5
831 replies to this topic
#796
Gửi vào 03/07/2014 - 21:38
12. THÁP ĐA BẢO
Xưa thật là xưa, giữa chùa Phổ Tế và động Phạm Âm có một bãi cát rất dài, mặt đưa ra ngoài biển chính là Bách Bộ sa ngày nay. Khi thủy triều lên thì sóng biển vọt cao lên tới trước cửa chùa Phổ Tế. Đến mùa nước lũ tháng tám thì sóng còn cao hơn thế nữa.
Có một năm nọ, vị hoàng thái tử đương triều đến Phổ Đà Sơn dâng hương cúng dường Bồ Tát Quán Âm. Hôm ấy rơi đúng vào ngày lễ trung thu tháng 8, hoàng thái tử ngồi trước cửa Đại Viên Thông điện, ngắm trăng, nghe sóng vỗ. Bỗng nhiên một trận cuồng phong nổi lên xô ngã thái tử, ngay cả cái mũ cũng bị gió thổi rơi xuống biển. Thái tử kinh hãi hỏi vị hòa thượng trụ trì:
– Gió sao lại thổi mạnh đến thế, có yêu quái gì gây ra nông nỗi?
Vị hòa thượng trụ trì đáp rằng:
– Ở dưới bãi cát trước cửa chùa có một con rồng nhỏ. Con rồng này ban đầu ở trong biển, thường hay nhảy lên cao rồi lặn xuống đáy làm cho sóng to gió lớn, bị thần hộ pháp quất cho một roi gãy xương sống, nên mới chui xuống bãi cát tịnh dưỡng vết thương. Có khi nó hắt hơi, lăn lộn hay duỗi chân cho khoan khoái, hễ nó động đậy thì trên núi liền nổi gió, trên biển liền nổi sóng, thật là làm tình làm tội người ta!
Thái tử nói:
– Đúng là nghiệt súc! Có cách nào giữ cho nó nằm yên không?
Hoà thượng trụ trì đáp:
– Muốn cho con nghiệt súc ấy nằm yên không có gì khó, chỉ cần xây một tòa bảo tháp là xong!
Thái tử nghe thế vui mừng nói:
– Thế thì quá tốt, tôi về tâu việc này lên cho phụ vương rõ, rồi truyền chỉ xây tháp, giữ con nghiệt súc nằm yên!
Hòa thượng trụ trì liền chắp tay thi lễ:
– Thái tử vui lòng xây tháp, thật là Bồ Tát hộ trì!
Hôm sau Hòa thượng trụ trì đưa một số người thợ nề, thợ đá đến bãi cát, bốc một nắm cát bùn đưa lên mũi ngửi, cúi rạp người xuống dán lỗ tai lên cát nghe ngóng, từ đông sang tây, từ tây sang đông, đi tới đi lui. Cuối cùng, ngài đến cửa núi Phạm Sơn không xa Bách Bộ sa, lấy thiền trượng vẽ lên một vòng tròn và nói:
– Đây là chỗ xây tháp!
Hoàng thái tử tỏ vẻ không hiểu, vị trụ trì bèn giải thích rằng:
– Muốn xây tháp trấn rồng thì phải xây đúng tại chỗ yết hầu của nó tính lên bảy tấc.
Hoàng thái tử nghe thầy trụ trì nói có lý, bèn phái một ông quan áo vàng lưu lại Phổ Đà Sơn trông coi việc xây cất bảo tháp, còn mình thì trở về kinh.
Trọn một năm trời trôi qua, một tòa tháp bốn góc xinh xắn được xây lên, đó chính là tháp Đa Bảo hiện nay vậy. Vì tháp này do một vị thái tử triều nhà Nguyên cúng dường việc xây cất nên cũng có tên là tháp Thái Tử.
Hôm ấy tháp vừa xây xong xuôi, cũng rơi đúng vào ngày lễ trung thu, con rồng nhỏ cũng vừa mới tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài. Nó tính duỗi chân, trườn mình cho thư thái thân rồng, nhưng nó cảm thấy toàn thân không được tự tại, bèn mở to mắt rồng xem xét, thấy có bốn cây cột trụ vừa to vừa dài kềm chặt đầu cuống họng, khiến cho nó không có cách nào động đậy. Nó cảm thấy nóng nảy vô cùng, muốn lấy sừng rồng húc gãy cột trụ nhưng phía trên lại có một cuốn kinh Pháp Hoa trấn giữ, cho nên nó húc thế nào đi nữa cũng không vùng vẫy được.
Nó bèn nổi giận, hất đầu rồng, hắt hơi thật mạnh, một trận cuồng phong bèn nổi lên cuốn đỉnh tháp xuống biển. Thấy thân tháp cũng gần muốn xiêu đổ, vị quan thái giám áo vàng lo sợ vô cùng, vội chạy đi tìm hòa thượng trụ trì.
Đúng ngay lúc ấy, đột nhiên trong viện sau của thiền tự có ánh sáng vàng chiếu lên rực rỡ, một gian phòng từ trước đến nay vốn bị bỏ trống khóa chặt bỗng bật mở, khóa rơi xuống đất. Mọi người chạy lên xem, bên trong thấy có một bàn thờ Phật, trên bàn có đài sen báu, trên đài sen chỉ có một bình bát bằng lưu ly đang phóng ánh sáng vàng, trên bát có đắp một giải lụa vàng với hàng chữ: “Đa Bảo tháp trấn nghiệt long, lưu ly bát bình yêu khí” (Đa Bảo tháp trấn giữ nghiệt long, bình bát lưu ly dẹp trừ yêu khí).
Vị hoà thượng trụ trì thấy thế vội bưng cái bình bát lưu ly, cứ ba bước lễ một lễ, lên tới tháp Đa Bảo, đặt bát lưu ly lên đỉnh tháp. Thật là kỳ lạ, sóng gió lập tức lặng yên và tháp Đa Bảo không còn lung lay nữa. Từ đó, nước thủy triều chỉ dâng lên đến Bách Bộ Sa là ngừng,
Xưa thật là xưa, giữa chùa Phổ Tế và động Phạm Âm có một bãi cát rất dài, mặt đưa ra ngoài biển chính là Bách Bộ sa ngày nay. Khi thủy triều lên thì sóng biển vọt cao lên tới trước cửa chùa Phổ Tế. Đến mùa nước lũ tháng tám thì sóng còn cao hơn thế nữa.
Có một năm nọ, vị hoàng thái tử đương triều đến Phổ Đà Sơn dâng hương cúng dường Bồ Tát Quán Âm. Hôm ấy rơi đúng vào ngày lễ trung thu tháng 8, hoàng thái tử ngồi trước cửa Đại Viên Thông điện, ngắm trăng, nghe sóng vỗ. Bỗng nhiên một trận cuồng phong nổi lên xô ngã thái tử, ngay cả cái mũ cũng bị gió thổi rơi xuống biển. Thái tử kinh hãi hỏi vị hòa thượng trụ trì:
– Gió sao lại thổi mạnh đến thế, có yêu quái gì gây ra nông nỗi?
Vị hòa thượng trụ trì đáp rằng:
– Ở dưới bãi cát trước cửa chùa có một con rồng nhỏ. Con rồng này ban đầu ở trong biển, thường hay nhảy lên cao rồi lặn xuống đáy làm cho sóng to gió lớn, bị thần hộ pháp quất cho một roi gãy xương sống, nên mới chui xuống bãi cát tịnh dưỡng vết thương. Có khi nó hắt hơi, lăn lộn hay duỗi chân cho khoan khoái, hễ nó động đậy thì trên núi liền nổi gió, trên biển liền nổi sóng, thật là làm tình làm tội người ta!
Thái tử nói:
– Đúng là nghiệt súc! Có cách nào giữ cho nó nằm yên không?
Hoà thượng trụ trì đáp:
– Muốn cho con nghiệt súc ấy nằm yên không có gì khó, chỉ cần xây một tòa bảo tháp là xong!
Thái tử nghe thế vui mừng nói:
– Thế thì quá tốt, tôi về tâu việc này lên cho phụ vương rõ, rồi truyền chỉ xây tháp, giữ con nghiệt súc nằm yên!
Hòa thượng trụ trì liền chắp tay thi lễ:
– Thái tử vui lòng xây tháp, thật là Bồ Tát hộ trì!
Hôm sau Hòa thượng trụ trì đưa một số người thợ nề, thợ đá đến bãi cát, bốc một nắm cát bùn đưa lên mũi ngửi, cúi rạp người xuống dán lỗ tai lên cát nghe ngóng, từ đông sang tây, từ tây sang đông, đi tới đi lui. Cuối cùng, ngài đến cửa núi Phạm Sơn không xa Bách Bộ sa, lấy thiền trượng vẽ lên một vòng tròn và nói:
– Đây là chỗ xây tháp!
Hoàng thái tử tỏ vẻ không hiểu, vị trụ trì bèn giải thích rằng:
– Muốn xây tháp trấn rồng thì phải xây đúng tại chỗ yết hầu của nó tính lên bảy tấc.
Hoàng thái tử nghe thầy trụ trì nói có lý, bèn phái một ông quan áo vàng lưu lại Phổ Đà Sơn trông coi việc xây cất bảo tháp, còn mình thì trở về kinh.
Trọn một năm trời trôi qua, một tòa tháp bốn góc xinh xắn được xây lên, đó chính là tháp Đa Bảo hiện nay vậy. Vì tháp này do một vị thái tử triều nhà Nguyên cúng dường việc xây cất nên cũng có tên là tháp Thái Tử.
Hôm ấy tháp vừa xây xong xuôi, cũng rơi đúng vào ngày lễ trung thu, con rồng nhỏ cũng vừa mới tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài. Nó tính duỗi chân, trườn mình cho thư thái thân rồng, nhưng nó cảm thấy toàn thân không được tự tại, bèn mở to mắt rồng xem xét, thấy có bốn cây cột trụ vừa to vừa dài kềm chặt đầu cuống họng, khiến cho nó không có cách nào động đậy. Nó cảm thấy nóng nảy vô cùng, muốn lấy sừng rồng húc gãy cột trụ nhưng phía trên lại có một cuốn kinh Pháp Hoa trấn giữ, cho nên nó húc thế nào đi nữa cũng không vùng vẫy được.
Nó bèn nổi giận, hất đầu rồng, hắt hơi thật mạnh, một trận cuồng phong bèn nổi lên cuốn đỉnh tháp xuống biển. Thấy thân tháp cũng gần muốn xiêu đổ, vị quan thái giám áo vàng lo sợ vô cùng, vội chạy đi tìm hòa thượng trụ trì.
Đúng ngay lúc ấy, đột nhiên trong viện sau của thiền tự có ánh sáng vàng chiếu lên rực rỡ, một gian phòng từ trước đến nay vốn bị bỏ trống khóa chặt bỗng bật mở, khóa rơi xuống đất. Mọi người chạy lên xem, bên trong thấy có một bàn thờ Phật, trên bàn có đài sen báu, trên đài sen chỉ có một bình bát bằng lưu ly đang phóng ánh sáng vàng, trên bát có đắp một giải lụa vàng với hàng chữ: “Đa Bảo tháp trấn nghiệt long, lưu ly bát bình yêu khí” (Đa Bảo tháp trấn giữ nghiệt long, bình bát lưu ly dẹp trừ yêu khí).
Vị hoà thượng trụ trì thấy thế vội bưng cái bình bát lưu ly, cứ ba bước lễ một lễ, lên tới tháp Đa Bảo, đặt bát lưu ly lên đỉnh tháp. Thật là kỳ lạ, sóng gió lập tức lặng yên và tháp Đa Bảo không còn lung lay nữa. Từ đó, nước thủy triều chỉ dâng lên đến Bách Bộ Sa là ngừng,
#797
Gửi vào 04/07/2014 - 02:55
13. HAI RÙA NGHE PHÁP
Trên một dốc núi gần Bàn Đà Thạch ở Tây Thiên có hai hòn đá hình dáng giống hai con rùa biển, được người ta đặt tên là đá hai rùa nghe Pháp. Có người đã viết về hai con rùa đá mấy câu thơ như sau:
Thuở xưa nghe đất Bàn Đà linh,
Muôn loài từng ở đấy nghe Kinh.
Vì sao hai rùa phải hóa đá?
Hay vì trộm Pháp bởi tư tình?
Tương truyền vào thuở xưa thật là xưa, trên núi Phổ Đà chưa có tăng có tục và chùa chiền, Ngài Quán Âm tu hành một mình, cứ đêm đêm đoan tọa trên tảng đá Bàn Đà tụng kinh. Trong những đêm trăng sáng rực rỡ, dưới ánh nguyệt lung linh giọng của Ngài càng thêm truyền cảm, hấp dẫn nên lôi cuốn hết tất cả thú vật chim chóc trên núi cũng như cá tôm rùa ốc dưới biển. Cứ mỗi lần Ngài Quán Âm tụng kinh là chúng túa đến bao vây tảng đá Bàn Đà, Ngài chưa đi thì chúng cũng chưa về.
Tin này truyền đến long cung dưới đáy biển, khiến Long vương lấy làm quái lạ. Một đêm nọ, Long vương lén đến biển Liên Hoa, quả nhiên thấy rất nhiều loài thủy tộc đang say sưa, mê mẩn ngẩng đầu nghe Bồ Tát Quán Âm tụng kinh. Long vương nghĩ rằng:
– Quán Âm Đại sĩ đang tụng kinh gì khiến cho loài thủy tộc động lòng đến dường ấy? Nếu lấy được kinh này đem về Thủy Tinh cung mà đọc, biết đâu các loài thủy tộc sẽ phục tòng ta hơn?
Càng nghĩ Long vương càng đẹp dạ, khoái trá, bèn trở về Thủy Tinh cung và lập tức triệu thừa tướng Rùa đến hầu, truyền cho ông ta làm sao lấy về cho được bộ kinh mà Ngài Quán Âm đang tụng. Thừa tướng Rùa duỗi dài cổ ra, vỗ ngực bẩm Long vương rằng:
– Ý kiến của bệ hạ thật là tuyệt diệu! Thần xin bảo đảm với bệ hạ rằng sau 81 ngày, thần sẽ lấy trộm được bộ kinh ấy đem về đây hiến dâng cho bệ hạ!
Trong đám thuộc hạ của thừa tướng Rùa có hai con rùa biển trí nhớ rất tốt, thừa tướng bèn truyền lệnh cho chúng mỗi chiều phải lén đi nghe Bồ Tát Quán Âm tụng kinh, cho đến khi trời sáng mới được về long cung phục mệnh.
Hai con rùa vâng lệnh đi nghe lén kinh. Ban đầu chúng chỉ đến biển Liên Hoa, lẫn lộn trong đám cá tôm, nhô đầu lên im lặng ghi nhớ thuộc lòng, nhưng về sau càng nghe càng thấm, bèn dần dần xích lại gần Quán Âm động. Đến đêm thứ 81, chúng lại càng bò đến gần tảng đá Bàn Đà hơn khiến cho chim muông thú vật đang đứng trên dốc núi lúc ấy phải hoảng sợ, con thì bay, con thì chạy, náo động hẳn lên.
Trên tảng đá Bàn Đà, Bồ Tát Quán Âm chỉ cần nhìn lướt qua hai con rùa liền biết ngay đấy là mật thám của Long Vương sai đến trộm kinh, bất giác nhè nhẹ mỉm cười, tiếng tụng kinh của Ngài nghe càng êm ái hơn, lôi cuốn hơn. Hai anh chàng rùa nghe mê say đến nỗi tiếng mõ canh tư không nghe thấy, qua đến tiếng mõ canh năm cũng chẳng nhúc nhích, mà trời hừng sáng rồi chúng cũng không động đậy. Chuyện gì đã xảy ra vậy?
Số là Ngài Quán Âm vốn luôn luôn chủ trương chúng sinh bình đẳng, bây giờ Long vương muốn hai con rùa đến trộm kinh, chỉ với dụng ý muốn dùng kinh làm khí giới để chế ngự các loài thủy tộc. Điều này hoàn toàn ngược lại với tôn chỉ của nhà Phật, làm sao Bồ Tát Quán Âm lại cho Long vương toại ý được?
Do đó trong lúc tụng kinh, Ngài đã phương tiện dùng chút pháp thuật điểm hai con rùa khiến chúng đứng yên. Vì thế, từ đó trở đi chúng cứ giữ nguyên tư thế của mình, con thì duỗi cổ, con thì ngóc đầu.
Long vương và thừa tướng Rùa ngồi dưới Thủy Tinh cung khoái trá đợi hai con rùa đem kinh về, nhưng đợi hoài đợi mãi mà không thấy chúng về. Họ nào có biết là hai con rùa đã hóa đá rồi!
Trên một dốc núi gần Bàn Đà Thạch ở Tây Thiên có hai hòn đá hình dáng giống hai con rùa biển, được người ta đặt tên là đá hai rùa nghe Pháp. Có người đã viết về hai con rùa đá mấy câu thơ như sau:
Thuở xưa nghe đất Bàn Đà linh,
Muôn loài từng ở đấy nghe Kinh.
Vì sao hai rùa phải hóa đá?
Hay vì trộm Pháp bởi tư tình?
Tương truyền vào thuở xưa thật là xưa, trên núi Phổ Đà chưa có tăng có tục và chùa chiền, Ngài Quán Âm tu hành một mình, cứ đêm đêm đoan tọa trên tảng đá Bàn Đà tụng kinh. Trong những đêm trăng sáng rực rỡ, dưới ánh nguyệt lung linh giọng của Ngài càng thêm truyền cảm, hấp dẫn nên lôi cuốn hết tất cả thú vật chim chóc trên núi cũng như cá tôm rùa ốc dưới biển. Cứ mỗi lần Ngài Quán Âm tụng kinh là chúng túa đến bao vây tảng đá Bàn Đà, Ngài chưa đi thì chúng cũng chưa về.
Tin này truyền đến long cung dưới đáy biển, khiến Long vương lấy làm quái lạ. Một đêm nọ, Long vương lén đến biển Liên Hoa, quả nhiên thấy rất nhiều loài thủy tộc đang say sưa, mê mẩn ngẩng đầu nghe Bồ Tát Quán Âm tụng kinh. Long vương nghĩ rằng:
– Quán Âm Đại sĩ đang tụng kinh gì khiến cho loài thủy tộc động lòng đến dường ấy? Nếu lấy được kinh này đem về Thủy Tinh cung mà đọc, biết đâu các loài thủy tộc sẽ phục tòng ta hơn?
Càng nghĩ Long vương càng đẹp dạ, khoái trá, bèn trở về Thủy Tinh cung và lập tức triệu thừa tướng Rùa đến hầu, truyền cho ông ta làm sao lấy về cho được bộ kinh mà Ngài Quán Âm đang tụng. Thừa tướng Rùa duỗi dài cổ ra, vỗ ngực bẩm Long vương rằng:
– Ý kiến của bệ hạ thật là tuyệt diệu! Thần xin bảo đảm với bệ hạ rằng sau 81 ngày, thần sẽ lấy trộm được bộ kinh ấy đem về đây hiến dâng cho bệ hạ!
Trong đám thuộc hạ của thừa tướng Rùa có hai con rùa biển trí nhớ rất tốt, thừa tướng bèn truyền lệnh cho chúng mỗi chiều phải lén đi nghe Bồ Tát Quán Âm tụng kinh, cho đến khi trời sáng mới được về long cung phục mệnh.
Hai con rùa vâng lệnh đi nghe lén kinh. Ban đầu chúng chỉ đến biển Liên Hoa, lẫn lộn trong đám cá tôm, nhô đầu lên im lặng ghi nhớ thuộc lòng, nhưng về sau càng nghe càng thấm, bèn dần dần xích lại gần Quán Âm động. Đến đêm thứ 81, chúng lại càng bò đến gần tảng đá Bàn Đà hơn khiến cho chim muông thú vật đang đứng trên dốc núi lúc ấy phải hoảng sợ, con thì bay, con thì chạy, náo động hẳn lên.
Trên tảng đá Bàn Đà, Bồ Tát Quán Âm chỉ cần nhìn lướt qua hai con rùa liền biết ngay đấy là mật thám của Long Vương sai đến trộm kinh, bất giác nhè nhẹ mỉm cười, tiếng tụng kinh của Ngài nghe càng êm ái hơn, lôi cuốn hơn. Hai anh chàng rùa nghe mê say đến nỗi tiếng mõ canh tư không nghe thấy, qua đến tiếng mõ canh năm cũng chẳng nhúc nhích, mà trời hừng sáng rồi chúng cũng không động đậy. Chuyện gì đã xảy ra vậy?
Số là Ngài Quán Âm vốn luôn luôn chủ trương chúng sinh bình đẳng, bây giờ Long vương muốn hai con rùa đến trộm kinh, chỉ với dụng ý muốn dùng kinh làm khí giới để chế ngự các loài thủy tộc. Điều này hoàn toàn ngược lại với tôn chỉ của nhà Phật, làm sao Bồ Tát Quán Âm lại cho Long vương toại ý được?
Do đó trong lúc tụng kinh, Ngài đã phương tiện dùng chút pháp thuật điểm hai con rùa khiến chúng đứng yên. Vì thế, từ đó trở đi chúng cứ giữ nguyên tư thế của mình, con thì duỗi cổ, con thì ngóc đầu.
Long vương và thừa tướng Rùa ngồi dưới Thủy Tinh cung khoái trá đợi hai con rùa đem kinh về, nhưng đợi hoài đợi mãi mà không thấy chúng về. Họ nào có biết là hai con rùa đã hóa đá rồi!
#798
Gửi vào 04/07/2014 - 06:57
14. ĐÀI THIÊN ĐĂNG
Lúc ban đầu, Phật Đỉnh Sơn không có chùa chiền, chỉ có một cái đình bằng đá nhỏ xíu. Trong am Duyệt Lĩnh có một chú sa di tên là Viên Huệ vừa đúng 15 tuổi. Mỗi ngày chú đều trèo lên Phật Đỉnh Sơn đốn củi. Từ sáng sớm chú đã lên tới đỉnh núi, trời tối mịt mới trở về am, trong ngày khi mệt thì ngồi nghỉ trong cái đình bằng đá, cứ thế mãi không bao giờ gián đoạn.
Có một buổi trưa nọ trời oi bức lạ thường, Viên Huệ ngồi trong đình hóng mát, ngẩng đầu lên nhìn ra xa, thấy trên mặt biển mây trời sắc màu lộng lẫy thật là huy hoàng. Một đoàn chim biển từ xa bay đến, xoay tròn trên Phật Đỉnh Sơn thật lâu như không muốn rời xa. Ngắm những cảnh tượng ấy, Viên Huệ như có ý nghĩ riêng tư gì, chú nghĩ:
– Phật Đỉnh Sơn đối diện với biển rộng, đẹp như tiên cảnh, giá như xây được mái chùa trên này thì không những hấp dẫn được hàng vạn hàng ngàn du khách hành hương mà còn có thể tăng thêm phần tráng lệ cho Nam Hải Phật quốc này.
Ý nghĩ này như mọc rễ trong tâm chú, thế là chú vội vàng thu xếp gánh củi rồi gấp rút trở về am Duyệt Lĩnh, mới vào cửa đã nói ầm lên:
– Sư Phụ, con đã thấy ánh sáng của Phật trên Phật Đỉnh Sơn! Đó là một mảnh đất lành, mình phải cất ngôi chùa lớn trên ấy mới được!
Vị hoà thượng đương gia không đồng ý, đáp rằng:
– Tuy Phật Đỉnh Sơn quả thật là một vùng đất quý, nhưng dễ gì mà cất ngôi chùa lớn trên ấy? Nào ngói, nào gạch, nào gỗ, lấy ở đâu ra?
Viên Huệ chớp chớp mắt trả lời:
– Đệ tử nguyện đi bốn phương hoá duyên.
Vị hòa thượng già nhìn Viên Huệ, vừa tò mò lại vừa cảm thấy buồn cười, bèn nói bừa rằng:
– Con mà hóa duyên xây được chùa thì thầy nguyện sẽ nhóm lửa thổi cơm cho con làm trụ trì trong ba năm.
Viên Huệ liền xin thầy một bộ cà sa cũ và một cái mõ, rồi rời Phổ Đà Sơn lên đường đi hóa duyên.
Qua biển rồi, chú lênh đênh vượt suối băng ngàn, lên thác xuống ghềnh, ngày đi đêm nghỉ, đi hết 6 tháng mới đến tỉnh Phúc Kiến.
Một hôm, chú đi theo con đường mòn khúc khuỷu, băng qua một quả núi, quẹo qua một chỗ ngoặt thì đột nhiên thấy một ngôi làng, đằng trước là biển, đằng sau là một dãy núi cao. Chú đi nghe ngóng một hồi thì biết rằng trong làng có một ông tài chủ giàu có, mẹ ông là tín đồ Phật giáo, ăn chay niệm Phật đã lâu năm. Viên Huệ mừng rỡ, ba chân bốn cẳng chạy đến trước cửa nhà tài chủ, nhắm mắt đứng thẳng, gõ mõ không ngừng tay.
Tài chủ nghe tiếng mõ bèn ra cửa xem, thấy một chú sa di vừa nhỏ con vừa nhỏ tuổi, mặc một bộ cà sa vừa dài vừa rộng lại vừa cũ kỹ, trên lưng cõng cái mõ bằng gỗ vừa to lại vừa nặng, bộ dạng thật khôi hài, ai thấy cũng phải buồn cười. Ông bèn hỏi:
– Chú tiểu ơi, chú xuất gia ở chùa nào, hóa duyên gì, và đọc kinh nào rồi?
Viên Huệ chắp tay vái chào, cười đáp một cách chân thành:
– Xuất gia ở Quán Âm miếu, miếu ở Phổ Đà Sơn, miệng tụng kinh Di Đà, xin thí chủ bố thí kết duyên lành!
Tài chủ nghe xong, kêu người bưng ra bát cơm chay và mời:
– Từ Phổ Đà Sơn đến đây đường xa thăm thẳm, mời chú dùng bát cơm chay này cho đỡ đói, nghỉ ngơi một chút rồi hãy tiếp tục đi!
Viên Huệ nhìn bát cơm chay, lắc đầu mà rằng:
– Ngài Quán Âm hiển linh, phóng ánh sáng chiếu lên Phật Đỉnh Sơn, thí chủ có duyên xin ủng hộ chút gỗ để xây chùa!
Tài chủ nghe chuyện ủng hộ gỗ xây chùa thì trong lòng không vui, bèn lắc đầu bỏ đi.
Viên Huệ đã quá hoan hỉ lúc mới đến hóa duyên, ngờ đâu tài chủ không cho gì cả nên cảm thấy trong lòng lo lắng. Chú chớp mắt, trong đầu nghĩ ra một kế, bèn làm như thái độ của tài chủ chẳng hề làm cho chú quan tâm chút nào. Chú ngồi xuống xếp bằng, và ra sức bình sinh gõ mõ “cốc, cốc” vang lừng.
Tiếng gõ mõ làm kinh động bà mẹ già của tài chủ. Bà lão này chuyên ăn chay niệm Phật, đã lâu muốn đến Phổ Đà Sơn hành hương một chuyến nhưng chỉ vì bị con trai ngăn trở nên chưa đi được. Vì vậy bà cứ u uất trong lòng, sầu não lâu ngày nên sinh căn bệnh kỳ lạ. Nay bỗng nghe tiếng mõ, liền hối a hoàn ra cửa xem đó là chuyện chi. Nghe nói đó là một chú tiểu từ Phổ Đà Sơn tới, bà lên tinh thần ngay, đứng dậy ra cửa tiếp đón.
Viên Huệ thấy bà lão từ trong nhà bước ra, cách ăn mặc của bà làm cho chú đoán được ngay rằng đây là mẹ của tài chủ. Chú khoan thai đứng dậy, miệng lẩm bẩm:
– Tin Phật phải thành tâm! Thành tâm Phật mới linh!
Nói xong, chú quày quả bỏ đi.
Bà cụ vội vàng gọi lại:
– Chú tiểu ơi, trở lại đây! Chú tiểu ơi, trở lại!
Viên Huệ nghe tiếng kêu, không những không trở lại mà đi càng lúc càng mau rồi mất hút trong nháy mắt. Bà cụ lo lắng, cảm thấy lồng ngực như bị thắt nghẹn, đôi chân mềm nhũn và ngã nhào xuống đất. Tài chủ thấy vậy, vội vàng bồng mẹ già trở về phòng, nào xoa ngực, nào đấm lưng, cứ thế thật lâu bà lão mới từ từ hồi tỉnh lại, miệng cứ kêu lên “Phổ Đà Quán Âm! Phổ Đà Quán Âm!”
Hôm ấy, người nhà của tài chủ ai cũng lo mời thầy, sắc thuốc, bận rộn cho đến nửa đêm. Đúng lúc bà lão sắp chợp mắt ngủ thì đột nhiên từ rừng cây trên núi sau nhà vọng lại âm thanh một hồi mõ dòn tan. Bà lão ngồi nhổm dậy, lắng tai chăm chú nghe. Nghe một hồi lâu, bà cười khúc khích, mãi cho đến khi trời tảng sáng, tiếng mõ dừng bặt thì bệnh tình của bà lại tái phát.
Sự kiện như thế kéo dài liên tục ba ngày ba đêm. Tài chủ hoảng hốt, đành đi kiếm Viên Huệ. Nhưng kiếm khắp cùng, từ trên núi xuống đến thung lũng, kiếm cũng không ra tăm tích của chú.
Thật ra, cái hôm Viên Huệ bỏ đi rồi, chú bèn trốn trong một cái động đá trên núi, chờ tới nửa đêm mới ra khỏi động, đến khu rừng sau nhà tài chủ ngồi gõ mõ không ngừng, ngày nào cũng thế. Nay chú thấy tài chủ đưa người đi tìm mình thì cố ý lãng tránh, đi đường vòng lẻn vào nhà tài chủ, đứng trước giường bệnh ra sức gõ mõ nữa.
Bà lão mở bừng đôi mắt ra nhìn, thấy chú tiểu của Phổ Đà Sơn ngày nào thì hoan hỉ vô cùng, bệnh tình thuyên giảm rất nhiều. Bà nhất định cho rằng Viên Huệ là Quán Âm sống, nên vừa đốt hương vừa hứa lễ tạ ơn, luôn mồm nguyện cúng gỗ xây chùa. Khi bà lão khấn hứa như thế và cúng dường chú rồi thì như uống được thuốc tiên, chỉ mấy ngày sau là hoàn toàn khỏi căn bệnh kỳ quặc kia. Tài chủ thấy Phổ Đà Quán Âm quả có linh nghiệm thật, cũng đồng ý ủng hộ.
Viên Huệ bó mớ gỗ đã hóa duyên được lại thành từng bè và thuận theo dòng nước mà chở về Phổ Đà Sơn. Tuy nhiên Phật Đỉnh Sơn trên núi cao, đường đi lại hẹp, gỗ thì vừa thô vừa dài, làm sao đem số gỗ ấy lên núi được đây? Chính đương lúc Viên Huệ đang nhìn đống gỗ to lớn ấy một cách ưu sầu thì bỗng nhiên gió nổi lên, mây cuồn cuộn, một lớp sương mù u ám bao phủ cả mặt biển rộng. Viên Huệ thấy thế tự bảo:
– Thôi chết rồi, thuyền đánh cá trên biển lâm nguy rồi!
Chú lo sợ quá, phăng phắc trèo một mạch lên Phật Đỉnh Sơn, và trên vách đá cheo leo của Bồ Tát Đỉnh, chú thu một đống củi thật lớn nhóm lửa lên. Chỉ trong chớp mắt, lửa bốc lên phừng phực trên đỉnh núi chiếu khắp bốn phương, từ xa cũng nhìn thấy, giống như một ngọn đèn trời vậy.
Lúc ấy những chiếc thuyền chài đang lạc hướng thấy trên núi có một ngọn đèn đỏ, ai cũng nghĩ rằng đó là Bồ Tát Quán Âm treo đèn trời để dẫn đường cho đám thuyền chài trở về đúng hướng. Không bao lâu, đám thuyền chài trên biển nhắm ngọn đèn đỏ mà chèo và tất cả đều hướng về hải cảng của Phổ Đà Sơn.
Viên Huệ thấy họ bèn la to lên:
– Bồ Tát hiển linh, chúng ta phải xây chùa trên Phật Đỉnh Sơn! Mọi người mau lại góp một tay khiêng gỗ! Góp một tay khiêng gỗ!
Dân chài nghe tiếng kêu gọi bèn kẻ gánh người gồng, kẻ khiêng người vác, tranh nhau mà làm, chẳng bao lâu toàn bộ số gỗ ấy đều được khiêng lên Phật Đỉnh Sơn.
Trên Phật Đỉnh Sơn, lấp ló trong màu xanh thúy ngọc của cây cỏ, một mái chùa lớn được xây lên, hiện này là Huệ Tế thiền tự vậy.
Ngày chùa vừa xây xong, vị đương gia hòa thượng của Miếu Duyệt Âm mừng khấp khởi trèo lên Phật Đỉnh Sơn, tìm xuống nhà bếp tính thổi cơm ba năm, Viên Huệ can mãi nhưng vị thầy già nhất định không nghe, Viên Huệ đành phải để thầy xuống bếp nhóm ba bếp lửa để đền bù lại lời nguyện của ba năm về trước.
Về sau, Viên Huệ còn xây một ngôi miếu nhỏ trên Bồ Tát đỉnh và đêm nào trời phủ sương mù, chú sẽ “mở đèn trời” để hướng dẫn đám thuyền chài trở về bến an ổn.
Từ đó, Bồ Tát Đỉnh cũng có tên là Thiên Đăng Đài (Đài đèn trời).
Lúc ban đầu, Phật Đỉnh Sơn không có chùa chiền, chỉ có một cái đình bằng đá nhỏ xíu. Trong am Duyệt Lĩnh có một chú sa di tên là Viên Huệ vừa đúng 15 tuổi. Mỗi ngày chú đều trèo lên Phật Đỉnh Sơn đốn củi. Từ sáng sớm chú đã lên tới đỉnh núi, trời tối mịt mới trở về am, trong ngày khi mệt thì ngồi nghỉ trong cái đình bằng đá, cứ thế mãi không bao giờ gián đoạn.
Có một buổi trưa nọ trời oi bức lạ thường, Viên Huệ ngồi trong đình hóng mát, ngẩng đầu lên nhìn ra xa, thấy trên mặt biển mây trời sắc màu lộng lẫy thật là huy hoàng. Một đoàn chim biển từ xa bay đến, xoay tròn trên Phật Đỉnh Sơn thật lâu như không muốn rời xa. Ngắm những cảnh tượng ấy, Viên Huệ như có ý nghĩ riêng tư gì, chú nghĩ:
– Phật Đỉnh Sơn đối diện với biển rộng, đẹp như tiên cảnh, giá như xây được mái chùa trên này thì không những hấp dẫn được hàng vạn hàng ngàn du khách hành hương mà còn có thể tăng thêm phần tráng lệ cho Nam Hải Phật quốc này.
Ý nghĩ này như mọc rễ trong tâm chú, thế là chú vội vàng thu xếp gánh củi rồi gấp rút trở về am Duyệt Lĩnh, mới vào cửa đã nói ầm lên:
– Sư Phụ, con đã thấy ánh sáng của Phật trên Phật Đỉnh Sơn! Đó là một mảnh đất lành, mình phải cất ngôi chùa lớn trên ấy mới được!
Vị hoà thượng đương gia không đồng ý, đáp rằng:
– Tuy Phật Đỉnh Sơn quả thật là một vùng đất quý, nhưng dễ gì mà cất ngôi chùa lớn trên ấy? Nào ngói, nào gạch, nào gỗ, lấy ở đâu ra?
Viên Huệ chớp chớp mắt trả lời:
– Đệ tử nguyện đi bốn phương hoá duyên.
Vị hòa thượng già nhìn Viên Huệ, vừa tò mò lại vừa cảm thấy buồn cười, bèn nói bừa rằng:
– Con mà hóa duyên xây được chùa thì thầy nguyện sẽ nhóm lửa thổi cơm cho con làm trụ trì trong ba năm.
Viên Huệ liền xin thầy một bộ cà sa cũ và một cái mõ, rồi rời Phổ Đà Sơn lên đường đi hóa duyên.
Qua biển rồi, chú lênh đênh vượt suối băng ngàn, lên thác xuống ghềnh, ngày đi đêm nghỉ, đi hết 6 tháng mới đến tỉnh Phúc Kiến.
Một hôm, chú đi theo con đường mòn khúc khuỷu, băng qua một quả núi, quẹo qua một chỗ ngoặt thì đột nhiên thấy một ngôi làng, đằng trước là biển, đằng sau là một dãy núi cao. Chú đi nghe ngóng một hồi thì biết rằng trong làng có một ông tài chủ giàu có, mẹ ông là tín đồ Phật giáo, ăn chay niệm Phật đã lâu năm. Viên Huệ mừng rỡ, ba chân bốn cẳng chạy đến trước cửa nhà tài chủ, nhắm mắt đứng thẳng, gõ mõ không ngừng tay.
Tài chủ nghe tiếng mõ bèn ra cửa xem, thấy một chú sa di vừa nhỏ con vừa nhỏ tuổi, mặc một bộ cà sa vừa dài vừa rộng lại vừa cũ kỹ, trên lưng cõng cái mõ bằng gỗ vừa to lại vừa nặng, bộ dạng thật khôi hài, ai thấy cũng phải buồn cười. Ông bèn hỏi:
– Chú tiểu ơi, chú xuất gia ở chùa nào, hóa duyên gì, và đọc kinh nào rồi?
Viên Huệ chắp tay vái chào, cười đáp một cách chân thành:
– Xuất gia ở Quán Âm miếu, miếu ở Phổ Đà Sơn, miệng tụng kinh Di Đà, xin thí chủ bố thí kết duyên lành!
Tài chủ nghe xong, kêu người bưng ra bát cơm chay và mời:
– Từ Phổ Đà Sơn đến đây đường xa thăm thẳm, mời chú dùng bát cơm chay này cho đỡ đói, nghỉ ngơi một chút rồi hãy tiếp tục đi!
Viên Huệ nhìn bát cơm chay, lắc đầu mà rằng:
– Ngài Quán Âm hiển linh, phóng ánh sáng chiếu lên Phật Đỉnh Sơn, thí chủ có duyên xin ủng hộ chút gỗ để xây chùa!
Tài chủ nghe chuyện ủng hộ gỗ xây chùa thì trong lòng không vui, bèn lắc đầu bỏ đi.
Viên Huệ đã quá hoan hỉ lúc mới đến hóa duyên, ngờ đâu tài chủ không cho gì cả nên cảm thấy trong lòng lo lắng. Chú chớp mắt, trong đầu nghĩ ra một kế, bèn làm như thái độ của tài chủ chẳng hề làm cho chú quan tâm chút nào. Chú ngồi xuống xếp bằng, và ra sức bình sinh gõ mõ “cốc, cốc” vang lừng.
Tiếng gõ mõ làm kinh động bà mẹ già của tài chủ. Bà lão này chuyên ăn chay niệm Phật, đã lâu muốn đến Phổ Đà Sơn hành hương một chuyến nhưng chỉ vì bị con trai ngăn trở nên chưa đi được. Vì vậy bà cứ u uất trong lòng, sầu não lâu ngày nên sinh căn bệnh kỳ lạ. Nay bỗng nghe tiếng mõ, liền hối a hoàn ra cửa xem đó là chuyện chi. Nghe nói đó là một chú tiểu từ Phổ Đà Sơn tới, bà lên tinh thần ngay, đứng dậy ra cửa tiếp đón.
Viên Huệ thấy bà lão từ trong nhà bước ra, cách ăn mặc của bà làm cho chú đoán được ngay rằng đây là mẹ của tài chủ. Chú khoan thai đứng dậy, miệng lẩm bẩm:
– Tin Phật phải thành tâm! Thành tâm Phật mới linh!
Nói xong, chú quày quả bỏ đi.
Bà cụ vội vàng gọi lại:
– Chú tiểu ơi, trở lại đây! Chú tiểu ơi, trở lại!
Viên Huệ nghe tiếng kêu, không những không trở lại mà đi càng lúc càng mau rồi mất hút trong nháy mắt. Bà cụ lo lắng, cảm thấy lồng ngực như bị thắt nghẹn, đôi chân mềm nhũn và ngã nhào xuống đất. Tài chủ thấy vậy, vội vàng bồng mẹ già trở về phòng, nào xoa ngực, nào đấm lưng, cứ thế thật lâu bà lão mới từ từ hồi tỉnh lại, miệng cứ kêu lên “Phổ Đà Quán Âm! Phổ Đà Quán Âm!”
Hôm ấy, người nhà của tài chủ ai cũng lo mời thầy, sắc thuốc, bận rộn cho đến nửa đêm. Đúng lúc bà lão sắp chợp mắt ngủ thì đột nhiên từ rừng cây trên núi sau nhà vọng lại âm thanh một hồi mõ dòn tan. Bà lão ngồi nhổm dậy, lắng tai chăm chú nghe. Nghe một hồi lâu, bà cười khúc khích, mãi cho đến khi trời tảng sáng, tiếng mõ dừng bặt thì bệnh tình của bà lại tái phát.
Sự kiện như thế kéo dài liên tục ba ngày ba đêm. Tài chủ hoảng hốt, đành đi kiếm Viên Huệ. Nhưng kiếm khắp cùng, từ trên núi xuống đến thung lũng, kiếm cũng không ra tăm tích của chú.
Thật ra, cái hôm Viên Huệ bỏ đi rồi, chú bèn trốn trong một cái động đá trên núi, chờ tới nửa đêm mới ra khỏi động, đến khu rừng sau nhà tài chủ ngồi gõ mõ không ngừng, ngày nào cũng thế. Nay chú thấy tài chủ đưa người đi tìm mình thì cố ý lãng tránh, đi đường vòng lẻn vào nhà tài chủ, đứng trước giường bệnh ra sức gõ mõ nữa.
Bà lão mở bừng đôi mắt ra nhìn, thấy chú tiểu của Phổ Đà Sơn ngày nào thì hoan hỉ vô cùng, bệnh tình thuyên giảm rất nhiều. Bà nhất định cho rằng Viên Huệ là Quán Âm sống, nên vừa đốt hương vừa hứa lễ tạ ơn, luôn mồm nguyện cúng gỗ xây chùa. Khi bà lão khấn hứa như thế và cúng dường chú rồi thì như uống được thuốc tiên, chỉ mấy ngày sau là hoàn toàn khỏi căn bệnh kỳ quặc kia. Tài chủ thấy Phổ Đà Quán Âm quả có linh nghiệm thật, cũng đồng ý ủng hộ.
Viên Huệ bó mớ gỗ đã hóa duyên được lại thành từng bè và thuận theo dòng nước mà chở về Phổ Đà Sơn. Tuy nhiên Phật Đỉnh Sơn trên núi cao, đường đi lại hẹp, gỗ thì vừa thô vừa dài, làm sao đem số gỗ ấy lên núi được đây? Chính đương lúc Viên Huệ đang nhìn đống gỗ to lớn ấy một cách ưu sầu thì bỗng nhiên gió nổi lên, mây cuồn cuộn, một lớp sương mù u ám bao phủ cả mặt biển rộng. Viên Huệ thấy thế tự bảo:
– Thôi chết rồi, thuyền đánh cá trên biển lâm nguy rồi!
Chú lo sợ quá, phăng phắc trèo một mạch lên Phật Đỉnh Sơn, và trên vách đá cheo leo của Bồ Tát Đỉnh, chú thu một đống củi thật lớn nhóm lửa lên. Chỉ trong chớp mắt, lửa bốc lên phừng phực trên đỉnh núi chiếu khắp bốn phương, từ xa cũng nhìn thấy, giống như một ngọn đèn trời vậy.
Lúc ấy những chiếc thuyền chài đang lạc hướng thấy trên núi có một ngọn đèn đỏ, ai cũng nghĩ rằng đó là Bồ Tát Quán Âm treo đèn trời để dẫn đường cho đám thuyền chài trở về đúng hướng. Không bao lâu, đám thuyền chài trên biển nhắm ngọn đèn đỏ mà chèo và tất cả đều hướng về hải cảng của Phổ Đà Sơn.
Viên Huệ thấy họ bèn la to lên:
– Bồ Tát hiển linh, chúng ta phải xây chùa trên Phật Đỉnh Sơn! Mọi người mau lại góp một tay khiêng gỗ! Góp một tay khiêng gỗ!
Dân chài nghe tiếng kêu gọi bèn kẻ gánh người gồng, kẻ khiêng người vác, tranh nhau mà làm, chẳng bao lâu toàn bộ số gỗ ấy đều được khiêng lên Phật Đỉnh Sơn.
Trên Phật Đỉnh Sơn, lấp ló trong màu xanh thúy ngọc của cây cỏ, một mái chùa lớn được xây lên, hiện này là Huệ Tế thiền tự vậy.
Ngày chùa vừa xây xong, vị đương gia hòa thượng của Miếu Duyệt Âm mừng khấp khởi trèo lên Phật Đỉnh Sơn, tìm xuống nhà bếp tính thổi cơm ba năm, Viên Huệ can mãi nhưng vị thầy già nhất định không nghe, Viên Huệ đành phải để thầy xuống bếp nhóm ba bếp lửa để đền bù lại lời nguyện của ba năm về trước.
Về sau, Viên Huệ còn xây một ngôi miếu nhỏ trên Bồ Tát đỉnh và đêm nào trời phủ sương mù, chú sẽ “mở đèn trời” để hướng dẫn đám thuyền chài trở về bến an ổn.
Từ đó, Bồ Tát Đỉnh cũng có tên là Thiên Đăng Đài (Đài đèn trời).
#799
Gửi vào 04/07/2014 - 07:29
15. ĐOẢN CÔ ĐẠO ĐẦU
Xưa thật là xưa có hai người chị dâu em chồng sống chung với nhau. Hai chị em ăn tiêu rất cần kiệm ròng rã suốt mười năm trời, khó khăn lắm mới dành dụm được một số tiền. Thế là hai chị em chuẩn bị một giỏ hương đèn hoa quả, cùng nhau lấy thuyền đến Phổ Đà Sơn dâng hương và lễ bái Bồ Tát Quán Âm.
Lúc ấy Phổ Đà Sơn chưa có bến đò, thuyền bè cứ thế mà đậu dọc theo một bãi cạn đầu phía tây của Nam Thiên Môn, và lấy dây thừng cột thuyền lại ở đấy.
Thuyền đến Phổ Đà Sơn đúng lúc thủy triều xuống, khách hành hương vội xuống thuyền đi mất, chỉ có cô em chồng là còn ngồi đó ôm bụng, yên lặng cúi đầu không nhúc nhích. Người chị dâu gấp đi nên thúc giục, cô bèn lí nhí nói với chị rằng thân không thanh tịnh nên không dám bước chân lên đất thánh.
Người chị dâu nghe thế, giậm chân thình thịch trách rằng:
– Bây giờ lên không lên, xuống không xuống, ái dà! Đó chính là nghiệp tội của cô đó thôi!
Người chị dâu khiển trách cô em chồng một trận xong, chỉ đành tự xách giỏ lên bờ đi dâng hương một mình.
Ông lão lái đò cũng lên bờ uống rượu rồi, trong khoang thuyền chỉ còn lại mỗi một mình cô gái nhỏ. Nghĩ đi nghĩ lại thân phận mình, muốn dâng hương mà không dâng được còn bị chị dâu chê trách cho một trận, cô tủi thân chỉ biết khóc, nước mắt tuôn thành dòng, vừa ân hận mà cũng vừa sợ hãi. Bốn giờ đã trôi qua, nước triều lại dâng lên cao. Nước triều phủ cả bãi cát, con thuyền theo sóng mà lắc tới lắc lui, cô gái ngồi một mình trên thuyền vừa đói vừa khát, nghĩ lại thật là đau lòng!
Ngay lúc ấy, từ rừng trúc tím có một bà lão bước ra, một tay chống gậy, một tay xách giỏ tre, bước những bước chân run rẩy đến chỗ chiếc thuyền. Bà còng lưng xuống nhặt một vốc đá nhỏ, và vừa đi vừa ném từng viên đá xuống nước biển nghe “bõm, bõm”. Viên đá vừa chìm xuống đáy biển thì lập tức biến thành một tảng đá ngầm trồi lên khỏi mặt nước. Bà lão đi đến đâu ném đá đến đó, và trên bãi cạn một hàng đá ngầm mọc lên ngay ngắn, thẳng đến chỗ chiếc thuyền, giống như một cái bến đò vậy.
Bà lão lên thuyền, cười tủm tỉm nói với cô gái:
– Cô nương, cô đói rồi phải không?
Vừa nói bà vừa dở chiếc khăn hoa đậy giỏ tre, lấy ra một bát cơm rau thơm phưng phức đặt trước mặt cô gái.
Cô em chồng thấy bà lão đem thức ăn tới, kinh ngạc hỏi:
– Thưa bà, bà làm sao biết được là cháu đang đói bụng ở nơi này?
Bà lão cười cười:
– Chị dâu của cô bảo tôi đem cơm đến cho cô dùng đó, cô dùng mau đi!
Cô em chồng đói chịu không nổi nữa, nghe nói chị dâu gởi thức ăn đến thì bưng bát đũa lên và lấy và để . Ăn no rồi, cô mới đỏ mặt cám ơn bà lão. Bà lão không nói không rằng, thu dọn bát đũa, xách giỏ bỏ đi. Cô em chồng mỏi mệt, dựa vào khoang thuyền mà đánh một giấc.
Ông lão lái thuyền uống rượu xong trở lại, mở to cặp mắt kèm nhèm. Quái lạ! Làm sao chỗ này lại biến thành một cái bến đò? Hay là ta đi lộn đường rồi chăng? Ông lão dụi dụi mắt, tính toán cẩn thận. Đâu có lộn! Chiếc thuyền nhỏ nhà mình đây mà!
Lúc ấy bà chị dâu cùng những người khách dâng hương cũng vừa về đủ, nghe lão lái đò nói họ cũng lấy làm lạ. Bà chị dâu bước mau vào khoang thuyền lay cô em chồng dậy, hỏi cô bến đò làm sao hiện ra? Cô gái lắc đầu nói không biết. Bà chị dâu vừa lấy trong giỏ ra hai cái bánh lớn, vừa trách cô rằng:
– Đoảng như cô là cùng! Chỉ biết ngủ chứ không biết gì nữa hết. Thôi, mau ăn bánh đi!
Cô em chồng ngạc nhiên:
– Chị cho người đem cơm về cho em rồi mà?
Bà chị dâu cũng ngạc nhiên:
– Ai cho người đem cơm về cho cô hồi nào? Cô nằm mơ đấy hẳn?
Cô em chồng kể lại chuyện bà lão đem cơm ban nãy. Ông lái đò nghe xong vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vỗ đùi reo lên:
– Người đã tạo cái bến đò này và đem cơm đến cho cô, chắc chắn là Quan Thế Âm Bồ Tát!
Những người đồng thuyền, ai cũng mừng cho cô gái vì cô đã được chính mắt nhìn thấy Ngài Quán Âm hiện thân, lại còn được Bồ Tát đem thức ăn cho ăn nữa.
Bà chị dâu hãy còn nghi ngờ, bèn chạy một mạch đến Đại Hùng Bảo Điện của ngôi chùa trước mặt nhìn lên tượng Ngài Quán Âm, nhìn kỹ thì quả nhiên thấy vạt dưới của chiếc áo Ngài mặc hãy còn vết ướt của nước biển. Lúc ấy bà mới chịu tin lời của ông lão lái đò là đúng.
Từ đấy, Phổ Đà Sơn mới có bến đò. Lại vì có câu chuyện chị dâu chê trách em chồng ở đấy nên bến đò này mới có tên Đoản Cô Đạo Đầu (Đầu đường cô bị trách).
Xưa thật là xưa có hai người chị dâu em chồng sống chung với nhau. Hai chị em ăn tiêu rất cần kiệm ròng rã suốt mười năm trời, khó khăn lắm mới dành dụm được một số tiền. Thế là hai chị em chuẩn bị một giỏ hương đèn hoa quả, cùng nhau lấy thuyền đến Phổ Đà Sơn dâng hương và lễ bái Bồ Tát Quán Âm.
Lúc ấy Phổ Đà Sơn chưa có bến đò, thuyền bè cứ thế mà đậu dọc theo một bãi cạn đầu phía tây của Nam Thiên Môn, và lấy dây thừng cột thuyền lại ở đấy.
Thuyền đến Phổ Đà Sơn đúng lúc thủy triều xuống, khách hành hương vội xuống thuyền đi mất, chỉ có cô em chồng là còn ngồi đó ôm bụng, yên lặng cúi đầu không nhúc nhích. Người chị dâu gấp đi nên thúc giục, cô bèn lí nhí nói với chị rằng thân không thanh tịnh nên không dám bước chân lên đất thánh.
Người chị dâu nghe thế, giậm chân thình thịch trách rằng:
– Bây giờ lên không lên, xuống không xuống, ái dà! Đó chính là nghiệp tội của cô đó thôi!
Người chị dâu khiển trách cô em chồng một trận xong, chỉ đành tự xách giỏ lên bờ đi dâng hương một mình.
Ông lão lái đò cũng lên bờ uống rượu rồi, trong khoang thuyền chỉ còn lại mỗi một mình cô gái nhỏ. Nghĩ đi nghĩ lại thân phận mình, muốn dâng hương mà không dâng được còn bị chị dâu chê trách cho một trận, cô tủi thân chỉ biết khóc, nước mắt tuôn thành dòng, vừa ân hận mà cũng vừa sợ hãi. Bốn giờ đã trôi qua, nước triều lại dâng lên cao. Nước triều phủ cả bãi cát, con thuyền theo sóng mà lắc tới lắc lui, cô gái ngồi một mình trên thuyền vừa đói vừa khát, nghĩ lại thật là đau lòng!
Ngay lúc ấy, từ rừng trúc tím có một bà lão bước ra, một tay chống gậy, một tay xách giỏ tre, bước những bước chân run rẩy đến chỗ chiếc thuyền. Bà còng lưng xuống nhặt một vốc đá nhỏ, và vừa đi vừa ném từng viên đá xuống nước biển nghe “bõm, bõm”. Viên đá vừa chìm xuống đáy biển thì lập tức biến thành một tảng đá ngầm trồi lên khỏi mặt nước. Bà lão đi đến đâu ném đá đến đó, và trên bãi cạn một hàng đá ngầm mọc lên ngay ngắn, thẳng đến chỗ chiếc thuyền, giống như một cái bến đò vậy.
Bà lão lên thuyền, cười tủm tỉm nói với cô gái:
– Cô nương, cô đói rồi phải không?
Vừa nói bà vừa dở chiếc khăn hoa đậy giỏ tre, lấy ra một bát cơm rau thơm phưng phức đặt trước mặt cô gái.
Cô em chồng thấy bà lão đem thức ăn tới, kinh ngạc hỏi:
– Thưa bà, bà làm sao biết được là cháu đang đói bụng ở nơi này?
Bà lão cười cười:
– Chị dâu của cô bảo tôi đem cơm đến cho cô dùng đó, cô dùng mau đi!
Cô em chồng đói chịu không nổi nữa, nghe nói chị dâu gởi thức ăn đến thì bưng bát đũa lên và lấy và để . Ăn no rồi, cô mới đỏ mặt cám ơn bà lão. Bà lão không nói không rằng, thu dọn bát đũa, xách giỏ bỏ đi. Cô em chồng mỏi mệt, dựa vào khoang thuyền mà đánh một giấc.
Ông lão lái thuyền uống rượu xong trở lại, mở to cặp mắt kèm nhèm. Quái lạ! Làm sao chỗ này lại biến thành một cái bến đò? Hay là ta đi lộn đường rồi chăng? Ông lão dụi dụi mắt, tính toán cẩn thận. Đâu có lộn! Chiếc thuyền nhỏ nhà mình đây mà!
Lúc ấy bà chị dâu cùng những người khách dâng hương cũng vừa về đủ, nghe lão lái đò nói họ cũng lấy làm lạ. Bà chị dâu bước mau vào khoang thuyền lay cô em chồng dậy, hỏi cô bến đò làm sao hiện ra? Cô gái lắc đầu nói không biết. Bà chị dâu vừa lấy trong giỏ ra hai cái bánh lớn, vừa trách cô rằng:
– Đoảng như cô là cùng! Chỉ biết ngủ chứ không biết gì nữa hết. Thôi, mau ăn bánh đi!
Cô em chồng ngạc nhiên:
– Chị cho người đem cơm về cho em rồi mà?
Bà chị dâu cũng ngạc nhiên:
– Ai cho người đem cơm về cho cô hồi nào? Cô nằm mơ đấy hẳn?
Cô em chồng kể lại chuyện bà lão đem cơm ban nãy. Ông lái đò nghe xong vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vỗ đùi reo lên:
– Người đã tạo cái bến đò này và đem cơm đến cho cô, chắc chắn là Quan Thế Âm Bồ Tát!
Những người đồng thuyền, ai cũng mừng cho cô gái vì cô đã được chính mắt nhìn thấy Ngài Quán Âm hiện thân, lại còn được Bồ Tát đem thức ăn cho ăn nữa.
Bà chị dâu hãy còn nghi ngờ, bèn chạy một mạch đến Đại Hùng Bảo Điện của ngôi chùa trước mặt nhìn lên tượng Ngài Quán Âm, nhìn kỹ thì quả nhiên thấy vạt dưới của chiếc áo Ngài mặc hãy còn vết ướt của nước biển. Lúc ấy bà mới chịu tin lời của ông lão lái đò là đúng.
Từ đấy, Phổ Đà Sơn mới có bến đò. Lại vì có câu chuyện chị dâu chê trách em chồng ở đấy nên bến đò này mới có tên Đoản Cô Đạo Đầu (Đầu đường cô bị trách).
#800
Gửi vào 04/07/2014 - 21:13
16. BÁT GIÁC ĐÌNH
Có một lần, vua Ung Chính nhà Thanh nghe nói rằng Phổ Đà Sơn là một thắng cảnh nổi danh toàn quốc, bèn tỏ ý muốn thân hành lên núi lễ bái Quán Âm để cho trăm họ trong thiên hạ biết rằng mình đây là một vị minh quân thánh hiền đại từ đại bi. Các quan trong triều nghe thế, đều can gián rằng Phổ Đà Sơn cách xa ngàn trùng, đường xá hiểm trở, chi bằng vua viết một bài văn khắc lên ngự bia, phái khâm sai đến Phổ Đà Sơn cai quản việc xây một mái đình để thờ bia văn ấy cho toàn dân có dịp kính phục ngưỡng mộ.
Ung Chính nghe thế hết sức đẹp lòng, bèn phái khâm sai đến Phổ Đà Sơn để xây dựng mái đình.
Mái đình che chở ngự bia phải xây ở đâu mới thích hợp? Vị khâm sai đứng ở khung cửa sổ chùa Phổ Tế, nhìn về phía trước chỉ thấy một bãi đầm lầy, nếu xây đình ngự bia ở bên cạnh đầm lầy thì cửa vào của chùa Phổ Tế sẽ bị che kín, không được! Nếu xây trên bờ đối diện của cái đầm thì lại rất thích hợp, nhưng phải đi vòng qua cầu Vĩnh Thọ, thế cũng không được!
Vị khâm sai thấy thật khó xử, ông nhíu chặt đôi lông m*y, băng qua cầu Vĩnh Thọ, bước qua rồi đột nhiên kêu lên một tiếng:
– Đúng rồi! Xây cầu mới! Ở giữa đầm thì xây cái đình tám góc (bát giác), hai bên đình thì xây cái cầu bằng đá, khiến cho chùa Phổ Tế và đình ngự bia thông qua lại với nhau. Như thế vừa có cầu vừa có đình, thật là hùng tráng và trang nhã. Nếu vua mãn ý thì thế nào cũng thăng cho mình ba cấp quan là ít!
Quả nhiên, Ung Chính nhìn qua bản tấu thư, hỏi han một phen rồi bảo ông phải lo trông coi việc xây cất cho cẩn thận, để sớm về kinh thành phục chỉ.
Khâm sai đắc ý vô cùng, lập tức sai người tìm thợ thuyền xa gần, nào thợ đá, thợ mộc, thợ hồ, tới Phổ Đà Sơn nghe ông đọc thánh chỉ, và ra kỳ hạn trong vòng 100 ngày công việc phải xong.
Đầm lầy này nước thì sâu, bùn thì dơ, đám thợ thuyền ngâm mình trong đầm, mệt bở hơi tai sống dở chết dở, tốn một tháng tròn nền móng của đình mới xuất hiện lên khỏi mặt nước. Nền đình mỗi ngày một cao lên, không lâu nữa có thể dựng cột lợp ngói rồi. Khâm sai thấy tiến trình như thế thì rất vui mừng, vuốt râu gật đầu cười lên thích chí. Nào ngờ tiếng cười chưa dứt, chỉ nghe vọng lên “cô lô, cô lô”, bọt nước từ giữa đầm sủi lên và “bõm”, nguyên cái móng đình đổ sụp xuống đáy không còn thấy đâu nữa.
Khâm sai lo lắng quá hai chân nhảy cỡn, mắng người cai thợ một trận, ra lệnh xây lại, không được trì hoãn kỳ hạn. Vị cai thợ chỉ biết ngậm đắng nuốt cay không nói ra lời, hướng dẫn mọi người đi kiếm vật liệu khác chở tới, lại ngâm mình trong đầm cả ngày lẫn đêm, một lần nữa mệt bở hơi tai sống dở chết dở, một tháng sau móng đình mới xuất hiện lên mặt nước trở lại. Khâm sai nóng ruột muốn cho mau xong, thôi thúc thợ thuyền khiêng gỗ xây đình. Có ai ngờ, cột đình mới dựng lên xong thì cũng một lần nữa, từ giữa đầm lại vọng lên “cô lô cô lô”, bọt nước sủi lên và “bõm”, nguyên cái móng đình chìm xuống đáy nước không còn thấy đâu nữa.
Hai tháng đã trôi qua rồi, đừng nói gì tới cái đình tám góc, nội bóng dáng cái móng đình vẫn chưa thấy được. Khâm sai sốt ruột như thiêu như đốt, cả người cứ thế mà quay mòng mòng. Những tưởng mau xong việc mà về kinh lãnh thưởng, nay sự thể như thế này, đừng nói tới chuyện đầu đội mũ lông công (mũ của quan liêu trong lễ phục đời nhà Thanh), mà tính mạng của cả nhà chưa chắc đã giữ được. Ông càng nghĩ càng sợ, càng sợ càng dữ dằn, bèn hét lên ra lệnh lôi người cai thợ ra chém đầu làm gương!
– Khoan đã!
Chỉ thấy một ông già khoan thai, từ tốn đến trước mặt khâm sai, cung tay vái chào và nói:
– Đại nhân bớt giận, đây là đất Phật thanh tịnh, làm sao có thể động dao giết người được?
Khâm sai liếc mắt nhìn, thấy lão già đầu đội mũ cỏ, chân mang dép cỏ, áo bằng vải thô, dáng vẻ tầm thường nhưng mở miệng nói chuyện thì giọng thật oai hùng, sang sảng. Viên khâm sai đúng lúc đang bực bội, thấy một ông già không biết từ đâu lại mà còn tự nhiên xía vào chuyện của mình, lại càng thêm bực tức, lửa giận bốc lên phừng phừng gắt rằng:
– Ông là ai mà dám to gan đến thế?
Lão già không lộ ra chút gì là hoảng hốt sợ hãi, đáp rằng:
– Tôi từ vạn lý xa xăm đặc biệt tới đất Phật xây đình.
Khâm sai nghe ông lão nói mình biết xây đình vừa mừng vừa nghi, nhíu mắt nhìn ông lão từ trên xuống dưới để đánh giá rồi quát rằng:
– Ông đừng nói xằng nói điên, người như ông mà có thể xây nổi một cái đình tám góc sao?
– Xây một cái đình tám góc nhỏ xíu, có gì là khó? - Ông già trả lời thẳng thắn. Nhưng phải chịu ba điều kiện của tôi.
Khâm sai thấy cử chỉ của ông không giống phàm nhân, sau một lúc dò xét, suy nghĩ chín chắn rồi mới nói:
– Được rồi. Chỉ cần ông biết xây một cái đình tám góc, ra điều kiện gì ta cũng chịu.
– Thứ nhất, thả ông cai thợ.
Khâm sai đáp:
– Ta bằng lòng.
– Thứ hai, tạo đình trên đất Phật thì phải lấy từ bi làm căn bản, không được tùy tiện mắng mỏ công nhân.
Khâm sai đáp:
– Được, được!
– Thứ ba, xin đại nhân thêm cho kỳ hạn.
Đến đây khâm sai lắc đầu lia lịa:
– Không được! Phải xây đúng kỳ hạn, nếu không ta sẽ bắt tội ông!
– Ha ha!
Ông lão ngẩng mặt cười dài, rồi nghiêm sắc:
– Xử tử người thì dễ, xây đình mới khó. Bây giờ kỳ hạn 100 ngày gần tới rồi, ông làm sao để về kinh phục chỉ đây?
Câu hỏi này đánh trúng vào chỗ yếu của khâm sai, ông suy nghĩ mãi thấy không có cách nào khác, chỉ đành gật đầu chấp thuận.
Ngày hôm sau, ông lão không nói không rằng, một mình một thân nhảy xuống đầm cỏ sình lầy, sờ soạn bên này, rờ rẫm bên kia, suốt cả ba ngày mới tìm ra một cái “miệng rồng” ngay ở giữa đầm. “Miệng rồng” này thông qua biển lớn Đông Hải, bình thường thì bị bùn dơ bịt kín, nhưng đến ngày thủy triều lớn thì “cô lô, cô lô”, bọt sủi lên mặt nước, và bùn dơ hay rác rưởi gì cũng đều bị hút xuống đáy biển.
Ông lão tìm ra được “miệng rồng” rồi thì hớn hở trèo lên bờ. Lúc ấy tất cả đám thợ thuyền đều đứng chờ xem ý định của ông lão là gì, bèn vây xung quanh ông xin giao cho việc làm. Ông lão chỉ cười mà đáp:
– Không có gì gấp, các ông hãy chuẩn bị vật liệu đi!
Mọi người nghe thế đều ngẩn người ra:
– Vật liệu đã chuẩn bị xong từ lâu rồi, bây giờ ông giao việc gì khác đi chứ!
Ông lão nhìn mọi người rồi chỉ lên núi, chỗ có một đống đá vụn mà nói:
– Gánh hết chỗ đá vụn ấy xuống đây, chất lên hai bên bờ đầm, sẽ có lúc cần dùng!
Mọi người không biết ông lão đang nghĩ gì trong đầu nhưng không dám cưỡng lệnh, chỉ đành đi gánh đá vụn, không đầy một ngày, hai bên bờ đầm chất một đống đá vụn cao thật là cao. Tuy nhiên, ông lão trốn biệt trong một gian thiền phòng của chùa Phổ Tế, cửa đóng kín mít nhưng đèn đuốc sáng choang, và cả ngày chỉ nghe “sầm sập, sột soạt” chẳng ai biết ông đang làm gì trong ấy.
Sau ba ngày, mọi người vẫn thấy ông lão trốn trong thiền phòng chưa ló mặt ra, họ bắt đầu bàn tán xôn xao, người thì nói:
– Ông già này không có tài cán gì cả, chúng ta bị lừa rồi!
Người khác cho rằng:
– Ông già này dường như không muốn sống, tới đây tìm cái chết hay sao ấy!
Trong lúc mọi người đang bàn tán như thế thì đột nhiên nghe tiếng “cô lô cô lô” quen thuộc từ giữa đầm vọng lên, và nước sủi bọt không ngừng.
Ông già nghe âm thanh ấy, “sầm” một tiếng từ thiền phòng phóng ra, hai tay ôm một con rồng gỗ điêu khắc thật tinh xảo, đầu hất lên trời, duỗi chân dương móng, hệt như một con rồng thật. Ông già chạy đến gần đầm phóng con rồng gỗ lên trời, nghe “vù vù”, rồi có một con rồng toàn thân dát vàng đâm đầu xuống đầm, chúi xuống đáy nước. Đám thợ thuyền há hốc mồm ngây người ra mà nhìn, ông lão lớn tiếng giục giã họ đẩy đống đá vụn xuống đầm. Trong nháy mắt, từ giữa đầm lầy không còn thấy nước sủi lên nữa.
Ông lão lại nhẹ nhàng phi thân xuống ao, hướng dẫn đám công nhân khiêng đá đắp móng đình.
Kỳ lạ, lần này móng đình xây xong vững như bàn thạch, không còn sụp đổ nữa.
Chẳng bao lâu sau, một ngôi đình tám góc trang nhã xinh xắn được xây lên, hai bên đình là cây cầu đá nối ngự bia với cửa chính của chùa Phổ Tế.
Về sau người ta dọn sạch đầm lầy xung quanh đình, biến đầm trở thành một hồ sen. Mỗi lúc hoa sen nở rộ, tòa đình tám góc này trở nên một quang cảnh đặc biệt đẹp mắt.
Có một lần, vua Ung Chính nhà Thanh nghe nói rằng Phổ Đà Sơn là một thắng cảnh nổi danh toàn quốc, bèn tỏ ý muốn thân hành lên núi lễ bái Quán Âm để cho trăm họ trong thiên hạ biết rằng mình đây là một vị minh quân thánh hiền đại từ đại bi. Các quan trong triều nghe thế, đều can gián rằng Phổ Đà Sơn cách xa ngàn trùng, đường xá hiểm trở, chi bằng vua viết một bài văn khắc lên ngự bia, phái khâm sai đến Phổ Đà Sơn cai quản việc xây một mái đình để thờ bia văn ấy cho toàn dân có dịp kính phục ngưỡng mộ.
Ung Chính nghe thế hết sức đẹp lòng, bèn phái khâm sai đến Phổ Đà Sơn để xây dựng mái đình.
Mái đình che chở ngự bia phải xây ở đâu mới thích hợp? Vị khâm sai đứng ở khung cửa sổ chùa Phổ Tế, nhìn về phía trước chỉ thấy một bãi đầm lầy, nếu xây đình ngự bia ở bên cạnh đầm lầy thì cửa vào của chùa Phổ Tế sẽ bị che kín, không được! Nếu xây trên bờ đối diện của cái đầm thì lại rất thích hợp, nhưng phải đi vòng qua cầu Vĩnh Thọ, thế cũng không được!
Vị khâm sai thấy thật khó xử, ông nhíu chặt đôi lông m*y, băng qua cầu Vĩnh Thọ, bước qua rồi đột nhiên kêu lên một tiếng:
– Đúng rồi! Xây cầu mới! Ở giữa đầm thì xây cái đình tám góc (bát giác), hai bên đình thì xây cái cầu bằng đá, khiến cho chùa Phổ Tế và đình ngự bia thông qua lại với nhau. Như thế vừa có cầu vừa có đình, thật là hùng tráng và trang nhã. Nếu vua mãn ý thì thế nào cũng thăng cho mình ba cấp quan là ít!
Quả nhiên, Ung Chính nhìn qua bản tấu thư, hỏi han một phen rồi bảo ông phải lo trông coi việc xây cất cho cẩn thận, để sớm về kinh thành phục chỉ.
Khâm sai đắc ý vô cùng, lập tức sai người tìm thợ thuyền xa gần, nào thợ đá, thợ mộc, thợ hồ, tới Phổ Đà Sơn nghe ông đọc thánh chỉ, và ra kỳ hạn trong vòng 100 ngày công việc phải xong.
Đầm lầy này nước thì sâu, bùn thì dơ, đám thợ thuyền ngâm mình trong đầm, mệt bở hơi tai sống dở chết dở, tốn một tháng tròn nền móng của đình mới xuất hiện lên khỏi mặt nước. Nền đình mỗi ngày một cao lên, không lâu nữa có thể dựng cột lợp ngói rồi. Khâm sai thấy tiến trình như thế thì rất vui mừng, vuốt râu gật đầu cười lên thích chí. Nào ngờ tiếng cười chưa dứt, chỉ nghe vọng lên “cô lô, cô lô”, bọt nước từ giữa đầm sủi lên và “bõm”, nguyên cái móng đình đổ sụp xuống đáy không còn thấy đâu nữa.
Khâm sai lo lắng quá hai chân nhảy cỡn, mắng người cai thợ một trận, ra lệnh xây lại, không được trì hoãn kỳ hạn. Vị cai thợ chỉ biết ngậm đắng nuốt cay không nói ra lời, hướng dẫn mọi người đi kiếm vật liệu khác chở tới, lại ngâm mình trong đầm cả ngày lẫn đêm, một lần nữa mệt bở hơi tai sống dở chết dở, một tháng sau móng đình mới xuất hiện lên mặt nước trở lại. Khâm sai nóng ruột muốn cho mau xong, thôi thúc thợ thuyền khiêng gỗ xây đình. Có ai ngờ, cột đình mới dựng lên xong thì cũng một lần nữa, từ giữa đầm lại vọng lên “cô lô cô lô”, bọt nước sủi lên và “bõm”, nguyên cái móng đình chìm xuống đáy nước không còn thấy đâu nữa.
Hai tháng đã trôi qua rồi, đừng nói gì tới cái đình tám góc, nội bóng dáng cái móng đình vẫn chưa thấy được. Khâm sai sốt ruột như thiêu như đốt, cả người cứ thế mà quay mòng mòng. Những tưởng mau xong việc mà về kinh lãnh thưởng, nay sự thể như thế này, đừng nói tới chuyện đầu đội mũ lông công (mũ của quan liêu trong lễ phục đời nhà Thanh), mà tính mạng của cả nhà chưa chắc đã giữ được. Ông càng nghĩ càng sợ, càng sợ càng dữ dằn, bèn hét lên ra lệnh lôi người cai thợ ra chém đầu làm gương!
– Khoan đã!
Chỉ thấy một ông già khoan thai, từ tốn đến trước mặt khâm sai, cung tay vái chào và nói:
– Đại nhân bớt giận, đây là đất Phật thanh tịnh, làm sao có thể động dao giết người được?
Khâm sai liếc mắt nhìn, thấy lão già đầu đội mũ cỏ, chân mang dép cỏ, áo bằng vải thô, dáng vẻ tầm thường nhưng mở miệng nói chuyện thì giọng thật oai hùng, sang sảng. Viên khâm sai đúng lúc đang bực bội, thấy một ông già không biết từ đâu lại mà còn tự nhiên xía vào chuyện của mình, lại càng thêm bực tức, lửa giận bốc lên phừng phừng gắt rằng:
– Ông là ai mà dám to gan đến thế?
Lão già không lộ ra chút gì là hoảng hốt sợ hãi, đáp rằng:
– Tôi từ vạn lý xa xăm đặc biệt tới đất Phật xây đình.
Khâm sai nghe ông lão nói mình biết xây đình vừa mừng vừa nghi, nhíu mắt nhìn ông lão từ trên xuống dưới để đánh giá rồi quát rằng:
– Ông đừng nói xằng nói điên, người như ông mà có thể xây nổi một cái đình tám góc sao?
– Xây một cái đình tám góc nhỏ xíu, có gì là khó? - Ông già trả lời thẳng thắn. Nhưng phải chịu ba điều kiện của tôi.
Khâm sai thấy cử chỉ của ông không giống phàm nhân, sau một lúc dò xét, suy nghĩ chín chắn rồi mới nói:
– Được rồi. Chỉ cần ông biết xây một cái đình tám góc, ra điều kiện gì ta cũng chịu.
– Thứ nhất, thả ông cai thợ.
Khâm sai đáp:
– Ta bằng lòng.
– Thứ hai, tạo đình trên đất Phật thì phải lấy từ bi làm căn bản, không được tùy tiện mắng mỏ công nhân.
Khâm sai đáp:
– Được, được!
– Thứ ba, xin đại nhân thêm cho kỳ hạn.
Đến đây khâm sai lắc đầu lia lịa:
– Không được! Phải xây đúng kỳ hạn, nếu không ta sẽ bắt tội ông!
– Ha ha!
Ông lão ngẩng mặt cười dài, rồi nghiêm sắc:
– Xử tử người thì dễ, xây đình mới khó. Bây giờ kỳ hạn 100 ngày gần tới rồi, ông làm sao để về kinh phục chỉ đây?
Câu hỏi này đánh trúng vào chỗ yếu của khâm sai, ông suy nghĩ mãi thấy không có cách nào khác, chỉ đành gật đầu chấp thuận.
Ngày hôm sau, ông lão không nói không rằng, một mình một thân nhảy xuống đầm cỏ sình lầy, sờ soạn bên này, rờ rẫm bên kia, suốt cả ba ngày mới tìm ra một cái “miệng rồng” ngay ở giữa đầm. “Miệng rồng” này thông qua biển lớn Đông Hải, bình thường thì bị bùn dơ bịt kín, nhưng đến ngày thủy triều lớn thì “cô lô, cô lô”, bọt sủi lên mặt nước, và bùn dơ hay rác rưởi gì cũng đều bị hút xuống đáy biển.
Ông lão tìm ra được “miệng rồng” rồi thì hớn hở trèo lên bờ. Lúc ấy tất cả đám thợ thuyền đều đứng chờ xem ý định của ông lão là gì, bèn vây xung quanh ông xin giao cho việc làm. Ông lão chỉ cười mà đáp:
– Không có gì gấp, các ông hãy chuẩn bị vật liệu đi!
Mọi người nghe thế đều ngẩn người ra:
– Vật liệu đã chuẩn bị xong từ lâu rồi, bây giờ ông giao việc gì khác đi chứ!
Ông lão nhìn mọi người rồi chỉ lên núi, chỗ có một đống đá vụn mà nói:
– Gánh hết chỗ đá vụn ấy xuống đây, chất lên hai bên bờ đầm, sẽ có lúc cần dùng!
Mọi người không biết ông lão đang nghĩ gì trong đầu nhưng không dám cưỡng lệnh, chỉ đành đi gánh đá vụn, không đầy một ngày, hai bên bờ đầm chất một đống đá vụn cao thật là cao. Tuy nhiên, ông lão trốn biệt trong một gian thiền phòng của chùa Phổ Tế, cửa đóng kín mít nhưng đèn đuốc sáng choang, và cả ngày chỉ nghe “sầm sập, sột soạt” chẳng ai biết ông đang làm gì trong ấy.
Sau ba ngày, mọi người vẫn thấy ông lão trốn trong thiền phòng chưa ló mặt ra, họ bắt đầu bàn tán xôn xao, người thì nói:
– Ông già này không có tài cán gì cả, chúng ta bị lừa rồi!
Người khác cho rằng:
– Ông già này dường như không muốn sống, tới đây tìm cái chết hay sao ấy!
Trong lúc mọi người đang bàn tán như thế thì đột nhiên nghe tiếng “cô lô cô lô” quen thuộc từ giữa đầm vọng lên, và nước sủi bọt không ngừng.
Ông già nghe âm thanh ấy, “sầm” một tiếng từ thiền phòng phóng ra, hai tay ôm một con rồng gỗ điêu khắc thật tinh xảo, đầu hất lên trời, duỗi chân dương móng, hệt như một con rồng thật. Ông già chạy đến gần đầm phóng con rồng gỗ lên trời, nghe “vù vù”, rồi có một con rồng toàn thân dát vàng đâm đầu xuống đầm, chúi xuống đáy nước. Đám thợ thuyền há hốc mồm ngây người ra mà nhìn, ông lão lớn tiếng giục giã họ đẩy đống đá vụn xuống đầm. Trong nháy mắt, từ giữa đầm lầy không còn thấy nước sủi lên nữa.
Ông lão lại nhẹ nhàng phi thân xuống ao, hướng dẫn đám công nhân khiêng đá đắp móng đình.
Kỳ lạ, lần này móng đình xây xong vững như bàn thạch, không còn sụp đổ nữa.
Chẳng bao lâu sau, một ngôi đình tám góc trang nhã xinh xắn được xây lên, hai bên đình là cây cầu đá nối ngự bia với cửa chính của chùa Phổ Tế.
Về sau người ta dọn sạch đầm lầy xung quanh đình, biến đầm trở thành một hồ sen. Mỗi lúc hoa sen nở rộ, tòa đình tám góc này trở nên một quang cảnh đặc biệt đẹp mắt.
#801
Gửi vào 04/07/2014 - 22:13
17. THUNG LŨNG CÁT BAY
Ngày xưa có một người rất nghèo, nghèo rớt mồng tơi, tên là Đắc Tài, đã 30 tuổi đầu mà vẫn còn chưa vợ. Có một năm kia, Đắc Tài đến Phổ Đà Sơn dâng hương, nguyện cầu Bồ Tát Quán Âm gia hộ cho mình sớm phát tài. Hắn lễ từ chùa trước đến chùa sau, lên Phật Đỉnh Sơn, rồi theo đoàn khách hành hương đến Phạm Âm Động lễ bái Bồ Tát Quan Thế Âm.
Phạm Âm Động nằm ở mé đông của Thanh Lũy Đầu. Lúc ấy, giữa Thanh Lũy Đầu và Phổ Đà Sơn là một nhánh sông rộng, hai đầu thông với biển, lúc triều lên thì gió to sóng lớn và nước chảy xiết, mà lúc triều xuống thì lại trở thành một dải đất bùn lầy, khi dẫm lên thì chân lún xuống, dính bùn chặt cứng. Những người muốn đến Phạm Âm Động chỉ đành chờ nước triều xuống rồi cởi giày, xắn quần đạp trên con đường bùn lầy ấy mà đi.
Khi Đắc Tài đến chỗ ấy, nhìn thấy dải bùn lầy thì đột nhiên nghĩ ra một kế để làm tiền, bèn âm thầm suy đi tính lại: nếu tậu được con thuyền tam bản thì có thể chèo thuyền ở chỗ này, một là làm việc thiện kiếm phước, hai là nửa phần còn lại của cuộc đời coi như chắc ăn.
Càng nghĩ hắn càng thấy ý kiến này rất hay, nên sau khi rời Phạm Âm Động, hắn bèn đến bờ sông xây một mái nhà lá, ngày ngày quyên tiền khách hành hương qua lại để mua một chiếc thuyền nhỏ. Hương khách cũng thấy ý kiến này rất hay nên ai nấy hùn nhau mở hầu bao dốc tiền ra giúp hắn.
Sau vài tháng, Đắc Tài tính lại số tiền quyên được thì thấy đã dư sức mua một chiếc thuyền tam bản. Nhưng những đồng tiền bạc sáng lòa loà, những đồng tiền đồng khua leng keng khiến hắn đổi ý:
– Hề hề, đang phát tài phát lộc thế này thì làm sao bỏ ngang cho được! Vả lại ta cũng chưa xây nhà gạch cơ mà!
Đến năm thứ ba, Đắc Tài đã dùng tiền mua thuyền mà khách hành hương đã đóng góp để xây lên một căn nhà gạch ba gian trang bị đầy đủ, và còn cưới được một bà vợ nữa! Khi thấy những điều cơ bản mà mình hằng mong muốn nay đã có đủ, Đắc Tài mới kêu người đóng cho mình một chiếc thuyền tam bản, chèo đò qua lại giữa Thanh Lũy Đầu và Phổ Đà Sơn.
Nhưng chèo được vài ba ngày, hắn cảm thấy cách kiếm ăn này quá vất vả mệt mỏi mà tiền thâu vào lại chẳng có bao nhiêu, bèn nảy ra một ý kiến mới.
Hắn đi mua một bức tượng Quán Âm nhỏ thờ ở đầu thuyền rồi đặt trước bàn thờ một cái vại đã rửa sạch, trên vại dán một tấm giấy đỏ với hàng chữ “thuyền từ độ khắp, vui lòng giúp đỡ”. Từ đó ngày nào hắn cũng móc từ vại ra một số tiền không nhỏ. Nếu có ngày hương khách ném quá ít tiền vào vại, hắn sẽ cố ý chèo làm sao cho thuyền dao động thật mạnh, thế là thiện nam tín nữ phải kinh sợ, không thể không quỳ trước tượng Bồ Tát khấn nguyện và ném thêm tiền đồng, tiền bạc vào vại.
Hương khách rất hận nhưng không dám làm mất lòng hắn, dầu sao họ cũng lệ thuộc vào hắn để đi đi về về trên dòng sông ấy!
Có một hôm thuyền không có khách, Đắc Tài bèn đậu thuyền ở ven bờ sông, đem bầu rượu già cùng vài khúc cá khô, ngồi dưới đuôi thuyền mà nhâm nhi hưởng nhàn.
– Ông lái thuyền ơi, cho tôi qua sông nào!
Đột nhiên có một giọng nói thanh t*o trong trẻo từ bờ sông vọng lại. Đắc Tài ngoảnh mặt lại nhìn, ôi chao, thì ra đấy là một cô nương xinh đẹp mỹ miều! Cô gái tay đeo làn tre nhỏ, nửa làn đựng cát vàng óng ánh. Cô mặc nguyên một bộ quần áo màu tím thật là thanh tân, trông cô không khác gì tiên nữ xuống trần. Đắc Tài cảm thấy lòng rạo rực, vội vàng đặt cốc rượu xuống, đưa tay đỡ cô gái xuống thuyền. Nhưng cô gái không để ý tới hắn, nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền một mình. Đắc Tài hơi quê, bẻ mạnh mái chèo tách thuyền ra khỏi bờ sông. Thấy hai bên bờ không có một bóng người, hắn bèn chèo thuyền thật chậm rãi, hai con mắt dán chặt vào người cô gái.
– Cô nương à, cô tới đây cầu phúc hay cầu con vậy?
Cô gái ngồi ngay ngắn trên thuyền, nhẹ cười nhạt mà đáp:
– Tôi cầu thiền.
– Cô cầu thuyền? Đắc Tài cười một cách nham nhở. Thuyền rồng hay thuyền tam bản cũng là thuyền, cô nương muốn thuyền thì tại hạ chính là thuyền đây!
Nói xong hắn bèn lấy chân đá vào mạn thuyền, tay trái liều lĩnh đẩy mái chèo thật mạnh, con thuyền nhỏ bèn lắc lư một cách dữ dội. Nhưng cô gái không hề tỏ vẻ hoảng sợ, chỉ mỉm cười ngồi rất an ổn, làm như thuyền càng lắc cô càng thấy thú vị. Đến khi Đắc Tài mệt lử, nằm dài trước bánh lái giả chết, cô gái mới bước đến, nắm lấy mái chèo và “két, két”, con thuyền lao vun vút trên sông một cách vững chải.
– Hề hề, thì ra cô nương đây cũng là tay chèo thuyền nhà nghề!
Đắc Tài thừa cơ hội vừa nói vừa nắm lấy cánh tay cô gái, nhưng nào ngờ khi nhìn lại thì thấy mình đang nắm đuôi mái chèo gỗ cứng ngắc! Hắn đưa mắt tìm cô gái thì không còn thấy bóng dáng của cô đâu, ngay cả chiếc làn tre cũng không còn nữa.
Đắc Tài bất giác giật mình kinh sợ. Ngay lúc hắn đang kinh hoàng bất an thì bỗng nhiên gió lớn nổi lên, sóng cao tới trời đẩy chiếc thuyền tam bản lên cao rồi “huỵch” một tiếng, đâm xuống một tảng đá lớn vỡ thành gỗ vụn! Đắc Tài khó khăn lắm mới trèo được lên bờ, vội vàng đâm đầu chạy về nhà. Nhưng từ chân núi nhìn lên thì cái nhà gạch ba gian đã bị cuồng phong cuốn đi rồi, bà vợ cũng biến đâu mất! Thế là Đắc Tài trở lại nghèo rớt mồng tơi y hệt như ba năm trước.
Thì ra cô gái chèo thuyền kia chính là Quán Âm đại sĩ hóa thân. Khi cuồng phong lắng xuống, Ngài trở lại bổn tướng trang nghiêm của mình, đứng trên bờ sông bốc một nắm cát trong làn tre rải lên mặt nước, trong phút chốc dòng sông to rộng từ từ bị cát vàng phủ kín. Dòng sông đã biến thành thung lũng, người ta gọi đó là “Phi Sa Áo” (thung lũng cát bay). Từ đấy, hương khách muốn đến Phạm Âm Động không cần phải lệ thuộc vào người lái đò nữa!
Ngày xưa có một người rất nghèo, nghèo rớt mồng tơi, tên là Đắc Tài, đã 30 tuổi đầu mà vẫn còn chưa vợ. Có một năm kia, Đắc Tài đến Phổ Đà Sơn dâng hương, nguyện cầu Bồ Tát Quán Âm gia hộ cho mình sớm phát tài. Hắn lễ từ chùa trước đến chùa sau, lên Phật Đỉnh Sơn, rồi theo đoàn khách hành hương đến Phạm Âm Động lễ bái Bồ Tát Quan Thế Âm.
Phạm Âm Động nằm ở mé đông của Thanh Lũy Đầu. Lúc ấy, giữa Thanh Lũy Đầu và Phổ Đà Sơn là một nhánh sông rộng, hai đầu thông với biển, lúc triều lên thì gió to sóng lớn và nước chảy xiết, mà lúc triều xuống thì lại trở thành một dải đất bùn lầy, khi dẫm lên thì chân lún xuống, dính bùn chặt cứng. Những người muốn đến Phạm Âm Động chỉ đành chờ nước triều xuống rồi cởi giày, xắn quần đạp trên con đường bùn lầy ấy mà đi.
Khi Đắc Tài đến chỗ ấy, nhìn thấy dải bùn lầy thì đột nhiên nghĩ ra một kế để làm tiền, bèn âm thầm suy đi tính lại: nếu tậu được con thuyền tam bản thì có thể chèo thuyền ở chỗ này, một là làm việc thiện kiếm phước, hai là nửa phần còn lại của cuộc đời coi như chắc ăn.
Càng nghĩ hắn càng thấy ý kiến này rất hay, nên sau khi rời Phạm Âm Động, hắn bèn đến bờ sông xây một mái nhà lá, ngày ngày quyên tiền khách hành hương qua lại để mua một chiếc thuyền nhỏ. Hương khách cũng thấy ý kiến này rất hay nên ai nấy hùn nhau mở hầu bao dốc tiền ra giúp hắn.
Sau vài tháng, Đắc Tài tính lại số tiền quyên được thì thấy đã dư sức mua một chiếc thuyền tam bản. Nhưng những đồng tiền bạc sáng lòa loà, những đồng tiền đồng khua leng keng khiến hắn đổi ý:
– Hề hề, đang phát tài phát lộc thế này thì làm sao bỏ ngang cho được! Vả lại ta cũng chưa xây nhà gạch cơ mà!
Đến năm thứ ba, Đắc Tài đã dùng tiền mua thuyền mà khách hành hương đã đóng góp để xây lên một căn nhà gạch ba gian trang bị đầy đủ, và còn cưới được một bà vợ nữa! Khi thấy những điều cơ bản mà mình hằng mong muốn nay đã có đủ, Đắc Tài mới kêu người đóng cho mình một chiếc thuyền tam bản, chèo đò qua lại giữa Thanh Lũy Đầu và Phổ Đà Sơn.
Nhưng chèo được vài ba ngày, hắn cảm thấy cách kiếm ăn này quá vất vả mệt mỏi mà tiền thâu vào lại chẳng có bao nhiêu, bèn nảy ra một ý kiến mới.
Hắn đi mua một bức tượng Quán Âm nhỏ thờ ở đầu thuyền rồi đặt trước bàn thờ một cái vại đã rửa sạch, trên vại dán một tấm giấy đỏ với hàng chữ “thuyền từ độ khắp, vui lòng giúp đỡ”. Từ đó ngày nào hắn cũng móc từ vại ra một số tiền không nhỏ. Nếu có ngày hương khách ném quá ít tiền vào vại, hắn sẽ cố ý chèo làm sao cho thuyền dao động thật mạnh, thế là thiện nam tín nữ phải kinh sợ, không thể không quỳ trước tượng Bồ Tát khấn nguyện và ném thêm tiền đồng, tiền bạc vào vại.
Hương khách rất hận nhưng không dám làm mất lòng hắn, dầu sao họ cũng lệ thuộc vào hắn để đi đi về về trên dòng sông ấy!
Có một hôm thuyền không có khách, Đắc Tài bèn đậu thuyền ở ven bờ sông, đem bầu rượu già cùng vài khúc cá khô, ngồi dưới đuôi thuyền mà nhâm nhi hưởng nhàn.
– Ông lái thuyền ơi, cho tôi qua sông nào!
Đột nhiên có một giọng nói thanh t*o trong trẻo từ bờ sông vọng lại. Đắc Tài ngoảnh mặt lại nhìn, ôi chao, thì ra đấy là một cô nương xinh đẹp mỹ miều! Cô gái tay đeo làn tre nhỏ, nửa làn đựng cát vàng óng ánh. Cô mặc nguyên một bộ quần áo màu tím thật là thanh tân, trông cô không khác gì tiên nữ xuống trần. Đắc Tài cảm thấy lòng rạo rực, vội vàng đặt cốc rượu xuống, đưa tay đỡ cô gái xuống thuyền. Nhưng cô gái không để ý tới hắn, nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền một mình. Đắc Tài hơi quê, bẻ mạnh mái chèo tách thuyền ra khỏi bờ sông. Thấy hai bên bờ không có một bóng người, hắn bèn chèo thuyền thật chậm rãi, hai con mắt dán chặt vào người cô gái.
– Cô nương à, cô tới đây cầu phúc hay cầu con vậy?
Cô gái ngồi ngay ngắn trên thuyền, nhẹ cười nhạt mà đáp:
– Tôi cầu thiền.
– Cô cầu thuyền? Đắc Tài cười một cách nham nhở. Thuyền rồng hay thuyền tam bản cũng là thuyền, cô nương muốn thuyền thì tại hạ chính là thuyền đây!
Nói xong hắn bèn lấy chân đá vào mạn thuyền, tay trái liều lĩnh đẩy mái chèo thật mạnh, con thuyền nhỏ bèn lắc lư một cách dữ dội. Nhưng cô gái không hề tỏ vẻ hoảng sợ, chỉ mỉm cười ngồi rất an ổn, làm như thuyền càng lắc cô càng thấy thú vị. Đến khi Đắc Tài mệt lử, nằm dài trước bánh lái giả chết, cô gái mới bước đến, nắm lấy mái chèo và “két, két”, con thuyền lao vun vút trên sông một cách vững chải.
– Hề hề, thì ra cô nương đây cũng là tay chèo thuyền nhà nghề!
Đắc Tài thừa cơ hội vừa nói vừa nắm lấy cánh tay cô gái, nhưng nào ngờ khi nhìn lại thì thấy mình đang nắm đuôi mái chèo gỗ cứng ngắc! Hắn đưa mắt tìm cô gái thì không còn thấy bóng dáng của cô đâu, ngay cả chiếc làn tre cũng không còn nữa.
Đắc Tài bất giác giật mình kinh sợ. Ngay lúc hắn đang kinh hoàng bất an thì bỗng nhiên gió lớn nổi lên, sóng cao tới trời đẩy chiếc thuyền tam bản lên cao rồi “huỵch” một tiếng, đâm xuống một tảng đá lớn vỡ thành gỗ vụn! Đắc Tài khó khăn lắm mới trèo được lên bờ, vội vàng đâm đầu chạy về nhà. Nhưng từ chân núi nhìn lên thì cái nhà gạch ba gian đã bị cuồng phong cuốn đi rồi, bà vợ cũng biến đâu mất! Thế là Đắc Tài trở lại nghèo rớt mồng tơi y hệt như ba năm trước.
Thì ra cô gái chèo thuyền kia chính là Quán Âm đại sĩ hóa thân. Khi cuồng phong lắng xuống, Ngài trở lại bổn tướng trang nghiêm của mình, đứng trên bờ sông bốc một nắm cát trong làn tre rải lên mặt nước, trong phút chốc dòng sông to rộng từ từ bị cát vàng phủ kín. Dòng sông đã biến thành thung lũng, người ta gọi đó là “Phi Sa Áo” (thung lũng cát bay). Từ đấy, hương khách muốn đến Phạm Âm Động không cần phải lệ thuộc vào người lái đò nữa!
#802
Gửi vào 05/07/2014 - 00:25
18. CỔ PHẬT ĐỘNG
Trên núi Phổ Đà, ở phía tây bắc của Thung Lũng Cát Bay, có một động đá gọi là Cổ Phật Động, trong đó có thờ một “nhục thân Phật”. Lai lịch của Cổ Phật Động này là một câu chuyện khá thú vị.
Xưa thật là xưa, trong động này có một vị cao tăng được mọi người gọi là Nhân Quang Sư. Nhân Quang Sư có hai người đệ tử, người lớn tên là Huệ Tính, và người trẻ hơn tên là Huệ Minh.
Thầy Huệ Minh tính tình thật thà trung hậu, trong khi thầy Huệ Tính thì xảo quyệt khôn khéo, biết quan sát sắc mặt và lời nói của sư phụ để chiều theo và lấy lòng. Lúc ra ngoài đường, bao giờ thầy cũng cầm một cây chổi quét một cái rồi mới bước một bước, để tỏ ra rằng thầy là người từ bi, đến một con kiến thầy cũng không nhẫn tâm giẫm lên và giết hại. Khi hai anh em đi hái rau, thầy Huệ Minh thì lo hái rau tươi rau tốt, còn thầy Huệ Tính thì trái lại chỉ hái lá già, lá hư về nấu ăn, ra mòi một bậc chân tu, tu hành khổ hạnh.
Tuy vậy, Nhân Quang Sư vẫn đối đãi với hai đệ tử một cách bình đẳng, không phân biệt thân sơ, khiến Huệ Tính rất phiền não trong lòng.
Không lâu sau, tuổi già sức yếu, Nhân Quang Sư biết đã đến lúc mình sắp viên tịch, trước phút lâm chung ngài căn dặn hai vị đệ tử Huệ Tính và Huệ Minh rằng:
– Thầy lìa trần rồi, hai con hãy lấy một cái vại và bỏ di thể của thầy ở trong ấy. Sau đúng 3 năm 6 tháng, hãy mở vại ra khám. Nếu như di thể của thầy rữa mục thì thôi, coi như không có gì đáng nói, nhưng nếu chân thân không hoại thì điều đó chứng minh thầy đã tu thành chính quả, lên cõi Cực Lạc rồi. Lúc đó các con hãy đem chân thân vào động mà thờ phụng cho người ta đến lễ cúng, hai con hãy nhớ kỹ.
Nhân Quang Sư nói xong liền ngừng thở. Huệ Tính, Huệ Minh làm đúng theo di chúc của thầy.
Sư phụ mất rồi, Huệ Tính mới để lộ bộ mặt thật tham lam của mình. Lúc sinh tiền Nhân Quang Sư thường đeo bên mình một cái hồ lô, Huệ Tính ngỡ rằng trong đó chắc là có bảo vật gì đây nên lấy ra xem, thấy hồ lô trống rỗng. Thầy chúc ngược nó xuống thì thấy có ba hạt ngũ cốc rơi ra: một hạt gạo trắng, một hạt gạo đỏ và một hạt kê. Huệ Tính không tìm thấy vật gì đáng tiền bèn vứt hồ lô rồi bỏ đi. Huệ Minh vội nhặt lên, bỏ ba hạt ngũ cốc vào trở lại như cũ và cẩn thận giấu đi.
Sau ba năm sáu tháng, Huệ Tính và Huệ Minh mở vại ra khám, quả nhiên thấy chân thân bất hoại của Nhân Quang Sư ngồi xếp bằng ngay ngắn trên bồ đoàn, sắc mặt, thần thái không khác gì lúc sinh tiền. Huệ Minh thấy thế thì vô cùng sung sướng, vội sụp xuống lễ lạy, còn Huệ Tính tuy cũng miễn cưỡng lễ một lễ song trong tâm thì bất mãn: Sư phụ lên cõi Cực Lạc, bỏ mặc huynh đệ chúng tôi không thèm lo đến, thật là nhỏ mọn!
Tin đồn rằng Nhân Quang Sư đã để lại chân thân bất hoại thật là nhiệm mầu được lưu truyền khắp Phổ Đà Sơn. Thế là nào tăng nào tục, toàn dân của Phổ Đà Sơn đem bánh trái lên động cúng dường, khiến cái động đá nhỏ bé trở thành nhiệt náo hẳn lên.
Có hai tên vô lại từ Thượng Hải lên Phổ Đà Sơn du ngoạn, nghe tin này bèn nảy ra một ý kiến bất lương. Hai người thông đồng với Huệ Tính, lén trộm “nhục thân Phật” ra khỏi động với một giá hối lộ là 500 đồng tiền, đưa trước 300 đồng, chờ mọi sự thành công tốt đẹp thì mới đưa 200 đồng còn lại.
Đương lúc nửa đêm, Huệ Tính bèn khiêng chân thân của sư phụ đi theo hai tên vô lại lên thuyền chạy về Thượng Hải.
Hôm sau Huệ Minh tắm rửa súc miệng xong, bèn đi thắp hương cho sư phụ như mọi ngày. Nhưng thầy kinh hoàng khám phá Phật tòa trống rỗng, “nhục thân Phật” không biết ở nơi nào. Thầy vội vàng chạy đi tìm sư huynh, sư huynh cũng biệt tăm biệt tích. Huệ Minh chạy cùng khắp Phổ Đà Sơn nhưng vẫn không tìm ra “nhục thân Phật” lẫn sư huynh, nên ngày ngày ngồi trước Phật tòa đau khổ ứa nước mắt.
Một hôm có một vị khách hành hương họ Vương lên tới động. Ông nhìn thấy cái hồ lô trên bàn thờ, mừng quá reo lên:
– Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!
Huệ Minh ngạc nhiên hỏi:
– Khách nhân tìm thấy gì ạ?
Vị khách không trả lời mà hỏi ngược lại:
– Có phải trong cái hồ lô này đã từng đựng một hạt gạo trắng, một hạt gạo đỏ và một hạt kê không?
– Thưa đúng rồi ạ, hiện giờ vẫn còn.
Huệ Minh vừa nói vừa đổ hồ lô ra cho khách xem ba hạt ngũ cốc. Người khách đặt ba hạt ngũ cốc lên lòng bàn tay, ngắm nghía kỹ lưỡng rồi như nghĩ ra chuyện gì:
– Ái dà, thì ra “Muộn Hàng Sư” ở nơi này...
Huệ Minh nói:
– Thầy chúng tôi tên là Nhân Quang Sư, hình như ngài đã gặp thầy chúng tôi rồi thì phải?
Người khách gật đầu, kể lại chuyện xưa.
Thì ra vị hương khách họ Vương sống gần Tô Châu. Hai vợ chồng tới trung niên mới có được một cậu con trai nên cưng quý vô cùng. Nào ngờ từ khi mới lọt lòng, thằng bé không ngừng gào khóc, bao nhiêu y sư thuốc thang đều không chút công hiệu nên hai vợ chồng vô cùng khổ não. Vừa may Nhân Quang Sư đến Tô Châu, đi ngang cửa nhà hai vợ chồng họ Vương, thấy một cô nữ tỳ đang bồng một đứa trẻ sơ sinh và cô dỗ dành thế nào đi nữa đứa bé cũng không ngừng la khóc. Nhân Quang Sư đến gần, đưa tay ra nhè nhẹ vuốt lên đầu thằng bé, tiếng khóc của đứa bé nhỏ dần tức thì. Ngài vuốt một cái nữa, tiếng khóc ngừng bặt. Vuốt lần thứ ba, đứa bé toét miệng ra cười tuy mặt còn đầm đìa nước mắt, nụ cười ngây thơ của nó khiến ai thấy cũng phải thương.
Vợ chồng họ Vương biết được có một vị hòa thượng chữa được bệnh khóc của con thì vội vàng mời Nhân Quang Sư vào nhà, cảm tạ không ngớt lời. Họ hỏi xem phải chăng Nhân Quang Sư đang đi hóa duyên? Ngài hóa tiền hay hóa thức ăn? Nhân Quang Sư đáp: Hóa thức ăn.
Vợ chồng họ Vương vội mở rộng cửa nhà kho, thỉnh Nhân Quang Sư tùy tiện muốn lấy bao nhiêu lúa gạo thì lấy. Nhân Quang Sư chỉ lấy ba hạt ngũ cốc, một hạt gạo trắng, một hạt gạo đỏ và một hạt kê, bỏ vào cái hồ lô đeo trên lưng, miệng niệm “A Di Đà Phật” rồi thong thả quay đi.
Hai vợ chồng vội chạy theo hỏi:
– Cao tăng pháp hiệu là gì? Núi tiên Ngài tu ở chỗ nào?
Nhưng họ chỉ loáng thoáng nghe ngài đáp từ xa:
– Tôi ở Nam Hải Phổ Đà, người ta gọi tôi là Muộn Hàng sư.
Chuyện này xảy ra đã gần mười năm rồi, bây giờ đứa con đã lớn, vị khách họ Vương vẫn không quên công đức của Nhân Quang Sư, nên đặc biệt đến Phổ Đà để tìm ngài.
Vì đọc sai tên Nhân Quang Sư thành Muộn Hàng Sư nên ông tìm thật lâu mà tìm không ra, nay nhìn thấy cái hồ lô và ba hạt ngũ cốc mới nhận được người.
Thầy Huệ Minh nghe khách kể lại chuyện xưa thì cảm động vô hạn, tuôn nước mắt mà nói:
– Khách nhân không biết đó thôi, sư phụ chúng tôi tạ thế đã hơn ba năm rồi. Ngài có để lại chân thân bất hoại nhưng đã bị kẻ trộm lấy đi mất rồi.
Vị khách họ Vương nghe thế giật mình:
– Xin lỗi thầy, chân thân của Nhân Quang Sư bị cướp đi bao lâu rồi?
– Gần một tuần rồi.
Vị khách vỗ đầu gối nói:
– Đúng rồi, đúng rồi, thảo nào khi tôi đi ngang Thượng Hải nghe có người nói là “Đại Thế Giới” đang triển lãm “Nhục thân Phật”, người đến xem như kiến. Chắc chắn đó là chân thân của Nhân Quang Sư rồi.
Huệ Minh nghe chân thân của thầy bị đem đi triển lãm như thế thì đau lòng khóc òa lên. Khách họ Vương an ủi:
– Thầy yên tâm đi, tôi, Vương mỗ, sẽ đem chân thân của ngài Nhân Quang Sư về Phổ Đà Sơn, dẫu có phải bỏ mình đi nữa! Ngày mai chúng ta đi Thượng Hải.
Nói lại về hai tên vô lại đem “nhục thân Phật” trộm được đến Thượng Hải triển lãm ở Đại Thế Giới. Nào ngờ “nhục thân Phật” này, ba ngày đầu thì còn coi được, ba ngày sau thì da và thịt từ từ tuột xuống còn lại có một bộ xương người chết. Khách đến xem ai cũng sợ hãi bỏ trốn, và kết tội ông chủ của Đại Thế Giới là tên bịp bợm, lừa tiền người ta, rồi còn đem lên cửa quan tố cáo. Ông chủ của Đại Thế Giới một mặt thâu “nhục thân Phật” về, một mặt đi tìm thầy Huệ Tính thanh toán, không những đòi lại số tiền 300 đồng đã đặt trước mà còn đánh cho thầy một trận nên thân. Thầy Huệ Tính vừa giận vừa hối hận, chiều hôm ấy hộc máu tươi, nằm liệt trên giường không dậy nổi.
Chính lúc đó, vị khách họ Vương đưa Huệ Minh đến Thượng Hải. Hai người đến cửa quan để kiện, những vị quan ở đấy sợ dư luận công chúng nên vội vàng đòi ông chủ của Đại Thế Giới phải đưa “nhục thân Phật” về Phổ Đà Sơn và bồi thường một số tiền tổn thất cho chùa.
Thắng kiện rồi, Huệ Minh đến quán trọ thăm sư huynh vừa bệnh vừa sạt nghiệp, Huệ Tính khóc nức nở, xấu hổ muốn chết quách. Huệ Minh thấy sư huynh đã biết hối lỗi nên không trách móc lấy một lời, trả tiền cơm nước quán trọ và thuốc men rồi dìu thầy lên thuyền trở về Phổ Đà Sơn.
“Nhục thân Phật” về đến động núi, người khách họ Vương bèn mời thợ giỏi, thợ khéo về điểm trang lại và giát vàng lên nhục thân, mua sắm bàn ghế, màn trướng toàn bộ mới tinh, và còn xây một cái am nhỏ trước mặt động để thờ phụng nhục thân của hoà thượng Nhân Quang Sư, bây giờ đã được người ta tôn xưng là “Cổ Phật”.
Từ đấy, trước cảnh sắc mới mẻ, khách hành hương trở lại đông đảo hơn trước. Mọi người tranh nhau đến chiêm ngưỡng và lễ bái “nhục thân Phật” trong động, và cũng từ đó mà động đá này được đặt tên là Cổ Phật Động.
Trên núi Phổ Đà, ở phía tây bắc của Thung Lũng Cát Bay, có một động đá gọi là Cổ Phật Động, trong đó có thờ một “nhục thân Phật”. Lai lịch của Cổ Phật Động này là một câu chuyện khá thú vị.
Xưa thật là xưa, trong động này có một vị cao tăng được mọi người gọi là Nhân Quang Sư. Nhân Quang Sư có hai người đệ tử, người lớn tên là Huệ Tính, và người trẻ hơn tên là Huệ Minh.
Thầy Huệ Minh tính tình thật thà trung hậu, trong khi thầy Huệ Tính thì xảo quyệt khôn khéo, biết quan sát sắc mặt và lời nói của sư phụ để chiều theo và lấy lòng. Lúc ra ngoài đường, bao giờ thầy cũng cầm một cây chổi quét một cái rồi mới bước một bước, để tỏ ra rằng thầy là người từ bi, đến một con kiến thầy cũng không nhẫn tâm giẫm lên và giết hại. Khi hai anh em đi hái rau, thầy Huệ Minh thì lo hái rau tươi rau tốt, còn thầy Huệ Tính thì trái lại chỉ hái lá già, lá hư về nấu ăn, ra mòi một bậc chân tu, tu hành khổ hạnh.
Tuy vậy, Nhân Quang Sư vẫn đối đãi với hai đệ tử một cách bình đẳng, không phân biệt thân sơ, khiến Huệ Tính rất phiền não trong lòng.
Không lâu sau, tuổi già sức yếu, Nhân Quang Sư biết đã đến lúc mình sắp viên tịch, trước phút lâm chung ngài căn dặn hai vị đệ tử Huệ Tính và Huệ Minh rằng:
– Thầy lìa trần rồi, hai con hãy lấy một cái vại và bỏ di thể của thầy ở trong ấy. Sau đúng 3 năm 6 tháng, hãy mở vại ra khám. Nếu như di thể của thầy rữa mục thì thôi, coi như không có gì đáng nói, nhưng nếu chân thân không hoại thì điều đó chứng minh thầy đã tu thành chính quả, lên cõi Cực Lạc rồi. Lúc đó các con hãy đem chân thân vào động mà thờ phụng cho người ta đến lễ cúng, hai con hãy nhớ kỹ.
Nhân Quang Sư nói xong liền ngừng thở. Huệ Tính, Huệ Minh làm đúng theo di chúc của thầy.
Sư phụ mất rồi, Huệ Tính mới để lộ bộ mặt thật tham lam của mình. Lúc sinh tiền Nhân Quang Sư thường đeo bên mình một cái hồ lô, Huệ Tính ngỡ rằng trong đó chắc là có bảo vật gì đây nên lấy ra xem, thấy hồ lô trống rỗng. Thầy chúc ngược nó xuống thì thấy có ba hạt ngũ cốc rơi ra: một hạt gạo trắng, một hạt gạo đỏ và một hạt kê. Huệ Tính không tìm thấy vật gì đáng tiền bèn vứt hồ lô rồi bỏ đi. Huệ Minh vội nhặt lên, bỏ ba hạt ngũ cốc vào trở lại như cũ và cẩn thận giấu đi.
Sau ba năm sáu tháng, Huệ Tính và Huệ Minh mở vại ra khám, quả nhiên thấy chân thân bất hoại của Nhân Quang Sư ngồi xếp bằng ngay ngắn trên bồ đoàn, sắc mặt, thần thái không khác gì lúc sinh tiền. Huệ Minh thấy thế thì vô cùng sung sướng, vội sụp xuống lễ lạy, còn Huệ Tính tuy cũng miễn cưỡng lễ một lễ song trong tâm thì bất mãn: Sư phụ lên cõi Cực Lạc, bỏ mặc huynh đệ chúng tôi không thèm lo đến, thật là nhỏ mọn!
Tin đồn rằng Nhân Quang Sư đã để lại chân thân bất hoại thật là nhiệm mầu được lưu truyền khắp Phổ Đà Sơn. Thế là nào tăng nào tục, toàn dân của Phổ Đà Sơn đem bánh trái lên động cúng dường, khiến cái động đá nhỏ bé trở thành nhiệt náo hẳn lên.
Có hai tên vô lại từ Thượng Hải lên Phổ Đà Sơn du ngoạn, nghe tin này bèn nảy ra một ý kiến bất lương. Hai người thông đồng với Huệ Tính, lén trộm “nhục thân Phật” ra khỏi động với một giá hối lộ là 500 đồng tiền, đưa trước 300 đồng, chờ mọi sự thành công tốt đẹp thì mới đưa 200 đồng còn lại.
Đương lúc nửa đêm, Huệ Tính bèn khiêng chân thân của sư phụ đi theo hai tên vô lại lên thuyền chạy về Thượng Hải.
Hôm sau Huệ Minh tắm rửa súc miệng xong, bèn đi thắp hương cho sư phụ như mọi ngày. Nhưng thầy kinh hoàng khám phá Phật tòa trống rỗng, “nhục thân Phật” không biết ở nơi nào. Thầy vội vàng chạy đi tìm sư huynh, sư huynh cũng biệt tăm biệt tích. Huệ Minh chạy cùng khắp Phổ Đà Sơn nhưng vẫn không tìm ra “nhục thân Phật” lẫn sư huynh, nên ngày ngày ngồi trước Phật tòa đau khổ ứa nước mắt.
Một hôm có một vị khách hành hương họ Vương lên tới động. Ông nhìn thấy cái hồ lô trên bàn thờ, mừng quá reo lên:
– Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!
Huệ Minh ngạc nhiên hỏi:
– Khách nhân tìm thấy gì ạ?
Vị khách không trả lời mà hỏi ngược lại:
– Có phải trong cái hồ lô này đã từng đựng một hạt gạo trắng, một hạt gạo đỏ và một hạt kê không?
– Thưa đúng rồi ạ, hiện giờ vẫn còn.
Huệ Minh vừa nói vừa đổ hồ lô ra cho khách xem ba hạt ngũ cốc. Người khách đặt ba hạt ngũ cốc lên lòng bàn tay, ngắm nghía kỹ lưỡng rồi như nghĩ ra chuyện gì:
– Ái dà, thì ra “Muộn Hàng Sư” ở nơi này...
Huệ Minh nói:
– Thầy chúng tôi tên là Nhân Quang Sư, hình như ngài đã gặp thầy chúng tôi rồi thì phải?
Người khách gật đầu, kể lại chuyện xưa.
Thì ra vị hương khách họ Vương sống gần Tô Châu. Hai vợ chồng tới trung niên mới có được một cậu con trai nên cưng quý vô cùng. Nào ngờ từ khi mới lọt lòng, thằng bé không ngừng gào khóc, bao nhiêu y sư thuốc thang đều không chút công hiệu nên hai vợ chồng vô cùng khổ não. Vừa may Nhân Quang Sư đến Tô Châu, đi ngang cửa nhà hai vợ chồng họ Vương, thấy một cô nữ tỳ đang bồng một đứa trẻ sơ sinh và cô dỗ dành thế nào đi nữa đứa bé cũng không ngừng la khóc. Nhân Quang Sư đến gần, đưa tay ra nhè nhẹ vuốt lên đầu thằng bé, tiếng khóc của đứa bé nhỏ dần tức thì. Ngài vuốt một cái nữa, tiếng khóc ngừng bặt. Vuốt lần thứ ba, đứa bé toét miệng ra cười tuy mặt còn đầm đìa nước mắt, nụ cười ngây thơ của nó khiến ai thấy cũng phải thương.
Vợ chồng họ Vương biết được có một vị hòa thượng chữa được bệnh khóc của con thì vội vàng mời Nhân Quang Sư vào nhà, cảm tạ không ngớt lời. Họ hỏi xem phải chăng Nhân Quang Sư đang đi hóa duyên? Ngài hóa tiền hay hóa thức ăn? Nhân Quang Sư đáp: Hóa thức ăn.
Vợ chồng họ Vương vội mở rộng cửa nhà kho, thỉnh Nhân Quang Sư tùy tiện muốn lấy bao nhiêu lúa gạo thì lấy. Nhân Quang Sư chỉ lấy ba hạt ngũ cốc, một hạt gạo trắng, một hạt gạo đỏ và một hạt kê, bỏ vào cái hồ lô đeo trên lưng, miệng niệm “A Di Đà Phật” rồi thong thả quay đi.
Hai vợ chồng vội chạy theo hỏi:
– Cao tăng pháp hiệu là gì? Núi tiên Ngài tu ở chỗ nào?
Nhưng họ chỉ loáng thoáng nghe ngài đáp từ xa:
– Tôi ở Nam Hải Phổ Đà, người ta gọi tôi là Muộn Hàng sư.
Chuyện này xảy ra đã gần mười năm rồi, bây giờ đứa con đã lớn, vị khách họ Vương vẫn không quên công đức của Nhân Quang Sư, nên đặc biệt đến Phổ Đà để tìm ngài.
Vì đọc sai tên Nhân Quang Sư thành Muộn Hàng Sư nên ông tìm thật lâu mà tìm không ra, nay nhìn thấy cái hồ lô và ba hạt ngũ cốc mới nhận được người.
Thầy Huệ Minh nghe khách kể lại chuyện xưa thì cảm động vô hạn, tuôn nước mắt mà nói:
– Khách nhân không biết đó thôi, sư phụ chúng tôi tạ thế đã hơn ba năm rồi. Ngài có để lại chân thân bất hoại nhưng đã bị kẻ trộm lấy đi mất rồi.
Vị khách họ Vương nghe thế giật mình:
– Xin lỗi thầy, chân thân của Nhân Quang Sư bị cướp đi bao lâu rồi?
– Gần một tuần rồi.
Vị khách vỗ đầu gối nói:
– Đúng rồi, đúng rồi, thảo nào khi tôi đi ngang Thượng Hải nghe có người nói là “Đại Thế Giới” đang triển lãm “Nhục thân Phật”, người đến xem như kiến. Chắc chắn đó là chân thân của Nhân Quang Sư rồi.
Huệ Minh nghe chân thân của thầy bị đem đi triển lãm như thế thì đau lòng khóc òa lên. Khách họ Vương an ủi:
– Thầy yên tâm đi, tôi, Vương mỗ, sẽ đem chân thân của ngài Nhân Quang Sư về Phổ Đà Sơn, dẫu có phải bỏ mình đi nữa! Ngày mai chúng ta đi Thượng Hải.
Nói lại về hai tên vô lại đem “nhục thân Phật” trộm được đến Thượng Hải triển lãm ở Đại Thế Giới. Nào ngờ “nhục thân Phật” này, ba ngày đầu thì còn coi được, ba ngày sau thì da và thịt từ từ tuột xuống còn lại có một bộ xương người chết. Khách đến xem ai cũng sợ hãi bỏ trốn, và kết tội ông chủ của Đại Thế Giới là tên bịp bợm, lừa tiền người ta, rồi còn đem lên cửa quan tố cáo. Ông chủ của Đại Thế Giới một mặt thâu “nhục thân Phật” về, một mặt đi tìm thầy Huệ Tính thanh toán, không những đòi lại số tiền 300 đồng đã đặt trước mà còn đánh cho thầy một trận nên thân. Thầy Huệ Tính vừa giận vừa hối hận, chiều hôm ấy hộc máu tươi, nằm liệt trên giường không dậy nổi.
Chính lúc đó, vị khách họ Vương đưa Huệ Minh đến Thượng Hải. Hai người đến cửa quan để kiện, những vị quan ở đấy sợ dư luận công chúng nên vội vàng đòi ông chủ của Đại Thế Giới phải đưa “nhục thân Phật” về Phổ Đà Sơn và bồi thường một số tiền tổn thất cho chùa.
Thắng kiện rồi, Huệ Minh đến quán trọ thăm sư huynh vừa bệnh vừa sạt nghiệp, Huệ Tính khóc nức nở, xấu hổ muốn chết quách. Huệ Minh thấy sư huynh đã biết hối lỗi nên không trách móc lấy một lời, trả tiền cơm nước quán trọ và thuốc men rồi dìu thầy lên thuyền trở về Phổ Đà Sơn.
“Nhục thân Phật” về đến động núi, người khách họ Vương bèn mời thợ giỏi, thợ khéo về điểm trang lại và giát vàng lên nhục thân, mua sắm bàn ghế, màn trướng toàn bộ mới tinh, và còn xây một cái am nhỏ trước mặt động để thờ phụng nhục thân của hoà thượng Nhân Quang Sư, bây giờ đã được người ta tôn xưng là “Cổ Phật”.
Từ đấy, trước cảnh sắc mới mẻ, khách hành hương trở lại đông đảo hơn trước. Mọi người tranh nhau đến chiêm ngưỡng và lễ bái “nhục thân Phật” trong động, và cũng từ đó mà động đá này được đặt tên là Cổ Phật Động.
#803
Gửi vào 05/07/2014 - 04:37
19. KỶ BẢO LĨNH
Thiên Bộ Sa và Bách Bộ Sa được nối liền với nhau bằng một ngọn núi nhỏ, giống như cái kỷ trà tựa sát vào cái ghế, và trên ấy rải rác rất nhiều những hòn đá lớn đá nhỏ khác nhau, thiên hình vạn trạng, giống như vô số ngọc ngà châu báu được rải lên kỷ trà vậy. Vì vậy mà người ta gọi chỗ ấy là “Kỷ Bảo Lĩnh”.
Truyền rằng những hòn đá nói trên đã từng thật sự là trân châu mã não, vàng bạc châu báu biến thành.
Trên sườn núi phía đông của Kỷ Bảo Lĩnh có một cái am tên là Duyệt Lĩnh, thật ra chỉ là một túp lều tranh thuộc quản hạt của chùa Pháp Vũ.
Thời ấy, thầy trụ trì chùa Pháp Vũ chỉ chu cấp thức ăn và áo mặc cho mỗi một người trong mỗi túp lều mà thôi, mà am Duyệt Lĩnh lại có hai vị thầy tu. Để bù vào chỗ thiếu, vị thầy đương gia của am Duyệt Lĩnh tên là Trân Đạo gọi sư đệ là chú Tính Lương đi khai khẩn một thửa ruộng nhỏ ở bên cạnh am, mỗi năm bốn mùa cũng gặt hái được khá nhiều rau cải.
Am Duyệt Lĩnh chỉ là một túp lều tranh nên tiền hương đèn cúng dường thâu được không bao nhiêu, vì thế thầy Trân Đạo nhất tâm nhất ý muốn xây một ngôi chùa lớn.
Có một năm kia, thầy Trân Đạo kêu đau lưng, mỏi vai nên bảo chú Tính Lương tới thửa ruộng nọ trở đất. Chú Tính Lương phải dùng hết sức lực huy động cây đinh ba để trở đất, trở hoài trở mãi, trở cho tới phân nửa thửa ruộng. Chú bổ xuống một phát đinh ba thì phát giác một cái động, qua một lỗ nhỏ bằng cái miệng chén, phóng lên những tia ánh sáng chói lọi. Lấy làm lạ, Tính Lương muốn coi ánh sáng đó từ đâu ra, nên lại gắng sức đào đất. Đột nhiên, “huỵch” một tiếng, Tính Lương rơi xuống một cái động lớn. Trong động có một loại sánh sáng kỳ lạ, thì ra đó là trân châu chiếu chói cả mắt.
Đây là đâu? Tính Lương nhìn một cách kỹ lưỡng, ui da! nguyên cái động như một cái ổ chim, bốn bề là vách đá, bên trong có 18 cái chum đựng vàng sáng chói, 18 chum khác đầy bạc sáng lòa và và 18 chum nữa đựng đầy trân châu mã não đủ màu đủ sắc!
Đúng lúc chú tiểu Tính Lương đang đứng ngây người ra nhìn, thì trong động vang lên âm thanh rổn rảng:
“Tính Lương , Tính Lương, thật thà hiền lương, muốn vàng muốn bạc, cứ lấy mà hưởng!”
Chú Tính Lương ngạc nhiên nhìn quanh bốn phía, không thấy có hình bóng một người nào, bèn hỏi:
– Ông là ai?
– Ta là Thạch Hòa thượng. Chú muốn lấy gì thì lấy, muốn bao nhiêu lấy bấy nhiêu, mau lấy đi!
Tính Lương nhìn chum này, ngó chum kia, cuối cùng chỉ chọn một viên trân châu sáng chói cả mắt.
Đôi mắt sáng quắc của Thạch Hòa thượng loang loáng hiện lên trên vách tường:
“Tính Lương, Tính Lương, thật thà hiền lương, chỉ lấy một thứ, sau có hối chăng?”
– Viên ngọc sáng chói như thế, con lấy để làm đèn soi đường, thế cũng đủ rồi, không nên tham lam!
Tính Lương vừa trả lời vừa leo lên miệng động. Chú quay đầu lại nhìn thì không thấy động bảo vật đâu nữa. Chú ngây người một lúc, rồi cắm đầu trở đất tiếp.
Gần chiều tối, Tính Lương trở về thiền phòng, hân hoan lấy viên trân châu từ trong ngực áo ra. Úi dào! Cả phòng sáng rực! Đúng lúc ấy thầy Trân Đạo về tới, nhìn thấy ánh sáng của trân châu, bèn buộc miệng la lên:
– Ôi! Dạ minh châu!
Vừa nói, bèn chụp lấy hạt bảo châu và hỏi luôn mồm:
– Sư đệ, chú lượm cái này ở đâu ra vậy?
Tính Lương nở một nụ cười mộc mạc, và đem chuyện chiều qua đã xảy ra lúc chú trở đất ngoài ruộng kể lại hết cho sư huynh nghe. Thầy Trân Đạo nghe kể thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng:
– Sư đệ ơi, vậy là Bồ Tát tặng vàng bạc tài sản cho mái chùa nghèo của chúng ta rồi đó. Chuyện này tuyệt đối chú không được nói cho người ngoài biết, nghe chưa?
Tính Lương ậm ừ vâng dạ rồi lo đi làm công phu khuya, xong lên giuờng đi ngủ. Nhưng thầy Trân Đạo thì làm sao ngủ được! Thầy mở mắt thao láo, mơ hồ nhìn thấy từng chum, từng chum đựng đầy vàng óng ánh, rồi từng chum, từng chum đựng đầy bạc chói loà nhảy múa tiến tới trước mặt mình… Thầy nhẫn nhục chịu đựng như thế cho tới nửa đêm, rồi nhẹ nhàng bước ra khỏi giường, cõng cái đinh ba len lén dọ dẫm ra đến giữa ruộng, mau mắn đào lấy đào để. Đào hoài đào mãi cho tới khi cái hố đã lớn đại rồi mà vẫn chưa thấy vàng bạc gì cả. Thầy tiếp tục đào cho tới khi phương Đông hừng sáng thì mệt mỏi kiệt sức, tiu nghĩu ủ ê trở về chùa.
Sáng sớm ngày hôm sau, Tính Lương đi ra ruộng dồn đất đã xới đắp lên thành luống, thấy cái hố lớn ở ngay giữa ruộng, ngỡ rằng bảo vật đã bị người ta cướp mất, vội vàng trở về báo cho sư huynh biết. Thầy Trân Đạo nghe dở khóc dở cười, tròng mắt láo liên, nói với Tính Lương:
– Chắc sư đệ nằm mộng đó. Thôi, hôm nay chú đi đào bảo vật lấy thêm vàng bạc đi. Có vàng có bạc mình mới có thể mở lớn ngôi chùa, sửa sang cho mới mẻ, đó là một cơ hội làm công đức ngàn năm mới có một lần đó chú à.
Tính Lương suy nghĩ một lúc thấy cũng có lý, nên lại đi đào bảo vật. Không lâu sau, chú đào được đến cửa động, từ từ trèo xuống, thấy từng chum từng chum vàng bạc châu báu ở bên trong mới yên lòng, chắp tay lại nói:
– Bạch Thạch Hòa Thượng, hôm nay con lại đến nữa! Sư huynh con nói có vàng có bạc mới có thể mở lớn và sửa sang mái chùa lá. Lần này cho con xin thêm một chút vàng bạc nữa nhé.
Cặp mắt sáng loang loáng của Thạch Hòa thượng lại chiếu rực trên vách tường, hoà thượng cười nói:
“Tính Lương, Tính Lương, thật thà hiền lương, muốn nhiều muốn ít, tùy ý lấy đi!”
Tính Lương nghe thế mới cẩn thận nhặt lên ba khối vàng, xong lại nhặt lên ba khối bạc, rồi hứng chí trèo ra khỏi động đem về chùa giao hết sáu khối vàng bạc cho sư huynh. Thầy Trân Đạo vui lòng tươi cười hỏi:
– Sư đệ, chú tìm ra lại động bảo vật rồi phải không?
Tính Lương đáp:
– Vâng, tìm thấy rồi, vẫn còn đầy bảo vật ở trong ấy.
Thầy Trân Đạo nghe vậy càng vui mừng hơn nữa:
– Tìm thấy rồi sao chỉ lấy về ít quá vậy?
Tính Lương thật thà cười:
– Chính sư huynh nói với tiểu đệ là có vàng có bạc mới xây mới lại ngôi chùa lá của mình, thì sáu khối vàng bạc này đủ để làm chuyện đó rồi!
Thầy Trân Đạo cứng lưỡi, bực dọc trở về thiền phòng tự nghĩ:
– Mình đào cả đêm mà đào không thấy, còn nó mới đi có chút xíu mà đã tìm ra, tại sao lạ vậy?
Thầy Trân Đạo muốn số châu báu trong động phải là của mình toàn bộ, nên trong lòng cứ nóng như lửa đốt. Đêm hôm ấy, thầy tắm rửa thắp hương, bái lạy Bồ Tát rồi lại lén ra ruộng đào bảo vật. Nhưng thầy đào liên tiếp ba đêm mà đêm nào cũng về tay không. Không biết làm cách nào hơn, thầy đành chỉ biết dỗ ngọt Tính Lương, bảo chú đi đào một lần nữa, còn mình thì sẽ đi theo sau bén gót. Đào tới động bảo vật rồi, nhưng khi trèo xuống thì thấy bốn bề trong động trống rỗng, cái động trước đây vốn đầy chum vàng chum bạc mà nay không còn chum nào cả.
Thầy Trân Đạo đấm lưng đấm ngực giận dữ mắng rằng:
– Tính Lương, mi muốn giấu bảo vật dành cho riêng mình phải không? Hừ, nếu hôm nay mà tìm không ra bảo vật thì ta sẽ đến gặp sư phụ trụ trì, tố cáo mi tội “thấy vàng mờ ám lương tâm, làm điều sỉ nhục Phật môn” cho mi xem!
Đáng thương thay cho Tính Lương, cực khổ đào đất cả đêm rồi mà còn bị ghép tội oan uổng, đỏ mặt tía tai mà không nói được nửa câu bào chữa!
Ngay lúc ấy cặp mắt loang loáng sáng của Thạch Hòa thượng hiện lên trên vách đá:
“Tính Lương hiền lương, lại bị oan uổng; Trân Đạo vô đạo, tham lam phát cuồng!”
– Yêu quái, yêu quái!
Nghe tiếng của Thạch Hòa thượng, thầy Trân Đạo sợ mất cả hồn vía, quay đầu trèo trở lên nhưng quá hoảng sợ nên cứ hễ trèo lên thì lại tụt xuống, cuối cùng Tính Lương phải lấy cây đinh ba bợ mông của thầy để giúp cho thầy lên tới được mặt đất.
Tiếng cười của Thạch Hòa thượng lại vang lên, hòa thượng một mặt cười, một mặt từ vách đá bước xuống, chỉ cái túi đầy ắp châu báu đang cõng trên lưng mà nói với thầy Trân Đạo rằng:
– Mấy người đào lung tung làm vỡ hết mấy cái chum của ta, nay ta sẽ đem mấy thứ bảo vật này kiếm ngọn núi tiên khác ở cho yên thân.
Nói xong, hòa thượng ra khỏi động, hướng lên dốc núi bắt đầu trèo lên. Thầy Trân Đạo lo sợ quá, bèn đoạt lấy cây đinh ba từ trên tay chú Tính Lương, rượt theo Thạch Hòa thượng lên núi. Rượt lên tới đỉnh núi, không cần biết gì nữa, thầy phát một nhát đinh ba vào túi châu báu. Chỉ nghe “linh đinh đinh”, bao nhiêu trân châu mã não, vàng bạc châu báu đều rơi lông lốc rải rác đầy trên sườn núi, nhưng chỉ trong nháy mắt là tất cả đều biến thành những hòn đá to đá nhỏ!
Thầy Trân Đạo buồn phiền vô hạn, bỏ trở về chùa lá nằm dài ba ngày ba đêm. Trong suốt ba ngày ba đêm ấy thầy suy nghĩ cạn cùng, thấy rằng tham lam thật là một điều không ổn.
Để chứng tỏ lòng thành của mình, thầy Trân Đạo bèn đi đổi hết mấy khối bạc khối vàng lấy tiền xây lên một ngôi thiền viện rộng lớn, hiện nay chính là am Duyệt Lĩnh. Trước cửa am có một cái ao nguyệt ấn, chính là cái hố mà ngày xưa thầy đã đào, còn lưu lại cho đến ngày nay!
Thiên Bộ Sa và Bách Bộ Sa được nối liền với nhau bằng một ngọn núi nhỏ, giống như cái kỷ trà tựa sát vào cái ghế, và trên ấy rải rác rất nhiều những hòn đá lớn đá nhỏ khác nhau, thiên hình vạn trạng, giống như vô số ngọc ngà châu báu được rải lên kỷ trà vậy. Vì vậy mà người ta gọi chỗ ấy là “Kỷ Bảo Lĩnh”.
Truyền rằng những hòn đá nói trên đã từng thật sự là trân châu mã não, vàng bạc châu báu biến thành.
Trên sườn núi phía đông của Kỷ Bảo Lĩnh có một cái am tên là Duyệt Lĩnh, thật ra chỉ là một túp lều tranh thuộc quản hạt của chùa Pháp Vũ.
Thời ấy, thầy trụ trì chùa Pháp Vũ chỉ chu cấp thức ăn và áo mặc cho mỗi một người trong mỗi túp lều mà thôi, mà am Duyệt Lĩnh lại có hai vị thầy tu. Để bù vào chỗ thiếu, vị thầy đương gia của am Duyệt Lĩnh tên là Trân Đạo gọi sư đệ là chú Tính Lương đi khai khẩn một thửa ruộng nhỏ ở bên cạnh am, mỗi năm bốn mùa cũng gặt hái được khá nhiều rau cải.
Am Duyệt Lĩnh chỉ là một túp lều tranh nên tiền hương đèn cúng dường thâu được không bao nhiêu, vì thế thầy Trân Đạo nhất tâm nhất ý muốn xây một ngôi chùa lớn.
Có một năm kia, thầy Trân Đạo kêu đau lưng, mỏi vai nên bảo chú Tính Lương tới thửa ruộng nọ trở đất. Chú Tính Lương phải dùng hết sức lực huy động cây đinh ba để trở đất, trở hoài trở mãi, trở cho tới phân nửa thửa ruộng. Chú bổ xuống một phát đinh ba thì phát giác một cái động, qua một lỗ nhỏ bằng cái miệng chén, phóng lên những tia ánh sáng chói lọi. Lấy làm lạ, Tính Lương muốn coi ánh sáng đó từ đâu ra, nên lại gắng sức đào đất. Đột nhiên, “huỵch” một tiếng, Tính Lương rơi xuống một cái động lớn. Trong động có một loại sánh sáng kỳ lạ, thì ra đó là trân châu chiếu chói cả mắt.
Đây là đâu? Tính Lương nhìn một cách kỹ lưỡng, ui da! nguyên cái động như một cái ổ chim, bốn bề là vách đá, bên trong có 18 cái chum đựng vàng sáng chói, 18 chum khác đầy bạc sáng lòa và và 18 chum nữa đựng đầy trân châu mã não đủ màu đủ sắc!
Đúng lúc chú tiểu Tính Lương đang đứng ngây người ra nhìn, thì trong động vang lên âm thanh rổn rảng:
“Tính Lương , Tính Lương, thật thà hiền lương, muốn vàng muốn bạc, cứ lấy mà hưởng!”
Chú Tính Lương ngạc nhiên nhìn quanh bốn phía, không thấy có hình bóng một người nào, bèn hỏi:
– Ông là ai?
– Ta là Thạch Hòa thượng. Chú muốn lấy gì thì lấy, muốn bao nhiêu lấy bấy nhiêu, mau lấy đi!
Tính Lương nhìn chum này, ngó chum kia, cuối cùng chỉ chọn một viên trân châu sáng chói cả mắt.
Đôi mắt sáng quắc của Thạch Hòa thượng loang loáng hiện lên trên vách tường:
“Tính Lương, Tính Lương, thật thà hiền lương, chỉ lấy một thứ, sau có hối chăng?”
– Viên ngọc sáng chói như thế, con lấy để làm đèn soi đường, thế cũng đủ rồi, không nên tham lam!
Tính Lương vừa trả lời vừa leo lên miệng động. Chú quay đầu lại nhìn thì không thấy động bảo vật đâu nữa. Chú ngây người một lúc, rồi cắm đầu trở đất tiếp.
Gần chiều tối, Tính Lương trở về thiền phòng, hân hoan lấy viên trân châu từ trong ngực áo ra. Úi dào! Cả phòng sáng rực! Đúng lúc ấy thầy Trân Đạo về tới, nhìn thấy ánh sáng của trân châu, bèn buộc miệng la lên:
– Ôi! Dạ minh châu!
Vừa nói, bèn chụp lấy hạt bảo châu và hỏi luôn mồm:
– Sư đệ, chú lượm cái này ở đâu ra vậy?
Tính Lương nở một nụ cười mộc mạc, và đem chuyện chiều qua đã xảy ra lúc chú trở đất ngoài ruộng kể lại hết cho sư huynh nghe. Thầy Trân Đạo nghe kể thì vừa kinh ngạc vừa vui mừng:
– Sư đệ ơi, vậy là Bồ Tát tặng vàng bạc tài sản cho mái chùa nghèo của chúng ta rồi đó. Chuyện này tuyệt đối chú không được nói cho người ngoài biết, nghe chưa?
Tính Lương ậm ừ vâng dạ rồi lo đi làm công phu khuya, xong lên giuờng đi ngủ. Nhưng thầy Trân Đạo thì làm sao ngủ được! Thầy mở mắt thao láo, mơ hồ nhìn thấy từng chum, từng chum đựng đầy vàng óng ánh, rồi từng chum, từng chum đựng đầy bạc chói loà nhảy múa tiến tới trước mặt mình… Thầy nhẫn nhục chịu đựng như thế cho tới nửa đêm, rồi nhẹ nhàng bước ra khỏi giường, cõng cái đinh ba len lén dọ dẫm ra đến giữa ruộng, mau mắn đào lấy đào để. Đào hoài đào mãi cho tới khi cái hố đã lớn đại rồi mà vẫn chưa thấy vàng bạc gì cả. Thầy tiếp tục đào cho tới khi phương Đông hừng sáng thì mệt mỏi kiệt sức, tiu nghĩu ủ ê trở về chùa.
Sáng sớm ngày hôm sau, Tính Lương đi ra ruộng dồn đất đã xới đắp lên thành luống, thấy cái hố lớn ở ngay giữa ruộng, ngỡ rằng bảo vật đã bị người ta cướp mất, vội vàng trở về báo cho sư huynh biết. Thầy Trân Đạo nghe dở khóc dở cười, tròng mắt láo liên, nói với Tính Lương:
– Chắc sư đệ nằm mộng đó. Thôi, hôm nay chú đi đào bảo vật lấy thêm vàng bạc đi. Có vàng có bạc mình mới có thể mở lớn ngôi chùa, sửa sang cho mới mẻ, đó là một cơ hội làm công đức ngàn năm mới có một lần đó chú à.
Tính Lương suy nghĩ một lúc thấy cũng có lý, nên lại đi đào bảo vật. Không lâu sau, chú đào được đến cửa động, từ từ trèo xuống, thấy từng chum từng chum vàng bạc châu báu ở bên trong mới yên lòng, chắp tay lại nói:
– Bạch Thạch Hòa Thượng, hôm nay con lại đến nữa! Sư huynh con nói có vàng có bạc mới có thể mở lớn và sửa sang mái chùa lá. Lần này cho con xin thêm một chút vàng bạc nữa nhé.
Cặp mắt sáng loang loáng của Thạch Hòa thượng lại chiếu rực trên vách tường, hoà thượng cười nói:
“Tính Lương, Tính Lương, thật thà hiền lương, muốn nhiều muốn ít, tùy ý lấy đi!”
Tính Lương nghe thế mới cẩn thận nhặt lên ba khối vàng, xong lại nhặt lên ba khối bạc, rồi hứng chí trèo ra khỏi động đem về chùa giao hết sáu khối vàng bạc cho sư huynh. Thầy Trân Đạo vui lòng tươi cười hỏi:
– Sư đệ, chú tìm ra lại động bảo vật rồi phải không?
Tính Lương đáp:
– Vâng, tìm thấy rồi, vẫn còn đầy bảo vật ở trong ấy.
Thầy Trân Đạo nghe vậy càng vui mừng hơn nữa:
– Tìm thấy rồi sao chỉ lấy về ít quá vậy?
Tính Lương thật thà cười:
– Chính sư huynh nói với tiểu đệ là có vàng có bạc mới xây mới lại ngôi chùa lá của mình, thì sáu khối vàng bạc này đủ để làm chuyện đó rồi!
Thầy Trân Đạo cứng lưỡi, bực dọc trở về thiền phòng tự nghĩ:
– Mình đào cả đêm mà đào không thấy, còn nó mới đi có chút xíu mà đã tìm ra, tại sao lạ vậy?
Thầy Trân Đạo muốn số châu báu trong động phải là của mình toàn bộ, nên trong lòng cứ nóng như lửa đốt. Đêm hôm ấy, thầy tắm rửa thắp hương, bái lạy Bồ Tát rồi lại lén ra ruộng đào bảo vật. Nhưng thầy đào liên tiếp ba đêm mà đêm nào cũng về tay không. Không biết làm cách nào hơn, thầy đành chỉ biết dỗ ngọt Tính Lương, bảo chú đi đào một lần nữa, còn mình thì sẽ đi theo sau bén gót. Đào tới động bảo vật rồi, nhưng khi trèo xuống thì thấy bốn bề trong động trống rỗng, cái động trước đây vốn đầy chum vàng chum bạc mà nay không còn chum nào cả.
Thầy Trân Đạo đấm lưng đấm ngực giận dữ mắng rằng:
– Tính Lương, mi muốn giấu bảo vật dành cho riêng mình phải không? Hừ, nếu hôm nay mà tìm không ra bảo vật thì ta sẽ đến gặp sư phụ trụ trì, tố cáo mi tội “thấy vàng mờ ám lương tâm, làm điều sỉ nhục Phật môn” cho mi xem!
Đáng thương thay cho Tính Lương, cực khổ đào đất cả đêm rồi mà còn bị ghép tội oan uổng, đỏ mặt tía tai mà không nói được nửa câu bào chữa!
Ngay lúc ấy cặp mắt loang loáng sáng của Thạch Hòa thượng hiện lên trên vách đá:
“Tính Lương hiền lương, lại bị oan uổng; Trân Đạo vô đạo, tham lam phát cuồng!”
– Yêu quái, yêu quái!
Nghe tiếng của Thạch Hòa thượng, thầy Trân Đạo sợ mất cả hồn vía, quay đầu trèo trở lên nhưng quá hoảng sợ nên cứ hễ trèo lên thì lại tụt xuống, cuối cùng Tính Lương phải lấy cây đinh ba bợ mông của thầy để giúp cho thầy lên tới được mặt đất.
Tiếng cười của Thạch Hòa thượng lại vang lên, hòa thượng một mặt cười, một mặt từ vách đá bước xuống, chỉ cái túi đầy ắp châu báu đang cõng trên lưng mà nói với thầy Trân Đạo rằng:
– Mấy người đào lung tung làm vỡ hết mấy cái chum của ta, nay ta sẽ đem mấy thứ bảo vật này kiếm ngọn núi tiên khác ở cho yên thân.
Nói xong, hòa thượng ra khỏi động, hướng lên dốc núi bắt đầu trèo lên. Thầy Trân Đạo lo sợ quá, bèn đoạt lấy cây đinh ba từ trên tay chú Tính Lương, rượt theo Thạch Hòa thượng lên núi. Rượt lên tới đỉnh núi, không cần biết gì nữa, thầy phát một nhát đinh ba vào túi châu báu. Chỉ nghe “linh đinh đinh”, bao nhiêu trân châu mã não, vàng bạc châu báu đều rơi lông lốc rải rác đầy trên sườn núi, nhưng chỉ trong nháy mắt là tất cả đều biến thành những hòn đá to đá nhỏ!
Thầy Trân Đạo buồn phiền vô hạn, bỏ trở về chùa lá nằm dài ba ngày ba đêm. Trong suốt ba ngày ba đêm ấy thầy suy nghĩ cạn cùng, thấy rằng tham lam thật là một điều không ổn.
Để chứng tỏ lòng thành của mình, thầy Trân Đạo bèn đi đổi hết mấy khối bạc khối vàng lấy tiền xây lên một ngôi thiền viện rộng lớn, hiện nay chính là am Duyệt Lĩnh. Trước cửa am có một cái ao nguyệt ấn, chính là cái hố mà ngày xưa thầy đã đào, còn lưu lại cho đến ngày nay!
#804
Gửi vào 05/07/2014 - 05:41
20. QUÁN ÂM VÀ THỔ ĐỊA.
Ở đâu cũng có một ông thần thổ địa, giống như mỗi địa phương phải có một quan chức an ninh vậy. Nhưng ở chân núi Hoa Oanh tỉnh Tứ Xuyên lại không có thần thổ địa! Tại sao lạ thế? Về chuyện này, ở đây có một câu chuyện khá thú vị được lưu truyền.
Lúc đó, ngôi chùa ở Ngũ Lý Pha dưới chân núi Hoa Oanh đang được trùng tu. Dân chúng ở Ngũ Lý Pha là những Phật tử thuần thành, ai cũng đóng góp tiền bạc mướn vài chục người thợ gạch, thợ nề về tu sửa ngôi chùa. Nhưng chỗ xây cất cách thị trấn rất xa, trên núi lại khó kiếm thức ăn thức uống, họ bèn mời một người tới chuyên lo nấu ăn cho thợ thuyền. Nhưng điều kiện làm việc quá khổ cực, nào gánh nước, nào nấu nướng thật là nhọc nhằn, người nào tới cũng chỉ làm được vài ngày rồi xin thôi vì làm không nổi. Mời người khác đến thay thế chỉ được vài ngày rồi cũng đi.
Một hôm, có một ông lão râu trắng đến tìm vị trưởng lão cai quản việc sửa chữa ngôi chùa, nói rằng mình tự nguyện lên núi nấu cơm cho thợ. Vị trưởng lão nhìn ông lão râu tóc bạc phau phau, tạng người thì gầy còm, với cái tướng ấy thì làm sao gánh nước thổi cơm nổi? Nghĩ vậy, ông bèn can:
– Thưa cụ, việc này không phải là một việc nhẹ nhàng đâu. Phải gánh nước, phải thổi cơm; mà gánh nước thì phải đi thật xa mới có nước. Chùa đã mời nhiều anh thanh niên trẻ tuổi về làm, mà tất cả đều chỉ làm có vài hôm là xin nghỉ hết. Họ than cực quá làm không nổi, vậy thì cụ làm sao chịu được?
Ông lão cười ha hả, trả lời:
– Làm nổi, làm nổi! Ông đừng chê tôi lớn tuổi, cái bộ xương già này còn chịu cực được mà! Mấy ông thợ làm việc mệt nhọc như thế để xây chùa sửa miếu, nếu không cho mấy ông ấy ăn uống đàng hoàng thì họ lấy sức đâu mà làm? Xin trưởng lão an tâm, tôi cam đoan không thua gì bọn trai tráng khoẻ mạnh đâu. Tôi không sợ mệt, dọn cơm chắc chắn không bao giờ trễ nãi!
Trưởng lão nửa tin nửa ngờ nhưng không có lời nào để đối đáp với ông lão. Hơn nữa, người có khả năng thì lại kiếm không ra nên đành chấp thuận vậy.
Ông lão quả nhiên nói không ngoa, làm việc vượt hẳn bọn trai tráng. Ông đi thật xa mới tới cái suối trên núi để múc hai thùng nước thật đầy gánh về, đường đi cũng phải vài dặm, thế mà ông lão da mồi tóc bạc này lại gánh một cách nhẹ nhàng thư thái, đi nhanh như bay, đi đi về về mấy lần là các lu nước trong chùa đã đầy ắp.
Gánh nước xong xuôi ông lại lên đến giữa núi nhặt củi, và chẳng bao lâu lại cõng về một bó củi thật to, thong thả ung dung chồng củi ở trước cửa nhà bếp để phơi nắng cho khô.
Khoảng một giờ trước bữa ăn, ông mới bước vào nhà bếp và thật là thần kỳ, chỉ trong một giờ mà ông đã sửa soạn xong bữa cơm cho vài chục người ăn, tất cả đều được bày biện tươm tất trên bàn, cơm thơm phưng phức, rau thơm lừng lựng, thợ thuyền ăn ngon miệng nên luôn luôn hớn hở tươi cười.
Ông lão là người rất tốt, gặp thợ thuyền lúc nào cũng chào hỏi chuyện trò vui vẻ. Thợ mà có bệnh là ông lập tức lo lắng cho, đem trà đem nước cho uống tận tình. Nhưng ông có một khuyết điểm lớn là hay nói, thích la cà chuyện phiếm với những người thợ trẻ tuổi, mà nói toàn là chuyện nghe có vẻ như khoác lác, thần kỳ, thí dụ lúc còn trai trẻ ông đã một mình đánh đuổi được hơn một chục tên cướp, hay là ông ăn uống rất khoẻ, có lần đánh cá với người ta ông đã tu cả chục cân rượu già một lúc... Ông lại kể đã từng đánh nhau với yêu quỷ, rất nhiều hồ ly tinh đã bị ông đánh cho chạy dài! Ngoài ra ông cũng đã gặp rất nhiều Bồ Tát, thần tiên nữa...
Lúc cao hứng nói chuyện như thế, ông quên cả thời gian. Có một lần, gần tới giờ cơm chiều rồi mà ông hãy còn đứng ba hoa với những người thợ mới vừa bãi việc. Một vài người thấy trời sắp tối mới nhắc rằng:
– Ông bác ơi, ông nhìn xem đã giờ nào rồi, ông mau về nấu ăn đi chứ! Trời đã sắp tối, ông chưa đi thì bao giờ mới được ăn cơm?
Ông lão nói:
– Ờ phải rồi, đúng đấy, trời đã sắp tối, nhưng mấy người đừng lo, tôi về làm một tý là xong ngay!
Quả nhiên, ông lão về đến nhà bếp rồi, chỉ một chút xíu sau là gọi mọi người vào bàn, và trên bàn cơm rau đã dọn ra sẵn sàng. Có người thấy điều ấy lạ lùng bèn hỏi ông lão:
– Ông bác ơi, ông làm sao mà mau quá vậy?
Ông lão đáp:
– Ậy, tại làm xong từ trước lâu rồi!
Tuy nhiên cơm canh còn nóng hổi, còn bốc khói nghi ngút, không thể nào nói là làm xong từ trước được. Tuy nhiên cũng chẳng ai nghi ngờ gì cả, chỉ khen ông lão nhanh nhẹn và ăn cơm một cách khoái chí, vui vẻ.
Có một lần, ông lão lên núi gánh nước, gánh nước xong liền đi nhặt củi, hôm ấy có thể nói là khó tìm hơn mọi lần nên ông lão đi thật lâu. Khi ông vác củi trên đường về thì đi ngang qua công trường xây chùa, đúng ngay lúc ấy có một người thợ sơ ý, bị một viên gạch từ trên nóc chùa rơi xuống trúng lỗ đầu. Ông lão thấy thế bèn ở lại giúp mọi người săn sóc nạn nhân, nào cõng ông ta đến một túp lều gần đó, vừa xức thuốc vừa băng bó vết thương, bận bịu một lúc thì đã đến giữa trưa, phải có người nhắc nhở:
– Ông bác à, gần giữa trưa rồi mà ông bác vẫn chưa đi làm cơm, bây giờ làm sao cho kịp?
Ông lão chỉ nói:
– Úi dà, giữa trưa rồi, tôi phải đi gấp!
Lúc ấy thợ thuyền đã ngừng tay, cùng nhau đến phòng ăn, thì thấy ông lão đi như bay vượt qua mặt họ. Mọi người nghĩ rằng ông lão đã giúp chăm sóc người thợ bị thương quên cả làm cơm, nên chắc chắn hôm nay sẽ bị ăn trễ và phải chờ đợi. Thế nhưng, kỳ lạ thay, khi họ vừa bước tới phòng ăn thì thấy cơm canh nóng hổi đã dọn sẵn trên bàn, ông lão đứng đó không lộ vẻ gì là cấp bách cả. Điều này làm cho mọi người phải kinh ngạc, thầm nghĩ rằng ông lão này hẳn phải là thần tiên, ông chỉ tới trước có mấy phút mà làm xong mọi sự rồi sao? Có người lại hỏi ông, ông bèn cười ha hả:
– Làm xong từ trước rồi!
Tuy nhiên từ hôm đó trở đi, có một người thợ để ý theo dõi ông lão. Theo dõi ông một lúc thì khám phá ra rằng mỗi ngày ông lão chỉ gánh nước nhặt củi chứ không hề làm cơm, cả ngày ông ở ngoài đường và hiếm khi đặt chân vào nhà bếp. Thế nhưng ngày nào đi làm về cơm nước cũng được nấu nướng xong xuôi chỉnh tề. Người thợ nọ không nhẫn nại được nữa, bèn hỏi thẳng ông lão:
– Ông bác ơi, sao mỗi ngày chỉ thấy ông bác đi gánh nước nhặt củi chứ không thấy nấu cơm, vậy thì cơm canh này ai nấu vậy?
Ông lão bị hỏi bất ngờ chỉ ấp a ấp úng, không nói được câu nào. Người thợ lại hỏi:
– Ông bác, ông nói thật đi, có sao nói vậy, ông đừng có giấu cháu. Ông bác có phải là Bồ Tát không?
Ông lão bị đẩy vào chân tường nên không có cách nào hơn là nói thật:
– Tôi không phải là Bồ Tát! Ôi, thôi được, tôi nói thật cho chú nghe, cơm này không phải tôi nấu, chú muốn biết ai nấu thì đi theo tôi. Nhưng có điều tôi cho chú xem, nhưng bằng bất cứ giá nào chú cũng không được kể lại cho người khác biết. Chú mà nói ra là chết tôi đấy!
Nói xong ông lão đưa người thợ len lén đến nhà bếp, từ khe cửa bên ngoài nhìn vào trong.
Ôi, trong bếp khói bốc mịt mù, quả nhiên có một người đang bận rộn thổi cơm. Ban đầu, khói dày quá nên không nhìn rõ được người đang thổi cơm, một lúc sau khói tan bớt đi thì mới thấy đó là một cô gái rất xinh đẹp, người quấn một cái váy thêu hoa lan, thái rau làm bếp vừa khéo léo vừa nhanh nhẹn.
Người thợ từ bên ngoài đờ người ra, anh ta phải kiễng chân để nhìn cho rõ, quá kinh ngạc nên vô ý động phải cánh cửa khiến cánh cửa mở toang ra. Cô gái thấy có người nhìn trộm bèn chui vào lò lửa đỏ rực mà biến mất. Ông lão ngây người ra một lúc rồi than rằng:
– Ôi chao, chú nhìn trộm đủ rồi, can chi mà chú làm bật tung cánh cửa vậy? Bây giờ khổ thân tôi rồi! Bồ Tát Quán Âm bắt tội tôi, tôi phải làm sao đây?
Thì ra Bồ Tát Quán Âm biết chùa đang tu sửa xây cất mà thiếu người nấu cơm, vấn đề trở nên nan giải, vì thế Ngài âm thầm đến để giúp đỡ. Ngài bàn tính trước rất kỹ với thổ thần địa phương, chia việc ra minh bạch: thần thổ địa thì gánh nước nhặt củi đồng thời giữ bí mật cho Ngài ở trong nấu bếp. Nhưng vị này lại quá thích ba hoa nên đã để lộ bí mật.
Khi người thợ đi khuất rồi, Ngài Quán Âm mới từ lò lửa bước ra, trách thần thổ địa rằng:
– Ông gánh nước thì lo gánh nước, ta đã dặn ông không được nói rùm beng lên mà ông không nghe lời, còn đem người lạ đến nhìn trộm là nghĩa làm sao?
Bồ Tát nói đến đây, bèn dùng cái phất trần đuổi muỗi quét một cái, quét thần thổ địa bay ra xa tới hơn chục dặm, không cho ông được làm việc chung với Ngài nữa.
Vì thế, chùa được trùng tu xong, ở núi Hoa Oanh, nguyên một vùng trong vòng hơn mười dặm không có thần thổ địa!
Ở đâu cũng có một ông thần thổ địa, giống như mỗi địa phương phải có một quan chức an ninh vậy. Nhưng ở chân núi Hoa Oanh tỉnh Tứ Xuyên lại không có thần thổ địa! Tại sao lạ thế? Về chuyện này, ở đây có một câu chuyện khá thú vị được lưu truyền.
Lúc đó, ngôi chùa ở Ngũ Lý Pha dưới chân núi Hoa Oanh đang được trùng tu. Dân chúng ở Ngũ Lý Pha là những Phật tử thuần thành, ai cũng đóng góp tiền bạc mướn vài chục người thợ gạch, thợ nề về tu sửa ngôi chùa. Nhưng chỗ xây cất cách thị trấn rất xa, trên núi lại khó kiếm thức ăn thức uống, họ bèn mời một người tới chuyên lo nấu ăn cho thợ thuyền. Nhưng điều kiện làm việc quá khổ cực, nào gánh nước, nào nấu nướng thật là nhọc nhằn, người nào tới cũng chỉ làm được vài ngày rồi xin thôi vì làm không nổi. Mời người khác đến thay thế chỉ được vài ngày rồi cũng đi.
Một hôm, có một ông lão râu trắng đến tìm vị trưởng lão cai quản việc sửa chữa ngôi chùa, nói rằng mình tự nguyện lên núi nấu cơm cho thợ. Vị trưởng lão nhìn ông lão râu tóc bạc phau phau, tạng người thì gầy còm, với cái tướng ấy thì làm sao gánh nước thổi cơm nổi? Nghĩ vậy, ông bèn can:
– Thưa cụ, việc này không phải là một việc nhẹ nhàng đâu. Phải gánh nước, phải thổi cơm; mà gánh nước thì phải đi thật xa mới có nước. Chùa đã mời nhiều anh thanh niên trẻ tuổi về làm, mà tất cả đều chỉ làm có vài hôm là xin nghỉ hết. Họ than cực quá làm không nổi, vậy thì cụ làm sao chịu được?
Ông lão cười ha hả, trả lời:
– Làm nổi, làm nổi! Ông đừng chê tôi lớn tuổi, cái bộ xương già này còn chịu cực được mà! Mấy ông thợ làm việc mệt nhọc như thế để xây chùa sửa miếu, nếu không cho mấy ông ấy ăn uống đàng hoàng thì họ lấy sức đâu mà làm? Xin trưởng lão an tâm, tôi cam đoan không thua gì bọn trai tráng khoẻ mạnh đâu. Tôi không sợ mệt, dọn cơm chắc chắn không bao giờ trễ nãi!
Trưởng lão nửa tin nửa ngờ nhưng không có lời nào để đối đáp với ông lão. Hơn nữa, người có khả năng thì lại kiếm không ra nên đành chấp thuận vậy.
Ông lão quả nhiên nói không ngoa, làm việc vượt hẳn bọn trai tráng. Ông đi thật xa mới tới cái suối trên núi để múc hai thùng nước thật đầy gánh về, đường đi cũng phải vài dặm, thế mà ông lão da mồi tóc bạc này lại gánh một cách nhẹ nhàng thư thái, đi nhanh như bay, đi đi về về mấy lần là các lu nước trong chùa đã đầy ắp.
Gánh nước xong xuôi ông lại lên đến giữa núi nhặt củi, và chẳng bao lâu lại cõng về một bó củi thật to, thong thả ung dung chồng củi ở trước cửa nhà bếp để phơi nắng cho khô.
Khoảng một giờ trước bữa ăn, ông mới bước vào nhà bếp và thật là thần kỳ, chỉ trong một giờ mà ông đã sửa soạn xong bữa cơm cho vài chục người ăn, tất cả đều được bày biện tươm tất trên bàn, cơm thơm phưng phức, rau thơm lừng lựng, thợ thuyền ăn ngon miệng nên luôn luôn hớn hở tươi cười.
Ông lão là người rất tốt, gặp thợ thuyền lúc nào cũng chào hỏi chuyện trò vui vẻ. Thợ mà có bệnh là ông lập tức lo lắng cho, đem trà đem nước cho uống tận tình. Nhưng ông có một khuyết điểm lớn là hay nói, thích la cà chuyện phiếm với những người thợ trẻ tuổi, mà nói toàn là chuyện nghe có vẻ như khoác lác, thần kỳ, thí dụ lúc còn trai trẻ ông đã một mình đánh đuổi được hơn một chục tên cướp, hay là ông ăn uống rất khoẻ, có lần đánh cá với người ta ông đã tu cả chục cân rượu già một lúc... Ông lại kể đã từng đánh nhau với yêu quỷ, rất nhiều hồ ly tinh đã bị ông đánh cho chạy dài! Ngoài ra ông cũng đã gặp rất nhiều Bồ Tát, thần tiên nữa...
Lúc cao hứng nói chuyện như thế, ông quên cả thời gian. Có một lần, gần tới giờ cơm chiều rồi mà ông hãy còn đứng ba hoa với những người thợ mới vừa bãi việc. Một vài người thấy trời sắp tối mới nhắc rằng:
– Ông bác ơi, ông nhìn xem đã giờ nào rồi, ông mau về nấu ăn đi chứ! Trời đã sắp tối, ông chưa đi thì bao giờ mới được ăn cơm?
Ông lão nói:
– Ờ phải rồi, đúng đấy, trời đã sắp tối, nhưng mấy người đừng lo, tôi về làm một tý là xong ngay!
Quả nhiên, ông lão về đến nhà bếp rồi, chỉ một chút xíu sau là gọi mọi người vào bàn, và trên bàn cơm rau đã dọn ra sẵn sàng. Có người thấy điều ấy lạ lùng bèn hỏi ông lão:
– Ông bác ơi, ông làm sao mà mau quá vậy?
Ông lão đáp:
– Ậy, tại làm xong từ trước lâu rồi!
Tuy nhiên cơm canh còn nóng hổi, còn bốc khói nghi ngút, không thể nào nói là làm xong từ trước được. Tuy nhiên cũng chẳng ai nghi ngờ gì cả, chỉ khen ông lão nhanh nhẹn và ăn cơm một cách khoái chí, vui vẻ.
Có một lần, ông lão lên núi gánh nước, gánh nước xong liền đi nhặt củi, hôm ấy có thể nói là khó tìm hơn mọi lần nên ông lão đi thật lâu. Khi ông vác củi trên đường về thì đi ngang qua công trường xây chùa, đúng ngay lúc ấy có một người thợ sơ ý, bị một viên gạch từ trên nóc chùa rơi xuống trúng lỗ đầu. Ông lão thấy thế bèn ở lại giúp mọi người săn sóc nạn nhân, nào cõng ông ta đến một túp lều gần đó, vừa xức thuốc vừa băng bó vết thương, bận bịu một lúc thì đã đến giữa trưa, phải có người nhắc nhở:
– Ông bác à, gần giữa trưa rồi mà ông bác vẫn chưa đi làm cơm, bây giờ làm sao cho kịp?
Ông lão chỉ nói:
– Úi dà, giữa trưa rồi, tôi phải đi gấp!
Lúc ấy thợ thuyền đã ngừng tay, cùng nhau đến phòng ăn, thì thấy ông lão đi như bay vượt qua mặt họ. Mọi người nghĩ rằng ông lão đã giúp chăm sóc người thợ bị thương quên cả làm cơm, nên chắc chắn hôm nay sẽ bị ăn trễ và phải chờ đợi. Thế nhưng, kỳ lạ thay, khi họ vừa bước tới phòng ăn thì thấy cơm canh nóng hổi đã dọn sẵn trên bàn, ông lão đứng đó không lộ vẻ gì là cấp bách cả. Điều này làm cho mọi người phải kinh ngạc, thầm nghĩ rằng ông lão này hẳn phải là thần tiên, ông chỉ tới trước có mấy phút mà làm xong mọi sự rồi sao? Có người lại hỏi ông, ông bèn cười ha hả:
– Làm xong từ trước rồi!
Tuy nhiên từ hôm đó trở đi, có một người thợ để ý theo dõi ông lão. Theo dõi ông một lúc thì khám phá ra rằng mỗi ngày ông lão chỉ gánh nước nhặt củi chứ không hề làm cơm, cả ngày ông ở ngoài đường và hiếm khi đặt chân vào nhà bếp. Thế nhưng ngày nào đi làm về cơm nước cũng được nấu nướng xong xuôi chỉnh tề. Người thợ nọ không nhẫn nại được nữa, bèn hỏi thẳng ông lão:
– Ông bác ơi, sao mỗi ngày chỉ thấy ông bác đi gánh nước nhặt củi chứ không thấy nấu cơm, vậy thì cơm canh này ai nấu vậy?
Ông lão bị hỏi bất ngờ chỉ ấp a ấp úng, không nói được câu nào. Người thợ lại hỏi:
– Ông bác, ông nói thật đi, có sao nói vậy, ông đừng có giấu cháu. Ông bác có phải là Bồ Tát không?
Ông lão bị đẩy vào chân tường nên không có cách nào hơn là nói thật:
– Tôi không phải là Bồ Tát! Ôi, thôi được, tôi nói thật cho chú nghe, cơm này không phải tôi nấu, chú muốn biết ai nấu thì đi theo tôi. Nhưng có điều tôi cho chú xem, nhưng bằng bất cứ giá nào chú cũng không được kể lại cho người khác biết. Chú mà nói ra là chết tôi đấy!
Nói xong ông lão đưa người thợ len lén đến nhà bếp, từ khe cửa bên ngoài nhìn vào trong.
Ôi, trong bếp khói bốc mịt mù, quả nhiên có một người đang bận rộn thổi cơm. Ban đầu, khói dày quá nên không nhìn rõ được người đang thổi cơm, một lúc sau khói tan bớt đi thì mới thấy đó là một cô gái rất xinh đẹp, người quấn một cái váy thêu hoa lan, thái rau làm bếp vừa khéo léo vừa nhanh nhẹn.
Người thợ từ bên ngoài đờ người ra, anh ta phải kiễng chân để nhìn cho rõ, quá kinh ngạc nên vô ý động phải cánh cửa khiến cánh cửa mở toang ra. Cô gái thấy có người nhìn trộm bèn chui vào lò lửa đỏ rực mà biến mất. Ông lão ngây người ra một lúc rồi than rằng:
– Ôi chao, chú nhìn trộm đủ rồi, can chi mà chú làm bật tung cánh cửa vậy? Bây giờ khổ thân tôi rồi! Bồ Tát Quán Âm bắt tội tôi, tôi phải làm sao đây?
Thì ra Bồ Tát Quán Âm biết chùa đang tu sửa xây cất mà thiếu người nấu cơm, vấn đề trở nên nan giải, vì thế Ngài âm thầm đến để giúp đỡ. Ngài bàn tính trước rất kỹ với thổ thần địa phương, chia việc ra minh bạch: thần thổ địa thì gánh nước nhặt củi đồng thời giữ bí mật cho Ngài ở trong nấu bếp. Nhưng vị này lại quá thích ba hoa nên đã để lộ bí mật.
Khi người thợ đi khuất rồi, Ngài Quán Âm mới từ lò lửa bước ra, trách thần thổ địa rằng:
– Ông gánh nước thì lo gánh nước, ta đã dặn ông không được nói rùm beng lên mà ông không nghe lời, còn đem người lạ đến nhìn trộm là nghĩa làm sao?
Bồ Tát nói đến đây, bèn dùng cái phất trần đuổi muỗi quét một cái, quét thần thổ địa bay ra xa tới hơn chục dặm, không cho ông được làm việc chung với Ngài nữa.
Vì thế, chùa được trùng tu xong, ở núi Hoa Oanh, nguyên một vùng trong vòng hơn mười dặm không có thần thổ địa!
#805
Gửi vào 06/07/2014 - 20:17
21. HOA ĐẠO VẼ TRỘM TƯỢNG LA HÁN
Xưa thật là xưa, trên đảo Tù Tiên có một ngôi chùa tên là Linh Âm tự, vị thầy trụ trì pháp hiệu là Hoa Đạo. Khách hành hương lai vãng không đông nên mức sống của chùa cũng hơi khó khăn.
Một năm kia, thầy Hoa Đạo lên Phổ Đà Sơn dự lễ khai quang của Bồ Tát Quán Âm, nhìn thấy chùa Pháp Vũ có La Hán Đường, trong ấy có 18 tượng kim thân La Hán, thần thái mỗi vị mỗi khác, hấp dẫn khách hành hương đến rất đông. Thầy nghĩ: Giá như Linh Âm tự cũng xây một phòng “La Hán Đường” đắp 18 tượng La Hán thì chắc là tiền hương hỏa sẽ khá lên rất nhiều.
Nghĩ thế xong, trong trí thầy chợt loé lên một mưu kế, thầy bèn xuất tiền mướn một vị du tăng biết vẽ, nhờ vị ấy vẽ trộm phạm tướng của 18 La Hán, đem trở về Linh Âm tự, rồi vội vội vàng vàng xây một tòa La Hán Đường và nắn 18 tượng La Hán một cách qua loa sơ sài.
Quả nhiên La Hán Đường lôi cuốn rất nhiều thiện nam tín nữ, nguyện vọng của thầy Hoa Đạo đã được thỏa mãn. Không ngờ việc thầy nhờ người vẽ trộm tượng La Hán không hề thoát khỏi cặp mắt của Quán Âm Đại sĩ.
Xây La Hán Đường, tạo tượng La Hán thật ra không có gì đáng trách nhưng động cơ của thầy Hoa Đạo khi làm việc này thì không được chính đáng cho lắm, khiến cho Quán Âm cảm thấy khó chịu trong lòng.
Một năm sau, Quán Âm Đại sĩ bước lên đài sen bay đến gặp thầy Hoa Đạo và thăm Linh Âm Tự một phen.
Hôm ấy thầy Hoa Đạo mặc tăng bào bằng lụa, trên khoác chiếc cà sa dệt bằng cỏ đay, đang vui vẻ tháp tùng một vài vị tài chủ quyền quý đi dạo trong La Hán Đường, bỗng nghe một chú sa di thưa rằng ngoài khách đình có một vị xưng là Thiền sư Diệu Hải đến thăm chùa. Thầy đành cáo biệt các vị thí chủ ấy, và bước đến phòng khách với một dáng điệu hiên ngang, cao kỳ.
Ngước mắt nhìn, thầy chỉ thấy Thiền sư Diệu Hải nọ đầu đội mũ tăng cũ kỹ, chân mang giày cỏ rách mướp, thân khoác cà sa vải thô, cổ đeo chuỗi tràng hạt nhỏ rức, tuổi không ngoài 30, chỉ có tướng mạo thì có thể nói là phi phàm. Thầy Hoa Đạo hỏi thăm qua loa, hỏi một cách lạnh lùng:
– Thiền sư quang lâm chùa nghèo này là để giảng kinh thuyết Pháp hay là...
Thầy cố ý bỏ lửng cuối câu, và nhìn thẳng vào mặt Thiền sư Diệu Hải không chớp mắt. Thiền sư Diệu Hải cười nhẹ, đáp rằng:
– Trên đường hóa duyên đi ngang qua đây, tôi muốn xin thầy cho tôi ở trọ quý chùa vài ngày, vì có chút tịnh tài muốn cúng dường lên Phật.
Thầy Hoa Đạo nghe “có chút tịnh tài muốn cúng dường lên Phật” mới bảo chú sa di dọn chỗ ăn chỗ ngủ cho khách, còn mình thì từ đó không buồn để ý đến Thiền sư Diệu Hải nữa.
Thiền sư Diệu Hải thấy thầy Hoa Đạo đối với mình lãnh đạm như thế chỉ chỉ lắc đầu cười buồn, nhưng lại lợi dụng cơ hội ấy để được hưởng cảnh thanh nhàn tự tại, từ sáng đến tối chỉ đi dạo trong La Hán Đường. Ngài thấy tuy bên ngoài nhìn thì rất đẹp mắt, nhưng móng nhà, khung nhà xây lại không chắc chắn chút nào. Hơn nữa, 18 tượng La Hán, tượng nào cũng đắp sai kiểu, nên trong lòng có phần bất mãn và lo lắng, nhưng phần bất mãn thì ba, còn lo lắng thì lên tới bảy phần! Chiều hôm sau, Thiền sư tìm thầy Hoa Đạo nói rằng:
– La Hán Đường của quý chùa khung nhà thì không vững, tượng La Hán thì đắp sơ sài cẩu thả, móng nhà thì lún xuống một cách nguy hiểm, nếu không mau sửa sang lại thì 18 tượng La Hán thế nào cũng bị hủy diệt.
Nghe thế thầy Hoa Đạo không chút bằng lòng, chỉ lạnh lùng niệm một câu “A Di Đà Phật!” rồi phất tay áo bỏ đi. Thiền sư Diệu Hải nổi giận, thoạt đầu tính dùng lời nghiêm nghị quở trách, nhưng nghĩ lại, thầy Hoa Đạo hiện đang tự mãn đắc ý, trách thầy không ích lợi gì, thôi thì để cho sự thật dạy cho thầy bài học vậy.
Sáng sớm hôm sau, Thiền sư Diệu Hải múa bút đề ba chữ lớn “Đại Bi Sơn” để lại, và lặng lẽ rời bỏ Linh Âm tự. Ba chữ Đại Bi Sơn ngụ ý “Người mượn cửa Phật để mưu cầu lợi dưỡng là người rất đáng thương”, mà cũng ám chỉ người viết ba chữ ấy chính là Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Tiếc rằng lúc ấy thầy Hoa Đạo không hề hiểu ý.
Ba năm sau, một đêm nọ sấm chớp ầm ầm, mưa gió tơi bời. Bỗng nhiên nghe tiếng “rầm, rầm!”, La Hán Đường của Linh Âm tự, móng nhà lở sụt, khung nhà nghiêng đổ, 18 tượng La Hán cũng ngã lăn ngã lóc khiến thầy Hoa Đạo cứ điếng người kinh hãi, nhớ lại lời Thiền sư Diệu Hải, hối hận thì không kịp nữa.
Chùa Linh Âm bị tai nạn như thế, khách hành hương cũng thưa dần và lạnh nhạt đi. Thầy Hoa Đạo không còn mặt mũi nào giữ chức trụ trì ở đấy nữa, nên cũng âm thầm ra đi vân du bốn phương.
Sau đó nhiều năm, thầy đã nếm đủ mùi gian khổ, cuối cùng cũng tỉnh ngộ. Thầy bèn trở về Linh Âm Tự, kiếm lại mấy chữ mà Quán Âm Đại sĩ đã viết, đóng khung thành một tấm biển và treo trên cửa vào của chính điện, còn mình thì chỉ là một vị thầy tu làm việc khổ nhọc, chân thành tụng kinh niệm Phật để chuộc lỗi lầm xưa.
Xưa thật là xưa, trên đảo Tù Tiên có một ngôi chùa tên là Linh Âm tự, vị thầy trụ trì pháp hiệu là Hoa Đạo. Khách hành hương lai vãng không đông nên mức sống của chùa cũng hơi khó khăn.
Một năm kia, thầy Hoa Đạo lên Phổ Đà Sơn dự lễ khai quang của Bồ Tát Quán Âm, nhìn thấy chùa Pháp Vũ có La Hán Đường, trong ấy có 18 tượng kim thân La Hán, thần thái mỗi vị mỗi khác, hấp dẫn khách hành hương đến rất đông. Thầy nghĩ: Giá như Linh Âm tự cũng xây một phòng “La Hán Đường” đắp 18 tượng La Hán thì chắc là tiền hương hỏa sẽ khá lên rất nhiều.
Nghĩ thế xong, trong trí thầy chợt loé lên một mưu kế, thầy bèn xuất tiền mướn một vị du tăng biết vẽ, nhờ vị ấy vẽ trộm phạm tướng của 18 La Hán, đem trở về Linh Âm tự, rồi vội vội vàng vàng xây một tòa La Hán Đường và nắn 18 tượng La Hán một cách qua loa sơ sài.
Quả nhiên La Hán Đường lôi cuốn rất nhiều thiện nam tín nữ, nguyện vọng của thầy Hoa Đạo đã được thỏa mãn. Không ngờ việc thầy nhờ người vẽ trộm tượng La Hán không hề thoát khỏi cặp mắt của Quán Âm Đại sĩ.
Xây La Hán Đường, tạo tượng La Hán thật ra không có gì đáng trách nhưng động cơ của thầy Hoa Đạo khi làm việc này thì không được chính đáng cho lắm, khiến cho Quán Âm cảm thấy khó chịu trong lòng.
Một năm sau, Quán Âm Đại sĩ bước lên đài sen bay đến gặp thầy Hoa Đạo và thăm Linh Âm Tự một phen.
Hôm ấy thầy Hoa Đạo mặc tăng bào bằng lụa, trên khoác chiếc cà sa dệt bằng cỏ đay, đang vui vẻ tháp tùng một vài vị tài chủ quyền quý đi dạo trong La Hán Đường, bỗng nghe một chú sa di thưa rằng ngoài khách đình có một vị xưng là Thiền sư Diệu Hải đến thăm chùa. Thầy đành cáo biệt các vị thí chủ ấy, và bước đến phòng khách với một dáng điệu hiên ngang, cao kỳ.
Ngước mắt nhìn, thầy chỉ thấy Thiền sư Diệu Hải nọ đầu đội mũ tăng cũ kỹ, chân mang giày cỏ rách mướp, thân khoác cà sa vải thô, cổ đeo chuỗi tràng hạt nhỏ rức, tuổi không ngoài 30, chỉ có tướng mạo thì có thể nói là phi phàm. Thầy Hoa Đạo hỏi thăm qua loa, hỏi một cách lạnh lùng:
– Thiền sư quang lâm chùa nghèo này là để giảng kinh thuyết Pháp hay là...
Thầy cố ý bỏ lửng cuối câu, và nhìn thẳng vào mặt Thiền sư Diệu Hải không chớp mắt. Thiền sư Diệu Hải cười nhẹ, đáp rằng:
– Trên đường hóa duyên đi ngang qua đây, tôi muốn xin thầy cho tôi ở trọ quý chùa vài ngày, vì có chút tịnh tài muốn cúng dường lên Phật.
Thầy Hoa Đạo nghe “có chút tịnh tài muốn cúng dường lên Phật” mới bảo chú sa di dọn chỗ ăn chỗ ngủ cho khách, còn mình thì từ đó không buồn để ý đến Thiền sư Diệu Hải nữa.
Thiền sư Diệu Hải thấy thầy Hoa Đạo đối với mình lãnh đạm như thế chỉ chỉ lắc đầu cười buồn, nhưng lại lợi dụng cơ hội ấy để được hưởng cảnh thanh nhàn tự tại, từ sáng đến tối chỉ đi dạo trong La Hán Đường. Ngài thấy tuy bên ngoài nhìn thì rất đẹp mắt, nhưng móng nhà, khung nhà xây lại không chắc chắn chút nào. Hơn nữa, 18 tượng La Hán, tượng nào cũng đắp sai kiểu, nên trong lòng có phần bất mãn và lo lắng, nhưng phần bất mãn thì ba, còn lo lắng thì lên tới bảy phần! Chiều hôm sau, Thiền sư tìm thầy Hoa Đạo nói rằng:
– La Hán Đường của quý chùa khung nhà thì không vững, tượng La Hán thì đắp sơ sài cẩu thả, móng nhà thì lún xuống một cách nguy hiểm, nếu không mau sửa sang lại thì 18 tượng La Hán thế nào cũng bị hủy diệt.
Nghe thế thầy Hoa Đạo không chút bằng lòng, chỉ lạnh lùng niệm một câu “A Di Đà Phật!” rồi phất tay áo bỏ đi. Thiền sư Diệu Hải nổi giận, thoạt đầu tính dùng lời nghiêm nghị quở trách, nhưng nghĩ lại, thầy Hoa Đạo hiện đang tự mãn đắc ý, trách thầy không ích lợi gì, thôi thì để cho sự thật dạy cho thầy bài học vậy.
Sáng sớm hôm sau, Thiền sư Diệu Hải múa bút đề ba chữ lớn “Đại Bi Sơn” để lại, và lặng lẽ rời bỏ Linh Âm tự. Ba chữ Đại Bi Sơn ngụ ý “Người mượn cửa Phật để mưu cầu lợi dưỡng là người rất đáng thương”, mà cũng ám chỉ người viết ba chữ ấy chính là Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát. Tiếc rằng lúc ấy thầy Hoa Đạo không hề hiểu ý.
Ba năm sau, một đêm nọ sấm chớp ầm ầm, mưa gió tơi bời. Bỗng nhiên nghe tiếng “rầm, rầm!”, La Hán Đường của Linh Âm tự, móng nhà lở sụt, khung nhà nghiêng đổ, 18 tượng La Hán cũng ngã lăn ngã lóc khiến thầy Hoa Đạo cứ điếng người kinh hãi, nhớ lại lời Thiền sư Diệu Hải, hối hận thì không kịp nữa.
Chùa Linh Âm bị tai nạn như thế, khách hành hương cũng thưa dần và lạnh nhạt đi. Thầy Hoa Đạo không còn mặt mũi nào giữ chức trụ trì ở đấy nữa, nên cũng âm thầm ra đi vân du bốn phương.
Sau đó nhiều năm, thầy đã nếm đủ mùi gian khổ, cuối cùng cũng tỉnh ngộ. Thầy bèn trở về Linh Âm Tự, kiếm lại mấy chữ mà Quán Âm Đại sĩ đã viết, đóng khung thành một tấm biển và treo trên cửa vào của chính điện, còn mình thì chỉ là một vị thầy tu làm việc khổ nhọc, chân thành tụng kinh niệm Phật để chuộc lỗi lầm xưa.
#806
Gửi vào 07/07/2014 - 03:44
22. CHUÔNG THẦN
Xưa thật là xưa, chùa Pháp Vũ chỉ là một cái am nhỏ, tên là am Hải Triều. Vị tổ thứ nhất của am Hải Triều tên là Đại Trí, đã dày công đúc một cái chuông đại hồng bằng đồng đen nặng hơn bảy ngàn cân treo tại lầu chuông, mỗi ngày sáng và chiều thỉnh chuông hai lần.
Tiếng chuông trong trẻo rền vang, dư âm tới cuối ngày vẫn chưa dứt, cho đến Long Vương ở Thủy Tinh cung biển Đông Hải cũng nghe thấy, suốt ngày đứng ngồi không yên, chỉ muốn dẫn một đạo binh tướng cá, tướng rùa đến ngoài bãi cát Thiên Bộ Sa bái kiến Ngài Quán Âm.
Về sau có bọn cướp Hồng Mao xâm nhập Phổ Đà Sơn, đi đến đâu là cướp bóc tài vật của dân chúng đến đó. Nghe nói chuông đồng của am Hải Triều là một bảo vật, nên tên đầu sỏ của bọn Hồng Mao phái khoảng mười tên cướp lực lưỡng, hấp tấp khiêng chuông đồng lên tàu đang đậu ngoài khơi, chở về nước của chúng.
Tàu cướp về đến nước Hồng Mao, bọn giặc phải ra sức bằng hai cọp chín trâu mới khiêng nổi chuông lên bờ. Nhưng vừa đến cửa thành thì chúng làm cách nào cũng không nhấc nổi chuông đồng. Cả bọn nhốn nháo cả lên, viện binh thêm cả một đoàn người đến góp sức, làm gãy mấy cây đòn bẫy mà chuông vẫn không xê xích một tơ một hào nào.
Việc này làm chấn động toàn quốc. Vua nước Hồng Mao cũng cảm thấy lạ kỳ, bèn đích thân ra khỏi thành để nhìn tận mắt, nhưng khi ông vừa bước chân đến cửa thành thì chiếc chuông đồng tự nhiên kêu “loong coong” một tiếng và lún dần xuống đất, chẳng bao lâu bị đất bùn lấp kín.
Nhà vua bất mãn kêu người đào chuông lên, đào ngày đào đêm, không những không đào được chuông mà chuông càng ngày càng lún sâu xuống. Vua hoàn toàn cụt hứng, chỉ biết bỏ cuộc và ra lệnh từ đấy không còn ai được đào chuông nữa.
Thoáng một cái mà hơn 10 năm trôi qua, nước Hồng Mao có một vị quốc vương khác lên ngôi. Có một hôm, chỗ cái chuông bị chôn đột nhiên vang lên tiếng “đinh! đoong!” ngày đêm không ngừng, khiến cho người Hồng Mao sợ hãi hoảng hốt. Vị quốc vương mới đứng ngồi không yên, vội vàng hạ lệnh đào chuông thần lên:
– Phải đào chuông thần lên!
Người Hồng Mao đổ về từ bốn phương tám hướng. Cửa thành trở nên chật ních, người đông như kiến. Già trẻ lớn bé đều một lòng cầu nguyện thượng đế bảo hộ cho họ bình an, một mặt nguyền rủa bọn cướp biển đã cướp chuông thần về.
Cuối cùng, chuông lớn được đào lên rồi, trên mặt chuông có khắc rõ ràng bảy chữ “Nam Hải Phổ Đà am Hải Triều”. Vị quốc vương mới đã mời đến vài chục người tu đạo của họ, ngày đêm thay phiên nhau khấn vái, nhưng tiếng chuông rền vang trong trẻo vẫn không chịu ngừng. Vị quốc vương này mới nghĩ rằng nếu giữ chuông trong nước mãi thì cả nước sẽ phỉ nhổ ông, vì thế quyết định trả chuông về xứ sở. Nhưng cái chuông ngàn cân như thế, làm sao chở về nổi? Quốc vương và quần thần trong triều ai cũng lo âu phiền não.
Có một nhà buôn người Phúc Kiến, đúng lúc ấy đang ở nước Hồng Mao buôn bán. Khi biết được tin này, ông vội vàng xin yết kiến quốc vương, và trình bày ý nguyện phụ trách việc chở chuông thần về cố hương. Quốc vương rất vui mừng, lập tức gọi một vị đại thần đưa ông đi đến chỗ chuông thần. Ra tới ngoài cửa thành, nhà buôn Phúc Kiến chạy đến xem thì quả nhiên thấy đây là thần khí nhà Phật của nước mình, lập tức quỳ xuống, thành tâm khấu đầu đảnh lễ ba lần, đầu đập xuống đất thật kêu. Tiếng chuông thần bỗng nhiên ngừng bặt, người Hồng Mao đứng nhìn xung quanh reo hò hoan hô từng đợt.
Các vị thầy của am Hải Triều nghe nói đã tìm được chuông thần về, vội vàng xuất công xây một lầu chuông mới. Nhà buôn Phúc Kiến hộ tống chuông thần, vượt trăm sông ngàn núi mới về tới Phổ Đà Sơn.
Ngày chuông thần về tới là ngày lầu chuông cũng vừa xây xong, tất cả các thầy của am Hải Triều đều ra sức, người kéo kẻ khiêng, treo chuông thần lên lầu chuông mới.
Tiếng chuông trong trẻo của am Hải Triều lại vang rền trở lại trong khắp đảo từ đấy.
Xưa thật là xưa, chùa Pháp Vũ chỉ là một cái am nhỏ, tên là am Hải Triều. Vị tổ thứ nhất của am Hải Triều tên là Đại Trí, đã dày công đúc một cái chuông đại hồng bằng đồng đen nặng hơn bảy ngàn cân treo tại lầu chuông, mỗi ngày sáng và chiều thỉnh chuông hai lần.
Tiếng chuông trong trẻo rền vang, dư âm tới cuối ngày vẫn chưa dứt, cho đến Long Vương ở Thủy Tinh cung biển Đông Hải cũng nghe thấy, suốt ngày đứng ngồi không yên, chỉ muốn dẫn một đạo binh tướng cá, tướng rùa đến ngoài bãi cát Thiên Bộ Sa bái kiến Ngài Quán Âm.
Về sau có bọn cướp Hồng Mao xâm nhập Phổ Đà Sơn, đi đến đâu là cướp bóc tài vật của dân chúng đến đó. Nghe nói chuông đồng của am Hải Triều là một bảo vật, nên tên đầu sỏ của bọn Hồng Mao phái khoảng mười tên cướp lực lưỡng, hấp tấp khiêng chuông đồng lên tàu đang đậu ngoài khơi, chở về nước của chúng.
Tàu cướp về đến nước Hồng Mao, bọn giặc phải ra sức bằng hai cọp chín trâu mới khiêng nổi chuông lên bờ. Nhưng vừa đến cửa thành thì chúng làm cách nào cũng không nhấc nổi chuông đồng. Cả bọn nhốn nháo cả lên, viện binh thêm cả một đoàn người đến góp sức, làm gãy mấy cây đòn bẫy mà chuông vẫn không xê xích một tơ một hào nào.
Việc này làm chấn động toàn quốc. Vua nước Hồng Mao cũng cảm thấy lạ kỳ, bèn đích thân ra khỏi thành để nhìn tận mắt, nhưng khi ông vừa bước chân đến cửa thành thì chiếc chuông đồng tự nhiên kêu “loong coong” một tiếng và lún dần xuống đất, chẳng bao lâu bị đất bùn lấp kín.
Nhà vua bất mãn kêu người đào chuông lên, đào ngày đào đêm, không những không đào được chuông mà chuông càng ngày càng lún sâu xuống. Vua hoàn toàn cụt hứng, chỉ biết bỏ cuộc và ra lệnh từ đấy không còn ai được đào chuông nữa.
Thoáng một cái mà hơn 10 năm trôi qua, nước Hồng Mao có một vị quốc vương khác lên ngôi. Có một hôm, chỗ cái chuông bị chôn đột nhiên vang lên tiếng “đinh! đoong!” ngày đêm không ngừng, khiến cho người Hồng Mao sợ hãi hoảng hốt. Vị quốc vương mới đứng ngồi không yên, vội vàng hạ lệnh đào chuông thần lên:
– Phải đào chuông thần lên!
Người Hồng Mao đổ về từ bốn phương tám hướng. Cửa thành trở nên chật ních, người đông như kiến. Già trẻ lớn bé đều một lòng cầu nguyện thượng đế bảo hộ cho họ bình an, một mặt nguyền rủa bọn cướp biển đã cướp chuông thần về.
Cuối cùng, chuông lớn được đào lên rồi, trên mặt chuông có khắc rõ ràng bảy chữ “Nam Hải Phổ Đà am Hải Triều”. Vị quốc vương mới đã mời đến vài chục người tu đạo của họ, ngày đêm thay phiên nhau khấn vái, nhưng tiếng chuông rền vang trong trẻo vẫn không chịu ngừng. Vị quốc vương này mới nghĩ rằng nếu giữ chuông trong nước mãi thì cả nước sẽ phỉ nhổ ông, vì thế quyết định trả chuông về xứ sở. Nhưng cái chuông ngàn cân như thế, làm sao chở về nổi? Quốc vương và quần thần trong triều ai cũng lo âu phiền não.
Có một nhà buôn người Phúc Kiến, đúng lúc ấy đang ở nước Hồng Mao buôn bán. Khi biết được tin này, ông vội vàng xin yết kiến quốc vương, và trình bày ý nguyện phụ trách việc chở chuông thần về cố hương. Quốc vương rất vui mừng, lập tức gọi một vị đại thần đưa ông đi đến chỗ chuông thần. Ra tới ngoài cửa thành, nhà buôn Phúc Kiến chạy đến xem thì quả nhiên thấy đây là thần khí nhà Phật của nước mình, lập tức quỳ xuống, thành tâm khấu đầu đảnh lễ ba lần, đầu đập xuống đất thật kêu. Tiếng chuông thần bỗng nhiên ngừng bặt, người Hồng Mao đứng nhìn xung quanh reo hò hoan hô từng đợt.
Các vị thầy của am Hải Triều nghe nói đã tìm được chuông thần về, vội vàng xuất công xây một lầu chuông mới. Nhà buôn Phúc Kiến hộ tống chuông thần, vượt trăm sông ngàn núi mới về tới Phổ Đà Sơn.
Ngày chuông thần về tới là ngày lầu chuông cũng vừa xây xong, tất cả các thầy của am Hải Triều đều ra sức, người kéo kẻ khiêng, treo chuông thần lên lầu chuông mới.
Tiếng chuông trong trẻo của am Hải Triều lại vang rền trở lại trong khắp đảo từ đấy.
#807
Gửi vào 07/07/2014 - 04:56
23. HÒA THƯỢNG LỊCH SƠN BẮT RÙA
Trước cửa chùa Phổ Tế có một hồ sen, hoa sen ở đó đặc biệt tinh khiết, hương thơm đặc biệt ngào ngạt.
Năm ấy có một viên khâm sai của hoàng thành đến chơi Phổ Đà Sơn, được ăn một bát chè hạt sen thơm phức, về tới triều đình bèn hết lòng tán dương khen ngợi.
Nhà vua nghe được, bèn hạ thánh chỉ truyền lệnh mỗi năm Phổ Đà Sơn phải tiến cống hạt sen. Từ đó trở đi, hạt sen trong hồ bị đưa lên triều cống cho hoàng đế không chừa một hạt nào còn lại. Chư tăng trong chúng ai cũng căm phẫn nhưng không ai dám lên tiếng.
Về sau, có một vị hòa thượng đến chùa Phổ Tế cư ngụ, ngài tên là Pháp sư Lịch Sơn. Vị hoà thượng này râu trắng dài tới ngực, lông m*y dài che mặt, khí phách phi phàm, được mọi người mệnh danh là “lão tăng trăm tuổi”.
Hoà thượng Lịch Sơn nghe nói mỗi năm Phổ Đà Sơn phải triều cống hạt sen cho hoàng đế, trong lòng không phục, bèn viết gởi lên triều đình một bản tấu thư, tâu rằng trong hồ có một con rùa đen đã thành tinh rất ham ăn, đêm nào cũng về ăn vụng hết hạt sen trong hồ nên hạt sen vô cùng khan hiếm, thỉnh cầu hoàng đế miễn cho việc triều cống.
Hoàng đế nhận bản tấu thư xong thì giận quá, râu tóc dựng ngược, cặp mắt muốn lồi ra ngoài! Ông thừa biết hạt sen của Phổ Đà Sơn hằng năm phải hiến cống triều đình, tất cả đều dành cho ông dùng, “rõ ràng họ muốn nhục mạ ta là con rùa đen thành tinh đây mà!”
Nghĩ thế xong ông nắm lấy ngự bút, toan viết lời phê phán, song vừa mới viết xuống bốn chữ “Lịch Sơn hoà thượng” thì ngừng lại. Tại sao vậy? Ban đầu ông tính viết là “Lịch Sơn hòa thượng nhục mạ hoàng đế, xử tử!”, nhưng nghĩ kỹ lại thì thấy không được, trong bản tấu thư giấy trắng mực đen ghi rằng “con rùa đen thành tinh ăn vụng hạt sen”, làm sao có thể bảo đó là một câu “nhục mạ hoàng đế” được! Kết tội Lịch Sơn hòa thượng “nhục mạ hoàng đế”, há chẳng phải ngầm công nhận rằng hoàng đế chính là con rùa đen thành tinh ăn vụng hạt sen hay sao! Làm thế thì tránh sao khỏi bị thiên hạ chê cười! Phải kiếm một cách khác để trừng trị Lịch Sơn hòa thượng mới được.
Một tay cầm ngự bút, một tay cầm bản tấu thư, cuối cùng ông cũng tìm ra một cách. Ông ngoáy bút một lúc rồi đổi lời phê như sau:
“Lịch Sơn hòa thượng có nhiệm vụ phải bắt con rùa đen thành tinh, nếu không bắt được, xử tử!”
Sau đó ông phái vị khâm sai bữa trước trở lại Phổ Đà Sơn tuyên đọc thánh chỉ.
Chư tăng của Phổ Đà Sơn nghe xong thánh chỉ, ai cũng sững sờ và kinh hoàng. Chỉ có Lịch Sơn Hòa thượng là không chút lo âu, tiếp xong thánh chỉ bèn nói với khâm sai:
– Nếu muốn bắt rùa tinh thì thế nào ngó sen cũng bị hủy hoại, lúc ấy sẽ không còn hạt sen nào để hiến cống lên cho hoàng thượng. Lão tăng không dám chịu trách nhiệm ấy, xin đại nhân xét cho!
Vị khâm sai nghe thế thầm nghĩ: “Ông Lịch Sơn Hòa thượng này thật là không phải tay vừa!” rồi bèn làm bộ xuề xoà, cười nói:
– Nếu bắt được rùa tinh thì về đến kinh đô rồi lão thần nhất định sẽ tâu lên sự thật, cầu xin hoàng thượng xá miễn cho các vị việc triều cống!
Lịch Sơn Hòa thượng nghe thế cười ha hả:
– Đại nhân thật là người biết thông cảm cho phận kẻ thấp cổ bé miệng, lão tăng rất khâm phục. Không phải như kẻ khác, ngoài thì thơn thớt nói cười mà sau lưng lại giết người không dao bằng những lời sàm tấu, thật là đáng ghét! Vậy thì chúng ta cùng ra hồ bắt rùa đi!
Lịch Sơn Hòa thượng dẫn đầu chư tăng của toàn chùa, mặc áo cà sa, chắp tay cúi đầu, miệng đọc kinh Phật, đến hồ sen sai người tát cạn hồ nước, rồi chọn mười vị tăng mạnh khoẻ cường tráng nhảy xuống hồ bắt rùa. Mò mẫm như thế liên tiếp ba ngày ba đêm, cuối cùng họ mới mò ra được một con rùa đen bằng đá nằm ở dưới cầu Vĩnh Thọ. Hòa thượng Lịch Sơn bảo mấy vị tăng ấy đem dây thừng cột chặt con rùa đá rồi đem nó lên xem xét, ôi, con rùa này nặng tới ngàn, vạn cân là ít!
Lịch Sơn Hòa thượng chỉ con rùa đen nói với khâm sai rằng:
– Thưa đại nhân! Con rùa đá này tu luyện thành tinh, tạo nghiệp tội trên đất Phật, may được thánh chỉ của hoàng thượng nên lão tăng mới trừ được cái hại này!
Khâm sai bước tới rờ đầu rồi gõ lưng con rùa, đảo mắt nhìn quanh rồi nói:
– Đây là con rùa đá, làm sao có thể ăn vụng hạt sen được? Này, nói dối là bị tội khi quân chứ không phải chuyện đùa đâu!
Lịch Sơn Hòa thượng mỉm cười đáp:
– Đại nhân không rõ đấy thôi! Con rùa này là do Bát Tiên đánh mất lúc họ qua sông đó mà! Lúc đầu nó chỉ là một con rùa nhỏ bằng ngọc đen, nhờ tu luyện lâu năm ở đây nên mới trở nên to lớn như thế. Ngày nó ngủ, đêm mới thức dậy lén ăn hạt sen trên đất Phật với ý nguyện mau đắc chính quả. Mặc dầu nó đã thành tinh, nhưng không có phép để thăng thiên hay độn thổ cho nên một khi bị mặt trời chiếu vào rồi thì bao nhiêu công phu tu hành đều mất trọn. Đại nhân có thể đem con rùa này về hoàng thành, thỉnh hoàng thượng xem qua để thấu rõ cho lòng thành của bần tăng đi bắt rùa trừ yêu cho Phổ Đà Sơn!
Vị khâm sai nọ nghe Lịch Sơn Hòa thượng nói thế thì bán tín bán nghi, cảm thấy thật là khó xử. Con rùa đá nặng cả ngàn cân, nếu đem về kinh thành thì phải mất rất nhiều thời gian, rất nhiều công sức. Hơn nữa phải đi đường biển xa xôi, trên biển gió thuận thì không nói gì, mà nếu gặp gió mưa bão bùng thì thật là không thể kham nổi lao khổ! Ông bèn làm bộ thân thiết nói rằng:
– Nay pháp sư đã hàng phục được yêu tinh, trừ hại cho đất Phật, lão thần sẽ về tâu điều này lên cho Thánh thượng là được rồi. Còn con rùa đá này, thôi thì cho nó ở lại đây, sau này bắt nó đội bia vậy!
Lịch Sơn Hòa thượng nghe khâm sai nói thì trong bụng mừng thầm, vội cúi đầu tạ ơn “Tuân mệnh!”.
Khâm sai biết bản lãnh của Lịch Sơn Hòa thượng, không dám nấn ná ở lại lâu, đành tiu nghĩu trở về kinh báo cáo kết quả nhiệm vụ cho hoàng đế.
Từ đấy, Phổ Đà Sơn không còn phải triều cống hạt sen cho vua nữa.
Về sau, có người nói chính Lịch Sơn Hòa thượng đã ngầm sai người thả rùa đá đen này xuống hồ trước rồi.
Đúng là: “Sư đi nước cờ cao, khâm sai bị hàng phục!”.
Trước cửa chùa Phổ Tế có một hồ sen, hoa sen ở đó đặc biệt tinh khiết, hương thơm đặc biệt ngào ngạt.
Năm ấy có một viên khâm sai của hoàng thành đến chơi Phổ Đà Sơn, được ăn một bát chè hạt sen thơm phức, về tới triều đình bèn hết lòng tán dương khen ngợi.
Nhà vua nghe được, bèn hạ thánh chỉ truyền lệnh mỗi năm Phổ Đà Sơn phải tiến cống hạt sen. Từ đó trở đi, hạt sen trong hồ bị đưa lên triều cống cho hoàng đế không chừa một hạt nào còn lại. Chư tăng trong chúng ai cũng căm phẫn nhưng không ai dám lên tiếng.
Về sau, có một vị hòa thượng đến chùa Phổ Tế cư ngụ, ngài tên là Pháp sư Lịch Sơn. Vị hoà thượng này râu trắng dài tới ngực, lông m*y dài che mặt, khí phách phi phàm, được mọi người mệnh danh là “lão tăng trăm tuổi”.
Hoà thượng Lịch Sơn nghe nói mỗi năm Phổ Đà Sơn phải triều cống hạt sen cho hoàng đế, trong lòng không phục, bèn viết gởi lên triều đình một bản tấu thư, tâu rằng trong hồ có một con rùa đen đã thành tinh rất ham ăn, đêm nào cũng về ăn vụng hết hạt sen trong hồ nên hạt sen vô cùng khan hiếm, thỉnh cầu hoàng đế miễn cho việc triều cống.
Hoàng đế nhận bản tấu thư xong thì giận quá, râu tóc dựng ngược, cặp mắt muốn lồi ra ngoài! Ông thừa biết hạt sen của Phổ Đà Sơn hằng năm phải hiến cống triều đình, tất cả đều dành cho ông dùng, “rõ ràng họ muốn nhục mạ ta là con rùa đen thành tinh đây mà!”
Nghĩ thế xong ông nắm lấy ngự bút, toan viết lời phê phán, song vừa mới viết xuống bốn chữ “Lịch Sơn hoà thượng” thì ngừng lại. Tại sao vậy? Ban đầu ông tính viết là “Lịch Sơn hòa thượng nhục mạ hoàng đế, xử tử!”, nhưng nghĩ kỹ lại thì thấy không được, trong bản tấu thư giấy trắng mực đen ghi rằng “con rùa đen thành tinh ăn vụng hạt sen”, làm sao có thể bảo đó là một câu “nhục mạ hoàng đế” được! Kết tội Lịch Sơn hòa thượng “nhục mạ hoàng đế”, há chẳng phải ngầm công nhận rằng hoàng đế chính là con rùa đen thành tinh ăn vụng hạt sen hay sao! Làm thế thì tránh sao khỏi bị thiên hạ chê cười! Phải kiếm một cách khác để trừng trị Lịch Sơn hòa thượng mới được.
Một tay cầm ngự bút, một tay cầm bản tấu thư, cuối cùng ông cũng tìm ra một cách. Ông ngoáy bút một lúc rồi đổi lời phê như sau:
“Lịch Sơn hòa thượng có nhiệm vụ phải bắt con rùa đen thành tinh, nếu không bắt được, xử tử!”
Sau đó ông phái vị khâm sai bữa trước trở lại Phổ Đà Sơn tuyên đọc thánh chỉ.
Chư tăng của Phổ Đà Sơn nghe xong thánh chỉ, ai cũng sững sờ và kinh hoàng. Chỉ có Lịch Sơn Hòa thượng là không chút lo âu, tiếp xong thánh chỉ bèn nói với khâm sai:
– Nếu muốn bắt rùa tinh thì thế nào ngó sen cũng bị hủy hoại, lúc ấy sẽ không còn hạt sen nào để hiến cống lên cho hoàng thượng. Lão tăng không dám chịu trách nhiệm ấy, xin đại nhân xét cho!
Vị khâm sai nghe thế thầm nghĩ: “Ông Lịch Sơn Hòa thượng này thật là không phải tay vừa!” rồi bèn làm bộ xuề xoà, cười nói:
– Nếu bắt được rùa tinh thì về đến kinh đô rồi lão thần nhất định sẽ tâu lên sự thật, cầu xin hoàng thượng xá miễn cho các vị việc triều cống!
Lịch Sơn Hòa thượng nghe thế cười ha hả:
– Đại nhân thật là người biết thông cảm cho phận kẻ thấp cổ bé miệng, lão tăng rất khâm phục. Không phải như kẻ khác, ngoài thì thơn thớt nói cười mà sau lưng lại giết người không dao bằng những lời sàm tấu, thật là đáng ghét! Vậy thì chúng ta cùng ra hồ bắt rùa đi!
Lịch Sơn Hòa thượng dẫn đầu chư tăng của toàn chùa, mặc áo cà sa, chắp tay cúi đầu, miệng đọc kinh Phật, đến hồ sen sai người tát cạn hồ nước, rồi chọn mười vị tăng mạnh khoẻ cường tráng nhảy xuống hồ bắt rùa. Mò mẫm như thế liên tiếp ba ngày ba đêm, cuối cùng họ mới mò ra được một con rùa đen bằng đá nằm ở dưới cầu Vĩnh Thọ. Hòa thượng Lịch Sơn bảo mấy vị tăng ấy đem dây thừng cột chặt con rùa đá rồi đem nó lên xem xét, ôi, con rùa này nặng tới ngàn, vạn cân là ít!
Lịch Sơn Hòa thượng chỉ con rùa đen nói với khâm sai rằng:
– Thưa đại nhân! Con rùa đá này tu luyện thành tinh, tạo nghiệp tội trên đất Phật, may được thánh chỉ của hoàng thượng nên lão tăng mới trừ được cái hại này!
Khâm sai bước tới rờ đầu rồi gõ lưng con rùa, đảo mắt nhìn quanh rồi nói:
– Đây là con rùa đá, làm sao có thể ăn vụng hạt sen được? Này, nói dối là bị tội khi quân chứ không phải chuyện đùa đâu!
Lịch Sơn Hòa thượng mỉm cười đáp:
– Đại nhân không rõ đấy thôi! Con rùa này là do Bát Tiên đánh mất lúc họ qua sông đó mà! Lúc đầu nó chỉ là một con rùa nhỏ bằng ngọc đen, nhờ tu luyện lâu năm ở đây nên mới trở nên to lớn như thế. Ngày nó ngủ, đêm mới thức dậy lén ăn hạt sen trên đất Phật với ý nguyện mau đắc chính quả. Mặc dầu nó đã thành tinh, nhưng không có phép để thăng thiên hay độn thổ cho nên một khi bị mặt trời chiếu vào rồi thì bao nhiêu công phu tu hành đều mất trọn. Đại nhân có thể đem con rùa này về hoàng thành, thỉnh hoàng thượng xem qua để thấu rõ cho lòng thành của bần tăng đi bắt rùa trừ yêu cho Phổ Đà Sơn!
Vị khâm sai nọ nghe Lịch Sơn Hòa thượng nói thế thì bán tín bán nghi, cảm thấy thật là khó xử. Con rùa đá nặng cả ngàn cân, nếu đem về kinh thành thì phải mất rất nhiều thời gian, rất nhiều công sức. Hơn nữa phải đi đường biển xa xôi, trên biển gió thuận thì không nói gì, mà nếu gặp gió mưa bão bùng thì thật là không thể kham nổi lao khổ! Ông bèn làm bộ thân thiết nói rằng:
– Nay pháp sư đã hàng phục được yêu tinh, trừ hại cho đất Phật, lão thần sẽ về tâu điều này lên cho Thánh thượng là được rồi. Còn con rùa đá này, thôi thì cho nó ở lại đây, sau này bắt nó đội bia vậy!
Lịch Sơn Hòa thượng nghe khâm sai nói thì trong bụng mừng thầm, vội cúi đầu tạ ơn “Tuân mệnh!”.
Khâm sai biết bản lãnh của Lịch Sơn Hòa thượng, không dám nấn ná ở lại lâu, đành tiu nghĩu trở về kinh báo cáo kết quả nhiệm vụ cho hoàng đế.
Từ đấy, Phổ Đà Sơn không còn phải triều cống hạt sen cho vua nữa.
Về sau, có người nói chính Lịch Sơn Hòa thượng đã ngầm sai người thả rùa đá đen này xuống hồ trước rồi.
Đúng là: “Sư đi nước cờ cao, khâm sai bị hàng phục!”.
#808
Gửi vào 07/07/2014 - 05:19
24. GIẾNG THẦN TIÊN
Ở miệt trên của bãi cát Bách Bộ sa và phía nam của Kỷ Bảo lĩnh, có một cái động đá bị cây lá che phủ. Trong động có một cái đầm nước tên là “giếng thần tiên”; nước giếng ngọt ngào, trong trẻo, hạn hán không khô, lụt lội không tràn. Khách hành hương qua lại nơi ấy, ai cũng ngừng chân lại uống một hớp nước tiên, họ cho rằng uống nước ấy vào thì mắt sáng bệnh lành, sống lâu trường thọ.
Giếng tiên này từ đâu mà có vậy?
Xưa thật là xưa, có một anh chàng tiều phu trẻ tuổi, dựng một túp lều tranh ở triền núi phía nam để nương thân qua ngày. Muốn đi từ chùa trước qua tới chùa sau, thế nào cũng phải đi qua lều tranh của anh chàng, nên khách hành hương thường đứng lại nghỉ chân và xin anh chàng một chút nước uống. Vì anh chàng thường hay lên núi đốn củi, bèn đào một đầm nước nhỏ bên hông túp lều và đóng một cái gáo nước đặt ở bên cạnh, để khi mình vắng mặt thì khách hành hương có thể tự múc nước lấy mà uống.
Nhưng gặp lúc hạn hán thì nước trong đầm ấy giống như một bồn nước bùn vàng, trở mưa to thì lại trở thành một hố nước bùn vàng, phải đợi mấy ngày sau mới uống được. Vì thế anh chàng tiều phu cứ thấy lòng xốn xang không yên.
Một hôm trời thật nóng, anh chàng đang múc nước từ dưới đáy đầm đổ vào thùng để cho nước lắng xuống hầu cung cấp cho khách hành hương giải khát, thì đột nhiên thấy từ dưới chân Kỷ Bảo Lĩnh một vị thầy tu cà thọt, cà thọt tiến đến, áo cà sa lam lũ, mồ hôi đầy người, lưng đeo một cái hồ lô. Vị thầy tu chống một cây gậy thô kệch, đến bên đầm nước cắm cây gậy xuống mà nói:
– Trời nóng quá, xin thí chủ cho tôi một chén nước uống nào!
Anh chàng tiều phu vội vàng múc từ thùng ra một gáo nước dâng lên vị thầy tu thọt chân, nhưng vị này làm như không thấy mà còn ồm ồm nói rằng:
– Chú đưa cho tôi mượn cái chén sứ trắng kia!
Anh chàng tiều phu ngây người ra, nghĩ rằng:
– Ông thầy này sao mà lôi thôi quá, uống nước lạnh mà còn đòi hỏi này nọ nữa! Bát sứ trắng ta chỉ dành để đựng cơm ăn thôi, phải bán tới nửa gánh củi mới mua được cái bát ấy chứ đâu phải dễ!
Nhưng khi nhìn bàn tay vừa đen vừa bẩn của vị thầy tu đang chìa ra chờ đợi, anh chàng ngượng mồm không từ chối được, đành lấy chiếc bát sứ trắng dâng lên cho thầy.
Vị thầy tu tiếp lấy chiếc bát, đến thùng nước múc một bát uống, và cứ thế liên tu uống 18 bát. Anh chàng tiều phu thấy thế phải cau m*y, nhưng lại nhè nhẹ thở ra một tiếng, nghĩ rằng:
– Ông thầy này thật tội nghiệp, thôi thì để cho ông ấy uống cho no, cùng lắm là ta tốn chút sức gánh thêm vài gánh nước, và cùng lắm là lên núi chặt thêm một gánh củi nữa mua cái chén mới vậy!
Không lâu sau, vị thầy tu uống cạn thùng nước, chùi mồm toan bỏ đi. Anh chàng tiều phu lại càng thấy kỳ quái, nhưng vẫn lễ độ nói:
– Lão sư phụ à, khi nào trở về thì ghé lại đây uống nước nữa nhé!
Vị thầy tu chân đi cà thọt nghe thế thì bật cười chắp tay lại mà nói với anh chàng rằng:
– Tiểu thí chủ không hiềm ta uống sạch hết nước và làm bẩn cái chén sứ trắng của chú sao?
Anh chàng tiều phu vội vàng đáp:
– Không, không, cho người ta giải khát, ai lại đi tiếc chút nước bao giờ!
Vị thầy tu thọt chân bèn cởi cái hồ lô trên lưng xuống:
– Thí chủ, cám ơn chú nhiều. Trong hồ lô này còn chừng phân nửa nước, ta cho chú đây!
Nói xong thầy bèn đổ nước từ trong hồ lô xuống cái đầm, sau đó gật gật đầu, bỏ đi mà không lấy lại cây gậy.
Anh chàng tiều phu vô cùng ngạc nhiên, nửa hồ lô nước làm được việc gì đây? Anh chàng nhìn mãi theo bóng vị thầy tu, rồi xoay đầu lại thì ô kìa! Cây gậy đã biến thành một tàng cây rậm rạp xanh tươi, cành lá che phủ cái đầm nước nhỏ xưa. Và lạ chưa! trong chiếc bát sứ trắng sao lại có một đóa hoa sen trắng như tuyết? Anh chàng nhìn kỹ nước trong đầm thì ô hay, sao nước lại trở nên trong vắt thế này?
Anh chàng tiều phu vô cùng mừng rỡ, nghĩ rằng vị thầy tu thọt chân kia chắc chắn là một bậc thần tiên, nên đặt tên cho đầm nước nhỏ ấy là “giếng thần tiên”.
Ở miệt trên của bãi cát Bách Bộ sa và phía nam của Kỷ Bảo lĩnh, có một cái động đá bị cây lá che phủ. Trong động có một cái đầm nước tên là “giếng thần tiên”; nước giếng ngọt ngào, trong trẻo, hạn hán không khô, lụt lội không tràn. Khách hành hương qua lại nơi ấy, ai cũng ngừng chân lại uống một hớp nước tiên, họ cho rằng uống nước ấy vào thì mắt sáng bệnh lành, sống lâu trường thọ.
Giếng tiên này từ đâu mà có vậy?
Xưa thật là xưa, có một anh chàng tiều phu trẻ tuổi, dựng một túp lều tranh ở triền núi phía nam để nương thân qua ngày. Muốn đi từ chùa trước qua tới chùa sau, thế nào cũng phải đi qua lều tranh của anh chàng, nên khách hành hương thường đứng lại nghỉ chân và xin anh chàng một chút nước uống. Vì anh chàng thường hay lên núi đốn củi, bèn đào một đầm nước nhỏ bên hông túp lều và đóng một cái gáo nước đặt ở bên cạnh, để khi mình vắng mặt thì khách hành hương có thể tự múc nước lấy mà uống.
Nhưng gặp lúc hạn hán thì nước trong đầm ấy giống như một bồn nước bùn vàng, trở mưa to thì lại trở thành một hố nước bùn vàng, phải đợi mấy ngày sau mới uống được. Vì thế anh chàng tiều phu cứ thấy lòng xốn xang không yên.
Một hôm trời thật nóng, anh chàng đang múc nước từ dưới đáy đầm đổ vào thùng để cho nước lắng xuống hầu cung cấp cho khách hành hương giải khát, thì đột nhiên thấy từ dưới chân Kỷ Bảo Lĩnh một vị thầy tu cà thọt, cà thọt tiến đến, áo cà sa lam lũ, mồ hôi đầy người, lưng đeo một cái hồ lô. Vị thầy tu chống một cây gậy thô kệch, đến bên đầm nước cắm cây gậy xuống mà nói:
– Trời nóng quá, xin thí chủ cho tôi một chén nước uống nào!
Anh chàng tiều phu vội vàng múc từ thùng ra một gáo nước dâng lên vị thầy tu thọt chân, nhưng vị này làm như không thấy mà còn ồm ồm nói rằng:
– Chú đưa cho tôi mượn cái chén sứ trắng kia!
Anh chàng tiều phu ngây người ra, nghĩ rằng:
– Ông thầy này sao mà lôi thôi quá, uống nước lạnh mà còn đòi hỏi này nọ nữa! Bát sứ trắng ta chỉ dành để đựng cơm ăn thôi, phải bán tới nửa gánh củi mới mua được cái bát ấy chứ đâu phải dễ!
Nhưng khi nhìn bàn tay vừa đen vừa bẩn của vị thầy tu đang chìa ra chờ đợi, anh chàng ngượng mồm không từ chối được, đành lấy chiếc bát sứ trắng dâng lên cho thầy.
Vị thầy tu tiếp lấy chiếc bát, đến thùng nước múc một bát uống, và cứ thế liên tu uống 18 bát. Anh chàng tiều phu thấy thế phải cau m*y, nhưng lại nhè nhẹ thở ra một tiếng, nghĩ rằng:
– Ông thầy này thật tội nghiệp, thôi thì để cho ông ấy uống cho no, cùng lắm là ta tốn chút sức gánh thêm vài gánh nước, và cùng lắm là lên núi chặt thêm một gánh củi nữa mua cái chén mới vậy!
Không lâu sau, vị thầy tu uống cạn thùng nước, chùi mồm toan bỏ đi. Anh chàng tiều phu lại càng thấy kỳ quái, nhưng vẫn lễ độ nói:
– Lão sư phụ à, khi nào trở về thì ghé lại đây uống nước nữa nhé!
Vị thầy tu chân đi cà thọt nghe thế thì bật cười chắp tay lại mà nói với anh chàng rằng:
– Tiểu thí chủ không hiềm ta uống sạch hết nước và làm bẩn cái chén sứ trắng của chú sao?
Anh chàng tiều phu vội vàng đáp:
– Không, không, cho người ta giải khát, ai lại đi tiếc chút nước bao giờ!
Vị thầy tu thọt chân bèn cởi cái hồ lô trên lưng xuống:
– Thí chủ, cám ơn chú nhiều. Trong hồ lô này còn chừng phân nửa nước, ta cho chú đây!
Nói xong thầy bèn đổ nước từ trong hồ lô xuống cái đầm, sau đó gật gật đầu, bỏ đi mà không lấy lại cây gậy.
Anh chàng tiều phu vô cùng ngạc nhiên, nửa hồ lô nước làm được việc gì đây? Anh chàng nhìn mãi theo bóng vị thầy tu, rồi xoay đầu lại thì ô kìa! Cây gậy đã biến thành một tàng cây rậm rạp xanh tươi, cành lá che phủ cái đầm nước nhỏ xưa. Và lạ chưa! trong chiếc bát sứ trắng sao lại có một đóa hoa sen trắng như tuyết? Anh chàng nhìn kỹ nước trong đầm thì ô hay, sao nước lại trở nên trong vắt thế này?
Anh chàng tiều phu vô cùng mừng rỡ, nghĩ rằng vị thầy tu thọt chân kia chắc chắn là một bậc thần tiên, nên đặt tên cho đầm nước nhỏ ấy là “giếng thần tiên”.
#809
Gửi vào 07/07/2014 - 05:38
25. TÁM BỨC TRANH QUÁN ÂM
Ở quanh vùng Tô Châu, Hàng Châu, dân chúng thường thờ phụng những bức tranh họa 8 tướng của Bồ Tát Quán Âm. Sở dĩ dân chúng rất thích 8 bức tranh này, là vì ngay từ đầu, chính Bồ Tát Quán Âm đã hiện thân tự tay vẽ ra những bức tranh mẫu. Chuyện này có liên quan đến một vị cư sĩ tên là Vương Tích Tước.
Vị cư sĩ này có biệt hiệu là Kinh Thạch, đã từng làm quan lớn trong triều đình, cuối đời từ quan về vườn sống ẩn dật, dốc lòng làm việc Phật pháp. Suốt đời ông luôn thích làm việc thiện hay bố thí, đã làm được nhiều việc lợi ích cho dân cho nước.
Ông giao du một cách thân tình với một vị cao tăng đương thời, tức là Thiền sư Viên Thông. Một bên là quan lớn, một bên là cao tăng, hai bên cùng hỗ tương xiển dương Phật Pháp nên lúc ấy đạo Phật rất hưng thịnh.
Một hôm, Vương Kinh Thạch đang tụng bài Tâm kinh, đọc tới câu “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, bèn nghĩ đến công đức của Bồ Tát Quán Âm đại từ đại bi, bỗng nhiên phát sinh ý nguyện mời một vị họa sĩ tài cao để vẽ một ngàn bức tranh, họa pháp tướng của Bồ Tát Quán Âm, và đồng thời kèm theo bài Tâm kinh để tặng cho người ta đem về thờ. Nhờ thế, người ta sẽ càng thêm một lòng hướng thiện và chịu thay đổi những phong tục tập quán xấu.
Quyết định như thế rồi, Vương Kinh Thạch bèn đi tìm Thiền sư Viên Thông để bàn luận. Ông bạch với Thiền sư rằng:
– Bạch Thiền sư, những ngày gần đây đệ tử có một ý muốn như thế này: Bồ Tát Quán Âm vì lòng đại từ đại bi, tầm thanh cứu khổ, nên huyền ảo hiển hóa đủ các bảo tướng để cứu độ chúng sinh. Con đã phát nguyện mời họa sư vẽ 1.000 bức họa bảo tướng của Bồ Tát tặng cho dân gian để khuyến hóa họ, đại sư nghĩ thế nào?
Thiền sư Viên Thông nghe thế thì mừng rỡ vô cùng, khen ngợi hết lời:
– Ông tận tâm tận lực xiển dương Phật Pháp, phát tâm vẽ bảo tướng của Bồ Tát Quán Âm tặng cho dân gian để khuyến hóa thế tục, đó là một điều thiện, công đức vô lượng!
Vương Kinh Thạch nói:
– Tuy nhiên đệ tử có một điều xin thỉnh ý đại sư, đó là Bồ Tát hiển hóa đủ các bảo tướng khác nhau, vậy thì đệ tử nên vẽ bảo tướng nào? Đại sư trí tuệ uyên thâm, xin chỉ giáo đệ tử.
Viên Thông pháp sư trả lời:
– Muốn biết tốt nhất nên vẽ bảo tướng nào của Bồ Tát, thì phải chiếu theo “Thiên quang nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh”, tất cả có tám tướng:
– Một là “Kim Cương Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Hai là “Dữ Nguyện Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Ba là “Sổ Châu Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Bốn là “Câu Triệu Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Năm là “Trừ Chướng Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Sáu là “Bảo Kiếm Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Bảy là “Bảo Ấn Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Tám là “Bất Thối Chuyển Kim Luân Quán Tự Tại Bồ Tát”.
Đó là tám hình tướng của Bồ Tát, mỗi hình tướng diễn tả một loại thần thông khác nhau. Vậy thì cuối cùng nên vẽ hình tướng nào? Bần tăng không dám chủ quan quyết định, xin mời cư sĩ hãy tự định đoạt lấy.
Vương Kinh Thạch suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Lời sư phụ chỉ giáo rất đúng, đệ tử nghĩ tốt nhất là mời một vài họa sư đến, trước hết dặn họ tắm rửa trai giới thanh tịnh, xong thỉnh Bồ Tát ban cho một điềm lành, thị hiện bảo tướng cho họ thấy. Họ thấy bảo tướng của Bồ Tát rồi thì chiếu theo đó mà vẽ, làm như thế là đúng nhất.
Viên Thông Pháp sư đáp:
– Làm như thế rất tốt.
Vương Kinh Thạch bèn đi mời họa công về vẽ, vừa vặn mời được 8 người, rồi bày tỏ cho họ biết điều mình mơ ước. 8 vị họa công nghe lời Vương Kinh Thạch, tắm rửa trai giới thanh tịnh để cầu nguyện Bồ Tát Quán Âm ứng mộng cho mình thấy bảo tướng. Nhưng liên tiếp mấy ngày mà không có ai mộng thấy điềm gì cả. Họ không biết bảo tướng của Bồ Tát thật sự như thế nào nên cũng không biết vẽ Ngài ra sao, vì thế họ cảm thấy rất khó xử.
Vừa khéo Bồ Tát Quán Âm đi ngang qua chỗ ấy, biết rằng Vương Kinh Thạch muốn vẽ tranh của mình mà đang gặp khó khăn, nên Ngài hóa thành một anh chàng tú tài áo trắng đến trước cửa nhà xin gặp, nói rằng mình có sở trường vẽ các loại hình tướng của Bồ Tát Quán Âm.
Vương Kinh Thạch nghe nói có người tự giới thiệu như thế thì mừng khấp khởi, vội mời vào gặp mặt. Nói chuyện một lúc với tú tài, ông rất vừa ý, nhất là khi vị này nói với ông một cách rất thành tâm:
– Ngài phát nguyện lớn như thế thì làm sao không giúp ngài được. Tại hạ đã bảy lần mộng thấy đến đất Phật nên rất quen thuộc với với các hình tướng cùng khuôn mặt của Bồ Tát, ngài muốn vẽ thì tại hạ có thể vẽ liền tức thì.
Vương Kinh Thạch mừng không thể tả:
– Vậy xin thỉnh tiên sinh thi thố tài năng cho, nhưng không biết tiên sinh định vẽ bảo tướng nào?
Tú Tài đáp:
– Pháp sư Viên Thông đã nói với ngài rằng Bồ Tát Quán Âm có 8 tướng, thì theo thiển ý của tại hạ, mình nên vẽ cả 8 tướng mới hoàn mỹ và không thiếu sót.
Vương Kinh Thạch gật đầu liên hồi tỏ ý tán đồng:
– Thế thì quá tốt rồi!
Thế là ông gọi người xếp đặt bàn vẽ, chuẩn bị mực vàng mực bạc, bút nghiên mới tinh cùng giấy trắng thanh khiết, và mời tú tài vẽ.
Bạch y tú tài tiến đến trước bàn, xắn tay áo, cất bút lên bắt đầu vẽ, ngọn bút bay trên giấy mau như gió thổi, cánh tay cầm bút thoăn thoắt như điện chớp, chỉ trong phút chốc là hoàn thành bức hình thứ nhất của Bồ Tát Quán Âm. Tú tài tiếp tục múa bút, lại vẽ xong một bức khác. Không đầy nửa ngày, tám bức họa bảo tướng Bồ Tát Quán Âm đã vẽ xong. Tám vị họa công không ai là không tấm tắc xuýt xoa khen là đẹp tuyệt, còn Vương Kinh Thạch thì mừng vui không bút mực nào tả xiết.
Hãy nhìn tám bức tranh:
– Bức thứ nhất “Kim Cương Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng phẫn nộ, mặt mũi dữ tợn, dáng vẻ giận dữ, tướng này có thể nhiếp phục ma quỷ.
– Bức thứ hai “Dữ Nguyện Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng đại từ, tay trái cầm quyển kinh, tay phải bất ấn “dữ nguyện” để kết thiện duyên sâu rộng với chúng sinh.
– Bức thứ ba “Sổ Châu Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng đại bi, Bồ Tát ngồi nhắm mắt, tay cầm xâu chuỗi như thể đang thầm niệm Phật, biểu lộ lòng từ bi lân mẫn của Bồ Tát đối với muôn loài.
– Bức thứ tư “Câu Triệu Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng Viên Thông, Bồ Tát ngồi kết già phu, có ba mặt, khuôn mặt chính vui vẻ, đầu đội thiên quan, trên mũ có hóa thân A Di Đà Phật. Khuôn mặt bên trái giận dữ đáng sợ, tóc tai dựng đứng, đầu đội nguyệt quan. Khuôn mặt bên phải cau m*y tức giận, răng nanh chĩa ra ngoài. Bồ Tát có sáu cánh tay, một tay cầm dây thừng, một tay cầm hoa sen, một tay cầm đinh ba, một tay cầm rìu, một tay bắt ấn Thí Vô Úy, một tay cầm bảo trượng Như Ý. Tướng này biểu thị Bồ Tát muốn “câu” những “con cá” trời và người đem lên bờ giác ngộ.
– Bức thứ năm “Trừ Chướng Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng Phổ Chiếu, một đầu ba khuôn mặt, tay phải cầm gương báu, bay trái bắt ấn “Dữ Nguyện”, tướng này biểu thị Bồ Tát có năng lực phá trừ ba chướng ở lục đạo.
– Bức thứ sáu “Bảo Kiếm Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng Giải Thoát, trên đầu hiện hoa sen, một tay cầm kiếm báu, một tay đưa lên trước ngực, tướng này biểu thị Bồ Tát có năng lực diệt trừ lục tặc.
– Bức thứ bảy “Bảo Ấn Quán Tự Tại Bồ Tát”, một thân ba đầu và 6 cánh tay, là tướng Phấn Tấn. Cả ba khuôn mặt đều hiện vẻ từ bi. Sáu cánh tay mỗi tay cầm một pháp khí là bảo ấn, chuông mõ, tràng phan, bảo kiếm và hoa sen. Tướng này biểu thị Bồ Tát đi đi lại lại trong Ba giới.
– Bức thứ tám “Bất Thối Chuyển Kim Luân Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng Như Ý, mặt ngọc mỉm cười, đầu đội mũ báu, trên mũ có hóa thân của Vô Lượng Thọ Phật, tay nâng bánh xe vàng ra dáng quay bánh xe, tướng này biểu thị Bồ Tát có năng lực diệt trừ các ác nghiệp.
Vương Kinh Thạch thấy tám bức tranh bảo tướng đã vẽ xong, mừng rỡ quá sức tưởng tượng, khen ngợi hết lời.
Tú tài nói:
– Bây giờ ngài đã có 8 bức tranh bảo tướng này, có thể để làm mẫu cho các vị họa sư vẽ theo. Tại hạ không ở lâu được, xin cáo biệt.
Vương Kinh Thạch nhất định giữ lại mà không được, kêu người đem bạc nén ra để trả tiền thù lao nhưng Tú Tài kiên quyết không nhận, còn lấy từ trong ngực áo ra một viên gì như hạt đậu đưa tặng Vương Kinh Thạch:
– Đây là hạt Tây Phương Vô Úy tôi tặng ngài, ngài hãy thường thường đeo trong người, nó có thể giúp ngài tiêu trừ mọi tai ương, tăng trưởng trí huệ và không bao giờ bị hãm hại.
Vương Kinh Thạch nhiều lần tạ ơn, thân hành tiễn bạch y tú tài ra tận cửa ngoài. Tiễn khách đi rồi, Vương Kinh Thạch sung sướng cầm 8 bức tranh bảo tướng Bồ Tát Quán Âm đi tìm Pháp sư Viên Thông và kể mọi sự cho ngài biết. Pháp sư nghe xong hoan hỉ nói với Vương Kinh Thạch rằng:
– Mừng cho ông, Vương cư sĩ! Hôm nay ông đã được gặp Bồ Tát rồi đó!
Vương Kinh Thạch không hiểu gì cả, nói một cách kinh ngạc:
– Gặp Bồ Tát nào? Ý Đại sư muốn nói vị bạch y tú tài vẽ tranh là Bồ Tát Quán Âm chăng?
Viên Thông Pháp sư cười:
– Đúng thế. Vị tú tài áo trắng ấy chính là Bồ Tát Quán Âm. Nếu không phải là Bồ Tát, người phàm nào có thể vẽ các bảo tướng được như vậy? Vả lại, nếu không phải là Bồ Tát, ai là người có thể tặng ngài hạt Tây Phương Vô Úy?
Vương Kinh Thạch bừng tỉnh ngộ, vừa kinh dị vừa vui mừng vạn phần. Ông cảm thấy vinh hạnh vì Bồ Tát đã giáng lâm đến nhà mình vẽ tranh nên lòng tin vào Phật Pháp càng kiên cố thêm, lòng muốn làm việc thiện càng tăng mạnh thêm.
Ông đem 8 bức tranh bảo tướng Bồ Tát treo trong đại đình, nhờ 8 vị họa công mỗi người lấy một bức mà vẽ theo. Vẽ xong bức nào, ông tự tay chép bài Tâm kinh kèm theo và tặng cả hai cho người ta. Vẽ như thế tròn một năm thì ông đã tặng đi hết 1.000 bức. Còn 8 bức tranh mẫu mà Ngài Quán Âm đã tự tay vẽ thì ông giữ làm của gia bảo trong nhà, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Ở quanh vùng Tô Châu, Hàng Châu, dân chúng thường thờ phụng những bức tranh họa 8 tướng của Bồ Tát Quán Âm. Sở dĩ dân chúng rất thích 8 bức tranh này, là vì ngay từ đầu, chính Bồ Tát Quán Âm đã hiện thân tự tay vẽ ra những bức tranh mẫu. Chuyện này có liên quan đến một vị cư sĩ tên là Vương Tích Tước.
Vị cư sĩ này có biệt hiệu là Kinh Thạch, đã từng làm quan lớn trong triều đình, cuối đời từ quan về vườn sống ẩn dật, dốc lòng làm việc Phật pháp. Suốt đời ông luôn thích làm việc thiện hay bố thí, đã làm được nhiều việc lợi ích cho dân cho nước.
Ông giao du một cách thân tình với một vị cao tăng đương thời, tức là Thiền sư Viên Thông. Một bên là quan lớn, một bên là cao tăng, hai bên cùng hỗ tương xiển dương Phật Pháp nên lúc ấy đạo Phật rất hưng thịnh.
Một hôm, Vương Kinh Thạch đang tụng bài Tâm kinh, đọc tới câu “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, bèn nghĩ đến công đức của Bồ Tát Quán Âm đại từ đại bi, bỗng nhiên phát sinh ý nguyện mời một vị họa sĩ tài cao để vẽ một ngàn bức tranh, họa pháp tướng của Bồ Tát Quán Âm, và đồng thời kèm theo bài Tâm kinh để tặng cho người ta đem về thờ. Nhờ thế, người ta sẽ càng thêm một lòng hướng thiện và chịu thay đổi những phong tục tập quán xấu.
Quyết định như thế rồi, Vương Kinh Thạch bèn đi tìm Thiền sư Viên Thông để bàn luận. Ông bạch với Thiền sư rằng:
– Bạch Thiền sư, những ngày gần đây đệ tử có một ý muốn như thế này: Bồ Tát Quán Âm vì lòng đại từ đại bi, tầm thanh cứu khổ, nên huyền ảo hiển hóa đủ các bảo tướng để cứu độ chúng sinh. Con đã phát nguyện mời họa sư vẽ 1.000 bức họa bảo tướng của Bồ Tát tặng cho dân gian để khuyến hóa họ, đại sư nghĩ thế nào?
Thiền sư Viên Thông nghe thế thì mừng rỡ vô cùng, khen ngợi hết lời:
– Ông tận tâm tận lực xiển dương Phật Pháp, phát tâm vẽ bảo tướng của Bồ Tát Quán Âm tặng cho dân gian để khuyến hóa thế tục, đó là một điều thiện, công đức vô lượng!
Vương Kinh Thạch nói:
– Tuy nhiên đệ tử có một điều xin thỉnh ý đại sư, đó là Bồ Tát hiển hóa đủ các bảo tướng khác nhau, vậy thì đệ tử nên vẽ bảo tướng nào? Đại sư trí tuệ uyên thâm, xin chỉ giáo đệ tử.
Viên Thông pháp sư trả lời:
– Muốn biết tốt nhất nên vẽ bảo tướng nào của Bồ Tát, thì phải chiếu theo “Thiên quang nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh”, tất cả có tám tướng:
– Một là “Kim Cương Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Hai là “Dữ Nguyện Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Ba là “Sổ Châu Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Bốn là “Câu Triệu Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Năm là “Trừ Chướng Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Sáu là “Bảo Kiếm Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Bảy là “Bảo Ấn Quán Tự Tại Bồ Tát”
– Tám là “Bất Thối Chuyển Kim Luân Quán Tự Tại Bồ Tát”.
Đó là tám hình tướng của Bồ Tát, mỗi hình tướng diễn tả một loại thần thông khác nhau. Vậy thì cuối cùng nên vẽ hình tướng nào? Bần tăng không dám chủ quan quyết định, xin mời cư sĩ hãy tự định đoạt lấy.
Vương Kinh Thạch suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Lời sư phụ chỉ giáo rất đúng, đệ tử nghĩ tốt nhất là mời một vài họa sư đến, trước hết dặn họ tắm rửa trai giới thanh tịnh, xong thỉnh Bồ Tát ban cho một điềm lành, thị hiện bảo tướng cho họ thấy. Họ thấy bảo tướng của Bồ Tát rồi thì chiếu theo đó mà vẽ, làm như thế là đúng nhất.
Viên Thông Pháp sư đáp:
– Làm như thế rất tốt.
Vương Kinh Thạch bèn đi mời họa công về vẽ, vừa vặn mời được 8 người, rồi bày tỏ cho họ biết điều mình mơ ước. 8 vị họa công nghe lời Vương Kinh Thạch, tắm rửa trai giới thanh tịnh để cầu nguyện Bồ Tát Quán Âm ứng mộng cho mình thấy bảo tướng. Nhưng liên tiếp mấy ngày mà không có ai mộng thấy điềm gì cả. Họ không biết bảo tướng của Bồ Tát thật sự như thế nào nên cũng không biết vẽ Ngài ra sao, vì thế họ cảm thấy rất khó xử.
Vừa khéo Bồ Tát Quán Âm đi ngang qua chỗ ấy, biết rằng Vương Kinh Thạch muốn vẽ tranh của mình mà đang gặp khó khăn, nên Ngài hóa thành một anh chàng tú tài áo trắng đến trước cửa nhà xin gặp, nói rằng mình có sở trường vẽ các loại hình tướng của Bồ Tát Quán Âm.
Vương Kinh Thạch nghe nói có người tự giới thiệu như thế thì mừng khấp khởi, vội mời vào gặp mặt. Nói chuyện một lúc với tú tài, ông rất vừa ý, nhất là khi vị này nói với ông một cách rất thành tâm:
– Ngài phát nguyện lớn như thế thì làm sao không giúp ngài được. Tại hạ đã bảy lần mộng thấy đến đất Phật nên rất quen thuộc với với các hình tướng cùng khuôn mặt của Bồ Tát, ngài muốn vẽ thì tại hạ có thể vẽ liền tức thì.
Vương Kinh Thạch mừng không thể tả:
– Vậy xin thỉnh tiên sinh thi thố tài năng cho, nhưng không biết tiên sinh định vẽ bảo tướng nào?
Tú Tài đáp:
– Pháp sư Viên Thông đã nói với ngài rằng Bồ Tát Quán Âm có 8 tướng, thì theo thiển ý của tại hạ, mình nên vẽ cả 8 tướng mới hoàn mỹ và không thiếu sót.
Vương Kinh Thạch gật đầu liên hồi tỏ ý tán đồng:
– Thế thì quá tốt rồi!
Thế là ông gọi người xếp đặt bàn vẽ, chuẩn bị mực vàng mực bạc, bút nghiên mới tinh cùng giấy trắng thanh khiết, và mời tú tài vẽ.
Bạch y tú tài tiến đến trước bàn, xắn tay áo, cất bút lên bắt đầu vẽ, ngọn bút bay trên giấy mau như gió thổi, cánh tay cầm bút thoăn thoắt như điện chớp, chỉ trong phút chốc là hoàn thành bức hình thứ nhất của Bồ Tát Quán Âm. Tú tài tiếp tục múa bút, lại vẽ xong một bức khác. Không đầy nửa ngày, tám bức họa bảo tướng Bồ Tát Quán Âm đã vẽ xong. Tám vị họa công không ai là không tấm tắc xuýt xoa khen là đẹp tuyệt, còn Vương Kinh Thạch thì mừng vui không bút mực nào tả xiết.
Hãy nhìn tám bức tranh:
– Bức thứ nhất “Kim Cương Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng phẫn nộ, mặt mũi dữ tợn, dáng vẻ giận dữ, tướng này có thể nhiếp phục ma quỷ.
– Bức thứ hai “Dữ Nguyện Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng đại từ, tay trái cầm quyển kinh, tay phải bất ấn “dữ nguyện” để kết thiện duyên sâu rộng với chúng sinh.
– Bức thứ ba “Sổ Châu Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng đại bi, Bồ Tát ngồi nhắm mắt, tay cầm xâu chuỗi như thể đang thầm niệm Phật, biểu lộ lòng từ bi lân mẫn của Bồ Tát đối với muôn loài.
– Bức thứ tư “Câu Triệu Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng Viên Thông, Bồ Tát ngồi kết già phu, có ba mặt, khuôn mặt chính vui vẻ, đầu đội thiên quan, trên mũ có hóa thân A Di Đà Phật. Khuôn mặt bên trái giận dữ đáng sợ, tóc tai dựng đứng, đầu đội nguyệt quan. Khuôn mặt bên phải cau m*y tức giận, răng nanh chĩa ra ngoài. Bồ Tát có sáu cánh tay, một tay cầm dây thừng, một tay cầm hoa sen, một tay cầm đinh ba, một tay cầm rìu, một tay bắt ấn Thí Vô Úy, một tay cầm bảo trượng Như Ý. Tướng này biểu thị Bồ Tát muốn “câu” những “con cá” trời và người đem lên bờ giác ngộ.
– Bức thứ năm “Trừ Chướng Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng Phổ Chiếu, một đầu ba khuôn mặt, tay phải cầm gương báu, bay trái bắt ấn “Dữ Nguyện”, tướng này biểu thị Bồ Tát có năng lực phá trừ ba chướng ở lục đạo.
– Bức thứ sáu “Bảo Kiếm Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng Giải Thoát, trên đầu hiện hoa sen, một tay cầm kiếm báu, một tay đưa lên trước ngực, tướng này biểu thị Bồ Tát có năng lực diệt trừ lục tặc.
– Bức thứ bảy “Bảo Ấn Quán Tự Tại Bồ Tát”, một thân ba đầu và 6 cánh tay, là tướng Phấn Tấn. Cả ba khuôn mặt đều hiện vẻ từ bi. Sáu cánh tay mỗi tay cầm một pháp khí là bảo ấn, chuông mõ, tràng phan, bảo kiếm và hoa sen. Tướng này biểu thị Bồ Tát đi đi lại lại trong Ba giới.
– Bức thứ tám “Bất Thối Chuyển Kim Luân Quán Tự Tại Bồ Tát” là tướng Như Ý, mặt ngọc mỉm cười, đầu đội mũ báu, trên mũ có hóa thân của Vô Lượng Thọ Phật, tay nâng bánh xe vàng ra dáng quay bánh xe, tướng này biểu thị Bồ Tát có năng lực diệt trừ các ác nghiệp.
Vương Kinh Thạch thấy tám bức tranh bảo tướng đã vẽ xong, mừng rỡ quá sức tưởng tượng, khen ngợi hết lời.
Tú tài nói:
– Bây giờ ngài đã có 8 bức tranh bảo tướng này, có thể để làm mẫu cho các vị họa sư vẽ theo. Tại hạ không ở lâu được, xin cáo biệt.
Vương Kinh Thạch nhất định giữ lại mà không được, kêu người đem bạc nén ra để trả tiền thù lao nhưng Tú Tài kiên quyết không nhận, còn lấy từ trong ngực áo ra một viên gì như hạt đậu đưa tặng Vương Kinh Thạch:
– Đây là hạt Tây Phương Vô Úy tôi tặng ngài, ngài hãy thường thường đeo trong người, nó có thể giúp ngài tiêu trừ mọi tai ương, tăng trưởng trí huệ và không bao giờ bị hãm hại.
Vương Kinh Thạch nhiều lần tạ ơn, thân hành tiễn bạch y tú tài ra tận cửa ngoài. Tiễn khách đi rồi, Vương Kinh Thạch sung sướng cầm 8 bức tranh bảo tướng Bồ Tát Quán Âm đi tìm Pháp sư Viên Thông và kể mọi sự cho ngài biết. Pháp sư nghe xong hoan hỉ nói với Vương Kinh Thạch rằng:
– Mừng cho ông, Vương cư sĩ! Hôm nay ông đã được gặp Bồ Tát rồi đó!
Vương Kinh Thạch không hiểu gì cả, nói một cách kinh ngạc:
– Gặp Bồ Tát nào? Ý Đại sư muốn nói vị bạch y tú tài vẽ tranh là Bồ Tát Quán Âm chăng?
Viên Thông Pháp sư cười:
– Đúng thế. Vị tú tài áo trắng ấy chính là Bồ Tát Quán Âm. Nếu không phải là Bồ Tát, người phàm nào có thể vẽ các bảo tướng được như vậy? Vả lại, nếu không phải là Bồ Tát, ai là người có thể tặng ngài hạt Tây Phương Vô Úy?
Vương Kinh Thạch bừng tỉnh ngộ, vừa kinh dị vừa vui mừng vạn phần. Ông cảm thấy vinh hạnh vì Bồ Tát đã giáng lâm đến nhà mình vẽ tranh nên lòng tin vào Phật Pháp càng kiên cố thêm, lòng muốn làm việc thiện càng tăng mạnh thêm.
Ông đem 8 bức tranh bảo tướng Bồ Tát treo trong đại đình, nhờ 8 vị họa công mỗi người lấy một bức mà vẽ theo. Vẽ xong bức nào, ông tự tay chép bài Tâm kinh kèm theo và tặng cả hai cho người ta. Vẽ như thế tròn một năm thì ông đã tặng đi hết 1.000 bức. Còn 8 bức tranh mẫu mà Ngài Quán Âm đã tự tay vẽ thì ông giữ làm của gia bảo trong nhà, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Thanked by 2 Members:
|
|
#810
Gửi vào 07/07/2014 - 06:01
26. BIA DƯƠNG CHI QUÁN ÂM
Đương gia hòa thượng của am Dương Chi tên là Như Quang, có giữ trong am một bức tranh do vị họa sĩ nổi danh đời Đường là Diêm Lập vẽ. Đó là bức “Quán Âm Đại Sĩ đồ tượng”. Tranh vẽ Quán Âm Đại sĩ đầu đội mão châu ngọc, khoác áo gấm, tay phải cầm cành dương liễu, tay trái cầm tịnh bình, linh động như người sống, thật là diệu tướng trang nghiêm.
Có một bức họa nổi tiếng như thế, am Dương Chi rất là tấp nập. Nào là những bậc học sĩ phong nhã, nào là khách hành hương đến lễ núi Phổ Đà, ai cũng muốn đến nhìn ngắm, lễ bái, ngày nào khách khứa cũng đến như nước chảy xiết không ngừng, khiến cho am Dương Chi nổi tiếng như cồn.
Có người khuyên Như Quang hòa thượng nên đem bức tranh quý vẽ pháp tượng Bồ Tát Quán Âm treo trên chánh điện nhưng ngài sợ đông người tạp nhạp làm hư hoại bức tranh, nên chỉ thờ bức tranh ấy trong một thiền phòng ở viện sau.
Một hôm, có một cụ già quắc thước, tóc bạc phơ đến am Dương Chi, đứng trước bức tranh Quán Âm ngắm nghía thật lâu, chân đi không đành. Hoà thượng Như Quang thấy thái độ cụ già như thế bèn đến chắp tay xá:
– Thí chủ có vẻ ái mộ bức tranh này?
Cụ già cũng vái trả đáp lễ đáp rằng:
– Đẹp lắm! Vẽ đẹp lắm! Bút tích thật là tuyệt diệu, đáng cho hậu thế khâm phục! Tại sao Pháp sư không cho tạc bức tranh này lên đá, thờ trên chánh điện cho đại chúng lễ bái?
Hoà Thượng Như Quang nghe thế thật đúng tâm ý của mình nên vội đáp:
– Đúng thế, đúng thế! Ý của cụ rất hay, nhưng hiện nay tìm đâu cho ra một người thợ điêu khắc tài hoa tinh xảo?
Cụ già nói:
– Nếu như Pháp sư không chê, có thể để cho lão tạc thử xem được không?
Hoà thượng nhìn lão già trân trân, gật đầu đồng ý. Hôm sau, cụ già cõng một khối đá xanh bằng phẳng trơn tru đến phòng thiền ở viện sau. Cụ ngồi trước bức tranh ngắm nhìn nguyên cả một ngày, rồi cười cười bỏ đi.
Hôm sau nữa, cụ già lại cõng đến đủ thứ dụng cụ khắc tượng, lại ngồi trước bức tranh ngắm nhìn nguyên cả một ngày, rồi cười cười bỏ đi.
Cụ già ngồi trước bức tranh ngắm nhìn ba ngày, rồi suy nghĩ thêm ba ngày, đến ngày thứ 7, cụ cầm cây bút tre, chuyên chú vẽ lại bức tranh trên khối đá xanh. Vẽ xong, cụ bèn dùng mũi nhọn và sắc của cái đục, vừa đục vừa tạc, bắt đầu điêu khắc. Hoà thượng Như Quang sai người đem cơm chay đến, cụ không dùng; cho người đem trà thơm lên, cụ không uống, cứ thế cho đến khuya khoắt, cứ “bong bong, bong bong” mà đục mà khắc liền tay.
Không biết trải qua bao ngày bao đêm như thế, đột nhiên một đêm nọ, tiếng “bong, bong” ngừng bặt, hoà thượng Như Quang vội vàng mặc y áo ra khỏi giường, đến phòng thiền ở phòng sau xem xét, thì không thấy cụ già đâu nhưng có một bia đá tạc hình ngài Quán Âm đã dựng ở đấy rồi, và bức tranh tạc tên đá giống hệt như bức tranh mẫu. Hoà thượng Như Quang rất hài lòng, đem phiến đá tạc hình ngài Quán Âm thờ ở chính điện. Từ đó, khách đến am lễ bái lại càng đông hơn nữa.
Đến năm Vạn Lịch nhà Minh, có một đêm tối đen như mực, đưa tay ra không nhìn thấy năm ngón, am Dương Chi bị lửa cháy, lửa cao tới trời, tất cả chỉ còn lại đống tro tàn, bức hình Ngài Quán Âm cũng không thoát khỏi ách nạn. Hoà thượng Như Quang xông tới đống ngói còn nóng như thiêu đốt, dùng tay trần mà bới mà đào, vẫn không sao tìm thấy bia đá có tạc hình Ngài Quán Âm. Ngài cứ quay cuồng nơi ấy, tâm lo lắng như nung như nấu. Chúng tăng trong chùa thấy hoà thượng như vậy, một mặt thì an ủi, một mặt thì chia nhau đi các núi, các thung lũng tìm kiếm, nhưng tìm khắp núi Phổ Đà cũng không tìm ra dấu vết.
Một buổi trưa nọ, có một chú tiểu đến trước mặt hòa thượng nói:
– Sư phụ ơi, đừng khóc nữa, bảo tượng Bồ Tát Quán Âm đã trở về rồi!
Ngài Như Quang mở đôi mắt nhòa lệ nhìn chú tiểu nói:
– Con đừng nói lời an ủi ta, ta đau lòng quá rồi!
Chú tiểu thành thật nói:
– Thật mà, sư phụ, đệ tử có bao giờ nói dối đâu! Không tin, thỉnh sư phụ tới xem!
Hoà thượng Như Quang nửa tin nửa ngờ, theo gót chú tiểu đến cửa Nam Thiên. Thoáng nhìn, ngài thấy trên một bãi cát không xa bờ biển, bia đá có khắc tượng Dương Chi Quán Âm nghiêng nghiêng tựa trên mặt một tảng đá ngầm, sáng loáng phát quang dưới ánh mặt trời, tợ như từ dưới biển trồi lên, nổi trên mặt nước mới tấp vào bờ vậy.
Hoà thượng Như Quang mừng không thể tả, lập tức bảo chúng tăng khiêng bia về am.
Làm sao bia Dương Chi Quán Âm lại từ dưới biển trồi lên? Nguyên do là đêm tối trời ấy có một tốp “giặc lùn” lén mò lên Phổ Đà Sơn, không ăn cắp được tranh bèn lấy trộm Quán Âm bia rồi còn đốt cháy am Dương Chi nữa. Có ngờ đâu khi tàu cướp vừa đến biển Liên Hoa, một trận gió dữ thình lình nổi lên, tàu giặc mất phương hướng, bị sóng xô giạt tới cửa Nam Thiên, húc phải đá ngầm khiến tàu bị lật, bia đá Quán Âm mới dựa nghiêng trên mặt tảng đá ngầm như vậy.
Tìm được bia đá rồi, trước hết, hoà thượng Như Quang đem bia tới chùa Phổ Tế thờ tạm, đợi am Dương Chi xây lại xong mới nghênh tiếp bia về nguyên xứ. Cho đến ngày nay, hễ đến Phổ Đà Sơn du lịch, ai cũng muốn được ngắm nhìn một lần tấm bia Quán Âm đã thoát được tai ách lớn và nghe lại một lần truyền thuyết của tấm bia ấy.
Đương gia hòa thượng của am Dương Chi tên là Như Quang, có giữ trong am một bức tranh do vị họa sĩ nổi danh đời Đường là Diêm Lập vẽ. Đó là bức “Quán Âm Đại Sĩ đồ tượng”. Tranh vẽ Quán Âm Đại sĩ đầu đội mão châu ngọc, khoác áo gấm, tay phải cầm cành dương liễu, tay trái cầm tịnh bình, linh động như người sống, thật là diệu tướng trang nghiêm.
Có một bức họa nổi tiếng như thế, am Dương Chi rất là tấp nập. Nào là những bậc học sĩ phong nhã, nào là khách hành hương đến lễ núi Phổ Đà, ai cũng muốn đến nhìn ngắm, lễ bái, ngày nào khách khứa cũng đến như nước chảy xiết không ngừng, khiến cho am Dương Chi nổi tiếng như cồn.
Có người khuyên Như Quang hòa thượng nên đem bức tranh quý vẽ pháp tượng Bồ Tát Quán Âm treo trên chánh điện nhưng ngài sợ đông người tạp nhạp làm hư hoại bức tranh, nên chỉ thờ bức tranh ấy trong một thiền phòng ở viện sau.
Một hôm, có một cụ già quắc thước, tóc bạc phơ đến am Dương Chi, đứng trước bức tranh Quán Âm ngắm nghía thật lâu, chân đi không đành. Hoà thượng Như Quang thấy thái độ cụ già như thế bèn đến chắp tay xá:
– Thí chủ có vẻ ái mộ bức tranh này?
Cụ già cũng vái trả đáp lễ đáp rằng:
– Đẹp lắm! Vẽ đẹp lắm! Bút tích thật là tuyệt diệu, đáng cho hậu thế khâm phục! Tại sao Pháp sư không cho tạc bức tranh này lên đá, thờ trên chánh điện cho đại chúng lễ bái?
Hoà Thượng Như Quang nghe thế thật đúng tâm ý của mình nên vội đáp:
– Đúng thế, đúng thế! Ý của cụ rất hay, nhưng hiện nay tìm đâu cho ra một người thợ điêu khắc tài hoa tinh xảo?
Cụ già nói:
– Nếu như Pháp sư không chê, có thể để cho lão tạc thử xem được không?
Hoà thượng nhìn lão già trân trân, gật đầu đồng ý. Hôm sau, cụ già cõng một khối đá xanh bằng phẳng trơn tru đến phòng thiền ở viện sau. Cụ ngồi trước bức tranh ngắm nhìn nguyên cả một ngày, rồi cười cười bỏ đi.
Hôm sau nữa, cụ già lại cõng đến đủ thứ dụng cụ khắc tượng, lại ngồi trước bức tranh ngắm nhìn nguyên cả một ngày, rồi cười cười bỏ đi.
Cụ già ngồi trước bức tranh ngắm nhìn ba ngày, rồi suy nghĩ thêm ba ngày, đến ngày thứ 7, cụ cầm cây bút tre, chuyên chú vẽ lại bức tranh trên khối đá xanh. Vẽ xong, cụ bèn dùng mũi nhọn và sắc của cái đục, vừa đục vừa tạc, bắt đầu điêu khắc. Hoà thượng Như Quang sai người đem cơm chay đến, cụ không dùng; cho người đem trà thơm lên, cụ không uống, cứ thế cho đến khuya khoắt, cứ “bong bong, bong bong” mà đục mà khắc liền tay.
Không biết trải qua bao ngày bao đêm như thế, đột nhiên một đêm nọ, tiếng “bong, bong” ngừng bặt, hoà thượng Như Quang vội vàng mặc y áo ra khỏi giường, đến phòng thiền ở phòng sau xem xét, thì không thấy cụ già đâu nhưng có một bia đá tạc hình ngài Quán Âm đã dựng ở đấy rồi, và bức tranh tạc tên đá giống hệt như bức tranh mẫu. Hoà thượng Như Quang rất hài lòng, đem phiến đá tạc hình ngài Quán Âm thờ ở chính điện. Từ đó, khách đến am lễ bái lại càng đông hơn nữa.
Đến năm Vạn Lịch nhà Minh, có một đêm tối đen như mực, đưa tay ra không nhìn thấy năm ngón, am Dương Chi bị lửa cháy, lửa cao tới trời, tất cả chỉ còn lại đống tro tàn, bức hình Ngài Quán Âm cũng không thoát khỏi ách nạn. Hoà thượng Như Quang xông tới đống ngói còn nóng như thiêu đốt, dùng tay trần mà bới mà đào, vẫn không sao tìm thấy bia đá có tạc hình Ngài Quán Âm. Ngài cứ quay cuồng nơi ấy, tâm lo lắng như nung như nấu. Chúng tăng trong chùa thấy hoà thượng như vậy, một mặt thì an ủi, một mặt thì chia nhau đi các núi, các thung lũng tìm kiếm, nhưng tìm khắp núi Phổ Đà cũng không tìm ra dấu vết.
Một buổi trưa nọ, có một chú tiểu đến trước mặt hòa thượng nói:
– Sư phụ ơi, đừng khóc nữa, bảo tượng Bồ Tát Quán Âm đã trở về rồi!
Ngài Như Quang mở đôi mắt nhòa lệ nhìn chú tiểu nói:
– Con đừng nói lời an ủi ta, ta đau lòng quá rồi!
Chú tiểu thành thật nói:
– Thật mà, sư phụ, đệ tử có bao giờ nói dối đâu! Không tin, thỉnh sư phụ tới xem!
Hoà thượng Như Quang nửa tin nửa ngờ, theo gót chú tiểu đến cửa Nam Thiên. Thoáng nhìn, ngài thấy trên một bãi cát không xa bờ biển, bia đá có khắc tượng Dương Chi Quán Âm nghiêng nghiêng tựa trên mặt một tảng đá ngầm, sáng loáng phát quang dưới ánh mặt trời, tợ như từ dưới biển trồi lên, nổi trên mặt nước mới tấp vào bờ vậy.
Hoà thượng Như Quang mừng không thể tả, lập tức bảo chúng tăng khiêng bia về am.
Làm sao bia Dương Chi Quán Âm lại từ dưới biển trồi lên? Nguyên do là đêm tối trời ấy có một tốp “giặc lùn” lén mò lên Phổ Đà Sơn, không ăn cắp được tranh bèn lấy trộm Quán Âm bia rồi còn đốt cháy am Dương Chi nữa. Có ngờ đâu khi tàu cướp vừa đến biển Liên Hoa, một trận gió dữ thình lình nổi lên, tàu giặc mất phương hướng, bị sóng xô giạt tới cửa Nam Thiên, húc phải đá ngầm khiến tàu bị lật, bia đá Quán Âm mới dựa nghiêng trên mặt tảng đá ngầm như vậy.
Tìm được bia đá rồi, trước hết, hoà thượng Như Quang đem bia tới chùa Phổ Tế thờ tạm, đợi am Dương Chi xây lại xong mới nghênh tiếp bia về nguyên xứ. Cho đến ngày nay, hễ đến Phổ Đà Sơn du lịch, ai cũng muốn được ngắm nhìn một lần tấm bia Quán Âm đã thoát được tai ách lớn và nghe lại một lần truyền thuyết của tấm bia ấy.
Thanked by 2 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Túc Kê Linh Quái (Phương pháp coi giò gà bí truyền) - Hồ Quang |
Tủ Sách | administrator |
|
||
Michelle Obama BẢO VỆ Gus Walz sau Khoảnh khắc DNC lan truyền với Bố Tim Walz |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Tử vi Nam Phái chân truyền tiếng Trung quốc, bên trung quốc truyền, rất hiếm |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Elohim |
|
||
Dòng Họ (dòng di truyền) |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Elohim |
|
|
|
Tả Ao chân truyền địa lý - 左.眞傳地理 - 0442 |
Sách Phong Thuỷ | administrator |
|
||
Tinh túy truyền thống: Đọc Hoa Nam kinh để ngẫm về cuộc sống tự tại tiêu dao ( daikynguyen.tv ) |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | thanhthanh2014 |
|
16 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 16 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |