Jump to content

Advertisements




NHỮNG CÂU CHUYỆN THƯỜNG NGÀY


256 replies to this topic

#61 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 26/04/2014 - 12:17

Ngũ Hành Nguyên Thủy Trong Tranh Ngũ Hổ Đông Hồ: Phục Dựng Từ Tín Ngưỡng Dân Gian

Tranh Đông Hồ là một dòng tranh khác trong 3 dòng tranh dân gian của Việt Nam. Và cũng giống như tranh Ngũ Hổ trong dòng tranh Hàng Trống, Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy cũng đã được mã hóa thành những bức tranh Ngũ Hổ và giấu kín sau vỏ bọc tín ngưỡng của dòng tranh Đông Hồ.
Những bức tranh Ngũ Hổ Đông Hồ thoạt nhìn vào sẽ thấy hình ảnh và màu sắc của nó rất gần gũi với Tranh Ngũ Hổ Hàng Trống (dĩ nhiên là ở đây chỉ muốn nói những gì liên quan tới lý thuyết ngũ hành). Nhưng khi chú ý quan sát thì sẽ thấy dường như chúng không được xếp đặt theo một trật tự nào của lý thuyết ngũ hành, dầu là Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập hay là Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy. Và đó là lý do mà Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã đi đến kết luận: “Sự sai lệch về vị trí màu sắc tạo nên Ngũ hành tương sinh ngược chiều kim đồng hồ.” Với NVTA thì “tương sinh” có nghĩa là qui luật tương sinh theo Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập, như cho thấy trong tranh Ngũ Hổ bản A bên dưới.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tuy nhiên, bên sau “sự sai lệch về vị trí màu sắc” trong hình P1 đó thật ra là một sự sai lệch có chủ ý do mã hóa để che giâu một lý thuyết tinh vi. Và cách mã hóa cũng rất tinh vi, hơn cả cách mã hóa của tranh Ngũ Hổ Hàng Trống. Điều này đúng với cả bức tranh Ngũ Hổ Đông Hồ bản B trong hình P2 bên dưới.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Lý thuyết ngũ hành ẩn trong hai bức tranh Ngũ Hổ Đông Hồ đã được mã hóa hai lớp. Với lớp mã hóa thứ nhất, cũng giống như cách mã hóa của tranh Ngũ Hổ Hàng Trống, qui luật tương sinh và qui luật tương khắc được “biểu hình hóa” với khái niệm “thân thiện” và “chống đối” trong tương quan tư thế của 4 hổ Kim, Mộc, Thủy, Hỏa cộng với con hổ to hành Thổ ở trung ương làm nên toàn thể bố cục của ngũ hành. Với lớp mã hóa thứ hai, khái niệm vận hành hai chiều được “biểu động hóa” qua cấu trúc \__/ (hình chữ U bẹt) của hai gương phản chiếu với bức tranh nền ở giữa. Với lớp mã hóa thứ hai này, dầu có nhận ra hay không nhận ra qui luật tương sinh và qui luật tương khắc đã được “biểu hình hóa” trong lớp mã hoá thứ nhất, thì qui luật sinh khắc hai chiều cũng sẽ phải hiển lộ với khái niệm vận hành hai chiều đã được “biểu động hóa” ở lớp mã hóa thứ hai một khi mà người giải mã đã khám phá ra đúng cái chìa khoá dùng để giải mã bức tranh. Biểu hình hóa là một phương pháp mã hóa phải nhờ vào chiếc chìa khóa “hình ảnh biểu thị” để giải mã. Biểu động hóa là phương pháp mã hóa phải nhờ vào chiếc chìa khoá “động tác biểu kiến” để giải mã.
Kết quả gỉải mã bức tranh Ngũ Hổ Đông Hồ bản A cho thấy lý thuyết ngũ hành ẩn bên trong tranh chính là Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy, như cho thấy trong hình P3.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Thêm vào đó, kết quả giải mã bức tranh Ngũ Hổ Đông Hồ bản B, hình P4, cho thấy ẩn bên trong tranh là qui luật khắc hai chiều của Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Qui luật khắc hai chiều này là qui luật tương khắc đúng nghĩa và chỉ có hai cặp hành tương khắc Thủy-Hỏa và Mộc-Kim, như cho thấy trong hình P5, là dấu ấn đặc thù của Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tranh Ngũ Hổ Đông Hồ bản B đã giúp để xác định một sự thật là những bức tranh Ngũ Hổ Đông Hồ là được “chủ ý mã hóa” và lý thuyết ngũ hành ẩn giấu trong tranh Ngũ Hổ Đông Hồ đích thực là Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy, không thể ngộ nhận với hoặc mạo nhận bởi Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập.
Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy được mã hóa và giấu kín trong tranh Ngũ Hổ Hàng Trống lẫn tranh Ngũ Hổ Đông Hồ và được che đậy dưới vỏ bọc tín ngưỡng nhân gian là “một sự thật” không thể lầm lẫn và không thể hoài nghi. Chủ ý mã hóa và sự che dấu đã có tính cách hệ thống. Và điều này có một ý nghĩa rất lớn đối với cội nguồn văn hóa Việt.
Công trình Giải Mã Bí Ẩn Trong Tranh Ngũ Hổ Đông Hồ của HHQ thêm một lần nữa cho thấy phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hoá phi vật thể có một giá trị nhất định và chính sản phẩm được phục dựng từ phương pháp giải mã cũng có một giá trị nhất định.

Ngũ Hành Nguyên Thủy Trong Môn Tử Vi: Phục Dựng Từ Lý Số

Trong bài Bí Ẩn Tam Hợp Kim Cục Tỵ Dậu Sửu Nguyễn Vũ Tuấn Anh cũng đã viết:
Thân – Tý – Thìn là tam hợp Thủy cục. Trong đó: Thân (Kim) sinh Tý (Thủy) và tuyệt ở Thìn (Thổ). Dần – Ngọ – Tuất là tam hợp Hỏa cục. Trong đó: Dần (Mộc) sinh Ngọ (Hỏa) và tuyệt ở Tuất (Thổ). Hợi – Mẹo – Mùi là tam hợp Mộc cục. Trong đó: Hợi (Thủy) sinh Mẹo (Mộc) và tuyệt ở Mùi (Thổ). Tỵ – Dậu – Sửu là tam hợp Kim cục. Khi tìm hiểu về các phương pháp ứng dụng của thuyết Âm dương Ngũ hành liên quan đến Tam hợp cục, nguời ta chỉ có thể lý giải quy tắc tam hợp như trên. Riêng tam hợp Kim cục Tỵ – Dậu – Sửu là sự bí ẩn không lý giải được cũng với thời gian tính bằng thiên niên kỷ; bởi vì Tỵ (Âm Hỏa) tại sao lại có thể sinh Dậu (Âm Kim)? Bởi vậy người ta cũng phải học thuộc lòng các tam hợp cục như một tiên đề khi ứng dụng. Đây cũng là một bằng chứng nữa chứng tỏ sự thất truyền và sai lệch của một hệ thống lý thuyết căn bản.”[4]
Cái mà học giả NVTA gọi là “một bí ẩn không lý giải được” thiệt đúng là không thể lý giải được bằng Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập. Bởi vì, nếu căn cứ theo hai qui luật sinh khắc của Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập thì Tỵ Hỏa làm sao có thể sinh Dậu Kim được để mà gọi là tam hợp. Với Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập, dầu cho học giả và danh sư lý số có cố gắng vận dụng bất cứ cách nào đi nữa để giải thích vướng mắc nơi Tam Hợp Kim Cục thì sự thật Kim Cục vẫn là “cam” so với ba tam hợp cục kia thuộc về “bưởi.” Hay nói một cách khác là những lý giải lấp liếm đó chỉ đủ làm lòa mắt một số người chớ không làm sáng tỏ được nghi vấn về cấu trúc của tam hợp cục.
Nhưng cái gút mắc không thể giải thích được bằng Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập lại là dấu ấn đặc thù của Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy của Việt Dịch. Và dĩ nhiên là nó có khả năng giải thích một cách hợp lý, ngay thẳng và trọn vẹn, như cho thấy trong hình H34. Duy nhất chỉ có Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy mới có thể giải thích được vì sau Tỵ Hỏa lại sinh cho Dậu Kim trong Tam Hợp Kim Cục. Và duy nhất chỉ có Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy mới có thể chứng minh cấu trúc của toàn bộ 4 Tam Hợp Cục là một tổng thể chặt chẽ và có hệ thống; trong đó không có chuyện một “cam” trộn chung với ba “bưởi” như là khi nhìn nó dưới lăng kính của Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Cái mà NVTA vừa đề cập chỉ là một thí dụ cụ thể trong số rất nhiều vướng mắc nằm trong bộ môn Tử Vi nói riêng và lý số nói chung. Chúng ta sẽ không tốn thêm thời gian trong bài viết này để lập lại những gì đã được giải thích cặn kẻ rồi. Những ai quan tâm có thể tự mình tham khảo thêm trong cuốn Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Tử Vi của Hà Hưng Quốc. Ở đây chúng ta chỉ muốn tóm gọn những khám phá trong công trình giải mã đó với một câu thôi: Chưa bao giờ Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập đã có thể giải thích một cách “ngay thẳng và hợp lý” những vướng mắc trong Tam Hợp Cục, Tử Vi Cục, Vòng Tràng Sinh, Lục Xung, Lục Hợp, Lục Hại, và ngay cả trên chính cái cấu trúc 12 cung của Cung Bàn Tử Vi.
Không thể là bởi vì bộ môn Tử Vi không được kiến tạo trên nền tảng của Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập. Không thể là bởi vì người Tàu không phải là chủ nhân đích thực của nó.
Bộ môn Tử Vi đã được kiến tạo trên nền tảng của Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy và của Bảng Lục Thập Hoa Giáp. Chúng là sản phẩm văn hóa phi vật thể do tiền nhân Việt trước tác. Và chúng ta không nên ngạc nhiên về điều này, vì cho đến bước giải trình này thì chúng ta đã kinh qua rất nhiều bằng chứng rồi.
Có thể nói Tử Vi là một bộ môn lý số mà trong đó chúng ta nhìn thấy sự thất bại thảm hại của Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập một cách rõ rệt, đầy dẫy và có tính cách hệ thống. Và như HHQ đã viết trong phần mở đầu của cuốn Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Tử Vi:
“Những khám phá, bắt nguồn từ những nghi vấn đã tồn tại trong nhiều năm, cho thấy tất cả đều giống nhau ở một điểm: sự thất bại của lý thuyết ngũ hành phổ cập. Nói thất bại là vì lý thuyết ngũ hành phổ cập không có khả năng giải thích một cách thỏa đáng và nghiêm túc những nghi vấn đó. Nếu những đối tượng đã được xét nghiệm không liên hệ nhau thì kết luận có lẽ chỉ là vậy. Tuy nhiên, vì tất cả đều là thành phần trong tổng thể cơ sở hạ tầng của bộ môn Tử Vi cho nên chúng ta còn có thêm một kết luận nữa. Đó là, lý thuyết ngũ hành trong bộ môn Tử Vi hoàn toàn khác với lý thuyết ngũ hành phổ cập. Và cũng từ những bằng chứng có được, chúng ta nhận ra là lý thuyết ngũ hành trong bộ môn Tử Vi không hai không khác với lý thuyết ngũ hành nguyên thủy của Việt Dịch.
Với sự phục dựng chân tướng của Lý Ngũ Hành Nguyên Thủy, Ngũ Hành Nạp Âm và Hà Đồ Độ Số trong Bảng Lục Thập Hoa Giáp xuyên qua công trình Giải Mã Những Bí Ẩn Trong Tử Vi của HHQ, thêm một lần nữa chúng ta thấy là phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hoá phi vật thể có một giá trị nhất định và chính sản phẩm được phục dựng từ phương pháp giải mã cũng có một giá trị nhất định.

Tầm Quan Trọng Của Những Công Trình Giải Mã Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể Để Phục Dựng Sản Phẩm Văn Hóa Phi Vật Thể

Tất cả những công trình phục dựng được trình bày trên là những nỗ lực tự phát của mỗi cá nhân thực hiện công trình. Nói một cách khác, không có một công trình sư nào hoặc một tổ chức nào đứng ra điều hợp những nỗ lực này cả. Mỗi sản phẩm văn hóa phi vật thể phục dựng được từ một công trình tự phát trong số những công trình tự phát đó có thể nói là rời rạc và lẽ loi đến tội nghiệp trong thế giới của cá nhân thực hiện công trình, ít ra là trước khi có bài viết này. Nhưng rồi tất cả những sản phẩm phục dựng đó đã tình cờ gặp nhau trên con đường tìm lại diện mạo và cội nguồn đích thực của nền văn hóa Việt. Tình cờ mà không tình cờ bởi vì có một lý do làm cho chúng trước sau gì cũng phải gặp nhau. Lý do đó chính là: SỰ THẬT VỀ CỘI NGUỒN VĂN HÓA VIỆT.
Từ sản phẩm phi vật thể Tiên Thiên Bát Quái Đồ của Nguyễn Thiếu Dũng phục dựng từ công trình giải mã huyền sử Lạc Long Quân và Âu Cơ; tới Hậu Thiên Bát Quái Đồ của Trần Quang Bình phục dựng từ công trình giải mã huyền thoại Nữ Oa lấy đá vá trời; tới Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái, Hà Đồ, Ngũ Hành Đồ, Việt Dịch Đồ, Lý Thuyết Ngũ Hành trong Việt Dịch của Hà Hưng Quốc phục dựng từ công trình giải mã 67 lời khẩu quyết lưu truyền trong dân gian; tới Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy phục dựng từ công trình giải mã bức tranh mộc bản Ngũ Hổ Hàng Trống trong tín ngưỡng nhân gian; tới Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thuỷ và Thông Tin Cội Nguồn Trước Tác phục dựng từ công trình giải mã Bảng Lục Thập Hoa Giáp và qui luật Ngũ Hành Nạp Âm trong lãnh vực lý số; tới Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy phục dựng từ bộ môn Tử Vi của lý số (và có lẽ còn nhiều nữa đang chờ đợi được khám phá hoặc chưa được đề cập đến ở đây) . . . tất cả đã liên kết nhau một cách chặt chẽ và có hệ thống như cho thấy trong bức tranh tổng thể H35. Chặt chẽ và có hệ thống là bởi vì vốn dĩ chúng là một phần của một hệ thống văn hóa. Hệ thống văn hóa đó là của Việt xưa, là nền văn hóa của một thời huyền vĩ (nói theo ngôn ngữ của NVTA) khi mà Việt còn làm chủ vùng đất mà ngày nay được gọi là Trung Hoa.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Bức tranh tổng thể H35 tuy là cho chúng ta thấy được sự liên hệ mật thiết mang tính hệ thống giữa những sản phẩm phục dựng đã được đề cập trong bài viết này nhưng vẫn chưa làm nổi bật lên được sự liên hệ mật thiết theo chiều dọc của lịch sử văn hóa. Vì vậy, có lẽ chúng ta cần nhìn ở một góc độ khác để thấy cái gọi là hệ thống văn hóa của Việt xưa trên vùng đất Trung Hoa ngày nay. Và chúng ta sẽ lần theo dấu chân lịch sử của lý thuyết ngũ hành để tái hiện một phần sự thật đó.
Mãi cho tới bây giờ căn bản của Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập vẫn là gói gọn trong “5 loại vật chất cộng với hai quy luật sinh khắc.” Trong suốt chiều dài tính bằng thiên niên kỷ, từ khi còn là một khái niệm đơn sơ cho tới khi trở thành một lý thuyết đạt tới tầm cao, có thể nói mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập là một mạch lý thuyết của Tàu hoàn toàn khác với mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy của Việt. Lịch sử phát triển của mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập đã được giải trình trong cuốn Giải Mã Bí Ẩn Trong Tranh Ngũ Hổ Hàng Trống của HHQ.
Truy ngược lại dòng chảy của thời gian, từ bức tranh Ngũ Hổ Hàng Trống của Việt Nam vào thời điểm hiện tại, ngược về thời điểm của bộ môn Tử Vi ra đời trên đất Trung Hoa, rồi ngược về thời điểm của Ngũ Hành Nạp Âm và Lục Thập Hoa Giáp ra đời cũng trên đất Trung Hoa, chúng ta có thể thấy rõ mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy. Và, như đã nói, nó hoàn toàn khác với mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập.
Mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy không dừng lại ở thời điểm ra đời của Ngũ Hành Nạp Âm và Lục Thập Hoa Giáp. Bộ môn Tử Vi lẫn Ngũ Hành Nạp Âm và Bảng Lục Thập Hoa Giáp đều có nguồn gốc thiên văn và lịch pháp nên nó đòi hỏi người sáng tạo ra chúng phải có một kiến thức uyên thâm về thiên văn và lịch pháp. Chính trong Tử Vi Kinh nói Trần Đoàn tiên sinh cũng xác nhận “Bần đạo không phải là người đặt ra khoa này. Nhân người trước đã nói về Tử-vi, bần đạo nhận thấy Dịch-lý, Hình tượng Thiên văn, Lịch-số, Địa-lý đều có uyên nguyên với nhau, mới tước bỏ những rườm rà của người xưa, họp thành khoa Tử-vi mà thần viết trong tập này.” Ngay cả tranh Ngũ Hổ Hàng Trống cũng cho thấy sự quan trọng của yếu tố thiên văn và lịch pháp. Như vậy, nối kết mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy vào mạch thiên văn lịch số để tiếp tục truy ngược về nguồn là một điều tự nhiên hợp lý.
Theo GS Nguyễn Hữu Quang,[5] Trung Quốc có lịch rất sớm. Khởi đầu là Lịch Can Chi rất phôi thai vào thời Hoàng Đế (lên ngôi năm Giáp Tí 2697 TCN), căn cứ theo các bản đất sét nung còn lưu trữ tại Đại Học Yên Kinh. Sau đó âm dương hợp lịch ra đời vào thời vua Nghiêu (lên ngôi năm Giáp Thìn 2357 TCN), căn cứ theo Kinh Thư trong thiên Nghiêu Điễn. Lịch này được phỏng theo Qui Lịch của vua Hùng Vương thứ 3, tức Hùng Lân Lang, căn cứ vào chi tiết trong Thuật Dị Ký 述異記 của sách Thông-chí 通志 (2AL, Q II, Ngũ Đế Kỷ Đệ Nhị, Chí #35, tr. 224) của sử gia Trịnh Tiều (1104-1162). Sách chép:
Đào Đường chi thế, Việt Thường quốc hiến thiên tuế thần quy, bối thượng hữu văn, giai khoa đẩu thư, ký khai tịch dĩ lai, Đế mệnh lục chi, vi chi Quy-lịch. 陶唐之世, 越裳國獻千歲神龜,背上有文,皆科斗書,記開闢以來,帝命錄之,謂之龜歷。
Dịch: “Đời Đào Đường, nước Việt Thường dâng thần quy ngàn tuổi, trên lưng có văn, đều là chữ khoa-đẩu [chữ nòng nọc], chép việc từ thuở khai thiên tịch-địa đến bấy giờ, Đế sai chép và gọi là Lịch Rùa.”
Sách Cương Mục Tiền Biên của Kim Lý Tường cũng có chép rằng, “năm 2361 trước Công nguyên, tức năm Mậu Thân thứ 5 đời Ðường Nghiêu Sứ thần Việt Thường Thị sang chầu dâng rùa thần“. Theo Kim Lý Tường con rùa gọi là thần quy vì rùa to hơn 4 thước ta [khoảng 1.20 mét], trên lưng có đẩu văn, ghi tổng quát lịch sử cấu tạo vũ trụ và nhân loại từ thuở ban đầu cho tới đời vua Ðường Nghiêu.[6]
Giáo sĩ L.Wieger, một nhà thông thái dòng Tên, cũng ghi nhận “người Tầu đã dựa vào cống phẩm rùa thần mà làm ra Qui Lịch” ( L.Wieger, Hisfoire des croyances religieuses et des opinions philosophiques en Chine, depnis l’ origine jusqu à nos jonrs./ Lịch Sử Tín Ngưỡng Và Quan Điểm Triết Học ở Trung Hoa, Từ Khởi Thủy Cho Đến Thời Đại Chúng Ta, trích dẫn bởi TS. Thái Văn Kiểm).[7]
Cũng trong Kinh Thư, về việc hiến thần qui, “Ðế Nghiêu nhà Ðường sai Hy Thúc giữ việc này suy trác khí hậu ở Nam Giao, điều hòa mọi việc thời tiết sớm muộn về mùa hè… Suy trác cẩn thận để tháng trong Hạ được đúng với thời tiết. Lại phải xem đến việc thay đổi của người và trời đất.” (Lịch Với Lịch Sử Kinh Tế Chính Trị Và Chiến Tranh của Nguyễn Thường, Nghiên Cứu Lịch Sử số 3 (262) tháng 5 & 6-1992, tr.51-59).[8]

Như vậy, bên cạnh mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập của Tàu đã tồn tại mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy của Việt dọc chiều dài lịch sử từ thời điểm hiện tại trên đất nước Việt Nam ngày nay ngược về tới thời điểm tối thiểu là 4373 năm trước trên đất nước Việt xưa có tên là Trung Hoa ngày nay. Và hình H36 ngay phía dưới cho chúng ta thấy rõ hơn về sự tồn tại đồng thời đó của hai mạch lý thuyết ngũ hành này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nếu chú ý một chút, chúng ta sẽ thấy mãi tới đời Khổng Trọng Thư thời nhà Hán thì Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập chỉ mới vừa thành hình và ứng dụng nhiều trong khoa Tử Bình ra đời vào thời nhà Đường (618 – 907) nhưng có lẽ tới thời nhà Tống (960 – 1127) mới đạt được tầm cao của lý thuyết với sự ra đời của Uyên Hải Tử Bình, trong khi đó thì Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy đã đạt tới tầm cao từ thời cuối nhà Châu (550 – 450 TCN), căn cứ vào phương pháp Ngũ Hành Nạp Âm cho 60 hoa giáp để thiết lập Bảng Lục Thập Hoa Giáp. Nếu kết hợp với thông tin về âm dương hợp lịch để suy diễn thì Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy có lẽ cũng đã đạt tới tầm cao vào thời điểm của Hùng Quốc Vương Lân Lang và lúc đó chắc chắn là kiến thức về thiên văn của người Hán chưa thể sánh với dân Việt Thường.
Hai mạch lý thuyết cùng tồn tại trong một thời gian dài nhưng mãi cho tới ngày nay có lẽ đây là lần đầu tiên mà sự hiện hữu của hai mạch lý thuyết ngũ hành mới được nói tới trong tác phẩm Giải Mã Tranh Ngũ Hổ Hàng Trống. Có lẽ là vì Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy đã được mã hóa và che giấu từ nhiều năm qua, như những bằng chứng cho thấy. Cuối cùng thì chúng ta phải giải thích thế nào về nguồn gốc tạo ra sự tồn tại đồng thời của hai dòng lý thuyết ngũ hành trong hai nền văn hóa Trung Hoa và Việt Nam? Theo HHQ thì đáp án nằm ở trên lưng con rùa hiến tặng vua Nghiêu năm xưa, chứng thực bằng di sản văn hóa vật thể Tàu là sử liệu Trung Hoa và di sản văn hoá phi vật thể Việt là câu chuyện huyền thoại Nữ Oa Lấy Đá Vá Trời. Đây là một gút kết nối của hai mạch văn hóa và ở ngay đầu nguồn của mạch văn hóa Tàu.
Câu chuyện tặng rùa thần là một sự kiện lịch sử rất quan trọng. Nhưng trước khi trình bày nó quan trọng như thế nào thì trước hết chúng ta cần xác định tính chất khả tín của câu chuyện đã. Bởi vì, nếu câu chuyện không khả tín thì không có gì đáng để nói tiếp. Nó thực sự là con rùa lớn hay là con đồi mồi, một sản vật từ vùng biển của Việt Thường? Chúng ta khó có thể xác định. Nhưng dù là đồi mồi hay là rùa thì kích cỡ 1.2 mét không phải là chuyện khó tin. Rùa ngàn tuổi cũng không phải là chuyện lạ. Ngàn tuổi chỉ là một cách nói đoán rằng con rùa có tuổi rất cao nhưng không ai biết chắc nó có từ khi nào. Vả lại, kích cỡ và tuổi thọ của rùa cũng đã được khoa học xác nhận. Xác rùa hồ Hoàn Gươm hiện đang được giữ tại đền Ngọc Sơn còn lớn hơn và có tuổi thọ cũng gần một ngàn năm. Tại sao gọi nó là thần qui? Lớn vóc và sống lâu chưa đủ để gọi là thần, chỉ đáng các chữ đại, thái và thọ mà thôi, do đó giải thích của Kim Lý Tường không thuyết phục. Có hai giải thích khác. Một, cho nó là thần là vì nó có cùng “phả hệ” với Thần Kim Qui trong huyền sử Việt. Hai, cho nó là thần vì trên lưng nó “chép việc từ thuở khai thiên tịch địa đến giờ,” những việc vô cùng thần kỳ, vô cùng cao siêu. So ra có lẽ là giải thích thứ hai hợp lý hơn cả. Với diện tích bề mặt trên lưng của “thần qui” liệu là có thể “chép việc từ thuở khai thiên tịch-địa đến bấy giờ”? Chắc chắn là được. Bao nhiêu diện tích đó dư chỗ để chép xuống vài mô hình có khả năng mô tả sự vận hành của trời đất vạn vật từ thuở khai thiên tịch địa, thí dụ như hai mô hình Tiên Thiên Đồ cộng với Hậu Thiên Đồ đã được phục dựng từ huyền thoại Nữ Oa Lấy Đá Vá Trời hoặc Việt Dịch Đồ của Việt Dịch phục dựng từ 67 lời khẩu quyết, và còn dư chỗ cho một số ghi chú về những mô hình đó. Tóm lại, điều mà chúng ta muốn xác định ở đây là nội dung của câu chuyện hoàn toàn hợp lý và rất đáng tin.
Sự kiện lịch sử này được HHQ cho là rất quan trọng vì nhiều lý do. Thứ nhất, chuyện tặng rùa cho vua Nghiêu là một động thái chuyển giao khoa học [hiểu biết về thiên văn, mùa vụ, vân vân] và kỹ thuật [cách làm qui lịch] có tầm chiến lược, dầu là vua quan Việt Thường có ý thức về hệ quả của việc làm này hay không. Việc chuyển giao kiến thức và kỹ thuật ngày đó đã có hệ quả ra sao có lẽ sử gia của chúng ta và của Trung Quốc vẫn chưa có dịp nhìn lại và đánh giá. Thứ hai, từ những thông tin trong câu chuyện tặng thần qui này, chúng ta có thể suy luận ra là văn hóa Việt Thường vào thời điểm đó đã ở một tầm cao, ít nhất là về mặt chữ viết, thiên văn, lịch pháp, lý số và nông nghiệp. Chỉ ở tầm cao đó mới có đủ khả năng để sáng tạo ra những sản phẩm như Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy, Ngũ Hành Nạp Âm, Bảng Lục Thập Hoa Giáp, Tử Vi và còn những thứ khác nữa chưa nói tới. Thứ ba, từ những thông tin trong câu chuyện tặng thần qui này, nó cho chúng ta thấy là vào thời điểm đó đã có một luồng văn hóa ở tận phương Nam đi ngược lên phương Bắc “khai hóa” dân bản địa phương Bắc, ít ra là trong lãnh vực thiên văn, lịch pháp, lý số và canh nông. Và, căn cứ vào câu chuyện này thì sản phẩm trí tuệ của phương Nam đã đi ngược lên phương Bắc thông qua kênh ngoại giao. Đồng thời phương Bắc đặc biệt quan tâm và tiếp thu sản phẩm trí tuệ của phương Nam. Nếu không đặc biệt quan tâm thì sẽ không có chuyện “Đế sai chép” và sai Hy Thúc đi nghiên cứu và học hỏi tận nam giao [phương Nam].
Thực tình thì chúng ta không biết chính xác là trên lưng rùa mà Việt Thường tặng cho vua Nghiêu trên 4373 năm trước đã ghi chép những gì. Nhưng qua sự hiện hữu đồng thời của hai mạch lý thuyết suốt một thời gian dài và qua sự một sự kiện lịch sử làm nên một gút nối chung, được chứng thực bởi lịch sử Tàu và bởi huyền thoại Việt, chúng ta có thể quyết đoán là trong văn bản lạc thư đó đã chứa một mô hình Đồ Dịch tương đương với Việt Dịch Đồ và những ghi chú liên quan. Và như thế thì chuyện tặng rùa đó cũng có nghĩa là Việt Thường đã giao vào tay người Hoa bản sơ họa của Bát Quái, Hà Đồ, Âm Dương, Ngũ Hành và Dịch Lý. Bản sơ họa đó đã có một ảnh hưởng nhất định đối với nền văn hóa Trung Hoa mà thí dụ điển hình là người Hán đã làm lịch âm dương phỏng theo qui lịch của vua Hùng, một ảnh hưởng trực tiếp đầu tiên có sử liệu xác nhận. Và có lẽ Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập của Tàu là một sản phẩm khác được phỏng tác từ bản sơ họa đó.
Nói một cách khác ngắn gọn về những điểm vừa giải trình: (1) chúng ta thấy lồ lộ dấu ấn Việt trong cội nguồn văn hóa Trung Hoa và (2) chúng ta thấy lồ lộ cái gọi là hệ thống văn hóa của Việt xưa trên vùng đất Trung Hoa ngày nay. Nói như vậy cũng có nghĩa là nói văn hóa Việt xưa là mẹ đẻ của nền văn hóa Trung Hoa chứ không phải ngược lại như nhiều người đã lầm tưởng.
Nếu những sản phẩm được phục dựng từ di sản văn hóa Việt không gặp nhau, không nối kết nhau, không tạo ra tính cách hệ thống và không nằm trong một hệ thống thì có lẽ chúng ta còn có thể phủ nhận giá trị của chúng và coi chúng chỉ là những sản phẩm “nói cho vui” hay “nghe xong rồi bỏ.” Nhưng một khi chúng đã gặp nhau, đã nối kết nhau, đã cho thấy tính cách hệ thống và nằm trong một hệ thống thì chúng ta không thể phủ nhận được giá trị của chúng cũng như phủ nhận giá trị của phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục hồi sản phẩm văn hóa phi vật thể. Mỗi một sản phẩm và tất cả những sản phẩm văn hóa phi vật thể được phục dựng từ di sản văn hóa phi vật thể rõ ràng là đã được mã hóa một cách tinh vi và có hệ thống để có thể gìn giữ và truyền thừa cho tới ngày hôm nay. Và rõ ràng chúng là chứng tích, chứng từ, chứng ngôn, chứng cứ, chứng nhận cho sự thật về cội nguồn đích thực của nền văn hóa Việt.
Nếu di sản văn hóa phi vật thể đã được mã hóa một cách tinh vi và có hệ thống thì phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể một cách tinh vi và có hệ thống để phục dựng lại sản phẩm văn hóa phi vật thể có gì là phi khoa học hoặc không giá trị? Decoding những sản phẩm đã được coded thì sao lại là phi khoa học hoặc không giá trị? Và con đường giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể rồi cho “xuất thổ” nhằm tái hiện lại diện mạo và cội nguồn văn hóa Việt có gì là không đúng? Dưới điều kiện địa dư và lịch sử khắc nghiệt, có khi nó lại là con đường hiệu quả và khôn ngoan hơn hết.
Bạch Thư Trong Mộ Hán Mã Vương Đôi & Trúc Giản Trong Mộ Sở Kinh Môn Quách Điếm: Bằng Chứng Củng Cố Giá Trị Của Sản Phẩm Được Phục Dựng Và Của Phương Pháp Giải Mã Di Sản Văn Hóa Phi Vật Thể
Trong bài Nghiên Cứu Trong Thế Kĩ XX Về Lịch Sử Tư Tường Của Trung Quốc của ông Trương Hải Yến (张海燕), Sở Nghiên Cứu Lịch Sử thuộc Viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc, đăng trong tạp chí Trung Quốc Sử Nghiên Cứu Động Thái (中国史研究动态) số 1/2002, tr. 5-15, do học giả Nguyễn Tấn Cường dịch chú, đã viết:
“‘Ngũ hành’ của Nho gia là trỏ ‘nhân, nghĩa, lễ, trí, thánh.’ Tuân Tử – [313TCN – 238TCN, trong thiên] Phi Thập Nhị Tử, cho rằng học trò của Tử Tư [tức Khổng Cấp, cháu nội của Không Tử] và Mạnh Tử [372TCN - 289TCN] ‘theo thời xưa mà tạo thuyết gọi là ngũ hành.Cái ‘ngũ hành’ này ‘Dương Cạnh (杨倞) đời nhà Đường [618CN - 907CN] chú rằng: ‘Ngũ Hành tức Ngũ Thường, là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín’.”
Vào năm 1973, một ngôi mộ Hán [206TCN - 220CN] tại Mã Vương Đôi được khai quật, người ta tìm thấy trong số bạch thư có quyển Lão Tử giáp bản (bản A) và ở phần sau của quyển sách đó có một thiên giảng về “Nhân, Nghĩa, lễ, Trí, Thánh.” Đầu thiên bị khuyết mất và các học giả đặt tên cho thiên đó là thiên Ngũ Hành.
Rồi năm 1993, người ta lại khai quật một ngôi mộ Sở [1030TCN – 223TCN] tại Kinh Môn Quách Điếm và tìm thấy trong số trúc giản có một thiên giản thư [sách viết trên thẻ] có tên là Ngũ Hành. Nó có nội dung tương tự như thiên Ngũ Hành trong bạch thư tìm được trong ngôi mộ Hán ở Mã Vương Đôi, tức là nói về “nhân, nghĩa, lễ, trí, thánh.”
Theo GS Nguyễn Hữu Quang thì “tác giả của bộ sách này [bạch thư Mã Vương Đôi] không ai khác hơn là Thầy Tử Tư, cháu đích tôn của Đức Khổng Phu Tử và Thế Tử là một nhân vật thời Chiến Quốc mà cho đến hôm nay cũng chưa ai biết được danh tính và lai lịch” (Nguồn: Hán Việt Dịch Sử Lược, Chương 3 – Thiên Văn Lịch Toán).
Từ những thông tin trên chúng ta có thể xác định được một vài điều: (1) Ngũ Thường của Nho Gia thời Chiến Quốc là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh. Đến đời Đường (và có thể sớm hơn) đã biến ra thành Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. (2) Ngũ Hành và Ngũ Thường có sự liên quan mật thiết. Và (3) Ngũ Hành thời Chiến Quốc là mô phỏng theo “thời xưa.” Nói một cách khác, là thuyết Ngũ Hành đã có trước thời Chiến Quốc rất lâu (vì trước rất lâu nên mới gọi là thời xưa).
Ngày hôm nay nếu chúng ta vào Google gỏ “nhân, nghĩa, lễ, trí, thánh” để truy tìm thì chúng ta sẽ được vỏn vẹn 4 kết quả. Trong khi đó nếu gỏ vào “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” thì chúng ta sẽ nhận được 630 ngàn kết quả. Điều này cho thấy hình như ít có người quan tâm đến sự khác biệt giữa Ngũ Thường thời Chiến Quốc so với Ngũ Thường từ đời Đường trở về sau này. Nhưng sự khác biệt này là một phát hiện quan trọng, ít ra là đối với mạch Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy và với nguồn gốc văn hóa Việt.

Quan trọng như thế nào? Trước hết chúng ta hãy nhìn vào hình P6 mô tả sự tương quan giữa Ngũ Thường và Ngũ Hành ở hai thời điểm, thời Chiến Quốc và thời Đường.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín là 5 đặc tính “đồng đẳng” làm nên nhân cách của một mẫu người lý tưởng gọi là “quân tử” trong học thuyết của Nho Gia Phổ Cập từ thời Đường trở về sau. Ngũ Thường Phổ Cập này tương ứng với Lý Thuyết Ngũ Hành Phổ Cập, trong đó Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 vật chất “đồng đẳng cấp.” Sự tương ứng này cho thấy trong hình P6, một nửa bên dưới.
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh là 5 đặc tính “không đồng đẳng cấp” trong mô hình Ngũ Thường Nguyên Thủy (vào thời Chiến Quốc trở về trước). Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí là 4 đặc tính của người quân tử đúng với nguyên tác“Quân tử sở tính Nhân nghĩa lễ trí” của Nho Giáo Nguyên Thủy. Bốn phẩm chất này (nằm ở vòng ngoài) làm nên nhân cách của một con người toàn vẹn để rồi từ sự toàn vẹn đó có thể bước vào vị trí Thánh (nằm ở trung tâm). Thánh là một đặc tính vượt trên hẳn những đặc tính làm nên nhân cách toàn vẹn của một con người bình thường. Ngũ Thường Nguyên Thủy tương ứng với Lý Ngũ Hành Nguyên Thủy, trong đó Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ là 5 hành “không đồng đẳng cấp.” Thổ là một hành quan trọng hơn vì nó chi phối và điều hợp bốn hành còn lại và nó nằm vào vị trí trung ương. Hình P6, một nửa phía trên, cho thấy sự tương ứng giữa Ngũ Thường Nguyên Thủy với Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy.
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh của Ngũ Thường Nguyên Thủy còn cho thấy một điều quan trọng khác trong học thuyết Nho Giáo Nguyên Thủy. Đó là, Đức Khổng Phu Tử muốn dẫn dắt con người “về đến chỗ trọn NGƯỜI, đạt đến chỗ THÁNH” hay nói một cách khác là từ Người tới Thánh, chứ không phải để nặn ra một mẫu người “quân tử “ sặc mùi chính trị “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.” NGƯỜI và THÁNH trong Nho Giáo Nguyên Thủy hoàn toàn khế hợp với minh triết của Việt Dịch. Nói về minh triết của Dịch Việt, HHQ đã ghi trong Việt Dịch như sau:
Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Vòng ngoài là chỗ của nhiều còn tâm trung là nơi của một. Vòng ngoài là trú xứ của sinh sinh hoá hóa còn tâm trung là trú xứ của diệu diệu huyền huyền. Từ tâm đi ra ngoài là hướng ngoại, từ ngoài trở về tâm là hướng nội. Từ tâm đi ra ngoài là con đường của nhơn dục còn từ ngoài trở về tâm là con đường của thiên lý. Hướng ngoại để có nhiều, hướng nội để giữ một. Theo nhiều là lý do của điên đảo, quay cuồng. Giữ một là cái gốc của thường tịnh lặng lẽ. Tâm trung là đền Thánh của đức Thổ, nhơn sanh tiến vào đền Thánh lễ bái không ngoài một chữ Tín. Vòng ngoài là nhà lửa của tam giới, lìa bỏ đền thánh để chui vào nhà lửa vui đùa không ngoài một chữ dục của vọng ý.

Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Tâm trung là chỗ để giữ đạo tam tòng: tòng thiên, tòng địa và tòng nhân. Vòng ngoài là chỗ để giới trì tứ đức: đức Nhân của Mộc, đức Nghĩa của Kim, đức Trí của Thủy, đức Lễ của Hỏa. Thế nào là giữ đạo tam tòng? Trời vốn ‘dĩ dị tri’ đất vốn ‘dĩ giản năng.’ Mà giản dị thì ‘dị tắc dị tri, giản tắc dị tòng’[9] dễ biết dễ theo. Một khi đã dễ biết dễ theo thì có lắm người biết nhiều người theo do đó mà thành tựu công nghiệp lớn ‘dị tri tắc hữu thân, dị tòng tắc hữu công, hữu thân tắc khả cửu, hữu công tắc khả đại, khả cửu tắc hiền nhân chi đức, khả đại tắc hiền nhân chi nghiệp.’ [10] Nắm được đạo lý giản dị là nắm được đạo lý trong thiên hạ. Đã nắm được đạo lý trong thiên hạ thì đứng giữa cùng với trời và đất ‘dị giản nhi thiên hạ chi lí đắc hĩ, thiên hạ chi lý đắc nhi thành vị hồ kì trung hĩ.’ [11] Đứng chung được với trời đất tức là đã giữ đạo tam tòng. Thế nào là giới trì tứ đức? Trời đất không có tư tâm, thánh nhân không có tư tâm, cho nên mới nói trời đất bất nhân coi vạn vật như chó rơm, thánh nhân bất nhân coi bá tánh như chó rơm, ‘thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu, thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.’ [12] Trời đất hành sự chẳng vì mình cũng chẳng vì ai. Thánh nhân hành sự chẳng vì mình cũng chẳng vì ai. Hành sự chẳng vì mình cũng chẳng vì ai chánh thật là giới trì. Ở giữa thiên hạ, lấy thiên hạ làm lòng mình, coi hết thảy như trẻ thơ, ‘tại thiên hạ, hấp hấp vị thiên hạ hỗn kỳ tâm, thánh nhân dai hài nhi,’ [13] đó chánh thật là đức Nhân. Lấy đạo giúp cho người lãnh đạo, không lấy bạo quyền cưỡng bức thiên hạ, ‘dĩ đạo tá nhân chủ dả, bất dĩ binh cường thiên hạ,’ giữ cái vô danh mộc mạc để trí vô dục, tâm yên tịnh, thiên hạ được bình yên ‘dĩ vô danh chi phác, vô danh chi phác phù diệc tương vô dục, bất dục chi tỉnh, thiên hạ tương tự định,’ [14] đó mới chánh thật là đức Nghĩa. Không can thiệp dân sẽ tự nhiên vô tư, không áp bức dân sẽ tự nhiên ngay thẳng, không bày vẽ dân sẽ tự nhiên giàu có, không tham lam dân sẽ tự nhiên thật thà, ‘ngã vô vi nhi dân tự hóa, ngã hiếu tĩnh nhi dân tự chính, ngã vô sự nghi dân tự phú, ngã vô dục nhi dân tự phác,’[15] cho nên lấy ngay thẳng mà trị quốc, lấy vô sự mà giữ yên thiên hạ, ‘dĩ chính trị quốc . . . dĩ vô sự thủ thiên hạ,’ [16] giúp dân từ bỏ cái quá độ để quay về với tự nhiên, ‘phục chúng nhân chi sở quá, dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên,’ [17] lấy thấp làm nền, lấy hèn là gốc ‘dĩ tiện vi bản, dĩ hạ vi cơ’ để ngồi trên mà dân không thấy nặng, ở trước mà dân không thấy ngại, ‘xử thượng nhi dân bất trọng, xử tiền nhi dân bất hại,’ [18] đó mới chánh thật là đức Lễ. Biết đủ không nhục, biết ngừng không nguy, được cái lâu bền, ‘tri túc bất nhục, tri chỉ bất đải, khả dĩ trường cửu,’ [19] làm trọn vẹn mà dường như dở dang nhưng dùng mãi chẳng hư, có đầy đủ mà dường như trống rỗng nhưng dùng mãi không hết, rất ngay thẳng mà như cong, rất hay mà như dở, rất hùng biện mà như ấp úng, ‘đại thành nhược khuyết kỳ dung bất lệ, đại doanh nhược xung kỳ dụng bất cùng, đại trực nhược khuất, đại xảo nhược chuyết, đại biện nhược nột,’ [20] không ra cửa mà biết khắp thiên hạ, thấy rõ đạo trời, ‘bất xuất hạ tri thiên hạ, bất khuy dũ kiến thiên đạo’ [21] quay về gốc tịnh, phục mệnh thường hằng, ‘chí hư cực . . . phục mệnh viết hằng’ [22] đó mới chánh thật là đức Trí. Ở chỗ điên đảo, quay cuồng mà vẫn ung dung tự tại là nhờ trong không xa đạo tam tòng ngoài không lìa giới trì tứ đức. Giữ đạo tam tòng, giới trì tứ đức là cung cách của hiền thánh.

Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Tâm trung là trái tim nguyên thể và vô nhiễm. Vòng ngoài là nơi đã làm cho máu của Đức Chúa chảy ra. Ngài ‘có khả năng chuyển hóa, đem tù hãm tối tăm, đốt tan trong ánh sáng, những nghiêng lệch tạm thời, bỗng chốc về đúng chỗ, trời người đất dung thông, thế giới hoát đại đồng, thiêng liêng và huyền nhiệm’ [23] là vì tâm nội chưa từng lìa nguyên thể và vô nhiễm, thân ngoại chưa từng lìa tôn nghiêm và hiền thiện. Ở chỗ ác trược tối tăm mà vẫn nguyên thể và vô nhiễm, vẫn tôn nghiêm và hiền thiện là phẩm hạnh của đấng Chúa Thánh Thần.

Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Tâm trung là chỗ vô chấp, vô cầu, vô sinh, vô diệt, bất đồng, bất dị. Vòng ngoài là chỗ không thực tánh thực tướng, của chấp trước, của trùng trùng duyên khởi, của huyễn hóa, của vô minh, của sinh diệt, của biển nghiệp lực. Tâm trung là thế giới của ‘diệu trạm tổng trì bất động tôn,’ [24] là đại viên cảnh trí, là đương xứ tức chân, là tuyệt thánh khí trí, là bất động hiện quán, là bản lai diện mục, là sanditthiko, là akàliko, là opanayiko. Vòng ngoài là thế giới ‘như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điển,’ [25] là ‘hoa đốm giữa hư không,‘ [26] là lý trí vọng thức, là chỗ ‘gate, gate, paragate, parasamgate,’ [27] là khổ đế và tập đế. Tâm trung là nhà của Như Lai. Vòng ngoài là chỗ hiển bày vạn pháp. Bồ tát thường tịnh thường lặng ngay giữa chốn điên đảo quay cuồng là vì tâm nội chưa từng lìa nhà Như Lai, thân ngoại chưa từng lìa Pháp Giới; là vì vốn thấy rõ tất cả pháp đều huyễn hóa nên lìa tâm thức phân biệt chẳng thấy bốn tướng ‘nhân, ngã, chúng sanh, thọ giả,’ chẳng thương, chẳng ghét; là vì vốn thấy rõ mọi hiện tượng thế gian đều ‘không thêm, không bớt, không dơ, không sạch’ [28] nên chẳng lìa ‘bình đẳng tánh trí,’ chẳng buông bỏ gì, chẳng nắm giữ gì, chẳng đến, chẳng đi; là vì vốn thấy rõ ‘thế gian như chiêm bao mà khởi lòng đại bi’ [29] nên chẳng lìa thực tại hiện tiền, trong huyễn cảnh hiện huyễn thân dụng huyễn pháp nương huyễn phương tiện cứu độ huyễn chúng sanh, tùy duyên bất biến. Giữa thế gian mà không bị những cái khổ của thế gian trói buộc chính là quán tự tại.

Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Tâm trung là Đạo, vòng ngoài là Danh. Danh là chỗ của có không. Không là tên gọi lúc khởi đầu trời đất, là ’vô, danh thiên địa chi thủy.’ [30] Có là tên gọi lúc nảy sinh, là ‘hữu, danh vạn vật chi mẫu.’ [31] Thánh nhân lấy cái không để chiêm ngưỡng sự kỳ diệu, lấy cái có để xem xét sự tinh vi, ‘cố thường vô dục dĩ quan kỳ diệu, thường hữu dục dĩ quan kỳ hiếu.’ [32] Có không cùng hiện hữu. Thánh nhân không thiên vị. Theo đạo tự nhiên nên không cố làm, dạy đạo tự nhiên nên không cố nói, cùng một thể với đạo, ‘xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo.’ [33] Ở chỗ có không thánh nhân làm khe nước cho người khát, thành việc mà không kể công, thành công mà không ở lại, rỗng tâm, no lòng, mềm chí, cứng xương, khiến dân không dám tham, khiến kẻ trí không dám dùng thủ đoạn, thường hay cứu người nên không bị bỏ rơi, thường hay cứu vật nên không bị vứt đi. Thân tuy ở Danh nhưng tâm thì ở Đạo. Lòng đạo vốn trống không nên dung chứa vô cùng.

Việt Dịch Đồ dưới lăng kính minh triết: Tâm trung là đất của tiên thiên, vòng ngoài là chỗ của hậu thiên. ‘Tiên thiên thì tịch tịnh như nhiên, bất sanh bất diệt. Hậu thiên thì luôn luôn biến dịch và có cơ biến hóa hai chiều: chiều sanh và chiều tử.’ [34] Tâm trung là chỗ của ‘Thái Cực hiện nơi cung Vô Cực, là hoa khai kiến phật; Thái Cực có hiện nơi cung Vô Cực thì Vô Cực mới thành chí huyền chí diệu,’ mới là ‘huyền chi hựu huyền’ [35] Vòng ngoài là chỗ ‘dùng chơn Thủy giúp cho Hỏa minh linh,’ là nơi ‘để đức cương kiện hiệp với đức nhu thuận,’ để ‘chân trí linh tri tương hiệp, chân tình chân tánh đồng khí, cương nhu phối nhau quay về Trung Chánh’ chỗ chân Thổ là nơi ‘Mậu Kỷ hiệp nhau biến thành đao khuê’ [36] điểm hợp nội ngoại chi đạo để ‘kiến tố’ để ‘phục mện’ [37] chính chỗ dụng tâm của tiên gia.

Giữa tâm trung với vòng bên ngoài của Việt Dịch Đồ, lý sự có thể tóm lại trong một chữ Dịch. Nó hàm chứa sự thông dung và diệu dụng. Nó hàm chứa sự tự nhiên và vô ngại. Nó hàm chứa một thế giới nhị nguyên trong trạng thái tương tác hài hòa. Đó chính là Dịch. Hiểu và sống trong sự tương tác hài hòa đó chính là nền tảng của minh triết VIỆT.“

Nghiệm lại nghĩa lý của cặp đồng đạo tương ứng Ngũ Thường Phổ Cập (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) và Ngũ Hành Phổ Cập (5 hành vật chất đồng đẳng) rồi so với nghĩa lý cao siêu của cặp đồng đạo tương ứng Ngũ Thường Nguyên Thủy (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh) và Ngũ Hành Nguyên Thủy (5 hành thiên văn bất đồng đẳng), không khó để nhận ra một sự khác biệt rất lớn.
Như đã nói, Ngũ Thường Nguyên Thủy là đồng đạo tương ứng của Ngũ Hành Nguyên Thủy. Do đó khám phá “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh” trong những di chỉ cổ nhất và đáng tin cậy nhất mà nhân loại có được từ hai vụ khai quật mộ cổ ở Mã Vương Đôi và Kim Môn Quách Điếm chính là có thêm bằng chứng vật thể củng cố cho sự chính xác của mô hình Lý Thuyết Ngũ Hành Nguyên Thủy.
Quan trọng hơn là chính sự chính xác của những sản phẩm được phục dựng từ phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể đã cho thấy giá trị của những sản phẩm văn hóa phi vật thể được phục dựng và của chính phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng những sản phẩm văn hóa phi vật thể đó.
Đồng thời nó tiếp tay làm sáng tỏ một SỰ THẬT mà nhiều học giả “cấp tiến” của Việt Nam đang cố chứng minh bằng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó có cả phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể. SỰ THẬT đó rất đơn giản: NỀN VĂN MINH VIỆT CỔ ĐÃ ĐẺ RA NỀN VĂN MINH TRUNG HOA.
Như Trương Hải Yến đã viết “Tư tưởng triết học của dân tộc Trung Quốc đã có ngay từ thời Lão Tử và Khổng Tử, điều này không có gì để nghi ngờ.” Mà Khổng Tử thì đã nói với học trò của mình là “[Ta] chỉ thuật lại mà không trước tác, [Ta] tin vào đạo lý của đời xưa[Ngô] thuật nhi bất tác, [Ngô] tin nhi hiếu cổ ” và cũng đã xác định một sự thật là nguồn gốc của văn minh nằm ở phương Nam, được ghi lại trong sách Trung Dung: “Độ lượng bao dung, khoan hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam, người quân tử ở đấy! Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường đạo ở đó.” Tuân Tử cũng xác nhận Ngũ Hành Nguyên Thủy (đồng đạo tương ứng của Ngũ Thường Nguyên Thủy là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Thánh) là mô phỏng theo “thời xưa.” Vậy thời xưa là thời xưa nào, nếu không phải là thời người Việt cổ còn làm chủ trọn vẹn đất Trung Nguyên? Văn minh phương Nam là văn minh của ai, nếu không là văn minh của cổ Việt?
LỜI KẾT
Với bài viết này, nếu được phép để lại 3 điều trong tâm trí người đọc thì đây là 3 điều mà chúng ta muốn để lại:
  • Phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể nhằm tái hiện lại diện mạo và cội nguồn đích thực của nền văn hóa Việt là một phương pháp không thiếu tính khoa học và không thiếu giá trị.
  • Những sản phẩm văn hóa phi vật thể phục dựng từ di sản văn hóa phi vật thể có một giá trị nhất định và phải được nghiêm túc công nhận. Điều này càng rõ hơn khi những công trình phục dựng cho thấy sự tương liên với nhau và cũng cố cho nhau thành một thành một thảm dầy của những khám phá, phục dựng và chứng cứ liên hệ.
  • Nền văn hóa Việt không phái sinh từ nền văn hóa Trung Hoa, nhiều bằng chứng cho thấy ngược lại. Giả thuyết Dịch là của Việt, Âm Dương Ngũ Hành là của Việt, Hà Đồ là của Việt có cơ sở vững chắc. Và một khi những sản phẩm văn hóa này đã là của Việt thì nền văn hóa Trung Hoa chắc chắn không thể nào phái sinh ra nền văn hoá Việt.
Hầu hết húng ta không xa lạ gì với tranh Mosaic hoặc Dot Graphics. Hình ảnh trên bức tranh được tạo thành bởi những chấm màu sắc li ti. Nếu chỉ chăm chú nhìn cận cảnh vào những chấm nhỏ li ti thì người xem tranh chỉ có thể thấy những chấm nhỏ li ti không hơn không kém. Muốn thực sự thấy hình ảnh và thông điệp trên bức tranh thì người xem tranh phải đứng xa hơn để nhìn. Bức tranh diện mạo và cội nguồn văn hoá Việt cũng không khác. Mỗi công trình phục dựng và khám phá từ di sản văn hóa phi vật thể chỉ là một chấm nhỏ li ti trong cái tổng thể mô tả diện mạo và cội nguồn văn hóa Việt. Mỗi và những chấm nhỏ đó dường như không ý nghĩa, dường như lạc lõng, dường như không ăn nhập vào đâu. Nhưng nếu như không có những chấm nhỏ như thế thì sẽ không thành tổng thể của bức tranh, không có bức tranh. Tái hiện bức tranh diện mạo và cội nguồn thực sự của một “nền văn hóa huyền vĩ” của một thời (theo ngôn ngữ của NVTA) cần những chấm nhỏ như vậy và những chấm nhỏ đó cần được đặt trong một khung tổng thể. Hiện đang đã có một số chấm nhỏ và sẽ còn nhiều chấm nhỏ như vậy xuất hiện trong tương lai. Bài viết này chỉ là một cố gắng khiêm tốn trong nỗ lực đặt một số chấm trong một cái khung tổng thể để rồi có một ngày toàn thể diện mạo và cội nguồn thực sự của một nền văn hóa huyền vĩ đó sẽ hiện rõ và sự thật này sẽ được công nhận. Điều mà mỗi người và mọi người có thể làm được bây giờ là đừng vội phủ nhận những chấm nhỏ đã có và cũng đừng vội phủ nhận phương pháp giải mã di sản văn hóa phi vật thể để phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể trong nỗ lực tái hiện diện mạo và cội nguồn đích thực của nền văn hóa Việt. Dưới điều kiện khắc nghiệt của địa dư và lịch sử làm cho những chứng tích vật thể mong manh khó có thể tồn tại, con đường phục dựng sản phẩm văn hóa phi vật thể từ di sản văn hóa phi vật thể có lẽ là con đường không thiếu khôn ngoan. Mỗi công trình có thể chỉ là một con kiến tí ti trong con mắt của những khoa học gia chính thống và dễ dàng bị cho “chìm xuồng” nhưng một khi số lượng kiến đã có thể kết nối nhau thành một bè kiến chuyên chở nổi sự thật về cội nguồn văn hóa Việt thì lúc đó kiến sẽ không còn là kiến.
Thành thật cảm ơn tất cả quý vị đọc giả và học giả.
Hà Hưng Quốc, Ph.D.
Ngày 9 Tháng 1 Năm 2013

Trích trong Bí Ẩn 60 Hoa Giáp của Nguyễn Vũ Tuấn Anh – Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tái trích: Chu Dịch và Dự Đoán Học của Thiệu Vĩ Hoa, trang 68, NXB Văn Hoá Thông Tin 1996. Nguồn: Bí Ẩn 60 Hoa Giáp của Nguyễn Vũ Tuấn Anh – Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nguồn: Bí Ẩn 60 Hoa Giáp của Nguyễn Vũ Tuấn Anh – Trung Tâm Nghiên Cứu Lý Học Đông Phương.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nguồn Hán Việt Dịch Sử Lược c ủa GS Nguyễn Hữu Quang, Nguyên Giảng Viên Vật Lý Chuyên về Cơ Học Định Đề (Axiomatic Mechanics, a branch of Theoretical Physics)
tại Đại Học Khoa Học Sài Gòn trước năm 1975.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hán Văn trích từ Hệ Từ Truyện, Chương 1 của Kinh Dịch

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hán Văn trích từ Hệ Từ Truyện, Chương 1 của Kinh Dịch

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Hán văn trích từ Hệ Từ Truyện, Chương 1 của Kinh Dịch

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Đức Kinh, Hư Dụng, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Đức Kinh, Nhiệm Đức, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Đức Kinh, Vi Chính, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Đức Kinh, Thuần Phong, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Đức Kinh, Thuần Phong, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Đức Kinh, Thuần Phong, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Dức Kinh, Hậu Kỷ, Lão Tử.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Đức Kinh, Lập Giới, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Đức Kinh, Hồng Đức, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Đức Kinh, Giám Viễn, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đạo Đức Kinh, Quy Căn, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Thơ của Hà Hưng Quốc

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Kinh Thủ Lăng Nghiêm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Kinh Kim Cang

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Kinh Hoa Nghiêm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Kinh Bát Nhã Tâm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Kinh Bát Nhã Tâm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Kinh Lăng Già

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đ ạo Đ ức Kinh, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đ ạo Đ ức Kinh, Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đ ạo Đ ức Kinh, Lão T ử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đ ạo Đ ức Kinh, Lão T ử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Dịch Lý Khai Nguyên của Đức Đông Phương Lão Tổ, thánh giáo Cao Đài.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đức Lão Tử

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Trích thánh giáo Cao Đài.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đức Lão Tử

Sửa bởi pth77: 26/04/2014 - 12:09


Thanked by 2 Members:

#62 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 26/04/2014 - 19:21

CHIẾC VÉ TÀU ĐƯA BỐ VỂ QUÊ


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


* MINH DIỆN.
Gần bốn chục năm tôi mới quay lại làng Thông. Đứng tần ngần ở ngã ba Gòn nơi rẽ vào làng, tôi bỗng nhớ cây gạo trổ bông đỏ rực mùa hè năm ấy.
Giờ không còn cây gạo ấy, con đường làng cũng không còn rợp bóng tre, nhà cửa san sát hai bên như phố thị. Câu ca dao vui thời dĩ vãng bỗng như văng vẳng bên tai tôi:
“ Làng Thông trồng đậu trồng cà
Hạt đậu thì đỏ núm cà thì xanh!”
“Mớ đời con gái làng Thông
Cái váy thì mỏng cái mông thì tròn!”
Gặp bà già cắp rổ rau ra chợ bán, tôi hỏi:
- Bà có biết nhà bác Đào?
Bà hỏi lại :
- Chú hỏi Đào nào?
- Dạ, Đào là vợ bác Viên liệt sỹ!
Bà nhìn tôi chăm chú rồi khẽ la lên:
- Chú Minh! Có phải chú Minh bên Bóng ?
- Vâng !
- Không nhận ra chị à? Chị là Đào vợ anh Viên đây!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Chị Đào buông rổ rau, những mớ rau ngải cứu nhỏ xíu rơi tung tóe ra đường. Tôi sững sờ. Chị Đào đây ư! Có thật là chị Đào? Tôi thầm kêu lên khi nắm bàn tay gầy guộc, mỏng mảnh, nhìn khuôn mặt choắt cheo đầy nếp nhăn dưới vành khăn mỏ quạ lòa xòa những sợi tóc trắng. Cô diễn viên văn công nổi tiếng xinh đẹp ngày nào đã trở thành một bà lão lưng còng hom hem thế này ư?
Tôi nói:
- Chị thay đổi nhiều quá em không nhận ra.
Chị Đào cười:
- Chị già lắm rồi phải không chú?
Tôi biết mình trót lỡ lởi làm chị Đào tủi thân. Nhìn nụ cười buồn trên đôi môi đỏ thắm quýt trầu của chị, tôi bỗng nhận ra cái duyên thời con gái vẫn chưa dứt bỏ chị. Chị nhặt vội mấy mớ rau bỏ vào rổ rồi quay quả dẫn tôi về nhà. Vừa đi chị vừa háo hức kể:
- Cháu Thắm thỉnh thoảng lại nhắc đến chú. Nó ở với chị. Nó được thằng con trai ngoan lắm. Chính vợ chồng nó đã mang hài cốt của anh chú về đấy...
Chị Đào không hề trách tôi nửa lời rằng sao gần bốn mươi năm tôi không sang thăm chị, dù làng Bóng với làng Thông chả cách bao xa, và năm nào tôi cũng về. Chị ấy không trách tôi càng cảm thấy ân hận. Đôi khi mình trách người khác vô tình nhưng bản thân lại tệ hơn .
Nhà của chị Đào ở cuối xóm. Ba gian nhà ngói đơn sơ , phía trước có mảnh vười trồng toàn rau ngải cứu. Bàn thờ anh Viên ở gian giữa ,tấm ảnh đen trắng của anh đã bạc màu lồng khung kính đặt cạnh cây nhị. Tôi thắp ba nén nhang , đứng nghiêm trước chân dung người đồng đội. Tôi ngạc nhiên khi thấy hai chiếc vé tàu hỏa dán vào ảnh anh Viên.
Chị Đào bảo:
- Vé tàu đưa anh chú về quê đấy!
Chị lấy tay chùi nước mắt , khẽ khàng lau khung ảnh và chiếc bầu nhị nhẵn bóng vết tay người chồng đã hy sinh.
Chị bảo tôi:
- Anh Viên còn sống năm nay bảy hai. Anh ấy hơn chú năm tuổi...
Vâng, anh Viên hơn tôi năm tuổi, nhưng hai anh em nhập ngũ cùng một ngày. Khi nhập ngũ tôi mới chỉ là một cậu học sinh vừa tốt nghiệp cấp III, anh Viên đã là một cán bộ văn hóa thông tin . Anh kẻ khẩu hiệu đẹp, kéo nhị rất hay,có giọng hát ấm và đóng kịch cũng có duyên. Người ta gọi anh là “ Viên dao pha” trong đội văn công không chuyên của huyện. Nhờ đa tài như vậy mà anh Viên cua được chị Đào, khi con trai làng Thông hồi ấy hễ thấy chị đâu là mắt la m*y lém, trong đó có anh Châu học Tiệp Khắc về , cưỡi xe đạp favorit láng coong bám chị như đỉa . Chị Đào vừa đẹp vừa hát hay. Những điệu chèo “Sắp qua cầu”, “ Đường trường thủy chiều”, “ Luyện năm cung” , “ Chầu văn” chị hát tròn vành rõ tiếng chất giọng mượt mà say lòng người.
Đêm liên hoan tiễn chúng tôi lên đường, anh Viên và chị Đào lên sân khẩu diễn trích đoạn một vở chèo đôi trai gái yêu nhau , trước ngày nhập ngũ, anh thanh niên tỏ ra băn khoăn để thử lòng người yêu. Anh Viên hát điệu sa lệch chênh:
Ai chả biết đi là tiến bộ! Nhưng mẹ già còn đó cậy ai trông?”
Chị Đào hát đối: “Anh còn chú bác?”
Anh Viêt hát đối lại: “Chú bác chưa thông!”
Chị Đào : “Anh còn đoàn thể?”
Anh Viên: “Còn bận việc chung!”
Chị Đào: “Thì đành em nhận!”
Anh Viên: “Lạ đời chưa cưới đã làm dâu ...”
Chị Đào nghiêng vành nón che đôi má thẹn đỏ bừng, đôi mắt long lanh chứa chan hạnh phúc. Cảnh và người đều thật, không hề có một tý giả dối nào. Thưở ấy anh Viên, chị Đào và chúng tôi hồn nhiên hát, hồn nhiên cười vì chung quanh đều là ánh hào quang rực rỡ.
Anh Viên và tôi vào đơn vị công binh,đóng quân ở Tam Nông , Phú Thọ được 3 tháng thì tôi đi học sỹ quan, anh Viên được điều lên trung đoàn vào đội tuyên văn. Bẵng đi suốt chín năm, mùa khô 1974 chúng tôi mới gặp lại nhau.
Hôm ấy tôi đến tiểu đoàn 739 đang mở tuyến đường từ Campuchia xuyên sang Cà Tum, Tây Ninh, chuẩn bị chiến dịch Hổ Chí Minh, tình cờ gặp anh Viên. Không ngờ anh đã rời đội tuyên văn trung đoàn , xuống đơn vị chiến đấu từ lâu và hiện đang làm đại đội phó chỉ huy đơn vị bắc cầu qua suối Bà Chiêm.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Anh Viên nói:
- Hồi anh em mình nhập ngũ, tớ với Đào đóng kịch hóa ra thật . Đào giữ lời hứa chăm sóc mẹ tớ như con dâu, nhưng mãi cuối năm 68 tớ mới được về phép tổ chức cưới. Năm 69 sinh cháu Thắm. Cuối năm 1970 , trước khi rời đội tuyên văn xuống đơn vị đi B2, tớ được về tranh thủ , bé Thắm đã biết nghe bố kéo nhị cho mẹ hát và bập bẹ hát theo...
Hai anh em đang nói chuyện thì chiến sỹ đến báo phát hiện bom nổ chậm dưới bến, anh Viên bảo tôi:
- Tớ phải đi !
Anh không kịp bắt tay tôi . Mười phút sau một tiếng nổ dội lên ở phía bến. Linh tình báo điềm chẳng lành, tôi băng rừng chạy xuống .Bến cầu mù mịt khói bụi, gỗ đá ngổn ngang , mùi thuốc bom khét lẹt. Anh Viên cùng năm chiến sỹ hy sinh, xác anh bị hất lên một chạng ba cây.
Tháng 6 năm 1975,từ Sài Gòn, tôi mang chiếc ba lô đựng tư trang và tấm bản đồ một chí của anh Viên về cho chị Đào. Chị ôm chiếc ba lô khóc chết ngất, trong khi cháu Thắm ôm con búp bê tôi mua cho hỏi : “Sao bố Viên không về với chú?”
... Chị Đào vừa bó những mớ rau ngải cứu vừa kể cho tôi nghe cuộc sống côi cút của mẹ con chị ba mươi chín năm qua. Anh Viên hy sinh lúc chị mới ba mươi tuổi , còn trẻ đẹp, nhiều người đặt vấn đề, nhưng chị thương con, thương anh Viên , nên dứt khoát ở vậy nuôi con, lo hương khói cho chồng và bố mẹ chồng...
Chị nói:
- Từ khi chú đưa tấm bản đồ mộ chí anh Viên, chị muốn đi đón anh vể, nhưng nấn ná mãi đến năm tám sáu mới đưa được anh về.
Sự nấn ná của chị Đào chung quy chỉ vì nghèo. Cái thời hợp tác xã nông nghiệp đã lên bậc cao ấy làng Thông vẫn chỉ có hai vụ lúa . Chị Đào là lao động chính , mỗi vụ làm được 900 điểm , mỗi điểm được chia 2 lạng thóc , nhân lên được 180 kg . Ngần ấy thóc xay, giã ra được 126 kg gạo. Hai mẹ con dẻ xẻn vẫn không đủ ăn 6 tháng. Chị Đào phải quai bờ sông, bờ mương trồng thêm khoai sắn ăn độn. Chị chủ tâm dành mảnh vườn trước nhà trồng rau , mùa nào thức ấy, bán lấy tiền mua cám nuôi con lợn , cố gom góp dành dụm tiền làm lộ phí vào Nam bốc mộ anh Viên. Nhưng bé Thắm ốm đau quặt quẹo nên được đồng nào hết đồng ấy.
- Năm 1986 mới dành dụm được hơn trăm đồng cho cháu Thắm đi đón bố về chú ạ!
Chị Đào nói và rướm nước mắt. Giữa lúc đó cái Thắm con gái chị đạp xe về. Mới ngày nào còn là một đứa bé ngây thơ ôm con búp bê hỏi tôi “Sao bố Viên không về với chú?” , giờ Thắm đã là một phụ nữ đứng tuổi, và gương mặt đã hiện lên những nếp nhăn từng trải lo toan. Tôi nói với Thắm:
- Năm tám sáu cháu mới mười bảy tuổi mà đi vào tận Tây Ninh mang được hài cốt bố về , giỏi thật! Ngày vào Nam bố cháu phải đi bộ vượt Trường Sơn, ngày trở về được đi tàu Thống Nhất, chắc bố cháu vui lắm.
Tôi không ngờ Thắm đáp lại câu nói vui của tôi bằng lời nói ngắn ngủn, chua cay:
- Chiếc vé tàu phải trả bằng máu đấy chú ạ!
- Cái con này! Chị Đào đập tay vào lưng con gái. Tôi hỏi :
- Chuyện gì sảy ra vậy cháu?
Thắm kể:
- Ngày ấy cháu với Thành vừa thi tốt nghiệp phổ thông trung học xong thì vào miền Nam tìm mộ bố cháu. Chúng cháu cầm tấm bản đồ của chú đến Tỉnh đội Tây Ninh . Các chú trong Ban chính sách tra cứu hồ sơ cho biết hài cốt bố cháu đã quy tập về Nghĩa trang liệt sỹ. Nhờ sự giúp đỡ của các chú ấy, chúng cháu lấy được hài cốt bố Viên thuận lợi. Không ngờ khi đến ga Sài Gòn mua vé tàu ra Bắc thì bị kẻ cắp móc hết tiền. Thành bảo cứ lên tàu, về đến ga Nam Định ,Thành có người quen sẽ mượn tiền mua vé phạt.
Nhưng chúng cháu vừa ngồi xuống ghế thì cô soát vé đến kiểm tra . Chúng cháu nói thực ,xin được giúp đỡ, nhưng cô ta kêu trưởng tàu đến khám xét. Hài cốt bố cháu gói ni lông, ngoài bọc cờ đỏ sao vàng bị trưởng tàu lấy dao rạch ra , nghi hàng lậu. Khi nhìn thấy gài cốt thật, hắn lạnh lùng bảo: “ Có tiền mua vé thì đi, không thì xuống”.
Chúng cháu bị đuổi khỏi tàu . Giữa đêm khuya , không biết nhờ ai, cháu cứ ôm chiếc ba lô đựng hài cốt bố khóc . Đến sáng, Thành bảo cháu ngồi chờ đề Thành đi mượn tiền. Gần trưa Thành mới về , mặt mũi xám ngắt. Thành nói thực là đã đến bệnh viện bán máu . Số tiền Thành bán máu vừa đủ mua hai chiếc vé tàu hạng bét để đưa bố cháu về quê !
Thật cay đắng cho số phận một người lính. Căm giận cô kiềm soát vé và gã trưởng bao nhiêu tôi cảm thấy yêu thương và khâm phục Thành bấy nhiêu. Nhưng rồi tôi bị hụt hẫng khi chị Đào cho biết , Thành và Thắm đã ly hôn gần mười năm rồi.
Chị Đào nói:
- Thằng Thành từ khi được làm cán bộ xã rồi lên huyện , có chức có quyền có tiền sinh ra ăn nhậu , gái gú bỏ vợ chú ạ. Người tử tế mấy vào con đường ấy cũng hỏng .
Tôi hỏi Thắm:
- Con cháu đâu?
- Ra Quảng Ninh nhặt than chú ạ!
- Nó tốt nghiệp bách khoa sao lại nhặt than?
- Không xin được việc phải nhặt than kiếm ăn chứ chú?
Tôi cười xuê xoa:
- Thế nào rồi ông ngoại Viên linh thiêng cũng sẽ phù hộ cho cháu có việc làm đàng hoàng!
Thắm nói ngay không đắn đo:
- Tiền bạc mới linh thiêng chú ạ!
Chị Đào cho tôi biết , mỗi ngày chị bán chục mớ rau ngải cứu được ba chục ngàn, còn Thắm đi làm thuê cho xưởng chế biến thức ăn gia súc trên thị trấn, mỗi tháng được triệu rưỡi. Hai mẹ con cố gom góp 100 triệu để thế chân cho cháu ngoại anh Viên sang Nhật làm thuê.
Chị Đào mời tôi ăn cơm nhưng tôi không thể nuốt nổi. Miếng chả trứng rau ngải bỏ vào miệng đắng ngắt. Vợ và con người liệt sỹ ngồi kia vừa gần gũi vừa xa cách nhau, một người cố nín nhịn đề đi hết cuộc đời còn lại, một người muốn bung xé đề giải thoát, nhưng đều bế tắc. Tôi đứng trước tấm hình anh Viên, thầm nói với anh:
- Những thứ anh em mình tưởng là vàng son hó a ra chỉ là ảo ảnh thôi anh ạ! Có lẽ chả bao giờ tìm lại niềm vui từ những câu ca dao : “ Làng Thông trồng đậu trồng cà. Hạt đậu thì đỏ núm cà thì xanh. Mớ đời con gái làng Thông. Cái váy thì mỏng cái mông thì tròn”.

#63 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 28/04/2014 - 00:15

Câu chuyện nước Mỹ: Có nên vào đại học?

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tháp ngà ĐH Georgetown ở DC. Ảnh: HM
Sắp đến mùa thi đại học, thỉnh thoảng tôi lại nhận được một email, anh Cua ơi, giúp phát. Muốn cho con đại học bên Mỹ, khó nghĩ quá, giấc mơ Mỹ mà.
Nếu hỏi Bill Gates, Steve Jobs hay vài tỷ phú khác câu hỏi đó, họ sẽ cười, bởi họ tốt nghiệp đại học thì chưa chắc thế giới đã có đế chế Microsoft hay Apple.

Có chuyện kể đùa vui tếu táo. Một lần Steve Ballmer, CEO của Microsoft, được mời tới nói chuyện với sinh viên ở một trường đại học. Vừa vào đề, ông hỏi ngay “Các bạn muốn giầu như Bill Gates, như tôi, vừa là tỷ phú, vừa làm ông chủ, hay muốn đi làm thuê, chẳng bao giờ đủ ăn”. Cả hội trường ào ào “Tất nhiên là thích làm tỷ phú và ông chủ”.
Ballmer cười “Thế thì tại sao còn ngồi ở đây nghe giáo sư nghèo rớt nói nhàm tai. Mài đũng quần 3-4 năm, ra trường, chắc gì đã xin được việc, xin được việc, chắc gì đã đủ tiền nuôi thân. Ngoài ra còn trả nợ khi vay đi học. Các bạn nên bỏ học như chúng tôi đi”
Thuở hàn vi không xu dính túi mà Steve Ballmer và Bill Gates lập nên Microsoft với giấc mơ thống trị tin học thế giới. Sau mấy chục năm, hiên ông ta có tài sản 20 tỷ đô la, Bill Gates khoảng gấp 3 như thế. Cả hai chẳng có bằng cấp. Steve Jobs, cha đẻ của Apple, cũng vậy. Thế mà dân Mỹ tôn thờ họ hơn cả George Washington, cha già dân tộc Mỹ.
Tất nhiên, đó là trường hợp cá biệt, vì họ ở xã hội cá biệt, một nơi mà mọi sự sáng tạo đều được coi trọng, bản quyền trí tuệ được pháp luật bảo vệ, và quan trọng hơn cả, mọi người đều có cơ hội bình đẳng ngang nhau.
Mà nói đâu xa, ngay tại nước mình, nhiều vị chẳng có bằng cấp vẫn lãnh đạo đó thôi. Có ông chỉ đọc thông viết thạo mà thuộc lòng Mác Lê, đưa cả nước từ từ tiến lên CNXH, không kinh qua tư bản, đường vinh quanh xây xác quân thù.
Tuy nhiên, thời hội nhập, con đường vào đại học cũng chỉ là một cách tiến thân, ngoài ra còn nhiều đường khác đến thành Rome. Chỉ có điều, giống các cụ bên ta đi làm cách mạng, theo đuổi đại học bên Mỹ thì “xây xác” Washington (tờ 1 đôla) hay Franklyn (tờ 100$) cao như núi.
Chọn ngành nghề bên Mỹ, theo đường hàn lâm, giải Nobel, làm bác sỹ hay làm nail, làm công nhân sửa điện, sửa ô tô hay kỹ sư NASA, họ đều tính đến hiệu quả kinh tế. Nghe chừng vào NASA mà lương 60-70 ngàn USD/năm sau khi học 4 năm, học phí trên trời, thì chưa chắc đã bằng anh chàng sửa điện nước, chạy rông bằng cái xe VAN và bộ đồ nghề hơn chục ngàn đô với vốn đầu tư ban đầu.
Hầu hết các gia đình cho con đi học phải vay tiền ngân hàng. Học xong phải nai lưng trả nợ. Một sinh viên Mỹ tốt nghiệp ra trường,

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

khoảng 30-40 ngàn đô la là thường. Nếu không có việc cỡ 50-60 ngàn đô la/năm thì đó là thảm họa suốt cả cuộc đời. Vì 1/3 số đó chi cho tiền nhà, 1 phần nhỏ trả nợ thời sinh viên, còn phải ăn uống, xe hơi, gái, trai, đi bar. Lương 60K/năm coi như lương kỹ sư chết đói bên Mỹ, không biết nói thế có quá không.
Ai về Việt Nam tìm chân dài mà khoe, lương anh bên Mỹ 5000$/tháng, thì bạn cũng phải tính chút. Lương hẻo đó mới đủ cho hai vợ chồng tằn tiện qua ngày. Cô vợ Mỹ hay chồng cao bồi mà mất việc là họ bye luôn.
“Tham tiền bỏ ngãi” có ngày ăn m*y chưa chắc đã xong, vì ăn xin bên Mỹ cũng phải biết tiếng Anh. Chả lẽ đứng đường lảm nhảm “Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại…”, họ tưởng mình tụng kinh niệm phật. Mà theo phật trên chùa thì cần gì ăn.
Whoops, lăng nhăng chẳng biết mình đang viết gì, lạc đề. Ah, về việc có nên vào đại học hay không.
Kể thêm cho vui chuyện trên tờ Economist. Có cô bé học xong đại học tiếng Tây Ban Nha, ra trường đã nợ tới 30.000USD. Bỏ cả nửa năm đi tìm việc nhưng chẳng ai nhận ở cái quốc gia có tới 53 triệu người nói tiếng Tây Ban Nha, lại ngay cạnh Mexico. Ế việc là phải thôi.
Để sống qua ngày, nàng đi bưng bê ở McDonald với giá 11$/giờ, loại hàng ăn fast food mà cả nước Hoa Kỳ căm thù, nhưng anh Henry Bảo Hoàng mang về Việt Nam như một giá trị Mỹ.
Nàng cắn răng vay 30 ngàn nữa, học bằng tài chính thêm 4 năm. May quá, ra trường xin được việc, lương 80K/năm. Hy vọng 20 năm tới, Mỹ từ từ tiến lên CNXH, không mất việc, sẽ sống khỏe và trả được món nợ 60K kia. Chuyện lấy chồng, có con thì đợi…trời cho.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hiệu quả học các trường. Mầu xanh là tiền đầu tư, cột phải là phần trăm thu trung bình sau 20 năm ra trường. Nguồn Economist
Hồi đầu năm nay, Obama từng lỡ lời khi khuyên cánh trẻ nên vào học tài chính thay vì học lịch sử…hội họa. Vị giáo sư đầu ngành về lịch sử hội họa đã nổi đóa, bắt Obama xin lỗi vì phân biệt … bằng cấp. Nhưng nói gì thì nói, Obama có lý.
Theo nghiên cứu của Pew, sinh viên lứa tuổi 25-32 khi làm việc full time (đủ thời gian) trong một năm kiếm được 17.500USD nhiều hơn đồng lứa không bằng cấp. Tuy nhiên, không phải chuyên môn nào ra đời cũng được may mắn như thế.
Nếu tính tiền học phí, ăn ở, đầu tư hàng năm 60K cho 4-5 năm học hành, ra trường không có việc, thì chắc chắn không thể bằng anh công nhân làm 15$/giờ từ lúc 18 tuổi. Chàng nào mở cái gara sửa xe, chạy quán xăng hay mở tiệm nail, nếu thành công, thì anh có bằng đại học có khi đến làm lao công cho tay không bằng cấp.
Mấy năm trước về quê, ông anh, vốn học xong phổ thông, chẳng có bằng cấp gì, hỏi, chú Cua kiếm khá đô la bên Mỹ không. Ôi giời, em chỉ đủ ăn và cho các cháu học. Thôi, chú bỏ nước Mỹ đi, về làm kế toán cho doanh nghiệp của tôi đi, tôi trả lương cao hơn Mỹ. Anh em gần nhau, có họ hàng bên cạnh, có phải vui không?
Kể vài câu chuyện này để nói lên, vào đại học có tốt hay không, không bao giờ có câu trả lời. Nó đúng với người này, nhưng sai với người kia, ăn ở lĩnh vực này, nhưng lại lõm ở chuyên môn khác. Tuyệt vời bên Nga nhưng đi xa sang Mỹ chưa chắc đã kiếm đủ nuôi thân.
PayScale, một công ty nghiên cứu về thị trường, sau khi xem xét 900 trường đại học bên Mỹ, học sinh học môn gì, ra trường hưởng lương bao nhiêu. Thêm thông tin về tiền đã đầu tư lúc học, tiền trợ cấp của tiểu bang, cuối cùng cùng họ đã tìm ra tổng kết trong 20 năm sau khi tốt nghiệp thì học ở đâu lấy lại lời, ở đâu bị lõm.
Nhiều bậc cha mẹ và con cái đã phạm sai lầm khi chọn ngành nghề, nợ chồng chất phải trả, phụ huynh đứng tên món nợ than thấu trời xanh. Hiện nay nhiều trường đã có những dự toán về kinh tế, học 4 năm chi phí bao nhiêu, và ra trường với mức lương nào thì sau bao nhiêu năm hoàn vốn.
Là cha mẹ đưa con đi học nước người, muốn con thành đạt, đúng ý thích và khả năng của chúng, thì xin các bậc cao niên nên ngồi và tính toán sao cho kinh tế và có lợi nhất cho đứa trẻ. Cửa trường đại học chỉ là một hướng đi, không phải ai cũng thành đạt và giầu có.
Đầu tư cho con lập trình trò chơi, chẳng cần sang Mỹ như anh Hà Đông vẫn thành tỷ phú trong một ngày, nếu biết lối kiếm tiền trên internet.
Con bỏ học cũng đừng quá lo, may thì như Huyền Chíp được Stanford nhận, hơn thì biết đâu thành Bill Gates hay Steve Jobs, đời chả ai nói trước được điều gì. Nếu không, chạy theo xe bus của MU cũng sang London được.
Con không vào đại học chưa chắc là thảm họa. Không tin cứ về Ninh Bình hỏi anh Xuân Trường, bạn đồng niên của chú em út, tốt nghiệp lớp 12, nhưng xây chùa Bái Đính hàng chục ngàn tỷ. Hay như anh em nhà Cua, kiếm đủ ăn, lại còn khả năng thuê TBT Cua Times làm kế toán.
Còn email hỏi, anh Cua ơi, học bên Mỹ thì trường nào là tốt nhất, rẻ nhất, ra trường xin việc dễ nhất, lương lại cao nhất, có green card hay quốc tịch Mỹ nhanh nhất, thì Obama Cua cũng chịu.
Bạn hỏi, lão Cua già hay trẻ, có vợ hai chưa, may ra có thể xem xét

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


HM. 26-4-2014
Giải thích vài ví dụ trong bảng trên.
  • Fee vào Harvard khoảng >50K năm 2013, thu hồi vốn trung bình sau 20 năm khoảng 15,1%/năm
  • Đại học Virginia fee một nửa nhưng thu hồi vốn trung bình 17,6%, cao hơn Harvard
  • Ringling College of Art and Design – Nghệ thuật và đồ họa với giá phí trên trời 170K/năm nhưng thu hồi vốn…âm 0,5%. Các trường nghệ thuật ít có lãi :!:
  • Obama nói không sai, theo tài chính dễ kiếm hơn vào con đường nghệ thuật.


#64 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 28/04/2014 - 00:38

Cảm ơn đau khổ
Viên Thắng
Văn hóa Phật giáo
05:13' PM - Chủ nhật, 27/04/2014



Nếu không có khổ đau
Biết đâu là hạnh phúc
Nhờ mê muội hôm nào
Ta tìm về tỉnh thức.

Giông bão đời người chẳng chừa bất cứ ai, những nỗi đau hiển hiện trong đôi mắt, hay trên làn môi có thấm vào đâu so với nỗi đau chúng ta giấu kín tận đáy lòng. Trước nỗi đau khổ cùng tột ấy, tâm chúng ta chợt bừng sáng, trí chúng ta hoát nhiên đại ngộ tìm được niềm an lạc tràn ngập trong tâm hồn mà trong kinh Đức Phật dạy: “Phiền não tức Bồ-đề”.
Con người sinh ra hiện hữu trên cuộc đời này có hàng nghìn, hàng vạn nỗi đau khổ khác nhau, nhưng chung quy không ngoài hai thứ:

1. Đau khổ tinh thần: Do hoàn cảnh bên ngoài tác động như làm ăn thất bại, người khác ganh tỵ quấy nhiễu, chồng ngoại tình, con bất hiếu ăn chơi trác táng, nghiện xì ke hút chích; hay nghĩ tới những hiện tượng thiên nhiên như bão lụt, động đất, sóng thần… mà băn khoăn, làm cho tinh thần người ta bất an, lo lắng sợ hãi đêm ngày.

2. Đau khổ thân thể: Bị bệnh tật hành hạ giày vò, bị đánh đập, hay bị tai nạn… khiến cho thân thể đau đớn ăn không ngon, ngủ không yên giấc.
Tất cả những nỗi đau khổ ở cõi Ta-bà này ai cũng nếm trải qua. Nếu chúng ta không hiểu Phật pháp, không biết tu tập thì than thân trách phận; có người tìm đến cái chết; có người tìm cách báo thù kẻ đã gây ra đau khổ cho mình. Nhưng chúng ta càng oán hận thì vết thương lòng càng sâu, nào có ích gì?
Còn chúng ta biết tu học, có thực hành theo lời Đức Phật dạy làm chất liệu trong cuộc sống, hiểu rõ nhân quả báo ứng, chỉ tự trách mình nên biết chuyển hóa nỗi đau khổ thành giải thoát an lạc ngay trong cuộc sống, điều mà Đức Phật đã thuyết giảng suốt cuộc đời giáo hóa của Ngài. Lúc này, chúng ta như đóa hoa sen thơm ngát vươn lên từ bùn lầy nước đọng, nở hoa tô thắm giữa cuộc đời.
Chính nhờ trải nghiệm nhiều nỗi đau khổ trong cuộc sống nên chúng ta dễ cảm thông những nỗi bất hạnh của người khác. Bởi vì, cuộc đời này “sống trong cảnh mới hiểu được người trong cảnh”. Bấy giờ, khi gặp ai đó có nỗi buồn không biết bày tỏ với ai, chúng ta dễ đặt mình trong hoàn cảnh của họ để sẻ chia, để an ủi vỗ về, giúp họ đứng lên sau lần sắp gục ngã.
Nếu như cuộc đời chúng ta mãi sống trong cảnh bình yên, luôn được mọi người tâng bốc, bợ đỡ thì chúng ta vẫn mãi mãi là một phàm phu tục tử, tham đắm trong hư ảo danh lợi, trôi lăn trong sinh tử, bị phiền não trần lao trói buộc thì làm sao thấy được bộ mặt thật của mình?
Vì thế, chúng ta hãy cảm ơn đau khổ, nhờ đau khổ mà tâm của chúng ta rộng mở nhiều hơn, biết quan tâm chia sẻ đến những mảnh đời bất hạnh, và có cơ hội để chúng ta tu tập hạnh nhẫn nhục. Đau khổ là con đường mà ai cũng phải trải qua, chỉ có khác nhau giữa kẻ mê và người ngộ. Mê thì trầm luân sanh tử, ngộ thì thấy được Niết-bàn giải thoát an lạc.

Tại sao Trời, Phật ... cứ để con người phải đau khổ trầm luân mãi?
Hỏi: Có nhiều người bày tỏ rằng họ tin vào đức Phật, đức Chúa Trời, các vị thánh khác có một quyền năng tối thượng. Họ tin các vị có thể biến thế gian từ đời sống này thành đời sống khác. Nhưng họ cũng băn khoăn - một băn khoăn hết sức trong sáng - tại sao các Ngài lại cứ để chúng sinh buồn khổ mãi, đấu tranh mãi như vậy? Tại sao không có một ngày các Ngài đưa bàn tay của mình trải dài hạnh phúc bất tận trên thế gian này? Để đến một ngày mới, có người già, người trẻ, người tin hay không tin, người tốt kẻ xấu đều được hưởng những gì đẹp đẽ nhất. Không chiến tranh thù hận, đói khát, nguyền rủa. Phải chăng có một thông điệp hay bí mật gì đó của đức Phật, Chúa Trời gửi cho con người trên thế gian này, rằng không thể dùng phép thiêng để thay đổi ngay mọi thứ trong khoảnh khắc? Rằng phép thiêng là chính ở các ngươi?

Gyalwang Drukpa: Đây vẫn là vấn đề nhiều người chưa hiểu tại sao con người đau khổ, tại sao Chúa, Trời, chư Phật ... cứ để con người phải đau khổ trầm luân mãi, mà không làm cho chúng sinh mở mắt ra đã thấy mọi sự thay đổi lớn, có sẵn đầy đủ an vui hạnh phúc.

Vì chúng ta chưa hiểu rõ quy luật nhân quả. Không ai tạo khổ đau cho ta ngoài bản thân ta. Có người nói, tôi không làm gì để tạo nên nhân khổ đau. Nhưng hãy thiết thực nhìn cái cách mà chúng ta đang sống bằng cách ăn thịt chúng sinh, giết hại chúng sinh, phá hủy môi trường, đẩy vào môi trường toàn những thứ độc hại ô nhiễm cả vật chất lẫn tinh thần, những từ trường của sân giận, ganh ghét, để rồi dẫn đến những bệnh dịch không thể chữa được. Chính chúng ta đang tạo nên nhân khổ đau nhưng ta lại lờ đi, không quan tâm. Nếu có ai đó kêu gọi ta bảo vệ môi trường, ta vờ như không biết hoặc không muốn biết là chính mình đang mang tai họa đến cho thế hệ mình và các thế hệ tương lai. Trong khi phải chịu đựng các hậu quả, ta vẫn chưa có tinh thần bảo vệ môi trường cho các thế hệ sau. Khổ đau là do ta tạo ra và ta phải gánh chịu. Không thể đổ lỗi.
Hãy quay lại cải thiện lối sống nơi chính mình. Hãy sống cởi mở, yêu thương chan hòa với cộng đồng, tập thể mà ta đang sống. Đức Phật đã dạy sống phải bớt hận thù, bớt sân giận. Học pháp Phật, ta sẽ cải thiện đời sống của mình.

Có người nói đến sự-gia-trì của đức Phật, nhưng thực ra, đức Phật chỉ là người hướng đạo, còn mọi thứ đều do chính chúng ta làm và tạo ra. Nương vào sự hướng dẫn đó, nếu ta áp dụng thực hành phát triễn lòng từ bi, biết yêu thương cởi mở, giúp đỡ trân trọng người khác thì ta có hạnh phúc đích thực. Ngay cả những người thân quen nhất, đôi khi do quá quen thuộc mà ta quên mất trang trải tình thương với họ. Hãy học để yêu thương những người mà ta tưởng như ta đã quá nhàm chán. Trải rộng tấm lòng tốt đẹp với tất cả những người mà mình có nhân duyên hạnh ngộ. Khi tâm mình thay đổi, hạnh phúc sẽ có mặt, đấy như là một điều kỳ diệu mà mọi người hằng mơ ước, mà chính chúng ta có thể diễn tả được. Hãy biết "tự tin và nương tựa vào chính mình!"
Nguồn: Văn hóa Phật giáo

Sửa bởi pth77: 28/04/2014 - 00:39


#65 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 30/04/2014 - 14:49

Trí tuệ vũ trụ và những hệ quả triết học
Hà Yên


Triết học Phương đông coi con người là Vũ trụ thu nhỏ và, đặc biệt được Đông y dùng làm cơ sở nghiên cứu cơ chế phát sinh bệnh tật, giúp phát triển y thuật, trị bệnh cứu người .
Triết học Phương tây thì khẳng định Thượng đế sáng tạo ra Vũ trụ và sau đó sáng tạo ra con người theo đúng hình ảnh của mình .

Thế nhưng, ngoài thể xác, con người còn có Ý thức, có Tư duy, nghĩa là có Trí tuệ, thì Vũ trụ thể hiện những cái đó ở chỗ nào?
Đó là một bí ẩn lớn, tạo nên những nút thắt trong nhận thức Thế giới Tâm linh, mà cho đến tận hôm nay, vẫn chưa có được tiếng nói chung nào .Gỡ ra những nút thắt này, ta có cơ may nhận biết được nhiều giá trị nhận thức thú vị .

1. Bí ẩn Big-bang: Tại sao Vũ trụ đã xuất hiện ? Không một định luật Vật lý nào rút ra từ sự quan sát, cho phép trả lời những câu hỏi đó . Thế nhưng, cũng những định luật ấy lại cho phép chúng ta mô tả chính xác những gì đã xảy ra từ thời điểm 10 - 43 giây sau vụ nổ lớn (Big-Bang), một khoảnh khắc nhỏ bé không tưởng tượng nổi, so với khoảnh khắc này, một lóe sáng chụp ảnh còn dài hơn 1 tỷ tỷ tỷ lần thời gian của toàn bộ lịch sử mà 10 - 43 giây chiếm trong một giây . Vậy, cái lịch sử chớp nhoáng từ 10 - 43 trở về zéro, lúc vụ nổ bùng phát, là gì ? Cho tới nay, đó là bí mật tuyệt đối, vì thời điểm 10 – 43 là biên giới của nhận thức, mà Vật lý học gọi là “Bức tường Planck” . Bên kia bức tường, các định luật Vật lý không còn hiệu lực, toán học gọi đó là điểm kỳ dị . Chỉ có thể, ở đó là “Năng lượng ban đầu : Một đai dương năng lượng vô hạn .
Sự tồn tại một giới hạn nhận thức bỡi “bức tường Planck” có một hệ quả triết học rất cơ bản, vượt ra ngoài lôgic cổ điển . Hiện nay chúng ta đang tập sự một phương thức tư duy mới: Tư duy siêu lôgic (còn gọi là tư duy phi tuyến) . Tầm quan trọng của sự chuyển dịch tư duy này là ở chỗ : trong khi tư duy lôgic (còn gọi là tư duy tuyến tính) tự giới hạn ở sự phân tích có hệ thống về những hiện tượng chưa biết, - nhưng, cuối cùng, vẫn có thể biết, thì tư duy phi tuyến đã vượt qua ranh giới cuối cùng phân chia nó với cái không thể biết : nằm ở bên kia các phạm trù của lý trí, nó tiếp cận cái bí ẩn ở đó và cố gắng mô tả chúng . Có thể lấy ví dụ như “Tính không thể quyết định được” trong Toán học (không thể chứng minh được một mệnh đề nào đó là đúng hay sai ), hay “Tính bổ sung trong Vật lý” (các hiện tượng cơ bản vừa là hạt vừa là sóng) .
Việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định nhất của Tư duy phi tuyến là, chấp nhận có những giới hạn Vật lý đối với nhận thức . NhàVật lý Đức Max Planck, đã làm sáng tỏ một trường hợp đặc biệt có ý nghĩa của một “hàng rào” Vật lý như vậy . Đó là Lượng tử tác dụng (còn gọi là hằng số Planck) .
Với một giá trị nhỏ bé cùng cực : 6,626 . 10 – 34 jun mỗi giây, đó là lượng năng lượng nhỏ nhất tồn tại trong thế giới Vật lý của chúng ta.
Sự tồn tại của một giới hạn dưới, trong lĩnh vực tác dụng Vật lý, tất nhiên sẽ dẫn tới những giới hạn tuyệt đối khác xung quanh Vũ trụ có thể tri giác được, bởi vì còn đụng phải một độ dài cuối cùng : Độ dài Planck, đó là khoảng cách nhỏ nhất có thể có, giữa hai đối tượng . Cũng vậy, Thời gian Planck : chỉ thời gian nhỏ nhất có thể có .
Ranh giới nhận thức từ hệ quả của bí ẩn Big-Bang, cùng với hiện thực bất định mà lý thuyết lượng tử xác lập, hầu như làm cho tất cả các nhà Vật lý đang trải qua sự thể nghiệm về một thuyết Bất khả tri theo kiểu mới .
Hệ quả tiếp theo là vấn đề, Tại sao những ranh giới ấy tồn tại ? Ai, hay cái gì, đã quyết định sự tồn tại, cùng với giá trị cực kỳ chính xác của chúng ?
Thuyết Vụ nổ lớn được khoa học công nhận, đã làm cho Nhà thờ Cơ đốc giáo hân hoan tuyên bố, Big-Bang là minh chứng sự hiện hữu của Sáng thế và, qua đó, Thượng đế thực sự tồn tại, Giáo hoàng Pie XII đã coi Big-Bang đồng nhất với fiat lux của Kinh thánh (ý nói lời phán của Chúa rằng, ”Phải có sự sáng, thì có sự sáng” ) .
Cái ẩn dấu đằng sau bức tường Planck là một dạng năng lượng đầu tiên, một sức mạnh vô hạn . Ở đó có một “Tổng thời gian (Temps Total) vô tận”ngự trị, nhưng chưa được mở ra, chưa phân chia thành quá khứ, hiện tại, tương lai và cũng chưa được phân chia theo một trật tự đối xứng, trong đó hiện tại chỉ là tấm gương hai mặt mà thời gian tuyệt đối chưa đi qua đó, nó phù hợp với thứ năng lượng ban đầu vô tận ấy .
Đại dương năng lượng vô tận, đó chính là Đấng Sáng tạo . Nếu như con người không thể đi tới hiểu được cái gì nằm đàng sau bức tường Planck, thì đó chính là vì, tất cả các định luật Vật lý không đứng vững được trước sự huyền bí tuyệt đối của Thượng đế và của Sáng tạo mà thôi .
Trong khi đó, Thuyết Vũ trụ tuần hoàn của Phật giáo (Tuần hoàn nhưng không lặp đi lặp lại), coi Big-Bang chỉ là một phân đoạn trong lòng một continuum không đầu, không cuối . Nó đơn giản chỉ là sự khởi đầu một chu kỳ mới trong “chu trình sinh-diệt” vô tận của Vũ trụ . Theo quan điểm của Phật giáo, sự kết thúc của một chu kỳ, được thể hiện ra ngoài bằng một sự bùng nổ cuối cùng, sau đó là sự tiêu tan của Vũ trụ vào chân không, rồi từ chân không đó, một chu kỳ mới lại xuất hiện .

Triết học Phật giáo không thừa nhận mọi sự bắt đầu mà không cần có nguyên nhân cho sự bắt đầu đó, do đó . cũng không thừa nhận sự tồn tại của một Đấng tạo hóa là nguyên nhân của chính mình .

2 . Bí mật đề án Vũ trụ :
a ) Lược sử thời gian
Từ thời điểm 10 – 43 giây, sau Big-Bang, toàn thể Vũ trụ vật chất, với tất cả những gì nó sẽ chứa đựng sau này : Các Thiên hà, các hành tinh, Trái đất, cây cối, sinh vật, v.v.. Tất cả những thứ đó được chứa trong một kích thước vô cùng nhỏ bé : 10 – 33 cm, tức là một phần tỷ tỷ tỷ lần nhỏ hơn một hạt nhân nguyên tử ( 10 – 13 cm) . Đó chính là kích thước Vũ trụ lúc sơ khai, Mật độ và nhiệt độ của Vũ tru lúc ban đầu ấy, đạt tới những con số không thể tưởng tượng nổi : Nhiệt độ tới 10 32 độ C ! Vượt qua “bức tường nhiệt độ” này, Vật lý của chúng ta sẽ sụp đổ . “Vật chất” lúc này là một thứ “bùn hổ lốn” của các hạt cơ bản nguyên thủy : những tổ tiên xa của quark .Ở giai đoạn này 4 tương tác cơ bản ( lực hấp dẫn, lực điện từ, lực hạt nhân mạnh và lực hạt nhân yếu) chưa phân hóa, chúng hợp thành một Siêu lực duy nhất . Thời đó, có lẽ là thời điên cuồng nhất của toàn bộ lịch sử Vũ trụ, như các nhà vật ly đánh giá . Những sự kiện diễn ra chớp nhoáng với một nhịp độ kỳ lạ, đến mức những điều diễn ra trong phần tỷ giây ấy, lại nhiều hơn những gì diễn ra trong hàng tỷ năm sau đó .
Nếu có một thực thể có ý thức nào đó, có thể sống và chứng kiến Vũ trụ vào thời điểm ấy, thì chắc chắn họ có cảm giác thời gian chớp nhoáng ấy dài vô tận, gần như vĩnh cửu, đã trôi qua giữa các sự kiện . Chẳng hạn, sự kiện mà ngày nay chúng ta cảm nhận, ví dụ, một cái lóe sáng chụp ảnh, thì trong Vũ trụ lúc ấy, ngang với thới gian dài hàng tỷ năm . Tại sao ? bỡi vì, lúc đó mật độ cực đại của các sự kiện, đòi hỏi một sự mất cân đối về thời gian để đủ cho các sự kiện hoàn thành . Hay nói cách khác, thời gian tâm lý phải tương xứng với mật độ sự kiện . Điều này trực tiếp suy ra từ nguyên lý tương đối .
Sau Big-Bang, chỉ cần vài phần tỷ giây là đủ, để cho Vũ trụ bước vào một giai đoạn, mà các nhà vật lý gọi là “Kỷ nguyên lạm phát” . Trong giai đoạn ngắn ngủi ấy, từ 10 – 35 đến 10 – 32 giây, Vũ trụ giãn nở rất nhanh theo hệ số 10 50 . Nghĩa là, nó từ chỗ có tầm vóc một hạt nhân nguyên tử, lớn lên tới tầm vóc một quả cam có đường kính 10 cm . Nói cách khác, tốc độ giãn nở chóng mặt ấy, còn lớn hơn tốc độ giãn nở tiếp theo: từ kỷ nguyên lạm phát cho đến ngày nay .
Thứ “vật chất bát nháo” điện tử, quark, nơtrino, photon và những phản hạt của chúng, xuất hiện sau khoảnh khắc 10 – 32 giây ấy, không phải là hoàn toàn đồng nhất . Nếu có thể quan sát thời điểm ấy, người ta sẽ thấy quả cam kia mang theo những đường rạch, biểu hiện sự không đều về mật độ . Thế nhưng, sự tồn tại của chúng ta ngày nay, lại nhờ vào những sự không đều ban đầu ấy . Bởi vì những đường rạch tí xíu kia, sẽ phát triển lên, để sau này tạo ra các Thiên hà, các ngôi sao và các hành tinh. Tóm lại “ tấm thảm”Vũ trụ ban đầu sẽ đẻ ra tất cả những gì chúng ta biết hiện nay, chỉ trong vài phần tỷ giây .
Cũng vào lúc 10 – 32 giây, Lực mạnh (lực bảo đảm cố kết của hạt nhân nguyên tử) tách khỏi Lực điện yếu (do sự hợp nhất giữa lực điện từ và lực phân rã phóng xạ đẻ ra) . Vào thời đó, Vũ trụ đã lớn lên theo những tỷ lệ kỳ lạ : Bây giờ nó đã đạt được 100 mét đường kính . Bên trong nó là vương quốc của bóng tôi tuyệt đối với nhiệt độ cao không thể tưởng tượng nổi . Vào 10 - 11 giây, Lực điện yếu chia thành hai lực khác nhau : Lực điện từLực yếu . Các photon không còn bị lẫn với những hạt khác, như quark, gluon và lépton nữa . Bốn lực cơ bản xuất hiên .
Từ 10 – 11 đến 10 – 5 giây, sự phân hóa vẫn tiếp tục . Nhưng vào thời điểm ấy, một sự kiện căn bản xen vào : các quark liên kết thành proton và nơtron, và phần lớn các phản hạt biến mất để nhường chỗ cho các hạt của Vũ trụ hiện nay . Vào một phần vạn giây, các hạt cơ bản như vậy, đã được đẻ ra trong một không gian không gian mới được sắp xếp trật tự. Vũ trụ tiếp tục nở ra và lạnh đi . Khoảng 200 giây, sau khoảnh khắc ban đầu, các hạt cơ bản tụ tập lại để tạo nên các đồng vị của các hạt nhân Hydro và Heli :Thế giới, như chúng ta đang biết, dần dần hình thành.
Lịch sử mà chúng ta vừa trải qua, kéo dài khoảng ba phút . Sau đò mọi việc diễn ra chậm hơn nhiều . Trong hàng chục triệu năm, Vũ trụ được tắm trong bức xạ và plasma khí quay cuồng . Vào 100 triệu năm, những ngôi sao đầu tiên được tạo ra trong những cơn lốc bụi vô tận . Chính bên trong những cơn lốc ấy, các nguyên tử Hydro và Hêli hợp nhất lại để tạo ra những nguyên tố nặng, những nguyên tố này sẽ tìm thấy đường đi của mình trên Trái đất, rất lâu, tới hàng tỷ năm về sau này.
b / Bí ẩn vĩ đại
Sự tiến hóa của Vũ trụ, cũng như của mọi hệ thống Vật lý khác, đều do, cái mà người ta gọi là, “những điều kiện ban đầu” và “các hằng số Vật lý” qui định . Vậy mà, đối với quá trình tiến hóaVũ trụ, ngoài những điều kiện ban đầu, như mật độ vật chất, Tốc độ giãn nở vật chất ứng với xung lực của Big-Bang, thì chỉ có 15 Hằng số Vật lý quyết định chiều hướng tồn tại và dẫn dắt Vũ trụ tiến hóa trong tương lai .Chẳng hạn, Hằng số hấp dẫn qui định lực hấp dẫn, Tương tự, ba con số khác qui định cường độ của các lực : hạt nhân mạnh, yếu và lực điện từ, sau đó là vận tốc ánh sáng và hằng số Planck qui định kích thước nguyên tử, tiếp theo là các số đặc trưng cho khối lượng các hạt cơ bản : khối lượng proton, électron v..v.. . Các hằng số này không thay đổi trong không gian và thời gian .
Vũ trụ dường như được điều chỉnh bỡi sự lựa chọn hết sức tỉ mỉ những con số đó, để cho phép xuất hiện một vật chất có trật tự, rồi sự sống và cuối cùng là Ý thức .

Hơn nữa, chỉ cần một trong những Hằng số phổ biến, chẳng hạn hằng số Hấp dẫn, Tốc độ ánh sáng, hay hằng só Planck, v. v.., ngay từ ban đầu, chịu một sự thay đổi hết sức nhỏ bé, thì Vũ trụ đã không có cơ may nào, để các thực thể sống và có trí tuệ ở đó cả .Hay một ví dụ khác, về điều kiện ban đầu : Nếu mật độ vật chất ban đầu, chỉ sai lệch khỏi giá trị tới hạn của nó, thì Vũ trụ đã không hình thành . Còn có thể kể ra nhiều ví dụ nữa …
Tới đây, chúng ta đụng phải một câu hỏi, mang tính Triết học nhiều hơn là Khoa học, không thể né tránh, là : Sự tiến hóa của Vũ trụ, cho đến ngày hôm nay, là kết quả chỉ của “ngẫu nhiên”, như nhà Sinh học Jacques Monod suy nghĩ, hay sự tiến hóa ấy, đã được thiết kế trước bỡi một nguồn Tư duy rộng lớn, ngự trị trong bản thân Vũ trụ, đã vạch ra bản đề án tổng thể Vũ trụ với những thiết kế đồ sộ, mà mỗi yếu tố của nó được tinh toán tỉ mỉ đến như vậy ? Câu trả lời sẽ được trình bày ở phần Hệ quả Triết học . Ở đây chúng ta đã có thể mường tượng thấy rằng : Vũ trụ thật thông minh trong lựa chọn một tập hợp số, để thiết lập một sự đồng bộ duy nhất, có được Vũ trụ như ngày nay.

3. Bí ẩn bản đề án tạo ra sự sống :
Sự khác biệt duy nhất về căn bản giữa cái ỳ và cái sống là ở chỗ, cái sống phong phú về thông tin hơn cái ỳ rất nhiều, Nhưng nếu sự sống chỉ là vật chất được thông tin nhiều hơn, thì thông tin ấy từ đâu mà ra ? Cho tới hiện nay nhiều nhà Sinh học và Triết học cho rằng những sinh vật đầu tiên được đẻ ra “ngẫu nhiên” trong các làn sóng tới và các làn sóng dội lại, của đại dương nguyên thủy, cách đây 4 tỷ năm .
Đúng là những qui luật tiến hóa do Darwin nêu lên, là có thật và các qui luật đó dành cho tính bấp bênh một vị trí to lớn, nhưng ai đã quyết định các qui luật này ? Bằng “ngẫu nhiên” nào mà một số nguyên tử xích lại gần nhau để tạo thành những phân tử axit amin đầu tiên ? và bằng ngẫu nhiên nào mà những phân tử ấy tập hợp lại để đi tới tòa nhà phức tạp ghê gớm là ADN ấy ?
Nhà Sinh học Francoirs Jaccop, đã có lần đặt ra câu hỏi : Ai đã vạch ra các đề án của phân tử ADN đầu tiên, mang theo thông điệp đầu tiên, cho phép tế bào sống đầu tiên tự sinh sản ?
Những câu hỏi đó, và một loạt những câu hỏi khác, vẫn chưa có trả lời nếu chỉ bám chặt vào thuyết “ngẫu nhiên”. Đó là lý do tại sao, từ nhiều năm nay, quan điểm của nhiều nhà Sinh học đã bắt đầu thay đổi . Những nhà nghiên cứu đi trước, không còn băng lòng vơi việc đọc thuộc lòng, các qui luật của Darwin mà không suy nghĩ, Họ dựng lên một lý luận mới, thường gây ra nhiều ngạc nhiên . Đó là những giả thuyết rõ ràng, dựa vào sự can thiệp của một nguyên lý tổ chức siêu việt vào vật chất .
Theo những cách tiếp cận mới, càng ngày càng lay chuyển niềm tin giáo điều về cái gọi là “ngẫu nhiên sáng tạo “ ấy, sự sống là một thuộc tính nổi lên từ vật chất, một hiện tượng tuân theo một loại tính tất yếu nằm ngay trong cái không sống . Điều này lại càng đáng chú ý hơn ở qui mô Vũ trụ : Sự sống phải mở một con đường khó khăn, đầy rẫy những chướng ngại, để cuối cùng xuất hiện được . Chẳng hạn, không gian, nơi thì trống rỗng, lạnh đến đông cứng với nhiệt độ gần 273 độ âm, nơi thì vật chất của các ngôi sao nóng bỏng, không một sinh vật nào có thể chịu được, nơi thì các loai bức xạ thi nhau bắn phá không cho cái sống biểu hiện ra gần như khắp nơi, thế mà, bất chấp mọi điều đó, sự sống vẫn xuất hiện, ít ra là trên hành tinh của chúng ta .
Do đó, vấn đề đặt ra với các nhà Khoa học và các nhà Triết học là tìm biết xem giữa vật chất và sự sống, có một sự chuyển tiếp liên tục không . Hiện nay, Khoa học đang nghiên cứu ở chỗ nối nhau ấy của cái ỳ và cái động, nó muốn chứng minh ràng, có một vùng liên tục, nói cách khác, cái sống là kết quả của một sự thăng tiến tất yếu của vật chất . Nó có sứ mệnh không cưỡng được, là phải vượt qua một thang đi lên từ những hình thức gần gũi với vật chất nhất (như các siêu vi khuẩn), cho tới những hình thức cao nhất, có một sự đi lên trong tiến hóa : Cuộc phiêu lưu của sự sống đã được một nguyên lý tổ chức sắp xếp .
Vậy phải xem, nguyên lý đó có thể nằm ở chỗ nào . Để làm việc này, chúng ta phải dựa vào những công trình của một trong những nhà Sinh hóa nổi tiếng nhất, đoạt giải nobel Hóa học: Ilya Prigogine .
Những nghiên cứu của ông, bắt nguồn từ một ý tưởng hết sức đơn giản :Hỗn loạn không phải là một trạng thái tự nhiên của vât chất, mà ngược lại, là một giai đoạn đi trước của sự xuất hiện một trật tự cao hơn . Quan niệm đó, trước hết, gây ra sự chống đối của giới Khoa học, vì nó đi ngược lại với những quan niệm đã được thừa nhận, Tuy nhiên sự chống đối ấy, chẳng làm lay chuyển niềm tin của ông : Các qui luật chưa biết, sẽ phải giải thích Vũ trụ và sự sống sinh ra từ hỗn loạn ban đầu như thế nào . Niềm tin ấy của Prigogine, không phải chỉ có tính chất lý thuyết, mà còn dựa vào kết quả của một thí nghiêm . gọi là thí nghiệm Bénard . Nó hết sức đơn giản : Lấy một dung dịch, chẳng hạn như nước, đun nóng nó lên trong một cái bình . Chúng ta thấy gì ? Thấy các phân tử của dung dịch tự tổ chức lại, tập hợp lại theo một cách trật tự để tạo thành những ô sáu góc gần giống như mặt ngoài của một tổ ong . Hiện tượng bất ngờ ấy, được biết với tên gọi “Tính không ổn định Bénard” đã làm cho Prigogine băn khoăn: Tại sao và như thế nào, những “ô” ấy đã xuất hiện trong nước ? Ai đã làm nảy sinh ra một cấu trúc có trật tự bên trong hỗn loạn?
Có một sự tương tự giữa sự hình thành những cấu trúc khoáng chất ấy và sự xuất hiện những tế bào sống đầu tiên . Đó là kết luận mà Prigogine đi tới . Cái có thể xảy ra trong động lực học của các dung dịch, cũng phải xảy ra trong Hóa học và Sinh học.
Nhưng để hiểu rõ hơn lập luận của Prigogine, cần phải dựng lại những giai đoạn chính của hiện tượng này . Trước hết, cần ghi nhận răng, sự vật xung quanh ta, có cách ứng xử như hệ thống mở, tức là chúng trao đổi thường xuyên vật chất, năng lượng và, quan trọng nhất : Thông tin, với môi trường của chúng . Nói cách khác, các hệ thống thường xuyên vận động ấy, thay đổi một cách đều đặn qua thời gian và phải được coi là Thăng giáng . Thế nhưng, những thăng giáng ấy có thể quan trọng đến mức, tổ chức mà những thăng giáng ấy đưa vào, không thể cho phép có chúng mà không tự biến đổi . Từ cái ngưỡng quyết định ấy, có hai giải pháp được Prigogine mô tả chi tiết : hoặc hệ thống bị phá vỡ bỡi tầm rộng lớn của những thăng giáng, hoặc nó đi tới một trật tự nội tại mới, có một trình độ tổ chức cao hơn . Như vậy, điểm chính trong sự phát hiện của Prigogine là : Sự sống dựa vào những cấu trúc động lực mà ông goi là “ Các cấu trúc tiêu tán “ (Structures dissipatives), với vai trò của chúng đúng là làm tiêu tán luồng năng lượng, vật chất và thông tin gây ra một thăng giáng. (Trong những năm 60 của thế kỷ trước, lần đầu tiên ở Việt nam, Giáo sư Tạ Quang Bửu cũng đã có một bài viết dài, giới thiệu nội dung và ý nghĩa “Về tính không ổn định Bernard” và “Các cấu trúc tiêu tán” này trong công trình của Prigogine, trên Tạp chí Hoạt động Khoa học kỷ thuật của UBKHKTNN . bài viết của GS . Tạ Quang Bửu đã làm nóng lên không khí học thuật của các nhà khoa học Việt nam lúc đó . Tác gỉả bài viết nhỏ này, cũng được may mắn đọc bài viết đó của GS một cách hồ hởi và suy ngẫm về ý nghĩa của nó trong nhiều năm sau) .
Nếu trong một hệ thống kín tuân theo Nguyên lý thứ hai của Nhiệt động học, nói rằng, theo thời gian, các hệ thống kin chuyển từ trật tự sang hỗn loạn, không thể cưỡng được, thì trong hệ thống mở, như sự sống, phải chăng đã diễn ra điều ngược lại ? Các nhà khoa học đã xem xét lịch sử các hóa thạch, nhận thấy rằng các tổ chức tế bào thường bị biến đổi, được cấu trúc thành từng bậc, ngày càng phức tạp . Nói cách khác, sự sống chỉ là lịch sử của một trật tự ngày càng cao và càng phổ quát hơn . Vì, khi Vũ trụ trở về trạng thái cân bằng, thì nó phải xoay xở, bất chấp mọi cái, để tạo ra những cấu trúc ngày càng phức tạp . Đó chính là điều Prigogine chứng minh . Dưới con mắt của ông, vật chất có xu hướng tự cấu trúc để trở thành vật chất sống . Ở mức phân tử, một sự cấu trúc như vậy diễn ra theo các qui luật hiện còn rất bí ẩn . Các nhà khoa học nhận thấy lối “Ứng xử thông minh” lạ thường của những phân tử hay những tập hợp phân tử, mà không thể nào giải thích được những hiện tương đó .
Hết sức bối rối vì sự có mặt khắp nơi của trật tự nằm bên dưới vẻ hỗn loạn bề ngoài của vật chất ấy, Prigogine đã tuyên bố : “Điều gây ngạc nhiên là, mỗi phân tử biết các phân tử khác làm gì đồng thời với nó, và với khoảng cách hết sức lớn . Những thí nghiệm của chúng tôi, cho thấy các phân tử giao tiếp với nhau như thế nào . Tất cả mọi người đều chấp nhận thuộc tính ấy trong hệ thống sống, nhưng không có trong hệ thống ỳ “ .
Như vây là có một sự kết nôi liên tục giữa vật chất gọi là “ỳ” và vật chất sống . Trong thực tế, sự sống rút những thuộc tính của nó một cách trực tiếp từ thiên hướng bí ẩn này của vật chất : Thiên hướng tự tổ chức một cách tự phát để đi tới những trạng thái ngày càng trật tự hơn và phức tạp hơn .

Một lần nữa, Vũ trụ thật là thông minh . Vũ trụ là một tư duy rộng lớn ! Tư duy ấy có ở từng hạt, từng nguyên tử, từng phân tử, tưng tế bào của vật chất, có một tinh toàn hiện ( Omnipresence) sống và hoạt động lặng lẽ, không cho ai hay biết cả .
Xét về mặt Triết học, những điều vừa nêu trên, có nhiều hệ quả : Vũ trụ có một cái hướng . Cái hướng sâu xa ấy nằm bên trong nó, dưới hình thức một nguyên nhân siêu việt :
Nếu trong Vũ trụ có một sự chuyển tiếp từ cái không thuần nhất sang cái thuần nhất, nếu có một sự tiến bộ thường xuyên của vật chất sang những trạng thái có trật tự hơn, và nếu có một sự tiến hóa của các giống loài, tới một “siêu giống loài” (thậm chí có thể là loài người), thì tất cả những điều đó, buộc chúng ta phải tin rằng, ở cơ sở của chính bản thân Vũ trụ, có một nguyên nhân đưa lại sự hài hòa của các nguyên nhân : “Một Trí tuệ”. Sự hiện hữu rõ ràng của trí tuệ đó đến tận giữa lòng vật chất . Đó là cơ sở để bác bỏ quan niệm về một Vũ trụ xuất hiện “ngẫu nhiên” và tạo ra Ý thức (trí tuệ) cũng “ngẫu nhiên” . Để làm rõ hơn cơ sở này, chúng ta xét một trường hợp cụ thể : Một tế bào sống bao gồm khoảng hai chục axit amin tạo thành một chuỗi chật kín . Chức năng của các axit amin ấy, đến lượt nó, phụ thuộc vào khoảng 2000 enzym đặc thù . Theo sơ đồ ấy, các nhà sinh học đã tinh ra rằng, để 1000 enzym khác nhau, xích lại gần nhau một cách có trật tự để tạo thành một tế bầo sống, (trong một tiến trình nhiều tỷ năm), thì phải có xác suất là 10 1000 lấy một .Có thể nói cơ may ấy bằng không . Điều này đã thúc đẩy Francis Crick, giải Nobel sinh học, dựa vào phát hiện về ADN, đi tới kết luận, theo hướng đó, rằng : “Một người trung thực, được trang bị mọi tri thức hiện có, sẽ phải khẳng định rằng, nguồn gốc sự sống hiện nay, có vẻ như ở một phép màu, một khi hội đủ những điều kiện tạo ra nó “ .
Trong Hóa học có một nguyên lý, được biết dưới cái tên “ Ổn định hình thể điện tích” (Stabilisation topologique de charges), nguyên lý này đòi hỏi các phân tử, trong cấu trúc của chúng, mang những chuỗi nguyên tử thay thế nhau ( và, đặc biệt là cacbon, azot và oxy ), tạo ra các hệ thống ổn định trong khi tập hợp lại . Đó chính là những bộ phận căn bản tạo nên cơ học của cái sống : Các axit amin !
Vẫn theo nguyên lý “ái lực nguyên tử” này, các axit amin, đến lượt chúng, lại tập hợp để tạo nên những chuỗi đầu tiên của các vật liệu quí giá cho sự sống, đó là các peptit .
Trong những làn sóng đen khắc nghiệt của các đại dương, vào những ngày đầu tiên Trái đất, đã bắt đầu xuất hiện những phân tử azot đầu tiên (mà người ta gọi là “purin” và “pyrimidin” ) theo cùng một quá trình ấy, từ những phân tử này, về sau, đã nảy sinh ra mã di truyền . Thế là cuộc phiêu lưu lớn bắt đầu, chậm rãi đưa vật chất lên cao hơn trong một vòng xoáy trôn ốc đi lên, không thể cưỡng lại được : Những phân tử azot đầu tiên được củng cố, kết hợp với phốt phát và đường, cho đến khi vạch ra được những nguyên mẫu của Nucleotit, những yếu tố nền tảng này, đến lượt chúng, vừa tạo ra những chuỗi vô hạn, vừa dẫn tới giai đoạn căn bản của cái sống : Sự xuất hiện Axit Ribonucleic ( ARN – nổi tiếng không kém gì ADN ).
Như vậy, trong vài trăm triệu năm gì đó, sự tiến hóa đã đẻ ra hệ thống sinh hóa, bền vững, tự chủ, được bảo vệ ở bên ngoài bằng những màn tế bào, và đã giống với một số vi khuẩn nguyên thủy .
Ngoài việc cung cấp năng lượng (mà hồi đó chứa đầy trong môi trường), vấn đề thực sự, mà các tế bào cổ xưa ấy đụng phải, là vấn đề sinh sản,
Đúng vậy, làm thế nào để duy trì những tập hợp quí giá ấy, những kỳ quan nhỏ bé của Tự nhiên ấy, có thể bảo đảm tính vĩnh hằng của chúng ? Chúng ta vừa thấy rằng, các axit amin tạo ra những tập hợp này đã tuân theo một trật tự chính xác . Như vậy những tế bào đầu tiên ấy, phải học cách “sao chép” ở đâu đó sự xâu chuỗi này trong khi tạo ra những protein cơ sở của chúng, để cho chính bản thân chúng, có thể tạo ra những protein mới, hoàn toàn phù hợp với những protein trước đó .
Vấn đề là, làm thế nào, những tế bào đâu tiên đã bày đặt ra được vô số những mưu lược dẫn tới sự kỳ diệu này : Sự sinh sản !
Có một “qui luật” được khắc vào lòng vật chất, cho phép dẫn tới phép lạ : Các Axit amin có cực tính mạnh nhất ( tức là những Axit amin mang một điện tích tĩnh cao ) bị hút một cách tự phát bỡi những phân tử Azot, trong khi những axit amin ở gần hơn, lại tập hợp với những họ khác, như sytosin .
Thế là đã xuất hiện Bản phát thảo đầu tiên của Mã di truyền : Bằng cách làm cho một số nucleotit xích lại gần nhau ( mà không phải là những thứ khác ), những Axitt amin ấy đã từ từ vạch ra những sơ đồ cấu trúc riêng của chúng, bỡi những công cụ và vật liệu đã chế tạo ra chính chúng.
Rõ ràng, qua lược đồ được mô tả trên, ta thấy không có thao tác nào có thể được thực hiện một cách ngẫu nhiên cả.
Hãy lấy một trong nhiều ví dụ : Để cho việc ghép các Nucleotit một cách “ngẫu nhiên” để cho ra một phân tử ARN dùng được, thì Tự nhiên cần phải mò mẫm, thử đi thử lại nhiều lần, mất ít ra 10 15 năm, tức là gấp một trăm nghìn lần tuổi của Vũ tru chúng ta!
Nói cách khác, chỉ một lần thử ngẫu nhiên trên Trái đất cũng đủ thu hết cả Vũ trụ ! Điều đó có vẻ giống như toàn bộ sơ đồ tiến hóa đã được thiết kế trước, từ nguồn gốc .
Nếu quả sự tiến hóa của vật chất hướng tới sự sống và Ý thức, đòi hỏi một Trật tự, thì đó là trật tự nào ? Đó chỉ có thể là Trật tự của một Tư duy giàu trí tuệ . Bỡi vì, để ý rằng, Nếu Ngẫu nhiên có xu hướng phá hủy trật tự, thì ngược lại, Trí tuệ lại biểu hiện ra ở sự tổ chức mọi vật, ở sự đem lại một trật tự từ hỗn loạn . Do đó, khi quan sát tính phức tạp đáng kinh ngạc của sự sống, chúng ta không thể không kết luận rằng, bản thân Vũ trụ thật “Thông minh” : Một trí tuệ siêu việt, tồn tại trên bình diện hiện thực ( tồn tại ngay ở khoảnh khắc ban đầu khai sinh Vũ trụ ) đẫ “ra lệnh” cho vật chất đẻ ra sự sống .

4. Những hệ quả Triết học:
a) Trật tự từ hỗn loạn : chiều hướng phổ biến của vận động vật chất
Lý thuyết Lượng tử có thể mô tả rất chính xác ứng xử của một nhóm hạt, nhưng khi đụng tới một hạt riêng biệt, thì nó chỉ có thể nêu ra những xác suất . Như vậy, điều mà chúng ta thấy bấp bênh ở một mức nào đó, lại tỏ ra có trật tự ở một mức cao hơn . Điều đó chứng tỏ rằng, cái mà chúng ta gọi là “ngẫu nhiên” chỉ là sư bất lực của chúng ta trong việc hiểu một mức độ trật tự cao hơn mà thôi . Đồng tình với tư tưởng này, nhà Vật lý người Anh David Bohm, cho rằng : Những vận động của các hạt bụi trong một tia nắng, chỉ tán loạn vè bề ngoài : Dưới cái vẻ hỗn loạn của các hiện tượng, có một trật tự sâu xa ở mức độ rất cao . Điều đó cho phép giải thích, cái mà chúng ta thấy như kết quả của ngẫu nhiên.
Một minh chứng khác, hãy nhớ lại một thí nghiệm nổi tiếng trong Vật lý : Thí nghiệm hai khe . Phương tiện thí nghiệm rất đơn giản : Đặt một tấm màn có hai khe hở song song theo chiều dọc, giữa một tấm phim và một nguồn sáng, phóng các photon (các hạt ánh sáng) đi tới tấm màn . Khi phóng các hạt ánh sáng từng hạt một tới các khe, chúng ta không thể nói được hạt đó đi qua khe nào, cũng như nó sẽ tới tấm phim đúng vào điểm nào . Theo đó, vận động và quĩ đạo của hạt ánh sáng là bấp bênh và không dự đoán được.
Thế nhưng, sau khoảng một nghìn lần bắn liên tiếp, các photon không để lại một vết tán loạn nào trên tấm phim cả . Toàn bộ các hạt được bắn tách rời nhau ấy, tạo thành một hình hoàn toàn có trật tự, được biết dưới cái tên : những vân giao thoa . Hình này, về đại thể, là có thể dự đoán được . Nói cách khác, tính chất “bấp bênh” về ứng xử của mỗi hạt riêng biệt, thật ra đã chứa đựng một mức độ trật tự rất cao, mà chúng ta không thể lý giải được.
Thí nghiêm này, ở tầm vi mô, cùng với những ví dụ ở tầm vĩ mô, nêu ở các phần trước, có thể khái quát một chân lý : Vũ trụ không chứa đựng ngẫu nhiên, mà là những mức độ trật tự khác nhau, còn chúng ta thì phải khám phá ra Thứ bậc của những mức độ.
Từ hệ quả đó, có thể hiểu được, tại sao khi quan sát Tự nhiên và các qui luật toát lên từ Tự nhiên, người ta cảm thấy dường như toàn thể Vũ trụ Tràn ngập Ý thức hướng tới tính phức tạp vô tận của nó, bất chấp những vẻ bề ngoài đối địch nhau để biểu hiện ra Trí tuệ . Nhận thức mới này, được Tôn giáo và Tín ngưỡng đón nhận như một nền tảng thiêng liêng trong đời sống Tâm linh của mình : Hiện thực của một Đấng Sáng thế !
Một Trường phái tư tưởng Triết học khác, cũng từ hệ quả trên, cho rằng : “ Vật chất không có Ý thức chỉ là sự sụp đổ của Vũ trụ “ . Không có chúng ta, không có một Ý thức để chứng nhận chính bản thân nó, Vũ trụ sẽ không thể tồn tại : Chúng ta là bản thân Vũ trụ, Là Sự sống, Ý thức, Trí tuệ của nó .
b . Thượng đế có tồn tại ?
Sự chứng tỏ Vũ trụ ứng xử thông minh như một Tư duy rộng lớn, một Trí tuệ siêu việt, đã làm ý niệm về một Thượng đế toàn năng, hiện hữu hơn bao giờ hết trong quan niệm của Tôn giáo .
Trong khi đó, Triết học Phật giáo nói rằng, Vũ trụ không có “bắt đầu” và không có “kết thúc”, do đó không có khái niệm “Sáng thế”, vì vậy, Thượng đế không có lý do tồn tại . Sự xuất hiện của các hiện tượng đều thông qua nguyên lý về Sự phụ thuộc lẫn nhau . Tức là, mỗi sự kiện hay mỗi hiện tượng đều phải có một nguyên nhân . Mối quan hệ Nhân – quả, nối tiếp vô cùng này, chắc chắn sẽ đi ngược lại niềm tin siêu hình của phương Tây, của Tôn giáo, cũng như của các nhà Khoa học, những người muốn, bằng mọi giá, phải gán một sự “Bắt đầu”, một “Nguyên nhân đầu tiên “ cho vạn vật . Mong muốn tìm ra một điểm bắt đầu với niềm tin rằng, vạn vật tồn tại thực và bền vững, như trí óc bình thường của chúng ta cảm nhận.

Chứng minh sự tồn tại một điểm “bắt đầu, tức là chứng minh tính hiện thực của “Sáng thế”, đồng nghĩa với sự hiện hữu của Thượng đế . Do đó không dễ gì lay chuyên niềm tin ấy, đã ngự trị lâu đời trong hệ tư tưởng Tôn giáo, cho dù về mặt Khoa học, Cơ học lượng tử cho phép tránh được quan niệm về nguyên nhân đầu tiên của Vũ trụ . Sự “bắt đầu” của vạn vật không còn cần thiết nữa .
Tuy nhiên, nếu khẳng định một niềm tin “sáng thế”, thì nguyên lý sáng thế ấy phải mang trong lòng nó những nguyên nhân và kết quả, của Vũ trụ . Vậy thì nó phải không ngừng tạo ra Vũ trụ . Về một phương diện nào đó, tựa như một Big-Bang vĩnh cửu : nghĩa là liên tục nổ ra Big-Bang ! Đó là điều phi lý .
Mặc khác, nói “Thượng đế tạo ra Vũ trụ” sẽ vô nghĩa nếu Thời gian không tồn tại . Hành động sáng tạo ra Vũ trụ chỉ có thể tiến hành trong Thời gian . Vậy Thượng đế nằm trong hay ngoài Thời gian ? . Mà như Einstein khẳng định, thời gian không phải là tuyệt đối . Thời gian có thể co giãn, vậy một Thượng đế ở trong thời gian, thậm chí là chính thời gian, sẽ không còn là đấng toàn năng nữa vì phải tuân theo những biến thiên của thời gian do các chuyển động có gia tốc, hay do các trường hấp dẫn mạnh (xung quanh lỗ đen) gây ra . Nếu một Thượng đế ở ngoài thời gian, sẽ có sức mạnh vạn năng, thì lại không thẻ cứu rỗi chúng ta được, vì những hành động của chúng ta đều nằm trong thời gian . Còn, nếu Thượng đế vượt lên trên cả thời gian, thì Ngài hẳn đã biết trước tương lai, vậy thì tại sao Thương đế lại phải bận tâm đến sự tiến bộ trong cuộc đấu tranh của con người chống cái ác ? Vì Ngài chẳng đã biết tất cả tứ trước rồi hay sao . Hoặc, nếu Thượng đế là bất biến, thì như vậy Ngài không thể sáng tạo được, hoặc là, Thượng đế nằm trong thời gian thì Ngài không bất biến . Đây chính là một trong những mâu thuẫn mà khái niệm “Nguyên nhân đầu tiên” dẫn đến .
Tuy nhiên, ở đây chỉ bác bỏ một Thượng đế được “nhân hóa” như một thực thể hiện hữu . Còn trên phương diện thực hành Tâm linh, thì niềm tin vào Thượng đế, đối với một số người, có thể tạo ra một số tình cảm thân thiện với người sáng tạo ra chúng ta và kích thích chúng ta nuôi dưỡng tình yêu và lòng vị tha, để thể hiện lòng biết ơn của mình và để tham gia vào tình yêu của Thượng đế đối với mọi chúng sinh,
Tóm lại, khi người ta dấn thân vào một con đường Tâm linh nào đó, điều quan trọng là việc hành đạo phải phù hợp cao nhất với sự phát triển trí óc của mình, và với những thiên chất và khuynh hướng Tâm linh của mình .
c . Phải chăng hiện tượng Ý thức tồn tại trong lòng Vũ trụ ?
Ý thức là nền tảng của Tư duy . Tư duy là hành vi của Ý thức . Trí tuệ là thước đo năng lực Tư duy . Tư duy phát huy nên Trí tuệ . Chúng là nguyên nhân và kết quả của nhau : “Có cái này, mới có cái kia “ .
* Chân lý hiện lên từ những vương vấn hoài nghi?
Sau khi loại bỏ khả năng hiện thực của một “Đấng Sáng tạo”, thì tiến hóa của Vũ trụ, dường như, được dẫn dắt bỡi một Tư duy rộng lớn, với tầm Trí tuệ siêu việt, hiển hiện trong từng chi tiết, từ Thế giới vi mô : Các hạt cơ bản, các nguyên tử, các phân tử, cho đến Thế giới vĩ mô : Các hành tinh, các ngôi sao, các Thiên hà …

Những biểu hiện chính xác, đầy tính lôgic ấy, ngoài sự sáng suốt của Ý thức, không thể là cái gì khác : Chắc chắn tồn tại một Trường mang thông tin chức năng Ý thức, vận động vĩnh hằng trong thời gian và rộng lớn trong không gian là một thực tại của Vũ trụ .
Đặc trưng cơ bản của Trường là dao động, cho nên Trường cũng có nghĩa là Sóng, dù không phải là sóng Vật lý, thì Sóng luôn gắn với chuyển động . Vì là phi vật thể, nên Trường sóng mang thông tin “chức năng Ý thức” này, tồn tại trong Thế giới siêu hình của Vũ trụ .
Ý thức, theo Triết Phật, là một chức năng hữu hiệu, không có hiện thực nội tại và cũng không có điểm “bắt đầu”. Ý thức bao hàm một lượng lớn quan hệ, mà ta có thể xem như chúng sinh ra một Trường, cũng có nghĩa là một Sóng, ngay cả khi nó không phải là một sóng Vật lý . Người ta có thể mô tả Ý thức như một dòng chảy, một chức năng duy trì vĩnh viễn, nhưng không nhất thiết phải mang theo một thực thể tách biệt nào, nghĩa là, có một sự lan truyền một chức năng và các thông tin, chứ không có sự chuyển dịch vật chất, hay các thực thể cụ thể nào . Ý thức và thân xác không có ranh giới Chủ thể - Khách thể . Chúng bổ sung cho nhau và Phụ thuộc lẫn nhau, thống nhất trong một Tổng thể con người và Thế giới . Phật giáo cho rằng, Ý thức có nhiều cấp độ : Cấp độ Thô, cấp độ Tinh và cấp độ cực kỳ tinh .
Cấp độ Thô gắn liền với não bộ, và chỉ được thể hiện khi còn thân xác . Điều đó có nghĩa là, cấp độ Thô lấy thân xác làm giá đỡ : gọi là giá đỡ vật chất, hay giá đỡ vật lý, Ý thức cấp độ Tinh và Cực kỳ tinh, không nhất thiết cần đến giá đỡ vật lý . Nghĩa là, dù cái chết làm cho thân xác tiêu tan, nhưng Ý thức ở cấp độ cao ấy vẫn duy trì vĩnh viễn, mang theo Thông tin ký ức, và tiếp tục tồn tại trong Tổng thể Vũ trụ .
Đến đây, chúng ta thấy gì ? Chúng ta thấy, bằng chiêm nghiệm với công cụ Tư duy sắc bén, Triết học Phật giáo đã đoán nhận “Bản chất của Ý thức”, trùng hợp với hiện tượng “trí tuệ”, phát lộ ngay trong lòng Vũ trụ, đang vận động như một dòng chảy vĩnh hằng, được biết như một Trường Thông tin mang chức năng Ý thức, tràn đầy Vũ trụ.

Ý thức, Tư duy, là khái niệm thuộcThế giới siêu hình học . Thiên văn học hiện đại nói cho chúng ta biết, trong Vũ trụ, thế giới vật chất chỉ chiếm một phần ít ỏi, khoảng xấp xỉ 5%, Còn lại, choáng gần hết Vũ trụ là Thế giới siêu hình, mà các nhà Khoa học gọi Thế giới ấy là “Vật chất tối” (cũng có lúc gọi là “Năng lượng tối” ) . Không có bất kỳ bức xạ nào phát ra từ nó, Nó vô hinh, nhưng rõ ràng nó tồn tại, thông qua tương tác của mình, nó gắn kết với phần Vật chất còn lại của Vũ trụ, như một tổng thể thống nhất, làm cho Vũ trụ vận hành . Đó là bí ẩn lớn đôi với Khoa học . Còn đối với Triết học Nhân sinh Phương đông, thì đó không hề là bí ẩn khi tìm cách trả lời câu hỏi sau đây :
Nếu năng lượng tối, phần siêu hình học ấy, quyết định sự vận hành, thậm chí là số phận của Vũ trụ, thì một động vật cao cấp, có Ý thức, có Tư duy, như con người chúng ta, thì số phận được quyết định bởi cái gì ?
Ai cũng hiểu rằng, Thế giới Tư duy ở con người có tầm rộng lớn, gần như vô hạn, còn “Thế giới “ thân xác thì hạn hẹp : Nó nhỏ bé trong không gian và ngắn ngủi trong thời gian . Nghĩa là, có sự tương đồng với Vũ trụ, ở con người Thế giới siêu hình cũng vẫn là bất tận, Cho nên, cái phần siêu hình học mà đời sống Tinh thần, đời sống Tâm linh ngự trị, mới thật sự là quyết định giá trị và phẩm chất đời người . Đó là chân lý mà Khoa học về tiến hóa của Vũ trụ cung cấp bằng chứng cho chúng ta : Rằng, chúng ta là hình ảnh phóng chiếu của Vũ trụ .
* Và chân lý có thể đã được chứng minh?
Vào những thập kỷ cuối thế kỷ XX, một quan điểm Triết học, đã được Khoa học Chứng minh và, nhanh chóng, chuyển thành Khoa học công nghệ . Những ứng dụng sau đó, đã gây nên một cuộc cách mạng Khoa học, có sức chấn động không nhỏ, Quan điểm ấy nói rằng : “ Cái bộ phận được chứa trong Toàn thể và cái Toàn thể được phản ảnh trong Bộ phận.” Hoặc có thể phát biểu theo Lý thuyết Thông tin “Thông tin của Bộ phận có trong Toàn thể và thông tin của Toàn thể chứa trong Bộ phận”.
Có thể dẫn ra khá nhiều ví dụ về ứng dụng nguyên lý này trong thực tiễn:

1) Trong Thế giới động vật : Chỉ cần một tế bào phôi, bằng một qui trình nuôi cấy chặt chẽ, đánh thức thông tin Toàn bộ con vật, được lưu giữ trong đó, ngườ ta có thể cho ra đời hoàn chỉnh một con vật cùng giống loài . Đó là kỹ thuật nhân bản vô tính.
2) Trong thế giới thực vật còn đơn giản hơn: Chỉ cần một tế bào lá, có thể nhân bản thành cây . Đó là kỷ thuật ươm cây giống để trồng hàng triệu hecta rừng .
3) Trong Thế giới vô sinh: Người ta đã chế tạo được một loại hợp kim có trí nhớ, lưu giữ thông tin toàn bộ về sản phẩm làm từ hợp kim này . Nếu đem sản phẩm ấy hủy hoại bằng cách đập bẹp, cán dẹt chỉ còn là dạng phế liệu, nhưng khi đem mẫu phế liệu ấy gia nhiệt, thì lập tức, nó bung ra và lấy lại chính xác hình dáng sản phầm ban đầu . Tức là, sản phẩm đã lưu giữ toàn bộ thông tin ký ức vè sự toàn vẹn của chính nó .
4) Cũng trong Thế giới vô sinh: Giả sử, ta có một tấm phim “toàn ảnh”chụp cột cờ Hà nội bằng kỷ thuật hologramme – Đây là kỷ thuật chụp, mà ảnh thu được bằng phương pháp, trong đó, toàn bộ thông tin về vật, đều được ghi lại từ cả cường độ lẫn pha của sóng ánh sáng . Nhờ đó, ảnh thể hiện được cả ba chiều trong không gian . Bây giờ, nếu ta xé vụn tấm phim ra hàng chục, hàng trăm mảnh . Nhưng khi đem một mẩu vụn vừa xé ấy, đặt vào một máy chiếu Laser, Ta sẽ thấy hiện lên nguyên vẹn hình ảnh Cột cờ Hà nôi . Điều đó cho thấy, thông tin về toàn bộ hình ảnh (Cột cờ), đã được ghi ở khắp nơi trên tấm phim toàn ảnh, khiến cho mỗi Bộ phận của tấm phim phản ảnh cái Toàn bộ.
Ngày nay, những ví dụ như vậy rất nhiều, trở thành phổ biến trong đời sống xã hội.
Tóm lại, con người là một bộ phận của Vũ trụ . Vì vậy, Ý thức, Tư duy, Trí tuệ, nghĩa là những gì thuộc Thế giới siêu hình, mà con người sở hữu, chỉ là phản ảnh đầy đủ từ cái Toàn bộ, mà thực tại Vũ trụ đang hiện hữu mà thôi . Nói cách khác, Ý thức, Tư duy, Trí tuệ, hiện hữu nơi con người, vốn cũng hiên hữu và lan tràn trong Vũ trụ .
d . Đầu mối và những nút thắt :
Từ những luận cứ đã dẫn trên đây, có cơ sở để xác nhận học thuyết Phật giáo cho rằng : Ý thức không đột sinh ( emergence ) từ vật chất . Bỡi vì, phải có sự cộng thông bản chất giữa kết quả và nguyên nhân, thì sự “nảy sinh” mới thực hiện được . Nếu không, thì “bất cứ cài gì cũng có thể nảy sinh từ bất cứ cái gi” là điều phi lý . Do đó, vật chất và Ý thức không cùng bản chất, thì không thể nảy sinh từ nhau . Ý thức, như đã chứng tỏ, chỉ là một trường sóng phi vật lý, vận động như một dòng chảy liên tục, không có bắt đầu và không có kết thúc . Giờ đây, chúng ta biết thêm được rằng, trường sóng ấy hiện diện khắp nơi trong Vũ trụ, tràn ngập Thế giới xung quanh như một Trường thông tin . Bằng thông điệp của mình, nó dấn dắt Vạn vật xây dựng Trật tự từ Hỗn loạn mà tiến hóa lên . Não bộ không sinh ra Ý thức mà được trang bị Ý thức, tiếp nhận từ Vũ trụ . Cũng tựa như cây cối tạo nên màu xanh rực rỡ, là do tiếp nhận ánh sáng, mà Vũ trụ ban cho, để diệp của lá rực lên màu lục vậy . Hoặc : máy phát sinh ra điện là do tiếp nhận năng lượng từ dòng nước sông đang vô tư lưu chảy ngày đêm kia vậy . Đó chính là Đầu mối của mọi huyền bí Tâm linh, giờ đây đã dần hé lộ, được nhận diện từ trong chồng chất của muôn vàn sắc thái, trong Thế giới các hiện tượng quanh ta .
Từ đó nảy ra vấn đề : Thế thì, vai trò của Não bộ chỉ thụ động của “một chiếc máy thu” Thế giới siêu hình ?
Rõ ràng là phải như vậy, nhưng đó là “Máy thu Đổi tần” chứ không phải là “Máy thu trực tiếp”, bởi vì, Ý thức, và hoạt động chức năng của Ý thức-là sản phẩm phi vật thể của Thế giới siêu hình, chúng không có sự cộng thông bản chất với vật chất của não, nên não bộ không thể tiếp nhận trực tiếp một trường sóng siêu hình mà không bị “nhiễu” làm rối loạn,
Nguyên lý thu đổi tần trong kỷ thuật thu thanh hiện đại, là máy thu tự tạo ra một trường sóng nội tại, (thuật ngữ chuyên môn gọi là Dao động nội ), trường sóng này giao thoa với trường sóng phát, mà máy thu cảm nhận, hình thành một sóng trung gian phù hợp với các thông số phẩm chất của máy, tạo sự ổn định bền vững cho hoạt động của máy thu.

Đối với não bộ, Ý thức Thô sắm vai của bộ Dao động nội . Nó tạo ra một trường phi vật thể để giao thoa với Trường ngoài, có cùng bản chất.
Xét thuần túy về mặt hoạt động vật chất, não là trung tâm chỉ huy của một hệ thống “Điều khiển học sinh học” tự thích nghi, định hướng hành vi bản năng của động vật. Con người, ngoài bản năng, với tư cách là một đông vật cao cấp, não bộ có cấu trúc rất phức tạp, cũng chi là kiến tạo “một hạ tầng cơ sở”, để tiếp nhận một cách hiệu quả Y thức, với các cấp độ khác nhau mà thôi .
Với cấu trúc và tổ chức vật chất của não bộ ở mức độ đó, đã có thể đưa nó bước vào cữa ngõ của Thế giới siêu hình, cùng với Ý thức về Cái Tôi ở cấp độ Thô đã được hình thành trước đó.
Nói một cách có hình ảnh, với cấp độ này, não bộ thiết lập một cái “Vịnh” nối thông với đại dương, mà Trường Thông tin mang chức năng Ý thức, tràn ngập trong đại dương đó .. Vịnh vừa là bộ phận, thuộc hình thế địa lý của địa phương, thống nhất “máu thịt” trong tổng thể địa lý của địa phương, vừa là bộ phận của biển cả . chịu sự điều khiển của biển cả, nghĩa là được nuôi dưỡng bằng nguồn thông tin của biển cả .Tình hình cũng tương tự : Chuỗi ký ức hằn sâu trong não bộ, vừa là một bộ phận thống nhất trong tổng hòa đời sống con người, vừa là bộ phận của dòng Ý thức mang thông tin, truyền lan trong Vũ trụ .và được nuôi dưỡng bằng chính trường thông tin đó.
Lượng thông tin biển cả, mà vịnh phản ảnh được, có thể khác nhau, phụ thuộc vào hình thế và khẩu độ của cữa Vịnh, nối thông với đại dương . Điều này tương đương với chất lượng Thông tin mà não bộ thu nhận được, cũng sẽ phụ thuộc vào cấu hình tổ chức và tốc độ kết nối mạng nơ-ron thần kinh, cũng như các trung khu của não bộ . Điều này dẫn đến sự khác nhau về phẩm chất Ý thức, thể hiện trên từng cá thể .
Một trận động đất hủy hoại hình thế của Vịnh, có thể làm thay đổi sinh thái và hình thái của Vịnh : Khi đó Vịnh, hoặc là, chỉ còn là một cái đầm phăng lặng, sinh thái nghèo nàn, hoặc là Vịnh trở nên rộng mở với biển cả hơn, làm cho sinh thái trở nên phong phú, mang tính bùng nổ, mà trước cơn đia chấn không hề có .
Hiện tượng ấy, cũng giống như một tai biến sức khỏe, dẫn đến làm biến dạng cấu hình tổ chức của não bộ, làm cho tốc độ và năng lực kết nối trong mạng nơ-ron thần kinh, bị biến dịch sang một cấu hình mới, khác thường, gây đột biến khả năng tiếp nhậnThông tin, làm xuất hiện những năng lực mới, dị thường .
Khoa học Giải phẫu thần kinh và Não học, trong nhiều nghiên cứu cho thấy, bộ ócThiên tài không có sự liên quan rõ rệt với số lượng nơ-ron trong từng Trung khu của não bộ . Thậm chí là không khác với não bộ của người bình thường . Đặc biệt, có trường hợp, một người sống, làm việc và Tư duy bình thường, trí tuệ minh mẫn, nhưng trong hộp sọ của anh ta, gần như trống rỗng, nói chính xác chỉ tìm thấy “Vết” não ! Đó là trường hợp rất điển hinh, xảy ra vào năm 1935, Trong quá trình điều trị cho một sinh viên Khoa toán, Trường Đại học Sheffield, hay bị ốm vặt, Giáo sư Lorber phát hiện thấy, cậu ta hoàn toàn không có não khi chụp CAT – scan . Lẽ ra, hai bán cầu não phải lấp đầy hộp sọ với độ sâu 4,5 cm, nhưng sinh viên này chỉ có chưa đầy 1 mm mô não phủ trên đỉnh cột sống . Không hiểu, bằng cách nào mà cậu vẫn sống bình thường . Chỉ số IQ của cậu ta rất cao :126 ! Học lực còn rất xuất sắc, từng đạt học vị danh dự ngành Toán học . Năm 1970, người thanh niên này chết ở tuổi 35 . Khi mổ tử thi, một lần nữa, các bác sĩ đã chứng thực việc cậu không hề có não .

Còn có thể kể nhiều ví dụ khác . Y học đã có thể thống kê hàng trăm trường hợp như thế cho đến những năm gần đây .
Điều đó dẫn đến một nhận định mới : Não tiếp nhận và xử lý Thông tin bằng kết nốitốc độ kết nối . Phương thức này, cho phép không phụ thuộc vào số lượng nơ-ron . Mười người hớn hở gặp nhau, không phài diễn ra bằng mười cái bắt tay, mà bằng 45 cái ! Đây là một Ma trận, mà khả năng kết nối rất lớn . Một mạng chứa hàng trăm tỷ phần tử lôgic, như mạng nơ-ron, thì Ma trận kết nối được, lên đến con số khổng lồ . Đủ để xử lý chọn lời giải tối ưu, tương thích với khối lượng dữ liệu mà trường thông tin ngoại biên dồn dập gửi đến . Vấn đề chỉ còn là tốc độ kết nôi . Và đây chính là thước đo năng lực Tư duy : Nhận thức cùng một vấn đề, nhưng nhanh chậm khác nhau ở từng cá thể .
Tóm lại, “Tiên đề” về Ý thức con người được “trang bị” từ nguồn Vũ trụ, như đã chứng tỏ, cung cấp cho hiểu biết của chúng ta một cơ hội, có thể tiếp cận đúng hướng vào Thế giới Tâm linh bí ẩn . Dựa trên 3 cơ sở có tính nguyên lý, là :

1) Tồn tại một Trường phi vật chất, mang thông tin Chức năng Ý thức, chiếm đầy không gian và vận động vĩnh viễn trong thời gian .
2) Thông tin Bộ phận chứa trong Toàn thể . Thông tin Toàn thể phản ảnh trong Bộ phận .
3) Vật chất và Ý thức ( hay Vật lý - siêu hình ) tồn tại trong một Thế giới thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau và bổ sung nhau .
Nguyên lý thứ 2 và thứ 3, Khoa học, cũng như Triết học đã chứng minh giá trị chân lý đúng đắn, Nguyên lý thứ nhất, tuy đã chứng minh nhưng cần kiểm tra thêm bằng thực nghiêm, vi vai trò Đầu mối của nó là rất quan trọng : Một đột phá khẩu !
Các dạng Tâm linh huyền bí, gọi theo ngôn ngữ dân gian truyền thống, như : Tái sinh luân hồi, Thần đồng, giao diện linh hồn v..v.. đều dựa trên cơ chế khai mở Tiềm thức, giải phóng ký ức cá nhân chứa trong “ cái toàn thể “,vẫn còn tiếp tục vận động trong không gian, sau khi thể xác không còn .
Cho đến hiện tượng Tâm thể, phát công năng dị thường, như : Viễn di, Thấu thị, Vận công trị thương v..v.. không thuộc Thế giơi Tâm linh, mà thuộc nguyên nhân giải phóng năng lượng tiềm ẩn của Tâm thể, nguyên nhân đó, là do tạo được cộng hưởng năng lượng Vũ trụ ( cũng chiếm đầy không gian ) thông qua một Môtip kết nôi đặc biệt của mạng nơ-ron, làm kích thích mãnh liệt hoạt động Ý thức Thô, phá vỡ cân bằng, đạt trạng thái cộng hưởng với Trường năng lương bên ngoài . làm tăng hiệu quả tương tác, dưới một số dạng thức, giữa cơ thể với môi trường .

Thay lời kết :
Trong những năm 60 của thế kỷ trước, để huấn luyện các phi công du hành dài ngày trong Vũ trụ, các nhà Khoa học Liên xô đã chế tạo thành công một buồng cách ly thông tin, Được gọi là buồng “Không gian im lặng tuyệt đối” để nghiên cứu năng lực làm chủ bản thân của người được thử nghiêm .
Kết quả cho thấy, chưa có người nào đủ “bản lĩnh thép” giữ vững Ý thức, làm chủ hành vi của mình, trong “không gian im lặng tuyệt đôi “ đó, trong thời gian 60 phút .
Bằng thiết bị thu hình hết sức tinh vi và bí mật, truyền ra ngoài, cho thấy, người được thử, xuất hiện trạng thái hỏang loạn sau chưa đầy 20 phút .
Vì sao ? Theo lời kể của những người được thử nghiệm, trong cảm giác cô đơn rơi vào bóng tối dày đặc, cùng với sự thinh lặng ghê rợn, một thế giới âm thanh ma quái phát ra từ cơ thể của chính mình : Nhịp tim hoảng hốt như muốn thoát ra khỏi lồng ngực, tiếng đập thùng thình như rung rinh mặt đất dưới chân . Tiếng rào rào máu chảy như chen nhau trong huyết quản . Tiếng thở dồn, mà nghe ầm ào như sóng biển nối nhau dội vào bờ …
Họ kể rằng, hình như họ chỉ kịp hét lên một cách hốt hoảng với bên ngoài : Cái gì thế ? Rồi vội vàng chống trả và bỏ chạy, nhưng thế giới ma quái ấy túm chặt lấy họ.
Các chuyên gia y tế Vũ trụ cho biết, họ đã mất hết Ý thức, chỉ còn một thứ bản năng vô thức .
Điều đó cho thấy Trường thông tin mang chức năng Ý thức mà não tiếp nhận không thể gián đoạn . Một hành trình liên tục như máu lưu thông trong huyết quản suốt đời người vậy . Và cũng chứng minh rằng : Não không sản sinh ra Ý thức ! Não mất nguồn Ý thức khi cách ly với Trường ngoài . bị mất định hướnh, não rơi vào tình thế hoảng loạn .

Đó là thực nghiệm vô cùng qui báu, khẳng định nguyên lý thứ nhất đã nói trên đây .
Có điều là về sau, người ta không sử dụng bài tập kiểm tra này nữa, vì ký ức mà não ghi lại tình huống ấy, hằn rất sâu . Phải mất thời gian dài mới hồi phục .

Hà Nội tháng 3/2009
Nguồn trích dẫn :
1 – Bí ẩn của sự sống . Ngô Tuấn Kỳ, Hoàng Chương NXB Khoa hoc và Kỹ thuật
2 - Thượng đế và Khoa học . Jean Guitton Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp, Grichka Bogdsnov - Igor Bogdanov (Ts Vật lý Thiên văn và Ts Vật lý lý thuyết)
3 - Cái vô hạn trong lòng bàn tay . Matthieu Ricard & Trịnh Xuân Thuận GSTS Vật lý Thiên văn

Sửa bởi pth77: 30/04/2014 - 14:48


Thanked by 2 Members:

#66 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 03/05/2014 - 22:09

Phần II: Nhận dạng các loại ngụy biện

Thực ra, nhận dạng ngụy biện không phải là một việc làm khó khăn. Nói chung chỉ với một lương năng bình dân, người ta có thể phân biệt một phát biểu mang tính ngụy biện với một phát biểu logic. Tuy nhiên, cũng có nhiều dạng thức ngụy biện mà vẻ bề ngoài hay mới nghe qua thì rất logic, nhưng thực chất là phi logic. Những loại ngụy biện núp dưới hình thức “khoa học” này không dễ nhận dạng nếu người đối thoại thiếu kiến thức về logic học hay thờ ơ với lý lẽ. Do đó, một điều quan trọng trong tranh luận là cần phải phát hiện và nhận dạng những hình thức ngụy biện, và quan trọng hơn, cần phải hiểu tại sao chúng sai. Có thể phân loại ngụy biện thành nhiều nhóm khác nhau liên quan đến việc đánh lạc vấn đề, lợi dụng cảm tính, thay đổi chủ đề, nhầm lẫn trong thuật qui nạp, lý luận nhập nhằng, phi logic, và sai phạm trù. Trong khuôn khổ giới hạn, người viết bài này không có tham vọng trình bày tất cả những loại ngụy biện một cách chi tiết (vì việc này đã được hệ thống hóa trong nhiều sách về logic học), mà chỉ muốn liệt kê ra những loại ngụy biện thường hay gặp trong báo chí và truyền thông, hầu giúp bạn đọc có thể phân biệt giữa chân và giả.
Liệt kê sau đây là một loạt những ngụy biện phổ biến hay thấy ở người Việt. Những ngụy biện này có thể phân thành 7 nhóm như sau:
• Đánh tráo chủ đề
• Lợi dụng cảm tính và đám đông
• Làm lạc hướng vấn đề
• Qui nạp sai
• Nhập nhằng đánh lận con đen
• Phi logic
• Các nhầm lẫn khác
Nhóm 1. Đánh tráo chủ đề
1. Công kích cá nhân (ad hominem). Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, thấp kém nhất, nguy hiểm nhất, nhưng có “công hiệu” nhất, vì nó tấn công vào cá nhân của người tranh luận, và tìm cách trốn tránh luận điểm của cá nhân đó. Hình thức ngụy biện này thường xuất hiện dưới dạng: Ông A phát biểu về một vấn đề; ông B tấn công vào cá nhân ông A, và làm cho người ta nghi ngờ luận điểm của ông A. Tuy nhiên, có thể không có mối liên hệ nào giữa cá nhân và luận điểm của ông A.
Có hai hình thức thuộc loại ngụy biện này. Thứ nhất là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người phát biểu. Chẳng hạn như “Ông nói là những người vô thần có đạo đức, vậy mà chính ông là người từng li dị với vợ con,” hay “Ông là người làm kinh tế, không biết gì về khoa học, mà nói chuyện khoa học”. Đây là một ngụy biện, bởi vì sự thật của phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân của người phát biểu, mà là logic của lời phát biểu. Cũng nằm trong loại ngụy biện này là thói dùng một đặc điểm của một vật thể nào đó để ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác. Ví dụ: “Anh học của Tây có vài chữ mà đã quay lại chửi bới đồng nghiệp à? Anh là con công cháu cha, anh không hiểu gì về sự nghèo khổ của chúng tôi.”
2. Lợi dụng quyền lực (ad verecundiam). Đây là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi tiếng hay được nhiều người ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Chẳng hạn như “Isaac Newton là một thiên tài, và ông tin vào Thượng đế,” làm như ông Newton là người có thẩm quyền để chúng ta tin vào Thượng đế. Thẩm quyền không thuyết phục được ai; chỉ có sự thật, lí lẽ và logic mới quan trọng và có khả năng thuyết phục.
3. Lợi dụng nặc danh. Trong trường hợp này, người ngụy biện không nêu danh tính người có thẩm quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm quyền nên không ai có thể kiểm chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một loại ngụy biện khác có quan hệ với loại này là dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận. Giới công an hay sử dụng ngụy biện này, ví dụ như “Một viên chức tình báo cho biết chính anh từng hoạt động cho địch.”
4. Lợi dụng tác phong. Loại ngụy biện này dùng tác phong hay cách làm việc hay một đặc tính nào đó của đối tượng để cố thuyết phục về tính hợp lí của phát biểu. Tiêu biểu cho loại ngụy biện này là những phát biểu như “Nixon thất cử vì ông ta thường hay ra mồ hôi trên trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo lời khuyên của anh chàng ăn mặc bảnh bao đó?” Thực ra, “bảnh bao” và “mồ hôi trên trán” chẳng có dính dáng gì đến vấn đề đang bàn thảo.
5. Luận điệu cá trích. Loại ngụy biện này thường hay được ứng dụng khi một người nào đó đưa vào những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang tranh luận, nhằm mục đích đánh lạc hướng vấn đề. Ví dụ: “Anh có thể nói rằng tử hình là một hình thức không có hiệu quả trong việc chống lại tội phạm, nhưng còn nạn nhân của tội phạm thì sao? Gia đình của nạn nhân sẽ nghĩ gì khi họ thấy tên sát nhân người thân của họ bị giam giữ trong nhà tù bằng đồng tiền của chính họ. Họ có nên nuôi dưỡng những tên sát nhân như thế không?”
6. Luận điệu ngược ngạo. Bằng chứng luôn luôn là gánh nặng của người phát biểu. Do đó, tìm cách chuyển gánh nặng đó cho một người khác là một thủ đoạn của những người ngụy biện. Chẳng hạn như trong câu này “Anh nói rằng ăn nhiều mỡ không liên quan đến cholesterol, nhưng anh có thể chứng minh điều đó không?” Đáng lẽ người phát biểu phải chứng minh, nhưng công việc đó lại được chuyển cho người đối thoại!
Nhóm 2. Lợi dụng cảm tính và đám đông
7. Dựa vào bạo lực (ad baculum). Ngụy biện dựa vào bạo lực thực chất là một sự đe dọa, nhằm mục đích gây áp lực cho người đối thoại phải chấp nhận một kết luận nào đó. Loại ngụy biện này thưởng được giới chính khách dùng, và có thể tóm gọn bằng một câu “chân lí thuộc về kẻ mạnh”. Sự đe dọa không hẳn chỉ xuất phát từ người phát biểu, mà có thể từ một người khác. Ví dụ như “Những ai không tin vào chính sách của Nhà nước sẽ phải trả giá đắt”, hay “Được rồi, tôi đã biết số điện thoại của anh và biết anh đang ở đâu. À, tôi có nói cho anh biết là tôi mới mua một cây súng ngắn chưa nhỉ?”
8. Lợi dụng lòng thương hại (ad misericordiam). Đây là một loại ngụy biện dựa vào lòng trắc ẩn của người đối thoại để người đối thoại chấp nhận lí lẽ của mình. Ví dụ như “Anh ấy không có giết người bằng búa. Làm ơn đừng tuyên án anh ấy có tội, anh ấy đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng tinh thần,” hay “Tôi hi vọng anh sẽ chấp nhận đề nghị này, chúng ta đã tiêu ra ba tháng nay để bàn rồi đấy.”
9. Lợi dụng hậu quả (ad consequentiam). Ngụy biện loại này thường được biểu hiện qua cách phát biểu “A hàm ý B, B là sự thật, do đó A là sự thật”. Ví dụ: “Nếu vũ trụ được một đấng chí tôn thượng đế tạo nên, chúng ta có thể thấy những hiện tượng được tổ chức một cách thứ tự. Và hiện tượng chung quanh chúng ta quả rất thứ tự, vậy đấng chí tôn thượng đế chính là người tạo nên vũ trụ,” hay “Anh phải tin vào Đảng Cộng hòa, chứ nếu không cuộc đời này sẽ chẳng có ý nghĩa” (hay là nói một cách ngược lại: cuộc sống này chẳng có ý nghĩa gì nếu không có Đảng cộng hòa!)
10. Lạm dụng chữ nghĩa. Đây là một loại ngụy biện dựa vào dùng những chữ mang cảm tính cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu phát biểu. Chẳng hạn như trong câu “Bất cứ một người có lương tri nào cũng phải đồng ý rằng về Việt Nam ăn Tết là làm lợi cho cộng sản,” chữ “lương tri” được cài vào nhằm cho người đối thoại phải nghiêng theo những người có lương tri.
11. Dựa vào quần chúng (ad numerum). Loại ngụy biện này tin rằng nếu có nhiều người ủng hộ một đề nghị nào đó, thì đề nghị đó phải đúng. Ví dụ như “Đại đa số người dân trong cộng đồng ủng hộ ông Minh, vậy phát biểu của ông Minh ắt phải đúng.”
Nhóm 3. Làm lạc hướng vấn đề
12. Lí lẽ chẻ đôi. Loại ngụy biện này thường phân định một vấn đề thành hai giá trị: trắng và đen, bạn và thù, có và không, v.v.. dù trong thực tế, có hơn hai lựa chọn. Chẳng hạn như “Hoặc là anh hợp tác với tôi hay là anh chống tôi, anh chọn hướng nào, yes hay là no?”
13. Lí lẽ ngờ nghệch (ad ignorantiam). Loại ngụy biện này, như tên gọi ám chỉ, xuất phát từ sự ngớ ngẩn. Một trong những cách nói thông thường nhất trong loại ngụy biện này mà giới ngụy biện hay dùng là nếu một điều gì đó chưa được chứng minh là sai (hay giả) thì điều đó là đúng (hay thật). Ví dụ: “Bởi vì các nhà khoa học chưa chứng minh dioxin có thể gây ra dị thai, do đó dioxin không thể gây ra dị thai,” hay kiểu lí luận của “nền kinh tế phát triển và xã hội ổn định mấy năm nay, không có lý do gì phải cần đến dân chủ”.
14. Lí luận lươn trạch. Loại ngụy biện này cho rằng nếu một sự kiện xảy ra, các sự kiện có hại khác sẽ xảy ra. Chẳng hạn như “Nếu chúng ta hợp pháp hóa cần sa, công chúng sẽ bắt đầu hút cần sa, và chúng ta cũng sẽ phải hợp pháp hóa á phiện. Rồi chúng ta sẽ là một quốc gia với những người ăn bám vào xã hội. Do đó, chúng ta không thể hợp pháp hóa á marijuana”. Hay một đoạn ví dụ khác:” Tiếc thay một cuộc cải cách về kinh tế, bình bị, tài chánh, xã hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ: bị tan vỡ, bị huỷ bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại việt của Vương An Thạch. Mà đau đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song, e rằng cứ muôn đời mặt trời vẫn nở phương Đông chứ không ngả về Tây như hồi thế kỉ 18 cho đến nay bao giờ.”
15. Mệnh đề rời rạc. Đây là loại ngụy biện dùng hai (hay nhiều hơn hai) mệnh đề chẳng dính dáng gì với nhau để làm thành một phát biểu hay kết luận. Ví dụ: “Anh ủng hộ tự do dân chủ và quyền mang vũ khí hay không?” hay “Anh đã ngưng làm ăn trái phép chưa?” Câu hỏi sau thực ra hỏi hai vấn đề “Anh từng làm ăn trái phép?” và “Anh đã ngừng hoạt động hay chưa?”
16. Đơn giản hóa. Đây là một loại ngụy biện mà người phát biểu cố tình biến một quan niệm trừu tượng thành một điều cụ thể để bắt lấy thế thượng phong trong đối thoại (nhưng là ngụy biện). Ví dụ: “Tôi để ý thấy anh mô tả ông ta là một người quỉ quyệt. Vậy tôi hỏi anh cái “quỉ quyệt” đó nó nằm ở đâu trong bộ não? Anh không chỉ ra được cho tôi; do đó, tôi có thể nói cái quỉ quyệt không có thực.”
Nhóm 4. Qui nạp sai
17. Khái quát hóa vội vã. Loại ngụy biện này cũng khá phổ biến. Nó dùng một ví dụ hay trường hợp nhỏ và từ đó khái quát hóa cho một cộng đồng. Chẳng hạn như “Ông ấy là một tay đạo đức giả. Do đó, các bạn bè của ông ấy cũng giả dối.”
18. Khái quát hóa không đúng chỗ. Đây là loại ngụy biện mà người sử dụng chúng thường áp dụng một qui luật chung cho một tình huống hay một cá nhân. Chẳng hạn như “Người cộng sản là vô thần. Anh là người theo chủ nghĩa cộng sản, vậy anh chắc chắn là một người vô thần.”
19. Kéo dài tính tương đồng. Trong loại ngụy biện này, người dùng nó đề nghị một điều lệ chung chung, rồi áp dụng nó cho mọi trường hợp và cá nhân. Ví dụ: “Tôi tin rằng chống luật pháp bằng cách phạm luật pháp là một điều sai trái”, hay “Nhưng quan điểm đó ghê tởm lắm, vì nó ám chỉ rằng anh sẽ không ủng hộ tôi,” hay “Anh muốn nói rằng luật về mật mã cũng có tầm quan trọng tương đương với phong trào giải phóng sao? Sao anh dám nói thế?”
20. Lí lẽ quanh co. Loại ngụy biện này thường luẩn quẩn trong vài giả định và kết luận. Chẳng hạn như “Những người đồng tính luyến ái nhất định không thể nắm chính quyền. Do đó, phải tống khứ những viên chức chính phủ đồng tính luyến ái. Vì thế, những người đồng tính luyến ái sẽ làm mọi cách để dấu diếm hành tung của họ, và họ có nguy cơ bị tống tiền. Do vậy, những người đồng tính luyến ái không được giữa chức vụ gì trong chính phủ.” Tức là trong một lí giải như thế, cả hai giả thuyết và kết luận đều giống nhau.
21. Đảo ngược điều kiện. Loại ngụy biện này thường được biểu hiện qua hình thức “Nếu A xảy ra thì B sẽ xảy ra, do đó, nếu B xảy ra thì A sẽ xảy ra.” Ví dụ: “Nếu tiêu chuẩn giáo dục bị hạ thấp, chất lượng tranh luận sẽ bị tồi đi. Do đó, nếu chúng ta thấy chất lượng tranh luận suy đồi trong những năm sắp đến, thì điều đó cho thấy tiêu chuẩn giáo dục của ta bị xuống cấp.”
22. Lợi dụng rủi ro. Ngụy biện này thường dùng một qui luật chung và áp dụng nó cho một trường hợp cá biệt. Ví dụ: “Luật giao thông không cho anh chạy quá 50 km/h. Cho dù cha anh sắp chết anh cũng không được chạy quá tốc độ đó.”
23. Lợi dụng trường hợp cá biệt. Ngụy biện này thường dùng một trường hợp cá biệt để đem ra ứng dụng cho một đám đông. Ví dụ: “Chúng ta cho phép bệnh nhân sắp chết dùng á phiện, chúng ta nên cho phép mọi người dùng á phiện.”
24. Kết luận lạc đề. Loại ngụy biện này thường xuất hiện khi một kết luận chẳng dính dáng gì đến lí lẽ mà người biện luận trình bày. Một ví dụ tiêu biểu cho trường hợp ngụy biện này là: “Độ nhiễm arsenic trong nước ở Việt Nam chưa cao và còn trong mức độ cho phép. Dữ kiện của Bangladesh cho thấy tình trạng nhiễm arsenic ở Việt Nam rất trầm trọng.”
25. Ngụy biện rơm. Loại ngụy biện này cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm hay phát biểu của người khác, để làm luận điểm tấn công. Đây là một ngụy biện, vì nó không đương đầu với cái lí lẽ đang bàn. Chẳng hạn như: “Chúng ta nên ủng hộ chế độ cưỡng bách quân dịch. Người ta không thích tòng quân vì họ không muốn cuộc sống bị đảo lộn. Nhưng họ cần nhận thức rằng có nhiều điều quan trọng hơn tiện nghi trong cuộc sống.”
Nhóm 5. Nguyên nhân giả tạo
26. “Post hoc”. Loại ngụy biện này phát biểu rằng hai sự kiện xảy ra, một trước và một sau, có quan hệ với nhau như nguyên nhân và hậu quả. Ví dụ: “Liên Xô sụp đổ sau khi nhà nước theo chủ nghĩa vô thần. Do đó, chúng ta phải từ bỏ chủ nghĩa vô thần để khỏi bị suy sụp.”
27. Ảnh hưởng liên đới. Một sự kiện được cho là có ảnh hưởng đến một sự kiện khác, nhưng thực chất thì cả hai sự kiện đều có cùng một nguyên nhân. Đây cũng chính là một trường hợp ngụy biện dưới dạng “post hoc”. Ví dụ: “Chúng ta đang chứng kiến một tình trạng thất nghiệp rất cao, vì do thiếu nhu cầu của người tiêu thụ.” (Nhưng có thể cả hai sự kiện có nguyên nhân từ tiền lời quá cao.)
28. Ảnh hưởng không đáng kể. Đây là một loại ngụy biện mang tính phóng đại từ một ảnh hưởng rất nhỏ. Chẳng hạn như “Hút thuốc gây ra ô nhiễm môi trường ở Sydney” là một phát biểu đúng, nhưng ảnh hưởng của thuốc lá đến môi trường rất khiêm tốn khi so với ảnh hưởng của khói xe và các hãng xưởng.
29. Ảnh hưởng ngược chiều. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả bị đảo ngược chiều để tìm đến một kết luận mang tính ngụy biện. Ví dụ: “Ung thư gây ra thói quen hút thuốc lá”.
30. Nguyên nhân phức tạp. Một sự kiện xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng người ngụy biện có thể đơn giản hóa thành một liên hệ đơn giản. Chẳng hạn như “Tai nạn xe cộ là do đường xá xấu” có thể đúng, nhưng tai nạn cũng có thể do người lái xe ẩu trong một điều kiện xấu.
31. Nguyên nhân sai (Non causa pro causa). Loại ngụy biện này xảy ra khi một điều nào đó được cho là nguyên nhân của một sự kiện, nhưng nó chưa thực sự được chứng minh là nguyên nhân. Ví dụ: “Tôi uống một viên aspirin và cầu nguyện thượng đế, và tôi không còn bị nhức đầu. Như vậy thượng đế đã chữa trị tôi khỏi nhức đầu.”
Nhóm 6. Phi logic (non sequitur) và nhần lẫn trong tam đoạn luận
32. Phi logic. Ngụy biện phi logic thường xảy ra trong trường hợp một lí lẽ mà kết luận được rút ra từ những tiêu đề không dính dáng gì với nhau. Chẳng hạn như “Người Ai Cập đã từng làm nhiều khai quật để xây dựng những kim tự tháp, họ chắc chắn phải rất thạo về cổ sinh vật học.”
33. Loại bỏ tiền đề. Ngụy biện loại này thường xảy ra dưới hình thức “nếu A thì B, không phải A thì không phải B.” Ví dụ: “Nếu tôi ở Sydney thì tôi đang ở New South Wales. Tôi hiện không ở Sydney, do đó, tôi không ở New South Wales”.
34. Nhét chữ vào miệng người khác. Đây là một loại ngụy biện bằng cách dùng kĩ thuật phỏng vấn. Một trường hợp cổ điển là “Ông đã ngưng đánh vợ chưa?” Tức là một câu hỏi với một giả định rằng người được hỏi từng hành hung vợ. Đây là một mẹo mà giới luật sư thường hay dùng trong thẩm vấn. “Ông dấu tiền ăn cắp đó ở đâu?” Giới chính khách cũng thích mẹo này, đại khái như “Bao giờ thì nhóm EU này sẽ không còn xâm phạm vào công việc của chúng ta?”
35. Ngụy biện tứ ngữ. (Một tiêu chuẩn của tam đoạn luận gồm có 3 chữ). Ví dụ như trong câu phát biểu “Tất cả chó là thú vật, và tất cả mèo là loài động vật có vú, do đó tất cả chó là loài động vật có vú,” có bốn chữ: chó, mèo, động vật, và động vật có vú.
36. Đứt đoạn. Hai sự vật riêng biệt được xem là có liên hệ nhau nếu chúng có chung đặc tính. Người ngụy biện lợi dụng chữ giữa của một phát biểu để đưa đến một kết luận sai. Chẳng hạn như trong câu “Tất cả người Nga là nhà cách mạng, và tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ cũng là nhà cách mạng, do đó, tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ là người Nga,” chữ chính giữa là “nhà cách mạng”. Nhưng kết luận này sai, vì dù những người theo chủ nghĩa vô chính phủ và người Nga là những người cách mạng, nhưng họ có thể là hai nhóm cách mạng khác nhau.
Nhóm 7. Các nhầm lẫn khác
37. Dẫn chứng bằng giai thoại. Một trong những ngụy biện phổ biến nhất và đơn giản nhất là dựa vào những câu chuyện có tính vụn vặt, hay giai thoại. Chẳng hạn như “Có hàng khối bằng chứng cho thấy thượng đế hiện hữu và vẫn ban phép mầu hàng ngày. Mới tuần rồi đây, tôi có đọc được một câu chuyện về một cô gái sắp chết vì ung thư, cả gia đình cô đi cầu nguyện trong nhà thờ, và chỉ vài ngày sau cô hết bệnh.” Dùng kinh nghiệm cá nhân để minh họa cho một luận điểm là một điều hoàn toàn hợp lí, nhưng dùng những giai thoại như thế sẽ chẳng chứng minh gì. Một anh bạn có thể cho rằng anh từng gặp Elvis ở một siêu thị nào đó, nhưng những người chưa gặp Elvis bao giờ thì cần nhiều bằng chứng xác thực hơn.
38. Lợi dụng cổ tích. Đây là một loại ngụy biện cho rằng những gì đúng hay tốt chỉ đơn giản vì chúng là cổ xưa, và những người theo cách ngụy biện này thường nói “hồi nào đến giờ ai cũng vậy.” Chẳng hạn như “Hàng trăm năm nay, Úc chịu dưới sự cai trị của Hoàng gia Anh, và là một nước thịnh vượng. Một thể chế tồn tại lâu dài như thế ắt phải là một thể chế ưu việt.”
39. Dựa vào cái mới (ad novitatem). Ngược lại với loại ngụy biện dựa vào cái cũ, ngụy biện dựa vào cái mới cho rằng một điều gì đó tốt hơn và đúng hơn đơn giản chỉ vì nó mới hơn cái khác. “Windows 2000 phải tốt hơn Windows 95, Windows 2000 mới được thiết kế lại năm ngoái.”
40. Lí lẽ của đồng tiền. Loại ngụy biện này thường dựa vào một niềm tin duy nhất rằng đồng tiền là một tiêu chuẩn của sự đúng đắn. Những người có nhiều tiến có khả năng đúng hơn những người ít tiền. Chẳng hạn như “Nhu liệu của hãng Microsoft đương nhiên là tốt hơn; nếu không thì làm sao Bill Gates có thể trở nên tỉ phú như thế”.
41. Dựa vào cái nghèo. Ngược lại với ngụy biện dựa vào sự giàu có, có một loại ngụy biện khác dựa vào sự nghèo khổ. Chẳng hạn như “Các vị sư có khả năng hiểu thấu được ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì họ từ bỏ mọi xa hoa của cuộc sống.”
42. Điệp khúc (ad nauseam). Loại ngụy biện này cho rằng một lí lẽ càng được lặp đi lặp lại nhiều chừng nào thì nó sẽ được người ta chấp nhận là đúng. Do đó, người ngụy biện thường chỉ lặp đi lặp lại những phát biểu, bất kể đúng sai ra sao, cho đến khi người đối thoại mệt mỏi không còn muốn nghe nữa, như “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lí”.
43. Lạm dụng thiên nhiên. Đây là một ngụy biện rất thông thường trong giới chính trị gia, mà trong đó họ tìm cái tương đồng giữa một kết luận nào đó và một khía cạnh của thế giới tự nhiên, rồi từ đó phát biểu rằng kết luận đó là không thể tránh khỏi. Chẳng hạn như “Đặc điểm của thế giới tự nhiên là cạnh tranh; động vật đấu tranh chống nhau để làm chủ tài nguyên thiên nhiên. Chủ nghĩa tư bản, một hình thức cạnh tranh để làm chủ tư liệu, chỉ đơn giản là một phần của con người sống trong thế giới tự nhiên. Đó cũng là cách mà thế giới tự nhiên vận hành.”
Một hình thức khác của lạm dụng thiên nhiên là lí luận cho rằng bởi vì con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên, chúng ta phải bắt chước hành động theo những gì chúng ta thấy trong thế giới tự nhiên, và làm khác đi là “phi tự nhiên”. Ví dụ: “Đồng tính luyến ái dĩ nhiên là không tự nhiên.”
44. Ngụy biện “anh cũng vậy”. Đây là một trong những ngụy biện rất phổ biến. Nó dựa vào lí lẽ rằng một hành động có thể chấp nhận được bởi vì người đối nghịch đã làm. Chẳng hạn như “Anh là một người lừa dối.” “Rồi sao? Anh cũng là một tay lừa dối vậy.”
45. Lạm dụng thống kê. Thống kê thường được giới ngụy biện sử dụng tối đa, vì theo họ thống kê có thể dùng để “chứng minh” bất cứ điều gì. Người ta có thể vặn vẹo hai con số 1 và 3 điểm để sản xuất những phát biểu như “khác nhau 2 điểm”, “cao gấp 3 lần”, hay “tăng 200%”; người ta có thể dựa vào ý kiến đồng tình của 4 người trong 5 người để cho là “80% người được thăm dò”, hay thậm chí “đa số cộng đồng” đồng ý với một luận điểm nào đó. Tức là những khái quát hoá một cách vội vã, hay dựa vào một mẫu số cực kỳ thấp, thấp đến độ nó không có nghĩa lí gì. Thực ra, thống kê không chứng minh điều gì cả. Thống kê chỉ là một phương tiện hay thuật toán dùng để loại bỏ những trường hợp khả dĩ hay không khả dĩ. Vì có quá nhiều ngụy biện thống kê, nên vấn đề này sẽ được bàn tiếp trong một dịp khác.

Phần III: Kết luận
Có thể nói những loại ngụy biện liệt kê ở Phần II có những đặc điểm chung là: (a) phát biểu không dựa vào lí lẽ logic; ( b các định đề không vững để đi đến một kết luận; và © đưa ra giả định không đúng. Ngụy biện, do đó, nói cho cùng, là một sản phẩm của sự lười biếng suy nghĩ. Và hầu như trong chúng ta, ai cũng có ít nhất là một lần lười suy nghĩ. Do đó, nếu điểm qua những loại ngụy biện trên đây, chúng ta tự cảm nhận rằng trong quá khứ mình chắc cũng có lần phạm vào lỗi lầm của ngụy biện. Điều này có thể đúng, và không nên lấy làm ngạc nhiên, vì các nhà thông thái, và ngay cả giới có huấn luyện về logic học cũng đôi khi, vì cố ý hay vô tình, ngụy biện. Giới chính trị gia và truyền thông là những người cực kì nổi tiếng về ngụy biện.
Nhưng tại sao những ngụy biện vẫn còn có mặt trên báo chí? Theo tôi, bởi vì chúng vẫn có khách hàng. Vẫn có người, dù ít hay nhiều, tin tưởng vào ngụy biện, vì nó thuận nhĩ, trơn tru, và nhất là không thách thức. Sờ một hòn đá trơn tru đem lại cho chúng ta một cảm giác khoan khoái dễ chịu hơn là sờ một hòn đá lởm chởm, hay ngồi trên một cái ghế ghồ ghề. Người ta thích sự trơn tru, bởi vì trơn tru là dấu hiệu của sự khoan khoái, dễ chịu, là cái khoảng thời gian giải lao, không cần sự thách thức.
Có lẽ, ở một khía cạnh nào đó, điều này cũng không đến nỗi tệ, bởi vì những ngụy biện phản ánh sự thành công [hay có người nói sự phong phú] của ngôn ngữ trong việc tách rời giữa những gì thô thiển, gồ ghề với những gì hoàn thiện, mĩ miều. Nhưng sự trơn tru của các vật thể và ngôn ngữ ngày nay đem lại cho chúng ta một cảm giác giả tạo về thế giới thực của các vật thể. Những kì kẹt xe trên đường xá mới để lộ trái tim phức tạp của một thành phố. Tương tự, một sự cố của internet sẽ nhắc nhở chúng ta về tình trạng hỗn mang và phức tạp của hệ thống thông tin điện tử. Sự hỗn mang và phức tạp là thực. Trơn tru, tròn trĩnh có thể là giả tạo. Những câu văn ngụy biện có thể chỉ là những lời phát biểu lém lỉnh thay vì lịch thiệp, hàm chứa mánh khóe thay vì thân thiện. Có thể nói, ngụy biện là những lối sáo ngữ liến thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn người nghe/đọc, thay vì cung cấp cho họ một sự thực.
Bởi vì ngụy biện là những lí lẽ mà bề ngoài có vẻ logic, nên chúng có khả năng thuyết phục những người không chịu khó suy nghĩ, nhất là những người còn mang nặng cảm tính. Điều này giải thích tại sao nhiều người tiếp nhận một cách thụ động quá nhiều những điều quái gở về thế giới chung quanh, kể cả những niềm tin tôn giáo, những mê tín dị đoan, những triết lí quái đản, những thông tin sai lệch, v.v.. Cái tác hại của việc tiếp nhận thụ động này là nó làm cho người ta trở nên nô lệ với cảm tính, và dễ dàng trở thành những tín đồ cuồng tín của những người “lãnh đạo” chính trị hay tôn giáo.
Để không trở thành những nô lệ, cần phải suy nghĩ nghiêm túc. Suy nghĩ nghiêm túc là một quá trình hoạt động tri thức nhằm ý niệm hóa, ứng dụng, phân tích, tổng hợp, và đánh giá những thông tin được thu thập từ quan sát, kinh nghiệm, phản ánh, lí luận, hay liên lạc, như là một niềm tin cho hành động. Cần phải dựa vào những giá trị tri thức với những đặc điểm như trong sáng, chính xác, nhất quán, có liên hệ, bằng chứng tốt, lí lẽ hợp lí, có chiều sâu, và công bằng. Tức là, trước một câu phát biểu hay một đề nghị, cần phải thẩm định lại kết cấu và nguyên tố của phát biểu hay đề nghị đó. Những kết cấu và nguyên tố này là: mục đích, vấn đề, giả định, quan niệm, bối cảnh, kết luận, ngụ ý, hậu quả, phạm vi tham khảo, và quan điểm khác.
Người Việt chúng ta thường rất tự hào về những đối thoại [mà chúng ta cho là “thông minh”] giữa Trạng Quỳnh và Chúa Trịnh ngày xưa. Nhưng nói một cách công bằng và theo tiêu chuẩn của lí luận logic, thì những trao đổi của Trạng Quỳnh hay tương tự chỉ là những ngụy biện ở trình độ thô sơ nhất. Nhưng có điều đáng buồn là những đối thoại kiểu Trạng Quỳnh, mà trong đó sự hơn thua nhau từng câu nói, bắt bẽ nhau từng chữ, vặn vẹo ý nghĩa của từng câu văn, v.v… lại đi vào sử sách, như thể để làm gương cho thế hệ sau này. Mà làm gương thật. Cho đến ngày nay, có người vẫn còn cho đó là một biểu tượng của sự thâm thúy, thông minh của dân tộc, là phản ánh sự phong phú của ngôn ngữ Việt, và đem ra ứng dụng trong tranh luận.

Trong cái sự thực phức tạp, mờ mờ ảo ảo của vấn đề, có cái đẹp riêng. Không phải cái đẹp trơn tru, tròn trĩnh, nhưng là cái đẹp khắt khe của sự thật. Tương tự, một lời phát biểu nghịch lí có cái đẹp của nó, vì nó có thể đánh thức chúng ta về một thế giới phức tạp, một thế giới không nằm gọn trong đúng/sai, tốt/xấu, bạn/thù. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên vượt qua chính mình bằng cách cho các tế bào trí tuệ có cơ hội làm việc.
nguồn:diễn đàn sinh viên việt nam

Sửa bởi pth77: 03/05/2014 - 22:13


Thanked by 1 Member:

#67 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 06/05/2014 - 00:40

Khí chất sống kém sinh ra sự nhược tiểu
Nguyễn Tất Thịnh
12:46' PM - Thứ hai, 05/05/2014



Kế tục tinh thần tôi đã viết trong sách ‘Bàn về Văn hóa người Việt’, những điều mà tôi quan sát được, ghi dưới đây, thực là gặp ở khá nhiều người, nhiều nơi… Có thể vụn vặt trong đời sống bình thường hàng ngày, nhưng nhìn rộng ra xã hội, nếu chúng phổ biến đến mức tích tụ khí nhược tiểu thì tương lai sẽ u tối lắm thay, mong gì đóng góp tích cực được cho Thế giới ?!

Thực chất những điều vụn vặt như thế, ở nhiều người chỉ là ‘cái một tí’ trong tính cách nhìn qua có vẻ như thuộc về con người, ở đâu chẳng có, xã hôi nào chẳng thấy… Nhưng nếu thành tập tính sống, nó không đủ lượng khiến người phải tính, chẳng đủ chất để người muốn dùng, bởi vậy nó như là cái ‘gen bản ngã’ của họ, nguyên nhân chính của sự nhược tiểu

Trong bài này tôi ngụ ý rằng : Khí chất sống không phải là điều chỉ mong có ở những con người to tát về cương vị hay tuổi đời. Nói đúng hơn: khí chất trong mỗi người khiến đời sống của họ phát triển, Thiên hạ phải nể phục, có hay không tùy thuộc vào những điều tưởng như vụn vặt hàng ngày họ đã thể hiện và đối xử như thế nào…

Đất nước nào cũng có một vài quốc gia bên cạnh, luôn có tính hai mặt tốt / xấu. Nhưng nếu Văn hóa làm nên khí chất người dân Đất nước mình sáng mạnh thì sẽ tiếp thu được nhiều cái hay, lọc bỏ đi nhiều cái dở…Những điều tôi ví dụ dưới đây với ý nghĩa phản tỉnh thái độ sống để dũng cảm thay đổi tích cực, khiến các ngoại bang phải kính trọng thêm nhiều phần !
- Phải đi bộ một tí đã kêu xa nên tìm cách lôi chợ quê về sát chung cư, đi xa một tí đã dựa dẫm xe máy, một tí buồn ngủ đã muốn ngắt đoạn chương trình, nóng một tí đã kêu, lạnh một tí đã rúm tứ túc, ngồi một tí đã đặt dẹo, xếp hàng 1 tí đã chen
- Đèn đỏ còn nửa phút chuyển sang xanh mà không thể đợi, va quệt xây xát tí xe đã lao vào xỉ vả khiến choảng nhau mẻ đầu, bị cảnh sát dừng xe vì đi sai mà chỉ tí nguyên cớ đã to tiếng cãi và nhờ vả quan trên can thiệp
- Đến quán ăn vì một tí sơ xuất mà lớn giọng xỉ vả nhân viên, hùng hổ gặp Sếp của họ để đòi đặc ân. Chỉ vì thiếu tí nước mắm bữa tối mà cả hội nhà văn nhạt mồm, chả còn tí gì ấn tượng Luvre mà người ta bỏ tiền cho họ thăm thú
- Đến dự những chương trình học hay hội nghị quan trọng, chuyên đi muộn chỉ vì một tí lý do, nghe một tí thấy khó hiểu đã chê bai diễn giả, một tí điện thoại đã làm phiền bao người khác, một tí việc phát sinh cũng nghĩ cách bỏ dở mà về
- Một tí lời người nói không đúng ý mình quay mặt giận dỗi kết luận người khác khó tính, một tí chưa vui đã thành căng thẳng, một tí vị kỷ chẳng xác đáng mà đòi bao người phải điều chỉnh hay phiền tâm
- Một tí phật ý riêng mà nghĩ cách hành người làm tắc chuyện cần của họ . Mồm nói: Tiền không thành vấn đề, nhưng vấn đề là Tiền bao nhiêu. Cái chính là Tình mà tình riêng mới là chính. Quyền chẳng là gì nhưng cái gì cũng đợi Quyền ban ý chỉ-

. Một tí cái cau m*y, lớn giọng của Sếp đã hốt hoảng, nhẹ hơn là líu lưỡi, hay nhanh chóng thỏa hiệp, đánh mất khả năng bảo vệ chính kiến, tiêu tan cái ý nghĩ hăm hở ban đầu của mình muốn nói
- Mới nói một tí điều hơi mới đã tưởng là cải cách, có một tí điều hơn đã nhìn hạ mục vô nhân, biểu lộ một tí thái độ bất đồng đã bị cho là chống đối. Một tí bất bình với kẻ càn quấy bên cạnh đã sợ vạ đến thân

Chúng ta có thể thấy một dạng thức khác của những ‘cái một tí’ mang tính chất xấu, dẫn đến sự ‘phân thân’ tha hóa, tôi tạm liệt kê như sau:
. Chưa đẳng cấp đã phân biệt – Vừa phân biệt đã suy đồi
. Chưa hành đạo người đã rất háo danh – Vừa có tí danh đã coi thường kẻ khác
. Chưa văn minh đã đồng nhất – Vừa đồng nhất đã lai căng
. Chưa biết nghề đã dạy thợ – Vừa dạy thợ đã chán nghề
. Chưa Tết đã nhất – Vừa nhất đã bét. Chưa Hè đã Hội – Vừa Hội đã chán
. Chưa có tài đã đánh mất tâm – Mới có chút tâm đã bài xích tài
. Chưa giàu đã khinh nghèo – Vừa bớt nghèo đã lụy giàu
. Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng Tổng – Vừa đe hàng Tổng đã sợ thằng Mõ
. Chưa hiểu Lễ mà đã nói đến Nghĩa – Mới làm chút Nghĩa đã kịp vô Lễ rồi
. Chưa biết tưởng hiểu, hiểu tí đã nói – Vừa nói đã sai, sai tí đã vạ miệng
. Chưa biết phận làm con đã làm cha – Vừa làm cha đã quên mất phận làm con
. Chưa đợi cùng vui đã hò nhau uống – Vừa giả lả uống đã càn quấy say
. Chưa leo lên cao đã khiến tình sơ – Vừa mới bị sơ giật mình chạy chức
. Chưa thẳng hướng đến đã rẽ ngang – Vừa mới đi ngang rổn rang bàn lùi


Còn những điều tôi viết dưới đây lại là biến thể từ sự nhược tiểu. gây nên những hậu quả rất xấu khác, nếu trở thành tập tính sống của số đông trong xã hội:
. Quen mặc cả với ma quỉ nên nghi ngờ sự vô tư của Thần Thánh - Đi với Bụt mặc áo cà sa nhưng tâm thế sẵn sàng vứt bỏ để mặc áo giấy – nên Ma không sợ, Bụt không quý. Không ở hiền nên chả gặp lành, nếu gặp chưa lành giải pháp là chả ở hiền nữa

. Chưa biết đích đến đã nghĩ đi tắt, đang bị lạc mà đòi đón đầu. Lúc nào cũng vội nhưng luôn bị muộn. Chưa khôn đã nghĩ mưu, rất hàm hồ mà sa vào cảm tính. Chưa hiểu điều lớn đã coi thường điều nhỏ, vừa làm điều nhỏ đã đánh mất điều lớn.

. Là người lao động mà chẳng thực cần lao, chưa làm đã sợ thiệt . Không cố gắng làm đúng, đủ mà dành nhiều tâm trí cho việc làm tắt, ăn bớt. Tự nhận thông minh nhưng rất ít sáng tạo, quay ra tự sướng mình đưa Cuội lên Mặt Trăng

. Chị ngã em nâng nhưng lại đào hố bẫy người. Lá lành đùm lá rách nhưng chả muốn ai lành hơn mình. Một con ngựa ko ăn cả tàu bỏ cỏ vì buồn kiếp ngữa bị giết mổ chứ ko phải là Ngựa chiến.

. Lựa chọn kết bè với nhau bởi tương đồng hay cùng muốn mang âm mư¬u từ quá khứ đến tương lai. Hay nói đạo đức nhưng rất thiếu trách nhiệm. Không thích đứng sau ngư-ời khác vì hãnh tiến chứ không phải có phẩm chất ưu trội

. Mua bán mọi thứ ngay cả khi không có tiền, dám làm tất cả khi đã có tiền - Được làm vua thua làm giặc, nên chất giặc trong vua và làm vua bọn giặc. Liều lĩnh khi làm điều xấu nhưng rất đắn đo khi làm điều tốt .

. Rất kém chung nhau đầu tư xã hội, nhưng bầy đàn chen chúc nhau đầu cơ. Giỏi mưu cầu lợi ích cá nhân mà không cam kết được lợi ích của đối tác. Không có cống hiến nên trở thành loài kí sinh

. Không có người tiên phong nhưng rât nhiều kẻ xúi bẩy. Không biết làm bạn nhưng rất giỏi kết bè. Rất sợ chết nhưng sống rất liều. Muốn hòa bình nhưng cách sống rất gây xung đột
. Giỏi nịnh làm vừa lòng người này nhưng lại làm mất lòng người khác - Thật thà mà không đi đến chân lí – Thẳng thắn mà bất chấp sự thật . Không biết nể người làm điều đúng mà rất sợ những đứa làm sai

. Mê tín mà không có đức tin, rất đa nghi vì không biết sống thiện. Đổ tại Khoa học là lý thuyết nên không chịu thực hành đúng sa vào hành động bản năng. Không tin việc tổ chức đang làm mà tranh cơ đoạt vận và dựa vào may rủi.

. Kém văn minh nhưng lại tự hào là rất văn hóa. Không phát triển mà lịch sử rất dày. Rất nhiều phong tục mà ít nghi lễ. Không biết lễ nghĩa mà đòi học phép lịch sự Thiếu tôn nghiêm ngay cả khi hát quốc ca

Từ vài điều trên, tôi cho rằng tầng lớp cao của xã hội ( giới quyền chức, nhân trí sĩ, doanh nhân…) tuy chiếm số ít về tỉ trọng dân số, nhưng ‘cái một tí’ của họ lại thực sự ảnh hưởng mạnh lắm đến các tầng lớp còn lại. Thế nên rất cần cái chất ‘đẳng cấp cao’ trong hành vi ứng xử, lối sống, lao động sẽ hướng đạo cho dân chúng có được trong cộng đồng xã hội những ’cái một tí’ sao cho hay ho để trở thành khí chất mạnh mẽ của Đất nước. Bởi vậy tầng lớp cao của XH phải nhận trách nhiệm chính và cao nhất về Khí chất của Đất nước mình


Sửa bởi pth77: 06/05/2014 - 00:41


Thanked by 3 Members:

#68 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 06/05/2014 - 01:03

Con gà băng qua đường


Phía đằng xa, một con gà đang băng qua đường. Vấn đề đặt ra là tại sao con gà đó lại… băng qua đường? Dưới đây là câu trả lời của một số giới:

Ý kiến sơ bộ của 1 số vị nổi tiếng:

- Platon: Vì như vậy là tốt cho con gà ấy: bên kia đường là đúng.

- Aristote: Vì bản chất của con gà là băng qua đường.
- R. Descartes: Để đi qua phía bên kia đường.

- Galilee: Và thế là con gà đã băng qua đường!

- S. Freud: Việc bạn bận tâm đến việc con gà băng qua đường cho thấy cảm xúc tình dục bất an của bạn.

- De Gaule: Con gà có thể đã băng qua đường, nhưng nó còn chưa băng qua quốc lộ.

- M. Luther King: Tôi mơ về một thế giới mà ở đó tất cả gà đều có thể được băng qua đường mà không cần biết lý do tại sao.

- R. Nixon: Con gà không có băng qua đường. Tôi lặp lại: con gà không bao giờ băng qua đường.
- G. W. Bush:
- Việc con gà đã băng qua đường bất kể nghị quyết của LHQ chứng tỏ một sự đối đầu với dân chủ, tự do, công lý. Điều này cho thấy lẽ ra chúng ta phải dội bom con đuờng này từ lâu rồi. Để đảm bảo cho hòa bình trong vùng này, tránh việc các giá trị mà chúng ta bảo vệ bị xâm hại, chúng ta quyết định gửi 17 hàng không mẫu hạm, 146 máy bay tiêm kích, 250,000 quân, 154 tên lửa hành trình đến để xóa bỏ mọi dấu vết của con gà tại vùng này trong vòng bán kính 5,000 km. Sau đó, chúng ta quyết định sẽ thay mặt thế giới cai trị vùng này, thiết lập hệ thống các chuồng gà theo những chuẩn mực an ninh phù hợp nhất. Con gà trống lãnh đạo các chuồng gà sẽ được bầu chọn một cách dân chủ. Để cân đối chi phí chỉ cần kiểm soát các loại thực phẩm chế biến từ trứng gà trong vòng 30 năm mà thôi. Trong vùng đất mới của công lý, tự do và dân chủ này, chúng ta có thể đảm bảo rằng không bao giờ còn có chuyện gà băng qua đường nữa, và cũng chẳng còn con... đường nào trong vùng nữa.
- Chúng tôi không cần biết con gà có qua đường hay không, điều chúng tôi quan tâm là nó đứng ở phía nào của đường, một là phía chúng tôi, hai là phía bên kia, không có 1 vị trí trung lập nào cả !

- V.Putin: Gà đã chiếm một vị trí quan trọng từ sau khi kết thúc chiến tranh Lạnh. Vấn đề bây giờ là chúng ta phải đưa gà vào đúng quỹ đạo mong muốn của nó.
- Alex Ferguson: Phong độ của con gà khi đi qua đường có thể là nhất thời, chỉ có đẳng cấp của nó là vĩnh cửu.
- David Beckham: Con gà đi qua đường nhờ sử dụng dầu nhớt Catrol Power 1- Uy lực của Beckham
- Shinichi Kudo: Dựa vào dấu chân để lại kết luận con gà đã qua đường.

- Mourinho: Không cần ghi nhiều bàn, chỉ cần con gà qua đường.

- Moggi: Con gà đang trên đường xuống Seri B

- Marcello Lippi: Chúng ta cần nhường quyền kiểm soát đường phố cho con gà. Việc của chúng ta là chăng bẫy.

- Federer: Con gà mang bước chạy của Nadal .
- Đội đua Relnault: Đã tìm thấy thành viên mới cho mùa giải sau.

- Jose Mourinho: Tôi đi đường của tôi, tại sao tôi phải né con gà

- Hugo: con gà, cẩn thận đấy nhééé, bấm phím số 4 để qua trái và số 5 để qua phải, trên đường đi phải cẩn thận cạm bấy đấy nhééé, ồ không, con gà đã thua rồi, số điểmcủa con gà là 0 điểm.
- Ramon Calderon: Tôi sẽ đưa bằng được con gà về phố Phạm Ngọc Thạch!

- Vương Ngọc Yến (trong Thiên Long Bát Bộ): Nếu xét về vị trí của các dấu chân trên đường thì đây là chiêu ” OK quá quan ” ( gà đen qua đường ) trong bộ pháp ” Lăng Ba vi bộ“

- Tiểu Long Nữ (TĐHL): Con gà qua đường ư? Thế liệu nó có được lấy học trò của nó không?

- Tào Tháo: Con gà chăm qua đường làm gân to, ăn ko được, bỏ thì tiếc.

- Mỹ Tâm: Gà que gà que bướcccccccccc wa đường kia . Gà que gà que tóc nâu là em đó

- KFC: Cài con gà này … dám xổng chuồng … thế thì bữa nay mình lấy con nào làm FireChicken bây giờ …

- Dương Qua: Gà có biết cô cô của ta ở đâu không?

- Hậu Nghệ: (rút cung tên ra)

- Hồng Thất Công: Tỉnh ơi hôm nay ta sẽ dạy cho con chiêu…

- Gunbuond played: đi lang thang trên đường có con gà có con gà.Gà ko biết bắn là con gà quay.

- Mỹ Linh: Chị thấy gà hôm nay qua đường rất xuất sắc, nhưng thật tiếc là gà đã chọn sai đường. Gà cần phải cố gắng ở lần sang đường tới, nhưng chị vẫn bỏ phiếu bầu cho gà.

- Long Vũ:
-(BL thể thao) Con gà đang băng quá đường… băng qua đi! … Băng.!!!! … không qua đường! Thật đáng tiếc thưa các bạn…
- (MC Chiếc nón kỳ diệu) Vâng, con gà đã lọt vào ổ voi số 4, như vậy con gà có nên chơi tiếp hay ngưng cuộc chơi ạ ?

- Lại Văn Sâm : Ô kìa ! con gà sắp qua đường !!! ô ô , Qua đường rồi !!! vậy là con gà đã qua đường… vâng xin cám ơn, xin cảm ơn !

- Lại là Lại Văn Sâm: xe nhiều quá, con gà có muốn xài quyền trợ giúp nào ko? 50:50 nhé, hay gọi điện thoại?

- BLV Quang Huy :ko được rồi thưa các bạn,con gà đã việt vị rồi !

- Thảo Vân: Chương trình hôm nay có sự tham gia của anh Đức Hiệp

- Bùi Tiến Dũng: cá 2 triệu USD là con gà không thể sang đường, chắc chắn nó sẽ sụp ổ voi vì đây là đường do PMU18 làm chủ đầu tư.
- Đỗ Tư Đông (Nguyên phó chủ nhiệm Khoa báo chí, Trường CĐ PT-TH TW1): Gà muốn qua đường à, thì đôi bên phải cùng có lợi, hay là để thầy đèo gà qua đường nhé, tiện đường mình ghé qua nhà nghỉ.

Ý kiến của cộng đồng quốc tế

- WHO: 1 vấn đề được đặt ra, liệu con gà có bị nhiễm H5N1 ko

- OPEC (Tổ chức các nước xuất khẩu ... cám gà): Nhiều khả năng, giá cám gà sẽ còn tăng cao nữa và có thể đạt đến ngưỡng 100USD/thùng vì hiện nay, nguồn cung đang thấp hơn lượng cầu và sản lượng của OPEC đã tới giới hạn.
- CHDCND Triều Tiên: Chúng tôi sẽ cho gà đào đường, nhiều khả năng, gà có thể đào được đường tới tận Nhật Bản và có thể là cả Mỹ.

- Iran: Chúng tôi sẽ ủ phân gà qua đường nhưng để phục vụ mục đích hoà bình.

- Iraq: Chúng tôi cấm toàn bộ gà qua đường vì nhiều khả năng chúng sẽ mang bom cảm tử.

Ý kiến của 1 số Bộ ngành:

- Bộ ngoại giao:
- Chúng tôi cực lực lên án việc con gà qua đường….điều này hoàn toàn là một sự vi phạm nghiêm trọng về….luật an toàn giao thông……
Chúng tôi đã cố hết sức xin sự giúp đỡ của LHQ, đề nghị con gà ở nguyên tại chỗ, chui vào hầm trú ẩn chờ LHQ sắp xếp phương án đưa qua đường an toàn, tránh bom và tên lửa của Israel.

- Bộ Thuỷ sản: Chúng tôi không hề biết có con gà qua đường, bão Chanchu không qua đường đó.
- Bộ Tài chính: Chúng tôi sẽ cho phép nhập khẩu loại cầu vượt đã qua sử dụng, như vậy gà qua đường sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn khi muốn băng qua đường. Có điều, gà muốn sử dụng cầu vượt đã qua sử dụng thì phải chịu Thuế nhập khẩu, Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế VAT và một số loại thuế khác để bảo hộ cho cầu vượt sản xuất trong nước.
- Bộ Thương mại: Quá trình đàm phán để gà có thể sang đường đã gần như hoàn tất. Nhưng rất tiếc chúng tôi chưa thể công bố các nội dung đàm phán, các nhượng bộ của mình được vì chúng tôi... chưa có thời gian.
- Bộ GDĐT: Tỷ lệ gà qua đường đạt 100%, trong đó số gà qua đường khá và giỏi chiếm 99%, không có gà qua đường xếp hạng yếu.
- Cục Đường bộ (Bộ GTVT): Tất cả gà qua đường đều phải khâu các loại túi lại, không được đem theo số tiền vượt quá 20.000 VNĐ để tránh làm "hư hỏng" các cán bộ soát vé tại các Trạm thu phí đường bộ.

- VN Airlines: Chúng ta cần phải thuê con gà khác, con gà này không sang được đường vì chân nó chỉ phù hợp cho nhảy qua rãnh nước hoặc cùng lắm vượt qua ngõ.
- VNPT: Chúng tôi không thể mở cầu vượt qua đường cho gà vì E-phone chưa chuẩn bị kỹ các phương án kỹ thuật đảm bảo cho gà qua đường an toàn.
- VFF (Liên đoàn bóng đá VN): Trong vòng 10 năm tới, chúng tôi sẽ đưa gà VN vào top 10 gà qua đường nhanh nhất Châu Á và có thể dự World Cup gà qua đường 2018.
- E-phone: con gà của chúng tôi không thể qua đường vì VNPT đã không chịu mở đường cầu vượt.

Ý kiến của 1 số đại diện ngành nghề:

Nhà Sinh học: Con gà băng qua đường là một động thái cân bằng hệ sinh thái môi trường.

Nhà Vật lý: ta không thể nói con gà băng qua đường nếu không có một hệ quy chiếu đúng, trong đó lề đường sẽ làm gốc tọa độ, chiều dương là hướng bên kia đường.

Nhà Toán học: căn cứ vào vận tốc của con gà vào thời điểm hiện tại thì nó sẽ gặp chiếc xe tải đang tiến tới tại giữa đường

Nhà Hóa học: việc con gà băng qua đường có thể sẽ mang đến một nguyên tố mới trong bảng tuần hoàn.

Nhà Logic học: nếu không có gì hấp dẫn con gà ở bên kia đường thì nó sẽ không băng qua đường, vậy có thể kết luận rằng bên kia con đường có điều gì đó hấp dẫn con gà băng qua đường.

Nhà thần học: phải chăng con gà muốn thay đổi tôn giáo của nó?

Nhà tư tưởng học: Rõ ràng ta không thể nói "con đường đang băng qua con gà" được vì vậy "con gà băng qua đường" là một tinh thần đúng đắn.

Nhà văn: "Con đường nhỏ nhỏ, gió hây hây. Gà muốn băng qua để tìm bầy"

Cảnh sát giao thông:

Con gà sẽ không phạm luật nếu nó có đội nón bảo hiểm

- Thứ nhất: Gà là loài lông vũ, không được phép đi qua đường mà phải bay qua đường. Thứ hai: Gà qua đường không đúng vạch sơn. Thôi "làm luật" đi.

Cảnh sát hình sự: Hãy theo dõi con gà cho đến khi nó băng qua bên kia con đường. Đừng để một án mạng đáng tiếc xảy ra.

Cảnh sát dân sự: có lẽ không nên phạt con gà này vì xét ra nó cũng có quyền...gà sự.
Công an Hộ khẩu: Gà muốn qua đường để vào chuông bên kia đường hả. Vậy phải xin giấy phép của chuồng bên kia đồng ý cho vào nhé. Làm sao để xin giấy phép ấy à. Đơn giản lắm, chú phải sang bên kia đường đã!!!

Luật sư tố tụng: Căn cứ vào điều 24 c bộ luật dân sự, tôi tố cáo con gà đang xâm nhập gia cư bất hợp pháp.

Luật sư bào chữa: Phản đối, thưa quý tòa. Vì thân chủ của tôi có thể quay lại khi ông ta vừa tới mép đường.
Đám sinh viên: trố mắt nhìn theo ” gà kìa , gà kìa tụi m*y “.
Gà trống: chà đây có phải gà mái ko nhỉ???
Cáo: nó đi qua đường thế này thì mình phải đi theo nó à, xe tông chít!!!!
Sói: Này gà, hãy liệu hồn đấy !

Ranh ngôn thế kỷ
Những câu nói nổi tiếng của những người nổi tiếng

George Bush: Chúng tôi không thực sự quan tâm tại sao con gà lại đi qua đường. Chúng tôi chỉ muốn biết con gà có ở cùng phía của con đường với chúng tôi không. Nó hoặc là cùng phía với chúng tôi, hoặc là ở phía bên kia, không hề tồn tại một chỗ đứng trung gian

Bill Clinton: Tôi không hề qua đường với con gà đó. Nói con gà là có ý gì? Có thể định nghĩa con gà không?

Saddam Hussein: Ðây là một hành vi nổi loạn vô cớ và chúng tôi đã nhất trí với việc đổ 50 tấn gas vào đó.

Nelson Mandela: Nếu con gà đó là da trắng, liệu người ta có đặt câu hỏi đó với nó không?

Yasser Arafat: Chúng tôi không thể ngăn con gà đi qua đường nếu phía bên kia không chịu thực hiện lệnh ngừng bắn.

Bill Gates: Chúng tôi vừa xuất bản phần mềm Con gà 2003, không những biết đi qua đường mà còn biết đẻ trứng, sắp xếp các tài liệu quan trọng và cân đối các khoản chi tiêu cho bạn – và Internet Explorer là một phần không thể gỡ bỏ của nó.

Osama bin Laden: Gà của chúng t*o không qua đường. Chúng nó đi với niềm tin và bom giấu trong những quả trứng.

Ernest Hemingway: Ðể chết. Dưới mưa. Trong cô đơn.

Luther Martin: Tôi mường tượng một thế giới mà mọi con gà có thể tự do qua đường mà động cơ của chúng không bị đặt câu hỏi.

Aristotle: Bản chất của gà là đi qua đường.

Karl Marx: Ðó là một quá trình lịch sử tự nhiên tất yếu.

Albert Einstein: Liệu có phải con gà đi qua đường hay con đường chuyển động bên dưới con gà.

Kinh thánh: Và Chúa hiện ra tự thiên đàng, người nói với con gà: “Ngươi phải đi qua đường”. Vậy, con gà đi qua đường và đã có nhiều hoan hỉ.

Ðức Phật: Hỏi câu hỏi này là đã tự từ chối bản chất gà trong người bạn.

Goeth: Mọi lý thuyết đều xám xịt, chỉ có sự thật là con gà đã qua đường như cây đời mãi mãi xanh tươi.

Darwin: Gà, sau một quá trình chọn lọc của tự nhiên, đã được sắp đặt về mặt di truyền để thích hợp với việc qua đường.

Kim Woo-chung: Thế giới quả là rộng lớn và gà có nhiều việc để phải làm. Ði qua đường là một trong số đó.

Lỗ Tấn: Thế giới này vốn không có đường, gà đi mãi cũng thành đường.

Thành Cát Tư Hãn: Vó ngựa Mông Cổ đi đến đâu, gà không qua đường được đến đó.

Đặng Tiểu Bình: Gà trắng gà đen không quan trọng, miễn là qua được đường.

Maslow: Việc đi qua đường của con gà là nhằm thoả mãn nhu cầu tự khẳng định, bởi nó là con gà duy nhất trong đàn dám vượt qua con đường đông đúc này.

Roh Moo-hyun: Con gà này đang chạy trốn nạn dịch cúm ở Hàn Quốc.

John Lennon (tặng Ena) : Imagine all the chicken crossing road in peace.

Mạnh Tử: Con gà qua đường thì nói qua đường, không qua đường thì nói là không qua đường. Như vậy mới là qua đường .

A.Sharon : chúng tôi vẫn tiếp tục theo đuổi chiến dịch ám sát những con gà qua đường của nhóm Hamas .

Đại gia người Nga Abramovich (chủ CLB Chelsea) : Các ông phải mang được con gà đó về đây cho tôi, nếu chúng nó không bán thì hãy trả lời cho tôi trại gà đó đáng giá bao nhiêu tiền...

Dương Lợi Vĩ(nhà du hành vũ trụ đầu tiên của TQ): cả con gà và con đường đều không thể trông thấy thấy từ vũ trụ .

Hoa hậu hoàn vũ 2003 Amelia Vega: ''Bí quyết để qua đường thành công: Ở đâu cũng luôn là chính mình.''

Lucky Luke : nó là chàng gà cô đơn, và đường về nhà còn xa ... xa lắm .

Gabriel Garcia Marquez : Vì nó muốn bỏ đi sau khi vừa nhận ra "Bạn bè là một lũ con hoang !"

V.I.Lenin: Con gà qua đường, qua đường nữa, qua đường mãi...

Ông già Noel : Khổ thân con gà Tây, chỉ còn hai ngày nữa...

Claudia Schiffer: Đi kiểu gì cũng phải đầy tự tin, hấp dẫn và gợi cảm

Hamlet : qua đường hay không qua đường, đó là vấn đề (của con gà)

Juilliet : xin chàng đừng lấy gà kia mà thề thốt, vì gà kia chạy đi chạy lại mỗi tối đi về

Tướng Nava (tại chiến dịch ĐBP) : Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sẽ nghiền nát gà chủ lực Việt Minh ra thành cám gà...

Nixon : Đưa gà Bắc VN về thời kỳ đồ đá .

Nhà hiền triết: Con đường có trước hay con gà có trước ???

H-C-M: Dù có mất một chân, một cánh hay rách mào... chúng tôi tin rằng con gà nhất định sẽ vượt qua được con đường gian khó...

J.F.Kenedy : đừng hỏi gà đã làm gì cho bạn mà hãy hỏi bạn đã làm gì cho gà

Acsimet : hãy cho con gà một điểm tựa, nó sẽ nâng bổng cả Trái Đất .

Galilé : Các con gà dù nặng hay nhẹ, khi rơi đều rơi với cùng một gia tốc .

Newton : nếu ta tác động vào gà 1 lực thì gà cũng tác động vào ta 1 lực tương ứng .

Azit Nesin: Những con gà nó thích đùa .

Kim Dung : con gà dùng phép "Lăng ba vi bộ" để qua đường

Tuyên ngôn độc lập Mỹ: Mọi con gà sinh ra đều có quyền bình đẳng...

AQ: Nó chửi gà nhà mình cũng như nó chửi gà nhà nó

Ferma: Con gà băng qua đường, thế là nó tồn tại

Mikhai Solocop: Con gà đã băng qua đường như thế đấy

Ludwig von Bertalanffy: Ấy đấy, chẳng qua về bản chất, đó là sự chuyển động của 1 hệ thống tên là "con gà".
Giới nữ: Đó chỉ là hình thức, là kết quả do mắt đem lại. Dù con gà làm gì thì nó cũng là loài gia cầm (cánh chị em) cho trứng, thịt thơm ngon bổ, nhưng không rẻ.
Lại chuyện con gà:
- H-C-M: Con gà qua đường, đồng bào có nghe rõ không nhỉ?

- Vương Ngữ Yên : Nếu xét về vị trí của các dấu chân trên đường thì đây là chiêu " OK quá quan " ( gà đen qua đường ) trong bộ pháp " Lăng Ba vi bộ"

- Tiểu Long Nữ : Con gà qua đường ư? Thế liệu nó có được lấy học trò của nó không?

- Dương Quá : Gà có biết Cô Cô của ta ở đâu không? Qua đường rồi nhớ e-mail về cho ta nhé!

- Lệnh Hồ Xung: Ê! Gà, quay lại đây làm chén rượu cho ấm người.

- Tào Tháo: Con gà chăm qua đường làm gân to, ăn không được, bỏ thì tiếc..

- Trạng Quỳnh: Xơi tái ư? Không! Cứ để nó qua đường. Con gà béo thế này thì ăn 1 lúc sẽ rất uổng (vì gà chỉ còn 1 bên cánh)

- Đông Tà: Vì bức ảnh của con gà ở bên kia đường, nó phải sang để xoá tấm ảnh ấy đi.

- Lệnh Hồ Xung: Vì con gà gõ tiếng Việt không dấu nên chủ nó đuổi nó chạy qua đường.

- Thầy Nguyễn Việt Khoa: Đơn giản thôi,con gà đang phải chạy đi mua tài liệu ôn thi.

- Hoàng Thùy Linh: Bởi vì con gà đã bị lộ cái vụ phim độc kia.
- Bộ Văn hóa thể thao: Nó chạy vì sợ phạt 80 tr. do để lộ "cái lườn" khi diễn...

- Du Thản Chi: A Tử có thích ăn thịt gà không nhỉ?

- TruongXua: Con gà phải tự đi qua đường vì nó không có bó Lá me trong tay.

- Nokia: Không chỉ có qua đường – con gà còn làm được nhiều việc khác nếu như sử dụng hệ điều hành Symbian của chúng tôi

- Motorola: Con gà hãy đi về phía chúng tôi - Chúng tôi có 1 công cụ cắt cổ gà cực chuẩn với lưỡi dao cạo rarz

- Samsung: Hãy đến đây , con gà sẽ không bao giờ chết đói vì trong cám gà luôn luôn có những vỏ sò của chúng tôi

- Sony Ericsson: Con gà sẽ trở nên pro hơn nếu đi qua đường với chiếc walkman phone trên tay

- China mobile: Chúng tôi là bản sao hoàn hảo và nhanh nhất từ khi con gà mới nở đến khi nó đi qua đường.

- Vietel: Con gà đang nói theo cách của nó.

- Con gà: Mọi người đừng quan tâm đến tôi mà hãy quan tâm đến quán KFC bên kia đường ấy

- Nông dân: Này gà, cầm theo nắm lá chanh

- Cảnh sát giao thông: Thôi rồi gà ơi, con không đội mũ bảo hiểm và mang theo giấy phép. Đứng ngay lại, vào đây!

- Người phát ngôn Bộ ngoại giao: Việt Nam phản đối chuyến thăm của con gà khi nó băng qua đường. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử cho thấy việc con gà băng qua đường là vi phạm chủ quyền, toàn vẹn...
Nguon: ST

Sửa bởi pth77: 06/05/2014 - 01:06


Thanked by 1 Member:

#69 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 06/05/2014 - 15:49

Tri âm như thế mới là tri âm!

Tác giả: Đào Dục Tú
KD: Không phải ai cũng tìm được tri âm, tri kỷ. Cũng không phải ai cũng có thể trở thành tri kỷ, tri âm của ai. Cái khái niệm mà người xưa đã phát hiện để người đời nay luôn ao ước đó, đòi hỏi con người phải có một phẩm chất, một tố chất, một phẩm cách- biết lắng nghe, biết chia sẻ, biết đau cái đau của bạn, biết vui trước niềm vui của bạn. Chứ không thể chỉ lấy mình làm trung tâm, ích kỷ, chỉ biết lợi ích bản thân mình nhân danh đủ thứ…
Muốn làm được tri âm, tri kỷ, phải biết cho đi, đề rồi cuộc đời, nhân gian sẽ … tặng lại.
Mấy ai đã hiểu được tri âm, tri kỷ tận ngọn nguồn?
Cảm ơn anh Đào Dục Tú

Ở đời mấy ai không có bạn? Mỗi khi xẩy ra sự cố gì liên quan hoặc liên tưởng đến bằng hữu, không hiểu sao tôi hay nhớ đến câu thơ của cụ Tú thành Nam “Tương tư lọ phải là trai gái- Một ngọn đèn khuya trống điểm thùng”..Mường tượng cụ Tú ngồi một mình với ngọn đèn khuya; trống cầm canh điểm một tiếng “thùng” chìm vào đêm, càng làm cho đêm sâu thành Nam vời vợi cô tịch hoang liêu .

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Bá Nha- Tử Kỳ. Nguồn: Trên mạng

Cụ đâu có nhớ nhân tình, cụ nói thế là nhớ bạn nam nhi, nhớ bằng hữu chí cả đồng trang lứa rồi! Nghe nói bình sinh hai cụ Phan Bội Châu – Tú Xương gặp nhau đâu chỉ một đôi lần gì đó thời cụ Phan tìm đường, tìm “đồng chí”, thực hiện hoài bão đông du cứu nước. Giữa hai cụ tri âm tri kỷ đến đâu, cụ thể thế nào, không ai biết mà cũng chưa thấy ai viết . Ví như tình bạn giữa cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến với cụ Dương Khuê đầu thế kỷ 20 người đời sau còn được biết qua những câu thơ như “Nhớ từ thủơ đăng khoa ngày trước- Lúc sớm hôm tôi bác cùng nhau- Kính yêu từ trước tới sau- Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời” (tôi nhấn mạnh “duyên trời”).

Còn cụ Tú Xương với cụ Phan, người đời chỉ suy đoán cụ Tú nhớ “người trong mộng” đến mức gần như hoang tưởng. Này nhé “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai- Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”. . . . Ngày đó sông Vị Hoàng chưa “Thế gian biến cải vũng nên đồi”, đất thành Nam xưa chưa rơi vào cảnh “thương hải tang điền”- nương dâu bãi biển. Nghe tiếng ếch kêu cụ Tú tưởng tiếng ai kia mà lòng những thương những nhớ gọi đò, gọi người, gọi mình. . . . .Gặp nhau mới có một đôi lần mà “duyên trời” quả là “tuyệt hảo từ”.
Hóa ra ở mối tương giao tương tri bằng hữu quý hóa, thời gian dài ngắn chẳng có vị thế gì như người ta tưởng. Thời gian cũng như không gian trường đoạn, địa lý xa gần, tương tự. Nhớ câu thơ cổ nhiều người tâm đắc: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ- Vô duyên đối diện bất tương phùng”, có duyên với nhau thì ngàn trùng xa cách cũng thấy gần, như là . . .gặp nhau vậy. Còn đã vô duyên thì ngồi đối mặt. . . đối ẩm “cà phê đầu tuần” “cà phê cuối tuần” “quốc lủi giữa tuần”. . . cũng xem như xa lắc.
Xa hay gần, lâu hay mau đối với tiền nhân chọn bạn mà chơi chưa bao giờ thành “hòn đá thử” sức bền quan hệ, mà chính là thế giới tinh thần tình cảm của họ. Khi họ đã bắt được tần số sóng âm của nhau thì đó chính là “duyên trời”, là “hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”. Có hai loại sóng âm đặc biệt nhất trong mối tương giao giữa người và người là tình yêu trai gái, lứa đôi vĩnh hằng và tình bạn hữu cao quý. Nên cụ Tú thành Nam mới nhắc người đời: “tương tư lọ phải là trai gái” (“lọ” từ Việt cổ, nghĩa như “đâu”- nghi vấn từ, nay gần như mất dấu). Đâu chỉ có tình trai gái mới nhớ nhau, cho dù đấy là nỗi nhớ đáng… kể, đáng nể nhất ở trường đoạn thời gian thanh xuân đẹp nhất đời người. Thời nào chả thế, “có nam có nữ mới nên xuân”, các cụ nói, lại nói bằng thành ngữ, có bao giờ sai! Mà không có xuân còn chi là đời!
Bạn tri âm, nhiều người chỉ cần có vốn văn học cổ tầm tầm cũng biết xuất xứ từ một điển cổ văn học cổ Trung Hoa, chuyện Bá Nha với Tử Kỳ. Khi Bá Nha gẩy đàn, trong đầu anh ta nghĩ gì, cảm gì thì “phổ” vào tiếng đàn, ví như nghĩ đến suối reo thì tiếng đàn như có tiếng suối reo, nước chẩy chẳng hạn,vân vân. . . Chợt nhớ thơ Kiều tả tiếng đàn của nàng Kiều qua thẩm âm của cụ Nguyễn Tiên Điền và. . . chàng Kim :” Trong như tiếng hạc bay qua –Đục như nước suối mới sa nửa vời- Tiếng khoan như gió thoảng ngoài –Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”.
Chả biết chàng Kim thẩm âm ra làm sao, chỉ thấy “phán” rằng: ” Rằng hay thì thật là hay-Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” !. Còn tiếng đàn Bá Nha ?. Duy nhất chỉ có một anh chàng Chung Tử Kỳ là “lắng tai nghe” thấy tiếng đàn Bá Nha mà thôi. Nên khi Tử Kỳ qua đời (chắc vì bạo bệnh, chết trẻ) Bá Nha cũng đập tan “cây đàn nuôn điệu” (Thế Lữ) của mình, nhìn đời bẳng. . . “nửa con mắt trắng”, mắt xanh chẳng để ai vào. . . .vì cho rằng thế gian này không còn ai “biết ” ( nghĩa của “tri”- chữ Hán) nghe, biết thưởng thức, biết thẩm âm, biết bình giải tiếng đàn hàm chứa “tiếng nói trái tim” của anh ta nữa!
Chợt nhớ câu thơ Kiều tuyệt hay nhắc tới điển cố này “Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ”. Thế mới hay người xưa cao kiến, cao thủ quá trong việc “chọn bạn mà chơi”, mà giao du học hỏi, mà bồi bổ cho nhau thế giới tinh thần tình cảm qua thế giới nghệ thuật cầm kỳ thi họa. “Tương tri như thế mới là tương tri”, “Tri âm như thế mới là tri âm” đáng ngả mũ nghiêng mình kính nể, ngưỡng vọng chứ! Đấy là, thường là các bậc hiền giả ,hiền sĩ, ” hiền nhân quân tử” (Chữ của Bà Chúa thơ Nôm); nghĩa là những người có học, có “chữ thánh hiền”, những người cõng ba bồ sách thiên hạ hoặc chí ít cũng cõng một hòm sách quý trên lưng!
Còn người bình dân tương tư- nhớ nhau thì giản dị chất phác lắm lắm. Nhớ câu ca dao Nam Bộ “Cơm ăn một bát lưng lưng- Uống nước cầm chừng để dạ thương em”. Thứ cơm ấy, thứ nước ấy chắc chắn trăm phần không phải của nhà phú hào quen với của ngon vật lạ, sơn hào hải vị, lại càng không phải đặc sản rừng, đặc sản biển cộng “uyt-sơ-ki” Tây xịn bạc triệu đắt tiền.
Có một thực tế không ai phủ nhận được là từ cổ chí kim, những mối tương giao tri âm bị tan vỡ bởi sự bội phản lọc lừa thì ở giới bình dân, ở người lao động mưu sinh nhọc nhằn bao giờ tỷ lệ cũng thấp, cũng nhỏ bé so với giới thượng lưu quý phái quý tộc “quý của hơn người” “quý vàng hơn nghĩa”; so với đủ loại đại ca đại gia “trọng . . . chân dài” hơn trọng nghĩa phu thê!. Tự nhiên nhớ tới những câu ca dao vừa quen lại vừa lạ. “Một ngày hai bữa cơm đèn- Lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng”, “Chồng ta áo rách ta thương-Chồng người áo gấm xông hương mặc người”, “Trèo lên trên núi đốt than- Anh đi Tam Điệp em mang nón trình- Củi than nhem nhuốc với tình- Ghi lời vàng đá xin mình chớ quên”,”Giơ tay mà ngắt ngọn ngò- Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ” vân vân và vân vân…
Người ta phải tri âm – biết tiếng nhau, biết tình nhau sâu sắc lắm lắm, tình sâu nghĩa nặng lắm lắm mới có thể cho nhau, tặng nhau, dâng hiến cho nhau một “khối nhân tình” “trong ngọc trắng ngà” cao quý như thế ở đời. Mà cuộc đời của người bình dân ngày xưa, người chân lấm tay bùn ngày xưa hết khổ ải trầm luân thời phong kiến trung cổ “một nghìn năm nô lệ giặc. . . .phương Bắc (!)” kéo thêm thời “một trăm năm nô lệ thực dân” phương Tây xâm lược thời cận, hiện đại.
Đặt những mối tri âm giữa người với người trong bối cảnh lịch sử vong quốc nô đen tối ấy, nói văn hoa hình ảnh, có khác gì những đóa sen nở trên bùn hay những ánh chớp giữa đêm đen. Những mối giao tình, thâm tình tri âm “cực chuẩn” như thế hiếm mà cũng không hiếm ở đời này. Hiển nhiên thật khó có tình tri âm “toàn diện” “thập toàn” như trong tiểu thuyết, như trên sân khấu, như . . . . thơ tình
Người ta cũng có thể chỉ tri âm một khía cạnh nào đó tùy “chuẩn mực” đạo đức hay lối sống, lối cảm, lối nghĩ của riêng mỗi người. Có người thân nhau vì cùng sở thích bóng đá, “ăn bóng đá” ” ngủ bóng đá”. Lại có người “biết” nhau vì cùng chung sở đoản. . . chơi cờ hay . . .tá lả ! Điệu nghệ hơn có đôi bạn thân nhau chỉ vì cùng sở thích “bước nhẩy hoàn vũ” chẳng hạn. . .Đẳng cấp hơn có người chơi với nhau vì cùng chung “gu nghệ thuật”, tranh cổ điển,nhạc tiền chiến, nhạc Văn Cao, nhạc Trịnh Công Sơn, nhạc Phạm Duy, Đoàn Chuẩn vân vân. Thế thôi cũng là quý rồi; ở đời mình biết cho nhau niềm vui thường nhật!
Nghĩ lan man đến thới hậu hiện đại a-còng. Thôi thì đủ loại bạn, đủ cấp độ bạn, kể cả hai thứ bạn đặc thù là bạn tình, tình nhân và bạn hữu, ai dám đoan chắc người tri âm thời nay đông hơn về số lượng và cao hơn thời xưa về chất lượng tinh thần? Các cụ dạy con cháu, cô đúc trong một câu “phú quý bất năng dâm- bần tiện bất năng di”, đại ý giầu không mê muội thay lòng, nghèo không đổi dạ. Thay lòng đổi dạ, “giầu đổi bạn, sang đổi vợ” chuyện nhỏ, chuyện thường nhật “chật chỗ” mặt báo viết đủ loại lá đa lá đề lá cải lá nho thời nay mất rồi! Các cụ nghệ nhân tuyệt vời thời xưa còn hoàn thiện vở chèo tuyệt hay về tình bạn cao cả Lưu Bình- Dương Lễ, khán giả thời nào cũng nhiều người mê. Lo cho bạn, vì bạn, được như gương Dương Lễ “tự nguyện tự giác để vợ đi nuôi bạn ăn học” đỗ đạt làm quan, đổi đời trông thấy, hỏi trong cuộc đời thực, dễ có mấy người? !
Hình như trong cuộc sống quá nhiều phần tranh đoạt, bon chen, nhiều mưu ma chước quỷ cùng quá lắm bất trắc bất an hiện nay, không hiếm nơi, không ít chỗ u u minh minh tranh tối tranh sáng. Người tri âm lặn sâu đâu chẳng thấy, chỉ thấy nổi lên quá lắm kẻ được. . . lãnh đạo chỉ định, định danh “thoái hóa biến chất” “một bộ phận không nhỏ cán bộ có chức có quyền”, “bầy sâu ăn hết phần của dân” khiến có . . .nhà thơ cảm khái than thở . . . chất người thời nay “bọt bèo thì nổi phù sa thì chìm”!
Đấy là đám người tùy thời trục lợi, kẻ tri kỷ- không phải theo nghĩa “biết mình biết người” tri âm tri kỷ tốt đẹp, mà là chỉ cần “biết” có mình, thực chất là tư lợi vị kỷ và “biết người”. . . thừa tiền tài, quyền lực; biết sử dụng sức mạnh của quyền lực đồng tiền, Tự nhiên nghĩ tới câu thơ của cụ Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc “Vui gì thế sự mà mong nhân tình”. Không mong không ước có/được nhân tình, tình người với nghĩa nhân bản nhân văn cao quý, hỏi làm sao mà những ai đã vượt mốc nhân sinh “xưa hiếm nay không hiếm” sống vui sống khỏe sống có ích cho đời, vì đời đây, thưa quý vị đã lên ông lên bà?! ./ .

Sửa bởi pth77: 06/05/2014 - 15:50


#70 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 09/05/2014 - 18:05

Chuyện lạ ở quận 12, TP.H.C.M

PN - Sau gần một tháng vật vạ đòi nợ lương, chiều 5/5, hơn 400 công nhân Công ty TNHH MTV PIA Toàn Cầu (P.Tân Thới Nhất, Q.12, TP.H.C.M) đã được trả gần 2,5 tỷ tiền lương tháng 3/2014. Nhưng, người đứng ra gánh món nợ tiền tỷ này không phải giám đốc công ty hay một tổ chức nào, mà là ông Nguyễn Hữu Nghĩa, người cho công ty này thuê mặt bằng xưởng.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Ông Nghĩa đang trấn an công nhân

Bỏ tiền túi trả nợ lương cho công nhân bị chủ bỏ trốn
Ít ai biết, người đàn ông từ tâm trong vụ việc kể trên, ông Nguyễn Hữu Nghĩa, cũng là nạn nhân của Công ty PIA Toàn Cầu vì chưa được thanh toán tiền thuê xưởng trong suốt bốn tháng với số tiền khoảng hơn một tỷ đồng.
Công ty PIA Toàn Cầu là công ty may mặc 100% vốn Hàn Quốc do ông Lee Sang Ho, người Hàn Quốc làm đại diện pháp luật. Nhưng theo phản ánh của công nhân, người trực tiếp điều hành sản xuất là ông Lee Sang Soo cùng hai phó giám đốc khác. Theo các điều khoản quy định trong hợp đồng lao động, Công ty PIA Toàn Cầu sẽ trả lương cho người lao động vào ngày 10 hàng tháng. Tuy nhiên, đến ngày 10/4, khi công nhân đang háo hức chờ nhận lương thì được thông báo: không thể liên lạc với ban giám đốc!
Đại diện Phòng LĐ-TB-XH Q.12 cho biết, sau khi nhận được phản ánh của ông Nghĩa và người lao động, phòng đã cử chuyên viên đi tìm hiểu và phát hiện trước đó, ngày 8/4, nhóm người này đã bỏ về nước. Ngay sau đó, Phòng LĐ-TB-XH Q.12 đã niêm phong toàn bộ tài sản, máy móc để làm cơ sở giải quyết quyền lợi cho công nhân. Tuy nhiên, phần lớn số tài sản, máy móc đó đều là tài sản mà Công ty PIA Toàn Cầu thuê lại của doanh nghiệp khác (không thể xử lý).
Trong lúc hơn 400 người lao động đang “ngồi trên đống lửa” vì thất nghiệp, ông Nghĩa đã quyết định nhận trả toàn bộ khoản nợ lương cho công nhân. Tại buổi trả nợ lương vào chiều 5/5, ông Nghĩa còn mang thêm một thông tin khiến hơn 400 con người như chết lặng trong giây lát vì quá đỗi vui mừng: “Tất cả các anh chị em công nhân ở đây sẽ được Công ty TNHH MTV SUMIT (mới thuê xưởng của ông Nghĩa) nhận vào làm việc lại với các chế độ thâm niên, thai sản… y như cũ”.
Ông Nghĩa cho biết, từ nay đến 17/5, Công ty SUMIT sẽ lần lượt mời công nhân thuộc các chuyền vào xưởng để ký hợp đồng lao động mà không cần làm hồ sơ xin việc mới. Từ ngày 19/5, công nhân sẽ chính thức làm việc trở lại. Điều khiến chúng tôi bất ngờ nhất trong thông tin này là, sau khi giám đốc Công ty PIA Toàn Cầu bỏ trốn, có nhiều công ty khác đến đề nghị thuê mặt bằng nhà xưởng, nhưng ông Nghĩa đưa ra điều kiện: ông chỉ cho thuê khi công ty mới nhận 400 công nhân này vào làm việc…

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Ông Nghĩa đã bỏ tiền túi ra trả lương cho các công nhân bị chủ xù lương

20 ngày “đấu trí” của người thương binh
14g ngày 6/5, một ngày sau khi ông Nguyễn Hữu Nghĩa mang tin vui đến cho hơn 400 công nhân, chúng tôi đến xưởng và gặp ông đang tất bật chỉ đạo dọn dẹp mặt bằng, kho bãi của Công ty PIA Toàn Cầu để chuẩn bị bàn giao cho đơn vị mới. Đến phía này ông hướng dẫn người gom rác, sang đầu kia ông hướng dẫn sửa chữa máy bơm, thay ổ khóa các cửa phòng làm việc…
“Mười ngày đầu tiên sau sự kiện 10/4, tức khi mới biết mình bị đối tác quỵt hơn một tỷ đồng, tôi vẫn nghĩ mình là người bị thiệt hại nặng nhất trong vụ việc” - ông Nghĩa mở đầu câu chuyện, “Tôi là một người hơn 20 năm không rượu, bia, cà phê, thuốc lá, nhưng mười ngày qua tôi phải mượn thuốc lá để mà… "đấu trí" trước tình cảnh của mình. Mười ngày sau đó, khi trở lại xưởng với hy vọng gom vớt được cái gì hay cái nấy, biết mình chẳng có được gì ở xưởng này, tôi quay xe chuẩn bị trở về nhà ở Q.Tân Bình thì bất ngờ thấy hàng chục công nhân cũ của công ty ôm gối mền, xách ba lô ra khỏi phòng trọ (gần nhà xưởng) đứng khóc ròng.
Câu hỏi: “Con biết về đâu bây giờ chú Nghĩa ơi…” đã ám ảnh tôi. Đêm đó, tôi lục tìm toàn bộ những thông tin liên quan về việc doanh nghiệp bỏ trốn, pháp luật sẽ xử lý ra sao, rồi những tài sản của tôi sẽ bị niêm phong bao lâu, rằng những người công nhân không được trả lương, mất việc kia trôi nổi thế nào… Cuối cùng tôi đi đến quyết định phải sống cùng họ”.
Ông Nghĩa sinh năm 1961. Năm 18 tuổi, đang học năm thứ nhất đại học, ông tình nguyện đi bộ đội, tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam. Năm 1980, ông bị thương và xuất ngũ. Khoảng 5 năm sau đó, người thương binh 1/4 ấy được báo chí nhắc đến như một người tiên phong và thành công trong việc in áo bằng phim phổi, rồi in lụa ở đất Sài Gòn. Lấy vợ, lần lượt đón hai thành viên mới, một gái một trai, gia đình êm ấm, công việc của ông có nhiều thuận lợi.
Ông tâm sự: “Dù được mọi người gọi là thành đạt, tôi chưa bao giờ quên nguồn gốc xuất thân. Cha mẹ tôi vẫn là những người lao động nghèo và mình đã trải qua một tuổi thơ gian khó, thiếu thốn. Chính vì vậy khi thấy cuộc sống của mình bắt đầu khá giả hơn, tôi đã có thói quen chia sẻ với mọi người. Mười ngày trước, tôi từng nghĩ, tại sao mình đã có thể mang tiền cho nơi này nơi khác như một người làm từ thiện mà lại không cứu giúp những người đang cần mình nhất thế này? Thật ra, tôi chưa bao giờ làm từ thiện một lần với số tiền to như vậy. Nhưng những giọt nước mắt của các em công nhân đã lay chuyển lòng tôi. Từ đây tôi sẽ có hơn 400 người bạn đồng hành…”.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Ông đưa tôi xem dòng tin nhắn của con trai: “Bố number 1!” và trầm giọng: “Con tôi vẫn chưa hay tôi đã lấy một phần tiền để dành đóng học phí kỳ cuối bậc đại học cho con trai và năm đầu cao học cho con gái để thanh toán lương công nhân”. Nhưng ông lại hoạt bát hẳn lên chia vui với phóng viên một tin nhắn mới, con trai ông vừa báo tối hôm qua đã ký hợp đồng làm việc chính thức với một công ty lớn ở Mỹ dù đến hai tháng nữa mới nhận bằng tốt nghiệp.
Ông Nghĩa cho rằng ông là người may mắn khi bên ông luôn có bạn đồng hành, không chỉ từ những tin nhắn báo tin vui của hai đứa con ở phương xa mà còn từ chính quyền, UBND Q.12, từ tập thể công nhân cùng ông “đấu trí”, tìm đối tác để vực dậy việc sản xuất cho nhà xưởng, có thể sống cùng những số phận công nhân.
20 ngày qua, điều làm ông Nghĩa thấy luôn được an ủi và cảm động nhất, đó là các thành viên trước là trưởng phòng hành chính, tổ chức, tài chính, chủ tịch công đoàn của Công ty PIA Toàn Cầu luôn sát cánh cùng ông…

NGHI ANH - ĐÌNH THẮNG



Thanked by 4 Members:

#71 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 16/05/2014 - 01:27

Quyền lực, lý luận và… bánh rán

(TuanVietNam) - Quan niệm coi trọng tình cảm hơn lý lẽ đã khiến người Việt không ưa kiện cáo, nhưng lại sa đà vào những cuộc đôi co vặt triền miên. Xưa nay, người Việt thường có xu hướng tìm kiếm cái cốt lõi đời sống, cái tâm thế sinh tồn đằng sau những vấn đề phức tạp để giải quyết cái “căn nguyên của mọi căn nguyên” thay vì đối mặt với chính những vấn đề nan giải...

Lý lẽ của ông chủ
Trong dân gian Việt Nam có câu chuyện vui kể về một ông quan đi ăn cỗ bị tên hầu ăn hết món ngon nên dọc đường về nhà ông ta dở lý lẽ đạo đức ra hành tên hầu. Tên hầu đi trước ngựa thì ông quát “Láo! Sao m*y dám đi trước t*o?”. Tên hầu đi ngang ông cũng cáu: “Thằng này hỗn thật! m*y lại dám sánh ngang với ông à?!”. Tên hầu vội lùi lại đi sau ngựa, ông càng cáu: “Thằng m*t d*y! Ông là tù hay sao mà m*y áp giải ông?”.

Tên hầu ức đến phát khóc nhưng vẫn cố nén giận từ tốn hỏi chủ: “Con đi kiểu gì ông cũng nói, con biết làm thê nào cho ông vừa lòng?”. Lúc ấy, ông chủ mới nói toạc cội nguồn những lý lẽ của ông, rằng: “Tại sao lúc nãy m*y ăn tranh cái bánh rán của t*o?”
Câu trả lời của ông quan bộc lộ cái tâm thế của ông trong lúc đó, cái tâm thế đã đẻ ra những lý lẽ đưa tên hầu vào ngõ cụt. Thực chất của những lý sự mà ông quan đã đưa ra là ông ta đã luôn thay đổi hệ quy chiếu để liên tiếp đặt tên hầu vào vào vị thế của kẻ có tội.

Khi tên hầu đi trước, thì ông đặt quan hệ hai người vào hệ quy chiếu đạo đức để phê phán nó không nhường bước chủ. Khi nó đi ngang ông, ông lại đặt quan hệ hai người vào hệ quy chiếu quyền lực để cho rằng tên hầu dám tự coi mình bằng vai bằng lứa với ông. Khi tên hầu đi sau lưng ông, ông lại đặt quan hệ của ông với nó vào hệ quy chiếu hình sự để kết tội nó coi ông là tội phạm.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh: amthuc365.vn



Ở đây, quyền lực đã tham dự vào lý luận trong vai trò xoay đảo các chuẩn mực, các hệ toạ độ để xem xét hành vi. Không có lý lẽ nào cãi lại được ông quan vì ông nắm quyền quy định luật chơi!
Trong cảnh huống lý luận trở thành bình phong để che đậy và triển khai tâm thế thì mọi đối thoại trong bình diện lý luận là những lỗ lực vô bổ. Dù tên hầu có tìm ra lý lẽ sắc sảo để bác bỏ sự qui tội đầy suy diễn của chủ thì anh ta cũng chỉ đưa mình dấn sâu vào tình thế bế tắc, vì mọi lý lẽ sắc sảo của anh ta đều củng cố và tăng cường cái ý tưởng xấu về anh ta trong tâm thức ông chủ, làm bùng lên ngọn lửa tâm thế tức giận.

Và xét trên bình diện lý luận thì chân lý của anh ta cũng sẽ bắt gặp quyền phủ quyết của ông chủ bởi một siêu lý là: “m*y lại dám dạy khôn ông ư?”, hoặc trắng trợn hơn: ”Ông sai đấy, thì đã làm sao? m*y định đem lý sự để chống lại ông phỏng?”
Vậy là, trong thân phận kẻ tôi tớ thì dù tên hầu có dùng lý luận xác lập được cho mình một chỗ đứng hợp đạo lý trong không gian thực, thì chính hành vi lý luận đúng đắn đó lại là sự vi phạm luật chơi sâu sắc hơn trong không gian quyền lực. ở đây, cuộc đối thoại không phải là cuộc thẩm vấn trong toà án có luật pháp thẩm định, cũng không phải là cuộc đấu trí trong cuộc chơi có luật chơi bảo đảm công bằng, mà là một cuộc xua đuổi, truy kích của người trên với kẻ dưới, một cách triển khai quyền lực, một hình thức phát lộ tâm thế.

Tâm thế chi phối cách nhìn, cách nhìn tạo ra lập luận và lập luận lại luôn luôn biến hóa khôn lường nhờ quyền lực luôn luôn đứng cao hơn các chuẩn mực thành văn hoặc bất thành văn. Đó là tấn bi kịch hài lý luận mà tên hầu đã bị ông quan đẩy vào. Cái trớ trêu ở chỗ khi tên hầu chân thành suy nghĩ về đạo lý và đối chiếu những chuẩn mực đạo lý với hành xử của mình thì ông quan kia lại chỉ nghĩ về cái bánh rán mà thôi!

Hội giả trang của ý chí và quyền lực
Lý luận kiểu ông quan trong câu truyện trên đây tiêu biểu cho cơ chế hoạt động lý luận trong các xã hội phương Đông - nơi dường như các hoạt động lý luận có xu hướng vượt thoát khỏi những hình tướng ổn định của luật chơi khoa học để vong thân trong những hội giả trang của ý chí và quyền lực. Và như vậy, lý luận khó có thể là chỗ dựa của người dân để đòi quyền sống hay công lý.

Vì muốn phân biệt đúng sai trong các cuộc tranh cãi nơi tòa án hay trên công luận, thì điều tiên quyết là chuẩn mực xem xét vấn đề phải rõ ràng và ổn định. Nhưng trong xã hội trọng tình, cảm tính và linh hoạt như xã hội Việt Nam thì các chuẩn mực xem xét mọi vấn đề phần lớn tùy thuộc vào con người cụ thể trong bối cảnh cụ thể.

Nhưng dù trong xã hội Việt Nam cho con người lý luận có lắc lư chảo đảo đến đâu thì cái quan niệm “một trăm cái lý không bằng một tý cái tình” vẫn là một quan niệm ổn định, giống như hòn bi dưới đáy con lật đật. Trong Truyện Kiều có hai phiên tòa quan trọng thì cả hai đều xử theo tình. Trong phiên tòa thứ nhất xử vụ Thúy Kiều bỏ lầu xanh chung sống bất hợp pháp với Thúc Sinh, viên quan mặt sắt đen sì đã tuyên án trị tội Kiều rồi, vậy mà khi thấy Kiều quả thực có tài, người đại diện pháp luật “mặt sắt đen sì” này không ngần ngại phán quyết ngược lại, tha bổng cho Kiều và tuyên bố một luật chơi văn hóa cao hơn luật pháp:

Đã đưa đến trước cửa công
Ngoài thì là lý song trong là tình

Ở phiên tòa thư báo ân báo oán, “chính danh thủ phạm” Hoạn Thư lại được bà lớn Kiều tha bổng cũng chỉ vì Hoạn Thư kể lể chút tình đã giành cho bà lớn.
Chính cái quan niệm coi trọng tình cảm hơn lý lẽ đã khiến người Việt Nam không ưa kiện cáo, nhưng lại sa đà vào những cuộc đôi co vặt triền miên. Câu thành ngữ "kiến kiện củ khoai" chẳng phải và bằng chứng về tâm lý hoài nghi công lý của của cả một cộng đồng đó sao? Cái tính ghét kiện cáo, hơn ghét bất công, ghét kẻ la làng hơn ghét kẻ cắp vẫn là một căn bệnh trầm kha trong tâm lý người Việt chúng ta hôm nay mặc dù chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dung một xã hội pháp quyền.

Khi thấy dân tình kiện tụng các quan hay khuyên “Sao hai bên không ngồi lại với nhau đi?”. Lời khuyên chân tình đó bộc lộ một quan niệm đầy tính tương đối về chân lý, theo đó, những mâu thuẫn khiến người ta đưa nhau đến tụng đình không phải là những mâu thuẫn về định hướng tư tưởng có liên quan đến số phận của cả một cộng đồng, không phải là những chiến lược khoa học kỹ thuật có thể đưa đất nước lùi lại cả trăm năm…mà chỉ là mâu thuẫn giữa hai cá nhân vì những ấm ức liên quan đến quyền lợi hay danh dự nào đó có thể thu xếp được!

Cái quan niệm đơn giản và dung tục đó khiến người ta cư xử với những vụ kiện lớn vì đại nghĩa, những kiến nghị lớn vì quốc kế dân sinh…một cách vô trách nhiệm. Những người kiên quyết kiện Vedan và các công ty hủy hoại môi trường như Vedan vì họ muốn có một môi trường sống lành mạnh cho hàng triệu con người, muốn các công ty vào đầu tư ở Việt Nam phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định về môi trường của Việt Nam.

Những mục đích cao cả này xuất phát từ sự am hiểu về khoa học và tường tận về pháp lý, muốn thuyết phục họ rút đơn hay bác bỏ đơn của họ phải có sự đối thoại khoa học và pháp lý sòng phẳng, nghiêm chỉnh, không thể hòa giải theo lối khuyên nguyên đơn ngồi lại với bị đơn để thỏa thuận những điều kiện gì đó, trong khi vấn đề môi trường đe dọa quốc kế dân sinh trong những đơn từ kiến nghị kia vẫn con nguyên đấy!

Nghĩa là, không thể phớt lờ khía cạnh khoa học và pháp lý của vấn đề, đem quyền lực ra đẻ xoay đảo chuẩn mực, thay đổi luật chơi theo kiểu ý chí luận, đánh bùn sang ao.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ảnh: byu.edu


Chiếc bánh rán và siêu giải quyết
Xưa nay, người Việt chúng ta thường có xu hướng tìm kiếm cái cốt lõi đời sống, cái tâm thế sinh tồn đằng sau những vấn đề phức tạp để giải quyết cái “căn nguyên của mọi căn nguyên” thay vì đối mặt với chính những vấn đề nan giải. Chúng ta hay nói, “rốt cục là”, “cốt tuý vấn đề là” , “thực chất là...”, “chung quy là....” chính là chúng ta đang làm cái thao tác giải mã của ông quan khi nói ra vấn đề cái bánh rán trong bữa tiệc kia.

Chiếc bánh rán tung ra như một siêu giải quyết, đập tan mọi lý lẽ, xóa hết mọi ngụy biện, tên hầu dù đúng đến mấy cũng phải cúi đầu. Đó là dùng bản lĩnh hành động, "dằn mặt" để giải quyết sự bế tắc nan giải của bài toán lý luận mà lịch sử xã hội đặt ra.
Người ta vẫn nói rằng những bế tắc của lý luận chỉ có thể giải quyết bằng hành động lịch sử hành động trong đời sống xã hội là như vậy đó! Triết lý với cây búa đập vỡ các thần tượng của Nietzsche hay tư tưởng nói rằng “Vũ khí của sự phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí” của K.Marx tuy khác nhau về bản chất nhưng có cùng một định hướng ứng xử theo lối siêu giải quyết.

Ta cần hiểu siêu giải quyết trong các tư tưởng của họ là siêu giải quyết trong phạm vi toàn xã hội và ở cấp độ những nhiệm vụ lịch sử của môt thời kỳ. Nếu áp dụng máy móc tư tưởng đó vào các việc cụ thể trong đời sống thì chỉ dẫm đến sự can thiệp thô bạo vào lô gích đặc thù cuả một lĩnh vực, đánh tráo vấn đề, xí xoá vô nguyên tắc dẫn đến những hành vi bạo lực vi phạm luật pháp và luật chơi, tương tự như người chơi cờ bị chiếu tướng, không gỡ được nước chiếu bí thì quay sang tát tai đối thủ hay cầm cả bàn cờ đập lên đầu anh ta.
Tình trạng đơn giản hoá, đánh tráo vấn đề, đánh tráo chuẩn mực, đánh tráo nhiệm vụ đẫn đến đảo ngược công tội, lẫn lộn trắng đen là một hiện tượng khá phổ biến hiện nay, mà cơ chế ở chiều sâu của tâm thức là thói tuỳ tiện manh mún và thực dụng trong nhận định suy tư và lý luận. Lẽ ra phải bắt kẻ cắp thì lại kết tội kẻ la làng là gây ồn, lễ ra phải xem xét phân minh rành rọt là rõ đúng sai trong các quan hệ mâu thuẫn thì lại kêu gọi đoàn kết, bỏ qua....

Hậu quả của tâm thức ngại lý luận, sợ lý luận, lười lý luận, dùng các hành vi phi lý luận để phủ quyết bản thân hoạt động lý luận sẽ dẫn xã hội đến tình trạng hỗn loạn u mê trong tầng tầng ngộ nhận chân thành và nguỵ biện.
  • Đỗ Minh Tuấn

Sửa bởi pth77: 16/05/2014 - 01:28


Thanked by 2 Members:

#72 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 17/05/2014 - 18:51

10 Bí quyết thành công của người Do Thái

No 1: Coi trọng trí tuệ hơn tri thức

Trí tuệ quan trọng hơn tri thức
Người có trí tuệ càng khiêm tốn
Trí tuệ quan trọng hơn nguồn gốc xuất thân
Kinh sách doanh thương - Trí tuệ
Trí khôn đồng nghĩa với trí tuệ
Thành công không chỉ do tri thức, cần có trí tuệ
Mưu trí - kho báu của nhân sinh
Trí tuệ chắp cánh cho tâm hồn

No 2: Kiên trì học tập suốt đời

Tinh thần hiếu học, ham hiểu biết
Học tập là một nghĩa vụ
Sinh mệnh có thể chấm dứt, học tập thì không
Không ngừng học tập
Tích cực tiến lên, học không biết đủ
Thắc mắc giúp ta học tập tiến bộ
Học tập - tiếp cận sự hoàn mỹ
Học tập không bao giờ muộn
Học tập phải có mục tiêu
Khéo khai thác tiềm năng của mình

No 3: Tri thức quý hơn tiền bạc

Tiền bạc có thể bị tước đoạt, tri thức thì không
Coi trọng giáo viên và cha mẹ cao nhất
Giáo dục - mảnh đất mầu mỡ vun trồng tri thức
Nghiện sách như cơm ăn, tri thức là sinh mệnh
Doanh nhân cũng theo đuổi học thức uyên bác

No 4: Nghịch cảnh – một cơ hội trong đời

Tự lực tự cường, quyết giành thắng lợi
Quyết không nản trước thất bại
Lạc quan trước khó khăn
Nghèo khổ trở thành tỷ phú
Nhìn xa trông rộng, bình tĩnh đối phó với hiểm nghèo
Tai ương hun đúc sức chịu đựng phi thường
Biến tai ương thành động lực lập nên sự nghiệp
Tinh thần mạo hiểm được phát huy trong nghịch cảnh
Chuyện về nhà văn nữ Do Thái đoạt giải thưởng Nobel
Dùng ý chí bất khuất chiến đấu với nghịch cảnh
Thất bại là mẹ thành công

No 5: Quý trọng thời gian hơn tiền bạc

Thời gian là sinh mệnh, một đi không trở lại
Không được lãng phí thời gian
Quý trọng sinh mệnh, ngày nào cũng là ngày cuối cùng trong đời
Không đánh cắp thời gian của người khác .
Quản lý tốt thời gian sẽ nắm được sinh mệnh
Làm chủ thời gian
Giá trị của thời gian thể hiện rõ trong kinh doanh
Nắm chắc thông tin, ra tay trước
Thời gian là hàng hóa, tuyệt đối không được lãng phí
Tôn trọng khế ước - tôn trọng thời gian

No 6: Căm ghét quyền uy, bản thân không uy quyền

Không mù quáng phục tùng quyền uy, hãy theo đuổi độc lập cá nhân
Trừ Chúa, không ai có quyền uy tuyệt đối
Căm ghét quyền uy nhưng không phản đối lãnh đạo có trợ thủ
Luật pháp vẫn có thể bị "nghịch đảo"
Biện pháp tốt nhất để đánh đổ quyền uy của luật pháp – dung "tiểu xảo lách luật"

No 7: Khéo đối nhân xử thế, thỏa mãn với bản thân

Vượt qua bản thân mình hơn vượt qua người khác
Điều thiện giúp cho nhân tính tốt đẹp hơn
Trong cái khổ có cái sướng - Trí tuệ xử thế
Tiếng cười hài hước - Liều thuốc bổ quý nhất
Khoan dung bản thân, tiền và tình không có gì nhơ nhuốc
Tràn trề hi vọng vào bản thân, thực sựcó hy vọng trong cuộc sống
Coi trọng mình và coi trọng người
Nhận - cho, con đường nhân sinh bền vững
Nhiệt tình phải dựa vào lý trí
Han rỉ không hoàn toàn có hại
Tự cao tự đại, con đường ngắn nhất dẫn đến tội lỗi
Yêu thương mình mới biết yêu thương người
Tự nắm lấy vận mệnh trong tay mình
Tin vào bản thân, có ý thức độc lập mạnh mẽ
Vượt bản thân mình - một nguồn sinh mệnh
Vạn sự khởi đầu từ bản thân mình
Sức khỏe, điều quan trọng nhất
Ngày nghỉ thực sự mới có tác dụng
Không trốn tránh trách nhiệm, mình làm mình chịu
Phải tận hướng cuộc sống
Làm chủ bản thân, không làm nô lệ cho tâm tư tiêu cực
Biết nhẫn nại
Sống điều độ mới có khoái lạc thực sự
Đối xử tốt với người nghèo
Yêu thương mọi người trên đời, kể cả kẻ thù
Giữ bí mật chuyện riêng tư của người khác
Quý trọng người và vật thân quen
Coi niềm vui của người là niềm vui của mình
Không cưỡng bức người khác
Mọi người đều có mạnh yếu, ưu nhược
Trong đàm phán không mang lòng oán thù
Nên nhận mình yếu kém
Tôn trọng lẫn nhau, khoan dung độ lượng

No 8: Nghe quan trọng hơn nói

Ghét người làm lời thêu dệt
Nói ít nghe nhiều, lắm điều hay
Cẩn trọng cái họa miệng
Nắm được tin tình báo tốt nhất
Khi nó phối hợp nhịp nhàng với tư thế và phong thái
Một cuộc đàm phán xuất sắc của doanh nhân Do Thái Jofer

No 9: Giữ lập trường khác người

Lập trường cá nhân quan trọng hơn gia tộc
Đặc điểm tình yêu, hôn nhân của người Do Thái
Tôn trọng phụ nữ hơn các dân tộc khác
Nhìn vấn đề theo nhiều góc độ khác nhau
Giữ đúng cam kết, một sự công bằng về hình thức
Khéo lợi dụng khe hở của luật pháp
Tư duy "nghịch đảo"luật pháp
Tránh nhẹ dạ cả tin, cần có lập trường riêng
Để tránh bị lừa, cần giám sát chặt chẽ hành động của đối phương
Cái mình không thích; đừng làm cho người khác
Nhường người chính là vì mình

No 10: Tuyệt đối không được ngược đãi đồng tiền

Coi trọng tác dụng của đồng tiền
Đồng tiền - tấm gương phản ánh nhân cách và tinh thần dân tộc
Người biết kiếm tiền mới là người có trí tuệ
Tiền có được do lao động
Khéo vay tiền để kiếm ra tiền
Tiền là tiền, không phân biệt cao thấp sang hèn
Khéo lợi dụng quốc tịch để kiếm tiền
Kiếm tiền gắn liền mục tiêu - tiền nằm trong tay người có tiền
Trọng tâm hai nguồn tài nguyên lớn: Phụ nữ và cái miệng
Phát triển từ nhỏ đến lớn, tập trung vào xã hội thượng lưu
Thượng đế thế tục của người do Thái: Đồng tiền
Nơi nào có tiền có thể đến
Giỏi tính toán, chi ly từng đồng
Tiền là tiền, không phải là thần cũng chẳng phải quỷ
Kiếm tiền là điều hợp lẽ tự nhiên
Tiền tất nhiên để hưởng thụ
Kiếm tiền và theo đuổi nữ sắc đều hợp lý
Sáu bí quyết lớn "Tay trắng làm nên đại nghiệp"
Tăng cường năng lực làm giàu

Sửa bởi pth77: 17/05/2014 - 18:53


Thanked by 1 Member:

#73 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 01/06/2014 - 02:12

Về Quyền thiêng liêng của đất đai cho người da đỏ
Nguyễn Vạn An phóng dịch từ bản đã dịch sang Pháp Ngữ


Seatle (1786-1866) là ông trùm các bộ lạc da đỏ Duwamish và Suquamish lúc đó sinh sống bên vùng đông nước Mỹ. Sau khi đã tạo nên Khu vực Washington năm 1853, chính phủ Washington « đề nghị » người da đỏ ký các hiệp định để mua đất của họ.

Người da đỏ biết là không thể nào từ chối được.

Dưới đây là bài diễn văn hùng hồn và đau đớn của ông Seattle, trùm da đỏ, đọc trước thống đốc Isaac Stevens. Nhiều ý và căn dặn được nhắc đi nhắc lại, đọc lên thấy rất thấm thiết. Bài diễn văn này được coi là một bài học, một gia tài văn học thiêng liêng để đời và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng.

BÀI DIỄN VĂN CỦA ÔNG TRÙM DA ĐỎ SEATTLE


Làm sao các người có thể mua bán khung trời và hơi ấm của đất ?

Ý nghĩ đó đối với chúng tôi thật kỳ lạ. Thế nếu chúng tôi không sở hữu cái mát mẻ của không khí và cái lung linh của mặt nước, thì các người làm sao mà mua ?

Mỗi mẩu đất này đều thiêng liêng cho dân tộc chúng tôi.

Mỗi cái kim óng ánh của lá thông, mỗi bờ cát, mỗi mảnh sa mù trong khu rừng âm u, mỗi bờ suối, mỗi tiêng vo vo của côn trùng đều là thiêng liêng trong ký ức và từng trải của chúng tôi.

Nhựa chảy trong thân cây mang đầy kỷ niệm của người dân da đỏ.

Linh hồn những người da trắng đã quên xứ mình sinh ra khi đi vào giữa các vì sao. Linh hồn những người chết chúng tôi không bao giờ quên trái đất tuyệt vời này, vì trái đất là mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là thành phần của đất và đất là thành phần của chúng tôi. Hoa thơm là em gái chúng tôi, con hươu, con ngựa, con đại bàng là anh em chúng tôi. Các đỉnh núi, các chất ngọt trong đồng ruộng, hơi ấm con ngựa nhỏ, và con người, tất cả đều cùng một gia đình.

Cho nên khi ông Sếp Lớn ở Hoa Thịnh Đốn cho người tới nói ông muốn mua đất của chúng tôi, thì ông đã đòi hỏi rất nhiều ở chúng tôi. Ông Sếp cho nói là ông sẽ dành một nơi để chúng tôi có thể sống thoải mái với nhau. Ông sẽ là cha chúng tôi và chúng tôi sẽ là con cái của ông. Chúng tôi cũng phải xét đề nghị mua đất của ông. Nhưng cái đó quả thật là rất khó. Bởi vì đất này thiêng liêng đối với chúng tôi.

Nước lung linh chảy trong các dòng suối và dòng sông không phải chỉ là nước mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi bán đất cho các ông, thì các ông phải nhớ đất là của thiêng và mỗi phản chiếu đầy mầu sắc của mặt nước trong dưới hồ luôn nhắc nhở những biến cố và kỷ niệm cúa dân tộc chúng tôi. Tiếng nước suối thì thầm là tiếng của người cha của cha tôi.

Các con sông là anh em chúng tôi, đã cho chúng tôi đỡ khát. Các dòng sông mang thuyền chèo và nuôi các con tôi. Nếu chúng tôi bán đất cho các ông, thì từ đây các ông phải nhớ, và phải dậy cho con các ông, là các giòng sông là anh em chúng tôi và cũng là anh em các ông, và các ông phải thân thương giòng sông như các ông thân thương huynh đệ các ông. Chúng tôi biết người da trắng không hiểu tập quán chúng tôi. Đối với họ, mảnh đất này cũng như mảnh đất kia, họ là người ngoại xứ ban đêm đến lấy của đất cái gì họ cần. Đất không phải là anh em họ, mà là kẻ thù, khi họ lấy được thì họ tiến nữa. Họ bỏ mồ mả của tổ tiên mà không trăn trở gì. Họ lấy đất của con cái mà không trăn trở gì. Mồ mả của tổ tiên và gia tài của con cái họ bị rơi vào quên lãng. Họ coi mẹ, đất đai, anh em, trời đất, như là đồ vật mua bán, cướp phá, bán đi như bán những con cừu, hay những hạt ngọc óng ánh. Lòng tham lam xui họ nghiến ngấu đất đai và chỉ còn để lại một cái sa mạc.

Không có nơi nào an bình trong các tỉnh của người da trắng. Không có chỗ nào để nghe tiếng lá cuộn mình trong mùa xuân, hay tiếng cọ sát của cánh những con bọ. Cũng có thể vì tôi là người man rợ nên tôi không hiểu. Những tiếng động đó hình như chỉ nhức tai họ. Sống làm chi nếu con người không nghe thấy tiếng kêu lẻ loi của con én hay tiếng trò chuyện tào lao của các con ếch trong cái ao ban đêm ?

Chắc tôi là người da đỏ nên tôi không hiểu. Người chúng tôi ưa tiếng gió êm ru trườn trên mặt hồ, ngay cả mùi của gió đã được nước mưa trưa nay rửa sạch, hay đã được lá thông đã cho thêm hương thơm.

Không khí rất trân quí cho người da đỏ, vì mọi sự đều chia nhau một hơi thở.

Súc vật, cây cối, con người. Đều chung với nhau một hơi thở.

Người da trắng hình như không để ý đến không khí họ thở. Như người phải để ra mấy ngày mới tắt thở, họ không biết mùi hôi thối. Nếu chúng tôi bán đất này cho các ông, các ông phải nhớ là không khí rất trân quý cho chúng tôi và nhớ là không khí chia sẻ hồn nó với những sinh vật nó nuôi sống. Cơn gió đã cho ông cha chúng ta hơi thở đầu cũng là cơn gió đã nhận ở ông cha chúng ta hơi thở cuối cùng. Nếu chúng tôi bán đất này cho các ông, các ông phải giữ riêng nó và coi nó là thiêng liêng, là nơi mà cả người da trắng các ông cũng được đến để hưởng làn gió đã được dịu lại với hương hoa của đồng nội. Chúng tôi phải xét đề nghị của ông. Nhưng nếu chúng tôi nhận lời, thì tôi cho các ông một điều kiện: người da trắng phải coi các sinh vật trên mảnh đất này như những anh em !

Tôi là người man rợ, tôi không biết cách sống khác !

Tôi đã thấy xác một ngàn con bò rừng thối rữa trên cánh đồng, bỏ lại khi các người da trắng từ trên các chuyến tầu hỏa đi qua bắn chúng nó chết. Tôi là một người man rợ, tôi không hiểu tại sao con ngựa sắt phun khói của các ông lại quan trọng hơn những con bò rừng mà chúng tôi chỉ giết để sinh sống.

Con người là gì nếu không còn thú vật ? Nếu tất cả thú vật đều mất hết, con người sẽ chết trong một tâm linh lẻ loi. Bởi vì cái gì đến cho thú vật rồi sẽ đến với con người. Mọi sự trên đời đều liên can với nhau.

Các ông phải dạy cho con cháu là đất chúng bước lên được tạo bởi tàn hương của tổ tiên. Dạy cho chúng biết tôn trọng đất, bảo chúng là đất được giầu có bởi đời sống của giòng giõi. Dạy cho con cái các ông những điều mà chúng tôi dạy cho con cái chúng tôi, là đất là người mẹ. Cái gì xẩy đến cho đất sẽ xẩy đến cho con cái của đất. Ai khạc nhổ lên đất là khạc nhổ lên chính mình !

Ít nhất chúng tôi cũng biết điều này: là đất không thuộc về người mà người thuộc về đất. Điều đó chúng tôi biết. Mọi điều đều liên đới với nhau như máu mủ trong một gia đình. Mọi sự đều liên đới với nhau.

Cái gì đến với đất sẽ đến với con cái của đất.

Không phải con người đã xây lên cái khung của cuộc đời. Người chỉ là một sợi dây. Cái gì người làm cho cái khung của cuộc đời là họ làm cho chính mình.

Dù người da trắng được thượng đế của họ đi cùng và nói chuyện như những người bạn, họ cũng không thể vượt qua được số mạng chung. Nói cho cùng, chúng ta và người da trắng có thể cũng là anh em. Để rồi xem sao. Có một điều chúng tôi biết, điều mà người da trắng có thể một ngày kia sẽ khám phá ra, là chúng ta có cùng một thượng đế. Có thể bây giờ các người cho là đã có được thượng đế của các người như các người muốn sở hữu đất đai của chúng tôi. Nhưng các người không làm được điều đó. Vì thượng đế là của mọi người và lòng từ bi dành cho người da trắng và cho người da đỏ đều như nhau. Đất là của quý của trời. Phá hại đất là mang nặng khinh khi với đấng tạo hóa đã sinh ra đất. Rồi người da trắng cũng sẽ bị tiêu diệt, có thể trước các bộ lạc khác. Làm lây trùng cái giường, các người đêm sẽ ngủ trong xú uế của chính mình.

Rồi khi chết các người sẽ huy hoàng với đầy sức mạnh của thượng đế đã đem các người đến vùng đất này, rồi vì một sứ mạng nào đó, đã giúp các người ngự trị vùng đất này và ngự trị dân da đỏ. Cái định mệnh đó là một bí hiểm cho chúng tôi, vì chúng tôi không hiểu khi tất cả những con bò rừng đã bị tàn sát, các con ngựa đã bị chế ngự, những góc bí mật của các khu rừng đã mang đầy hơi của những nhóm người, và các ngọn đồi đầy hoa đã bị tàn lụi bởi những người đến nói bi bô.

Thì rẫy rừng đâu? Đã biến mất. Và con đại bàng đâu? Đã biến mất.

Ngày tận cùng của sự sống, ngày bắt đầu của sự sống còn.
Trùm da đỏ Seattle, 1854

Sửa bởi pth77: 01/06/2014 - 02:14


Thanked by 2 Members:

#74 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 03/06/2014 - 01:26

Hạnh phúc ai bán mà mua
Bùi Văn Nam Sơn


“Il faut s’imaginer Sysyphe heureux”
(Phải tưởng tượng Sysyphe hạnh phúc)

1. Sysyphe là nhân vật thần thoại Hy lạp. Chàng phát hiện hành vi mờ ám và đồi bại của một ông thần chóp bu (Egine, con gái của Asope, bị thần Jupiter, tức thần Zeus bắt cóc) và bị trả thù. Hình phạt dành cho chàng (tại sao chống tiêu cực không được thưởng mà bị phạt?) là phải không ngừng hì hục vần một tảng đá lên đỉnh núi, rồi tảng đá lăn xuống, và lại hì hục! Thần linh có khác: họ có lý khi cho rằng không có hình phạt nào khủng khiếp hơn cái công việc vô ích và vô vọng. Họ có lý ở chỗ tạo ra được một cái cực phi lý! Khi kể lại thần thoại này bằng giọng văn cảm khái, văn hào Albert Camus viết: “Ta biết từ lâu rằng Sisyphe là một nhân vật phi lý. Chàng tỏ ra phi lý bởi cả những nỗi đam mê lẫn nhục hình của chàng.Thái độ coi thường thần linh của chàng, lòng căm thù cái chết (chàng đã từng bắt trói thần chết khiến Diêm vương suýt thất nghiệp!) và lòng ham mê cuộc sống của chàng đã khiến cho chàng phải chịu cái nhục hình khó tả như vậy, cái nhục hình bắt con người ra sức làm mà chẳng làm xong được việc gì. Đó là cái giá phải trả cho những nỗi đam mê trần thế của chàng”.
Nhưng câu chuyện không chỉ liên quan đến số phận riêng của một nhân vật thần thoại. Camus lập tức liên tưởng đến thân phận hiện thực của “người công nhân ngày nay, suốt tháng ngày trong cuộc đời của mình, luôn phải làm việc với cùng một nhiệm vụ, và cái số phận ấy cũng chẳng kém phần phi lý”.Những người Pháp đồng hương với Camus mô tả sống động dòng đời buồn chán, vô nghĩa ấy là “métro, boulot, dodo” (tàu điện, quần quật, lăn ra ngủ, rồi cứ thế lặp lại). Nhịp sống ấy , suy rộng ra, đúng cho mọi kiếp người ! Vậy, hạnh phúc ở đâu, hay, hỏi như Camus và như ..muôn thưở: cuộc đời có đáng sống không?
Trước câu hỏi ‘hiện sinh’ ấy, tác giả đáng yêu của chúng ta đề nghị ba giải pháp: tự tử, tín ngưỡng và nổi dậy phản kháng. Trước hết, tự tử để chết quách cho xong (Camus là tác giả của luận đề nổi tiếng: “tự tử là tối đại vấn đề của triết học!”), là thừa nhận rằng cái phi lý mạnh hơn con người. Không được! Tiếp theo, tín ngưỡng hứa hẹn mang lại ý nghĩa cho cuộc đời, nhưng bằng cách triển hạn niềm ‘an ủi’ ấy vào kiếp sau, không ai có thể kiểm chứng được. Nghĩa là, cái phi lý chỉ được treo lại, được ‘bỏ trong dấu ngoặc’. Sau cùng, chỉ còn giải pháp thứ ba: nổi dậy phản kháng. Con người không thể chấp nhận, mà phải kiên quyết chống lại, không cho phép cái phi lý thống trị kiếp người. Nhưng, sự phản kháng này chỉ có thể bắt đầu khi nào? Camus viết: “Chính trong thời gian chàng được nghỉ ngơi khi quay xuống chân núi là lúc khiến tôi quan tâm (…) Tôi nhìn thấy chàng quay xuống núi với bước đi nặng nề nhưng bình thản để đến với khổ hình không biết bao giờ kết thúc. Thời điểm này là lúc hít thở. Nó thuộc về chàng cũng chắc chắn như nỗi bất hạnh của chàng: thời điểm của ý thức. Tại mỗi thời điểm như vậy, chàng vượt cao hơn số phận; chàng mạnh hơn tảng đá của đời chàng”. Sisyphe trở thành một huyền thoại: con người đạt được hạnh phúc vào chính lúc nổi dậy phản kháng sự phi lý, biết rằng nỗ lực của mình là vô vọng, nhưng có thể vượt qua nó bằng sự kiêu hãnh và khinh miệt. Tuy không thể xóa bỏ sự phi lý như xóa bỏ những khó khăn, bất hợp lý vặt vãnh, tuy biết rằng nhiệm vụ rất gian nan, nhưng khi dám đương đầu và thách thức với số phận, cuộc chiến đấu ấy “đủ sưởi ấm và làm viên mãn trái tim người”: “cần phải tưởng tượng rằng Sysyphe hạnh phúc!”.

2. Trở lên là một trong những thái độ mà con người có thể lựa chọn trước câu hỏi về khổ đau và hạnh phúc. “Phải tưởng tượng Sysyphe hạnh phúc!” là câu nói sâu thẳm của Camus, vì ông biết đặt hạnh phúc vào trong khuôn khổ hữu hạn của thân phận con người. Mọi nỗ lực định tính, tức đi tìm một định nghĩa nhằm xác định nội dung cho hạnh phúc, buồn thay, đều là công dã tràng, không khác mấy việc làm của Sysyphe! Không phải do con người kém thông minh (từ ngàn đời nay, có biết bao nhiêu nhà tư tưởng!), mà do đặc tính kỳ lạ của bản thân sự việc. Hạnh phúc, cũng như nhiều khái niệm hệ trọng khác đối với con người, chẳng hạn: chân, thiện, mỹ…, xét đến cùng, đều trượt khỏi bàn tay con người. Hãy lấy một ví dụ. Ta có thể định nghĩa hay đề ra năm tiêu chuẩn của chân lý: nó phải nhất quán, hiển nhiên, được đồng thuận rộng rãi, hữu ích và là mục đích tối hậu của mọi sự tìm tòi. Nhưng câu hỏi còn lại vẫn là: nó có phải là…chân lý không ? Tấm vé số nào cũng đáp ứng năm điều kiện ấy cả, nhưng không phải ai cũng có thể trúng số! Ông triết gia hoài nghi Sextus Empiricus (200-250) thấy điều ấy từ lâu: “Trong hang tối mò có nhiều người đi tìm vàng. Người nào cũng tìm được một thỏi, tin là vàng, nhưng không ai dám chắc, dù đang nắm trong tay! Cũng thế, hàng đàn những triết gia sinh ra đời như trong hang tối để đi tìm chân lý. Khôn ngoan là: ngay người nào đã nắm được chân lý trong tay, cũng nên nghi ngờ rằng có chắc thế không”. Cái gì là chân, thiện, mỹ, hạnh phúc.. thì phải tự thân nó là như thế chứ không phải do mình tin là như thế! Cái trượt ra khỏi bàn tay con người ấy thường được gọi là tính trội (supervenient) của sự việc và nằm ngoài tầm với của con người.
Đã có biết bao nỗ lực đáng kính nhằm định nghĩa hạnh phúc. Nào là phân biệt hạnh phúc chủ quan như là trạng thái hài lòng, hoặc khách quan như sự may mắn vì hội đủ các điều kiện cần thiết cho hành động. Những điều kiện ấy có thể là ngoại tại như sự giàu sang, danh vọng. Cũng có thể là sự hoàn thiện nội tâm, tăng an lạc, giảm khổ đau, thậm chí có thể đồng nhất hạnh phúc với sự hiến dâng đầy hy sinh cho một lý tưởng bằng con đường khổ hạnh hoặc ‘tử đạo’. Có người đặt tiêu chuẩn rất cao cho hạnh phúc đích thực như sự chí thiện (Khổng), giác ngộ (Phật) hay, như nơi Plato, hợp nhất chân, thiện mỹ, sánh ngang với thần linh. Có người lại bi quan như Schopenhauer: “Mọi sự thỏa mãn lầm tưởng là hạnh phúc thật ra đều là tiêu cực chứ không bao giờ là tích cực”. Giải pháp dung hòa nhưng không kém sâu sắc là quan niệm của Immanuel Kant: “hạnh phúc là khẩu hiệu đầu môi của mọi người, nhưng nó không bao giờ có mặt thật sự trong thế gian. Điều duy nhất con người có thể đạt được là sựxứng đáng để được hưởng hạnh phúc”. Hạnh phúc, theo nghĩa đó, được chuyển thành một lý tưởng để vươn tới như một chân trời bất tận, như một lẽ công bằng sẽ bù đắp cho những kẻ thiện tâm nhưng luôn gánh chịu bất hạnh, oan khiên nơi trần thế, chứ không phải hoa trái chín mọng luôn sẵn sàng mời đón con người. Hơn ai hết, Kant thấu hiểu sự hữu hạn của kiếp người, tuy nhiên, thưa ông, cũng chính vì sự hữu hạn trần tục ấy, họ cũng cần được hưởng ngay chút ít hoa trái trần gian cụ thể như Sysyphe vẫn có giây phút nghỉ ngơi, hít thở bên cạnh tảng đá của đời mình. Thế là bắt đầu có những ‘thống kê’ định lượng về hạnh phúc!

3. Khi hai quốc gia khác nhau lại đứng đầu trong hai bảng ‘thống kê’ về hạnh phúc trong cùng một thời điểm, ai cũng thấy ngay rằng một trong hai hoặc cả hai bảng là không ổn. Điều lạ lùng là hầu như dư luận thụ động tiếp nhận, rồi thông tin rình rang nếu thấy có lợi cho tên tuổi quốc gia mình, hơn là phân tích và phê phán nghiêm chỉnh. Trong Bản đồ thế giới về Hạnh phúc, mười nước đứng đầu chủ yếu là các nước Âu châu (chẳng hạn năm 2006, Đan mạch đứng đầu, tiếp theo là Thụy sĩ vá Áo). Ngược lại, trongChỉ số hạnh phúc hành tinh (HPI), tốp đầu là các nước nghèo, chậm phát triển (năm 2006, đứng đầu là đảo quốc Vanuatu, Việt nam đứng thứ 12), rồi năm 2009, đứng đầu là Costa Rica, và Việt nam được nâng lên hạng 5).Trong bảng thứ nhất (2006), Mỹ đứng hạng 23, Anh đứng hạng 41; trong bảng sau, cả hai bị đánh tụt xuống hạng 150 và 108!
Nhiều nhà bình luận nhận ra nguyên nhân chủ yếu của sự mâu thuẫn là ở các cách tiếp cận khác nhau và, từ đó, ở phương pháp thu thập và tổng hợp thông tin. Cách tiếp cận nào cũng bao hàm tính xu hướng và ít nhiều định kiến. Một bên xem trọng sự tiến bộ trong khoa học, công nghệ, chăm sóc sức khỏe và giáo dục. Bên kia, nhân danh bảo vệ môi sinh, tất yếu có xu hướng giáng cấp các nước có mức tiêu thụ cao, và, vô tình hay cố ý, kiềm hãm sự phát triển và gây thêm ngộ nhận và ảo tưởng cho các nước nghèo. Về phương pháp, thật là khó và liệu có hợp lý không khi kết hợp hai yếu tố dị loại (yếu tố khách quan dễ định lượng như tuổi thọ và yếu tố chủ quan như cảm nghĩ cá nhân về sự hài lòng) thành một thước đo duy nhất như trong bảng chỉ số HPI. Điều này cho thấy: việc sắp hạng hạnh phúc là rất tương đối và không thật sự đáng tin cậy, đó là chưa nói đến tính trội đã đề cập ở trên. Một nhà bình luận nhận xét: hạnh phúc trong các bảng sắp hạng này là “hạnh phúc” của người sắp hạng hơn là của dân chúng các nước được sắp hạng!
Một nỗ lực đáng ghi nhận và ca ngợi khác là sáng kiến độc đáo từ năm 1972 của nước Bhutan nhỏ bé ẩn mình bên Hy mã lạp sơn nhằm đo lường chất lượng sống và sự tiến bộ xã hội mang nghĩa tổng thể và tinh thần nhiều hơn là chỉ số đơn thuần kinh tế và có tính lừa mị quen thuộc của GDP (tổng sản phẩm quốc nội), đó là: tổng hạnh phúc quốc gia (GNH). Mang đậm bản sắc và truyền thống tâm linh Bhutan lúc ban đầu, nhưng quan niệm này ngày mang tính liên-văn hóa và được tán đồng rộng rãi qua nhiều hội nghị quốc tế với sự cam kết không ngừng gia tăng của nhiều nước khác nhau. Dựa trên bốn trụ cột thoạt nhìn có vẻ định tính và khó đo lường: sự phát triển bền vững, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, bảo tồn môi trường tự nhiên và sau cùng, có nền quản trị quốc gia tốt đẹp, GNH ngày càng được các chuyên gia chi tiết hóa và định lượng hóa, xoay quanh bảy lĩnh vực:
  • sự hài lòng kinh tế (tiết kiệm, nợ, sức mua)
  • sự hài lòng môi trường (ô nhiễm, tiếng ồn, giao thông)
  • sự hài lòng về chỗ làm việc (nghề nghiệp, động lực, đạo đức, xung đột)
  • sức khỏe thể chất (bệnh nặng, béo phì)
  • sức khỏe tâm thần (dùng thuốc an thần, trầm uất, lạc quan, bi quan thông qua thái độ tích cực hay tiêu cực…)
  • sự hài lòng xã hội (bao gồm gia đình và thân thuộc: tình dục, phân biệt đối xử, tỉ lệ ly hôn, kiện tụng trong thân tộc, kiện tụng ngoài xã hội, tỉ lệ tội phạm, sự an toàn, sự tương trợ…)
  • sự hài lòng chính trị (chất lương dân chủ cơ sở, tự do cá nhân, tranh chấp với nước ngoài..)
(nhiều báo cáo chi tiết về bảy lĩnh vực nêu trên trong trường hợp Bhutan đã được phổ biến trên mạng).
Bàn về “Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia” trong một bài viết, GS Chu Hảo nhận định: “(…) thành tựu kinh tế mà chúng ta đạt được, tuy chưa phải đã nhiều và vững chắc, đã đi kèm theo sự xuống cấp văn hóa nghiêm trọng. Xuống cấp văn hóa không phải chỉ đơn giản là nói về những tiêu cực trong lĩnh vực văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp, mà là sự xuống cấp văn hóa chung, mang tính nền tảng phát triển của xã hội, một sự suy thoái đạo đức, tinh thần… Sự xuống cấp ấy biểu hiện trước hết ở chỗ khủng hoảng niềm tin của nhân dân vào nền quản trị quốc gia và nền giáo dục quốc dân; ở sự dối trá và đảo lộn giá trị trong mọi quan hệ ở mọi lĩnh vực; ở tình trạng tham nhũng tràn lan và gia tăng bạo lực.
Xuống cấp văn hóa không phải là cái giá tất yếu phải trả cho sự phát triển kinh tế, mà có lẽ do chúng ta đã chọn một mô thức phát triển sai. Trong bối cảnh của thế giới hiện đại, mô thức nào là thích hợp cho mỗi quốc gia, vẫn là một câu hỏi khó. Nhưng không chạy theo tăng trưởng GDP bằng bất cứ giá nào, mà chú trọng phát triển “Tổng Hạnh Phúc Quốc Gia” dựa trên sự bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống và môi trường sinh thái như Bhutan đã làm, có lẽ là một kinh nghiệm tốt cho chúng ta”.

4. Trở lại với Sysyphe. Có lẽ như với từ “độc lập” trong một thời gian khổ, có thể nói như thế chăng về từ “hạnh phúc”: hạnh phúc ai bán mà mua, ai cho mà lấy, ai thừa mà xin. Sysyphe đã “tỏ ra mạnh hơn tảng đá của đời chàng”. Sao giống quá với người thợ lặn lão thành ở đảo Lý sơn mở trừng mắt để thấy mình mạnh hơn con cá mập hung dữ.
Phúc cho những ai mưu cầu hạnh phúc trong bão giông, và, phải “tưởng tượng rằng họ hạnh phúc!”.
Nguồn: Báo Xuân Nhân Thìn Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn 2012

Sửa bởi pth77: 03/06/2014 - 01:27


Thanked by 2 Members:

#75 Libra

    Chấn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPip
  • 4368 Bài viết:
  • 18493 thanks

Gửi vào 03/06/2014 - 03:21

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

pth77, on 06/05/2014 - 01:03, said:

Con gà băng qua đường


Phía đằng xa, một con gà đang băng qua đường. Vấn đề đặt ra là tại sao con gà đó lại… băng qua đường? Dưới đây là câu trả lời của một số giới:

Ý kiến sơ bộ của 1 số vị nổi tiếng:

- Người phát ngôn Bộ ngoại giao: Việt Nam phản đối chuyến thăm của con gà khi nó băng qua đường. Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử cho thấy việc con gà băng qua đường là vi phạm chủ quyền, toàn vẹn...
Nguon: ST
Hông phải đâu, xưa đến giờ là quan ngại sâu sắc trước tình hình diễn biến phức tạp và kêu gọi các bên liên quan kềm chế giải quyết bất đồng thông qua đối thoại

Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

3 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |