Jump to content

Advertisements




NHỮNG CÂU CHUYỆN THƯỜNG NGÀY


256 replies to this topic

#76 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 04/06/2014 - 01:07

“ĐẠO HỌC”- GIAI ĐOẠN MỚI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHO HỌC.

Bút đàm của PHÙNG HỮU LAN



Lời người dịch: Bản dịch này, như thường lệ, dành cho các Hiệp sĩ - bạn tôi)

Sau khi thời đại “chư tử” Tiên Tần kết thúc, quá trình phát triển của Nho học có hai cao trào. Lần thứ nhất là vào thời Hán, từ một dạng “Tử học” nâng lên thành quan học “độc tôn”, nhưng Nho học thời này, nghiêm túc mà nói, gần với tôn giáo hơn là triết học thuần tuý. Lần thứ hai là vào thời Tống, Nho gia thực sự đã có được triết học thuần túy của riêng mình, đó là “Đạo học”. Người phương Tây thường gọi là “Tân Nho gia”.

Về tên gọi “Đạo học”, có một số người không đồng ý, cho rằng phải gọi là “Lý học”. Từ đời Thanh đến nay, hai tên gọi “Đạo học” và “Lý học” vẫn có thể dùng thông lẫn nhau, nhưng tên gọi “Lý học” dễ khiến người ta nhầm lẫn với “Lý học” - một phái đối lập với “Tâm học”- huống hồ niên đại sử dụng tên gọi “Lý học” muộn hơn “Đạo học”, cho nên tôi tán thành cách gọi là “Đạo học” .

Tên gọi “Đạo học” bắt nguồn từ thuyết “đạo thống” của Hàn Dũ. Vào thời Trung Đường, Hàn Dũ vì tuyên dương Nho học đồng thời ngăn chặn những ảnh hưởng ngày càng to lớn của Đạo giáo và Phật giáo, đề xuất Nho gia có “Đạo thống” truyền từ Nghiêu, Thuấn, Chu, Khổng, cho rằng dù Nho, Thích, Đạo ba nhà đều có “đạo” của mình , nhưng nội dung thì khác nhau, trong đó nội dung “đạo” của Nho gia là “Nhân Nghĩa” (仁義). Kiến giải này của Hàn Dũ dấy lên những ảnh hưởng to lớn đương thời, nhưng vẫn không phải là một học thuyết mới, vì ông vẫn dùng “bình cũ” đựng “rượu cũ”, chưa giúp Nho gia tìm được hệ thống lý luận mới.

Từ đời Đường đến đời Tống, xã hội Trung Quốc phát sinh nhiều biến động to lớn, một trong những cuộc biến động lớn đó là sĩ tộc môn phiệt từ quý tộc giai cấp địa chủ bị giáng xuống thành “đứng đầu tứ dân”. Địa vị của quý tộc là đời đời kế thừa, tư tưởng kinh học của họ cũng đời đời truyền thừa. Nhưng phần tử tri thức giai cấp địa chủ phải trải qua nỗ lực mới có thể giữ được địa vị “đứng đầu tứ dân”. Vì thế đòi hỏi phải có một loại triết học có thể khiến họ nhận thức xã hội một cách sâu sắc và hướng đạo nhân sinh, cho nên “Đạo học” thuận thế mà ra đời.

Lại nói về sự phát triển của lịch sử triết học, sau trào lưu tư tưởng kinh học đời Hán, Huyền học đem “tự nhiên” của Đạo gia đối lập với “Danh giáo” của Nho gia, chủ trương: “vượt Danh giáo thuận Tự nhiên”. Thiền tông của Phật giáo thì đem “đạo” của Phật giáo kết hợp với sinh hoạt thường ngày của con người, đề xuất: “gánh nước bổ củi, không phải không có diệu đạo”. Những thuyết pháp này đều có những đóng góp trong việc giải quyết vấn đề nhân sinh, nhưng cũng đều không đủ triệt để. Vì nếu như “vượt Danh giáo thuận Tự nhiên”, thì “Tự nhiên” đã đánh mất đi ý nghĩa thực tại, và “Danh giáo” cũng bị hạ thấp giá trị. Nếu như gánh nước bổ củi cũng là diệu đạo, vậy tại sao con người tu đạo lại vẫn cần phải xuất gia? Đến đây, triết học Trung Quốc dường như đã “tuyệt lộ sơn cùng thuỷ tận”.

Đứng trước tình trạng này, “Đạo học” giải thích: “Nhân (仁) dung hợp cùng một thể với vật”, đưa tự nhiên thống nhất cùng với xã hội. Theo sự lý giải này, “Nhân” (仁) không chỉ là một loại đạo đức trong xã hội, mà còn có ý nghĩa siêu đạo đức, siêu xã hội. Như vậy, “danh giáo” cũng chính là Tự nhiên, nhật dụng nhân luân đều là diệu đạo, mọi người có thể sống trong thế giới hiện thực thể nghiệm được sự vĩnh hằng của vũ trụ. Đó chính là “rượu mới” mà Đạo học rót vào trong “bình cũ” của Nho học, lấy đó mở ra một cục diện mới cho sự phát triển của triết học, từ đây triết học Trung Quốc “liễu rợp hoa tươi lại một thôn” .

“Đạo học” chủ yếu thảo luận về vấn đề Con Người (人), ví dụ như địa vị và nhiệm vụ của con người trong vũ trụ, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, mối quan hệ giữa con người với con người, nhân tính và hạnh phúc của con người vvv…, mục đích của Đạo học là khiến cho các loại mẫu thuẫn của nhân sinh có thể đạt đến thống nhất.

Nói chung, trên thế giới có hai loại mâu thuẫn cơ bản, một loại là mâu thuẫn giữa cái chung và cái riêng, một loại là mâu thuẫn giữa khách quan và chủ quan. Hai mâu thuẫn này là hậu quả của sự thật chung: mỗi một người hoặc mỗi một vật đều chỉ là một cá thể. Đặc điểm của con người là có thể tự giác nhận thức được sự thât đó, cho nên là “linh tú của vạn vật”. Nhưng con người lại luôn không thoả mãn về sự thật đó, vì con người cá thể đều hình thành một mối quan hệ nhất định với xã hội và tự nhiên, từ mối quan hệ này con người lại sẽ suy nghĩ tự nhiên và xã hội có ý nghĩa gì với mình, và mình sẽ có ý nghĩa như thế nào đối với tự nhiên và xã hội. Kết quả của loại suy nghĩ này là triết học, triết học chính là học vấn về “Con Người”.

Theo kiến giải của các nhà “Đạo học”, giữa cái chung và cái riêng, cái riêng không phải là lâm mô cái chung, mà cái riêng là thực hiện của cái chung. Nếu không có cái riêng, cái chung cũng không thể tồn tại. “Lý” và “Tính” được nhấn mạnh nhắc đi nhắc lại trong “Đạo học” chính là bàn về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. “Quy định tính” của một loại sự vật chính là “Lý” của sự vật đó, “Lý” biểu hiện trong sự vật cụ thể chính là “Tính” của chúng. Con Người cũng là một loại sự vật, đương nhiên cũng có “quy định tính”. Các nhà “Đạo học” kế thừa luận thuyết của Mạnh Tử, xem “quy định tính” này như là “chỗ khác biệt giữa con người và cầm thú”, đó là “Lý” của Người, và Nhân Tính (Tính của Người)- sự biểu hiện của “Lý”- tất nhiên là Thiện. Không chỉ có nhân tính là Thiện mà bản thân những Dục Vọng Cảm Tính của con người cũng không phải là ác. Cái Ác là do Tự Tư (自私) mà có. Có Tự Tư (自私), cuộc sống của con người không hợp lắm hoặc rất không hợp với Lý của Con Người, nhưng nhân loại với tư cách là vật tối linh của vạn vật đòi hỏi phải hợp hoặc hoàn toàn hoà hợp với chí nguyện Lý của Con người, mà con đường thực hiện chính là Hành Đạo Tu Đức. Xét về nghĩa này, đạo học giải quyết mâu thuẫn cơ bản của nhân sinh là bắt đầu từ con đường Luân Lý.

Các nhà Đạo học cho rằng: Con Người có hành vi đạo đức, có nghĩa là Con Người đang khắc phục Tự Tư. Sự tích lũy những hành vi đạo đức có nghĩa làm tăng thêm sự khắc phục. Tích lũy đến một trình độ nhất định, Tự Tư hoàn toàn được khắc phục, lượng biến thành chất, sự thống nhất giữa chung và riêng đã được thực hiện. Cái gọi là “nhất đán khoát nhiên quán thông yên” (trong chốc lát rộng mở thông suốt) của Chu Hy, đại khái chính là quá trình biến đổi của Chất. Khi đó dục vọng cảm tính không bị phế trừ mà chỉ là sự phế trừ Tự Tư. Sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng kéo theo sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, các nhà “đạo học” gọi đó là “đồng thiên nhân” (同天人), “hợp nội ngoại”(合内外). Đạt đến sự thống nhất này, con người đã tiến vào cảnh giới tinh thần của cõi Nhân, trong đó thiên địa vạn vật cùng là một thể, toàn nhân loại đều là anh em, dùng cách nói của các nhà “đạo học”, thì đó chính là “ cùng Lý tận Tính”, cũng chính là Nhân Tính hoàn toàn hợp với Lý của Con Người.

Xoay quanh vấn đề này, sự phát triển của đạo học trải qua hai giai đoạn. Đạo học tiền kỳ bắt đầu từ Nhị Trình, hai anh em Trình Hạo và Trình Di đã sáng lập ra Đạo học, cũng phân biệt sáng lập hai phái của Đạo học: “Tâm học” và “Lý học”. Trương Tái lấy “Khí” làm bản thể, có thể gọi là “Khí học”. Chu Hy kiêm xưng cả Lý, Khí có thể gọi là tập đại thành. Đạo học giai đoạn này có thể gọi là Đạo học đời Tống. Đạo học hậu kỳ có thể gọi là Đạo học đời Minh. Trong đó họ Lục (Lục Cửu Uyên), họ Vương (Vương Dương Minh) lấy Tâm học để phê phán Lý học của Trình Di, Chu Hy. Vương Phu Chi lấy Khí học làm chủ, tiếp thu có phê phán Lý học và Tâm học tổng kết toàn bộ Đạo học. Ông là tập đại thành của Đạo học hậu kỳ, cũng là tập đại thành của toàn bộ Đạo học.

Theo những kiến giải truyền thống, cuối đời Minh đầu đời Thanh có họ Cố, họ Vương, họ Hoàng là ba vị đại Nho, nhưng phân tích một cách nghiêm túc, thì tác dụng của ba người là không giống nhau. Cố Viêm Vũ là một nhà học vấn (học giả), không phải là nhà triết học. Vương Phu Chi đã tổng kết Đạo học, mà Đạo học là đỉnh cao của toàn bộ quá trình phát triển triết học Nho gia, vì thế ông cũng đã tổng kết toàn bộ triết học Nho gia. Xét theo nghĩa này, ông là sự tổng kết của thời đại cũ. Hoàng Tông Hy tuy cũng được xem là một nhà Nho, nhưng mũi nhọn phê phán của ông lại trực chỉ về Danh giáo-vốn là ý luận cơ bản của Nho gia, trong tư tưởng của ông đã có sự chuẩn bị cho sự tiến đến của thời đại mới, cho nên ông là tiên phong của thời đại mới. Từ đây Đạo học đã mất đi sức sống, không còn tính hợp lí để tồn tại, và xã hội Trung Quốc cũng đã khai màn thời cận đại.


(Quách Hiền dịch. Bài dịch trích ra từ cuốn: 《儒佛道与传统文化》
(《文史知识》 合刊 , 中华 书局 出版, 1999)

Sửa bởi pth77: 04/06/2014 - 01:08


Thanked by 1 Member:

#77 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 05/06/2014 - 19:05

Cái học của người học thức & Cái học của kẻ vô học



A- Thế nào là người học thức

Lễ Ký có nói: “Ngọc bất trác, bất thành khí; nhân bất học, bất tri lý”. Có người dịch như vầy: “Ngọc chẳng mài, chẳng ra chi. Người mà chẳng học, trí tri đâu tường…”. Nhưng thế nào là “người có học”?
Có kẻ học đậu năm ba cấp bằng, có người đậu cử nhân, tiến sĩ… thế mà cũng còn bị người ta mắng cho là đồ “vô học”. Như thế thì “người có học” là người như thế nào? Chắc chắn, nó phải có một định nghĩa rõ ràng, nhưng thường được hiểu ngầm hơn là nói trắng ra. Tôi có quen nhiều bạn đậu kỹ sư điện, thế mà trong nhà có máy điện nào hư, phải đi tìm những anh thợ máy điện đến sửa… Nếu ta bảo họ giảng nghĩa về điện học, thì phải biết, họ sẽ làm cho ta điếc óc… Tôi có biết nhiều ông giáo sư ở trường sư phạm ra, thế mà trong khi dạy học, họ không biết áp dụng một nguyên tắc sư phạm nào cả; học trò vẫn than phiền là giờ dạy của họ buồn ngủ muốn chết, không hiểu được gì cả… Rồi họ còn bảo: “Học trò mà học dở, không phải lỗi tại thầy”… Tôi cũng có thấy vài ông đậu bằng tiến sĩ hay thạc sĩ triết học, thế mà cách ăn ở với đời vụng dại như một người ngu, không hiểu chút gì về tâm lý của con người cả.
Ai ai, nếu để ý quan sát, cũng sẽ nhận thấy như tôi… Sự tình ấy không phải lỗi gì nơi những người ấy, họ là nạn nhân của chế độ nhà trường ngày nay, mà tôi sẽ bàn đến ở một nơi khác. Tôi chỉ muốn nói, những người có những bằng cấp nói trên đây, họ có hơn gì kẻ vô học không? Nếu có hơn là họ hơn về lý thuyết, nhưng về phần thực tế… họ đâu có hơn gì một con “Vẹt”. Nói cho đúng hơn, họ chỉ có “học” mà không có “hành”. Học là để biết. Biết, mà không thực hành được, cũng chưa gọi là “biết”. Tri và Hành cần phải hiệp nhứt mới được gọi là người “có học thức”.
Người xưa có ví: “Con chiên ăn cỏ, đâu phải để mà nhả cỏ mà là để biến thành những bộ lông mướt đẹp. Con tằm ăn dâu, đâu phải để mà nhả dâu, mà là để nhả tơ…”. Học mà không tiêu hoá, có khác nào con chiên nhả cỏ, con tằm nhả dâu… Người ta rồi cũng chẳng khác nào cái máy thu thanh, chỉ lặp lại những gì kẻ khác đã nói… Học như thế, không có lợi ích gì cho mình mà còn hạ phẩm cách của con người ngang hàng với máy móc. Georges Duhamel có nói: “Đừng sợ máy móc của bên ngoài… hãy sợ máy móc của cõi lòng…” Một xã hội mà con người chỉ còn là một bộ máy thì sứ mạng của văn hoá đã đến ngày cùng tận rồi… mà tinh thần loài người rồi cũng đến lúc diệt vong: có xác mà không hồn…Học mà đưa con người đến tình trạng ấy, tôi tưởng thà đừng học có hơn không? Cái hiểm trạng của xã hội ngày nay phần lớn phải chăng một phần nào đều do những bộ óc “học thức nửa mùa” ấy gây nên? Thế thì, học và học thức không thể lầm lẫn với nhau được. Ta cần phải để ý phân biệt hai lẽ ấy.
Thật vậy, có những sự hiểu biết chỉ bám ngoài da mà không thể ăn sâu vào tâm khảm của ta. Nó chỉ là một nước sơn bóng nhoáng và chỉ là một lớp sơn thôi… Cái học của ta không có ảnh hưởng gì đến tâm hồn ta cả. Trái lại, cũng có nhiều thứ hiểu biết liên lạc với ký ức ta, với tư tưởng ta, với tình cảm dục vọng ta, nó hoà hợp với cái người tinh thần của ta không khác nào khí huyết tinh tuỷ đối với thân thể của ta vậy. Giữa những sự hiểu biết ấy và ta, có một thức tác động và phản động, xung đột nhau, hoà hợp nhau để thay đổi nhau và thay đổi luôn cả cái người của ta nữa…Tô i muốn nói: giữa ta và những điều ta học hỏi phải có một sự tiêu hoá, hay muốn nói theo Kinh Dịch, phải có một việc thần hoá (thần nhi hoá chi) mới được. Vậy, ta phải dành chữ “học thức” cho những bộ óc thông minh biết đồng hoá với những điều mình đã học. Như thế thì, học nhiều và học thức không giống nhau. Phần đông chúng ta thường nhận lầm việc ấy. Chúng ta thường đánh giá con người theo cấp bằng của họ, những cấp bằng ấy phần nhiều là những cấp bằng trí nhớ: kẻ nào nhớ giỏi thì thi đậu. Sự nhận xét sai lầm này gây không biết bao tai hoạ cho loài người hiện thời. Tóm lại, người học thức không phải cần biết thật nhiều, mà cần phải thật biết những gì mình đã biết. “Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã” – Biết, thì biết là mình biết, không biết thì biết là mình không biết, ấy mới là thật biết. Học thức là một vấn đề thuộc “phẩm”, chứ hông phải thuộc “lượng”.
Cái học mà đã được đồng hoá rồi thì không còn nói là cái học bên ngoài nữa. Cỏ mà bị chiên ăn rồi, không còn là cỏ nữa. Dâu mà bị tằm ăn, không còn gọi là dâu nữa. Học, cũng như ăn.

B. Học để làm gì?

Học để làm gì? Và tại sao ta phải học? Ta phải quan sát chung quanh ta, ta sẽ thấy có hai hạng người: học vì tư lợi, và học không vì tư lợi gì cả, nghĩa là học để mà học, học theo sở thích của mình… Hạng học vì tư lợi, chiếm một phần rất đông. Họ học một nghệ thuật nào, một khoa học nào, một nghề nghiệp nào là để tìm một kế sinh nhai. Cái ý muốn thiết thực này cũng là cái ý muốn chính của các bực làm cha mẹ khi tìm thầy cho con, hay khi gởi chúng đến trường. Mà chính các học sinh, đa số cũng chỉ có một mục đích ấy: nắm lấy cấp bằng để tìm lấy một con đường sinh kế. Thật ra, cũng có nhiều kẻ, đối với nghề nghiệp sau này của mình, cảm thấy thích thú lắm. Cũng có thể rất sung sướng khi nghĩ đến sau này sẽ được làm kỹ sư, giáo sư, nghệ sĩ hay sĩ quan… Nhưng, cái ý nghĩ nhờ đó để kiếm địa vị, tiền bạc, danh vọng, quyền tước… cũng làm cho tâm hồn mình mất cả cái sung sướng tinh khiết của cái học vô tư lợi… Cái mộng của tuổi trẻ qua rồi, tôi thường thấy có nhiều bực phụ huynh không muốn cho con mình sau này đeo đuổi theo nghề nghiệp của mình. Học để tìm một nghề nghiệp làm kế sinh nhai, có cái lợi ích của nó, không một ai có thể chối cãi được, nhưng dầu thích hay không thích nó chỉ là một cái học để thành công, một cái học vị lợi… mà đối với những người có đầu óc thiết thực, ít lý tưởng, cho là thoả mãn lắm rồi! Bên những nhà “tập sự” vị lợi ấy, chúng ta cũng thấy có nhiều kẻ, ngay buổi còn thơ, nhất là lúc mà trí thức đương chừng nẩy nở, họ ham học mà không có một ý nghĩ gì dục lợi cả: không phải để kiếm tiền, không phải để tìm địa vị, cũng không phải để tìm danh vọng… Chiều theo ý của cha mẹ, hoặc vì hoàn cảnh bắt buộc mà phải chọn một nghề nào, kỳ thực họ không để chút tâm hồn nào nơi ấy cả. Họ là một công chức sở hối đoái mà họ mê say thiphú hay âm nhạc. Họ là một sĩ quan mà họ mê say lịch sử và văn chương. Họ là một trạng sư mà họ mê say toán học. Có kẻ, ngoài giờ phải lo lắng giùi mài nghề nghiệp của mình để kiếm ăn, cũng ráng dành một vài giờ để thoả mãn tính tò mò của mình, học những môn không lợi ích gì cho cái đời vật chất của mình cả, khi thì đọc triết học, khi thì đọc sách nghiên cứu về văn chương, lắm khi tập tễnh cầm bút viết văn hay hội hoạ… Đấy cũng là một cách học, một cái học hoàn toàn không chút vị lợi. Những kẻ học như thế, họ học văn chương vì văn chương, học nghệ thuật vì nghệ thuật, học khoa học vì khoa học. Hai hạng người trên đây, ai có lý? ai vô lý? Thật cũng khó mà trả lời. Cái thích của người này chưa chắc cũng là cái thích của người kia.
Lại còn có người họ thích không học gì cả, thì sao? Họ sẽ nói: “Đời người ngắn ngủi, học cùng không học thì có khác gì nhau. Anh thích khoa học, tạo hoá ban cho anh nhiều năng khiếu, thì anh thành nhà bác học giúp đời… Còn tôi, không có năng khiếu gì cả, cố mà nhồi vào sọ những cái học hỏi của kẻ khác, cố mà sản xuất những văn nghệ phẩm không hơn gì những bài làm của học sinh… thì phỏng có lợi gì! Ta hãy cứ tìm lấy những hạnh phúc rẻ tiền không cần dụng công nhọc sức chi cả có hơn không! Anh đọc truyện Kiều, anh biết thích… Tôi, tôi đọc Lục Vân Tiên, tôi cũng biết thích vậy. Anh, anh thích nhạc cải cách, anh thích nhạc Âu Mỹ. Tôi, tôi nghe vọng cổ, tôi xem hát hội tôi cũng biết thích vậy. Anh đọc tiểu thuyết của Âu Mỹ, anh biết hay ; còn tôi, tôi đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Phú Đức tôi cũng biết mê say… Vậy, thì cũng chưa chắc cái sướng của anh hơn cái sướng của tôi? Ta phải trả lời với họ cách nào? Đã không thiếu gì những quyển luân lý tân cựu đã trả lời với họ rất hùng hồn… Nhưng, theo tôi, mặc dầu có rất nhiều bài văn mà tài hùng biện của tá c giả không thể chối cãi được… tôi thấy cũng chưa đủ sức cảm hoá hạng người trên đây. Ta hãy can đảm nhìn ngay sự thật; có nhiều kẻ họ sống hết sức hạnh phúc trong sự ng* d*t và ở-không-nhưng của họ… Họ ghét đọc sách, họ ghét suy nghĩ, họ ghét làm việc bằng tinh thần cũng như họ ghét gông cùm tù tội vậy: một vấn đề hoàn toàn thuộc về bản chất…
Goethe, lúc mà danh vọng của ông lên đến tột độ, ngày kia dạo trên bờ sông thành Naples, gặp một tên ăn m*y nằm ngủ phơi mình trong ánh nắng… Ông dừng chân, tự hỏi: Ta và anh ăn m*y này, ai hạnh phúc hơn ai? Thật, cũng khó mà trả lời cho dứt khoát. Tuy nhiên, tôi chắc chắn, các bạn cũng như tôi, chúng ta thích sống trong hạnh phúc của Goethe hơn. André Gide cũng nói: “Một cái hạnh phúc mà vô tâm, tôi không chịu sống trong hạnh phúc ấy”. Nếu bạn là người theo phái “ăn rồi nằm ngửa nằm nghiêng, có ai mướn tớ, thời khiêng tớ về…” nghĩa là theo phái thích “ăn không ngồi rồi”, “tối thiểu nỗ lực” và cho đó là hạnh phúc nhất đời, thời xin mời bạn hãy để quyển sách này xuống. Nó không phải viết cho bạn. Thú thật, tôi không đủ tài để thuyết phục bạn. Sách này viết ra, là cho những ai cùng đồng một ý kiến với tôi, cho rằng hạnh phúc của Goethe hơn hạnh phúc của anh ăn m*y, hay nói cho đúng hơn, Goethe cao trọng hơn anh ăn m*y. Theo tôi, hạnh phúc là được làm chủ hành động ta, tư tưởng ta, tình cảm ta… và mỗi ngày mỗi làm cho cái người của ta thêm sáng suốt hơn, thêm tự do hơn, thêm to rộng hơn… nghĩa là thêm mới mẻ hơn. “Cấu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân”. Mỗi ngày mộtmới, và ngày ngày càng mới mãi … Đấy là lời khắc trên bồn tắm của vua Thành Thang ngày xưa. Và cũng chính là lý tưởng của Pasteur: “Cao lên, cao hơn lên, và cao lên mãi…” Như thế, ta thấy rõ mục đích của sự học là gì rồi. Học, là để mưu hạnh phúc, nghĩa là để làm cho mình càng ngày càng mới, càng ngày càng cao, càng ngày càng rộng … Học, là tăng gia sự hiểu biết của mình, là mở rộng tâm hồn của mình bằng cách thu nhận sự hiểu biết cùng những kinh nghiệm của kẻ khác làm của mình.
Có khác nào một đứa trẻ mới sinh, cân không đầy hai ba ký… Thế mà nhờ đâu càng ngày càng lớn đến năm sáu chục ký… trong khoảng vài mươi năm sau? Phải chăng nhờ rút lấy những vật liệu chung quanh: không khí, món ăn, món uống… mà tiến từ nhỏ đến lớn, từ yếu đến mạnh, nghĩa là càng ngày càng mới, càng ngày càng cao, càng ngày càng lớn. Bởi vậy, trước đây tôi có nói: học cũng như ăn. Ăn mà không tiêu, có hại cho sức khoẻ. Học mà không hoá, có hại cho tinh thần. Cỏ của con chiên ăn mà được tiêu, không còn gọi là cỏ nữa, mà là bộ lông mướt đẹp của nó. Dâu của con tằm ăn mà được tiêu, không còn là dâu nữa, mà là sợi tơ mịn màng tươi tốt của nó. Người có học thức là người, đã thần hoá những cái học của mình. Bởi vậy, người có học thức là người dường như không biết gì cả, mà không có cái gì là không biết. Học mà đến mực dường như quên hết cả sách vở của mình đã học thì cái học ấy mới thật là nhập diệu.
Herriot nói: “Học thức là cái gì còn lại khi mình đã quên tất cả”. Một nhà tâm lý học có nói: “Quên là điều kiện cần thiết của cái Nhớ”. Thật là chí lý. Một điều gì học mà mình còn cố nhớ, là nó chưa được nhập vào tâm. Chỉ khi nào mình không cần nhớ mà nó vẫn tự nhiên hiển hiện trong tâm trí mình thì môn học ấy mới được gọi là đã được tiêu hoá. Người học đánh máy chữ mà còn để ý tìm từng nút chữ, cố nhớ vị trí của mỗi nút chữ… là người đánh máy chưa tinh. Người học đi xe máy mà còn nhớ mình còn ngồi trên xe máy, còn để ý đến bàn đạp, cách đạp… là người đi xe máy chưa tinh. Tôi còn nhớ, lúc còn học thi, gần đến ngày thi, tôi băn khoăn nói với cha tôi: “Sao con học nhiều quá mà nay dường như con không nhớ gì cả. Lòng con như quên hết, không biết có nhớ được gì không? Con sợ quá”. Cha tôi cười bảo: “Đấy là con đã học “mùi” rồi. Quên, tức là nhớ nhiều rồi đó. Con hãy yên tâm…”. Thật đúng như lời. Ngày thi, giám khảo hỏi đâu, tôi trả lời liền đó, một cách dễ dàng hết sức. Trang Tử nói: “Người bắn cung mà còn để ý đến việc bắn cung của mình là người bắn chưa tinh. Kẻ lội mà còn để ý đến cái lội của mình là người lội chưa giỏi. Phải biết quên thị phi đi, thì cái tâm mình mới thông suốt được cái lẽ thị phi… (Tri vong thị phi, tâm chi thích dã)”. Hiểu được câu nói này của Trang Tử là hiểu được cái diệu pháp của phép Học rồi vậy.

C. Thế nào là bậc thiên tài

Nói đến những bậc thiên tài nhiều người đã tưởng tượng họ như những kẻ phi thường, cô phong độc tứ… xa hẳn với loài người. Thực ra cũng không có gì lạ giữa họ và chúng ta cho lắm; có nhiều kẻ còn tệ hơn chúng ta nhiều về vấn đề thể chất lẫn tinh thần nữa. Họ chỉ khác ta có một điều thôi: họ có một đức tin vững vàng về phương pháp làm việc của họ. Họ tin rằng với sự cần cù nhẫn nại và cách làm việc có phương pháp, họ sẽ đạt được ý muốn cao xa của họ. Theo họ “thiên tài chỉ là một sự bền bỉ nhẫn nại lâu ngày” mà thôi.
Darwin, tác giả bộ “Vạn vật nguyên lai luận”, người đã gây được một cuộc cách mạng to tát trong tư tưởng giới, là một người có một trí nhớ rất tồi tệ, một sức khỏe rất bạc nhược. Spinoza thì đau bệnh phổi, chết vào khoảng 45 tuổi. Pascal thì đau mãi và mất sớm năm 39 tuổi. Montaigne cứ than vãn mãi về trí nhớ thậm tệ của ông cũng như về trí não “chậm chạp và tăm tối” của ông, còn Herbert Spencer thì không thể nào làm việc trong một giờ mà không đau. Có ai dám bảo rằng những người nói trên đây không phải là những bậc vĩ nhân trong nhân loại? Sự nghiệp tinh thần của họ đều là những kỳ công bất hủ, những tinh hoa của nhân loại. Thế mà vấn đề thể chất họ còn thua ta xa, còn về vấn đề tinh thần có khi cũng không hơn gì chúng ta cho lắm. Nếu phải kể ra cho hết, thì cả năm mười trang cũng không sao kể đủ tên tuổi của các bậc vĩ nhân mà về phương diện thể chất và tinh thần không có gì là đặc sắc hơn những kẻ tầm thường. Thế nhưng họ đã để lại cho đời những kỳ công vĩ đại là nhờ đâu? Vì họ biết cách làm việc có phương pháp, có nghệ thuật.
Trong giới trí thức, cũng như trong các hiện tượng khác của tự nhiên: những hành động bạo phát, hùng hổ mãnh liệt như địa chấn, thuỷ tai… chỉ là những hiện tượng bạo phát mà bạo tàn… Những gì có tánh cách vĩ đại khó thoát khỏi yếu tố thời gian. Muốn học cho thâm, muốn gây tạo những công trình to tát cũng phải cần đến thời giờ… Nhất là văn hoá, không thể chấp được thời gian. Một giọt nước con, mà với thời gian đã điêu khắc dải Hoành Sơn, Tuyết Lãnh…
Nếu các bạn xem kỹ đời niên hthiếu của các bậc vĩ nhân đã làm vẻ vang cho tổ quốc họ và cho cả nhân loại, các bạn sẽ thấy, khi các ông ấy còn là học sinh đâu phải luôn luôn là những học sinh đứng vào hạng nhất trong lớp họ. Có khi họ lại là những anh học sinh “hạng bét” là khác. Có nhiều kẻ, chính các ông thầy của họ cũng không để ý đến họ nữa. Nhưng, một ngày kia, một tình cờ dun rủi, bỗng dưng cảm khích như Malebranche, sau khi đọc quyển “Traité de l’Homme” của Decartes, đem hết nghị lực lao đầu vào sự học, nhẫn nại, cố gắng cho tới ngày tài hoa xuất hiện. Một việc làm âm thầm, lặng lẽ, trong cô tịch nhưng đầy hăng hái, đầy kiên nhẫn sẽ là những công việc có nhiều kết quả vẻ vang và sâu sắc nhất. Trong khoảng âm thầm lặng lẽ, nghiên cứu học hỏi, các bạn đã tìm ra được lắm ý nghĩ hay ho, nhiều tư tưởng tân kỳ, có thể là những nền tảng cho một đời sống tinh thần và phát minh sau này của bạn. Trong lúc ấy, trong lúc mà các bạn-tác của bạn, nhiều may mắn hơn, đi vào các trường cao đẳng để tản mác trí lực của họ trong những cuộc đua chọi cấp bằng và địa vị cao sang quyền quý, thì trong bóng tối, trong im lặng, tác phẩm của bạn như tiếng sấm đêm đông… làm cho mọi người kinh khủng. Công trình sự nghiệp của bạn chẳng khác nào những hòn đảo kia, từ lượn cát đáp bồi, bỗng trồi lên mặt nước, một cách vững vàng như non núi. Những bậc vĩ nhân đều hiện lên một cách từ từ và lặng lẽ như thế. Họ nhẫn nại mà đi từng bước một; nhưng một bước của họ là một bước chắc chắn. Leo núi cao, các người từng trải đều quả quyết rằng những kẻ nào háo thắng, vội vàng sẽ không bao giờ đi tới mức được. Họ sẽ nhọc mệt, đuối sức và bị bỏ lại giữa đường. Các bậc vĩ nhân, họ đi từ từ mà không nghỉ, một cách hết sức trật tự và qui củ. Ông Newton nói: “Nếu tôi có phát minh được một đôi điều gì, cũng là nhờ nghĩ ngợi mãi một việc và đem việc ấy mà quan sát đủ mọi phương diện. Nếu những phát minh của tôi có được chút ích lợi cho đồng bào là do sự cần cù và đeo đuổi mãi theo một ý nghĩ mà không thôi vậy”. Giáo sư Duclaux, trong một bài diễn văn nói về Pasteur có nói: “Tôi không rõ nnhững phát minh kỳ vĩ có phải là do thiên tài sản xuất, không cần đến sự cố công gắng sức không? Chứ ở trường hợp Pasteur đây, tôi thấy hẳn không phải vậy. Nếu ông là một nhà phát minh đã lập đặng rất nhiều kỳ công vĩ đại trong nhân loại, trước hết là nhờ ông là một người làm việc rất nhẫn nại và lặng lẽ…”. Nhất là họ không bao giờ hiếu danh, hối hả trong công việc học hỏi và nghiên cứu của họ. Người ta bảo rằng lúc Pasteur thi vào Đại học, chỉ đậu hạng ba hạng tư gì đó. Năm ấy, ông không chịu vào Đại học. Học thêm cho một năm nữa, kỳ thi năm sau ông đứng đầu. Ông tự cho rằng sức ông còn yếu, nên cần học lại thêm một năm nữa, đâu có muộn gì, bởi theo ông cần nhất là phải có thật tài hơn là hối hả trong công trình học vấn. Thật có khác với đầu óc tầm thường của phần đông chúng ta ngày nay, bao giờ cũng muốn cướp thời gian và thành công mau lẹ. Tóm lại thiên tài là một sự nhẫn nại bền bỉ và lâu dài. Muốn thành những bậc tài hoa, điều thứ nhất là phải có lý tưởng, có đủ tin tưởng, và chí kiên nhẫn để thực hiện lý tưởng ấy; điều thứ hai là làm việc cho có trật tự, có phương pháp, nhẫn nại và lặng lẽ, không bồn chồn, không vội vã…

Trích “Tôi tự học”

Thu Giang Nguyễn Duy Cần


Sửa bởi pth77: 05/06/2014 - 19:06


Thanked by 3 Members:

#78 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 06/06/2014 - 15:53

PHẠM LƯU VŨ
(Tạp bút)
Ai cũng biết và công nhận Cao Biền đời nhà Đường là một nhà đại phong thủy, cổ kim hiếm có. Nhưng ít người biết Cao Biền còn là một người tu tiên đắc đạo ở quả vị tương đối cao (có lẽ phải tương đương quả vị A La Hán). Tiếc rằng không phải Chánh đạo, mà là ngoại đạo.
(Dã?) sử của ta vẫn coi ông là kẻ đã đóng cọc, yểm bùa ở sông Tô Lịch nhằm trấn yểm (phá hủy) Đại can long (long mạch đế vương) ở chốn này.
Chân lý phong thủy nhận định một cách rõ ràng rằng Đại can long là một yếu tố tiên quyết để có thể lập quốc, hình thành 1 quốc gia. Nơi nào có Đại can long thì nơi đó mới có thể lập thành một nước, bất kể diện tích nó rộng hay hẹp, dân số nó nhiều hay ít, bao gồm một hay nhiều chủng tộc… (Xingapore, Mĩ… là những thí dụ). Không có Đại can long thì dù rộng lớn, đông dân, chủng tộc lâu đời, thuần khiết… đến mấy cũng mãi mãi chỉ là “vùng lãnh thổ” mà thôi.
Trong bài “Thăng Long lược phong thủy kí” trước đây, tôi đã chỉ ra ở Trung Quốc có tới 3 Đại can long
Có nhiều Đại can long cũng chưa hẳn đã là điều hay, bởi như thế thường hay bị nội chiến, chia cắt (Trung Quốc, Triều Tiên là những thí dụ).
Trở lại chuyện Cao Biền. Có thực việc làm của ông nhằm phá hủy long mạch?
Đại Việt sử kí toàn thư, quyển 5, kỉ thuộc Tùy, Đường chép: “Giáp Thìn, [824], (Đường Mục Tông Hằng, Trường Khánh năm thứ 4). Mùa đông, tháng 11, Lý Nguyên Gia thấy trước cửa thành có dòng nước chảy ngược, sợ trong châu nhiều người sinh lòng làm phản, vì thế dời đến đóng ở thành hiện nay. Bấy giờ Nguyên Gia dời phủ trị đến sông Tô Lịch, mới đắp thành nhỏ thôi, có người thầy tướng bảo rằng: “Sức ông không đắp nổi thành lớn, sau 50 năm nữa ắt có người họ Cao đến đây đóng đô dựng phủ”. Đến đời Hàm Thông [860-874], Cao Biền đắp thêm La Thành, đúng như lời người ấy. Lại xét: Phủ thành đô hộ trước đó ở ngoài thành Đông Quan ngày nay, gọi là La Thành, sau Cao Biền đắp thành hiện nay, thành bên ngoài cũng gọi là La Thành).”
Thực ra thì Hà Nội thời đó là một vùng đất trũng, ngập nước lâu đời, long mạch (đại can long) xuất phát từ núi Tản Viên tuy đã hình thành, nhưng còn non (nộn), nền đất rất yếu, Lý Nguyên Gia (tiết độ sứ nhà Đường lúc bấy giờ) là hạng phàm phu sao biết được điều ấy nên thành đắp lên lại sụt, không thể đắp lớn được.
Đúng là phải đợi đến khi Cao Biền được vua Đường cử sang làm Tiết độ sứ, thì La Thành (thành lớn) mới được đắp. Tại sao Cao Biền làm được cái việc mà trước đó Lý Nguyên Gia không làm nổi? Tất cả nhờ ở kiến thức về phong thủy đã đạt tới trình độ siêu việt của ông.
Môn phong thủy học coi đất (địa) là một cơ thể sống có tịnh, có biến, có nhược, có cường, có kinh mạch, thần khí… y hệt cơ thể của một người đàn bà (vì đất – địa thuộc về âm).
Sự chuyển vận mạnh hay yếu, bế (tắc) hay khai (thông) của hệ kinh lạc trong cơ thể con người quyết định thể trạng mạnh hay yếu… của chính con người ấy. Môn châm cứu trong y học cổ từ đây mà ra.
Kinh mạch chuyển vận tạo nên các huyệt đạo (gọi là kết huyệt). Có 2 loại huyệt: huyệt âm (lồi), và huyệt dương (lõm). Người thầy thuốc căn cứ vào các huyệt đạo trên cơ thể con người để biết đường đi (và tình trạng) của toàn bộ hệ kinh lạc. Nhà phong thủy căn cứ vào các huyệt đạo (kết) trên mặt đất mà hình dung ra đường đi của hệ long mạch, tựa như người ta nối các điểm trên bản đồ vậy.
Việc Cao Biền cho đóng các cọc sắt ở những vị trí nhất định trên sông Tô Lịch ngày trước, nói ra, kẻ không tin sẽ cho là hoang đường, chứ thực không khác gì việc châm cứu của các thầy thuốc trên cơ thể người bệnh vậy.
Nghĩa là việc làm đó của họ Cao nhằm trấn yểm (làm cho bế tắc dẫn đến phá hủy) hay ngược lại, nhằm khai thông, củng cố long mạch? Nếu làm cho bế, thì (cơ thể) đất càng bị yếu đi, sụt thấp đi… đến chỗ bị hủy hoại, chứ không thể ngày càng nổi lên, đồng thời ngày càng vững chắc được.
Và như thế thì Cao Biền mới đắp được La Thành. Nền đất không những không bị lún sụt, mà ngày càng vững chắc thêm, dần dần đã nổi lên hẳn giữa một vùng sông nước bao la.
Chẳng phải mỗi chuyện đắp thành. Họ Cao còn dùng kiến thức phong thủy siêu tuyệt ấy của mình “kéo” cả sấm sét trên trời xuống, thay cho mìn phá đá để đào kênh. Cũng quyển sử kia chép: “Đinh Hợi [867], Cao Biền đi tuần thị đến hai châu Ung, Quảng thấy đường biển có nhiều đá ngầm làm đắm thuyền, vận chở không thông, bèn sai bọn Nhiếp trưởng sử Lâm Phúng, Hồ Nam tướng quân Dư Tồn Cổ đem quân bản bộ và thủy thủ hơn nghìn người đến đục đá khai đường, bảo rằng: “Đạo trời giúp người thuận, thần linh phù kẻ ngay. Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu mình không theo lòng riêng thì có gì khó. Các đô hộ thời trước không khao thưởng quân sĩ, giữ phép không vững, làm sai lời hứa, trái ước hẹn, mưu lợi riêng, cho nên mọi người đều trễ biếng. Nay ta không như thế, chỉ cốt làm cho xong việc của nhà vua mà thôi”. Biền nói xong, bọn Phúng vâng lệnh đi ra. Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 5, khởi công khơi đào, trong khoảng hơn 1 tháng, gần được thông suốt, duy ở quãng giữa có hai chỗ đá lớn quanh co chắn ngang đến mấy trượng, đục xuống thì quằn đục, dùng búa thì gãy cán, người làm việc cả ngày nhìn nhau, công việc cơ hồ bỏ dở. Ngày 26 tháng 5, đương ban ngày bỗng nhiên mây dồn, gió nổi dữ dội, trông vào rừng tối như đêm, ngửa bàn tay không nhìn thấy, chốc lát hàng trăm tiếng sét nổ vang trời ở chỗ đá lớn, chỉ trong khoảnh khắc trở lại bừng sáng. Người làm việc chạy tới xem thì thấy các khối đá đã bị tan nát cả. Về phía tây lại gặp hai chỗ đá lớn dựng đứng, người làm cũng phải chịu bó tay. Ngày 21 tháng 6 lại có sét đánh như trước, chỉ trong một lúc đá lớn đều bị tan vụn cả. Kênh bèn đào xong, vì thế gọi là kênh Thiên Uy.”
Biết rõ rằng mình đang làm chủ, đang “ngự” trên một Đại can long Hồng Hà như thế, Cao Biền liệu có “trung” tuyệt đối với nhà Đường nữa hay không? Chắc chắn là không. Ông đã xưng vương, với ý đồ lập thành 1 quốc gia, ngang ngửa với phương Bắc của nhà Đường. Thêm một lý do nữa chứng tỏ họ Cao không phải là người đã trấn ỷểm long mạch Hà Nội ngày trước, mà ngược lại, chính ông là người đã dùng kiến thức siêu việt của mình để củng cố và khai thông nó, làm cho cái long mạch ấy xứng đáng là một long mạch đế vương, vùng đất ấy xứng đáng là một vùng “đế đô của muôn đời”, để gần 200 năm sau, Lý Công Uẩn mới có chốn “thượng đô kinh sư” mà chọn để dời đô.
Cao Biền “dậy non” và thất bại chính vì cái long mạch mà ông củng cố ấy nó “non”. Và vì “thua” nên ông đã trở thành “giặc” như bao đời nay truyền tụng. Chứ nếu cái long mạch ấy nó kịp “già” để ông “được”, thì biết đâu, lịch sử đã chẳng coi ông như một vị vua, như đã từng coi An Dương Vương? (thì chính An Dương Vương cũng là người phương Bắc đã diệt vua Hùng của người Giao Chỉ trước đó đấy thôi).
Mấy năm trước hậu thế Giao Chỉ rầm rĩ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, mà không một lời nhắc đến công lao của Cao Biền (đối với La Thành nói riêng và đối với cả địa thế của Hà Nội nói chung). Hà Nội không 1 con đường mang tên Cao Biền, liệu có phải là một sự vong ân bội nghĩa với tiền nhân.
Vong ân bội nghĩa thì dễ phải trả giá. Ngày nay, bọn hậu thế của Cao Vương khi xưa sẽ không làm như ông ngày trước đâu. Mà chúng sẽ phá hủy thật sự đấy. Cứ nhìn những hàng cột bê tông chạy ngoằn ngoèo, chân sắt của chúng cắm sâu xuống long mạch, đầu đao của chúng chỉ thẳng vào không biết bao nhiêu bàn thờ suốt một tuyến dài giữa thủ đô kia. Nay mai, những (cái gọi là) tàu điện trên cao ấy sẽ ầm ầm chạy suốt ngày đêm, thì cái “long mạch” gọi là “đế vương” này, hỏi sẽ “quằn quại” được bao lâu nữa đây?

(Viết nhân tiết Đoan Ngọ 2014)

#79 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 06/06/2014 - 16:51

Những Lực Chuyển Của Hai Thập Kỷ Tới
Alan Phan

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


(GNA: Bài viết từ tháng 5 nhưng không đăng vì sự tế nhị của tình hình đất nước. Nay thì “Định Mệnh Đã An Bài” nên xin quay lại với tương lai của doanh nghiệp và cá nhân; một đề tài thực sự quan trọng hơn tất cả những “trò chơi” của người hay của chuột. Bởi vì tôi luôn quan niệm là dân có giàu thì nước mới mạnh, mới được nước khác kính nể, và có phương tiện để tạo nên một xã hội công bằng, pháp trị và dân chủ thực sự)
15 May 2014
Những ngày gần đây, các biến động tại Việt Nam do tranh chấp lãnh hải với Trung Quốc đã làm mờ nhạt tất cả suy nghĩ của người Việt về tương lai gần xa của xứ sở, về những khả năng của các “thiên nga đen”, về mọi vấn đề vĩ mô của kinh tế chính trị và xã hội. Dù đã suy nghĩ và phân tích rất nhiều, thực tình tôi cũng không biết tiên đoán thế nào cho khoa học và chính xác những ảnh hưởng của biến cố này trên các hoạt động kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam.
Tuy nhiên, mặc cho Việt Nam hay Trung Quốc hay bất cứ quốc gia nào khác, đang loay hoay tìm giải pháp cho các vấn đề trước mặt của mình, nền kinh tế của thế giới vẫn tiếp tục đi tới (hay lui) trên con đường của nó theo những trào lưu có thể tiên đoán từ những dữ liệu và tin tức trong kho kiến thức của nhân loại trên đám mây Internet.
Vì tôi không phải là một chuyên gia suốt ngày ngồi nghiên khảo nghiêm túc như một giáo sư đại học hay một ứng viên viết luận án, nên tôi chắc chắn là các kết luận của mình mang nhiều giới hạn và thiếu sót. Nhưng bù lại, kiến thức thâu lượm qua sách vở của tôi lại được bổ túc bởi những cuộc viếng thăm cơ sở và trò chuyện cùng các doanh nhân đang chiến đấu hàng ngày tại “ground zero” nên tôi nghĩ chúng có được góc cạnh thực tế và khả thi hơn các luận án.
Theo tôi (và cần nhiều bổ túc từ BCA), các lực chuyển sau đây sẽ biến dạng nền kinh tế toàn cầu và tạo nên một môi trường xã hội khác biệt cho thế hệ trẻ. Sự đoán bắt đúng lúc và thực thi giải pháp chính xác, khả thi sẽ đem lại những trái quả ngọt ngào cho người nhập cuộc. Và như trong bất cứ trò chơi nào, người thua cuộc cũng khá đông. Sự mất mát và rủi ro luôn tiềm ẩn.
Trước hết, xin tóm lược:
Lực Chuyển 1: Văn hóa mới sẽ có mầu sắc toàn cầu theo khuynh hướng kinh tế thị trường và chính trị đa nguyên, dân chủ.
Lực Chuyển 2: Dòng tiền đầu tư quay về Âu Mỹ.
Lực Chuyển 3: Công nghệ cao sẽ biến đổi nhiều mô hình kinh doanh và cách thức chúng ta sinh hoạt
Lực Chuyển 4: Các quốc gia mới nổi mất nhiều lợi thế cạnh tranh trong chi phí sản xuất công nghiệp
Lực Chuyển 5: Dầu khí và khoáng sản không còn là tài sản tối ưu trong các nền kinh tế đã phát triển
Lực Chuyển 6: Dịch vụ an sinh và giải trí sẽ chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng lượng GDP toàn cầu
Trong 2 tháng tới, tôi sẽ trình bày và phân giải các sự kiện, hiện tượng và lý do tại sao tôi nghĩ đây là những lực chuyển tạo nên những thay đổi quan trọng nhất cho nền kinh tế toàn cầu.
Tôi cũng sẽ minh bạch và cho các bạn biết, từ các kết luận này, tôi đã thay đổi công việc làm ăn cũng như đời sống hàng ngày của tôi như thế nào để thích nghi với tình huống mới. Tôi hoàn toàn không biết là mình sai hay trúng. Đây là lợi thế của những người “không-phải-là-đỉnh-cao-trí tuệ”. Chúng ta nhìn mọi chuyện như một phiêu lưu kỳ thú, không phải một kịch bản viết ra từ một cuốn sách từ thế kỷ 18, không ai còn muốn đọc vì chứa quá nhiều sai lầm.
Tôi cũng không biết là lãnh đạo và nhân dân Việt Nam có muốn “thâu tóm” tương lai để tạo nên một cuộc sống khác hơn những nghèo hèn hiện tại? Cá nhân các bạn có muốn thay đổi tư duy để tìm những kỹ năng mới để cạnh tranh trên “biển lớn”? Nhưng tôi đã nói từ đầu, thế giới này không có thì giờ để đợi Việt Nam hay cá nhân, hay gia đình của bạn. Nhân loại đang háo hức lên đường tìm vận hội mới, nhất là những người trẻ. Ai muốn ở lại với “cây đa cao ngất từng xanh” của làng mạc hay ôm lấy đống “nồi niêu xong chảo” tích cóp từ thời Mao, Stalin… thì vẫn tự do với lựa chọn của mình (nghe nói đám Taliban đang tìm thêm đồng chí).
Tôi biết tình hình nước nhà đang nằm trước một ngã rẻ có thể là rất quan trọng cho vận mệnh chung và riêng. Nhưng nó cũng có thể chỉ là một màn kịch đạo diễn bởi những chính trị gia mưu mô, thủ đoạn. Mọi chuyện lại đâu sẽ vào đấy. Nếu bạn có thể làm gì để tác động lên ảnh hưởng cho lợi ích chung thì tôi thực sự khâm phục. Với khả năng và đam mê của cá nhân, tôi biết tôi hoàn toàn vô dụng trong tình thế này. Vả lại, cà ngàn diễn đàn và mạng lưới khác đang hoạt động tối đa trên khắp phương tiện (ảo và thực) theo mục tiêu mà các bạn muốn tham gia.
Riêng tôi, tôi không muốn mất thì giờ đợi chờ và suy đoán. Tôi mời bạn lên đường theo một hành trình trong suy tưởng của ông già Alan và BCA.
Alan Phan

Sửa bởi pth77: 06/06/2014 - 16:53


Thanked by 4 Members:

#80 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 07/06/2014 - 01:13

ĐH Fulbright Việt Nam hoạt động phi lợi nhuận


06/06/2014 10:48 (GMT + 7)

TT - Lần đầu tiên tại Việt Nam sẽ có một trường ĐH phi lợi nhuận theo mô hình Hoa Kỳ - Trường ĐH Fulbright Việt Nam (FUV). Mô hình này khác gì so với hệ thống các trường ĐH tư thục hiện có tại Việt Nam?

Ông Thomas Vallely - chủ tịch Quỹ TUIV (quỹ đầu tư ĐH Fulbright Việt Nam)



Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Thomas Vallely - nguyên giám đốc Chương trình Việt Nam của ĐH Harvard - Hoa Kỳ, đồng thời là một trong những sáng lập viên của Quỹ học bổng Việt Nam - Hoa Kỳ (VEF), hiện là chủ tịch Quỹ tín thác Sáng kiến ĐH Việt Nam (TUIV - quỹ đầu tư của FUV) - chia sẻ:
- Thực tế, quá trình chuẩn bị dự án đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của cả Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ mặc dù đây là sáng kiến từ khu vực tư nhân. Kể từ năm 1995, hợp tác giáo dục đã là một trụ cột trong mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Có thể nói giáo dục ĐH là lĩnh vực giàu tiềm năng phát triển nhất trong mối quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
Vào tháng 7-2013, Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tán thành sáng kiến này. Tháng 12-2013, Ngoại trưởng John Kerry đã thảo luận với các lãnh đạo Việt Nam về FUV. Một nhóm chuyên trách liên ngành đã được Chính phủ Việt Nam thiết lập để phối hợp với các bên ủng hộ nhằm đảm bảo nhanh chóng triển khai sáng kiến FUV.
Luật giáo dục ĐH 2012 đã lần đầu tiên công nhận hình thức ĐH tư thục không vì lợi nhuận. FUV hi vọng sẽ là một thể nghiệm sinh động về mặt chính sách đối với hình thức ĐH này. Tuy nhiên, đây cũng là một thách thức của dự án. Hình thức ĐH tư thục không vì lợi nhuận theo mô hình Hoa Kỳ còn rất mới ở Việt Nam. Vì chưa có tiền lệ nên các quy định về thủ tục thành lập cũng như về quy chế hoạt động hoặc chưa có hoặc chưa hoàn chỉnh. Chúng tôi hi vọng sẽ nhận được sự hợp tác và hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền trong việc thiết lập các cơ chế hoạt động đặc thù và cụ thể cho FUV.
Tài chính hoạt động dựa trên 4 trụ cột

* Điều mà nhiều người đang quan tâm là FUV sẽ tuyển sinh những ngành nào và học phí dự kiến ra sao, thưa ông?
- FUV sẽ tiếp nhận chương trình MPP của FETP. Chương trình MPP vẫn sẽ là chương trình học bổng. Ứng viên trúng tuyển được nhận học bổng gồm học phí toàn bộ hai năm học và trợ cấp sinh hoạt, đi lại trong năm học đầu tiên.
Bên cạnh chương trình MPP này, trong giai đoạn đầu FUV cũng sẽ mở các chương trình đào tạo bậc thạc sĩ ở các ngành quản lý và kỹ thuật. Khi điều kiện cho phép, FUV sẽ mở rộng đào tạo ở bậc ĐH và tiến sĩ. Một kế hoạch chi tiết đang được TUIV chuẩn bị để trình Bộ GD-ĐT. Chúng tôi sẽ thông tin cụ thể hơn về ngành học và học phí dự kiến khi bản kế hoạch được hoàn tất.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng trong quá trình xúc tiến xây dựng FUV, mọi hoạt động của FETP vẫn sẽ diễn ra bình thường với sự hợp tác giữa Trường Harvard Kennedy và Trường ĐH Kinh tế TP.H.C.M dưới sự tài trợ chính từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Chương trình MPP của FETP vẫn sẽ tuyển sinh hằng năm. Năm nay chương trình MPP của FETP vẫn đang nhận hồ sơ đến hết ngày 4-7-2014 và kỳ thi tuyển sinh sẽ được tổ chức vào ngày 27-7-2014.
* Được biết, FUV vận hành theo một cơ chế tài chính đặc biệt với sự đầu tư của Quỹ TUIV. Quy mô dự kiến của quỹ sẽ bảo đảm tài chính cho FUV ở tầm mức nào, thưa ông?
- TUIV sẽ đi tiên phong, dẫn dắt sự phát triển của FUV trong các hoạt động gây quỹ, phác thảo kế hoạch phát triển chi tiết và định hướng chiến lược. TUIV đang tiến hành gây quỹ từ các nhà tài trợ Việt Nam và Hoa Kỳ, bao gồm các cá nhân, tập đoàn, quỹ và cơ quan viện trợ. Tính khả thi tài chính dài hạn của FUV sẽ phụ thuộc vào khả năng hình thành nền tảng ngân sách đa dạng từ các nguồn như học phí, ngân sách nghiên cứu và nguồn thu tài trợ.
Mặc dù hoạt động thiện nguyện vẫn chưa phát triển ở Việt Nam, chúng tôi tin rằng FUV sẽ huy động được nguồn lực đáng kể từ trong nước. Việc đảm bảo sự ủng hộ này sẽ rất cần thiết để chứng minh với các nhà tài trợ tiềm năng rằng FUV thật sự hoạt động với tư cách phi lợi nhuận.
Dự kiến nguồn tài chính của FUV được dựa trên bốn trụ cột chính gồm học phí, đóng góp thiện nguyện, các khoản tài trợ nghiên cứu và nguồn thu từ quỹ trường. Như đã nói, là một tổ chức thiện nguyện, TUIV phải đảm bảo hoạt động phi lợi nhuận để duy trì tư cách pháp nhân của mình. Các nhà hảo tâm và thiện nguyện ở Hoa Kỳ đóng góp cho TUIV sẽ được miễn thuế.
Đến lượt mình, FUV cũng không có “cổ đông”, và do vậy lợi nhuận (nếu có) của trường sẽ được sử dụng hoàn toàn cho sự nghiệp phát triển. Đây là cơ chế khuyến khích hoạt động thiện nguyện ở Hoa Kỳ và là một truyền thống trong các trường ĐH không vì lợi nhuận của Hoa Kỳ.
Các cá nhân đóng góp cho các trường ĐH không phải để đầu tư vì lợi nhuận mà như một nghĩa cử xây dựng xã hội và trả ơn cho xã hội. Những đóng góp này được ghi nhận và trường tồn cùng với trường ĐH. Về phía Việt Nam, chúng tôi đang làm việc với các cơ quan có thẩm quyền về cơ chế thuế đối với các đóng góp ở Việt Nam cho TUIV trong việc xây dựng FUV.
Thông qua các khoản tài trợ khởi đầu này, TUIV sẽ phát huy hơn nữa sự đóng góp của các nhà tài trợ Việt Nam. TUIV dự kiến sẽ huy động cho FUV khoảng 50 triệu USD trong ba năm đầu và 100 triệu USD cho đến năm 2020. Việc Thủ tướng Chính phủ chính thức đồng ý chủ trương đầu tư FUV có thể nói là sự ủng hộ cụ thể và mạnh mẽ nhất của Chính phủ Việt Nam cho đến nay đối với dự án này.
Về phía Hoa Kỳ, TUIV đang làm việc với Quốc hội Hoa Kỳ để đảm bảo một khoản tài trợ sẽ được dành cho FUV trong khuôn khổ các sáng kiến trao đổi giáo dục của Quốc hội Hoa Kỳ. FUV hi vọng sẽ là một hình mẫu về quản trị ĐH hiệu quả và đảm bảo chất lượng tại Việt Nam. Trường sẽ tuân thủ những nguyên tắc quản trị thiết yếu của một nền giáo dục ưu tú: đó là tự do hàn lâm, đánh giá và tuyển dụng dựa trên năng lực, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Đáp ứng nhu cầu của khu vực tư

Theo kế hoạch, FUV sẽ đăng ký kiểm định chất lượng từ các tổ chức kiểm định chất lượng của Hoa Kỳ. Trường cũng sẽ đăng ký kiểm định chất lượng đối với từng chương trình đào tạo riêng biệt. Ngoài ra, trường sẽ đặc biệt chú trọng vào việc tuyển dụng các học giả tài năng và các nhà khoa học người Việt Nam thông qua thiết lập môi trường chuyên nghiệp và cơ chế khuyến khích cá nhân tương tự như những điều kiện ở Hoa Kỳ.
* Ngoài quản trị ĐH nhiều khác biệt thì chương trình đào tạo của Trường ĐH Fulbright liệu có mang theo hơi thở của chương trình Fulbright danh giá hay là có sự kết hợp, điều chỉnh để “phù hợp” thực tế Việt Nam?
- Khi đi vào hoạt động, FUV sẽ tiếp nhận chương trình thạc sĩ chính sách công (MPP) của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright (FETP). Trên thực tế, chính sự “phù hợp” với thực tiễn Việt Nam là một trong những yếu tố làm nên sự thành công của chương trình MPP của FETP.
Trong những năm đầu mới thành lập, để đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước, FETP thực hiện các khóa đào tạo một năm sau ĐH về kinh tế học ứng dụng và chính sách công, trong đó chủ yếu giảng dạy về nền kinh tế thị trường và sử dụng giáo trình, chương trình đào tạo của Trường quản lý nhà nước Harvard Kennedy. Theo thời gian, FETP đã phát triển chương trình một năm thành chương trình MPP từ năm 2008, với các hoạt động nghiên cứu liên tục với chất lượng cao nhằm đảm bảo đề cương giảng dạy luôn phù hợp với điều kiện kinh tế không ngừng biến chuyển của Việt Nam.
Tương tự như chương trình MPP, các chương trình đào tạo mới của FUV cũng sẽ được xây dựng với sự hợp tác của một số đối tác hàn lâm Hoa Kỳ và sự tham vấn với cộng đồng doanh nghiệp nhằm đảm bảo chất lượng chương trình đào tạo của FUV, bám sát thực tiễn và đáp ứng được nhu cầu nhân lực của nền kinh tế.
Tầm nhìn của những người sáng lập FUV là các trường ĐH thành công là một bộ phận của cộng đồng rộng lớn hơn và phát huy sức mạnh từ mối quan hệ với cộng đồng doanh nghiệp, chính phủ và xã hội. Các bên liên quan của FUV đã tham gia đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp ở Việt Nam nhằm đảm bảo rằng các chương trình đào tạo của trường sẽ đáp ứng được nhu cầu về lực lượng lao động của khu vực tư. Các ủy ban cố vấn bao gồm đại diện doanh nghiệp, chính phủ và cộng đồng sẽ không ngừng cung cấp những “vòng lặp phản hồi” để định hướng thiết kế cho các chương trình nghiên cứu và giảng dạy có khả năng đóng góp cho sự phát triển kinh tế liên tục của TP.H.C.M nói riêng và Việt Nam nói chung.
FUV sẽ là một tổ chức tư thục và độc lập, do đó tồn tại phụ thuộc vào khả năng huy động nguồn lực từ bên trong xã hội Việt Nam. Đây là động lực mạnh mẽ để trường luôn đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, cựu sinh viên và cộng đồng rộng lớn hơn.
NGỌC HÀ thực hiện

#81 GumBall

    Hội viên

  • Hội Viên mới
  • PipPip
  • 619 Bài viết:
  • 1038 thanks

Gửi vào 07/06/2014 - 07:20

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

pth77, on 06/06/2014 - 15:53, said:

PHẠM LƯU VŨ
(Tạp bút)
Ai cũng biết và công nhận Cao Biền đời nhà Đường là một nhà đại phong thủy, cổ kim hiếm có. Nhưng ít người biết Cao Biền còn là một người tu tiên đắc đạo ở quả vị tương đối cao (có lẽ phải tương đương quả vị A La Hán). Tiếc rằng không phải Chánh đạo, mà là ngoại đạo.
...
Nay mai, những (cái gọi là) tàu điện trên cao ấy sẽ ầm ầm chạy suốt ngày đêm, thì cái “long mạch” gọi là “đế vương” này, hỏi sẽ “quằn quại” được bao lâu nữa đây?

(Viết nhân tiết Đoan Ngọ 2014)

Vì sao ngày nay phong thủy thất truyền. Có phải chỉ vì nó bị giấu đi, hay đại chúng ngày nay không đón nhận nó vì thấy nó không hữu dụng như các sách địa lý truyền tụng.

Theo thời gian nó đã bị thanh lọc chăng ?

Thanked by 1 Member:

#82 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 07/06/2014 - 18:05

Adam Smith và CNTB

Adam Smith đã lập ra nền tảng của môn kinh tế chính trị học (économie politique, theo ngôn ngữ của ông), hay, với người đời nay ghét hai từ chính trị, chỉmê khoa học thôi, của những khoa học kinh tế (sciences économiques) hoặc kinh tế học.
Một số khái niệm của ông và quan điểm của ông về vai trò của thị trường vẫn còn là nguyên lý trong những lý thuyết kinh tế tân tự do (néolibéral), tân cổ điển (néoclassique) đã và đang thống trị tư duy kinh tế của nhân loại.
Tuy vậy, dường như không ai thèm dạy tận gốc, chi ly và đầy đủ, học thuyết kinh tế của ông. Hồi tôi còn xách cặp tới trường, yêu quê hương kinh tế qua từng trang lý thuyết nhỏ, tôi có được nghe thầy nhắc tới tên Adam Smith trong vài… câu! Hôm nay, xét cho cùng, không khó hiểu. Đào sâu tư tưởng của ông, tìm hiểu nó, so đo nó với nghiệm sinh và kiến thức mà loài người đã có được trong lĩnh vực này từ thời ông tới nay, một cách tỉnh táo và phê phán, có lắm vấn đề không vui tí nào. Nói chung, các thầy cấu và dùng lại hai ý, như nguyên lý không cần phải bàn:
  • a. Giá trị – lao động (valeur–travail)
  • b. Ngoài vài trường hợp đặc biệt, như vấn đề an ninh quốc gia chẳng hạn, Nhà nước không nên can thiệp vào sự vận động tự nhiên của thị trường, cứ để cho nó tự điều tiết, đó là đường lối kinh tế chính trị đúng đắn và hiệu quả nhất. Trong sự vận động tự nhiên ấy, mỗi cá nhân chỉ đeo đuổi mục đích ích kỷ của mình thôi, không ai quan tâm tới lợi ích chung của xã hội. Thế mà sự cạnh tranh giữa họ sẽ khiến toàn bộ xã hội đạt khả năng sản xuất và làm giàu tối ưu, cứ như thể thị trường có một bàn tay vô hình hướng dẫn mọi người đều đi tới mục đích ấy.
Báo Le Monde và nxb Flammarion tái bản quyển La richesse des nations

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, Sự giàu có của các quốc gia, bán với giá 4,90 € ở quầy báo! Ôi, một tác phẩm quý đến thế này mà trị giá có bấy nhiêu thôi! Trí tuệ là tài sản chung của nhân loại, không là một ý tưởng hão khi luật Pháp cấm tư hữu hoá nó… Nhân dịp này, ta thử ghi nhớ vài đóng góp quý báu của Adam Smith trong lĩnh vực tư duy kinh tế. Ghi nhớ thôi, không phê phán vì đã có người phê phán chi li mạch lạc từ lâu rồi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

và, trong lĩnh vực vừa thiết thân vừa rắc rối bậc nhất này của kiếp người, không thể có “mì ăn liền” được, phải vắt óc toát mồ hôi hột thì may ra mới học được đôi điều đáng học.
1. Sự giàu có của các quốc gia là gì?

Adam Smith là người đầu tiên khẳng định một cách dứt khoát, toàn diện, rõ ràng và mạch lạc quan điểm này: Sự giàu có của các quốc gia không do “rừng vàng biển bạc” mà có ; nó không là gì hết ngoài toàn bộ những sản phẩm do lao động của con người tạo ra. Nếu ta xem nó trong khoảnh khắc 1 năm thì nó gồm:
  • a. Tư bản

    Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

    sẵn có, nghĩa là những sản phẩm mà lao động của xã hội đã sản xuất ra trước đó mà chưa tiêu thụ.
  • b. Những sản phẩm mà lao động của quốc gia (hay xã hội) ấy đã sản xuất được trong năm.
Ở thời ông, quan điểm này quả là cách mạng. Nó vừa kế thừa vừa phủ định mô hình kính tế của Quesnay

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

vì Quesnay cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp mới tạo ra của cải cho quốc gia.
2. Khối lượng sản phẩm được tạo ra tuỳ thuộc:
  • a. Số người lao động được vận dụng để sản xuất trong năm
Số người này lại tuỳ thuộc lượng tư bản sẵn có trong xã hội : nó cho phép mua ít hay nhiều phương tiện sản xuất và trả lương cho ít hay nhiều thợ (ouvriers) để lao động sản xuất.
  • b. Năng suất của lao động
Năng suất của lao động tuỳ thuộc mức độ phát triển của sự phân công lao động (division du travail). Chính nó và sự phân công lao động khiến thị trường phát triển. Thị trường phát triển lại thúc đẩy sự phân công lao động và năng suất lao động phát triển.
3. Thước đo của giá trị trao đổi của sản phẩm

Thời gian lao động cần thiết để sản xuất sản phẩm là thước đo giá trị trao đổi của sản phẩm

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

. Phải hiểu đó là thời gian trung bình để sản xuất một loại sản phẩm trong một xã hội nào đó ở một thời điểm nào đó. Giá cả của sản phẩm chỉ là hình thái tiền tệ của giá trị trao đổi ấy. Khi giá cả khớp với giá trị trao đổi, Adam Smith gọi nó là giá tự nhiên

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

của sản phẩm (prix naturel). Còn những giá mà ta thấy trưng ở cửa hàng, thường khác nhau, Adam Smith gọi chúng làgiá thị trường, prix de marché. Giá thị trường dao động chung quanh giá tự nhiên tuỳ tình trạng cung cầu ở từng nơi. Et tutti quanti. Xuyên qua cạnh tranh, sự dao động ấy khiến cho giá thị trường tự nó hướng tới giá tự nhiên của sản phẩm. Sự điều tiết tự nhiên của thị trường ở đó.
4. Nội dung cơ bản của quan hệ kinh tế tư bản

Trong chương Des salaires du travail

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

(Bàn về những [hình thái] lương của lao động), Adam Smith trình bày hết sức rõ ràng quan điểm của ông về nền kinh tế thời ông. Đọc kỹ nó, ta hiểu liền vì sao Marx trọng tư tưởng của ông và coi ông với Ricardo là hai người đặt nền móng cho môn kinh tế chính trị học với tính cách một môn khoa học. Tôi xin cố dịch một mẩu, một cách chính xác nhất mà tôi có khả năng

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

:
Phần thưởng tự nhiên của lao động, hay lương của lao động, chính là sản phẩm do lao động tạo ra. Trong trạng thái nguyên thuỷ ấy, có từ trước khi có sự chiếm hữu đất đai và sự tích luỹ tư bản, toàn bộ sản phẩm của lao động thuộc về người thợ (ouvrier, nghĩa thực là : người lao động). Người ấy không phảichia chác với chủ sở hữu (propriétaire) hay chủ (maître)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

.
Nếu trạng thái ấy đã tiếp tục tồn tại tới ngày nay thì lương của lao động đã tăng cùng với sự tăng trưởng của năng suất lao động do sự phân công lao độngtạo ra. Mọi sản phẩm đã từ từ trở thành càng ngày càng rẻ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

[…]
Nhưng trạng thái nguyên thuỷ trong đó người thợ hưởng toàn bộ sản phẩm do lao động của nó tạo ra, đã không tồn tại vượt qua thời đại sự chiếm hữu đất đai và sự tích luỹ tư bản đi vào xã hội. Thế thì trạng thái ấy không còn nữa từ lâu, khi năng suất lao động đã đạt một mức hoàn hảo cao, và ta không nên mất thời giờ tìm hiểu xem hậu quả trên phần thưởng hay lương lao động sẽ thế nào trong trạng thái ấy.
Ngay khi đất đai trở thành tư hữu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, chủ đất liền đòi hỏi cho mình hầu hết những sản phẩm mà người lao động có thể nuôi trồng và gặt hái được ở đó. “Địa tô” (tiền thuê đất) của nó là phần phải trừ đi đầu tiên mà lao động ứng dụng vào đất phải chịu đựng.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Rất ít khi con người cày đất có sẵn những gì cần thiết để sống cho tới ngày gặt hái. Thông thường, một ông chủ trại (fermier), người dùng nó, trên vốn tư bản của mình, cho nó vay những đồ tiêu dùng [để tồn tại và lao động cho tới ngày gặt hái], và ông chủ ấy chẳng có lý do gì để làm việc ấy nếu việc ấy không cho phép ông thu một phần sản phẩm do lao động của nó tạo ra, hay nếu vốn tư bản mà ông ấy đã ứng ra không được hoàn lại với một món lời. Món lời ấy là phần cắt xén thứ hai trên sản phẩm của lao động vận dụng vào đất đai.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sản phẩm của hầu hết mọi lao động khác đều bị ăn xén như thế để trả tiền lời. Sản phẩm của hầu hết lao động nào khác đều bị cắt xén như thế để thanh toan món lời cho tư bản. Trong mọi ngành nghề, trong mọi xí nghiệp (fabriques), đa số thợ cần có một ông chủ sẵn sàng ứng cho họ phương tiện vật chất để lao động, cũng như lương và nhu yếu phẩm của họ để sống, cho tới khi sản phẩm của họ hoàn thiện. Người chủ ấy lấy một phần sản phẩm của lao động của họ hay giá trị mà lao động ấy đã thêm vào vật thể mà nó tác động vào [để biến vật thể ấy thành hàng hoá có thể trao đổi được] và chính cái phần ấy làm ra lời của họ.
Tóm lại, thế này:
A. Thế nhìn của chủ đất và của chủ tư bản

Tôi là chủ đất, là chủ tư bản. Anh muốn lao động sản xuất để sống “ngày càng khá hơn” thì anh phải nộp tô nộp lời cho tôi ngày càng nhiều hơn.
Khi bản thân anh “chủ tư bản” không có vốn, chỉ có tài kinh doanh thôi (tư bản chức năng), anh ấy có thể vay vốn tư bản của người khác (tư bản sở hữu) để kinh doanh và phải chia chác một phần tiền lời (nếu có!) với anh tư bản sở hữu. Phần đó gọi là intérêt (lãi có được do cho vay vốn). Lãi ấy chẳng bao giờ dosự hy sinh không hưởng thụ liền tài sản của mình của chủ vốn hay sự dũng cảm chấp nhận rủi ro, mà đột nhiên hiện thực ở đời, làm gì có chuyện hão đến thế! nó chỉ có thể do lao động của người khác mà có thực.
Đó là chuyện ngày xưa. Ngày nay còn có chuyện siêu hơn nữa. Những nghìn tỷ $ mà các Nhà nước tư bản đổ ra để cứu vãn “hệ thống tài chính” của“quốc gia” và “quốc tế”, đương nhiên phải đi vào túi của aichứ! Đó là những món nợ mà bàn dân các nước ấy phải trả bằng lao động tương lai của mình và con em mình. Kinh tế hậu hiện đại đó! Không chỉ là học thuyết suông đâu…

B. Thế nhìn của anh lao động

Dù sao thì không có đất hay vốn tư bản của người khác thì mình cũng bất lực và đói nhăn răng.
C. Kết luận của Adam Smith

Những điều ấy tự nhiên, cứ để thị trường giải quyết một cách tự nhiên. Sẽ lợi cho mọi người.
Trước Adam Smith, chưa ai đã mô tả một cách cụ thể, hữu lý, tính chất bóc lột sức lao động của hình thái kinh-tế xã-hội tư bản như thế này.
Adam Smith, trong quyển sách này, không bao giờ dùng khái niệm bóc lột. Có lẽ, đối với ông, khái niệm ấy không có tính chất khoa học, vì đối với ông, đó là một sự kiện tự nhiên, không dính dáng gì hết với thế giới giá trị, tâm linh của con người ? Ông thấy rất rõ rằng quan hệ giữa chủ đất và chủ tư bản với người lao động sản xuất ra sản phẩm, của cải hay sự giàu có của các quốc gia, là một quan hệ cưỡng bức để đoạt về mình một phần sản phẩm do lao động của người khác tạo ra. Ông cũng thấy rất rõ rằng một chức năng của Nhà nước là bảo vệ quan hệ bóc lột ấy. Ông không coi đó là bóc lột, coi đó là tự nhiên. Tự nhiên tự nhiên, tự nó tồn tại và vận hành, chẳng thể nào khác được, sự thật, đối tượng của tư duy khoa học, theo ông và không ít người khác từ xưa tới nay. Đời nó vậy mà! Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi, đời nay, các kinh tế gia thời thượng chỉ biết cấu vài ý tưởng của ông để lạm dụng cho mình vì chính mình thua kém ông cả một cái đầu, dù được đội mũ “Nobel” kinh tế, nhưng không có mấy ai nhắc lại, dạy lại toàn bộ học thuyết kinh tế của ông.

5. Chống mọi hình thái độc quyền kinh doanh (monopole)

Đã tin vào bàn tay vô hình của Thị trường, tính ưu việt của tự do cạnh tranh, Adam Smith chống mọi hình thái độc quyền kinh doanh (monopole). Ông chung thuỷ và nhất quán trong tư duy của mình đến mức: ông chủ trương bãi bỏ độc quyền kinh doanh của các đế quốc, kể cả đế quốc Anh, trong quan hệ kinh tế của chúng với thuộc địa của chúng. Cứ như OMC ngày nay!
6. Chống sự can thiệp của Nhà nước vào sự vận động tự nhiên của thị trường

Đây có lẽ là di sản, tuy đã cũ kĩ kinh hoàng, cũ kĩ hơn cả học thuyết kinh tế của Marx mà, có tác động nhiều nhất của Adam Smith với tư duy kinh tế và đời sống chính trị ngày nay. Và thân phận làm người của chúng ta trong nền kinh tế thị trường tư bản toàn cầu hoá này.
Ông cho rằng:
  • a. Sự vận động tự nhiên của kinh tế thị trường sẽ tự nó hướng dẫn hành động của con người đi tới mức tối ưu của nó cho xã hội. Đây là niềm tin “khoa học” của thế kỷ Khai Sáng!
  • b. Vì sao ? Ta không thể hiểu được

    Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

    . Ta chỉ có thể tin tưởng vào bàn tay vô hình của nó thôi. Bàn tay ấy sẽ dẫn ta đi tới đâu, ta chỉ biết đượcsau khi đã trả giá,sau khi đã làm người không tự do, hay đã làm người tự do phi lý trí, phi nhân tình

    Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

    !
Đối với một người đành lang thang chữ nghĩa như tôi, đọc lại quyển sách này tôi lại được hưởng hai điều thú vị.
A. Adam Smith cho thấy rõ tư duy của con người lệ thuộc chữ nghĩa mà người đời đã nhồi vào óc nó đến mức nào!
[indent]
Dù có thể tôi đã nói quá dài, tôi đã thấy rằng phải xem xét, trong mọi chi tiết của nó, niềm tin của dân chúng cho rằng sự giàu có ở lượng tiền hay vàng bạc mà ta có. Trong ngôn ngữ thông thường, như tôi đã từng nhận xét, có tiền thường có nghĩa là giàu có, và sự nhập nhằng trong cách phát biểu ấy đã khiến ý tưởng bình dân này trở thành thân thuộc với chúng ta đến mức ngay cả những người tin chắc rằng quan điểm ấy sai, bất cứ lúc nào cũng có thể quên nguyên lý của chính họ và bị luồng suy luận của họ lôi kéo tới mức họ chấp nhận thành kiến ấy như một ý tưởng họ đã thu nhập và công nhận là sự thật chắc chắn, không thể phủ nhận. Một vài tác giả Anh hay nhất đã từng viết về thương mại, đã xuất phát từ nguyên lý đó, nghĩa là sự giàu có của các quốc gia không chỉ ở lượng vàng và bạc mà nó có, mà là ở đất đai, nhà cửa và đủ thứ sản phẩm tiêu dùng được mà nó có. Tuy vậy, sau đó, dường như họ đã quên béng đất đai, nhà cửa và sản phẩm tiêu dùng được, và nội dung những lập luận của họ khiến ta nghĩ rằng sự giàu có ở lượng vàng và bạc mà quốc gia ấy có và họ coi chuyện nhân khối lượng những kim loại quý ấy là mục tiêu cơ bản của công nghiệp và thương nghiệp quốc gia.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

[/indent]
Nếu ta vận dụng ý tưởng của ông để xem xét “ngôn ngữ khoa học” của chính ông, như khái niệm tự nhiên chẳng hạn, ta sẽ hiểu được đôi điều đáng hiểu về ngôn ngữ khoa học trong học thuyết của ông và trong ngành kinh tế học ngày nay.
B. Sau khi phê phán khắt khe sai lầm của François Quesnay, ông đánh giá cống hiến của Quesnay cho môn kinh tế chính trị học như thế này
[indent]
Mặc dù những khuyết điểm của nó, có lẽ mô hình này, trong tất cả những gì người đời đã đăng về kinh tế chính trị học, là mô hình gần sự thật nhất và, dưới góc độ đó, nó đáng cho mọi người muốn tìm hiểu một cách nghiêm túc một môn khoa học quan trọng như thế này, quan tâm. Khi ông cho rằng lao động khai thác đất đai là lao động có tính chất sản xuất duy nhất, những ý tưởng của ông về hiện thực có thể quá chật hẹp và giới hạn. Tuy vậy, khi ông cho rằng sự giàu có của những quốc gia không ở lượng của cải không tiêu thụ được như vàng và bạc mà ở những sản phẩm tiêu thụ được mà lao động của xã hội có thể tái sản xuất mỗi năm, và vạch cho thấy rằng tự do tuyệt đối là phương tiện duy nhất cho phép nó đạt thành quả lớn nhất, lý thuyết của ông, về mọi mặt, đúng đắn ngang tầm vĩ đại và tinh thần rộng lượng của nó.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

[/indent]
Đọc khúc văn trên, tôi chạnh lòng nhớ cuộc tranh luận giữa Sartre và Camus khi hai người, tôi đều yêu

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

, đoạn tuyệt với nhau. Ôi, nhân tài thế giới đánh giá nhau như thế! Càng quý trọng nhau, càng khắt khe, càng quyết liệt đòi hỏi tới cùng, chẳng rào trước đón sau, xã giao tí nào. Và ngược lại!
Ngông cuồng, tôi kiến nghị với các đại học kinh tế lập một chứng chỉ: tư duy kinh tế của Adam Smith. Tất nhiên lại chuyện hão! Chỉ là kẻ ngoại đạo mà dám lếu láo đến thế thì… hết xảy!

2009-10-24

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



**********************


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

La richesse des nations, Le Monde – Flammarion, Paris 2009. Trong bài này, khi trích văn bản này, tôi ghi gọn : La richesse des nations.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Karl Marx. Contribution à la critique de l’économie politiqueLe Capital.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

capitaux. Ở Adam Smith, capital cơ bản có nghĩa là vốn tuy cũng có nghĩa là tư bản như khái niệm tư bản của Marx.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

François Quesnay, 1694-1774, người lập ra học phái kinh tế đầu tiên tại Châu Âu, (physiocrates, trọng nông), tạo ra thế nhìn vĩ mô ở mức một quốc gia vớiTableau économique (Bảng hay “mô hình” kinh tế).

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

“Le travail est donc la mesure réelle de la valeur échangeable de toute marchandise.” Lao động là thước đo đích thực của giá trị trao đổi của mọi hàng hoá. La richesse des Nations, tr. 36.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Mỗi lần đưa ra một khái niệm khó giải thích, và đây là khái niệm khó giải thích nhất trong môn kinh tế học, ngay cả hôm nay, Smith giải quyết vấn đề nhẹ nhàng bằng một tính từ : tự nhiên! Đó là tín ngưỡng của thế kỷ Khai Sáng : mọi sự đều tự nhiên, tự nhiên là khoa học và khoa học là tiến bộ. Tự nhiên có nghĩa là không có gì để bàn cả! Ngày nay người đời cũng làm thế trong một đống lĩnh vực khác nhau của tư duy… Nếu không là Tự nhiên thì cũng là kinh tếThị trường lại Toàn cầu hoá nữa! Có gì mà phải phân vân ? Phải tin, tin và tin… Hè hè…

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

La richesse des Nations. Tr. 53.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Trong đoạn văn dịch này, những từ được gạch ở dưới, do tôi, PHĐ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Propriétaire = chủ của một cái gì : đất, nhà, v.v. Maître = ông chủ : như chủ nô hay chủ vốn chẳng hạn, nghĩa rất rộng và mơ hồ.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đây là một câu hỏi cơ bản cho môn “khoa học” kinh tế của đời nay đó. Năng suất lao động tăng vùn vụt mấy chục năm liền, nhưng giá cả của nhu yếu phẩm ở các nước phát triển như Pháp càng ngày càng không với tới được đối với bàn dân lao động sàng sàng! Đầy người lao động không còn khả năng ăn trưa một cách bình thường như trước kia với đồng lương của mình ngay trong các nhà ăn xí nghiệp (cantines), phải mang đồ ăn vào sở hay mua đồ ăn rẻ tiền củafastfood.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Đến đây ta mới hiểu Adam Smith muốn nói gì trong khúc văn trên khi ông dùng khái niệm chiếm hữu (appropriation)! Với ông, trong vấn đề kinh tế này, nó nghĩa là tư hữu (propriété privée, trong nghĩa thông thường ngày nay). Thời ấy, không nhất thiết phải hiểu như vậy! Chỉ cần thêm một tính từ : tư hữu tư sản hay tư bản (propriété privée bourgeoise ou capitaliste), thì có một khái niệm tạm gọi là chính xác vì trong lịch sử của Châu Âu đã từng có nhiều hình thái tư hữu khác!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nói toạc móng heo thì thế này : anh đã cày cấy trên đất của tôi thì anh phải nộp tô tức cho tôi. Tôi đếch làm gì cả, đếch sản xuất sản phẩm nào cả mà vẫn có lợi tức đề huề, hợp pháp. Chính Adam Smith đã phũ phàng vạch điều ấy trong tác phẩm này.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Nói toạc móng heo : anh chỉ có sức lao động thôi ; với năng lực ấy, anh chẳng làm được gì cả, chết đói ngay ; tôi ứng cho anh tiền mua phương tiện sản xuất và nhu yếu phẩm để anh có thể lao động sản xuất, ăn uống và thậm chí hú hí với vợ để đẻ ra những người thợ tương lai, cho tới ngày anh tạo ra sản phẩm. Với điều kiện này : trong sản phẩm anh làm ra, anh hoàn lại cho tôi một số lượng mà giá trị = vốn tôi đã cho anh mượn + tí ti lời.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

ý của tôi, vì tác phẩm của Adam Smith nhằm chứng minh điều ấy là tự nhiênhiểu được một khi ta chấp nhận tính tự nhiên của nó.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Tư duy kinh tế của Marx chống lại luận điểm này : kinh tế là quan hệ giữa người với người, do con người tạo ra, ta có thể làm chủ định mệnh của ta trong lĩnh vực này vì ta có thể hiểu được nó : nó là sản phẩm của chính ta mà.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

J’ai cru nécessaire, au risque même d’être trop long, d’examiner dans tous ses détails cette idée populaire, que la richesse consiste dans l’argent ou dans l’abondance des métaux précieux. Dans le langage vulgaire, comme je l’ai observé, argent veut souvent dire richesse, et cette ambiguïté d’expression nous a rendu cette idée populaire tellement familière, que ceux même qui sont convaincus de sa fausseté sont à tout moment sur le point d’oublier leur principe et, entraînés dans leurs raisonnements, à prendre ce préjugé pour une idée reçue et reconnue comme une vérité certaine et incontestable. Quelques-uns des meilleurs auteurs anglais qui ont écrit sur le commerce partent d’abord de ce principe, que la richesse d’un pays ne consiste pas uniquement dans son or et son argent, mais qu’elle consiste dans ses terres, ses maisons et ses biens consommables de toutes sortes. Néanmoins, dans la suite de leurs discussions, il semble que les terres, les maisons et les biens consommables leur sortent de la mémoire, et la nature de leurs arguments paraît souvent supposer qu’ils font consister la richesse dans l’or et dans l’argent, et qu’ils regardent la multiplication de ces métaux comme l’objet capital de l’industrie et du commerce national. La richesse des Nations, p. 141-142

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Avec toutes ses imperfections, néanmoins, ce système est peut-être, de tout ce qu’on a encore publié sur l’économie politique, ce qui se rapproche le plus de la vérité, et sous ce rapport il mérite bien l’attention de tout homme qui désire faire un examen sérieux des principes d’une science aussi importante. Si, en représentant le travail employé à la terre comme le seul travail productif, les idées qu’il veut donner des choses sont peut-être trop étroites et trop bornées, cependant, en représentant la richesse des nations comme ne consistant pas dans ces richesses non consommables d’or et d’argent, mais dans les biens consommables reproduits annuellement par le travail de la société, et en montrant la plus parfaite liberté comme l’unique moyen de rendre cette reproduction annuelle la plus grande possible, sa doctrine paraît être, à tous égards, aussi juste qu’elle est grande et généreuse. La richesse des nations, p. 196-197

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

yêu dễ quá mà, có mất tiền mua đâu!


Thanked by 1 Member:

#83 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 08/06/2014 - 03:12

Awake Phamtt

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Muốn biết người Nhật thật sự đánh giá thế nào về Việt Nam thì phải nghe những câu chuyện của những người lao động trực tiếp. Còn các nhà nghiên cứu, giáo sư, tiến sỹ, chính trị gia, các nhà ngoại giao, doanh nhân Việt Nam thường chỉ nghe được những lời lẽ ngoại giao từ những người đồng nhiệm với họ phía Nhật Bản nên chưa chắc đã biết được người Nhật thực bụng nhìn vào Việt Nam thế nào.
Chẳng hạn như thế này, một công nhân làm cho một công ty Nhật ở Việt Nam kể lại khi một kỹ sư Nhật về nước ông ấy không ngại ngần nói với người công nhân Việt Nam: “Người Việt các anh sẽ muôn đời khổ. Đấy là vì các anh chỉ biết nghĩ đến những cái lợi lộc nhỏ của cá nhân mà không biết nghĩ đến cái lợi lớn của chung” Rồi viên kỹ sư minh hoạ: “Một cái vít chúng tôi phải mang từ Nhật sang giá 40.000đ mà rơi xuống đất thì công nhân Việt Nam các anh thản nhiên dẫm lên hoặc đá lăn đi mất vì nó không phải của các anh. Nhưng các anh đánh rơi điếu thuốc lá đang hút dở giá 1.000đ thì các anh sẵn sàng nhặt lên và hút tiếp cho dù nó bị bẩn chỉ vì nó là của các anh. Hay như cuộn cáp điện chúng tôi nhập về giá 5tr/m, nhưng các anh cắt trộm bán được có vài trăm nghìn/m. Tất cả những việc làm đó mang lại chút lợi lộc cho các anh nhưng gây thiệt hại lớn cho doanh nghiệp vì chúng tôi phải nhập bổ sung hoăc nhập thừa so với cần thiết”.
Còn lái xe của viên kỹ sư đó thì được nghe ông ấy tặng quà có giá trị và được nghe ông ấy “tâm sự” như sau: “Tôi rất cảm ơn anh lái xe an toàn cho tôi suốt 5 năm qua. Vì anh là người bảo đảm mạng sống của tôi nên anh làm gì tôi cũng chiều nhưng anh đừng tưởng anh làm gì sai mà tôi không biết. Anh đưa đón tôi ra sân bay quãng đường chỉ hơn 30km anh khai là hơn 100km tôi cũng ký, anh khai tăng việc mua xăng, thay dầu tôi cũng ký là vì tôi cần anh vui vẻ lái xe để tôi được an toàn. Nhưng anh và các công nhân Việt Nam đừng tưởng là các anh vặt được người Nhật. Các anh nên biết rằng lẽ ra chúng tôi có thể trả lương cao hơn hoặc tăng lương nhiều hơn cho các anh. Nhưng đáng phải tăng lương cho các anh 500.000 thì chúng tôi chỉ tăng 200.000. Còn 300.000 chúng tôi phải giữ lại để chi trả bù đắp cho những trò vụn vặt hay phá hoại của các anh. Cuối cùng là tự các anh hại các anh thôi. Còn chúng tôi cũng chỉ là lấy của người Việt cho người Việt chứ chúng tôi không mất gì cả”.

Thanked by 1 Member:

#84 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 09/06/2014 - 10:37

NỀN VĂN HOÁ BONG BÓNG

Với người Việt Nam thì giá trị của giá trị đất đai, nhà cửa, vàng bạc, ô tô, chứng khoán... không chỉ là giá trị sử dụng hay trao đổi, mà còn bao gồm cả giá trị son phấn tô đẹp thêm cho diện mạo cá nhân và giá trị thiêng liêng của đồ cống nạp cho nghi lễ cộng đồng. Những giá trị tinh thần hư ảo ấy làm nên một nền văn hóa bong bóng luôn luôn có xu hướng thoát ly giá trị thực để bay lên bằng đôi cánh bạt mạng của con bạc, đôi cánh đảo điên của con đồng và đôi cánh hân hoan hãnh diện của nhà thơ.

Bộ phim hoạt hình Up (Bay lên) của Mỹ là một tác phẩm cảm động kể chuyện một ông già góa vợ khát khao tìm đến vùng đất nơi ngày xưa ông bà từng hò hẹn. Ông đã buộc hàng ngàn quả bóng bay vào ngôi nhà gỗ của ông, để cho chúng bay lên kéo ngôi nhà và một cậu bé tình cờ đến chơi đã cùng ông lang thang trong một cuộc phiêu lưu kỳ thú. Xem phim này khán giả có thể liên tưởng đến tình trạng giá cả đất đai, nhà cửa, ô tô, vàng, chứng khoán và bao nhiêu thứ khác ở Việt Nam cứ theo nhau tăng vọt, như đang bị hàng ngàn quả bóng bay kéo lên bay lơ lửng trên trời, xa cách dần với cuộc sống người dân!

Chắc chắn người nghĩ ra cụm từ "nền kinh tế bong bóng" chưa xem phim Up, vì khái niệm này ra đời trước bộ phim kia gần hai thập kỷ. Nhưng cái cảnh ngộ mà hàng triệu người tiêu dùng Việt Nam đã gặp phải trong thời điểm giá cả đua nhau tăng vọt có cái gì giống như ông lão nghèo trong bộ phim hoạt hình trên. Họ cùng bị những quả bóng-bay-giá-trị- ảo kéo họ xa dần những giá trị thực để phiêu lưu trong vào thế giới ảo, cho đến khi những quả bóng bốc đồng ảo tưởng nổ tung ném thẳng họ trở về mặt đất. Có khác chăng, những bong bóng trong nền kinh tế Việt Nam có vẻ sặc sỡ hơn và cũng mỏng manh hơn, như bong bóng xà phòng vậy. Nó dường như được thăng hoa từ một nền văn hóa bong bóng có mầm mống từ ngàn xưa, khi thằng Bờm khốn khó có chiếc quạt mo được phú ông thổi phồng giá cả ngang với ba bò chín trâu.

Có lẽ phú ông trong bài ca dao Thằng Bờm là kẻ đầu tiên tạo ra cuộc đảo lộn giá cả trong thị trường mua bán trao tay, gợi cho người ta những suy nghĩ băn khoăn về giá trị Việt. Có điều gì đó giống nhau trong việc phú ông đẩy giá quạt mo lên cao ngất trên với việc giá đất ở Hà Nội có những lúc cao hơn giá đất ở Paris. Người ta biết đó là những giá cả phi lý, những giá trị ảo, nhưng không thể ngăn giá cả tiếp tục vọt lên. Vì đua nhau xông vào một lĩnh vực theo kiểu phong trào, vì sĩ diện sẵn sàng vung tiền ra mua bán bằng mọi giá, vi máu mê kiểu cờ bạc ăn thua... Rốt cục, tất cả những yếu tố bắt nguồn từ tâm lý và văn hóa dân tộc đó đã trở thành những quả bóng bay sặc sỡ liên tục kéo giá cả trên thị trường Việt vọt lên.

Khi thằng Bờm quyết không bán cái quạt mo để kiên định giá trị của con người “phú quý bất năng di”, thì phú ông tăng giá vô tội vạ cho chiếc quạt mo chỉ để quật ngã cái nhân cách gàn dở ấy! Rốt cục, giá trị của chiếc quạt mo kia không nằm ở giá trị sử dụng, cũng không nằm ở giá trị trao đổi Phú ông đã nâng vọt lên cho nó, mà nằm ở cái khát vọng chiến thắng trong cuộc đối đầu của hai bản lĩnh. Suy cho cùng, giá trị của những giá cả ảo được thị trường Việt Nam đẩy lên cao chất ngất nhiều khi là giá trị của nhân cách mà người ta muốn thể hiện qua mua bán. Việc đặt giá cao chỉ là trò chơi trội, gây sốc, nhằm tạo thêm uy lực và danh tiếng. Cũng có khi máu phiêu lưu bạt mạng nổi lên người ta sẵn sàng ôm hàng, mua cổ phiếu hay đầu tư bằng mọi giá theo kiểu đỏ đen cờ bạc được ăn cả, ngã về không. Có thế nói, thói sĩ diện thích khẳng định mình và máu đỏ đen chảy trong huyết mạch người nông dân Việt Nam bao đời nướng thời gian rỗi rãi trong bạc, chiếu tổ tôm - đó là những quả bóng bay ngày ngày kéo giá cả lên cao.

Một nhân vật trong vở hài kịch "Lễ nhận huân chương" của tôi do Nhà hát Tuổi trẻ vừa dàn dựng đã chua chát nhận xét về thói đời “Phú quý sinh lễ nghĩa” trong xã hội thời nay: “Một con chó chết chúng nó cũng biến thành lễ hội”. Quả thực, con người Việt Nam có máu ham vui. thích hội hè đình đám. Dù nghèo khổ đến đâu, vào những thời khắc thiêng liêng, thăng hoa của cả cộng đồng, ai ai cùng sẵn sàng dốc hầu bao mua sắm bằng mọi giá không hề tính toán. Trong đêm chung kết Sea Games của đội tuyển Việt Nam, giá một lá cờ Tổ quốc, một quả pháo hoa có thể tăng vọt lên tới hàng chục lần mà vẫn bán đắt như tôm tươi, vì giá ấy thể hiện khát vọng chiến thắng của người hâm mộ. Giá cả thật khó ổn định khi cuộc sống của người Việt luôn luôn là một chuỗi những khoảnh khắc thăng hoa.

Với người Việt Nam thì giá trị của giá trị đất đai, nhà cửa, vàng bạc, ô tô, chứng khoán... không chỉ là giá trị sử dụng hay trao đổi, mà còn bao gồm cả giá trị son phấn tô đẹp thêm cho diện mạo cá nhân và giá trị thiêng liêng của đồ cống nạp cho nghi lễ cộng đồng. Những giá trị tinh thần hư ảo ấy làm nên một nền văn hóa bong bóng luôn luôn có xu hướng thoát ly giá trị thực để bay lên bằng đôi cánh bạt mạng của con bạc, đôi cánh đảo điên của con đồng và đôi cánh hân hoan hãnh diện của nhà thơ.
Đỗ Minh Tuấn

Thanked by 1 Member:

#85 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 10/06/2014 - 17:06

"Người đàn ông Italia" hóa "Say tình": câu chuyện về dịch và chế lời ca khúc nước ngoài
Ngô Tự Lập


Ca khúc là nơi gặp gỡ của âm nhạc và thi ca, là “bài” thơ được “hát” lên. Vì thế, trong ca khúc, phần lời, hay ca từ, quan trọng không kém gì, và trong một số trường hợp còn quan trọng hơn, phần nhạc. Thật khó hình dung những bài hát của Văn Cao, Trịnh Công Sơn, hay Jacques Brel, Bob Dylan không có ca từ. Khi thay lời, bài hát trở thành một bài hát khác, cũng giống như khi một bài thơ được phổ nhạc theo hai cách, ta có hai bài hát khác nhau. Khi chúng ta nghe một bài hát, cảm nhận rất khác nhau khi chúng ta hiểu và không hiểu ý nghĩa ca từ. Do tầm quan trọng ca từ như vậy, khi tiếp xúc và giới thiệu ca khúc nước ngoài, người ta có hai xu hướng ngược nhau trong cách xử lý ca từ: một là dịch thật sát nghĩa, hai là phóng tác lời mới. Cả hai xu hướng đều có lịch sử lâu dài và kinh nghiệm cả thành công lẫn thất bại.
Dịch sát nghĩa và nhuần nhuyễn ca từ là công việc rất khó, khó hơn dịch thơ nhiều, bởi lẽ đó chính là dịch thơ trong điều kiện bó buộc của giai điệu và dấu thanh tiếng Việt. Dù vậy, rất nhiều ca khúc nổi tiếng của thế giới đã được dịch và Việt hóa ít nhiều thành công: Các ca khúc cách mạng như “Quốc tế ca”, “Bài ca tuổi thanh niên sôi nổi”…; các ca khúc trữ tình như “Đôi bờ”, “Chiều ngoại thành Moskva”, “Ôi mặt trời của tôi”… (ở Miền Bắc), “Aline”, “Đồng xanh”, “Những mùa nắng đẹp”… (ở Miền Nam). Có những bài hát được dịch đi dịch lại nhiều lần, như bài “Cachiusa” có hai phiên bản: “Đào vừa ra hoa…”“Dòng sông xưa rừng táo trắng hoa nở đôi bờ…” Tuy nhiên, cũng có những bản dịch làm hỏng tác phẩm, như trường hợp bài Chúc mừng năm mới mà tôi đã có dịp nói đến trong bài "Happy New Year, bài hát tiên tri của ABBA" . Ra đời năm 1979, bài hát của ABBA trĩu nặng lo âu về tương lai của nhân loại đang đứng bên bờ vực thảm hoạ diệt vong với chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang, những cuộc đảo chính đẫm máu, những cuộc diệt chủng, và xa hơn là mối hiểm họa của một thế giới kỹ nghệ hóa đến mất hết tính người mà nhà văn Anh Aldous Leonard Huxley (1894-1963) mô tả trong cuốn Tân thế giới dũng cảm (Brave New World, 1932). Đây là một đoạn ca từ của bài hát: “Bây giờ em cảm thấy/ Rằng mọi giấc mơ ta từng có ngày nào/ Đều đã chết/ Chẳng còn gì ngoài xác hoa giấy trên sàn/ Một thập niên vừa chấm dứt/ Nào ai biết một thập niên tới đây/ Những điều gì sẽ đến...” Vậy mà trong nhiều năm qua, bài hát này vẫn được trình bày với lời Việt với những lời chúc khuôn sáo, vui vẻ, vừa không ăn nhập với nhạc, vừa hạ thấp tầm tư tưởng của tác giả.
Xu hướng phóng tác cũng phổ biến không kém, và không phải chỉ vì những khó khăn của công việc dịch thuật. Xu hướng này bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, với những bài hát Tây được lời Việt, gọi là «Bài ta điệu Tây». Đa số những bài hát này được dùng để hun đúc lòng yêu nước của nhân dân. Chẳng hạn, theo Phạm Duy, bài hát Frères Jacques (Frères Jacques/ Frères Jacques/Dormez vous/ Dormez vous/ Sonnez les matines/ Sonnez les matines) được hát thành : “Hời hợi đồng bào/ Hời hợi đồng bào/ Tỉnh dậy mau/ Tỉnh dậy mau/ Nước (ứ) ta đã mất rồi/ Nước (ứ) ta đã mất rồi/ Mau tỉnh mau!/ Mau tỉnh mau!”. Một ví dụ khác là bài Quốc ca Pháp (La Marseillaise), được chế thành một bài hát chống Pháp. Cũng theo Phạm Duy, đoạn điệp khúc (Aux armes, citoyens/ Formez vos bataillons/ Marchons, marchons !/ Qu'un sang impur abreuve nos sillons ! » được hát thành: « Huyết khí ở đâu, người Nam!/ Để chúng múa gậy vườn hoang/ Đầu đen máu đỏ, khác chi thú cầm/ Ai ơi là giống Lạc Hồng… » Chính những « Bài ta điệu Tây » như vậy đã góp phần quan trọng vào việc phổ biến nhạc phương Tây và sự hình thành nền tân nhạc Việt Nam.
Về sau, việc sáng tác lời Việt cho ca khúc nước ngoài chủ yếu được sử dụng như là phương tiện để chuyển tải tình cảm, tư tưởng và những thông điệp của người viết lời (nếu không kể « nhạc chế », được áp dụng với cả các bài hát Việt Nam). Nhiều bài hát, chẳng hạn bài dân ca Anh « Scarborough Fair » được Phạm Duy biến thành « Ôi ! Giàn thiên lý đã xa » và trở nên cực kỳ phổ biến ở Việt Nam, mặc dù lời Việt khác hẳn lời Anh.
Thế nhưng, gần đây cách làm nghiêm túc này đang mất dần. Thay vào đó là những “lời Việt” dễ dãi, đa số có chủ đề thất tình, với ngôn từ mòn sáo, thậm chí dung tục. Kết quả là, nhiều kiệt tác của thế giới bị biến thành một thứ thậm chí không bằng nhạc chế - bởi lẽ, người làm và hát “nhạc chế” ý thức rất rõ, rằng mọi người đều biết rõ ca từ thật của bài hát. Lời chế, vì vậy, chỉ có mục đích đùa cợt hoặc phê phán một điều gì đó. Lời chế không những không hề làm tổn hại, mà trong nhiều trường hợp còn tôn vinh ca từ gốc - thông qua sự liên tưởng, so sánh và phổ biến ca từ gốc.
Một ví dụ về thứ “lời Việt” dễ dãi là bài “Say tình”, do Đàm Vĩnh Hưng trình bày, cũng đã khá nổi tiếng. Bản gốc là bài “L’Italiano” (Người đàn ông Italia) của Toto Cutugno.
Xin hãy đọc lời Việt:
Rót mãi những chén chua cay này
Lêu bêu như gã du ca buồn
Lang thang bước với nỗi đau
Với trái tim ta tật nguyền


Buồn nào đưa ta qua những nỗi đau thương này
Giọt nồng ta say cho quên đi đôi mắt u tình
Ánh mắt đắm đuối đôi môi đam mê đôi tay buông lơi
Em yêu đã giết ta trong một đêm quên mê buồn


Vì yêu em nên ta đã hóa ngây ngô rồi
Mỗi sáng, mỗi tối, ta điên, ta say với bóng men
Đã thế những nỗi đau thương chua cay đâu không ai hay
Khi em đã bước chân theo niềm vui kia đi rồi


Nào ngờ em quay lưng cho ta quá đau buồn
Giữa quãng đời làm người tình si quá mê dại
Ôm lòng vỡ nát ...
Trút hết trong ly rượu nồng


Ðã trót đã lỡ yêu em rồi
Con tim ta lỡ trao em rồi
Ta say ta hát nghêu ngao lời tình si mê
Em có hay không nào ...


Không hiểu tác giả sẽ choáng hay phì cười nếu nghe được phiên bản tiếng Việt. Bởi vì ca từ của ông, trong tiếng Italia, là một bài thơ tuyệt hay, vừa sinh động, chân thực, vừa thâm thúy. Tác giả của bài hát, Toto Cutugno, là nhạc sĩ kiêm ca sĩ người Italia. Trước khi tự trình bày các ca khúc của mình với tư cách là ca sĩ, Toto Cutugno đã nổi tiếng với tư cách là tác giả của hàng loạt ca khúc viết cho những danh ca như Joe Dassin ("L'été indien", "Et si tu n'existais pas", "Le Jardin du Luxembourg"…), Dalida ("Laissez moi danser"). Năm 1976, ông lần đầu tiên tham gia Liên hoan âm nhạc Sanremo danh giá và đoạt giải ba. Cũng tại liên hoan này, năm 1980 ông đoạt giải nhất (với bài hát “Solo noi” – “Chỉ có chúng ta”) và sau đó còn đoạt giải nhì sáu lần nữa, vào các năm 1984, 1987, 1988, 1989, 1990 và 2005.
Bài hát “L'Italiano” được Toto Cutugno trình bày lần đầu tiên tại Sanremo 1983. Tuy chỉ xếp thứ năm, nhưng bài hát nhanh chóng nổi tiếng khắp thế giới và trở thành một bức chân dung âm nhạc đặc sắc của “một người đàn ông Italia đích thực”. Bài hát bắt đầu:
Hãy cho tôi hát
Tay cầm chiếc ghi-ta
Hãy cho tôi hát
Tôi là người Italia…

Đoạn tiếp theo là bức tranh sinh động, vừa chân thực vừa sâu sắc, của xã hội Italia vào thập niên 1980:
Chào Italia, với món spaghetti chín tới
Và tổng thống là người du kích năm xưa
Tay phải khư khư chiếc radio xe hơi
Và trên cửa sổ một con chim bạch yến.

Món spaghetti thì ai cũng biết, chiếc radio xe hơi là biểu tượng của lớp người thành đạt lúc bấy giờ, còn vị tổng thống là Sandro Pertini, tổng thống Italia nhiệm kỳ 1978-1985. Italia đã phát triển mạnh mẽ trong hai thập niên 1950-1960, được gọi là giai đoạn thần kỳ về kinh tế, nhưng đến thập niên 1970 bị rơi vào tình trạng bất ổn. Vốn là du kích chống phát xít trong chiến tranh thế giới thứ 2, Pertini khá thành công trong việc đoàn kết các tầng lớp nhân dân và khôi phục lòng tin đối với chính phủ. Pertini cũng là người kiên quyết chống các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tội phạm có tổ chức của mafia.
Đoạn tiếp theo vẫn là mô tả, nhưng với đôi chút phê phán, giễu cợt. Vẫn là Italia của văn chương, nghệ thuật, tình yêu, nhưng đang bị Mỹ hóa nhanh chóng, đồng thời lối sống thực dụng ngày càng làm lu mờ ảnh hưởng của Nhà thờ:
Chào Italia, với những nghệ sĩ của người
Với những tấm áp phích có quá nhiều nước Mỹ
Với ca khúc, với tình yêu, với trái tim
Với đàn bà càng nhiều bà xơ càng ít
Chào Italia, chào Đức Mẹ Maria đôi mắt u sầu
Chào Chúa Trời
Người biết rằng tôi cũng đang hiện diện.

Trong lời hai, hiện lên bức chân dung đời thường của một người đàn ông Italia điển hình: lịch lãm, chải chuốt (với áo vét sọc xanh và kem cạo râu mùi bạc hà), mê thể thao và bận bịu (những pha bóng đá quay lại vì không kịp xem trực tiếp ngày Chủ nhật), và tràn đầy lòng yêu nước (với lá cờ trong máy giặt):
Chào Italia không hề biết sợ
Với kem cạo râu thoảng mùi bạc hà
Với bộ áo vét sọc xanh
Và những pha bóng Chủ nhật TV quay lại

Chào Italia, với cà phê đậm đặc
Với đôi tất mới trong ngăn kéo trên cùng
Với lá cờ trong máy giặt khô
Và chiếc Fiat 600 cũ kỹ.

Nhưng bức chân dung đời thường ấy vẫn gắn chặt với đời sống chung của một đất nước đã từng thịnh vượng nhưng đang trong lúc khó khăn – giống như chiếc Fiat 600, từng là biểu tượng của công nghiệp Italia thời hoàng kim những năm 1950-1960, giờ đã trở nên cũ kỹ, lạc mốt. Tuy vậy, người nhạc sĩ vẫn ngẩng cao đầu đầy kiêu hãnh trong đoạn điệp khúc:
Hãy cho tôi hát
Tay cầm chiêc ghi-ta
Hãy cho tôi hát
Một bài hát nhẹ nhàng, điềm tĩnh

Hãy cho tôi hát
Bởi vì tôi tự hào
Là một người đàn ông Italia
Một người đàn ông Italia đích thực.

Vậy mà “Người đàn ông Italia đích thực”, lịch lãm và kiêu hãnh ấy đã hóa thành một gã “Say tình” bệ rạc, bước “lêu bêu”, “lang thang” với “trái tim tật nguyền”. Tôi không biết tác giả “lời Việt” có xin phép Toto Cutugno hay không. Nếu không, tác giả có thể kiện. Nhưng xin hãy để vấn đề pháp lý sang một bên. Theo tôi, người chịu thiệt thòi nhất chính là người nghe. Bởi lẽ, anh/chị ta không biết được rằng bài hát của Toto Cutugno hay biết chừng nào. Thêm nữa, “Say tình”, cùng vô số những bài hát với ca từ tầm thường, sáo rỗng và dễ dãi tương tự, sẽ làm xói mòn thẩm mỹ của người nghe, nhất là người nghe trẻ tuổi.
Tại sao người ta lại có thể viết một “lời Việt” như vậy cho bài hát tuyệt hay kia? Vấn đề không phải là ngoại ngữ. Nếu không biết ngoại ngữ, người ta có thể nhờ dịch. Vấn đề là sự cẩu thả, dễ dãi và thiếu chuyên nghiệp của người dịch/viết lời, của ca sĩ và có lẽ phải nói là cả người nghe nữa.
Cuối cùng, vì đã biết ca từ gốc, các bạn có thể coi “Say tình” là một bản “nhạc chế”. Với tư cách ấy, nó có lý do để tồn tại và có ích. Hãy hát “Say tình” để chế giễu những gã say rượu. Hãy hát và luôn nhớ rằng đó “nhạc chế” của một bài hát tuyệt hay, bài “Người đàn ông Italia”.

(Tháng 12/2013)

Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi pth77: 10/06/2014 - 17:09


Thanked by 1 Member:

#86 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 10/06/2014 - 17:28

Đôi điều về trách nhiệm cá nhân
Nguyễn Ngọc Bích


Trước các tổn thất vô hình và hữu hình mà xã hội đã chịu, vấn đề trách nhiệm cá nhân đang được công luận nêu lên. Qua hai lý do trình bày dưới đây, độc giả có thể chia sẻ lo ngại của tôi rằng vấn đề này còn phải mất nhiều năm nữa mới trở thành hiện thực.

Tâm lý cá nhân

Ta thấy ở trẻ em khoảng một tuổi có hai biểu hiện xuất hiện song song và rõ nét ấy là sự đòi hỏi (muốn hết cái này đến cái khác) và sự xấu hổ (bị mẹ hay anh chị lêu lêu). Như là một sự sắp đặt của tạo hóa trong tâm lý chúng ta cái sau kìm hãm cái trước. Sự đòi hỏi tạo nên tính tham lam sau này, còn sự xấu hổ là cội nguồn của trách nhiệm cá nhân. Nói về cái sau ta thường nghĩ nó là một cái, một thứ nằm trong lĩnh vực lý trí, nhưng thực ra nó là một tình cảm và khi bị đụng đến nó sẽ gây đau đớn trong lòng chúng ta. Nó là một sự tổn thương tình cảm và do đó là một sự trả giá trong cuộc đời mà ta phải chịu đựng để được thăng bằng về tâm lý.
Tính chất tình cảm của trách nhiệm cá nhân được nêu lên ở đây là vì nếu có dịp so sánh ta với người ở những nước khác, bạn sẽ nhận ra rằng, người Việt chúng ta hiền hòa. Quả vậy, chúng ta chiến đấu khốc liệt với ngoại bang, nhưng giữa chúng ta với nhau – lúc bình thường - chúng ta nhường nhịn, chín bỏ làm mười. Bởi thế khi phải nêu ra trách nhiệm cá nhân của một ai thì chúng ta thường ngại ngùng vì sợ làm mất lòng họ. Sự ngại ngần đó gây ra một hệ quả là khi không chỉ ra lỗi của người khác thì ta cũng ít nhận lỗi của mình để mà nói đến trách nhiệm cá nhân.
Tình cảm ấy lại được thúc đẩy bởi hoàn cảnh kinh tế. Đã có một thời gian dài chúng ta sống trong cảnh thiếu thốn về vật chất, ở đó tài sản chung và riêng lẫn lộn. Thí dụ chủ của một biệt thự phải nhận hai ba gia đình vào ở chung. Trong cảnh thiếu thốn người ta không ngần ngại chia sẻ cái mình có, do vậy ít có ai tranh giành cái này là của tôi, cái kia là của anh để có một sự rạch ròi về mình và người trong ý nghĩ.
Hai yếu tố tâm lý và vật chất kia kết lại với nhau khiến cho cái tôi trong nhiều người không có dịp tỏa sáng để họ nghĩ đến hay chấp nhận trách nhiệm cá nhân, chưa kể đến chuyện chấp nhận như thế là một sự trả giá và một nỗi thương tổn. Chúng ta thấy ở ngoài đường, người đi xe ngang nhiên vi phạm đèn xanh, đèn đỏ mà không ai nói gì (trừ cảnh sát giao thông vì nhiệm vụ) ấy là vì chúng ta mặc nhiên không đòi hỏi ở nhau một trách nhiệm gì.
Khi kinh tế khá lên, cơ hội mở ra trong hơn 10 năm nay, không ít người kiếm lại riêng như địa vị xã hội của mình cho phép và vẫn không ai nói ai, không đặt ra trách nhiệm gì cho nhau. Trong khung cảnh đó tính tham lam được xổ lồng. Tuy nhiên, bởi kết cấu tâm lý của con người là sự tham lam phải đi kèm với sự xấu hổ, nên khi được tham lam tùy thích thì sự xấu hổ cũng xuất hiện trong lòng, nhất là lúc ngồi một mình. Vì vậy người thành đạt phải dập tắt sự xấu hổ này. Cách họ làm là đi tìm thành tích. Chủ nghĩa thành tích có gốc rễ tâm lý này. Nó được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa trong cơ chế tập thể. Để kiểm chứng bạn cứ nhìn vào doanh nhân thành đạt. Có bao nhiêu người khoe thành tích cá nhân? Rất ít, bởi trong lòng mình họ biết để đạt những gì đang có họ đã trả giá.

Cơ chế tập thể

Xã hội của chúng ta được xây dựng lên đơn vị nền tảng là tập thể và tập thể được giao sứ mạng chăm sóc đoàn viên. Tổ chức ấy tốt, sứ mạng ấy hay trong những hoàn cảnh nào đó nhưng nhất định không phải là trong mọi hoàn cảnh. Nó tốt khi tập thể có những mục tiêu cụ thể và chung nhất. Chẳng hạn, bảo vệ tổ quốc, chiến đấu dành độc lập và khi kẻ thù ở ngay trước mặt.
Tuy nhiên, khi mục tiêu không cụ thể hoặc ai cũng có thể tự mình đạt được mục tiêu cho riêng mình, như khi kinh doanh kiếm lời, hay lúc sử dụng quyền hành để kiếm lợi thì cơ chế tập thể lại trở thành nội dung dưỡng những hành vi bất công, sự hưởng lợi không bị trả giá và trách nhiệm cá nhân có thể “lẩn như chạch”.
Xin nêu ba trường hợp.
Giả sử bạn chơi chung trong một nhóm. Nếu phát hiện thấy cái bút của mình bị mất mà bạn hỏi “Có ai thấy cái bút của tôi không?”, thì thường là chẳng có câu trả lời nào. Người nào đã cầm được cái bút của bạn mà có lòng tham thì họ cũng chẳng cần phải nói gì vì câu hỏi không đặt thẳng cho họ. Câu hỏi của bạn đặt ra với tập thể có thể làm người ấy áy náy một chút nhưng cái bút đẹp (tức là lòng tham) sẽ cuốn họ đi ngay. Còn nếu bạn đặt thẳng cho họ thì họ sẽ bị lúng túng và bạn có quyền nghi. Trong tập thể ít có sự áy náy cá nhân để mà nói đến trách nhiệm cá nhân. Đúng hơn, tập thể không hề mang trách nhiệm cá nhân, giống như một pháp nhân không thể giết người.
Ngày xưa, lúc còn bé khi bị phạt tập thể bạn không cảm thấy xấu hổ với người bên cạnh vì họ cũng bị như mình. Sự xấu hổ nếu có thì với một tập thể là một lóp khác chứ không phải với từng cá nhân, bạn là một cá nhân nên cũng không thấy chi. Hơn nữa nếu vì lỗi của mình mà tập thể bị phạt thì bạn vẫn lấp liếm được rằng: “Hôm nọ nó làm mình cũng bị phạt lây vậy”. Qua tập thể người ta có thể nấp vào đó để không còn bị trách nhiệm cá nhân dày vò. Thế nhưng khi chối từ trách nhiệm thì họ đã tự hủy cái tôi của mình, vì vậy lại phải tìm cách tái lập nó, và cách làm là đi tìm thành tích.
Cuối cùng, khi bị phạt tập thể hay bị chỉ trích sau này, người trong nhóm dễ trở nên thương nhau hơn theo khẩu hiệu “đoàn kết và đấu tranh”. Tâm niệm này thúc đẩy sự bảo vệ lẫn nhau trong tập thể để chống lại người ngoài, hay áp lực bên ngoài mà lúc ấy cũng sẽ bị chụp mũ thành “phe khác”. Phe phái nẩy sinh khi người ta phải dựa vào nhau để có sức mạnh trong lòng, và khi mình đã là một phe thì bên kia ắt phải -là phe khác, như thế mới cảm thấy an tâm khi kết họp. Phe phái không làm cho trách nhiệm cá nhân nẩy sinh. Hơn nữa, rất khó bắt lỗi một tập thể và tập thể cũng không cho phép làm như thế mà dù có làm được thì trong tập thể cũng chẳng ai cảm thấy thương tổn như lúc bị trừng phạt cá nhân.
Chưa hết! Tập thể ở ta mang vào mình sứ mạng chăm lo cho đoàn viên. Điều đó kéo dài đã lâu và trở thành một nếp nghĩ. Ngày nay khi trong xã hội có một ai đó làm điều gì xấu, dư luận nhất là báo chí, thường đặt câu hỏi cơ quan, đoàn thể nào chịu trách nhiệm? Thí dụ như: “Ai quản lý những cô chân dài khi họ cho quay phim mình ở bãi biển trong CD có tựa là Tuyển chọn nghệ sĩ? “Tại sao phải nêu vấn đề cơ quan nào quản lý họ? Họ, chính họ, phải giữ mình trước, không cần đến cơ quan nào. Sắc đẹp của họ có lệ thuộc cơ quan nào đâu mà đòi quản lý! Rõ là một câu hỏi ngây ngô nhưng nó không làm người nêu lên thấy như vậy nữa vì đó là câu hỏi đã trở thành truyền thống! Với những câu hỏi đại loại như thế thì rõ ràng, chuyện dư luận, vấn đề trách nhiệm cá nhân cũng ít được coi trọng.
Nền tảng tổ chức của xã hội ta đã một thời muốn đưa cá nhân con người vào nề nếp muốn cho vai trò của họ nhỏ đi, bằng cách giao cho tập thể một vị trí và một vai trò nổi trội. Vì thế tinh thần trách nhiệm cá nhân ở ta đã vô tình bị vùi dập. Ở đây tôi không nói đến tính chất xấu tốt của nền nếp kia mà chỉ đề cập nó như là một cách thức, một phương pháp. Nếu chúng ta dùng cách nấu nước cho sôi rồi tra gạo vào thì có nồi cơm. Nó khác với việc bỏ xương vào ninh thì có bát phở. Trải qua một thời gian dài, nếu chúng ta đã nấu phở thì bây giờ chưa thể đòi bát cơom.
Trong những vấn đề về trách nhiệm cá nhân đã được đề cập trong báo này có những điều, theo tôi, không phải là trách nhiệm cá nhân mà là trình độ và kiến thức. Trong khả năng của mình, chúng ta mới chỉ có đến thế. Vấn đề không phải là đặt câu hỏi ai chịu trách nhiệm mà là nhận thức ra rằng kiến thức của chúng ta còn thấp để mà chịu khó học hỏi, để mà không kiêu căng về “kiểu Việt Nam ta”.

Đề nghị

Để cho cách nhiệm cá nhân sớm dậy lên, tôi cho rằng cơ chế tập thể vẫn cứ được duy trì trong lĩnh vực chính trị, bởi mục tiêu ở đó tương đối cụ thể, nhưng trong hành chính, nơi quyền bính được hành xử trên căn bản cá nhân (cấp phép hay từ chối) thì cơ chế tập thể nên bị bãi bỏ. Muốn làm phải giải quyết vấn đề quản lý. Thiết lập những thể thức quản lý trong hành chính không khó khăn vì tiền lệ thế giới có nhiều. Điều quan trọng là ý chí chính trị. Bãi bỏ cơ chế tập thể trong hành chính, thay thế nó bằng một chế độ cá nhân quyết định, với kỷ luật riêng, chế tài riêng. Những ai đã được cử vào bộ máy chính quyền mà bị kỷ luật thì sẽ bị loại luôn chứ không được trở lại hệ thống Đảng để được ấp ủ và tha thứ. Nếu cứ giữ như hiện nay thì họ cứ làm rồi lại chạy thày. Nói về trách nhiệm cá nhân trong hoàn cảnh ấy là vô nghĩa.
Nguồn: Nhà quản lý

Sửa bởi pth77: 10/06/2014 - 17:28


#87 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 11/06/2014 - 19:38

Câu chuyện cậu bé mù ăn xin….
(GNA: Tuần qua, chúng tôi nhận được 2 câu chuyện về cậu bé mù, thời hiện đại và thời cổ tích. Chắc không gì mới lạ, nhưng là một so sánh về tư duy của Âu và Á, của già và trẻ, của thực dụng và lý thuyết…Hãy cùng thư giãn và suy ngẫm)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Marketing bên vỉa hè….(từ Mỹ)
Tại một vỉa hè công cộng, cậu bé mù ngồi đó với chiếc mũ phía trước và một tấm bảng ghi:
“Tôi bị mù, xin mọi người hãy rũ lòng thương giúp đỡ!”.
Trong chiếc mũ của cậu bé lúc ấy chỉ có vài xu. Một người đàn ông đi ngang qua, đọc hàng chữ rồi móc ví lấy một vài đồng xu và bỏ vào chiếc mũ của câu bé. Sau đó ông cầm tấm bảng lên, chùi sạch và viết lại một dòng chữ khác. Viết xong ông lại đặt tấm bảng vào chỗ cũ nhưng hơi dịch tới phía trước một chút để mọi người đi ngang qua sẽ dễ dàng đọc được hàng chữ mới này.
Chẳng mấy chốc, chiếc mũ của cậu bé đầy tiền. Ai đi ngang qua cũng ghé lại cho tiền. Buổi chiều hôm đó người đàn ông kia trở lại. Cậu bé mù nhận ra những bước chân của ông, liền hỏi: “ Có phải bác là người đã viết lại tấm bảng cho cháu sáng nay không? Bác đã viết gì thế?”
Người đàn ông trả lời: “ Bác chỉ viết sự thật, và bác chỉ viết lại những gì cháu đã viết, nhưng theo một cách khác”.
Theo bạn thì chuyên gia marketing kia đã viết ra sao?
Ông ta viết: “Hôm nay là một ngày thật đẹp, nhưng con không thể nhìn thấy được điều đó!”.
Theo bạn, nội dung của câu trước và câu sau có khác nhau hay không?
Tất nhiên cả hai câu đều muốn nói cho mọi người biết là cậu bé kia bị mù. Nhưng câu đầu tiên chỉ nói lên được sự thật là cậu bé kia bị mù và mong được giúp đỡ. Còn câu thứ hai đã nói cho mọi người thấy rằng họ rất may mắn khi còn nhìn thấy được trời xanh, mây trắng và cuộc sống hôm nay thật đẹp. Và dòng chữ thứ hai đã mang lại hiệu quả cao hơn.
Suy nghĩ rộng hơn, chúng ta cũng tìm được một nguyên lý nhỏ nhoi, cho riêng ta hay cho những đỉnh-cao-trí-tuệ đang lạc lối ngoài kia:
Cuộc sống thật tuyệt vời nếu bạn biết cách sống như thế nào. Mỗi ngày có đẹp hay không đều tùy thuộc vào bạn.
(Theo EHow và từ Email của bạn Nguyễn Hiệp/ Công Chánh Phú Thọ)


Cậu bé mù xây cầu (từ Trung Quốc)

11 Tháng 4 2011
Vào triều Bắc Tống, ở một làng nọ có một cậu bé tàn tật chừng mười tuổi, gẫy chân, sống một cuộc sống ăn xin nghèo khổ. Trước làng là một con suối lớn. Vì không có cầu, nên dân làng muốn qua suối là phải lội, rất bất tiện, nhất là đối với những người già vào mùa nước lũ. Nhiều năm đã qua đi như vậy, cho đến một hôm người ta thấy cậu bé ăn xin què quặt gom những tảng đá lớn về bên suối. “Cháu muốn xây cầu để mọi người đi lại thuận tiện”, cậu giải thích. Người làng cho đó là chuyện khôi hài của một cậu bé khùng nên không để ý đến.
Nhưng đống đá dần dần lớn lên qua tháng năm trở thành một cái gò, và dân làng bắt đầu hiểu ra. Nhiều người cũng góp thêm sức vào, chẳng mấy chốc đã đủ đá xây cầu. Rồi người ta thuê thợ xây dựng đến làm. Trong quá trình cùng làm, cậu bé bị mảnh đá bắn vào mắt và mù cả hai mắt. Người dân lấy làm thương cảm lắm. Nhưng cậu bé, mặc dù dã què lại thêm mù, vẫn không một lời ca thán và cố gắng trong khả năng của mình cùng góp sức xây cầu với dân làng.
Cuối cùng, sau những tháng ngày nhọc nhằn vất vả, cây cầu đã được xây xong. Dẫu không nhìn thấy gì, nhưng trên khuôn mặt của cậu hiện một nụ cười rạng rỡ.
Đột nhiên một tiếng sấm nổ vang dù trời quang mây tạnh. Và người ta thấy rằng cậu bé ăn m*y đáng thương đã bị sét đánh chết ngay trên chiếc cầu mới xây.
Bấy giờ đúng lúc Bao Công đi thị sát qua làng. Dân làng kéo ra kêu oan với Bao Công, rằng tại sao trời xanh lại hại người tốt. Trước câu chuyện quá thương tâm, và cảm thấy quá bất công, Bao Thanh Thiên chẳng cầm nổi lòng mình, bèn viết “thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện”.
Trở về Kinh thành sau chuyến công du, Bao Công cảm thấy trong lòng không thoải mái, nhất là về những gì ông đã viết trong lúc không dằn được lòng mình. Trong bản tấu trình, ông đã không tâu lên Hoàng thượng về sự kiện hy hữu đó.
Hoàng thượng hôm ấy mời Bao Công đến chơi và dẫn Bao Công đến gặp hoàng tử mới ra đời trong lúc Bao Công đi thị sát ngoại tỉnh. Hoàng tử trông khôi ngô nhưng mắc tật khóc suốt ngày. Hoàng thượng cũng muốn hỏi Bao Công xem có cách nào cho hoàng tử hết khóc. Bao Công thấy hoàng tử da dẻ trắng trẻo mịn màng, và trong lòng bàn tay dường như có một hàng chữ. Ghé mắt vào nhìn kỹ thì chính là “thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện”! Quá bất ngờ và xấu hổ, Bao Công lấy tay để xoá, và kỳ lạ thay, ông vừa vuốt qua thì dòng chữ biến mất. Hoàng tử nín khóc tức thì.
Hoàng thượng rất đỗi ngạc nhiên, hỏi tại sao lại như thế. Bao Công sợ hãi quỳ xuống kể lại hết đầu đuôi câu chuyện, và xin Hoàng thượng xá tội vì đã không báo cáo về chuyện này trong bản tâu trình. Hoàng thượng bèn ra lệnh Bao Công phải điều tra cho rõ vụ việc.
Đêm ấy Bao Công ngả đầu lên chiếc gối “âm dương địa phủ” và lập tức trong mộng đi đến cõi âm gian. Diêm Vương kể cho ông rằng hoàng tử đó vào mấy đời trước từng làm việc đại gian ác, nên Thần đã an bài phải trả nghiệp ác ấy trong ba đời: đời thứ nhất què cụt, đời thứ hai mù loà, và đời thứ ba bị sét đánh chết. Nhưng khi què quặt xin ăn, cậu bé đã luôn vì người làm việt tốt, nên Thần đã rút lại thời gian trả nghiệp và khiến cậu bé ăn xin bị mù. Sau khi mù, cậu bé đã không những không oán thán ai hết mà vẫn luôn vì người làm điều Thiện. Vì lý do ấy mà Thần đã an bài lại một lần nữa để cậu bé trả hết nghiệp trong một đời. Diêm Vương nói với Bao Công: “Một đời trả hết nghiệp thay cho ba đời, lại còn được chuyển sinh làm đương kim Thái tử, hưởng thụ phúc phận của Thiên tử.”
Tác giả: Thiện Dung
(Theo Minhhue.net)

Thanked by 3 Members:

#88 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 12/06/2014 - 18:30

TRUYỆN TẤM CÁM ĐỌC DƯỚI BÀN THỜ PHẬT

Đã có nhiều tranh luận về hành động giết người của cô Tấm thảo hiền là độc ác. Thời gian gần đây, lại thấy tranh luận sôi nổi vì sách giáo khoa viết lại truyện cổ tích Tấm Cám. Báo Đời sống và Pháp luật số 46 tháng 11 năm 2011 đăng bài “Có nên để cô Tấm trả thù tàn độc”. Báo Thanh Niên ngày 21.11.2011 đăng bài phản hồi về đoạn kết truyện Tấm cám trong sách giáo khoa, có đoạn viết : Cách kết thúc có khác nhau nhưng đều thống nhất thề hiện tư tưởng : cái ác sẽ bị trừng phạt. Và rất nhiều bài viết, ý kiến về vấn đề này trên các trang mạng. Tôi không dám luận đúng sai về những ý kiến đã nêu. Chỉ tự hỏi : Thông điệp đích thực của truyện Tấm Cám là gì?

Khi giết người, bản chất của hành vi đều giống nhau ở đầu mũi kiếm. Sự khác nhau chỉ ở phía chuôi kiếm và những góc nhìn. Dưới bàn thờ Phật, lần giở trước đèn, đọc truyện Tấm Cám tôi lại ngộ ra những điều cho riêng mình.

Đọc truyện Tấm Cám, ta yêu cô Tấm bởi tính ngoan hiền, nhẫn nhịn chịu thương chịu khó bao dung nhân hậu. Nhưng một lúc nào đó ngẫm lại, ta bỗng giật mình thấy một cô Tấm xấu xa độc ác. Thế nhưng, thực ra (cái kết cục của) cô Tấm độc ác kia nào phải cô Tấm (mà) ta yêu (ban đầu). Đó là cô Tấm đã trải qua 5 lần hóa thân trong vòng xoáy luân hồi : cô Tấm – Thảo dân 1 + Hoàng hậu 1; cô Tấm – Chim Vàng anh; cô Tấm – cây Xoan đào; cô Tấm – Quả thị ; cô Tấm – Thảo dân 2 + Hoàng hậu 2; cô Tấm - … Vậy, qua mỗi hóa thân cô Tấm đã thay đổi như thế nào để từ đáng yêu (trở) thành đáng nguyền rủa?

Trước hết cần đặt toàn bộ diễn biến của truyện trong cách nhìn của đạo Phật.

Theo quan niệm của đạo Phật: Chết là hình thức chuyển không gian (cõi giới) sống. Một cách nhìn cực kỳ lạc quan và biện chứng về cái chết. Chết không có nghĩa là hết, chấm dứt mọi hoạt động, mà là mỗi cá thể tiếp tục vận động ở một không gian khác trong Luân hồi.

Có thể hình dung mỗi số phận con người quay trên những quỹ đạo riêng của mình trong Luân hồi giống như những electron quay quanh tâm của hạt nhân nguyên tử. Tính ổn định của quỹ đạo phụ thuộc vào nghiệp mà con người tạo ra trong thời gian sống của mình. Khi sinh ra, con người đã mang trên mình nghiệp của quá khứ. Quá trình sống tạo ra nghiệp mới. Nếu tạo nhiều nghiệp thiện thì ở vòng đời sau con người có thể quay trên quỹ đạo xa tâm hơn, do đó ảnh hưởng của lực hút từ tâm nhỏ hơn. Cứ như thế, đời này tích thiện, đời sau tích thiện … con người sẽ thoát khỏi lực hút từ tâm Luân hổi và thóat khỏi vòng sinh tử. Ngược lại, nếu tạo nghiệp ác, con người sẽ rơi vào quỹ đạo phía trong và chịu tác động của lực hút vào tâm lớn. Áp lực càng đè nặng lên số phận của con người.

Trên tinh thần đó, chúng ta xem xét những hóa thân của cô Tấm trong Luân hồi.

Ở vòng đời đầu tiên, cô Tấm – Thảo dân 1 là cô gái ngoan hiền, nết na, chịu thương chịu khó, nhẫn nhịn, biết hy sinh, hiếu thảo, sống an lành trong số phận…Với tất cả những đức tính tốt đẹp ấy coi như cô Tấm – Thảo dân 1 đã tạo cho mình những nghiệp thiện và được hưởng phúc lớn – trở thành vợ vua (Hoàng hậu 1). Cô Tấm – Hoàng hậu 1 tiếp tục sống cuộc đời nhân đức, hiếu thuận. Trong ngày giỗ cha, cô Tấm – Hoàng hậu 1 đã không kể đến vị trí mẫu nghi thiên hạ của mình mà vẫn về tận quê làm giỗ cha, vẫn thật thà, cả tin, sẵn sàng trèo lên cây cau hái quả để cúng cha và bị giết chết. Sau khi chết, Tấm hóa thành chim Vàng Anh.

Chim Vàng anh – hóa thân của Tấm bắt đầu tạo nghiệp :

Đối với vua : gây sự chú ý của vua, làm cho vua biết rằng mình là hóa thân của Tấm để vua không thương yêu Cám (Vua gọi: Vàng Ảnh Vàng Anh, có phải vợ anh bay vào tay áo).

Đối với mẹ con Cám, chim Vàng Anh gây áp lực: Phơi áo chồng t*o thì phơi bằng sào, chớ phơi bờ rào t*o cào mặt ra. Rất đanh đá (khẩu nghiệp).

Ý của Tấm (ý nghiệp) rất rõ ràng: đòi lại những gì đã mất về tay mẹ con Cám. Điều này buộc mẹ con Cám phải giết chim Vàng Anh, thực chất là giết Tấm lần 2 để giữ lấy những gì đã đoạt được của Tấm. Như vậy, bằng sức ép của mình, Tấm đã đẩy mẹ con Cám vào con đường phạm tội. Đó chính là nghiệp mới mà Tấm đã tạo ra. Tiếc thay đó lại là nghiệp ác.

Chim Vàng Anh chết hóa thành 2 cây Xoan đào. Cây Xoan đào tiếp tục có những hành động như chim Vàng anh : Kẽo cà kẽo kẹt, lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra. Hóa thân Xoan đào của Tấm đợi vua ra nằm võng mới phát ra những lời thông báo sự tồn tại của mình và ngôn ngữ đe dọa mẹ con Cám đã sặc mùi đao búa. Một lần nữa, Tấm – Xoan đào lại đẩy mẹ con Cám phải hạ sát Xoan đào, thực chất là giết Tấm lần thứ 3. Và như thế Tấm lại tạo thêm một nghiệp ác mới.

Sau khi Xoan đào bị hạ sát, qua hai hóa thân khác, cô Tấm trở về vạch xuất phát: Hoàng hậu (lần 2). Hoàng Hậu 2 chính là nghiệp cũ của Tấm, nhưng không còn là hiện thân của nghiệp thiện thuần khiết mà là nghiệp hỗn hợp giữa nghiệp thiện (nếu còn từ vòng đời đầu tiên) lẫn cùng nghiệp ác mới do Tấm gây ra qua 2 lần hóa thân Vàng anh và Xoan đào.

Đến đây, cô Tấm – Hoàng hậu 2 có ít nhất 3 lựa chọn để hành động :

1.Tha cho mẹ con Cám và tội lỗi của họ có thể do những Lực lượng Tự nhiên khác xử lý. Lựa chọn này khiến cho truyện Tấm Cám giống như truyện Thạch Sanh hoặc những truyện cổ tích khác. Không có gì để bàn.

2.Mở một phiên tòa công khai xét xử tội phạm của mẹ con Cám. Đây là một lựa chọn khó vì trong hai lần phạm tội của mẹ con Cám giết hóa thân của Tấm đều có lỗi tranh giành của Tấm. Cứu vớt mẹ con Cám, những người đắm chìm trong nghiệp ác trở về cuộc đời lương thiện chính là cách tạo nghiệp thiện tốt nhất của Tấm. Nhưng tiếc thay, Tấm cũng bị danh lợi làm cho u mê mà tranh giành với mẹ con Cám và đẩy mẹ con Cám chìm sâu trong nghiệp ác.

3.Trả thù mẹ con Cám.

Tấm đã chọn cách thứ 3. Với lựa chọn này Tấm đã tích thêm nghiệp ác vào những nghiệp ác mà hai hóa thân Vàng anh và Xoan đào đã tạo ra.

Chúng ta đều biết Đức Thế Tôn đã dạy : Sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý trong quá khứ là nghiệp cũ. Các hành động thân, khẩu, ý trong hiện tại là nghiệp mới.

Như vậy, chim Vàng anh là nghiệp cũ của Tấm – nghiệp thiện. Nhưng hành động của chim Vàng anh tranh giành danh lợi với mẹ con Cám, đẩy mẹ con Cám lâm vào con đường phạm tội sát sinh – giết chim Vàng Anh chính là nghiệp mới – nghiệp ác mà Tấm gây ra ở hóa thân lần 2. Cây Xoan đào – hóa thân của Tấm lần 3 tiếp tục tranh giành danh lợi mới mẹ con Cám với mức độ còn quyết liệt hơn. Nghiệp ác của Tấm tạo ra vì thế càng thêm dày. Nhưng đỉnh cao của nghiệp ác là lần tạo nghiệp thứ 3 của cô Tấm – Hoàng hậu 2. Hãy hình dung : Tấm ngon ngọt lừa em cùng cha tự dội nước sôi mà chết. Sau đó, lạnh lùng ngồi phanh thây đứa em đó ra làm nhiều mảnh, sắp đặt đầu lâu xuống dưới, lục phủ ngũ tạng và tứ chi lên trên, khéo léo làm sao để mẹ kế của mình ăn thịt con mà không nhận biết, chỉ đến khi ăn xong phần cơ thể mới gặp mặt con mình rồi “ sốc ” mà chết. Đó là một tính toán chính xác về mặt tâm lý. Nhưng cực kỳ tàn nhẫn về mặt con người. Trong khi mẹ Cám bị lừa ăn thịt con mà vẫn phải cảm ơn lòng tốt của Tấm vì đã biếu quà, thì Tấm lại khoái trá nhâm nhi tội ác của mình và chờ kết quả cuối cùng. Thật kinh khủng, Tấm trở thành kẻ tâm địa độc ác, xấu xa hoàn hảo. Nhưng đây là Tấm sau 5 lần hóa thân, không phải cô Tấm lần đầu.

Với tội ác này, Tấm đã phạm phải Cực trọng nghiệp (sát hại cha mẹ, làm chảy máu mình Phật…) theo cách phân chia nghiệp của đạo Phật.

Ngẫm, có thể thấy thế này : Chim Vàng anh là một hình ảnh đẹp. Bay nhanh và tự do trên một khoảng không gian rộng lớn. Đó chính là hóa thân từ nghiệp thiện trong quá khứ. Sau khi chim Vàng anh tạo nghiệp ác và bị sát hại hóa thành Xoan đào. Cũng là một hóa thân đẹp. Tuy nhiên, cây Xoan đào hoàn toàn không di chuyển theo phương ngang, chỉ có thể vươn lên theo chiều thẳng đứng. So với chim Vàng anh thì Xoan đào coi như không còn tự do. Đó là hóa thân từ nghiệp thiện lẫn nghiệp ác. Sau khi Xoan đào tiếp tục gây nghiệp ác và bị hạ sát, hóa thành quả Thị. Vẫn là một hóa thân đẹp, nhưng đã không còn là chủ thể mà chỉ là bộ phận (quả của cây) với thời gian tồn tại ngắn. Chính là hóa thân của nghiệp thiện chỉ còn rất mỏng lẫn với nghiệp ác trong quá khứ đã ngày càng dày lên. Qua đó có thể thấy : những hóa thân của Tấm mỗi lúc một thấp hơn do nghiệp ác mà Tấm tạo ra ngày một dày thêm.

Ở đây, cần nói thêm về tốc độ chuyển dịch và thời gian tồn tại của các sự vật hoặc các cá thể trong những không gian sống khác nhau (hoặc cảnh giới khác nhau) để thấy sự khác biệt. Hãy hình dung, trong không gian con người đang sống, ánh sáng được coi là di chuyển với tốc độ nhanh nhất, đạt tới xấp xỉ 300.000 km/giây trong môi trường chân không. Giây là đơn vị đo thời gian nhỏ nhất thường dùng ở thế gian (không kể đến các đơn vị thời gian tính trong khoa học chuyên ngành). Nhưng, tại cảnh giới của các vị đã chứng quả Giác ngộ, thời gian đo bằng sát-na. Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu ngàn bốn trăm tỷ, chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na. Một giây bằng 74 074 075,2 sát-na. Như vậy, ở cảnh giới nói trên ánh sáng của thế gian chuyển dịch được 4,047m trong một sat – na. Tương đương với tốc độ của một con sên di chuyển 1 giờ ở thế giới của chúng ta. Nhưng một sát – na lại là khoảng thời gian đủ để cho một biến đổi, một sự kiện xuất hiện, phát triển, tiêu vong. Còn xét về sự tồn tại thì các Đấng đã chứng được quả Giác ngộ tồn tại vĩnh hằng, còn chúng ta là hữu hạn.

Trong quá trình liên tục thay đổi các hóa thân, cô Tấm có rất nhiều cơ hội để tích lũy nghiệp thiện, trong đó việc tha thứ, bao dung, cảm hóa mẹ con Cám bằng tấm lòng vị tha nhân ái của mình để đưa mẹ con Cám trở về cuộc đời lương thiện Chính là những nghiệp thiện mà Tấm có thể tạo ra cho mình. Nhưng tiếc thay, danh lợi từ cuộc đời Hoàng hậu 1 mà Tấm có được đã khiến cô trở nên u mê lầm lạc dẫn đến biến đổi tâm tính. Những đức tính tốt đẹp nhất, đặc trưng nhất của người phụ nữ Á đông nói chung, Việt nam nói riêng vốn có từ vòng đời đầu của Tấm đã bị mất đi.

Con người là chủ nhân của nghiệp và là kẻ thừa tự của nghiệp (lời Phật dạy). Giáo lý nhân quả trong đạo Phật cũng đặt ra vấn đề trách nhiệm cá nhân của con người. Con người gây ra nghiệp con người phải tự chịu trách nhiệm về những nghiệp đã gây ra.

Như mẹ con Cám suốt đời thực hiện nghiệp ác và phải nhận quả báo với một kết cục cực kỳ tệ hại.

Còn cô Tấm, với tính ngoan hiền, vị tha, nhân ái, hướng thiện đã tạo phúc lành cho mình và nhận được những điều tốt đẹp ngay trong cuộc đời trần thế. Chẳng những thế, nghiệp thiện của vòng đời đầu còn cho cô Tấm có những hóa thân đẹp về sau.

Tuy nhiên, những hóa thân của cô Tấm do không quên được vinh hoa từ cuộc đời trước – Hoàng hậu, nên chỉ nhăm nhăm đi đòi những danh lợi phù du đã mất, mà quên đi việc tu tâm tích đức, hướng thiện, tích lũy quả Phúc. Chẳng những thế còn thực hiện những nghiệp ác và những nghiệp ác khủng khiếp.

Có thể hiểu thông điệp của truyện Tấm Cám như sau : Một đời tu nhân tích đức, tạo dựng nghiệp thiện có thể nhận được những điều tốt đẹp cho mình và truyền lại quả Phúc cho những đời sau. Những thế hệ sau lại phải tiếp tục hướng thiện, tu dưỡng tâm đức để cho quả Phúc thêm dày. Nếu không hướng thiện, nghiệp ác có thể đến bất cứ lúc nào và nó xói mòn quả Phúc. Và khi hết Phúc là lúc nghiệp ác chất chồng. Hậu quả khủng khiếp không lường trước được. Vì thế, những gì cô Tấm – Hoàng hậu 2 – hóa thân 5 lần của cô Tấm – Hoàng hậu 1 sẽ phải nhận có thể suy ra từ cuộc đời của mẹ con Cám.

Thông điệp rõ ràng như thế, không cần phải viết lại phần kết của truyện Tấm Cám.

Mấy điều thiển nghĩ. Xin các cao nhân lượng thứ!

Hoàng Xuân Niên

Thanked by 3 Members:

#89 Monday

    Kiền viên

  • Hội Viên mới
  • PipPipPip
  • 1100 Bài viết:
  • 1634 thanks
  • LocationTrái đất.

Gửi vào 12/06/2014 - 18:59

Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cụt leo vào leo ra.

Chuyện rằng ngày xửa ngày xưa
Ở một xứ nọ lắm dừa nhiều cau
Khắp nơi nhan nhản hàng Tàu
Rau xanh phun thuốc trừ sâu đầy vườn
Nổi lên có một cô nương
Tên là thị Tấm dễ thương khắp vùng
Eo thon với lại má hồng
Tuổi vừa đôi tám chưa chồng chưa con

Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cụt leo vào leo ra.


Thanked by 3 Members:

#90 pth77

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPip
  • 697 Bài viết:
  • 1420 thanks

Gửi vào 16/06/2014 - 19:54

Phong Thủy – giao điểm giữa 2 nền Kiến trúc và Đô thị học Đông Tây

06.08.2011 — Lý Thái Sơn
GEO.07.99
Đồng nghiệp quý mến,
Có một câu ngạn ngữ khắc trên bia đá một đền thờ cổ Ai Cập ghi rằng:Kiến trúc phải là TRIẾT HỌC nếu nó không muốn tự giới hạn mình như một thứ kỹ thuật xây cất đơn thuần”. Từ ngày còn mài đũng quần trên ghế họa thất trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn,

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

người viết luôn bị ý tưởng này ám ảnh và ngờ rằng tác giả của câu này không ai khác hơn KTS huyền thoại IMHOTEP. Đâu đó ở phương Đông vào thời đại này cũng xuất hiện một KTS tương tự như vậy. Tên ông là PHỤC HY. Cả hai ông khổng lồ này giống nhau ở chỗ đều là những nhà bác học – ở đây xin hiểu như nhà khoa học đồng thời nhà triết học – đầu tiên trong lịch sử loài người. Có điều khác ở chỗ chức danh thế quyền: Imhotep là quan, còn Phục Hy là Vua. Nếu Imhotep được các vua Ai Cập cho đúc tượng để vinh danh cho giới KTS chúng ta, thì Phục Hy, trái lại, mãi mãi là một giai thoại thần kỳ của người phương Đông. Người viết ngờ rằng Phục Hy, vì vậy, không phải là một cá thể nhỏ bé, đơn lẻ mà là một quần xã, có hàm lượng trí tuệ tập thể rộng lớn. Rằng Phục Hy không phải là một nhân vật, mà là, như ngày nay chúng ta hay gọi, một nền văn hóa. Nói theo ngôn ngữ Paul Ricoeur (1961) thì Phục Hy là nền văn minh, cấu thành từ các nền văn hóa của các dân tộc cộng sinh trên địa bàn không gian rộng lớn phía Đông lục địa Eurasia (Âu – Á).
Không biết người Nhật, người Hàn (những dân tộc được gọi là đồng văn với người Trung Quốc như chúng ta) có giành quyền “đồng tác giả” văn minh Đông Á hay không, riêng một bộ phận tiềm thức cộng thể mang tính dân gian (folklorique) của người Việt vẫn coi Phục Hy, và cả Thần Nông, là ông tổ của nền văn hóa mình, chí ít cũng về mặt tinh thần. Thật ra thì ai có thể chứng minh được nguồn gốc chủng tộc của Phục Hy?… Nói theo ngôn ngữ ngày nay thì những giá trị mà Phục Hy có thể để mãi lại cho đời sau, trước tiên là cho các nền văn hóa Đông Á, không hề mang tính vật thể – dù đó là 8 quẻ Dịch kỳ diệu – mà ở tính phi-vật-thể hết sức dễ thương của nó.
Kiến trúc cũng là một trong những phạm trù ý tưởng của Phục Hy trong nhiệm vụ giải quyết bài toán cư trú cho con người, bởi con người, và vì con người (Human Habitat và Genius Loci). Bài toán sáng tạo này được các nền văn hóa kiến trúc phương Đông giải như thế nào từ hơn bốn ngàn năm nay vẫn còn là một bí ẩn chưa được giải mã…
Kiến trúc là một thuật ngữ Hán và Hán Việt. Nó không hề tồn tại ít ra cũng tại thời điểm MARCO POLO ghé thăm Trung Quốc. Không có thuật ngữ này không có nghĩa là tại phương Đông không tồn tại Nó. Họ gọi là gì? Thực tại kiến trúc hàng bao thế kỷ vẫn sờ sờ ra đó mà tên gọi thì không? Hay gọi là vô danh như Lão Tử? Đã đạo thì làm gì cần có tên mà đặt? Nhưng không đặt thì làm sao biết? Từ đời Tấn người Trung Quốc đã đặt tên cho nó là Phong thủy. Thật ra đó chỉ là tên gọi để chỉ “bí quyết công nghệ” của QUÁCH PHÁC, người được đời sau gán cho danh hiệu ông tổ của khoa Phong thủy. Còn người Việt mình thì vẫn trung thành với cái tên cúng cơm nguyên thủy từ thời Phục Hy là Địa lý, mà cụ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

và cụ HÒA CHÍNH thời vua Lê chúa Trịnh là những đại biểu kiệt xuất.
Và đó là một trong nhiều hàm ý mà bản dự thảo (draft) bài tham luận muốn gởi đến Đại hội UIA’XX (trễ hạn nộp bài 5 tháng : khóa sổ tháng 3/98, gởi tháng 8/98) như một sự trình bày và miêu tả quá trình hình thành, phát triển và cơ sở phương pháp luận của Nó hơn là có tham vọng chứng minh giá trị thực tiễn về mặt khoa học theo nghĩa đen của từ này.
.
PHẦN A: ĐƯỜNG VỀ NHÀ LỚN (Thái Thất)

1. Ex Oriente Lux (Ánh sáng đến từ phương Đông)
UIA chào đời được nửa thế kỷ (1948) và phải đợi đến tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh” nó mới hướng về phần thế giới không phải phương Tây còn lại. Việc UIA “trao gươm” cho một quốc gia phương Đông vào thời điểm chuyển tiếp giữa hai thế kỷ – hay rộng lớn hơn: hai thiên niên kỷ – mang ý nghĩa tượng trưng không nhỏ. Nó không chỉ củng cố niềm tin cho các quốc gia Châu Á trước thềm thế kỷ XXI, mà còn mở ra những triển vọng, những khả năng mới cho tất cả mọi nền kiến trúc địa phương đầy “bản sắc” vào ngôi làng toàn cầu. Và các đồng nghiệp Trung Quốc đã nổ lực một cách đáng khâm phục để biến bốn ngày cuối tháng 6/1999 thành những ngày lễ hội văn hóa – kiến trúc đầy màu sắc cho hơn sáu ngàn kiến trúc sư về Bắc kinh tham dự.
2. Nguyễn An đâu mà lắm vậy?
Trong không khí hân hoan chung đó, đoàn KTS. Việt Nam đã có một cuộc Bắc du hùng hậu: mười hai Nguyễn An vòng trong, 150 Nguyễn An vòng ngoài. Quả là một cuôc “biểu dương lực lượng” chưa từng có, đồng thời một tín hiệu đáng mừng cho tiền đồ kiến trúc đất nước. Hội nhập vào ngôi làng kiến trúc thế giới mà không đánh mất bản sắc dân tộc của mình, là động cơ chung của khối Nguyễn An kia? Đông, vui, hao! Nhưng là một cái hao đáng đồng tiền bát gạo. Riêng người viết, niềm vui còn được nhân đôi. Bài tham luận “phạm trường quy” sau cùng đã được trình bày từ 11 giờ 30 đến 12 giờ ngày 25/06/1999 tại Diễn đàn Khoa học Đại hội.
3. Hồn Trương Ba, da hàng thịt!
Vào thời điểm tháng 4/99 khi UIA công bố danh sách KTS. đọc tham luận, … nhiều đồng nghiệp ở Thành phố đã có không ít ý kiến “đóng góp”, đại loại “đánh trống trước của nhà sấm”, “múa rìu qua mắt thợ”, “chở củi về rừng”, “ấm ớ Tây Tàu nó cười cho” v.v và v.v… Trống Đông Sơn? Rìu họ Thạch? Gỗ rừng phương Nam?
Có một cái gì không “bình thường” trong những nhận định đại loại hay tương tự như vậy chăng? Không! Sẽ là rất bình thường nếu ta không quên rằng xưa kia trong mối giao tình lịch sử giữa Ta (Việt) và Bạn (Hoa) hai bên đều có “tiếp thu, tiếp biến văn hóa” lẫn nhau. Chuyện bánh ít bánh quy, có thể bên nhiều, bên ít, nhưng là có đi có lại, nào chỉ đơn phương, một chiều như không ít ý kiến ngộ tưởng. CỔ LOA ở Việt Nam và TRƯỜNG AN đời Hán ở Trung Quốc có cùng niên đại thế kỷ III TCN không phải là một dẫn chứng sinh động sao? Sự kiện càng có ý nghĩa khoa học lớn hơn vì thời điểm này diễn ra trước “10 thế kỷ đêm trường Bắc thuộc” khá lâu. Gần đây cũng vậy, khi phương Tây xuất hiện trên vũ đài lịch sử thế giới (phương Tây xin được hiểu theo ý nghĩa “những giá trị văn minh hiện đại” nói chung) chuyện “giao thoa, tiếp biến” nói cho oai, thật ra chỉ là cuộc hôn nhân cưởng ép, một chiều, từ Tây sang Đông, từ vật chất đến tinh thần, từ bên ngoài cho đến bên trong. Là hình mẫu, là thước đo giá trị các nền văn minh, văn hóa khác, phương Tây chính là ẩn dụ cho anh hàng thịt hùng mạnh đang thu tóm toàn bộ của cải thế gian, đối lập với hình ảnh thảm hại của bác Trương Ba, đại biểu cho phần thế giới còn lại. Kiến trúc “Trương Ba” phương Đông cũng gánh chịu chung cái số phận hẩm hiu, an phận của nó. Hình ảnh hàng ngàn cao ốc ở Bắc Kinh chiếm lĩnh không gian, lấn át thiên nhiên chỉ trong hai thập kỷ gần đây có thể coi là một dẫn chứng sinh động khác cho chuyện hàng thịt của Trương Ba thời nay ? Mà đâu chỉ Bắc Kinh. Danh sách có thể kéo dài đến vô tận : Thượng Hải, Quảng Châu, Hong Kong, Tokyo, Seoul, Hà Nội, Sài Gòn … Và phải đâu chỉ ở Châu Á. Cuộc “chiến đấu” giữa thiên nhiên một bên, con người và kiến trúc phía bên kia, ngày càng tỏ ra … “không cân sức”. Cái nhân tạo hãnh tiến thắng thế, còn thiên nhiên bao dung, thầm lặng thì bị đẩy lùi. Mối quan hệ tay ba giữa Con người, Kiến trúc và Thiên nhiên phải chăng đã đến lúc cần được xem xét và nhìn nhận lại một cách nghiêm túc ở một mức độ khác tại thời điểm cuối thế kỷ XX này?
4. Thiên nhiên: một, hai, ba!
Năm 1884, Marx phát biểu: “sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người quan hệ khăng khít với thiên nhiên. Điều đó chẳng qua có ý nghĩa là thiên nhiên khăng khít với chính bản thân nó, con người là một bộ phận của thiên nhiên”. Mệnh đề có thể thu gọn : con người = thiên nhiên một. Xin quay lại với không khí lễ hội Bắc Kinh bằng hình ảnh cách phục sức của đoàn đại biểu nước ta. Đoàn ta ăn mặc phải nói là chỉnh tề và trang nhã. Ngoài chiếc áo dài đậm đà bản sắc dân tộc của chị Tuyết (đoàn Tp.H-C-M), mười một bộ com-lê nam, với đầy đủ vét-tông, cà vạt, đã giúp cho việc định vị mười một Nguyễn An trong đám đông hơn sáu ngàn KTS. trở nên dễ dàng và thuận tiện vô cùng. Khoác cái bộ trang phục cao cấp rất Tây này có lẽ chỉ gồm các quan chức UIA, quý khách mời của Đại hội, và … chúng ta. Cái thiên nhiên hai này (tức y phục) được phủ lên thân thể chúng ta (thiên nhiên một vừa nói) một cách oai vệ và hợp thời.
Gần bảy ngàn “thiên nhiên một” xúng xính trong chừng đó “thiên nhiên hai” được tòa nhà Đại sảnh đường nhân dân Bắc Kinh, với tư cách là “thiên nhiên ba”, bao che, ôm ấp bên trong nó. Cái thiên nhiên ba này là tên gọi khác của thuật ngữ ARCHITECTURE mà phương Đông tạm dịch để chuyển tải các khái niệm về kiến trúc do quy phạm tư tưởng phương Tây ấn định. Trước kia người Trung Quốc, người Hàn, người Nhật, và cả người Việt, chắc hẳn không có cụm từ này … Vô số khái niệm khác tương tự, chẳng hạn : Triết học (philosophy), khoa học (science), nghệ thuật (art), thiết kế (design), quy hoạch (planning), hiện đại (modern), công nghệ (technology), tiên tiến (advanced), bản sắc (identity) … Vâng, hầu như toàn bộ từ điển đương đại phương Đông chỉ được dùng để dịch, nói cách khác, để chuyển tải các khái niệm tương tự với quy định bởi phương Tây. Có thể nói không ngoa quy phạm và ngôn ngữ kiến trúc thế kỷ XX hoàn toàn thuộc về phương Tây hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này.
Kiến trúc Trương Ba minh triết ngày nào bổng trở nên quê mùa, lạc hậu đến thảm hại. Cuộc hành trình đi tìm lại bộ mặt thật (bản lai diện mục) của bác Trương không gì khác hơn nhằm trả lại linh hồn cho bác đúng với thân xác khỏe mạnh, lành lặn mà bác đã từng mang lấy xưa kia.
.
PHẦN B: BẢN LAI DIỆN MỤC

Tựa đề của bài tham luận “PHONG THỦY : GIAO ĐIỂM GIỮA HAI NỀN KIẾN TRÚC VÀ ĐÔ THỊ ĐÔNG-TÂY” (Feng Shui : The crosspoint of Occidental and Orientral Achitecture and Urbanism) thực chất là một cố gắng đi tìm lại cái bản lai diện mục của kiến trúc phương Đông. Thuật ngữ Phong thủy được gán cho Quách Phác người đời Tấn, thể kỷ IV- người được coi là ông tổ của khoa Phong thủy (Những cái tên trước đời Tấn có thể kể : Tướng địa, Tướng trạch, Thanh nang, Thanh ô, Địa lý). Còn thuật ngữ crosspoint muốn biểu thị cùng một lúc các ẩn dụ về thập tự giá (tượng trưng cho nền Công giáo phương Tây), về hệ thống thiết kế đô thị kiểu ô cờ (Cardo – Decumanus của người Etrusque mà sau đó La mã tiếp thu), đồng thời hệ thống trục Thủy – Hỏa (Đông – Tây) và Càn – Khôn (Nam Bắc) của phương Đông… Crosspoint còn là điểm hẹn thời gian mà người viết hy vọng sẽ diễn ra trong nửa đầu thế kỷ XXI (xin mở ngoặc tại thời điểm cuối 1998, đã có 63 website về Phong thủy trên mạng Internet).
Bài tham luận, được nhìn dưới lăng kính kiến trúc và trình bày bằng thứ ngôn ngữ kiến trúc sư, tiếp cận khoa Phong thủy từ ba góc nhìn Triết – Mỹ và Khoa học. (Ở đây là khoa học về không gian kiến trúc, chiều thời gian thứ tư không thuộc phạm vi bài tham luận xin được trình bày vào một dịp khác). Bài tham luận cũng thử đưa ra vài hiện tượng trùng hợp của kiến trúc đô thị phương Tây, cùng với những dự cảm ban đầu về khả năng tích hợp 2 nền kiến trúc Đông – Tây trong thế kỷ XXI (integral).
1. Ba bộ mặt của Phong thủy
1.1. Triết học (tức Đạo học nhất nguyên lưỡng cực Âm – Dương). Xin xem bảng (1): Danh loại Âm – Dương.
Nhà kiến trúc dân tộc học Amos Rapoport tại một cuôc hội thảo kiến trúc ở Đại học California, Berkeley hồi thập niên 70 tỏ ra đồng quan điểm với Imhotep khi cho rằng thế giới quan (conception du monde, world view) chính là nhân tố quyết định mọi hình thái kiến trúc, từ công trình đến cảnh quanđô thị trong lịch sử.
Dù ở thời đại lịch sử nào con người cũng luôn xây dựng nhân sinh quan (way of life) - từ đó là kiểu sống (lifestyle) – của mình theo vũ trụ quan (cosmology) tức cách thế mà nó nhìn nhận thế giới. Goethe cũng có cùng một nhận định như vậy đối với tổ tiên ông, khi cho rằng người thời xưa luôn tìm cách diễn đạt thế giới thực tại theo cách thế riêng của họ.
Vũ trụ quan đó được hình thành từ nền văn hóa Phục Hy, ở phía Đông lục địa Âu – Á cách nay non 50 thế kỷ và được gọi giản dị là ĐẠO: “Nhất âm, nhất dương chi vị đạo” (Nho) hoặc “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” (Lão).


“ĐẠO = TỰ NHIÊN = MỘT”

Tính chất “phương pháp luận tiếp cận hệ thống” (methodology of systematic approach) của Đạo thể hiện rất rõ trong bộ mã kiến trúc Phong thủy được trình bày theo 3 cấp quy ước : vĩ – trung – vi mô (micro – mezzo – macrocosm)
KTS. Frank L.Wright luôn coi Tự nhiên (Nature) là quyển kinh thánh gối đầu giường của ông. Ngôn ngữ kiến trúc hữu cơ (organic) của ông rất gần với Đạo. Ông gọi kiến trúc là một thứ “Thiên nhiên vừa vật chất, vừa xúc cảm”, một thứ thiên nhiên nhỏ nằm bên trong lòng bà mẹ thiên nhiên lớn bao trùm, che chở …

Bảng 1: Danh loại Âm – Dương


Âm


Dương


1

Vũ trụ luận Đất (Địa) Trời (Thiên)

2

Giới tính Nữ Nam

3

Không gian Sau / Phải / Cao
(Hậu) / (Hữu) / (Cao) Trước / Trái / Thấp
(Tiền) / (Tả) / (Đê) Lục không

4

Địa lý Bắc / Tây / Vĩ tuyến Nam / Đông / Kinh tuyến

5

Từ nguyên Vùng tối Vùng sáng So với mặt trời

6


Trạng thái – nhịp điệu

Tĩnh / Gián đoạn Động / Liên tục

7

Tính chất Mềm (Nhu) / Tiêu cực / Tán Cứng (Cương) / Tích cực / Tụ

8

Hệ thống Đóng / Đặc Mở / Rỗng

9

Môi trường khí hậu Lạnh / Ẩm / Tối Nóng / Khô / Sáng

10

Mùa / Thiên thể Thu / Đông
Mặt trăng (Nguyệt) Xuân / Hạ
Mặt trời (Nhật)

11

Hình dáng Dài / Nằm Ngắn / Đứng

12

Đường nét (2D) Ngay, Thẳng (Trực) Cong (Uốn khúc) Hình cấp 1 (2 điểm)

13

Đường cong (2D) Lõm Lồi

14

Mặt (2D) Phẳnng / Vuông Cong / Tròn

Hình cấp 2 (3 điểm)


15

Khối (3D) Lập phương Cầu phương

Hình cấp 3 (trên 4 điểm)


16

Toán học Hình học Số học

17

Hình học EUCLIDE RIEMANN

18

Số học Chẵn Lẻ

19

Màu sắc Đen / Tối Trắng / Sáng

20

Hướng / Chuyển động Xuống (Giáng)
Về phía sau, Phía phải / Ly tâm

Lên (Thăng)
Về phía trước, Phía trái / Hướng tâm


1.2. Mỹ học (tức Hình học Ngũ hành). Xin xem bảng (2) Danh loại Ngũ hành
Mỹ học phương Đông là mỹ học về 5 phương thức vận động của tự nhiên được mã hóa dưới 5 hình thể quen thuộc là Kim, Gỗ, Nước, Lửa, Đất. (So sánh với Tứ hành trong vũ trụ quan Ấn – Âu : Gió, Nước, Lửa, Đất).
Đạo vận động theo biện chứng vòng tròn âm dương, (tối và sáng, thẳng và cong, trước và sau, trái và phải, trên và dưới, lên và xuống, vào và ra, phá hủy và sáng tạo) thông qua 5 phương thức tương tác đồng thời, tuân thủ luật hấp dẫn vũ trụ bao gồm :
Δ 2 chuyển động thẳng có xu hướng đi lên (thăng/lên), tức từ thấp lên cao, như muốn chống/phản lại trọng trường. Ẩn dụ bằng hình là Cây (Mộc) và Lửa (Hỏa)
Δ 2 chuyển động cong có xu hướng đi xuống (giáng/xuống), tức từ cao xuống thấp, thuận theo chiều trọng trường. Ẩn dụ bằng hình là Nước (Thủy) và Kim (Kim)
Δ 1 chuyển động vô hướng, không thẳng không cong, không lên không xuống, mang tính chất điều hợp. Ẩn dụ bằng hình là mặt Đất (Thổ)
Ngũ hành đưa đến “ngũ hình”. Xét Hình như một hệ thống 3 cấp “đường – mặt – khối”, ta có :
  • Hội họa = đường + mặt = không gian 2D
  • Điêu khắc, Kiến trúc = đường + mặt + khối = không gian 3D
Ngoài ra ngũ hành còn đưa đến ngũ chất (vật liệu xây dựng) và ngũ sắc (5 màu cơ bản : xanh, đỏ, vàng, trắng, đen), v.v….
Ngũ hành vừa là từ vựng (vocabulary) vừa là cú pháp (syntax) trên đó người nghệ sĩ tạo hình phương Đông xây dựng mọi hình thái sáng tác nghệ thuật nhằm tái tạo lại trật tự thiên nhiên phù hợp, tương thích với mục đích mong muốn thông qua tác phẩm (nhân tạo) của mình. Đặc thù của phương pháp sáng tác này là sự mô phỏng, hoặc mô hình hóa thiên nhiên. Kiến trúc vì vậy có thể được coi như một thứ Địa phỏng sinh học (geobionics).

Bảng 2: Danh loại Ngũ hành




Mộc


Hỏa


Thổ


Kim


Thủy


Ghi chú

1 Hướng / chuyển động

Lên cao (Thăng)


Phía trái


Lên cao (Thăng)


Phía trước Bình hành Xuống thấp (Giáng)Phía phải Xuống thấp (Giáng)Phía sau 2 Không gian

Trái


Trước


Giữa / Trung tâm Điểm đứng

Phải Sau Lục không 3 Địa lý

Đông


Nam

Trung ương Tây Bắc 4 Thiên văn / Biểu tượng

Thanh Long
Loài có vảy


Chu Tước
Loài lông vũ

Trung cung
Loài da nhẵn Bạch Hổ
Loài lông mao Huyền Vũ
Loài có mai

Vật biểu Thú

5 Màu sắc

Xanh


Đỏ


Vàng

Trắng

Đen

6 Mùa / Thời tiết

Xuân


Hạ


Tứ quý

Thu Đông 7 Ngày đêm

Sáng


Trưa


-

Chiều Tối 8 Hình dáng

Đứng, Vươn cao


Xiên, chéo / Vươn cao


Bình hành, Nằm ngang

Uốn, Cong đều

Uốn, Gấp lượn sóng

9 Đường / Nét

Thẳng, đứng


Thẳng, nhọn, xiên


Thẳng

Cong đều

Cong bất định, ngoằn ngoèo

10 Mặt (2D)

Chữ nhật


Tam giác


Vuông

Tròn

Uốn (lồi, lõm) Cong

11 Khối (3D)

Lăng trụ


Chóp


Lập phương

Cầu Đa diện cong 12 Ngũ giác

Thị


Vị


Xúc

Khứu Thính
1.3. Khoa học (tức không gian cửu cung lạc thư)
1.3.1. BÁT QUÁI (văn hóa Phục Hy) = Tám vùng không gian quanh 1 tọa độ địa lý)
Xét 1 điểm bất kỳ trên bề mặt trái đất như điểm gốc O trong hệ thống tọa độ Descartes. Định hướng điểm này ta có bốn phương chính (trước, sau, trái, phải) và 4 phương phụ (4 vùng góc ở giữa từng cặp phương chính). Hai hướng không nói đến, dù vẫn tồn tại, là cặp lên / xuống biểu thị bằng cao trình / cao độ (khoa Phong thủy định nghĩa “cao một tấc là SƠN, thấp một tấc là THỦY). Điểm O trên bề mặt trái đất này không hề tĩnh tại (static), đứng yên, mà luôn luôn động đích (dynamic) chuyển động không ngừng nghỉ theo quỹ đạo của Trái đất trong hệ thống mặt trời, ngân hà và tất cả các thiên hà trong vũ trụ. Có thể nói có bao nhiêu điểm O thì có bấy nhiêu hệ thống. Và mỗi công trình kiến trúc đều là một trung tâm, hoặc một cái rốn của thế giới. Khổng Tử ngộ đạo Dịch khi ngồi ngắm dòng sông nước chảy liên miên, bất tuyệt. Dòng chảy này vận động theo quy luật của Đạo, có nhịp điệu thời gian, có quỹ đạo không gian, có thể học biết được, kiểm soát được, nghĩa là có khả năng giúp ích cho cuộc cư trú con người thông qua trình tự kiến trúc thông thường, tức khảo sát, thiết kế, thi công.
1.3.2. CỬU CUNG (văn hóa Đại Vũ) = chín vùng không gian địa lý
Là hình thái biểu hiện khác của Bát Quái, trong đó điểm gốc O chiếm một khối tích không gian bằng với 8 vùng không gian Bát quái chung quanh. Mô hình LẠC THƯ này khi áp dụng, trong tổ chức lãnh thổ và hành chánh quốc gia gọi là Cửu Châu, trong tổ chức sản xuất nông nghiệp là Cửu Điền (phép Tĩnh điền). Trong kiến trúc (Dương trạch) vùng không gian trung tâm là ngôi nhà trong thửa đất, là ngôi đình trong làng quê, là kinh thành trong đô thị.
1.3.3. TAM TÀI = Ba lớp không gian vây bọc quanh một cái lõi
Mỗi Quái trong Bát quái (gọi là quẻ đơn, hay đơn quái) đều gồm 3 hào đặt tên là 1,2,3 vừa biểu thị trình tự diễn biến của sự vật (quá khứ – hiện tại – tương lai) về mặt thời gian, vừa biểu thị tương quan giữa các sự vật (thấp – vừa – cao, trong – giữa – ngoài. Trước – giữa – sau, trái – giữa – phải, trên – giữa – dưới…) về mặt không gian. Trong đô thị là kết cấu thành quách tam trùng, tức 3 lớp không gian tính từ trong ra ngoài gồm: Cấm thành (tượng cho NGƯỜI), Hoàng thành (tượng cho ĐẤT), và Kinh thành (tượng cho TRỜI).
2. Lý luận Phong thủy
2.1. Tiên đề 1: Cấu hình người (MC) hay kết cấu nhân thể, tức phương thức sử dụng không gian tự nhiên
Trong thế giới động vật, người có tư thế đứng thẳng xu hướng phản lại trọng lực, não bộ không ngừng phát triển, tứ chi cực kỳ khéo léo, … Đôi mắt, cửa sổ của tâm hồn, nằm trên mặt phẳng (các loại động vật khác trên hình cầu), cự ly hẹp (khoảng cách giữa hai mắt bằng đúng bề rộng mắt), do đó thị trường hẹp (giả thuyết làm việc của người viết về tiết diện vàng M-m). Bù lại mắt người “tập trung” cao độ vào mục tiêu! Người được mô tả như con thú săn mồi nguy hiểm nhất. Hầu như toàn bộ giác quan – tức công cụ tiếp nhận thông tin từ thế giới bên ngoài – đều nằm trên đầu, hướng về phía trước (mắt, mũi, miệng) và hai bên (tai). Phía sau lưng trái lại, hoàn toàn không có khí quan. Như vậy con người chỉ cảm thấy an toàn (safety sensing) đối với vùng không gian phía trước, (Chu Tước), và phần nào hai bên trái và phải được bảo vệ bởi tứ chi (Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ). Vùng không gian phía sau (Huyền vũ) hoàn toàn bất an (unsafety sensing). Xu thế tự nhiên trong sử dụng không gian là dựa, tựa, đóng, khóa lại ở phía sau lưng (Bối Sơn) và mở, hướng ra ở phía trước (Diện Thủy), hai tay ôm vòng lại (Sơn hoàn, Thủy bảo). Như vậy Phong thủy bắt đầu từ sự quan sát và nghiên cứu chính bản thân con người.
2.2. Tiên đề 2: Cấu hình Đất (tức cấu hình SƠN – THỦY) và Trời (EC) tương thích
Các di chỉ khảo cổ cho thấy từ các thời đại đá con người đã biết chọn cho mình các hang động có địa thế lưng chừng đồi, núi (tránh lũ lụt) với cửa hang mở về hướng có ánh nắng mặt trời (nhiệt) và gió mùa (ẩm), với giòng nước phía trước, có địa chất, thủy văn, thổ nhưỡng, thảm thực vật và quần thể động vật tươi tốt … Đối với Việt Nam, Trung Quốc và các quốc gia phương Đông ở bán cầu Bắc, hướng tối ưu đó chính là hướng Nam và hướng Đông (đại khí hậu : macroclimate). Về sau khi rời bỏ nơi cư trú tự nhiên ban đầu, mở rộng không gian sinh tụ phát triển, họ vẫn áp dụng nguyên lý chọn đất tương tự : dựa vào thế núi (phương Bắc, hoặc phương Tây), mở ra thế sông, biển (phương Nam, hoặc phương Đông) để vừa tận dụng vừa khắc phục các điều kiện của thiên nhiên, của khí hậu, thời tiết. Như vậy : Phong thủy tiếp tục khảo sát và nghiên cứu thiên nhiên, đi tìm cấu hình Đất và Trời (thời tiết, khí hậu) tương thích với cấu hình Người.
2.3. Quy phạm chọn Đất xây dựng
Hai thành tố cơ bản đất và nước – xin đặc biệt nhấn mạnh ĐấtNước, không phải Gió (Phong) và Nước (Thủy), Người Việt Nam thích gọi đất nước mình là Sơn Thủy, Sơn Hà, Giang Sơn, Núi Sông – phối hợp thành 3 tiêu chí chủ đạo :

  • ĐẤT NƯỚC HỘI TỤ: hệ quy ước 3 cấp (tiểu, trung, đại tụ) gọi văn vẻ là Sơn Thủy hội tụ). Người Trung Quốc gọi là “Tương hình thủ thắng”, bao gồm 3 nguyên tắc: bối Sơn (dựa núi), diện Thủy (nhìn nước), hướng Dương (nắng, gió mùa thuận lợi).

  • ĐẤT LÀNH, NƯỚC TỐT: người Trung Quốc gọi “Tương thủy tương thổ” tức điều kiện địa chất, thổ nhưỡng và thủy văn tối ưu.

  • NGĂN GIÓ, TỤ NƯỚC (gió ở đây là gió độc hại): Người Trung Quốc gọi là “Tàng phong tụ thủy” (có sách viết là tụ khí, e rằng không chuẩn) tức cách chọn đất, hoặc phương thức cải tạo điều kiện địa hình tự nhiên, tùy theo địa thế ở vùng cao hay vùng đồng bằng (Sơn cốcBình dương). Đây chính là thuật chọn địa điểm xây dựng và “bí quyết công nghệ” (know-how) trong kiến trúc học Quách Phác.
2.4. Quy trình thiết kế kiến trúc đô thị
Δ Tổng quan: ngoài việc xét và chọn cấu hình Sơn Thủy phù hợp, việc định đô quan trọng ở chỗ ĐIỂM HUYỆT, tức xác định vị trí Trọng tâm của cuộc đất (Địa cục) và cao trình của điểm này để đặt công trình trọng điểm, tối yếu lên bên trên. Huyệt chính là nơi hội tụ sinh khí, nguyên khí của trời đất, của cảnh quan Sơn thủy, của một vùng không gian địa lý rộng lớn, bao gồm nhiều cấp (nhiều tầng, nhiều lớp phông cảnh quan gần, xa…). Trong đô thị phương Đông ở quy mô kinh đô, công trình này thường được gọi là Cấm thành và là hạt nhân trung tâm trong quần thể công trình tiên khởi của một đô thị (urban nucleus complex) bao quanh bởi các khu dân cư, chợ búa (nội thành ngoại thị). Kiến trúc Phong thủy vì vậy có thể được xem là thuật ĐỊA CHÂM (geoacupuncture) tương tự như khoa châm cứu trong y học phương Đông.
Δ Quy trình ba pha trong thiết kế đô thị:
Pha 1: TẦM LONG, tức xét địa mạch và chọn đất, đáp ứng các quy phạm xây dựng đô thị (Tiền hậu cao đê, mãn không và Tả hữu khinh trọng, doanh hư)
Pha 2: ĐIỂM HUYỆT, tức xác định vị trí đặt công trình trọng điểm.
Pha 3: LẬP HƯỚNG, kết cấu thành quách tam trùng với các quần thể công trình hạt nhân (gồm Cấm thành, Hoàng thành và Kinh thành) bố trí đăng đối qua một trục chính thường gọi là Trục thần đạo. Trục này được định hướng (orientate) theo PHƯƠNG TỐI ƯU Nam Bắc (Khảm – Ly), hoặc Tây Bắc – Đông Nam (Càn – Tốn). Kết cấu MỞ về phương Nam (Nam diện) cho phép từng công trình riêng lẻ, hoặc cả quần thể lớn, tiếp nhận mọi điều kiện tối ưu về môi trường tự nhiên (mặt trời, ánh nắng, ánh sáng, gió mùa, hệ sinh thái, v.v…) đồng thời khắc phục mọi điều kiện bất lợi từ phương Bắc (gió mùa Đông giá buốt, bóng tối, khí hậu sa mạc, băng giá, v.v…).
2.5. Quy trình thiết kế công trình kiến trúc
Kiến trúc là sự mô phỏng cấu hình Đất và Trời như đã nói bên trên, theo đó : “Trật tự vật thể nhân tạo (man-made) phản ảnh trật tự vật thể tự nhiên (natural) một cách HỢP LÝHỮU TÌNH”.
Đất = SƠN# công trình xây dựng, đơn lẽ hoặc quần thể (Tĩnh).
Nước = THỦY# luồng giao thông, đường xá, khoảng trống… (Động).
Kiến trúc SƠN THỦY phương Đông đánh giá cao tính chất XÚC CẢM (Sơn thủy hữu tình) trong nghệ thuật biểu hiện của nó.
3. Phong thủy ở nước ta
3.1. Lý thuyết hệ thống
3.1.1. Dương cơ nhỏ (Vi mô): Ngôi nhà dân gian (xin xem bảng 3)
Tục ngữ Việt Nam : “An cư lạc nghiệp”, “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng Nam”, “Trước ao, sau vườn”, “Trước cau, sau chuối” v.v… phản ánh trật tự và bố cục không gian theo Phong Thủy một cách giản dị, dễ làm, và ai cũng làm được.
Ngôi nhà dân gian truyền thống Việt Nam đơn sơ, bình dị, hợp lý, hợp tình đậm đà bản sắc dân tộc vừa là một thứ Địa phỏng sinh học, vừa hòa hợp với thiên nhiên (thiên nhiên nhỏ trong lòng thiên nhiên lớn tiểu vũ trụ trong lòng đại vũ trụ) … Mô hình một trưởng (majeur), một thứ (mineur) hoặc một trưởng, nhiều thứ này được nhân lên hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu bản ngày nay vẫn giữ nguyên vẹn tính tiên tiến, về nghệ thuật cũng như công nghệ xử lý khí hậu và môi trường mà nó có thể mang lại cho người Việt Nam qua bao thế hệ… Mô hình này vừa có điểm tương đồng, vừa có điểm dị biệt với mô hình nhà tứ hợp viên truyền thống của Trung Quốc. Tiến sĩ KTS. KEN YEANG, được giải thưởng UIA ‘XX 1999, chủ yếu do biết cách vận dụng luận điểm cơ bản về Phong thủy và “công nghệ truyền thống nhiệt đới” vào cao ốc mà ông gọi là sinh thái cho hợp với thời điểm cuối thế kỷ XX.

Bảng 3 – Dương cơ nhỏ


Không gian – Cảnh quan


Trước (TRƯỚC)


Sau (VŨ)


Trái (LONG)


Phải (HỔ)

Cận cảnh Sân trống / Ao / Sông, Suối nhỏ / Trồng cau Gò đất cao / Vườn cây ăn trái / Trồng chuối

Khoảng trống / Ao, Sông, Suối nhỏ / Trồng cây thấp


Gò đất cao / Công trình phụ / Lân cận


Viễn cảnh


Sông lớn, Hồ lớn / Núi đồi chầu, Triều về

Hồ lớn / Núi cao, Che chở / Chỗ dựa

Đồng bằng rộng / Sông lớn


Đồi núi cao / Rừng cây lớn


3.1.2. Dương cơ vừa (Trung mô): Ngôi đình làng quê
Là điểm hội tụ của tâm thức cộng đồng Việt, ngôi đình chiếm vị trí “đắc địa” nhất trong phong cảnh làng quê. Hưng thịnh, suy bại tương truyền do vị trí tọa lạc hoặc cách cục của ngôi đình xét trong mối tương quan, tương tác giữa nó với các vật thể tự nhiên (sông, núi, gò, đồi, cây xanh…) và nhân tạo khác vây quanh (cầu, đường, nha, cửa, chùa, miếu…)
3.1.3. Dương cơ lớn (Vĩ mô): Thị thành đô hội
Là điểm giao cắt của một vùng không gian lảnh thổ rộng lớn về nhiều mặt (giao thông, vận tải, nguồn tài lực, vật lực, nhân lực, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…) Dương cơ lớn xét về cách chọn đất, chọn địa điểm xây dựng, định đô, phân bố, tổ chức không gian… cũng không khác Dương cơ nhỏ và vừa. Quy mô khác mà lý thì vẫn một: lý nhất quán (nhất dĩ quán chi). Cũng sông, cũng núi, khác chăng là ở chỗ quy mô (scale).
3.2. Thực tiễn áp dụng: Ba điển cứu (case studies) Việt Nam qua 10 thế kỷ xây dựng đô thị.
  • Hà Nội: Thăng Long, Rồng bay từ bên trong (hữu ngạn) sông Hồng.
  • Huế: Phú Xuân, mùa Xuân thịnh vượng khởi động cho cuộc hành trình mở đất mở nước về phương Nam trù phú.
  • Sài Gòn: Chim Hồng và đường bay của chín con rồng phương Nam.
(Xin xem bảng (4): Khái quát hóa các đặc điểm chủ yếu của 2 thành phố cực phát triển nước ta là Hà Nội và Sài Gòn)

Bảng 4


Hệ thống vi mô


Hệ thống vĩ mô


Sơn


Thủy


Sơn


Thủy


HÀ NỘI


Núi Nùng, các gò đống nội thành


Sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Hồng, các hồ nội thành


Tam Đảo, Ba Vì, Hòa Bình…

Sông Hồng, sông Đà, sông Lô, sông Chảy,…

SÀI GÒN


Các giải gò từ cao (Gò Vấp) xuống thấp (Nhà Bè), từ Tây Bắc xuống Đông Nam


Rạch Bến Nghé
Sông Sài Gòn và các kênh rạch nội thành


Địa hình triền dốc từ Tây Ninh, Lâm Đồng xuống theo hướng Tây Bắc – Đông Nam đến Duyên Hải


2 hệ thống sông Sài Gòn – Đồng Nai (Thanh Long) và Vàm Cỏ Đông – Vàm Cỏ Tây (Bạch Hổ)


.
PHẦN C: NHÌN VỀ PHÍA TRƯỚC

1. Biết có biết không?
Bàn về mối lương duyên kỳ ngộ giữa Đông – Tây, người thì bảo có, kẻ lại nói không. Rudyard Kipling (nhà văn thực dân người Anh) và đồng nghiệp Marcel Breuer (KTS. Đức, người duy lý số một của trường Bauhaus) thì bảo rằng không, thậm chí không đời nào. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (nhà thơ Việt Nam cực kỳ đam mê sơn thủy) và đồng nghiệp Frank Lloyd Wright (KTS. người Mỹ, ông trùm của trường phái kiến trúc hữu cơ) thì bảo rằng có, thậm chí có quá đi chớ… Gặp nhau ở đâu? Ở chỗ mà KTS. Eero Saarinen gọi là “Thống nhất trong dị biệt” (Unity within diversity). Lúc nào? Thời gian và môi trường sinh thái toàn cầu đang kêu cứu khẩn thiết. Không phải ngay đầu thế kỷ XXI thì còn lúc nào nữa ?
2. Thử nhảy điệu Samba

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


2.1. Bản hòa tấu Brasilia (xin xem hình 1)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

là một đô thị hoàn toàn “nhân tạo”, một thành phố không quá khứ (hiểu như hình thành bắt đầu từ các quần cư nhỏ phát triển lên), được thực hiện trong một thời gian cực ngắn mà mục đích chiến lược là khai thác nguồn tài nguyên tự nhiên nằm sâu trong lục địa Amazone để phát triển kinh tế đất nước.
Xét dưới lăng kính Phong thủy về hình thể và cách thức Lucio Costa tổ chức không gian đô thị, ta có:
- “Bối sơn, diện thủy”: địa hình chuyển từ cao (sân bay và đường vòng đai chính) xuống thấp (hồ nước rất lớn và đẹp). Hai bên vai của khu sân bay là hai dãy đồi ôm bọc lấy khu trung ương giống như một chiếc móng ngựa, trên đó bố trí các chùm biệt thự thấp tầng. Thuật ngữ Phong thủy gọi 2 cánh tay này là Thanh Long (trái) và Bạch Hổ (phải).
- Trên trục hoành (decumanus) có hình dạng cong như cánh cung hướng về phía hồ lớn (điểm tụ thủy) là các quần thể chung cư thấp tầng mở ra hồ này.
- Trên trục tung (cardo) chính giữa (tức Thần đạo) tập trung toàn bộ các công trình công cộng, phục vụ đô thị… đặc biệt ở vị trí buồng lái (cockpit) của chiếc máy bay phản lực hướng về phía hồ này, Costa đặt tòa nhà quốc hội Brasil, tức cơ quan quyền lực cao nhất của Đất nước lên bên trên. Tương tự như Cố cung ở Bắc Kinh nhưng quyền lực dân chủ đã thay thế cho chế độ quân chủ tập quyền xưa kia.
2.2. Tấu khúc tòa nhà Quốc hội (xin xem hình 2)

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Quảng trường Tam quyền và công trình tòa nhà Quốc hội Brasil (Congresso Brasilia) do cậu học trò ngổ nghịch của Lucio Costa là Oscar Niemeyer thiết kế. Cái trò chơi hình khối (jeu de volumes) đơn giản và tuyệt diệu của toà nhà này có thể được giải mã dưới lăng kính và bộ từ vựng ngũ hình của Phong thủy như sau: Một khối tháp hình hộp sừng sững ngay giữa trục trọng tâm nơi làm việc của lưỡng viện Quốc hội (hình Mộc). Hai bên phía trước đối xứng qua khối tháp là 2 hình cầu phân (1 xấp, 1 ngữa), hội trường của Thương và Hạ viện (hình Kim). Toàn bộ 3 khối trên đang đặt trên 1 “nền” ngang nâng đỡ bám vững vào nền đất (hình Thổ). Thổ và Kim hài hòa. Mộc và Kim tương phản. Mộc và Thổ tương phản. Công năng hợp lý + Xúc cảm mạnh mẽ. Có thể tóm gọn công trình này vào vài từ khái quát như vậy?
3. Thông điệp thầm kín
3.1. Sao cho phải đạo?
Theo đồng nghiệp khả kính KTS. AMOS RAPOPORT (trong House Form & Culture) lịch sử nhân loại nói chung và kiến trúc nói riêng, cho thấy ba thái độ ứng xử của con người đối với thiên nhiên. Thứ nhất là THẦN BÍ (mystic), đặc trưng của thời kỳ thái cổ trong đó con người thờ phụng thiên nhiên một cách mù quáng như con cái đối với bố mẹ (thời kỳ Dương lấn Âm). Thứ hai là CỘNG SINH (symbiotic) tức giai đoạn kế tiếp, trong đó con người hiểu rõ thiên nhiên hơn, không còn thần phục tuyệt đối nữa mà cùng tồn tại và yêu đương thắm thiết như vợ với chồng (thời kỳ Âm Dương đề huề). Cuối cùng là THỰC DỤNG (utilitarian) tương ứng với thời kỳ cận đại (phương Tây) và hiện đại (cả Tây lẫn Đông), trong đó con người sau khi ngộ tưởng mình nắm rõ mọi quy luật của tạo hóa sinh ra kiêu ngạo, bội bạc, khai thác, tàn phá tự nhiên một cách phủ phàng, không thương xót…
3.2. Chớ tìm Ngọ lúc nửa đêm
Vậy thì trong thời đại ngày nay, chúng ta nên chọn thái độ ứng xử nào ? Không kể thái độ thứ nhất đã thuộc về thời thái cổ, trước kia cả Đông lẫn Tây đều chọn thái độ thứ hai. Cận đại thì Tây đi theo con đường thực dụng, vô tình, tàn nhẫn đang có xu hướng dẫn tới ngõ cụt. Đông nghèo khổ, lạc hậu, tưởng rằng chỉ có Tây là tiên tiến, là hiện đại, dồn tâm, dồn sức, dồn lực, đuổi theo. Đến khi gần đụng bức tường thế kỷ XXI… lúc thiên nhiên bắt đầu thực hiện luật nhân quả – và bị gọi một cách oan uổng là “trả thù” – bằng lũ lụt, bảo tố, hạn hán, ô nhiểm môi trường, ôzôn, El Nino, La Nina …, anh hàng thịt cảm thấy phát hoảng, muốn dừng mà chẳng biết làm sao. Ngoái đầu nhìn lại phía sau, xem ông bạn Trương Ba già nua đồng hội đồng xuồng, có phương kế khả thi gì không, thì … than ôi, bác ta cũng đang bậm môi, trợn mắt, đuổi tới cận kề … như muốn ôm nhau cùng lao xuống vực… Hội nghị môi trường toàn cầu tại Rio de Janeiro chỉ ra được điều gì nếu không phải là sự lầm đường lạc lối của cả hai. Muốn tìm Ngọ lại không chọn lúc tan trường, mà đi thắp đuốc giữa canh khuya.
(Xin “tham khảo” diện mạo kiến trúc thế kỷ XX dưới mắt đồng nghiệp Balan, KTS. KRZYSZTOF CHLWALIBOG tại Đại hội UIA ‘XX :
“Kiến trúc hiện đại thế kỷ XX ư ? Làm biến dạng cảnh quan truyền thống và lịch sử. Tàn phá môi truờng sinh thái ở các nước kém may mắn. Sản sinh cái giống hệt, thứ đồng phục có tên là International, đặt ở lục địa nào cũng được. Gây ấn tượng sai lạc về một thứ công nghệ cao toàn cầu hào nhoáng. Chưa phải hết : làm thoái hóa thậm chí biến mất các giá trị văn hóa-xã hội-cộng đồng …)
3.3. Con đường xưa em đi
Đạo cũng có nghĩa là ĐƯỜNG. Đường nào ? Còn con đường nào khác ngoài con đường xưa em đi. Con đường không tên số 2. Con đường chính giữa mà phương Đông gọi là trung đạo (midway) và phương Tây ngày nay gọi là Enviromental Ethics (đạo lý môi trường). Nói cách khác con đường cộng sinh, trong đó NGƯỜI cùng với TRỜIĐẤT hợp thành một thể thống nhất, bất khả phân ly, một hệ thống không ngừng vận động nhưng vẫn luôn giữ trạng thái cân bằng (Dynamic Balance), quân bình (Equilibrum) một cách duyên dáng và giản dị. Thông điệp của kiến trúc phương Đông luôn là lời nhắn gởi thầm lặng về ĐẠO, về con Đường.
3.4. Nguyễn An, ông là ai xin hỏi?
Tương truyền ông là một tài năng xây dựng kiệt xuất người Việt Nam, đã chủ trì một số hạng mục công trình trọng điểm ở Cố Cung, Bắc Kinh vào thời Minh. Giỏi cả công việc trị thủy, người viết tin rằng ông còn am hiểu cả Phong thủy chớ không chỉ đơn thuần là người thợ khéo theo truyền thống Lỗ Ban, nhà xây dựng kỳ tài của Trung Quốc.
Dù sao, sự kiện hàng trăm Nguyễn An có mặt tại Đại hội UIA ‘XXI tháng 6 vừa qua, xin được lập lại lần nữa, là một tín hiệu đáng mừng cho tiền đồ kiến trúc đất nước. Nước đến chân không có nghĩa quá muộn. Hiểu người, biết mình, đồng lòng, dốc sức, chúng ta hoàn toàn có quyền hy vọng về sự PHỤC SINH của một nền kiến trúc Việt Nam tương lai tiên tiến và đậm đà bản sắc VIỆT. Phải vậy không xin thưa cùng quý đồng nghiệp thân ái, đặc biệt quý đồng nghiệp trẻ mà tôi luôn đặt vào đó tất cả niềm tin và hy vọng.
KTS. LÝ THÁI SƠN
Tái bút: Tháng 7/1999 người viết nhận được một tin vui nhỏ. KTS. KEN YEANG qua e-mail bày tỏ sự tán đồng hầu hết các luận điểm trình bày của người viết. Trên tinh thần đó, rất mong có nhiều đồng nghiệp rất xứng đáng của nước ta sẽ cùng cất tiếng tại Diễn đàn UIA ‘XXI – Berlin, năm 2002, nói về nền kiến trúc không chỉ của đất nước mình, mà còn về một nền kiến trúc MINH TRIẾT tương lai xứng danh.

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

4 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 4 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |