của cô tôi đã gặp họ nhiều.
Nguồn: Hiền – Oregonian.

Sửa bởi pth77: 28/06/2014 - 12:45


Thanked by 2 Members:

#100 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 28/06/2014 - 13:17

NGUYỄN TRÃI TRONG BỐI CẢNH VĂN HÓA VIỆT NAM
GS Trần Quốc Vượng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


I/ Nguyễn Trãi (1380-1442) sống và hoạt động trong một thời kỳ đầy biến động, đầy hoạn nạn và âu lo của lịch sử Việt Nam. Ông là con đẻ của thời đại ấy và là ngôi sao Khuê lấp lánh trên bầu trời lịch sử Việt Nam thời đại ấy.

Về chính trị xã hội, Nguyễn Trãi đã sống 20 năm cuối triều Trần (một quyền lực truyền thống đã xa đọa và gần như đã nằm trong tay không chế của Hồ Quý Ly), 7 năm dưới triều Hồ (một quyền lực đang xây dựng dang dở), 20 năm dưới thời thuộc Minh và chống Minh thuộc (một thời kỳ đầy bão táp của bạo lực bành trướng và đô hộ Trung Quốc, đầy bão của bạo lực quần chúng, của toàn thể dân tộc được tổ chức, vùng dậy đấu tranh chống bánh trướng và đô hộ Trung Quốc, giải phóng dân tộc, dành độc lập, tự do) và 15 năm đầu triều Lê, với những lộn xộn sau chiến tranhvà đảo lộn thân phận xã hội quá nhanh của một triều đại dân tộc lớn cuối cùng của của lịch sử Việt Nam, đã có xu hướng chuyên chế “ kiểu châu Á”.

Về văn hoá, Nguyễn Trãi sống trong một thời kỳ quá độ, thời kỳ bản lề của hai chặng đường lịch sử văn hoá Việt Nam.

Trước Nguyễn Trãi ,là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Phật giáo; sau Nguyễn Trãi là một văn hoá Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Nho giáo (Tống Nho, hay Tân Nho giáo theo quan niệm của học giả phương Tây). Mô hình , thì chẳng bao giờ đóng khuôn được hết những “tràn bờ” của tư tưởng, văn hoá Việt Nam.

Nguyễn Trãi tắm mình trong một bầu không khí văn hoá, ở đó đang diễn tiến cuộc đấu tranh gay gắt giữa TRUYỀN THỐNG và ĐỔI MỚI, cuộc đấu tranh gay gắt giữa xu hướng “Trung Quốc hoá” với xu hướng “giải Trung Quốc hoá” trong nội bộ các thế lực cầm quyền và giới trí thức, văn hoá Đại Việt.

Hai mươi năm Minh thuộc, với chủ truơng và âm mưu tái “Trung Quốc hoá” nền văn hoá Việt của bọn giặc Minh, càng làm gay gắt thêm, phức tạp thêm cuộc đấu tranh nhằm xây dựng một nền văn hoá Việt Nam, một lối sống Việt Nam.

Nguyễn Trãi đã dấn thân hết mình vào cuộc đấu tranh chính trị, văn hoá, xã hội này. Và tiếc thay,ông đã ra khỏi cuộc đời này một cách bi thảm!

II/ Hàng ngàn năm trước Công nguyên, trước sự xâm nhập của Trung Quốc, người Việt có một lối sống riêng, với một nền văn minh độc đáo (văn minh Đông Sơn) gắn bó với gia đình các dân tộc và văn hoá Đông Nam Á.

Bành trướng Trung Quốc, từ một vài thế kỷ trước Công nguyên, đã từ lưu vực Trường Giang tràn đến lưu vực Sông Hồng. Bắt đầu một thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc về chính trị. “Hán hoá” và “giải Hán hoá”, một thế lưỡng phân lịch sử, một mâu thuẫn cực kỳ cơ bản của xã hội và văn hoá Việt Nam.

Đất Việt có nguy cơ bị dứt khỏi nền đồng văn Đông Nam Á để trở thành vùng phía trước của nền văn minh Trung Hoa ở khu vực này.

Nhưng mà không!

10 thế kỷ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, đất Việt có bị giải thể văn hoá ít nhiều, có sự giao tiếp văn hoá Việt-Hoa, cũng như trào lưu chống hỗn dung văn hoá. Ba quá trình hỗ tương giao tác, tất yếu sản sinh hai khuynh hướng văn hoá:

1- Khuynh hướng Trung Quốc hoá: Hữu thức về phía bọn đô hộ, bọn tay sai, bọn vọng ngoại, gần như vô thức về phía những đại biểu của dân tộc và nhân dân.

2- Khuynh hướng Việt hoá: Bảo lưu tinh hoa truyền thống, giải hán hoá, thâu hoá những đóng góp của các yếu tố ngoại sinh, kết hợp tất cả lại trong một cấu trúc mới, trong một dòng tạo mới. Văn hoá Đại Việt – Thăng Long ra đời trên cơ sở đó.

Chối từ sự đô hộ của nước ngoài, không chối từ phần đóng góp (rất có thể là quan trọng về nhiều mặt) của các yếu tố văn hoá ngoại sinh. Đó là cái đặc điểm hằng xuyên của của đất Việt, người Việt, văn hoá Việt.

III/ Ra khỏi thời Bắc thuộc và bước vào kỷ nguyên Đại Việt, Tổ tiên ta (trước hết là những người và tầng lớp đại biểu cho dân tộc) đứng trước những thực tế lịch sử này:

1. Người Việt là một dân tộc – cư dân , một dân tộc nông dân, với một “nền văn hoá xóm làng”. Làng Việt là một mô hình xã hội – văn hoá Việt, một yếu tố nội sinh có tính thống nhất nhưng cũng mang tính phân tán, có xu thế giải tập trung.

2. Nước Việt là một Dân tộc – Quốc gia. Nhà nước có chức năng xã hội tham gia (với xóm làng) quản lý đê điều và tổ chức chiến tranh, CHỦ YẾU CHỐNG BÀNH TRƯỚNG TRUNG QUỐC.

Nhà nước Việt ra đời từ thế kỷ X đã theo mô hình Trung Quốc, kiểu vương quyền và đế quyền.
Ra khỏi thời Bắc thuộc, giai tầng thống trị Việt bị mắc vào một thế lưỡng, do có hai hệ quy chiếu:

- Hệ quy chiếu Trung Quốc : Di sản sẵn có của quá khứ Bắc thuộc, do quyền lợi giai cấp, do học Tàu để chống Tàu, do tư tưởng rập khuôn, do TỰ TY “Nam nhân Bắc hướng”, mà cũng do TỰ TÔN muốn “bất dị Trung Quốc”,”vô tốn Trung Quốc” (khác TQ, không thua kém TQ) v.v…Có xu hướng Bắc hoá về chính trị – hành chính , văn hoá, giáo dục,thi cử v.v…

- Hệ quy chiếu dân tộc: Đã chống Bắc thuộc và còn phải chống bành trướng Trung Quốc, giai tầng thống trị Việt (đại biểu cho dân tộc ta khi ấy) phải cố gắng thoát ly ảnh hưởng của Trung Quốc, sâu gốc bền rễ trong Nhân dân và Dân tộc để tự tạo cho mình một bản lĩnh riêng. Muốn thế phải gần Dân, thân Dân, khoan Dân, hạn chế chuyên quyền độc đoán, kết hợp mềm dẻo giữa tập trung nhà nước và dân chủ xóm làng, cái Nhà nước và cái xã hội, cái chính thức (chính thống) và cái dân gian, cái ngoại sinh và cái nội sinh,cái bảo lưu truyền thống và cái bung ra đổi mới v.v… Có xu thế dân tộc hoá, cả pháp độ, văn hoá, giáo dục v.v…

Mắc vào thế lưỡng này, cả tầng lớp cầm quyền trị nước, cả tầng lớp trí thức, tăng đồ, nho gia, đạo sĩ… khó ai có một diện mạo nhất định ở đương thời mà thoát được cái thế lưỡng này, kể cả Nguyễn Trãi. Duy chỉ có điều ở người này, ở thời này , xu thế nào là xu thế chính, có tính chất chi phối mà thôi.

Khúc Hạo là nhà cải cách đầu tiên của nước Việt ở đầu thế kỷ X, người chiến sĩ tiên phong của công cuộc giải Hán hoá và dân tộc hoá cơ cấu nhà nước và văn minh Việt. “Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, dân chúng đều được yên vui”(Cương mục).

Kỷ nguyên Đại Việt, cho đến đầu thế kỷ XIV, theo cương lĩnh bốn chữ “KHOAN-GIẢN-AN-LẠC”, phát triển dưới hai định hướng DÂN TỘC và THÂN DÂN.

Các vua Lý và Trần (trước Dụ Tông) không phải (hay chưa phải) là những vua độc tài, chuyên chế, quá xa dân.

Chính vì chính trị thuần từ Nhân Dân mà nhà Lý đã giành thắng lợi trong cuộc chống xâm lược Tống, hun đúc ý chí “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”.

Chính vì theo đường lối nới sức dân, khoan dung với người dưới mà triều Trần 3 lần đại thắng xâm lược Mông-Nguyên, tạo dựng “hào khí Đông A”.

Dân là gốc Nước. Đã yêu Nước thì phải yêu Dân. Và đã gắn bó với Dân thì tự nhiên nảy sinh lòng tự hào dân tộc.

“Tìm về Dân tộc” và “thân Dân” là phương thuốc tích cực nhất để giải nọc độc vọng ngoại, giải Hán hoá.

Phép tổ chức quân sự, Tống còn phải học Lý. Tống thua Mông Nguyên, Trần thắng Mông Nguyên. Các vua Trần không bắt chước chế độ nhà Tống. Đó là thực tế lịch sử rất lớn – như bây giờ ta thường nói: chiến tranh là một sự thử thách lớn đối với một chế độ xã hội.

Vua Minh ông có thể nói: “Nước nhà (chỉ nhà Trần) đã có phép tắc riêng nhất định: Nam, Bắc phong tục khác nhau. Ông vua trụy lạc Trần Dụ tông vẫn còn một điểm lương tri khi làm thơ ca ngợi đức độ Trần Thái tông: “Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng”.

“Tuy Đồng mà Bất Đồng” là một công thức hay để chỉ thế đối sánh Việt Nam – Trung Quốc. Đồng ở cách, bất đồng ở cốt. Giống nhau ở phần biểu kiến, hiện tượng ( kết quả Trung Quốc hoá, hội nhập văn hoá với Trung Quốc trên bề mặt); Khác nhau ở phần tiềm ẩn, bản chất ( kết quả dân tộc, giải Hán hoá dưới bề sâu).

Thực thể Dân tộc tính đầu đời Trần rõ ràng đến mức, trăm năm sau, cái ông vua thiếu quả quyết và bất lực như Nghệ tông cũng biết nói một câu khôn ngoan, đúng đắn: “Triều đình ngày trước dựng nước tự có pháp độ riêng, không theo chế độ nhà Tống. Là vì Nam, Bắc đều làm chủ nước mình, không cần phải bắt chước nhau”.

IV/ Nếu ý thức hệ là cái cốt lõi của một nền văn hoá, thì như đã nói ở trên, hệ tư tưởng yêu nước-thương dân là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt kỷ nguyên Đại Việt, quán xuyến văn hoá Thăng Long.

Nếu “Văn” là Văn hoá, “Hiến” là hiền tài, thì quả thật nền văn hiến của kỷ nguyên Đại Việt – Thăng Long phát triển vô cùng rực rỡ: “Duy ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang” (Nguyễn Trãi ).

Cố nhiên, nền văn hoá Việt Nam trong kỷ nguyên Đại Việt (như bất cứ nền văn hoá nào khác đương thời) đều mang một hình thức tôn giáo nhất định. Nói cho đúng, ngày xưa tôn giáo không chỉ là hình thức của văn hoá, mà còn là nội dung, là chất men say, là một bộ phận cấu thành hữu cơ của văn hoá.

Đạo Phật là tôn giáo lớn phát triển mạnh nhất ở đât Việt thời Bắc thuộc. Bên cạnh, là Đạo giáo; Nho giáo thì kém phát triển hơn.

Thế kỷ X, khi nước ta giành lại được độc lập dân tộc thì Phật giáo và Thiền là hai hệ Phật giáo hưng thịnh nhất của thời đại.

Từ thời Đinh, Phật giáo được chính thức thừa nhận làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho vua. Rất nhiều Thiền sư tham dự chính sự, tuy không tham gia chính quyền. Thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, những ông vua đều xuất thân võ tướng, cần đến sức học, sự hiểu biết của các vị Thiền sư là thành phần chủ yếu của giới trí thức lúc bấy giờ.

Nho sĩ tuy đã có nhưng chưa nhiều, mới chỉ là thư lại. Sư bàn cả việc quân sự, khuyên vua đánh Tống, bình Chiêm, nghĩa là rất “nhập thể”. Các vua đời Lý so với các vua Đinh, Lê thì giỏi hơn nhiều về mặt học thức. Họ đều có học Phật, học cả Nho, lại nuôi cả Đạo sĩ trong cung, cũng như nhiều Thiền sư. Họ am tường cả Tam giáo.

Trước thời Hậu Lê, triều đình Đại Việt biết dung hợp cả ba ý thức hệ Phật - Đạo - Nho. Từ sau việc lập Văn miếu và mở khoa thi Nho (1070-1075), “trong triều ngoài nội” đã xuất hiện một tầng lớp Nho sĩ. Dần dà Nho sĩ làm mọi việc triều đình, còn Thiền sư chỉ làm cố vấn về phương diện chỉ đạo tinh thần không trực tiếp làm những việc tiếp sứ, thảo chiếu dụ, văn thư … như trước nữa.

Cuối thế kỷ XII đã xuất hiện các Nho thần, như Đàm Dĩ Mông, bài xích Phật giáo. Nhưng dù sao ảnh hưởng của các Thiền sư trên triều đình còn mạnh.

Các vua đầu thời Trần, từ Thái tông đến Anh tông, đều có căn bản vững chắc về Phật học.

Thiền phái Trúc Lâm ra đời và phát triển mạnh, có tính dân tộc. Dưới sự chi phối của tinh thần dân tộc, của hệ tư tưởng yêu nước, Phật giáo đời Trần cũng mang tính cách “Nhập Thế” mạnh, Thiền và Thiền Đại Việt – có tính năng động cao.

Phật, Nho và Đạo đều phụng sự cho đời sống, đời sống tâm linh giải thoát cũng như đời sống xã hội thực tiễn. Cũng do yêu cầu cố kết nhân tâm và hoà hợp dân tộc , mà cũng như thời Lý, Tam giáo vẫn thịnh hành cùng với những tín ngưỡng dân gian khác. Vua tu Thiền, nhưng các con vua có thể tu Thiền, theo Đạo hoặc mở trường dạy Nho. Tinh thần khoan dung và tự do vẫn chi phối thời Trần như ( và hơn) thời Lý.

Chính những Phật tử thuần thành nhất như Thái tông, Thánh tông, do ở ngôi vua, do yêu cầu phát triển của chế độ trung ương tập quyền và bộ máy quan liêu, đã mở rộng Nho giáo. Nhưng Lý – Trần không chỉ thi Nho mà thi cả Tam giáo. Có thể nói, nền giáo dục thi cử Lý – Trần mang tính chất tổn hợp Tam Giáo và không có tính cách từ chương.

Về mặt này Trần Nguyên Đán (ông ngoại Nguyễn Trãi) rất tự hào mà so sánh với Trung Quốc:

“Hán, Đường, nhị Tống hựu Nguyên, Minh
Lệ thiết từ hoa tuyển tuấn anh
Hà tự thánh triều cầu thực học
Dương tri vạn tuế tuyệt cơ bình”

(Hán, Đường, hai Tống lại Nguyên, Minh
Lệ đặt khoa thi chọn tuấn anh
Sao sánh triều ta cầu thực học,
Để muôn đời dứt tiếng phê bình).

Cạnh văn là võ.

Cái tinh thần cơ bản của thời Lý-Trần vẫn là tinh thần thượng võ. Tuổi trẻ thời Trần, từ quý tộc đến bình dân phần nhiều chuộng vũ dũng. Lê Quý Đôn hết lời ca ngợi nhà Trần đãi ngộ nhân tài một cách khoan dung, cởi mở, cẩn trọng, lễ phép, “... cho nên nhân sĩ thời ấy ai ai cũng biết tự lập, anh hào tuấn vũ vượt qua ngoài lưu tục, làm cho quang vinh cả sử sách, không thẹn với Trời Đất, há phải đời sau kịp được đâu!” (Kiến văn tiểu lục).

Văn hoá thời Lý-Trần là nền văn hoá dân tộc, độc lập. Chữ Nôm ra đời. Một nền văn học Nôm hình thành và bước đầu phát triển. Những bộ sử đầu tiên của dân tộc ta ra đời.

Tình trạng nhị nguyên văn hoá chưa thật rõ rệt, sinh hoạt văn hoá cung đình vẫn đậm đà tính chất dân gian, đậm đà chất Đông Nam Á ngàn xưa: đấu vật, hất phết, đua thuyền, hát chèo, múa đội mo nang cầm dùi đục, rối cạn và rối nước, v.v…

V/ Giữa và cuối thế kỷ XIV, nhà Trần bắt đầu suy, xa rời đường lối thân Dân, khoan Dân.Quyền lực truyền thống không còn được thói quen kính trọng, nó dần dần biến thành bạo lực: quần chúng “nổi loạn” và bị võ lực đàn áp. Rối loạn ngoài nội (khởi nghĩa nông dân, nô tỳ), rối loạn cung đình (loạn Dương Nhật Lễ). Rối loạn toàn xã hội …

Chu Văn An dâng “Thất trảm sớ” (1362), bị bỏ qua không xét, đã treo ấn từ quan, đi ẩn. Trần Nguyên Đán ban đầu cũng muốn “dấn thân” nhưng rồi cũng chán ngán dần.

Phật giáo cũng suy đồi cùng với các triều đình vốn ủng hộ nhà chùa quá mức. Những Nho thần như Trương Hán Siêu, Lê Quát, tiếp theo Lê Văn Hưu của thế kỷ thứ XIII, bắt đầu công kích thế lực Phật giáo, tố cáo việc dựng chùa quá nhiều, người cạo đầu làm sư quá lắm. Các ông này muốn “dùng Đạo Thánh ( Nho giáo) để giáo hoá dân chúng” (Bia Chùa Thiên Phúc).

Nhưng ở các địa phương, trường học Nho thì thiếu, Văn miếu thì không!

Bắt đầu đấu tranh gay gắt về ý thức hệ: Nho bài xích Phật.

Bắt đầu cạnh tranh gay gắt về quyền lực, giữa một thế giới Nho sĩ xuất thân bình dân đã lớn mạnh và giới Tăng đồ vốn được hai vương triều Lý-Trần trọng đãi, được cấp nhiều ruộng đất và điền nô…

Lê Quát cùng với Phạm Sư Mạnh (đều là học trò Chu Văn An), hai người tạo nên một học phong rầm rộ (mà Nguyễn Trãi ngợi ca là “Phong lưu Lê, Phạm”) đề nghị Minh tông cải cách chế độ theo mô hình Nho giáo, cũng tức là bắt chước Trung Quốc, băt chước nhà Minh.

Khi Minh thắng Nguyên (1368), nhà Nho họ Phạm đầy ảo tưởng:

“Phương kim Trung Quốc dụng Nho trị,
Hà phương cộng hỉ thánh ân đàm.”

(Mà nay Trung Quốc dùng Nho trị,
Ơn Thánh phương xa cũng sướng vui).

Trần Minh tông gạt phăng đề nghị cải cách theo mô hình Tàu của hai ông Lê, Phạm: “Nếu nghe theo kế của kẻ học trò mặt trắng ( nho sĩ) tìm đường tiến thân thì sinh loạn ngay”.

Lê Quát thất vọng, nghĩ đến chuyện về vườn. Nhưng rồi Minh tông mất (1354); khoảng niên hiệu Đại Trị (1358-1369) thời Dụ tông, hai ông Lê, Phạm được đại dụng, vào chính phủ, làm hiến pháp, bắt chước Tàu.

Mô hình Nho giáo đầy tính chất kỳ thị, thay thế thái độ mềm dẻo bằng một thái độ cứng ngắc, thay thế tinh thần khoan dung bằng một tinh thần nghiêm khắc, thay thế tinh thần hoà đồng, tự do bằng một tinh thần độc tôn có khuynh hướng chuyên chế về tư tưởng và chính trị, bức hại, đàn áp những kẻ có ý kiến, quan điểm tín ngưỡng nghịch với mình.

Nước không khỏi loạn, trái lại còn loạn thêm.

Loạn Dương Nhật Lễ (1369), họ Trần tưởng mất ngôi vua nhưng lại tạm thời được dựng lại (1370), nhưng vương triều Trần (từ thời Nghệ Tông trở đi) nếu chưa phải là một cái xác không hồn thì cũng đã là một người hấp hối.

Sau khi thấy pháp độ đã bị Trung Quốc hoá đi ít nhiều, Nghệ tông rất muốn trở lại truyền thống và pháp độ của các vị vua đầu đời Trần.

Ông nói: “Khoảng năm Đại Trị, kẻ học trò mặt trắng được dùng, không hiểu ý sâu xa của sự lập pháp, đem pháp chế cũ của tổ tông thay đổi thành tục phương Bắc cả, như về y phục, nhạc chương, không thể kể hết”. Từ đây, chính trị buổi đầu thời Nghệ tông trở lại theo đúng lệ cũ đời khai thái (Minh tông).

Nghịch lý của cuối thế kỷ XIV là:

Thời thế đã thay đổi, vậy cần đổi mới. Nhưng cái đề nghị đổi mới lại là xu hướng Trung Quốc hoá, phản dân tộc (đại diện là các nho thần Lê, Phạm).

Caí truyền thống thì bảo thủ (mất tính năng động buổi đầu Trần) muốn giữ nguyên trạng, nhưng lại nhân danh dân tộc, nên nêu lên một nguyên lý đúng: “ NAM, BẮC KHÁC NHAU. KHÔNG CẦN BẮT CHƯỚC NHAU !”

Xã hội, văn hoá khủng hoảng mà không có đường lối giải quyết.

Đúng lúc ấy nhân vât Hồ Quý Ly xuất hiện trên chính trường lịch sử.

Hồ Quý Ly vừa muốn thanh lọc Phật giáo, vừa muốn phê phán xét lại Nho giáo, nhưng cũng chưa xây dựng nổi một một ý thức hệ Việt Nam làm cốt lõi cho nền văn hoá Việt Nam. Ông bất lực trước việc hoạch định một một mô hình dân tộc cho phát triển. Ông kiên quyết chống Minh, ông cũng muốn giải Hán hoá nền văn hoá Việt, giáo dục Việt. Song, ông chỉ mới thổi “tiếng kèn ngập ngừng”, sử dụng những biện pháp nửa vời.

Tâm thức ông cũng đầy mâu thuẫn giữa hai dòng nước Trung Quốc hoá và dân tộc hoá: Sau bốn lần lấy họ Lê, ông lại lấy lại họ Hồ, truy lên gần 500 năm về trước là gốc Hoa, từ Phúc Kiến di cư sang xứ Nghệ; tự cho là dòng dõi Ngu Thuấn bên Tàu để đổi quốc hiệu là Đại Ngu. Trả lời sứ Minh hỏi về phong tục nước ta, ông cũng lại lấy Hán, Đường là “chuẩn mực”:

Tá vấn An Nam sự,
An Nam phong tục thuần .
Y quan Đường chế độ,
Lễ nhạc Hán quân thần... “

(An Nam muốn hỏi rõ
Xin đáp: phong tục thuần
Y quan chẳng kém Đường
Lễ nhạc nghiêm như Hán...)

Ông xây dựng một nền độc tài cá nhân. Ông không nắm được dân, “trăm vạn người trăm vạn lòng”, ông không cố kết được nhân tâm, hoà hợp dân tộc. Dân tâm lìa tan và ông để mất nước vào tay bọn giặc Minh.

Nho sĩ nào lúc bấy giờ còn tỏ ra kính phục nhà Minh thì hiện thực đã được giải ảo. Bọn bành trướng Minh hiện nguyên hình ác quỷ, hiện nguyên hình là những tên man rợ mới, man rợ lớn. Chúng ráo riết thực hiện âm mưu Tái Trung Quốc hoá đất Việt, người Việt, văn hoá Việt.

Cướp được nước ta, trong khoảng 20 năm trời (1407-1427), bên nền đô hộ hà khắc về chính trị, vơ vét tham tàn về kinh tế, giặc Minh đã thi hành một chính sách huỷ diệt độc ác về văn hoá.

Giặc Minh đã quyết tâm đạp cho tan nát những cơ cấu văn hoá dân tộc xây dựng suốt hơn 400 năm, chủ yếu dưới thời Lý-Trần.

Vua Minh đã trực tiếp ra mật lệnh cho bọn tướng xâm lăng, khi tiến quân vào nươc ta, thấy bất cứ cuốn sách cuốn vở nào, gặp bất cứ tấm bia đá nào đều phải thiêu huỷ đập phá hết. Tên tướng Trương Phụ lượm lặt hết các sách vở cổ kim của ta, đóng thùng trở về Kim Lăng.

Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418), nhà Minh còn sai tiến sĩ Hạ Thì và Hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm hết các sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Năm 1419, nhà Minh lại cho người đem sách Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo của Trung Quốc sang thay thế cho cho những sách trước kia chúng lấy đi.

Chính sách huỷ diệt văn hoá thâm độc đó đã phá loại gia tài văn hoá, tinh thần của dân tộc ta không phải là ít. Nếu không, cái gia tài văn hoá, văn học, tư tưởng thời Lý-Trần để lại sẽ phong phú biết chừng nào!

Khởi nghĩa Lam Sơn và cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc đầu thế kỷ thứ XV sau bao năm đấu tranh gian khổ đã giành lại độc lập cho dân tộc. Thắng lợi đó có ý nghĩa cứu vớt những di sản văn hoá dân tộc của thời Lý-Trần.

Người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi , kế tục và phát huy truyền thống “Dân tộc và thân Dân” thời Lý-Trần, đã có những cố gắng để khôi phục và phát triển nền văn hoá dân tộc.

Trong “Bình Ngô đại cáo”, ông nhấn mạnh sự “dị thù” giữa Đại Việt và Trung Quốc cả về cương vực, cả về văn hoá. “Dư địa chí” ghi lệnh cấm người Việt bắt chước phong tục Ngô. Bản chất tư tưởng Nguyễn Trãi có thể gọi là tư tưởng Nho giáo dân gian (Confusianisme populaire).

Nhưng cuộc tranh luận giữa Nguyễn Trãi và Lương Đăng về việc soạn nhạc cung đình, sự bất đồng ý kiến sâu sắc giữa hai người, việc Nguyễn Trãi xin rút khỏi việc soạn nhạc, việc Lương Đăng hoàn toàn mô phỏng nhạc thể và nhạc cụ triều Minhtrong việc soạn nhạc cung đình triều Lê đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự tiến triển của tình trạng nhị nguyên văn hoá giữa cung đình và dân gian.

Nhà Lê nhất là từ đời Lê Thánh tông (1460-1497), về chính trị thì củng cố chế độ trung ương tập quyền theo hướng chuyên chế.

Về tư tưởng thì theo hướng độc tôn Nho giáo,bài xích Phật, Đạo và tín ngưỡng dân gian. Về văn hoá thì xa rời vốn liếng dân gian, vua Lê về thăm quê, trai gái đổ ra đường đón mừng , hát múa những làn điệu dân gian thì bị dẹp đuổi, bảo là “Dâm”. Nghệ thuật chèo bị Thánh Tông xua đuổi khỏi cung đình vì bị kết tội là “hay châm biếm những bậc trưởng thượng”.

Trạng nguyên Lương Thế Vinh thích kê cứu Phật, yêu thích Toán học, say mê nghiên cứu hí trường, thì tuy phải nhận là “tài hoa vượt bậc” vẫn không được trọng dụng, không được làm thành viên Hội t*o Đàn, không được coi là một trong những “Nhị thập bát tú”, mà chỉ làm chân “sai phu” (quét dọn), bị coi là có tật hay khôi hài, thiếu nghiêm chỉnh.

Cuối cùng , trạng Lương cũng phải về hưu non (1441 – trước 1497) và sau khi chết , chỉ vì viết sách Phật, nên bị Lê Hiếu tông không cho thờ cúng trong Văn miếu. Tinh thần kỳ thị tôn giáo, chuyên chế tư tưởng của triều Lê nặng nề đến như vậy!

Một khi đã xa dời truyền thống dân gian, truyền thống dân tộc thời Lý-Trần thì nền văn hoá chính thống triều Lê ngày càng rơi vào quỹ đạo của văn hoá phong kiến Trung Quốc. Từ sách giáo khoa, việc học, việc thi, việc “bảng vàng bia đá” đề danh, cho đến âm nhạc mỹ thuật v.v… đều nhất nhất mô phỏng theo thể chế nhà Minh.

Sức sống của nền văn hoá dân tộc giờ đây phải tìm về kho tàng văn hoá dân gian, ở đó các cương lĩnh Nho giáo đã bị lật ngược lại.

Cố nhiên, trước thực tế dân tộc khác Trung Quốc, triều Lê cũng không thể nhắm mắt mù quáng sao chép mô hình Trung Quốc về mọi mặt. Luật Hồng Đức chẳng hạn dù có tham chiếu Hình luật Đường, Tống, Minh.. thì, do sự phóng rọi của văn hoá dân gian, tập tục xã hội lên trên triều chính, vẫn là một sự trọng thị đối với yếu tố nội sinh của dân tộc Việt.Nhưng thực tế ngoại diên bao giờ cũng vượt lên trên cái duy ý chí của tầng lớp thống trị.

Cuối thế kỷ XVIII,được dựng lên sau một cuộc chiến tranh nông dân và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đánh thắng giặc Thanh xâm lược, triều đại Quang Trung – Nguyễn Huệ(1789-1792) đã lại khởi sự một quá trình “giải Trung Quốc hoá” nền văn hoá Việt (dịch sách Hán sang chữ Nôm, chú trọng quốc văn, ý định xây dựng kinh tế tự cường , không cần mua hàng của Trung Quốc…).

Triều Tây Sơn đổ, triều Nguyễn lên thay, càng độc tôn Nho giáo, càng mô phỏng Tàu, càng chuyên chế,càng xa Dân và cuối cùng để mất nước cho giặc Pháp.

VI/ Đặt Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hoá của thời đại ông, rồi mở rộng suy tư về vận mệnh của nền văn hoá Việt Nam từ ngàn xưa cho đến nay, nhấn nhá vào một trong những cung bậc thăng trầm chính của nó, tôi nghĩ rắng có thể rút ra một vài kết luận sau đây:

Một cái gốc Việt từ thời đại các vua Hùng. Rồi cả một quá trình liên tục, dài dằng dẵng, đầy những âm mưu (từ phía Trung Quốc), và ngộ nhận (từ bên trong dân tộc) của sự Trung Quốc hoá và những nỗ lực phi thường từ Khúc Hạo , Hồ Quý Ly cho đến Quang Trung nhằm “giải Trung Quốc hoá” nền văn hoá Việt, với những lưỡng lực và những nghịch lý và lịch sử. Thậm chí của từng nhân vật lịch sử như Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi...

Cuộc đấu tranh giữa mô hình dân tộc và mô hình kiểu Tàu cho đến khi phong kiến hết thời vẫn chưa chấm dứt thì thế kỷ XIX lại đem tới đất Việt một nền đô hộ mới kiểu mẫu phương Tây, rồi vào những thập kỷ 50 -70 của thế kỷ XX, trên nửa nước này một lối sống Mỹ.

Mô hình phương Tây là một công cụ vô thức của lịch sử góp phần “giải Hán hoá” nền văn hoá Việt Nam, nhưng đã làm giải thể nhiều mặt truyền thống dân tộc, là một mô hình có tính chất huỷ diệt dân tộc.
...
Đã và vẫn đang diễn ra trên đất Việt cuộc đấu tranh quyết liệt nhằm tiếp tục “giải Hán hoá” (cái ngày xưa tổ tiên chưa bài tiết hết) và cái gần đây mới hội nhập vào - giải Tây hoá , giải Mỹ hoá nhằm xây dựng một lối sống Việt Nam, xây dựng NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM./.

T.Q.V


Lời người biên tập: Nhà cháu từng được là thư ký và đã làm 2 cuốn sách cho Thầy (trước khi Thầy mất), đã được Thầy đồng ý cho phép TÙY NGHI BIÊN TẬP, nên đã có vài can thiệp nhỏ:
- Dùng dấu ngoặc đơn thay cho -...- ; ngắt lại các câu phức hợp thành câu đơn... để người đọc hiểu rõ mà không làm thay đổi ý của Thầy.
- Cắt bỏ vài câu 'Thừa'. Tính Thầy rất khác người, cứ '"Nói dzậy mà hổng phải dzậy" . Nhà cháu ĐẢM BẢO là Thầy đồng ý cắt bỏ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

-
NGUYỄN HỒNG KIÊN.

Thanked by 2 Members:

#101 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 01/07/2014 - 04:31

Hãy một lần thấu hiểu với nỗi nhọc tâm của những người cố gắng sống tốt
Nguyễn Tất Thịnh
07:05' PM - Thứ hai, 30/06/2014

Tôi đã gặp nhiều người đàn ông và đàn bà, là bạn bè bởi vậy hay quan sát và ngẫm nghĩ những vấn đề cuộc sống của họ. Tôi viết bài này để chia sẻ, mong ít nhất có một sự thay đổi nho nhỏ cho cách sống của ai đó, để ai đó đỡ thiệt thòi, cũng vui sống, bình đẳng trong cuộc sống tinh thần.

1. Người quá trách nhiệm đến mức họ chỉ hơi bớt đi một tí quan tâm cho người thân đã bị người thân nhận ra là thiếu thốn quá, bị bỏ bê quá mà trách cứ họ, không sẵn lòng thừa nhận rằng họ có quyền tự chăm lo một chút cho mình.

2. Họ lao động nỗ lực và sống cần kiệm nên thường có tích lũy, những kẻ ngu lười, ăn xổi ở thì hễ túng thiếu cho mưu cầu của mình, luôn nhìn vào túi tiền của họ và nếu không được đáp ứng sẽ vu rằng họ chỉ vì tiền.

3. Họ lo xa cho tương lai mà chỉn chu trong hiện tại, nên hay nhắc nhở, rèn giũa người thân từ những việc nhỏ. Bởi vậy thường bị quy kết là khó tính, xét nét.

4. Họ làm tốt cả trăm việc, tự giác và nhẹ nhàng, nên không mấy ai nhận ra vai trò quan trọng của họ. Nhưng chỉ một lần họ sơ xuất lập tức bị đấu tố. Chỉ khi họ không còn nữa người thân mới thấy bị thiếu hụt ghê gớm.

5. Họ làm việc bằng sự lao tâm và mồ hôi nước mắt nên không mấy khi được một cục tiền to, nên họ làm một công việc gì đó bởi say mê hay bị người thân cho là gàn dở, cho dù không thể đóng góp âm thầm, bền bỉ như họ.

6. Họ nhẫn nại gánh bao nhiêu việc do hủ tục, hoặc bởi gia phong, rất nhiều thứ không đáng có. Điều đó đã làm họ suy kiệt, mất mát tuổi trẻ và ham thích cá nhân. Nhưng họ lại luôn bị xăm xoi theo quan niệm của hủ tục, gia phong đó. Đến Công nương Masako phải trẫm uất.

7. Họ là người suy nghĩ thấu đáo, vì người khác nên người thân thường hỏi, tham vấn họ. Thay vì nói chung chung vô thưởng vô phạt, họ thường đưa ra giải pháp hay, nhưng đã làm họ trở thành người bảo trợ, vì thế dễ bị trách móc nếu có rủi ro.

8. Họ hiểu biết và có Tầm nên nhìn nhận, đánh giá mọi việc có chiều sâu, hay suy tư nỗi niềm với Nhân tình thế thái. Nhưng kẻ khác quen hời hợt thấy mệt mà nhiếc họ thương vay khóc mướn cho sự Đời.

9. Họ có tinh thần hy sinh cống hiến, nhưng người thân đã từng mặc nhiên được hưởng điều đó lại muốn tất cả cho riêng mình, thường không chịu nổi nếu họ có một lần theo đuổi tình cảm của chính mình, họ bị kết tội dưới màu sắc đạo đức.

10. Những kẻ khác khi sa cơ lỡ vận tìm đến được an ủi, nương tựa, luôn được họ chia sẻ bởi những điều tử tế có sẵn trong con người họ, những điều đó gần như chưa bao giờ là cái giúp kẻ khác ăn nên làm ra, hay vinh thân thăng tiến. Nên người ra rất dễ quên họ!

Nhưng than ôi, vì họ không phải là Thánh, họ không muốn là Thánh nên họ thường luôn nhận về mình sự thua thiệt, buồn thương mà ấm ức biết tỏ cùng ai.


Bầy Trâu Bò cần lao, sam sưa với cỏ cây mà trở nên hiền hòa.
Bầy Sư Tử dũng mãnh, chỉ ăn mồi săn được, tự tin mà rất hồn nhiên
Lũ Chuột Bọ ký sinh, sống bởi cặn bã đến máu của muôn loài, vì thế rất giỏi lẩn quất, ranh ma...
Người Quân Tử có Trí thắng Quỷ, luận đàm được với Trời nhưng thường thua Xảo của kẻ Tiểu nhân và không tranh khôn được với cái Lẽ của chúng .


Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui

Trịnh Công Sơn


Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Chọn những bông hoa và những nụ cười
Tôi nhận gió trời mời em giữ lấy
Để mắt em cười, tựa lá bay.
Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi
Đường đến anh em đường đến bạn bè
Tôi đợi em về bàn chân quen quá
Hàng lá me vàng lại bước qua

Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi

Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Cùng với anh em tìm đến mọi người
Tôi chọn nơi này cùng nhau ca hát
Để thấy tiếng cười rộn rã bay
Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi
Chọn tiếng ru con nhẹ bước vài đời
Tôi chọn nắng đầy chọn cơn mưa tới
Để lúa reo vàng tựa vẫy tay

Mỗi ngày tôi chọn ngồi thật yên
Nhìn rõ quê hương ngồi nghĩ lại mình
Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống
Vì sao tôi sống ?
Vì đất nước cần một trái tim

Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi
Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi


Sửa bởi pth77: 01/07/2014 - 04:32


Thanked by 4 Members:

#102 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 05/07/2014 - 15:01

Lịch sử chữ thập ngoặc
Phạm Việt Hưng

Trước đây, trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” trên Văn Nghệ ngày 15-06-2002, tôi đã nêu lên nhận xét cho rằng đây không phải là một sự trùng lặp ngẫu nhiên, mà phải có chủ ý – chủ nghĩa quốc xã Đức đã cố tình lợi dụng Swastika để làm biểu tượng của chúng. Tuy nhiên, mọi nhận định trong bài viết đó vẫn mang tính chất suy luận cá nhân, chưa thể hiện đánh giá chính thức của lịch sử thế giới.
Hôm nay tôi đã có đủ tài liệu để giới thiệu với đọc giả những sự thật lịch sử được ghi chép trên các tài liệu chính thức, trong đó cho biết đích thân Hitler đã chọn Swastika làm biểu tượng của đảng quốc xã, nhà nước quốc xã và quân đội quốc xã.
Trước khi tìm hiểu cụ thể, xin chú ý rằng:
· Swastika không phải là biểu tượng của riêng Phật giáo, mà là biểu tượng của rất nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau.
· Swastika của Đức quốc xã hoàn toàn không liên quan gì đến chữ Vạn của Phật giáo, mà chỉ liên quan đến Swastika của người Aryan.
Vì thế để tránh nhầm lẫn, bài viết này sẽ sử dụng tên gọi chung của biểu tượng này là “Swastika”. “Chữ Vạn” sẽ chỉ được dùng cho Swastika của Phật giáo.
Vậy Swastika có xuất xứ từ đâu? Ý nghĩa nguyên thuỷ của nó là gì? Người Aryan là ai? Tại sao Hitler lại sử dụng Swastika của người Aryan? Đó là những câu hỏi sẽ được trả lời trong bài viết này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



1- Hành trình và ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika

Swastika là một trong những biểu tượng cổ xưa nhất mà loài người đã sử dụng. Nó đã được phát hiện trên những di chỉ khảo cổ có độ tuổi ít nhất hơn 3000 năm tại khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng sông Indus (Bản đồ 1). Swastika cũng xuất hiện trên các bình gốm và những đồng xu cổ trên đống đổ nát của thành Troy (Bản đồ 2), chứng tỏ nó đã được sử dụng ít nhất từ 1000 năm trước C.N.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Mặc dù chưa ai vẽ ra được một “lộ trình di cư” chính xác của Swastika qua các thời đại, nhưng có thể biết chắc chắn rằng trải qua hàng ngàn năm, Swastika đã có mặt ở hầu khắp các lục địa Á, Âu, Mỹ. Vì thế, Swastika có rất nhiều tên gọi khác nhau. Tiếng Hán gọi là “wan” (Vạn), tiếng Hy Lạp – tetraskelion, tiếng Pháp – croix gammé, tiếng Anh – fylfot, tiếng Đức – hakenkreuz, tiếng Ý – croce uncinata, v.v… Nhưng tên gọi phổ biến nhất vẫn là swastika, bắt nguồn từ chữ svastika (đọc là suastika) trong tiếng Sanscrit – ngôn ngữ cổ Ấn Độ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Trong tiếng Sanscrit: Sv, đọc là su, có nghĩa là tốt lành (good, well); asti có nghĩa là tồn tại (to be); ka là một tiếp vĩ ngữ thể hiện một sự vật hay sự việc nào đó. Vậy swastika là một sự vật hay một sự việc tồn tại tốt lành, hoặc có trạng thái tốt lành (well-being).
Charles Messenger trong cuốn “Lịch sử Thế Chiến II bằng hình” (The Pictorial History of World War II) nói rằng Swastika thể hiện sự phồn thịnh (prosperity) và sáng tạo (creativity).
Swastika trong nghệ thuật của người Hindu có các dấu chấm trong các cung phần tư , nhưng Swastika của Hindu giáo (Ấn giáo) không có những dấu chấm này, thể hiện sự thiêng liêng cao cả.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Phật giáo đã thừa hưởng Swastika của Hindu giáo. Trong các kinh Phật, Swastika thường xuất hiện ngay ở phần mở đầu. Trong tiếng Hán, chữ Vạn (wan) biểu thị cái bao trùm tất cả (all) và sự vĩnh hằng (eternality).

Cuốn “Phật Học Quần Nghi” xuất bản tại Đài Loan viết:
Theo truyền thuyết cổ Ấn Độ, phàm là thánh vương chuyển luân cai trị thế giới đều có 32 tướng tốt. Phật là một thánh vương trong Pháp nên cũng có 32 tướng tốt. Điều này được ghi trong kinh Kim Cương Bát Nhã. Chữ Vạn là một trong 32 tướng tốt của Phật. Theo kinh Trường A Hàm thì đó là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tại Nhật Bản, chữ Vạn của Phật giáo được gọi là manji, thể hiện Dharma – sự hài hoà và cân bằng âm dương trong vũ trụ (giống tư tưởng của Dịch và Lão học) – trong đó manji quay trái được gọi là một omote manji, thể hiện tình yêu và lòng nhân từ, khoan dung; manji quay phải được gọi là ura manji, thể hiện sức mạnh và trí thông minh.
Tại Nam Âu, khu vực tiếp giáp với châu Á, dấu vết Swastika cũng đã được tìm thấy trong các công trình kiến trúc thuộc nền văn hoá Byzantine – nền văn hoá thuộc khu vực Biển Đen và Địa Trung Hải kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trước CN đến tận thời trung cổ.
Dấu vết Swastika cũng xuất hiện trong các đền đài thuộc nền văn hoá Celtic (đọc là Seltic hoặc Keltic) – nền văn hoá đậm nét Âu châu phi Địa Trung Hải, có xuất xứ từ Tây và Trung Âu từ khoảng 1000 năm trước CN kéo dài mãi đến nhiều thế kỷ sau CN, ảnh hưởng sâu rộng khắp Âu châu. Chủ nhân của nền văn hoá này là người Celt – người nói tiếng Celtic – những người nổi tiếng thông minh, yêu tự do, dũng cảm trong chiến đấu.
Cần đặc biệt chú ý rằng ngôn ngữ Celtic là một bộ phận của một nhóm ngôn ngữ rộng lớn hơn được gọi là ngôn ngữ Aryan hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu. Vậy ngôn ngữ Aryan và ngôn ngữ Ấn-Âu là gì?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



2- Ngôn ngữ Aryan và người Aryan

Những người ít quan tâm đến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các thứ tiếng Âu châu ngày nay hoá ra lại có chung một thuỷ tổ với tiếng Hindi (tiếng Ấn Độ).
Thuỷ tổ ấy là ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European languages) – ngôn ngữ của những cư dân sinh sống từ xa xưa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay. Những cư dân này tự gọi mình là người Aryan.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vào khoảng 1500 năm trước CN, người Aryan đã xâm chiếm vùng tây bắc Ấn Độ. Họ mang theo một nhánh ngôn ngữ của họ đến đó, và trong suốt 1000 năm đầu tiên tại Ấn, họ đã hoàn thiện ngôn ngữ này đến mức tìm ra cách để viết. Đó chính là ngôn ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Độ cổ. Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Độ ngày nay, cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit. Chính nhờ các văn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit vẫn còn lưu giữ được trong các di tích tôn giáo và văn hoá của người Hindu mà ngày nay ta biết được lịch sử của người Aryan. Những văn bản này mô tả người Aryan có nước da sáng mầu (fair-skinned), có máu mê chiến tranh (warlike), và bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có nghĩa là người phú quý (nobleman) hoặc chúa tể đất đai (lords of land)!
Một nhánh khác của người Aryan đã di cư sang xâm chiếm Âu châu và truyền bá ngôn ngữ của họ ở đó. Vì thế ngôn ngữ của phần lớn người Âu châu ngày nay rất giống nhau – thực ra hầu hết người Âu đều nói một thứ ngôn ngữ có nguồn gốc Aryan (trừ tiếng Thổ, Hung, xứ Basques, Phần Lan, Latvia, Estonia, và một vài nhóm nhỏ ở Nga).
Vì thế ngôn ngữ Aryan được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, người Aryan được gọi là người Ấn-Âu tiền sử (proto-Indo-European). Người Ấn ở miền bắc Ấn Độ còn được gọi là người Ấn-Âu. Họ cao lớn, nước da sáng mầu, trong khi người Ấn ở miền nam có nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé hơn, nước da tối mầu hơn.
Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những năm 1790 được coi là một trong những khám phá vĩ đại nhất của ngôn ngữ học. Người Âu châu thời đó đã sửng sốt khi biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp” vào thời đó như Bắc Ấn, hoá ra cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ đó, các nhà khảo cổ học lao vào nghiên cứu mối liên hệ giữa người Âu châu tiền sử với người Aryan cổ đại.
Trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” (đã dẫn), tôi đã đặt dấu hỏi: “Dân tộc Iran ngày nay và người Aryan xưa kia có liên hệ gì với nhau không? Về mặt âm ngữ, hai từ Iran và Aryan rất giống nhau. Về mặt lịch sử, chẳng lẽ người Aryan đi chinh phục Ấn Độ và Âu châu hết mà không để lại một chi nhánh nào của dòng họ ở nơi xuất xứ là cao nguyên Iran hay sao?”.
Và tôi đã tìm thấy câu trả lời. Bách khoa toàn thư Wikipedia viết: “Vào khoảng nửa đầu của thiên niên kỷ thứ nhất trước CN, người Aryan đã có mặt trên cao nguyên Iran và tiểu lục địa Ấn Độ. Thực ra, thuật ngữ Iran là kết quả của thuật ngữ Ariana (Airyana) có nghĩa là xứ sở của người Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có hai nhánh chủ yếu: Ngôn ngữ Sanskrit và ngôn ngữ cổ-Iran … trong tiếng Ba-Tư thời trung cổ, chúng ta thấy chữ Ariana được gọi là Eran, và cuối cùng trong tiếng Ba-Tư hiện đại, được gọi là Iran”.
Nhà triết học nổi tiếng Hegel từng viết trong cuốn Triết học Lịch sử (The Philosophy of history) rằng: “Lịch sử của loài người bắt đầu từ lịch sử của Iran”. Các di chỉ khảo cổ tại Tây Nam Á cho thấy nền văn minh Iran có trước nền văn minh Ai Cập quãng 3000 năm, khởi đầu ít nhất từ 12000 năm trước đây.
Tóm lại, người Aryan một phần đã chinh phục Bắc Ấn, một phần ở lại Iran, và một phần đã di cư sang Âu châu và chinh phục hầu khắp Âu châu, lai tạp với cư dân bản địa Âu châu cổ đại để dần dà trở thành người Âu Mỹ như ngày nay.
Tuy nhiên, khái niệm “người Aryan” dần dần đã bị những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc biến tướng thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ đó dẫn tới những hậu quả chính trị xã hội vô cùng tệ hại.

3- Về cái gọi là “chủng tộc Aryan”

Như đọc giả đã thấy, những văn bản cổ mô tả người Aryan là những người có những “ưu điểm vượt trội”: những người “phú quý” hoặc “chúa tể đất đai”! Trong thực tế, người Aryan đã chinh phục một dải đất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu! “Thành tích vượt trội” của người Aryan đã làm nức lòng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Trong con mắt của họ, “người Aryan” đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan race) – một “chủng tộc ưu tú hơn” (superior race) so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ thời đó, tư tưởng này đã bị phê phán. Nhà Sanscrit học lỗi lạc Max Muller từng nhấn mạnh: “Khi tôi nói đến chữ Aryan, tôi không hề có ý định đề cập đến những khái niệm liên quan đến hộp sọ”. Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề có cái gọi là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có người Aryan mà thôi. Nhưng bất chấp mọi giải thích, những kẻ có đầu óc dân tộc tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng tộc Aryan” như một sự thật lịch sử và khoa học.
Đến những năm 1920, chủ nghĩa quốc xã Đức đã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan lên đến mức cực kỳ phản động: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thượng đẳng (master race) có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một học thuyết được coi là “khoa học” vào thời đó: Học thuyết Đác-uyn-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trương áp dụng nguyên lý đấu tranh sinh tồn của Darwin vào trong xã hội loài người.
Nhưng tại sao Đức quốc xã lại chọn Swastika làm biểu tượng của chúng?
Trước khi biết rõ bối cảnh nào đã dẫn Hitler tới chỗ đích thân hắn chọn Swastika làm biểu tượng cho đảng quốc xã, đọc giả cần biết rõ sự kiện sau đây:
Cuối thế kỷ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng Heinrich Schliemann, người đã khám phá ra Swastika trên đống đổ nát của thành Troy, trong một công trình nghiên cứu công phu kết hợp khảo cổ học với Sanscrit học, đã đi đến một kết luận vô cùng quan trọng rằng Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu. Nói cách khác:
Swastika là biểu tượng đặc trưng của người Aryan!

PHẦN II –TỪ HỌC THUYẾT BỆNH HOẠN ĐẾN SWASTIKA CỦA QUỶ DỮ

Lý thuyết “chủng tộc thượng đẳng” (master race) của chủ nghĩa quốc xã (nazism) là một quái thai trong lịch sử loài người, nhưng quái thai ấy không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nó là con đẻ của một “bà mẹ bệnh hoạn” – Học thuyết Đác-uyn-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – và một “ông bố điên rồ” – Tư tưởng phục thù (Feeling of Revenge) trong xã hội Đức sau Thế Chiến I.
Khi đã có Học thuyết Đác-uyn-xã-hội làm cơ sở “khoa học” để suy tôn “chủng tộc Đức” thành “chủng tộc thượng đẳng có quyền thống trị thế giới”, chủ nghĩa quốc xã chỉ còn thiếu một lá cờ với biểu tượng thích hợp. Nhưng đích thân Hitler đã tìm thấy biểu tượng đó: Swastika của người Aryan!
Vậy trước hết hãy tìm hiểu xem Học thuyết Đác-uyn-xã-hội là gì?


II.1-Học thuyết Đác-uyn-xã-hội:

Học thuyết Đác-uyn-xã-hội là lý thuyết cho rằng xã hội loài người tiến hoá thông qua quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh hơn, khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải. Đây là kết quả của việc áp dụng một cách máy móc Thuyết tiến hoá của Darwin vào trong xã hội loài người.
Không phải ngẫu nhiên mà có sự áp dụng máy móc đó. Đây là hệ quả của việc áp dụng tràn lan chủ nghĩa thực chứng (positivism) vào trong xã hội học.
Chủ nghĩa thực chứng do Auguste Comte (1798-1887) nêu lên từ những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 19, trong đó cho rằng một hệ thống lý thuyết chỉ trở thành khoa học thực sự khi nó có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm trong thực tế.
Với thắng lợi trong khoa học tự nhiên, chủ nghĩa thực chứng đã tạo ra tinh thần lạc quan mạnh mẽ trong thế kỷ 19, thúc đẩy các nhà xã hội học tìm cách giải thích hành vi của số đông (en masse behaviour) bằng những quy luật của tự nhiên.
Đúng lúc đó, Thuyết tiến hoá của Darwin ra đời. Những kẻ có đầu óc chủng tộc lập tức áp dụng Thuyết tiến hoá của Darwin để giải thích sự tiến hoá của xã hội loài người, khẳng định rằng về cơ bản xã hội loại người cũng phải tiến hoá theo quy luật của sinh giới nói chung. Đó chính là Học thuyết Đác-uyn-xã-hội.
Học thuyết Đác-uyn-xã-hội có liên quan gì đến cá nhân Darwin không?
Trước đây tôi luôn luôn nghĩ rằng Darwin chỉ nêu lên quy luật tiến hoá trong xã hội loài vật mà thôi. Việc đem lý thuyết của ông áp dụng một cách máy móc vào xã hội loài người là việc làm của những kẻ có đầu óc kỳ thị chủng tộc. Nhưng gần đây, tôi phải suy nghĩ rất nhiều khi đọc bài báo “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler cái gì?) của Grenville Kent, trên tạp chí SIGNS of the Times ở Úc, số tháng 10 năm 1996, trong đó tác giả đã trích nguyên văn một phát biểu của Darwin như sau:
“Trong một tương lai không xa lắm, có thể đo bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như sẽ tiêu diệt và thay thế các chủng tộc dã man trên thế giới”.
Có thật Darwin đã nói như thế hay không? Trong bài báo nói trên, Kent nói rõ rằng câu nói này nằm trong cuốn On the Origin of Species (Về nguồn gốc các loài), tác phẩm nổi tiếng nhất của Darwin. Nếu đúng như thế thì không thể trách tại sao ở Phương Tây hiện nay, một nửa giới khoa học chống lại Darwin. Liệu một lý thuyết thực sự khoa học có thể bị một nửa thế giới chống lại nó hay không? Điều này chúng ta không hề thấy ở các học thuyết khác, như Cơ học Newton, Thuyết tương đối của Einstein, Cơ học lượng tử của Bohr-Heisenberg, v.v.
Ngay từ năm 1934, Lý Tôn Ngô đã viết trong cuốn “Hậu Hắc Học” rằng “Đác-Uyn phát minh (ra học thuyết) sinh vật tiến hoá cũng như Niu-tơn phát minh ra “Sức hút của quả đất”, là những công thần lớn của giới học thuật, điều ông nói “Muốn sinh tồn phải cạnh tranh mạnh được yếu thua” là một điều không khỏi lệch lạc, cần uốn nắn lại”.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Than ôi, nhân loại chưa kịp uốn nắn thì đã xẩy ra cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai thảm khốc chưa từng có – một cuộc chiến tranh bắt nguồn trực tiếp từ một đầu óc bệnh hoạn về đấu tranh sinh tồn dựa trên học thuyết Darwin!
Những người quen sùng bái Darwin như ông thánh sẽ dẫy nẩy lên khi thấy ông thánh của mình bị kết tội, nhưng chắc chắn họ không thể tranh cãi với Kent khi ông đặt dấu hỏi chua chát “Nếu Darwin đúng thì tại sao Hitler lại không được bào chữa về mặt khoa học?”. Theo Kent, chủ nghĩa quốc xã Đức đã từng lý luận rằng “Nếu chúng ta xuất thân từ động vật thì tại sao chúng ta không hành động theo quy luật (đấu tranh sinh tồn) đó?”. Thế đấy, dưới con mắt của chủ nghĩa quốc xã, con người trước hết là một động vật, do đó mọi hành vi trước hết phải tuân theo quy luật đấu tranh sinh tồn – một quy luật bất khả kháng của tự nhiên (!!!). Nếu Darwin đúng và nếu con người là một bộ phận của thế giới động vật thì cớ gì con người không tuân thủ những “định luật tiến hoá” của Darwin? Đó là một câu hỏi quá khó đối với tư duy khoa học logic máy móc – kiểu tư duy chủ yếu đến nay vẫn thống trị trong thế giới khoa học!
Ngày nay, khi Học thuyết Đác-uyn-xã-hội đã lộ nguyên hình là một học thuyết bệnh hoạn, không ai có thể chấp nhận sự vay mượn tư tưởng từ một học thuyết thuần túy sinh học để đem áp dụng vào xã hội loài người một cách thô thiển và đơn giản đến như thế. Nhưng than ôi, đó lại là một sự thật đã diễn ra vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, chúng ta không thể được phép quên!




Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Heinrich Himmler

Thật vậy, vào đầu thế kỷ 20, trường Đại học tổng hợp Berlin chặt cứng sinh viên ngồi nghe các giáo sư trình bầy Học thuyết Đác-uyn-xã-hội. Trong đám thính giả có rất nhiều nhà ngoại giao, nhà quân sự, thương gia và các lãnh tụ của nhà nước Đức. Một trong số đó là Heinrich Himmler, kẻ sau này trở thành cánh tay phải của Hitler, đứng đầu bộ máy SS – bộ máy tàn sát chủng tộc khét tiếng của Nazi.
Bối cảnh ấy thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phục thù ở Đức phát triển mạnh mẽ, tạo nên một cơ sở xã hội để đảng quốc xã thắng thế vào cuối những năm 1920, đầu 1930, dẫn tới sự ra đời của Đế chế Thứ III (The Third Reich) với việc Adolf Hitler lên cầm quyền ở Đức năm 1933, thực hành một chính sách chủng tộc thảm khốc chưa từng có trong lịch sử.


II.2-Chủ nghĩa chủng tộc và phục thù:

Bước vào thế kỷ 19, trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở thành những đế quốc lớn, hùng mạnh, thì Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc rời rạc. Mãi đến năm 1871 mới thống nhất thành một quốc gia. Sự tụt hậu này tạo cho giới trẻ Đức thời đó một cảm giác tủi hổ, bất mãn. Từ đó nước Đức có xu thế muốn vươn lên, chứng tỏ cho thế giới thấy mình không những không thua kém ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế ấy là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc Thế Chiến I. Nhưng thất bại thảm hại của Đức trong cuộc thế chiến này lại càng đẩy thanh niên Đức lún sâu vào tâm trạng tủi hổ và bất mãn sâu sắc hơn nữa. Để chống lại căn bệnh tủi hổ này, những nhà lý luận có đầu óc chủng tộc đã cố gắng xới lên những học thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong khi các nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc lại tuyên truyền cho chủ nghĩa phục thù, hứa hẹn sẽ lấy lại sức mạnh cho nước Đức, đưa nước Đức lên vị trí lãnh đạo thế giới.
Trong bối cảnh ấy, Lịch sử người Aryan và Swastika cùng với Học thuyết Đác-uyn-xã-hội đã trở thành “những nguyên liệu qúy giá” để những nhà lý thuyết và chính trị theo chủ nghĩa chủng tộc ở Đức chế biến nên một chủ thuyết chủng tộc trong đó khẳng định rằng người Aryan chính là thủy tổ của người Đức, người Đức chính là hậu duệ thuần chủng nhất và tinh túy nhất của người Aryan, và do đó xứng đáng để lãnh đạo thế giới.
Một trong những kẻ đi tiên phong trong học thuyết này là Alfred Rosenberg. Rosenberg coi “chủng tộc Aryan là chủng tộc nằm ở bậc thang cao nhất trong “hệ thống các bậc thang chủng tộc” (racial hierarchy), trong khi “chung tộc Do Thái” nằm ở tầng dưới cùng và là một mối đe doạ đến “nền văn minh thuần nhất Aryan của Đức”, do đó cần phải bị đào thải. Hơn thế nữa, “chủng tộc Aryan” là chủng tộc duy nhất có khả năng sáng tạo nên những nền văn hoá và văn minh đích thực, trong khi các chủng tộc khác chỉ có khả năng giữ gìn hoặc phá hoại những nền văn hoá đó mà thôi. Rosenberg sau này đã trở thành cánh tay phải của Hitler về tuyền truyền và giáo dục tư tưởng quốc xã, đồng thời làm bộ trưởng quốc xã phụ trách khu vực chiếm đóng ở Liên Xô, cuối cùng bị đồng minh bắt năm 1945, bị xử tử hình tại toà án tội phạm chiến tranh Nuremberg ngày 16-10-1946.
Từ điển Lịch sử thế giới (Dictionary of World History) do Chambers của Anh xuất bản năm 1994 viết: “Nước Đức đã ôm lấy cái khái niệm phi khoa học về chủng tộc Đức như là bộ phận tinh túy nhất trong chủng tộc Aryan, trong số những người cùng nói thứ ngôn ngữ Ấn-Âu, và rằng họ có trách nhiệm với tiến bộ của nhân loại (trang 60), … Chủ nghĩa quốc xã khẳng định rằng thế giới được chia thành một hệ thống nhiều thang bậc chủng tộc: Người Aryan, trong đó người Đức là đại diện thuần chủng nhất, là chủng tộc thượng đẳng về văn hoá, trong khi người Do Thái là thấp kém nhất. Điều đó cũng có nghĩa là người Do Thái sẽ bị người Aryan tiêu diệt loại bỏ khỏi thế giới …(trang 661)”.
Một khi đã tự nhận mình là hậu duệ tinh túy nhất của người Aryan thì đương nhiên, những kẻ theo chủ thuyết chủng tộc Đức cũng sẽ tự nhận Swastika là biểu tượng của họ, bởi như chúng ta đã biết trong bài kỳ trước: Nhà khảo cổ học Heinrich Schliemann đã khám phá ra rằng Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu, tức đặc trưng của người Aryan. Đó là lý do để chủ nghĩa quốc xã đã chộp lấy Swastika để biến thành biểu tượng của chúng.


II.3-Swastika rơi vào tay quỷ dữ:

Bách khoa toàn thư Wikipedia cho biết:
Cuối thế kỷ 19, Swastika của người Aryan đã xuất hiện trong tạp chí về chủng tộc xuất bản định kỳ của những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia và là biểu tượng chính thức của những vận động viên thể thao Đức.
Đầu thế kỷ 20, Swastika của người Aryan đã trở thành một biểu tượng chung của chủ nghĩa dân tộc Đức (German nationalism) và có thể tìm thấy ở nhiều nơi như biểu tượng của Wandervogelb – một phong trào tuổi trẻ Đức; trên tạp chí Ostarra, một tạp chí định kỳ bài Do Thái của Joerg Lanz von Liebenfels; trên nhiều đơn vị Freikorps khác nhau; và như một biểu tượng của Hội Thule.
Nhưng Swastika chỉ chính thức trở thành biểu tượng của quỷ dữ kể từ khi Hitler chính thức sử dụng biểu tượng đó.
Sau hai lần thi trượt vào Đại học Mỹ thuật vì bị phê là “thiếu tài năng”, Hitler rất hậm hực bất mãn. Năm 1909, Hitler rơi vào cảnh nghèo túng, nhưng được một người Do Thái là Hanisch giúp kiếm sống bằng cách vẽ bưu ảnh để bán cho du khách (tổng cộng trước Thế Chiến I, hắn đã bán được 2000 bưu thiếp). Trớ trêu thay, chẳng bao lâu sau Hitler đã phản bội lại người giúp đỡ mình khi hắn say mê với những lý thuyết về chủng tộc Aryan, coi người Do Thái là kẻ thù của người Aryan và phải chịu trách nhiệm về những khủng hoảng trong nền kinh tế Đức.
Đến những năm 1920, khi Hitler trở thành lãnh tụ đảng quốc xã, hắn thấy đảng này cần phải có một lá cờ và biểu tượng riêng của nó.
Năm 1923, Hitler bị phạt tù 5 năm vì một hành động chống chính phủ. Trong tù, hắn viết tác phẩm “Mein Kampf” (Cuộc đấu tranh của tôi), trong đó viết: “Lá cờ mới phải là một biểu tượng của cuộc đấu tranh riêng của chúng ta, đồng thời có hiệu quả cao như một áp-phích tuyên truyền”. Không những thế, vốn xuất thân là một thợ vẽ, Hitler còn thiết kế ra hình ảnh cụ thể của lá cờ đó, trong đó Swastika của người Aryan được đặt chính giữa trên một hình tròn mầu trắng. Hắn viết trong Mein Kampf: “Mầu trắng thể hiện tư tưởng dân tộc, biểu tượng Sawstika thể hiện sứ mạng đấu tranh vì thắng lợi của người Aryan, đồng thời nói lên sự chiến thắng của tinh thần sáng tạo, một tinh thần đã và sẽ mãi mãi chống lại bọn Do Thái”.





Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Chẳng bao lâu sau, Mein Kampf đã nhanh chóng trở thành cuốn “kinh thánh” của đảng quốc xã, chứa đựng tất cả các giáo điều của chủ nghĩa quốc xã, bao gồm cả những kỹ thuật tuyên truyền và kế hoạch làm thế nào để trước tiên chiếm lĩnh nước Đức, sau đó là chiếm lĩnh châu Âu.

II.4-Kết:

Đến đây độc giả thấy rõ chính đích thân Hitler đã chọn Swastika của người Aryan làm biểu tượng cho đảng quốc xã. Từ năm 1933, khi đảng quốc xã thắng cử ở Đức, Hitler trở thành quốc trưởng của Đế Chế Thứ III, thì Swastika trở thành biểu tượng của cả nhà nước quốc xã và quân đội quốc xã. Kể từ đó, Swastika bị coi là biểu tượng của quỷ dữ. Sau Thế Chiến II, Swastika bị cấm phô bầy tại rất nhiều nước Âu châu.
Trong thời đại hiện nay, khi sự giao lưu trao đổi văn hoá giữa các quốc gia, các sắc tộc, các vùng địa lý, các truyền thống văn hoá khác nhau ngày một phát triển, thì hai nhận thức khác nhau về Swastika đã gây nên những hiểu lầm và va chạm rất đáng tiếc, thậm chí có nơi đã xẩy ra xung đột. Chỉ có một cách duy nhất thanh toán sự hiểu lầm và xung đột này là mọi người phải biết rõ lịch sử của Swastika, để có thể phân biệt được đâu là Swastika của cái Thiện, đâu là Swastika của quỷ dữ. Vì thế, lịch sử là một khoa học rất cần thiết đối với nhận thức nói chung (Sửa lại tại Sydney ngày 19-08-2010, PVHg)




Bài đăng lần đầu 29/12/2006

Đăng lần 2 có bổ sung ngày 09/04/2011


Sửa bởi pth77: 05/07/2014 - 15:09


Thanked by 2 Members:

#103 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 07/07/2014 - 02:50

Lực Chuyển 2: Dòng Tiền Đầu Tư
Alan Phan

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(Bài 2 trong loạt bài Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới )
25/6/2014

Một nghiên khảo tôi đọc đã lâu nêu ra một điều buồn cười về Liên Xô (thực ra là một thảm kịch cho người dân Nga) là trong thời gian đảng Cộng Sản cầm quyền từ 1946 (sau chiến thứ 2) đến năm 1975 (14 năm trước khi sụp đổ), nếu chánh phủ độc tôn Liên Xô chỉ bán khoáng sản, tài nguyên… rồi cả nước ngồi không ăn chơi, thì thu nhập quốc gia và cá nhân cũng không thay đổi chút gì trong 30 năm đó. Thay vì ngồi yên, họ lập ra đủ kế hoạch 5 năm, 10 năm, 100 năm…với những bộ não thuộc loại đỉnh cao của loài người để vận hành kinh tế. Kết quả? Người dân Nga phải làm nô dịch theo mệnh lệnh của quan chức, phải đi kinh tế mới và làm chuyện tào lao theo chính sách mù mờ, phải vào nhà thương điên ở vùng băng giá Siberia (gọi là gulag) …và phải xếp hàng vài tiếng mỗi ngày để mua một miếng thịt hay cái quần lót…
Các nước Cộng Sản, bây giờ và quá khứ, là những minh chứng hùng hồn cho thấy sự phát triển kinh tế toàn cầu không chỉ tuỳ thuộc vào “labor”, sức lao động của công nông dân như Marx biện luận. Liên Xô không thua Âu Mỹ về bất cứ thành tố gì từ tài nguyên thiên nhiên, trí tuệ khoa học, đến số lượng lao động, khả năng quản trị…Ngoại trừ một thứ: tư bản.
Một cô gái đứng đường cũng hiểu rõ quy luật này hơn cả những chuyên gia đại học hàng đầu của các đảng Cộng Sản: No money, no honey.
Trung Quốc thường được ca ngợi là hiện tượng thành công lịch sử trong việc điều hành kinh tế. Nhưng yếu tố quan trọng nhất mà các nhà phân tích hay bỏ qua là sự đóng góp của dòng tiền từ nước ngoài vào sự thịnh vượng này. Nếu không có những tư bản lúc đầu từ Hoa Kiều và sau đó, từ các quốc gia Âu Mỹ Nhật, máy bay kinh tế tài chánh Trung Quốc sẽ không có đủ nguyên liệu để cất cánh.
Dĩ nhiên, căn bản của lực chuyển kinh tế phải dựa trên quyền tư hữu cá nhân. Và thể hiện rõ nhất trong mọi tài sản là “tiền”. Tôi không biết có bao nhiêu cuốn sách đã xuất bản về các triết thuyết kinh tế và bàn luận về những yếu tố chính trị, xã hội, văn hoá, lao động, trí thức, quản trị…để đem tới một thành công sau cùng. Theo quan sát của riêng tôi, “tiền” vẫn là một thành tố quan trọng nhất.
Trong thời đại Internet, mọi người (kể cả tôi) vinh danh “trí tuệ”, “sáng tạo” và “mô hình phản động” (disruptors) như những động cơ khởi nghiệp sắc bén. Những ví dụ thành công thì đầy dẫy tại Silicon Valley, tại Wall Street, tại Hollywood… Tuy nhiên, nếu không có dòng tiền từ chứng khoán, từ IPO, từ M&A, từ venture capitalist, từ đủ loại quỹ đóng mở, từ các nhà đầu tư nước ngoài, từ ngân sách các chánh phủ…thì hiện tượng trăm hoa đua nở tại các điểm đến của tương lai này cũng chỉ èo uột như mùa gặt trong thời hạn hán.
Dĩ nhiên, có những thời kỳ dòng tiền chẩy sai vào chỗ trũng tạo nên bong bóng mà mọi người liên quan phải trả giá đắt, như dotcom cùa 1997, như bất động sản Mỹ của 2006, như đại suy thoái cùa 1929… Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn một điều: dòng tiền chảy đến đâu thì tăng trưởng kinh tế và ngành nghề sẽ đơm hoa nở nhuỵ. Ít nhất trong một thời gian khá dài (5 đến 10 năm). Sau đó nếu có sai trật, thị trường sẽ điều chỉnh, nhanh hay chậm tuỳ môi trường và cơ chế.

Do đó, chúng ta có thể bắt đoán thời cơ và soạn ra chiến lược kinh doanh dựa trên dòng chảy của tư bản. Như các thám tử, muốn tìm thủ phạm của các vụ án, thì cherchez la femme.
Trước khi tiếp tục, tôi xin tạm quay về những nguyên tắc và thành phần căn bản của dòng tiền thế giới để những bạn chưa nắm vững về vận hành tài chánh hiểu thêm phần sau của bài viết.
Theo McKinsey, năm 2012, lưu lượng dòng tiền chảy quanh thế giới vào khoảng 26 ngàn tỷ USD mỗi năm, hay khoảng 36% GDP của toàn thế giới. Tuy nhiên, đến năm 2025, lưu lượng sẽ tăng lên 85 ngàn tỷ USD. Hiện nay, tổng số tài sản của thế giới tính theo giá trị tài chánh (financial assets) lên đến 900 ngàn tỷ USD. Tất cả những con số trên không bao gồm những phi vụ rửa tiền, trốn thuế hay qua chợ đen etc…Có quá nhiều kênh cho dòng chảy và phần lớn không liên quan đến xu hướng đầu tư. Hai kênh lớn nhất là tiền thanh toán cho các dịch vụ và thương mại (xuất nhập khẩu, du lịch…) và tiền quay trục quanh các ngoại hối để kiếm lời bằng arbitrage (sự khác biệt trên các thị trường).
Còn lại là tiền đổ vào chứng khoán (stock), trái phiếu (bond), giấy nợ (tiền tiết kiệm hay phí bảo hiểm là loại giấy nợ của ngân hàng hay công ty insurance), chứng chỉ phái sinh (derrivatives), v.v… Hai dòng tiền chúng ta phải lưu ý đến nhiều nhất là tiền mặt của các công ty hay của cá nhân (để đầu tư trực tiếp hay gián tiếp) và tiền của các quỹ đầu tư, từ quỹ mutual có cả trăm tỷ USD tài sản đến những quỹ hedge fund nhỏ, từ quỹ đóng đến quỹ mở, từ quỹ đã niêm yết đến quỹ tư nhân. Một số tiền khá lớn cũng đã được những doanh nhân thành đạt đổ vào các quỹ từ thiện, cũng như số tiền tài trợ từ các tổ chức chánh phủ và phi chánh phủ…nhưng chúng nằm ngoài tầm phân tích của bài viết này.
Mục tiêu lý tưởng của dòng tiền đầu tư là tìm lợi nhuận cao nhất với rủi ro ít nhất trong thời gian ngắn nhất. Tuy nhiên, khó ai có thể đạt tất cà ước muốn này trong một thị trường tài chánh tự do. Do đó, các nhà quản lý quỹ thường hoạch định một chiến lược riêng của quỹ và bán dịch vụ của mình cho các nhà đầu tư thích hợp với chiến lược này.
Chẳng hạn có những nhà đầu tư giữ tiền lương hưu cho vài trăm ngàn thành viên. Họ rất bảo thủ và chấp nhận lời ít nhưng tỷ lệ an toàn phải tuyệt đối cao. Trong khi đó một tỷ phú trẻ vừa kiếm tiền khủng qua M&A của công ty khởi nghiệp sẽ sẵn sàng nhận rủi ro cao để roll the dices (đánh bạc) với các venture capitalists. Nhiều quỹ thích những thị trường mà họ thông hiểu (Âu Mỹ Nhật) cùng những công ty lớn, đa quốc…có tài chánh vững vàng. Nhiều quỹ mạo hiểm vào các thị trường mới nổi (BRICS) hay cả thị trường ngoại biên (frontier market như Việt Nam, Pakistan, Nigeria…).
Trong bức tranh vân cẩu phức tạp đó, chúng ta vẫn có thể tìm ra một xu hướng chung của các dòng tiền đầu tư. Dòng tiền này lại phân ra thành hai loại: FDI (đầu tư trực tiếp như mở cơ xưởng, mua bất động sản hay M&A) và IDI hay portfolio investment (đầu tư gián tiếp vào chứng khoán, trái phiếu, giấy nợ…). Thời hạn đầu tư của FDI thường kéo dài từ vài năm đến vài chục năm, theo tầm nhìn chiến lược của nhà đầu tư; trong khi IDI thì muốn “mì ăn liền” đôi khi chỉ vài ngày (nhưng vẫn có nhiều ngoại lệ).
Hiện nay, trong khuynh hướng “chuyển trục” của toàn cầu, phần lớn các nhà phân tích đều cho rằng dòng tiền đầu tư dưới mọi dạng đang quay lại với những nền kinh tế phát triển, đặc biệt là USA, vì các nguyên nhân sau đây:

- Thất vọng với sự suy giảm tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi trong khi những yếu tố rủi ro lại gia tăng

Trong nhiều năm trở lại đây, các nhà đầu tư đã thất vọng nhiều với mức tăng trưởng của nhiều quốc gia mới nổi mà chỉ 10 năm trước, họ cho là sẽ khống chế kinh tế toàn cầu vì sức năng động và nhu cầu lớn của giới trung lưu tại những xứ này. Thất vọng lớn nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Cả hai siêu cường kinh tế tiềm năng này đều có những dấu hiệu mệt mỏi, bất ổn và ẩn chứa nhiều scandal kinh tế đang chờ phát hiện. Chính các nhà đầu tư người Trung Quốc và Ấn khởi động một capital flight khỏi quốc gia họ; và ảnh hưởng nhiều đến niềm tin của những nhà đầu tư ngoại khác. Ở một tỷ lệ nhỏ hơn, Brasil, Nga và Thai Lan, Indonesia, đang bị suy trầm về kinh tế vì nhiều yếu tố khác nhau, nhưng dòng tiền đầu tư bắt đầu chấp cánh bay về chân trời mới.
Những kỳ vọng lớn lao về sự đột phá của các quốc gia như Việt Nam, Pakistan, Nigeria…đã tan biến theo những bong bóng tài sản, tệ trạng tham nhũng và sự thiếu minh bạch của những công ty địa phương.

- Kinh tế Âu Mỹ đang hồi phục và căn bản pháp trị, dân chủ, tự do…bảo đảm một mức độ an toàn hơn cho dòng tiền đầu tư

Trong khi đó, sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 ở Mỹ và sau tình trạng bờ vực của đồng Euro vào 2009, nền kinh tế Âu Mỹ đã hồi phục. Năm nay, tăng trưởng GDP của Mỹ dự đoán ở mức 3.8%, tỷ lệ thất nghiệp xuống 6.1% (thấp nhất từ 2007), một kết quả khá tốt cho người khổng lồ.
Trên hết, không quốc gia nào trên thế giới có thể sánh với Âu Mỹ Nhật về hệ thống kinh tế tự do trên một căn bản pháp trị nghiêm khắc và minh bạch. Một thí dụ: bạn có thể tư hữu bất cứ bất động sản hay chứng khoán nào của Mỹ mà không cần phải minh chứng quốc tịch, mầu da, hộ khẩu, lý lịch cách mạng v.v…Quyền tư hữu cá nhân được bảo vệ đến mức linh thiêng: ngay cả cảnh sát cũng không thể bước vào nhà bạn nếu không được phép, của bạn hay của toà án.
Đây là lơi thế cạnh tranh lớn nhất của những quốc gia Tây Phương về sự thu hút dòng tiền đầu tư.

- Lơi nhuận cùa những công ty Âu Mỹ đang gặt hái những kết quả tốt nhất từ mấy thập kỷ qua.

Thị trường chứng khoán liên tiếp lập đỉnh mới cho chỉ số Dow và Nasdaq trong suốt 5 năm vừa qua. Chỉ số Dow Jones từ 8,500 vào 2008 đã đạt 17,000 hiện nay. Nhiều người cho rằng đây là hiện tượng bong bóng đang hình thành. Tuy nhiên, phần lớn các nhà phân tích đều nghĩ rằng “lơi nhuận” của những công ty niêm yết càng tăng thì theo tỷ lệ P/E, giá chứng khoán phải tăng theo như quy luật vận hành.
Số lợi nhuận khủng của các công ty Âu Mỹ đang tăng trưởng cao nhờ những cắt giảm chi phí tối đa khi họ đối diện với khủng hoảng kinh tế tài chánh vĩ mô vài năm trước. Các lý do khác là nhờ sự thịnh vượng chung của người tiêu dùng và hiệu năng của công nghệ hiện đại (xem phần dưới).

- Hoạt động M&A đang gia tăng mạnh nhờ khối tiền mặt dự trữ lớn của các blue chips.

Một phần của đáp số về bài toán tăng trưởng cho giá chứng khoán Âu Mỹ cũng nằm trong cơ hội M&A, nơi những con cá mập đa quốc với số tiền cash dồi dào (nhờ lợi nhuận, lãi suất ngân hàng thấp và giá cổ phiếu tăng) đang cố gắng thu tóm các địch thủ nhỏ hơn để bành trướng. Những phi vụ M&A chục tỷ đô la của các công ty dược phẩm như Pfizer, viễn thông như Verizon…hay IT như Facebook, Google, Microsoft…đã tạo nên những cơ hội kiếm lời khủng cho số đông nhà đầu tư. Dòng tiền đang đổ mạnh vào lãnh vực này để lướt sóng và đoán bắt cơ hội.
Một thí dụ của sức mạnh cash đem tới trong M&A là tiền mặt dự trữ của công ty Apple hiện nay lên đến 137 tỷ đô la. Để so sánh, quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam cuối 2013 là 33 tỷ đô la (theo lời khoe của chánh phủ).

- Công nghệ mới đem một sinh khí sáng tạo và hào hứng cho môi trường kinh doanh

Trong khi đó, môi trường kinh doanh tại Mỹ có thể được mô tả như là sống động với những thiên tài trẻ, sáng tạo, đam mê và mức độ chấp nhận rủi ro rất cao. Một cuộc viếng thăm Silicon Valley sẽ làm bạn kinh ngạc với thế giới mới của một thế hệ mới không bị ràng buộc bởi bất cứ quy luật nào. Chỉ cần một ý tưởng phản động (disruptive) cộng với sự hợp tác của vài bạn bè và một chuyên gia tài chánh, bạn có thể kiếm cả tỷ đô la trong vài năm (ở Việt Nam có thể đi tù vài năm). Những thí dụ diển hình là sự thành công của Uber (hệ thống taxi dùng xe tư nhân), Dropbox (chứa dữ liệu trong đám mây), What’s App (Facebook vừa mua lại với giá 19 tỷ USD)… Ngoài IT, các lĩnh vực y tế, sinh hoá học (biotech), dịch vụ tài chánh ngay cả công nghệ cũ …cũng đã đem nhiều tỷ đô la cho những doanh nhân của thế hệ U-40 như Kickstarter (crowdfunding), Tesla (xe sports dùng điện lực)….
15 năm trước, khi một công ty niêm yết đạt thị giá 1 tỷ đô la, các mạng truyền thông ào ạt ra tin tức và xin phỏng vấn. Ngày nay, nếu công ty bạn được “cá mập” chào mua với giá 1 tỷ đô la, có lẽ phi vụ chỉ được ghi vào một tin nhỏ ở trang phụ không quá 10 dòng.
Tiền sinh ra tiền. Khi những dòng tiền tụ về một nơi, chúng sinh con đẻ cái không biết cơ man nào mà kể.

- Với hiệu năng đột phá nhờ công nghệ IT cùng robot, chi phí cao cho nhân viên không còn là một rào cản lớn trong toàn bộ phí sản xuất

Sự sáng tạo của Silicon Valley đã đóng góp rất nhiều vào mọi hoạt dộng kinh tế khác trên toàn cầu, ngay cả trong những lãnh vực không liên quan, như nông nghiệp và sản xuất. Các trang trại nông thôn của Mỹ hiện nay không thiếu những công cụ như máy bay không người lái (drones) để rải giống, bón phân, sát trùng…, hệ thống tưới và thải nước do robot điều khiển, hạt giống được biến chất DNA để có năng suất cao nhất, các phần mềm phân tích thị trường và khí hậu để “timing” về thời điểm trồng và gặt, máy đo lường khí hậu, độ ẩm, báo nguy…tân tiến hơn các máy tại những phòng lab của viện đại học cách đây vài chục năm..
Các nhà sản xuất công nghiệp đã bắt đầu quay lại mẫu quốc để đầu tư, nhất là khi chi phí sản xuất tại Trung Quốc sẽ ngang hàng với Mỹ kể từ 2016 (theo McKinsey report). Dù phí nhân công Mỹ vẫn cao hơn gấp mấy lần Trung Quốc nhưng thế cân bằng đã tạo được nhờ sự sử dụng robots (40% nhân công Mỹ sẽ bị robot thay thế trong 20 năm tới), hiệu năng của công nhân Mỹ, giá năng lượng rẻ, phí vận chuyển ít và sản xuất tại Mỹ sẽ tránh được nạn ăn cắp “tài sản trí tuệ”.

- Người tiêu thụ giàu hơn nên sẵn sàng trả một giá cao hơn đề có hàng hoá chất lượng, thương hiệu và phục vụ (customer service).

Gần đây, Walmart, hệ thống bán lẻ cho thành phần thu nhập thấp tại Mỹ, bắt đầu quảng bá khẩu hiệu “người Mỹ dùng hàng Mỹ”. Hiện nay, hàng sản xuất Mỹ đắt hơn hàng Trung Quốc từ 10% đến 25% theo giá bán lẻ, tuỳ mặt hàng. Tuy vậy, với đa số người dân Mỹ, trả thêm ít tiền trong ngắn hạn để hưởng thú tư hữu dài hạn vẫn là một giải pháp tốt. Họ được bảo đảm về chất lượng, về thương hiệu đứng sau sự bảo đảm, về dịch vụ hậu mãi (nếu cần đổi hay sửa chữa…).
Ngay cả tại thị trường các nước mới nổi, người tiêu dùng có khả năng tài chánh cũng ưa chuộng hàng Âu Mỹ hơn. Một lý do nữa là những chất độc hại quá nhiều trong các sản phẩm từ Trung Quốc bao gồm thực phẩm, đồ chơi trẻ con, ngay cả quần áo, vật dụng tiêu dùng…Hiện trạng đang lan phủ và có thể ảnh hưởng đến danh tiếng (xấu) của các quốc gia mới nổi khác mô chép mô hình kinh doanh của Trung Quốc như Việt Nam.
Như đã trình bày, mỗi nhà đầu tư, mỗi quản lý quỹ…đều có những tầm nhìn chiến lược khác nhau. Cho nên, dòng chảy của mọi nguồn tiền rất đa dạng và khó đoán. Ông Warren Buffett gần như không đầu tư chút nào vào các công ty IT, ngay cả trong thời điểm bong bóng dotcom vào 1997 và hiện nay. Tuy nhiên, nếu doanh nhân muốn tạo một tài sản khổng lồ như Steve Jobs (Apple) vào 1975 hay Jeff Bezos (Amazon) vào 1994, họ phải biết xu hướng của dòng tiền và những cơ hội, lực chuyển ngắn cũng như dài hạn. Đi ngược với trào lưu cũng có thể mang đến những thành công bất ngờ, nhưng tỷ lệ xác suất sẽ rất thấp.
Các doanh nhân ở các nước mới nổi thường coi tài sản lớn nhất của công ty là mối quan hệ hay thế chống lưng từ vài quan chức quyền lực. Mô hình kinh doanh này bắt đầu rã đám dần dần từ Trung Quốc và khó thể xuất khẩu đến các thị trường lớn mạnh của Âu Mỹ Nhật. Dòng tiền đầu tư đã chuyển hướng và chỉ trong 2 thập kỷ tới, nếu Trung Quốc không thay đổi, nền kinh tế mà mọi người ca tụng hôm nay sẽ chỉ là một chú thích trong lịch sử.
Hai câu nói rất nhàm tai của Tôn Tử nhưng cho đến giờ này tôi vẫn thuộc nằm lòng,”biết người biết ta” “kết quả của trận đấu đã được định đoạt trước giờ khai hoả”…
Alan Phan

Thanked by 1 Member:

#104 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 07/07/2014 - 03:38

Vũ trụ toàn ảnh – Một kỷ nguyên khoa học mới


To see a World in a Grain of Sand
And a Heaven in a Wild Flower,
Hold Infinity in the palm of your hand
And Eternity in an hour.

Dịch nghĩa:
Để thấy Vũ trụ trong một Hạt cát
Và Bầu trời trong một Đóa hoa Rừng,
Hãy giữ Vô cùng trong lòng tay bạn
Và Thiên thu trong một khắc đồng hồ.

William Blake (thi sĩ Anh 1757-1827)

Toàn ảnh ( holography) là gì?
Như chúng ta biết trong quang học có phương pháp ghi một vật thể 3 chiều bằng một ảnh 2 chiều (hologram). Kỹ thuật này gọi là holography (phương pháp toàn ảnh).Chữ holography có gốc từ tiếng Hy Lạp (whole, toàn thể) + graphe (writing, ghi ảnh).Đây là một phương pháp chụp ảnh hiện đại. Holography được phát minh năm 1948 bởi nhà vật lý người Hung Dennis Gabor (1900-1079), nhờ thành tích này ông được nhận giải Nobel năm 1971.
Hologram là một ảnh 2D (2 chiều), song khi được nhìn dưới những điều kiện chiếu sáng nhất định thì tạo nên một hình ảnh 3D (3 chiều) trọn vẹn. Mọi thông tin mô tả vật thể 3D đều được mã hoá trên mặt biên 2D. Như vậy chúng ta có hai thực tại 2D và 3D tương đương với nhau về mặt thông tin.
Một tính chất quan trọng khác của hologram là nếu chỉ lấy một phần của nó người ta cũng có thể khôi phục được hình ảnh 3D của vật. Tính chất này được diễn tả trong mấy vần thơ đề tựa của William Brake ở đầu bài viết ( trùng hợp vì triết lý toàn ảnh), mặc dầu chúng được viết từ nhiều thế kỷ trước.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hai kiến trúc sư lớn của toàn ảnh
Hai nhà khoa học, kiến trúc sư của lý thuyết toàn ảnh là: nhà vật lý David Bohm (Đại học London) và nhà thần kinh học xuất sắc Karl Pribram (Đại học Stanford , tác giả cuốn sách nổi tiếng Các ngôn ngữ của não bộ – Languages of the Brain).Một điều kỳ lạ là hai nhà khoa học này vốn làm việc trong hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau lại cùng đi đến những kết luận giống nhau. Bohm đi đến kết luận về tính toàn ảnh của vũ trụ sau nhiều năm không hài lòng với những giải thích các hiện tượng vi mô theo thuyết lượng tử, còn Pribram – vì sự thất bại của các lý thuyết cổ điển sinh học đối với những bí ẩn trong sinh lý học thần kinh ( neurophysiology).
Cuối cùng họ gặp nhau và cùng hiểu rằng mô hình toàn ảnh cho phép hiểu được một loạt những điều bí ẩn trong vật lý, trong thần giao cách cảm (telepathy), tiên tri (precognition-biết trước sự vật), sự thống nhất con người và vũ trụ (oneness), động học tâm lý (psychokinesis),...

Vũ trụ là một toàn ảnh (hologram)
Khi làm việc tại Phòng thí nghiệm Bức xạ Berkeley về plasma, Bohm đã nhận xét rằng trong trạng thái plasma các electron không hành xử như những thực thể riêng lẻ mà như thành phần của một hệ thống nhất liên thông (interconnected).Điều đáng ngạc nhiên là plasma có thể hút các tạp chất ở biên giống như một trực trùng amip (amoeboid) nuốt chất lạ vào bào nang. Bohm có ấn tượng là biến các electron là một sinh thể. Những ý tưởng đó giúp Bohm tìm ra plasmon, tạo nên tiếng tăm cho nhà vật lý.
Bohm đưa ra một ví dụ: hãy lấy một con cá vàng đang bơi trong bể cá cảnh và tưởng tượng rằng bạn chưa bao giờ thấy một cảnh tượng như vậy, mọi nhận thức của bạn chỉ có được nhờ hai camera tivi A & B quét từ hai góc khác nhau.Khi nhìn vào hai màn hình tivi bạn lầm tưởng đang quan sát hai con cá vàng.Song theo dõi một lúc bạn thấy rằng có mối liên hệ đồng bộ giữa hai con cá này.Như vậy hai ảnh trên hai màn hình chỉ là hai biểu hiện của một thực thể ở mức sâu hơn, trong trường hợp này thực thể đó là bể cá cảnh với cá vàng bên trong.Tình huống này giống như hai photon phát ra từ sự phân rã của một positronium.Theo Bohm tồn tại một thế lượng tử chiếm đầy không gian và các hạt liên thông với nhau một cách không định xứ (nonlocal).
Nguyên lý toàn ảnh có thể dẫn đến một triết học sâu sắc. David Bohm (hình 3) quan niệm rằng thực tại mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày chỉ là một loại ảo tưởng giống như một bức tranh toàn ảnh (hologram). Dường như thực tại có hai mức: một mức ở sâu hơn gọi là mức tiềm ẩn (cuộn lại) /implicate (enfolded) và một mức gọi là mức tường minh (mở ra) /explicate (unfolded). Một film toàn ảnh (hologram) và hình ảnh nó tạo ra là ví dụ của hai mức tiềm ẩn và tường minh.Cuộn film thuộc mức tiềm ẩn vì hình ảnh được mã hóa trong các dạng giao thoa chứa trong film còn hình ảnh chiếu ra thuộc mức tường minh vì các giao thoa mã hóa được mở ra (unfolded).
Theo David Bohm sóng và hạt đều bị cuộn lại trong một thực thể lượng tử, chỉ có quá trình tương tác mới bộc lộ tường minh một khía cạnh nào đó còn khía cạnh kia vẫn nằm tiềm ẩn. Vì từ toàn ảnh (holographic) có tính tĩnh tại (static) nên để mô tả những quá trình động (dynamic) cuộn lại và mở ra liên tục của thực tại nên David Bohm đưa ra danh từ toàn ảnh động (holomovement)
Bohm quan niệm rằng mọi vật trong vũ trụ đều là những phần tử của một continium [1]. Bohm cho rằng phân biệt thế giới sống (living) và không sống (nonliving) là điều vô nghĩa.
Vì mỗi phần của một bức toàn ảnh (hologram) đều chứa thông tin của toàn ảnh cho nên mỗi bộ phận của vũ trụ đều chứa thông tin của toàn vũ trụ. Điều đó có nghĩa là nếu biết cách tiếp cận thì chúng ta có thể tìm thấy thiên hà Tiên nữ (Andromeda) trong móng ngón tay bàn tay trái [2]. Bài thơ của William Blake (thi sĩ Anh 1757-1827) đề dẫn trên đây diễn tả cùng một ý.

Não bộ là một toàn ảnh (hologram)
Pribram xuất phát từ việc tìm hiểu não bộ lưu trữ trí nhớ bằng cách nào và ở đâu . Trong những năm 1940 người ta tin rằng trí nhớ nằm trong não bộ.Mỗi dấu vết trí nhớ gọi là một engram, tuy chẳng ai biết engram được cấu tạo bằng gì .
Từ năm 1920 Wilder Penfield dường như chứng minh được rằng các engram nằm trong những vùng nhất định của não bộ [3]. Pribram, lúc còn là một nhà phẫu thuật thần kinh nội trú không có một nghi ngờ nào đối với lý thuyết engram của Penfield. Song nhiều điều xảy ra đã làm Pribram thay đổi quan điểm. Tại Phòng thí nghiệm sinh học Yerkes, Florida, nhà tâm lý thần kinh (neuropsychologist) Karl Lashley đã huấn luyện chuột một số kỹ năng rồi cắt bỏ những phần trong não bộ có thể liên quan đến kỹ năng đó (không một nhà phẫu thuật nào tìm được một vị trí xác định của các engram ). Song một điều ngạc nhiên là dù cắt bỏ bao nhiêu đi nữa kỹ năng được huấn luyện vẫn lưu tồn. Và Pribram đi đến kết luận quan trọng: trí nhớ không được lưu trữ tại một nơi nào cả trong não bộ mà bằng một cách nào đó lan truyền và phân bố trong toàn não bộ.
Vào giữa năm 1960 khi Pribram đọc một bài báo trên Scientific American về cấu tạo của một hologram thì ông hiểu rằng: não bộ là một toàn ảnh (hologram).
Trí nhớ được xem như là những xung lượng thần kinh đan chéo chằng chịt trong não bộ tương tự như những hình ảnh giao thoa tia laser trên một diện tích của hologram.
Không riêng gì đối với trí nhớ mà đối với các khả năng khác của con người như thị giác và thính giác người ta cũng quan sát được các tính chất toàn ảnh (nhà nghiên cứu Hugo Zucarelli phát triển kỹ thuật gọi là âm học toàn ảnh - holophonic sound, sử dụng tính toàn ảnh của thính giác).
Nếu như một phần của hologram có khả năng tái tạo toàn ảnh của một vật thì mỗi phần của não bộ cũng chứa tất cả thông tin để phục hồi toàn bộ trí nhớ.
Một nhà sinh học là Paul Pietsch (Đại học Indiana) muốn chứng minh rằng Pribram sai đã thực hiện hơn 700 thí nghiệm (cắt lớp, đảo chiều, thay đổi thứ tự, cắt bỏ, thái mỏng) trên bộ não của nhiều con kỳ giông (salamandridae) song lúc đặt lại trong bộ não những gì còn lại thì thấy các con vật vẫn hành xử như không có điều gì xảy ra đối với trí nhớ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bohm và Pribram gặp nhau
Các lý thuyết của Bohm và Pribram đã tạo nên một quan điểm sâu sắc về nhận thức luận đối với thế giới khách quan: toàn bộ vũ trụ là một toàn ảnh (the entire universe is a hologram), bộ não là một hologram cuộn vào trong vũ trụ toàn ảnh (the brain is a hologram enfolded in a holographic universe).
Năm 1982 Alain Aspect (Đại học Paris) đã thực hiện một thí nghiệm có thể nói là quan trọng nhất trong thế kỷ 20, liên quan đến nghịch lý EPR [4], chứng minh rằng trong những điều kiện nhất định các hạt như electron có thể tức thời liên lạc với nhau (vậy vận tốc truyền thông tin lớn hơn vận tốc ánh sáng) bất kể khoảng cách giữa chúng là 10 m hay 10 triệu dặm.
Theo David Bohm thì thí nghiệm của Aspect càng chứng minh vũ trụ quả là một hologram. Trong nghịch lý EPR , theo Bohm thì Einstein sai lầm vì cho rằng hệ đó là hai hạt riêng lẻ trong khi phải xét chúng như một hệ không phân chia được.
Và không phải các electron đã truyền thông tin cho nhau theo một cách bí ẩn nào đó mà là sự phân cách giữa chúng chỉ là một ảo tưởng. Tại một mức sâu các hạt đó không là những thực thể riêng lẻ mà chỉ là những biểu kiến của một thực thể cơ bản.
Rộng hơn mọi thành phần của vũ trụ ở một mức sâu đều liên thông với nhau (interconnectedness) và ngược lại vũ trụ hiện hữu trong mỗi bộ phận (“whole in every part”). Một ví dụ của mức sâu đó của thực tại chính là cái bể cá cảnh cùng con cá vàng trong ví dụ nói ở trên đây. Theo Bohm ta thấy được những thực thể riêng biệt chỉ vì ta chỉ nhìn được một khía cạnh của thực tại. Các thực thể riêng biệt đó chỉ là những bóng ma (eidolon) còn vũ trụ tự thân là một hình chiếu, nói cách khác là một hologram.
Các electron của nguyên tử carbon trong não bộ của con người liên thông với các nguyên tử của mỗi con cá hồi đang bơi, của mỗi quả tim đang đập và của những vì sao đang chiếu sáng trên bầu trời. Vì sự liên thông phổ quát này mà trong vũ trụtoàn ảnh , thậm chí không gian và thời gian không còn là cơ bản nữa!
Những khái niệm như tọa độ và thời điểm sẽ không còn ý nghĩa trong một vũ trụ mà không vật gì được tách rời với vật khác trong không gian và thời gian. Tại mức sâu hơn này, thực tại là một siêu hologram trong đó quá khứ, hiện tại và tương lai quyện vào nhau và tồn tại đồng thời. Tại mức sâu siêu hologram nếu tìm được phương pháp thích hợp chúng ta có thể làm tái hiện được những cảnh tượng từ quá khứ xa xôi.
Sự tổng hợp hệ thống ý tưởng của Bohm và Bribram dẫn đến là hệ mẫu toàn ảnhHP (Holographic Paradigm). Nhiều nhà khoa học công nhận rằng nhiều hiện tượng ngoại tâm lý học (para-psychological [5]) như thần giao cách cảm, luân hồi, tiên tri...có thể hiểu được nhờ HP.
Thời gian sẽ trả lời HP đúng hay sai song hiện tại HP ,vì hàm lượng triết lý lớn, đang làm say đắm nhiều nhà khoa học và là nguồn cảm hứng dồi dào cho điện ảnh (các phim ‘The Matrix’, ‘The 13th Floor’, Star Trek...) cho nghệ thuật, văn chương.

Cuộc chiến quanh lỗ đen & nguyên lý toàn ảnh
Vì sao mà nguyên lý toàn ảnh trở nên quan trọng cho vật lý lượng tử?[6] Năm1993 Gerard ‘t Hooft (và có thể cùng thời Leonard Susskind, một trong những người phát triển lý thuyết dây) đề ra nguyên lý holographic: theo nguyên lý này tồn tại một vật lý nD trên mặt biên (không gian n chiều) mô tả được hoàn toàn vật lý (n+1)D của hệ nằm trong mặt biên (không gian n+1 chiều).Thông tin trong một thể tích không gian sẽ được lưu trữ bề mặt của thể tích đó, ở đấy một bit thông tin chiếm 1/4 yếu tố diện tích Planck (Bekenstein). Đối với lỗ đen thông tin này sẽ được mã hóa trên mặt chân trời của lỗ đen.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Theo nguyên lý holographic các quy luật vật lý trên mặt biên (xem là hologram) mô tả tương tác giữa các hạt như quark, gluon trong khi các quy luật vật lý của không gian nằm trong mặt biên được mô tả bởi lý thuyết siêu dây như thế có chứa cả hấp dẫn

Năm 1997, tác giả Maldacena (Đại học Harvard) đã thực hiện nguyên lý holography nhờ thiết lập mối quan hệ sau:
Một vũ trụ mô tả bởi lý thuyết siêu dây (như vậy có hấp dẫn) trong một không-thời gian anti-de Sitter 5 chiều tương đương với một lý thuyết trường lượng tử (không chứa hấp dẫn) trên mặt biên 4 chiều của không-thời gian đó (xem hình 5).
Bài toán lớn nhất hiện nay của vật lý lượng tử là thống nhất được hai lý thuyết lớn nhất của thời đại: lý thuyết lượng tử và lý thuyết tương đối rộng. Nguyên lý toàn ảnh nói trong bài này có hy vọng là một phương án để làm được điều đó!

Công trình của Maldacena gây một tiếng vang lớn trong giới vật lý lý thuyết, trong vòng 5 năm công trình của Maldacena được trích dẫn trên 5000 lần và được xem như một bước đột phá về quan niệm, tạo nên một cách nhìn mới đối với hấp dẫn và lý thuyết trường lượng tử.
Cuốn sách vừa xuất bản “ Cuộc chiến quanh lỗ đen- La guerre du trou noir ” của Leonard Susskind [6] mô tả lại cuộc tranh luận giữa Stephen Hawking và nhiều người khác thuộc phái phản đối. Stephen Hawking cho rằng lỗ đen là một thực thể vi phạm nguyên lý bảo toàn thông tin trong lý thuyết lượng tử (và trong vật lý nói chung), một thực thể xé nuốt thông tin (dévoreurs d’informations). Song đến năm 2004 thì Stephen Hawking tuyên bố thua cuộc John Preskin trong một cuộc đánh đố rằng thông tin bảo toàn hay biến mất sau khi lỗ đen bay hơi.
Như vậy bài toán nghịch lý về thông tin trong lỗ đen có thể xem như được sáng tỏ phần nào (thông tin là bảo toàn song thu hồi nó như thế nào?). Nguyên lý toàn ảnh khẳng định rằng mọi thông tin trong lỗ đen giờ đây được mã hoá trên diện tích chân trời và thông tin được bảo toàn trong quá trình bay hơi của lỗ đen. Thất bại này của Stephen Hawking càng làm cho giới khoa học chú ý nhiều đến HP.

Một kiểm chứng thực nghiệm: phát hiện tiếng ồn toàn ảnh (holographic noise) của dự án GEO600?
GEO600 là một dự án hợp tác giữa Viện Vật lý hấp dẫn Max Planck, Đại học Leibniz Hannover, Đại học Cardiff, Đại học Glashow và Đại học Birmingham.GEO600 là một detector dài 600 m, xây dựng tại Hannover (Đức) có mục tiêu tìm sóng hấp dẫn phát ra từ những thiên thể như sao neutron, lỗ đen. Hiện nay GEO600 [7] chưa tìm ra sóng hấp dẫn song rất có thể đã phát hiện một hiện tượng quan trọng nhất trong thế kỷ này. Trong nhiều tháng qua đội ngũ GEO600 đau đầu vì một nhiễu loạn, một tiếng ồn không giải thích được trong detector của họ.
Một điều đáng ngạc nhiên, Craig Hogan (hình 6), Giám đốc Trung tâm Vật lý thiên văn các hạt cơ bản, Phòng thí nghiệm Gia tốc quốc gia Fermi , GS Đại học Chicago, Illinois lại tiên đoán được rằng nhóm GEO600 sẽ gặp vấn đề về tiếng ồn lạ lùng này và đưa ra cách giải thích: nhóm GEO600 đã tiến đến giới hạn cơ bản của không thời gian, đã tiến đến điểm mà continium phẳng phiu của Einstein chấm dứt nhường chỗ cho cấu trúc dạng “hạt” gián đoạn, nhóm GEO600 đã chạm ngõ đến sự thăng giáng “run rẩy” lượng tử của không thời gian, một mức sâu của thực tại trong vũ trụ hologram [8]. Tại những khoảng cách vi mô với kích thước cỡ 10– 35 m ( độ dài Planck) không thời gian có cấu trúc gián đoạn như cấu tạo được bằng những pixel .
GS Bernard Schutz (Viện Thiên văn Hoàng gia Anh) nói: nếu tiếng ồn toàn ảnh được phát hiện thì đây là tín hiệu của một kỷ nguyên mới trong vật lý cơ bản (ScienceDaily,Feb.4,2009). GS Karsten Danzmann, Giám đốc Viện Albert Einstein Hannover dè dặt hơn phát biểu: vấn đề tiếng ồn toàn ảnh đã đặt nhóm nghiên cứu GEO600 vào tâm cơn lốc của một nghiên cứu cơ bản quan trọng của thế kỷ. Nhóm các nhà vật lý GEO600 đang tích cực thu thập dữ liệu để chứng minh liệu tiếng ồn họ thu được có phải là tiếng ồn toàn ảnh hay không?
Nếu nhóm GEO600 đã tìm thấy những gì mà Craig Hogan phỏng đoán thì chúng ta đang ở trong một hologram vũ trụ khổng lồ.

Kết luận
Vũ trụ của chúng ta có thể là một hologram khổng lồ (Our World May Be a Giant Hologram [9]). Nếu điều này đúng thì trước mắt chúng ta là một kỷ nguyên khoa học mới (ScienceDaily,Feb.4,2009) có tầm bao quát một cách thống nhất nhiều hiên tượng (từ vật lý đến các khả năng kỳ diệu của não bộ) mà khoa học hiện nay chưa có lời giải thích. Vũ trụ toàn ảnh sẽ có tác động lớn đến triết học và là nguồn cảm hứng của nhiều ngành nghệ thuật. Nhiều nhà khoa học xếp lý thuyết Vũ trụ toàn ảnh ở tuyến đầu tri thức (latest frontier of knowledge), lý thuyết Vũ trụ toàn ảnh có nội dung lớn hàm ẩn cả toán, lý, sinh, triết học...
CAO CHI
Nguồn: Tạp chí Tia Sáng
———–
Tài liệu tham khảo & chú thích
[1] David Bohm, Wholeness and the implicate Order, 1980.
[2] Michael Talbot, The holographic Universe,1996.
[3] Wilder Penfield, The mystery of Mind, 1975.
[4] EPR : nghịch lý EINSTEIN, PODOLSKY & ROSEN,
xem Cao Chi , Cơ học lượng tử : từ quan điểm Einstein đến quan điểm tương quan (RQM), KH&TQ số tháng 9 / 2008.
[5] Ngoại tâm lý học (parapsychology) nghiên cứu những khả năng giả đoán của tâm lý: ngoại cảm (telepathy), tuệ nhãn (perceptiveness), tiên tri và hồi tri (precognition
& retrocognition). động học tâm lý (psychokinesis).
[6] La Recherche, Paul Davies & Leonard Susskind, Fevrier 2009 No 427.
[7]

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


[8] Craig Hogan, Physical Review D, vol 77, p 104031.
[9] Marcus Chown, Our world may be a giant hologram, New Scientist, 15 January, 2009.

Sửa bởi pth77: 07/07/2014 - 03:40


#105 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 09/07/2014 - 03:05

Hữu Loan và Màu Tím Hoa Sim
Nguyễn Đức Hiệp
07.07.2014

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tôi được đọc bài “Màu Tím Hoa Sim bản nào là đúng nhất?” của nhà thơ Nguyễn Minh Hùng trên mạng vanchuongviet (mạng văn nghệ đồng bằng sông Cửu Long trước đây). Bài viết rất súc tích làm tôi chú ý vì ba lý do. Một là nội dung về bài thơ “màu tím hoa sim” mà hầu như người Việt nào cũng rung động và cảm xúc trước bi kịch đau đớn của nhà thơ, một người lính chinh chiến trong kháng chiến chống Pháp, vào “một chiều rừng mưa”, hay tin người vợ trẻ chết đuối ở hậu phương. Bài thơ này được xem là bài thơ tình hay nhất thế kỷ 20, cuối năm 2004 công tyVitek mua bản quyền với giá kỷ lục ở Việt Nam. Lý do thứ hai, tôi có đọc trước đây bài của ông Trịnh Hưng đăng trên báo Khởi Hành, số 167 tháng 9, 1997 – do một người bạn gởi cho tôi – về bài thơ Màu Tím Hoa Sim mà nhà thơ Hữu Loan chép tặng cho Trịnh Hưng khi tác giả đến thăm ông ở Thanh Hóa. Sau cùng, vì tôi cũng có may mắn gặp được nhà thơ Hữu Loan vào đầu năm 1988 ở Saigon khi ông ghé nơi này. Thật là dịp hiếm có, vì hầu như ông không đi đâu xa ngoài chốn quê hương Thanh Hóa trong những năm 80. Vì thế tôi đã đọc kỹ, xem có sự khác biệt hay không giữa bản của công ty Vitek với các bản mà vào những gặp gỡ tình cờ, Hữu Loan viết tặng cho những ai quý mến tài và hiểu biết sự gian nan của ông trong đời.
Các bản ông viết từ trước đến nay không khác gì nhiều, chỉ một vài chữ thêm bớt hay hơi khác (như “lớn lên” thay vì “nhớn lên”, “ví” thay vì “hát”). Với một bài thơ viết từ trong đau khổ và theo ông suốt cuộc đời, tôi tin ông khó quên, không chỉ lời thơ, mà cả trạng thái đau đớn yêu thương đầy tiếc nhớ ấy.
Họa chăng không loại bỏ trường hợp là chúng ta đã chép sai hoặc thay đổi để hợp với thể thơ, thể nhạc mình yêu thích. Vì thế dẫn đến nhiều dị bản cũng như đã có nhiều nhạc sĩ phổ thơ của ông một cách khác nhau mà thôi. So sánh với bản của công ty Vitek (

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

) bài thơ anh Nguyễn Minh Hùng đăng trên mạng vanchuongviet, có thiếu một dòng (ghi trong ngoặc)

Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
(Những đồi hoa sim)
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Tôi cũng rất tâm đắc bài viết của anh Nguyễn Minh Hùng về những phân tách tình cảnh và sự rung động của người yêu bài thơ. Trước 1975, ở miền Nam bài “Màu tím hoa sim” được đưa vào chương trình học bậc trung học lớp đệ nhị (lớp 11) trong chương về thơ lãng mạng, như Vũ Đức Sao Biển đã đề cập. Thế hệ thanh niên thời đấy đều tiếp cận với bài thơ cũng như hoàn cảnh của Hữu Loan trong giai đoạn Nhân Văn Giai Phẩm.
Nhạc sĩ và nhà văn nhà thơ Vũ Đức Sao Biển, đầu năm 1997 viết một bài tựa đề “Một Đoạn Biên Tập Trong “Màu Tím Hoa Sim”, nói về một bản chép tay của nhà thơ Hữu Loan tặng cho cô Phương tại Đà Nẵng vào tháng 12, 1989 với lời đề tặng “Chép tặng cô Phuơng một tâm hồn, một vấn đề làm mất ngủ những luơng tri.” Bài “Màu Tím Hoa Sim” mà Vũ Đức Sao Biển ghi lại cũng giống như bản anh Trịnh Hưng và tôi có, chỉ thiếu 4 dòng cuối.
Một người bạn văn cho biết bản chị chép tay tặng nhau thời còn nhỏ ở miền Nam thiếu nhiều so với bản của Hữu Loan cho tôi. Dẫu vậy, Màu Tím Hoa Sim là môt bức tranh đẹp mơ màng, mang lại nhiều cảm xúc khác nhau, nhưng đại đa số người Việt đều có suy nghĩ và tình cảm nhất định đối với một số đề tài/nhân vật nhất định. Tôi tin tưởng Hữu Loan ở trong trường hợp này.
Đầu năm 1988, lúc tôi về Saigon, được gặp giáo sư Lê Văn Hảo. Qua một người bạn ở Úc, ông cho biết nhà thơ Hữu Loan đang có mặt ở Saigon tại nhà một người bạn và rủ tôi tới thăm. Thời gian ấy tôi còn phụ trách tờ báo Đất Nước của Hội người Việt Nam ở Úc. Hôm ấy chúng tôi gặp nhà thơ Hữu Loan cùng một số anh chị em nghệ sĩ. Tôi nhớ, họa sĩ Đỗ Quang Em đang phác họa bằng bút chì chân dung của nhà thơ Hữu Loan. Gặp tác giả của những bài thơ nổi tiếng trong thời kháng chiến chống Pháp như “Đèo Cả”, “Yên Mô “, Hoa Lúa”, “Màu Tím Hoa Sim”… là một vinh dự. Tôi thật xúc động lẫn cảm phục về tài năng và cuộc đời đầy gian truân của nhà thơ mà thế hệ chúng tôi đều biết. Hôm đó Hữu Loan đã viết trên mấy tờ giấy vẽ của hoạ sĩ Đỗ Quang Em bài thơ “Màu tím hoa sim” đề tặng kiều bào Úc. Toàn bài thơ ấy và lời ghi chép của ông, tôi đã đăng trong báo Đất Nước tháng 4, 1988.

Điều nhân bản trong Màu Tím Hoa Sim, dù đau xót trong bi cảnh trớ trêu, Hữu Loan không một lời oán hận định mệnh oái oăm. Ông lặng lẽ trút vào thơ nỗi đau đành đoạn. Biến nỗi đau của riêng mình thành nỗi đau chung của những người trai thời ly loạn. Nỗi đau ấy rất thật đến nỗi người yêu thơ ông cứ tưởng mình cũng đang mất người thân. Có ai ngờ được ngày vui nhất của cuộc đời con gái chỉ có mỗi bình hoa, nàng không đòi may áo cưới, mặc dầu thuộc gia đình khá giả. “Chiếc bình hoa ngày cưới” sau đó được đặt ngay cạnh mộ người vợ trẻ, Ở chiến khu, được tin vợ mất, ông trở về làng quê, chỉ còn lại bình hoa. Bình hoa ấy ngày nay ông vẫn giữ trên bàn thờ. “Em ơi, giây phút cuối cùng không được nghe em nói, không được trông nhau một lần” . Ông và mẹ nàng cùng khóc. Những giọt nước mắt muộn màng, không xua nổi bóng tối vây quanh nấm mộ.
Trước khi lấy cô Lê Đỗ thị Ninh, Hữu Loan có dạy kèm cô Ninh và được gia đình ông bà Lê Hữu Kỳ yêu mến như con ruột. Vì thế tình cảm ban đầu với nàng như ngừơi anh với em gái “… yêu nàng như tình yêu em gái”.
Trong ba người anh của vợ ông, thì người anh cả, Lê Đỗ Khôi, mất trong trận đánh ác liệt gần đồi Him Lam ở chiến trường Điện Biên Phủ. Người anh trai thứ hai, Lê Đỗ Nguyên, cũng tham gia trong trận đánh Điện Biên và sau này chính là trung tướng Phạm Hồng Cư, và người anh thứ ba Lê Đỗ An có tham gia kháng chiến nhưng không phải bộ đội tham dự trận đánh Điện Biên. Từ chiến trường, hai ông Khôi và ông Nguyên nhận được tin em gái mất qua một người bạn, trước khi biết tin em lấy chồng. Hai ông nén buồn tiếp tục tham gia chiến dịch và hẹn sẽ gặp nhau lại lúc hoà bình. Nhưng ông Khôi cũng một đi không trở lại, ông cũng nằm lại đâu đó nơi rừng núi Điện Biên.
Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan, bài thơ nuôi sống nhiều thế hệ, nhờ ghi lại không chỉ nỗi đau khôn xiết của tử biệt sinh ly, còn vẽ lại hình ảnh đẹp của những ngưòi trai lao mình vào lửa đạn, súng trong tay và hình ảnh người yêu tràn ngập trong tim.

Phụ lục
Bài Màu Tím Hoa Sim Hữu Loan chép tặng kiều báo Úc (2/1988)

Màu tím hoa sim
(Khóc vợ Lê Đỗ-thị-Ninh)

Nàng có 3 người anh
đi bộ đội
những em nàng
có em chưa biết nói
Khi tóc nàng
xanh
xanh

* * *
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
yêu nàng
như tình yêu em gái
ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giầy đinh bết
bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
cưới nhau xong là đi

* * *
Từ chiến khu xa
nhớ về ái ngại
lấy chồng đời chiến chinh
mấy người đi trở lại
nhở khi mình không về
thì thương người
vợ chờ
bé bỏng
chiều quê
* * *
Nhưng không chết
người trai khói lửa
mà chết người
gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
má tôi ngồi bên mộ con
đầy bóng tối
chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương tàn lạnh
vây quanh
* * *
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi ! giây phút cuối
không được nghe nhau nói
Không được trông nhau một lần
* * *
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa đèn khuya
bóng nhỏ
nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa … !
* * *
Một chiều rừng mưa
ba người anh,
từ chiến trường Đông Bắc
biết tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về
rờn rợn nước sông
đứa em nhỏ nhớn lên
ngỡ ngàng
nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng
chân mộ chí

* * *

Chiều hành quân
qua những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
những đồi hoa sim
dài
trong chiều không hết
màu tím hoa sim
tím
chiều hoang biền biệt

* * *
Có ai hát như từ chiều
ca dao nào
xưa xa
“Áo anh sứt chỉ đường tà
vợ anh chưa có
mẹ già chưa khâu”
* * *
Ai hát vô tình hay
ác ý với nhau
chiều hoang tím
có chiều hoang biết
chiều hoang tím
tím thêm màu da diết
nhìn áo rách vai
tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà,
vợ anh mất sớm..
* * *
Màu tím hoa sim
tím tình tang
lệ rớm…

* * *

Ráng vàng ma và
rừng rúc điệu quân hành
vang vọng chập chờn
theo bóng những binh đoàn
biền biệt hành binh
vào thăm thẳm
chiều hoang màu tím

* * *
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ
dù lâu …
(Hữu Loan 1949)

Sửa bởi pth77: 09/07/2014 - 03:06


Thanked by 3 Members:





Similar Topics Collapse

16 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 16 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |