#766
Gửi vào 24/05/2013 - 09:45
Dòng Tâm Truyền (Biệt Truyền) Của Các Đấng Chiến Thắng
Đức Phật Phổ Hiền (Tây Tạng: kun tu bzang po, xem Dẫn nhập: Đại Viên Mãn) đã giác ngộ từ vô thủy. Những cõi tịnh độ của toàn thể chư Phật, những nơi chốn mà giáo lý được giảng dạy, và toàn thể chư đạo sư của tất cả bốn Thân Phật (four kāyas), tất cả đều đã xuất hiện nhờ vào vô lượng vô số những hoá hiện nhiệm mầu, phát xuất từ lòng từ bi của đức Phật Phổ Hiền.
Tập hội những đệ tử của Ngài bao gồm những vị Minh Trì (Vidyadhara) của năm Thân Phật và của hằng hà sa số các Đấng Chiến Thắng không thể nghĩ bàn; không có gì khác biệt giữa các vị ấy và bản thân của đức Phật Phổ Hiền.
Đức Phật Phổ Hiền giảng dạy không qua giáo lý; ngài truyền dạy tất cả các giáo thuyết, không qua ngôn từ hay qua các biểu tượng thông thường, mà truyền dạy một cách hết sức tự nhiên, không cần dụng công hay tạo tác, qua tánh sáng rất tự nhiên của lòng đại từ bi, đến từ tuệ giác nguyên sơ của Ngài.
Chúng đệ tử của Ngài tự thể nhập yếu nghĩa của giáo lý viên mãn này không chút sai lạc, và phẩm hạnh cùng quả vị tu chứng và giải thoát của các vị ấy, trở thành nhất như với phẩm hạnh và quả vị tu chứng và giải thoát của đức Phật Phổ Hiền.
Đối với những ai không có may mắn thấu hiểu được dòng truyền dạy đầu tiên nà,y thì đã có những Thừa khác hướng dẫn họ tu theo một con đường tiệm tiến, hay con đường tuần tự tu chứng (progressive path).
Đức Phật Phổ Hiền đã truyền dạy những Thừa này bằng cách hóa hiện ra thành vô số thân tướng, trong hằng hà sa số các thế giới không thể nghĩ bàn trong vũ trụ, để làm lợi lạc cho chúng sinh, dẫn dắt từng chúng sinh một bằng phương tiện thiện xảo thích hợp nhất.
Ngài đã dạy dỗ sáu loài chúng sinh qua sáu thân tướng đặc biệt gọi là Sáu Đức Mâu Ni. Trong cõi Diêm Phù Đề này, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chuyển Pháp Luân ở ba mức độ khác nhau, cho các vị Trời và người.
Ngài đã giảng dạy Quả Thừa, bao gồm Luật (Vinaya), Kinh (Sūtra) và A tì đàm Luận (Abhidharma), và truyền dạy ngoại Mật Thừa (outer Mantrayana) gồm có Tác Mật điển (Kriya Tantra), Hạ Du Già Mật điển (Upayoga Tantra), Du Già Mật điển (Yoga Tantra)...
Để đối trị cảm xúc tham đắm
Đức Phật dạy hai mươi mốt ngàn phẩm trong Luật Tạng
Để đối trị cảm xúc sân hận
Ngài dạy hai mươi mốt ngàn phẩm trong Kinh Tạng
Để đối trị cảm xúc u mê
Ngài đã dạy hai mươi mốt ngàn phẩm trong Luận Tạng
Để đối trị và điều phục tam độc cùng một lúc
Ngài đã dạy hai mươi mốt ngàn phẩm của Tứ Tạng (Fourth Pitaka).
Thanked by 2 Members:
|
|
#767
Gửi vào 24/05/2013 - 09:48
Dòng Truyền Dạy Qua Biểu Tượng Của Các Bậc Minh Trì (Vidyadhara)
Vào thời điểm Ngài nhập Niết Bàn, chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán về sự hình thành của giáo thuyết Mật Thừa vô song:
Hai mươi tám năm
Sau khi ta ngừng xuất hiện trong thế giới này
Tinh túy tột vời của Giáo Pháp
Được tôn vinh khắp ba cõi vi diệ,
Sẽ được giảng dạy ở phương Đông cõi Diêm Phù Đề
Cho một người được gọi là đức Vua Ja
Một người cao quý và may mắn
Được báo trước bởi các điềm lành
Và trên đỉnh núi mang tên Đáng Sợ
Đức Kim Cương Thủ sẽ truyền dạy
Cho vị Pháp Vương của Lanka
Cùng với bằng hữu dưới quyền và những người khác.
Sau khi ban phát lời tiên tri này, Đức Phật đã thị hiện nhập Niết Bàn. Sau đó, ba pháp du già của giáo thuyết nội điển (inner doctrine) vô song, cùng các giai đoạn phát triển, thành tựu và Đại Viên Mãn đều xuất hiện như Đức Phật đã tiên tri.
Thanked by 2 Members:
|
|
#768
Gửi vào 24/05/2013 - 09:54
CÁC MẬT ĐIỂN ĐẠI DU GIÀ (MAHAYOGA)
Hai mươi tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt, Vua Ja nhận được bảy điềm triệu trong các giấc mơ của mình. Sau đó, trên mái cung điện, nhà vua tìm thấy một số lượng to lớn gồm các pho sách quý báu của các kinh Mật điển (tantra), được viết bằng bột đá màu xanh biếc trên các phiến vàng, cũng như tìm thấy một pho tượng Kim Cương Thủ (Vajrapani) cao một cubit (khoảng 46cm).
Nhà vua đã hết lòng cầu nguyện và sau đó đã có thể thông hiểu được phẩm viết về Linh Kiến của Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva). Nhà vua đã hành trì pháp môn này trong sáu tháng ròng, vận dụng những giảng dạy trong phẩm đó và bức tượng Kim Cương Thủ như Pháp bảo hỗ trợ cho công phu thiền định của mình.
Sau đó, nhà vua đã có được một linh kiến của Kim Cang Tát Đoả, Ngài đã gia lực cho nhà vua khiến vua hoàn toàn thông suốt ý nghĩa của toàn bộ ba pho Giáo Pháp này. Từ đó trở đi, các giáo pháp ấy dần dần lan rộng.
LỊCH SỬ TRUYỀN DẠY A NẬU DU GIÀ (ANUYOGA)
Trong cùng thời gian đó, trên đỉnh núi Malaya, Năm Đấng Tuyệt Hảo Cao Quý Siêu Phàm, đã định tâm hướng về tất cả chư Phật ở mười phương và tụng đọc một bài kệ ai oán gồm hai mươi ba câu, bắt đầu bằng câu:
Than ôi! Than ôi! Than ôi!
Giờ đây mặt trời của đức Phật đã biến mất
Ai sẽ xua tan bóng tối của thế gian
Tất cả chư Như Lai đồng khẩn cầu
Vị Pháp Vương của Mật Pháp, đức Kim Cương Thủ:
Xin hãy lắng nghe, Pháp Vương của Mật Pháp
Chúng con khẩn cầu Ngài
Lẽ nào Ngài đã quăng bỏ áo giáp thuở xa xưa
Lẽ đâu ngài không thấy khổ đau của thế giới
Xin Ngài xót thương và nhập thế
Xua tan bao thống khổ của thế gian
Pháp Vương của Mật Pháp ưng thuận:
Không bắt đầu và không chấm dứt
Không bao giờ từ bỏ thệ nguyện
Đáp ứng bất kỳ khi được khẩn cầu
Ta khai mở những hiển bày kỳ diệu.
Ngay lúc đó, ngay trên đỉnh núi Mālaya, Ngài đã giảng dạy Yếu Nghĩa Mật Kinh và các giáo lý khác cho năm Đấng Cao Quý kia. Tại Dhanakośa ở phía Tây xứ Oddiyāna, đức Vajrapani đã giảng dạy Mật điển Bí Mật Tập Hội, cùng với các giáo huấn tinh túy của Ngài và các giáo huấn Mật điển thuộc hệ Kila, Mamo và những giáo huấn khác cho vị hóa thân Garab Dorje.
Tất cả các truyền dạy này được Ngài Padma Thotrengtsel xứ Oddiyāna (Đức Liên Hoa Sanh) thọ nhận và sau đó những giáo huấn này ngày càng lan rộng.
Thanked by 2 Members:
|
|
#769
Gửi vào 24/05/2013 - 10:10
CÁC GIÁO HUẤN TÂM YẾU CỦA ĐẠI VIÊN MÃN
Atiyoga (A Đề Du Già, A Tì Du Già) tức Đại Cứu Kính hay Đại Viên Mãn, trước tiên được dạy cho những vị Trời. Trong cõi Trời thứ Ba Mươi Ba, có một vị trời tên là Devabhadrapala, ông có năm trăm người con trai, tất cả được đản sanh ra từ trong tâm của ông. (Họ được sinh ra một cách thần diệu chỉ nhờ vào ước muốn của ông ta).
Người lớn nhất có tên là Ānandagarbha, thông minh và có sức mạnh phi thường hơn hẳn các em. Ngài thích hành trì tụng đọc các bài kệ kim cương, một mình đơn độc trong tịnh thất. Ngài được gọi là Devaputra Adhicitta, “thiên tử với tâm siêu việt.”
Vào năm Nữ Ngưu thuộc mạng thủy, Ngài nằm mơ bốn giấc mơ với nhiều biểu tượng. Trong giấc mơ thứ nhất, tất cả chư Phật đang phóng toả hào quang khắp mười phương, và thân tướng của Sáu Đức Mâu Ni được tạo bởi các luồng ánh sáng đang xoay quanh chúng sinh, trước khi tan lẫn vào Ngài qua đỉnh đầu.
Trong giấc mơ thứ hai, Ngài nuốt trọn Brama, Visnu và Pasupati. (Đây là ba vị thần chính yếu của đạo Bà La Môn).(Pasupati là một tên khác của Siva).
Trong giấc mơ thứ ba, mặt trời và mặt trăng trong bầu trời xuất hiện trong đôi bàn tay của Ngài, khiến cho toàn thể thế giới tràn đầy ánh sáng.
Trong giấc mơ thứ tư, một trận mưa cam lồ rơi xuống từ một đám mây mang màu châu ngọc, và đột nhiên hiện ra những khu rừng, những loài cây quý, các thứ hoa, trái và quả mọng của cây dâu dại...
Hôm sau, Ngài đến kể về các giấc mơ cho Kausika, vua các vị Trời nghe. Nhà vua liền phát ra lời tán tụng này:
Emaho (Kỳ diệu thay)!
Bây giờ là lúc để giáo pháp tâm yếu xuất hiện mà không phải dụng công
Hóa Thân của Chư Phật, Bồ Tát trong quá khứ, hiện tại và vị lai
Pháp Vương của thập địa, Ngài sẽ thắp sáng toàn thể thế giới
Thật là một tô điểm kỳ diệu cho các cõi Trời!
Giấc mơ đầu tiên là dấu hiệu cho thấy Ngài sẽ nhiếp thụ trí huệ của toàn thể chư Phật và trở thành vị đại diện cho chư Phật. Giấc mơ thứ hai biểu thị rằng Ngài sẽ nhiếp phục được tất cả ma quỷ và đoạn diệt tam độc. Giấc mơ thứ ba có ý nghĩa là Ngài sẽ xua tan bóng tối trong tâm chúng sinh và soi sáng tâm họï bằng các giáo pháp. Giấc mơ thứ tư tượng trưng cho sự dập tắt những nỗi thống khổ mãnh liệt do các cảm xúc tiêu cực gây ra, dập tắt bằng giòng cam lồ của giáo lý Ati tự nhiên hiển lộ và bằng quả vị thành tựu không cần dụng công của thừa Ati.
Một lần nữa, tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai cùng tụ hội lại và nói:
Chúng tôi khẩn cầu đấng quang vinh Kim Cang Tát Đoả:
Là đấng sở hữu viên ngọc phương tiện kỳ diệu
Xin mở cánh cửa đến với tất cả những gì chúng sinh ước muốn
Xin ban cho họ viên ngọc siêu vượt mọi dụng công.
Từ tim của đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva) xuất hiện một bánh xe nạm ngọc rực rỡ. Ngài tặng bánh xe đó cho Sattvavajra (Một tên khác của Vajrapani (Kim Cương Thủ) và nói:
Trí huệ bát nhã siêu vượt nhị nguyên, siêu vượt thực tại bị che chắn
Đức Phật nguyên sơ, không dụng công và không tạo tác:
Con đường này được gọi là Trung Đạo Vĩ Đại.
Hãy khai mở cho tập hội các đệ tử.
Sattvajra hứa sẽ giảng dạy như sau:
Kim Cang Tát Đoả, bao la như bầu trời
Siêu vượt phạm vi ngôn từ,
Thật khó để diễn tả.
Nhưng với những ai chưa chứng ngộ, ta sẽ sử dụng ngôn từ
Chỉ ra yếu nghĩa khiến họ có thể chứng ngộ
Và sẽ sử dụng bất kỳ phương tiện nào giúp giải thoát các hành giả.
Ở Vajraloka, cõi Phật phía đông, đức Kim Cang Thủ đã tham vấn đức Phật Vajraguhya và chư Như Lai của Kim Cương Bộ (Vajra Family).
Ở Ratnaloka, cõi Phật phía nam, Ngài tham vấn đức Như Lai Ratnapada và chư Như Lai của Bảo Sanh Bộ (Jewel Family).
Ở Padmakata, cõi Phật phía tây, Ngài tham vấn đức Thế Tôn Padmaprabha và tất cả hằng sa chư Như Lai của Liên Hoa Bộ (Lotus Family).
Ở Visuddhasiddha, cõi Phật phía bắc, Ngài tham vấn đức Như Lai Siddhyaloka và hằng sa chư Như Lai của Hạnh Bộ (Action Family).
Ở Viyoganta, cõi Phật ở trung tâm, Ngài tham vấn đức Như Lai Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) và nhiều Đấng Chiến Thắng khác của Như Lai Phật Bộ (Tathāgata Family).
Như thế đức Vajrapani đã chắt lọc tinh tuý trí huệ của tất cả các đấng Chiến Thắng và giải tan mọi hiểu biết sai lầm về mỗi một khía cạnh của Đại Viên Mãn (Atiyoga), là tinh túy tuyệt diệu của Giáo Pháp, là kinh nghiệm chứng ngộ tự nhiên không cần dụng công, siêu vượt nhân quả.
Ngài biết rằng Adhicitta, bậc thiên tử, đã có thiện nghiệp và phước duyên, và Ngài biết phải tìm Adhicitta ở Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba, trong gian chính của Cung Điện Toàn Thắng, nơi đỉnh có đặt một cây sinh lực, trên ngọn có đặt một chày kim cương chín chấu. Đức Kim Cang Thủ đi tới đó để gặp Adhicitta và ngự trên một chiếc ngai khảm ngọc chói ngời trên chóp đỉnh của chày kim cang này.
Adhicitta mở rộng tấm màn che làm bằng đủ loại châu báu và cúng dường cho đức Kim Cang Thủ (Vajrapani) nhiều phẩm vật linh thiêng. Rồi đức Kim Cang Thủ truyền cho Ngài, qua phương tiện của những biểu tượng, toàn thể năng lực gia hộ bằng cách trực tiếp “rót đầy phương tiện của các Đấng Chiến Thắng.
Đức Kim Cang Thủ cũng ban truyền cho Ngài mười giáo huấn tâm yếu kỳ diệu, bảy pháp quán đảnh, năm giáo huấn tâm yếu, và một số rất nhiều các Mật điển và giáo huấn tâm yếu khác, toàn bộ đã được trao truyền chỉ trong một giây khắc.
Đức Kim Cang Thủ gia hộ và ấn chứng cho Ngài là vị đại diện lỗi lạc nhất của chư Phật và tuyên bố những lời này:
Cầu mong yếu nghĩa kỳ diệu này của Giáo Pháp
Được biết đến khắp ba cõi vi diệu
Và được truyền bá giữa cõi Diêm Phù Đề
Bởi một trưởng tử là hóa thân của một Hóa Thân
Theo đó, Giáo Pháp đã lan truyền khắp ba cõi linh hiển.
Thanked by 2 Members:
|
|
#770
Gửi vào 24/05/2013 - 10:28
GIÁO PHÁP ĐẠI VIÊN MÃN ĐẾN VỚI CÕI NGƯỜI
Nằm ở phía tây Ấn Độ là Oddiyāna, xứ sở của các vị Không Hành nữ hay Thiên Nữ Trí Tuệ. Ở đó, trong miền Dhanakośa, có một hồ nước tên là Kutra. Trên bờ hồ, trong một rừng cây tươi đẹp đầy hoa cỏ xinh tươi có một cái hang tên là Cung Điện Kim Cương, và đây là nơi cư ngụ của một thiếu nữ tên là Hoa Tươi, con gái của Vua Uparāja và Hoàng hậu Ālokabhāsvati.
Cô mang trên người tất cả những dấu hiệu toàn thiện, có một trái tim đức hạnh và tâm Bồ Đề bao la. Từ bỏ thói đạo đức giả và phóng dật, cô được thọ giới làm tỳ kheo ni và giữ mọi giới nguyện thật toàn hảo không một lỗi lầm. Cô có một chúng đệ tử gồm năm trăm vị ni.
Vào năm Mộc Ngưu, ngày mồng tám tháng hai của mùa hạ, khi bình minh vừa ló dạng, cô nằm mơ một giấc mơ trong đó cô nhìn thấy tất cả chư Như Lai phát hào quang, những luồng ánh sáng biến thành mặt trời và mặt trăng. Mặt trời tan vào cô qua đỉnh đầu, di chuyển xuống phiá dưới. Mặt trăng tan vào cô qua các gót chân, di chuyển lên phiá trên.
Sáng ra, kinh nghiệm chứng ngộ của cô tăng trưởng, và cô đi ra lau rửa trên bờ Hồ Kutra. Trong lúc đó, đức Vajrapani trong thân tướng của một con thiên nga, vua của các loài chim; Ngài biến Adhicitta thành một chữ hūm và sau đó tự biến mình thành bốn con thiên nga. Bốn con thiên nga từ trên trời cao hạ cánh xuống dầm mình trong nước hồ.
Rồi ba con trong số đó lại cất cánh bay lên giữa bầu trời, nhưng một trong những hiện thân này của Pháp Vương Mật Pháp (đức Kim Cang Thủ - Vajrapani), trước tiên đã chạm mỏ vào tim công chúa ba lần, và một chữ hūm sáng chói tan vào tim cô. Rồi con thiên nga ấy cũng bay đi.
Quá kinh ngạc, công chúa báo lại cho phụ thân và chúng đệ tử biết chuyện gì đã xảy ra. Trong lòng tràn đầy xúc cảm kỳ diệu, vua cha rất hoan hỷ.
“Đây có phải là điềm báo trước sự chào đời của hóa thân của một vị Phật?” nhà vua hỏi.
Nhà vua tiến hành tổ chức nhiều đại tiệc và lễ lạc. Mặc dù công chúa không có dấu hiệu gì chứng tỏ cô đang mang thai, nhưng khi gần đến thời kỳ ở cữ, một chày kim cang chín chấu lấp lánh phóng ra từ tim cô. Rồi chày kim cang ấy biến mất, để lại ở ngay vị trí đó một em bé với những tướng chính và phụ của Phật Quả, em cầm một chày kim cang trong bàn tay phải và tay trái cầm một cây gậy bằng vật liệu quý.
Em đang tụng đọc những lời nguyện bắt đầu bằng câu: “Đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva), mênh mông như bầu trời...” Mọi người thảy đều hoan hỉ. Họ đưa em tới gặp một người Bà la môn thông thạo nghệ thuật lý giải những dấu hiệu kỳ lạ. Hết sức kinh ngạc, người Bà la môn tuyên bố em bé là một hóa thân hiển lộ, bậc nắm giữ các giáo lý của Thừa tối thượng (highest vehicle).
Vì mọi người đang hết sức sung sướng hoan hỉ và em bé đang cầm một cái chày trong tay nên họ gọi em là Garab Dorje, có nghĩa là Kim Cương Cực Hỉ. Vì mọi người đang rất vui mừng, họ cũng gọi em là Kim Cương Niềm Vui. Và vì họ tràn đầy tiếng cười nên họ cũng gọi em là Kim Cương Tiếng Cười.
Khi Garab Dorje lên ngôi, đức Kim Cang Thủ (Vajrapani) xuất hiện trong thân tướng con người, và trực tiếp ban cho ngài pháp gia trì viên mãn bằng cách rót đầy những yếu nghĩa của các Đấng Chiến Thắng, cũng như rót đầy các pháp gia lực khác. Chỉ trong giây khắc, đức Vajrapani cũng truyền cho ngài toàn bộ các Mật điển (tantra) và các giáo huấn tinh túy, chẳng hạn như hai mươi ngàn pho Cửu Phương Quảng Trí (Nine Expanses)...
và trao quyền cho Ngài làm người trì giữ giáo pháp. Đức Kim Cang Thủ chỉ định các vị hộ pháp trung thành làm bạn đồng hành với Garab Dorje để bảo vệ Giáo Pháp. Không cần phải dụng công và chỉ trong khoảnh khắc, Garab Dorje đạt được Phật Quả thuộc quả vị Đại Viên Mãn.
Vào lúc đó, ở tại xứ Ấn Độ cao quý, người Bà la môn Sukhapāla và vợ ông là Kuhanā sinh hạ một bé trai, là một hóa thân của đức Văn Thù cao quý. Em bé Bà la môn được đặt tên là Sārasiddhi, và cũng còn được gọi là Samvarasāra. Về sau em trở thành một tu sĩ, là người đứng đầu năm trăm vị học giả và được nhận lãnh danh hiệu Đạo sư Diệu Đức Hữu (Mađjuśrīmitra).
Trong một linh kiến, đức Văn Thù cao quý bảo Ngài Mađjuśrīmitra:
“Hãy đi về phía tây xứ Oddiyāna. Quanh bờ Hồ Kutra, có một mộ địa tên là Cung Điện Mahahe Vàng. Ở giữa là một cái hang gọi là Cung Điện Kim Cương, ở đó có hoạt hiện một hóa thân được gọi là Garab Dorje. Ngài là một Hóa Thân của đức Kim Cang Tát Đoả (Vajrasattva).
Ngài nắm giữ Giáo Pháp không cần dụng công của tất cả chư Phật, và tất cả chư Phật đã gia lực cho Ngài. Hãy đi đến gặp Ngài và khẩn cầu yếu nghĩa phi thường của các giáo lý, là pháp Atiyoga mà Ngài đang nắm giữ và nhờ đó có thể đạt được Phật Quả mà không cần dụng công. Ông phải là người biên soạn lại Giáo Pháp đó của Ngài.”
Mađjuśrīmitra nói với những người bạn học giả của Ngài:
“Ở phương tây trong xứ Oddiyana có một Đạo Sư đang giảng dạy một giáo thuyết siêu vượt nguyên lý nhân quả. Chúng ta phải lên đường và đánh đổ ông ta bằng luận lý.”
Họ bàn cãi về vấn đề và bảy người trong số đó, gồm cả bậc huynh trưởng Rajahasti, đã du hành gian khổ đến xứ Oddiyāna. Nhưng mặc dù họ tranh luận gay gắt đến đâu với Garab Dorje chăng nữa, tranh luận về các giáo lý đặt trên nền tảng nhân quả, hoặc tranh luận về các giáo lý của ngoại hay nội Mật Thừa (outer or inner Mantrayana) thì họ vẫn không thể đánh bại Ngài.
Rồi Mađjuśrīmitra hỏi các học giả khác:
“Chúng ta có nên cầu hỏi vị ứng hiện hóa thân này về giáo pháp siêu vượt nguyên lý nhân quả của Ngài không?”
Huynh trưởng Rajahasti muốn thỉnh cầu Giáo Pháp nhưng lại tuyên bố:
“Tôi không dám, bởi chúng ta đã tỏ ra thiếu tôn kính với Ngài.”
Một số người khác cảm thấy rằng họ có thể thỉnh cầu Giáo Pháp vì giờ đây họ đã được Ngài thuyết phục. Họ cùng nhau quyết định sám hối với bậc Đạo Sư. Một số bắt đầu lễ lạy và đi nhiễu quanh Ngài. Những người khác bắt đầu kêu khóc.
Mađjuśrīmitra quỳ lạy trước mặt Ngài và nói:
“Bậc ứng hiện Hóa Thân, bằng cách tuôn ra những luận cứ không sao kìm hãm được, con đã xử sự bất kính đối với Ngài.”
Với ý định cắt đứt lưỡi mình để bày tỏ sự thống hối, ông bắt đầu đi tìm kiếm một lưỡi dao cạo. Nhưng Ngài Garab Dorje đọc được tâm ông.
“Ông sẽ không bao giờ tịnh hóa các hành động xấu ác của ông bằng cách cắt đứt lưỡi được!” Ngài nói. “Hãy biên soạn một giáo pháp siêu vượt các giáo pháp dựa trên nguyên lý nhân quả. Việc làm đó sẽ tịnh hóa chính ông.”
Tất cả những học giả còn thiếu thiện nghiệp cần thiết và thiếu phước duyên, họ đều quay trở về nhà. Nhưng Mađjuśrīmitra đã thâu hóa toàn bộ Giáo Pháp, đạt được chứng ngộ tức thời chỉ nhờ thấy được một cử chỉ của Đạo Sư.
Để giúp cho Giáo Pháp được hoàn toàn viên mãn, Garab Dorje ban cho Ngài pháp gia lực trực tiếp bằng cách rót đầy những phương tiện thiện xảo của các Đấng Chiến Thắng, rót đầy tất cả các Mật điển (tantra) và các giáo huấn tâm yếu không thiếu thứ nào, gồm cả hai mươi ngàn pho sách của Cửu Đại Quảng Trí (Nine Expanxes).
Chính vào lúc này Ngài ban cho ông danh hiệu Mađjuśrīmitra. Bậc ứng hiện Hoá Thân Garab Dorje đã ghi chép ý nghĩa của các giáo huấn này, và ban cho Mađjuśrīmitra Giáo Pháp sau đây:
Từ vô thủy, bản tánh của tâm là Phật
Không sinh cũng không diệt, tựa không gian
Khi ông liễu ngộ chân nghĩa, thấy ra tánh của vạn pháp vốn đồng đẳng
Hãy an trụ trong trạng thái đó, đừng kiếm tìm thì đó là thiền định.
Mađjuśrīmitra hoàn toàn thấu suốt, hiểu rõ Giáo Pháp này muốn nói gì và diễn tả kinh nghiệm chứng ngộ của riêng Ngài như sau:
Ta là Mađjuśrīmitra
Ta đã thành tựu quả vị Yamāntaka
Ta đã liễu ngộ tánh đại bình đẳng giữa sinh tử Niết Bàn
Tuệ giác nguyên sơ đã phát khởi.
Ngài đã viết Giáo Huấn Về Bồ Đề Tâm Khắc Bằng Vàng Trên Đá để ăn năn sám hối, và ghi lại hết các giáo huấn của Garab Dorje.
Kế đó các Giáo Pháp này được truyền cho Śri Simha, là người đã ra đời tại Trung Hoa ở một nơi có tên là Shosha, cha Ngài tên là Đức Hạnh và mẹ tên là Tri Giác Trong Sáng. Ngài trở nên tinh thông năm môn khoa học (ngũ minh khoa học), gồm có ngôn ngữ, luận lý, chiêm tinh học và các môn này ngài học với Đạo sư Hastibhala.
Năm hai mươi lăm tuổi, Ngài gặp Đạo Sư (Ācārya) Diệu Đức Hữu (Mađjuśrīmitra), và từ bậc Đạo Sư này, Ngài đã nhận lãnh toàn bộ Giáo Pháp Đại Viên Mãn thâm diệu, với những Mật điển, khẩu truyền, cùng với những giáo huấn tâm yếu, và Ngài đạt được chứng ngộ tối thượng, giải thoát khỏi mọi tạo tác trong tâm thức.
Từ Śri Simha, các Giáo Pháp này đã được trao truyền tới Đức Phật Thứ Nhì ở xứ Oddiyān (Đức Padmasambhava Liên Hoa Sanh), và sau đó tới học giả Jđānasūtra, đại học giả Vimalamitra, và đại dịch giả Vairotsana. Dòng truyền thừa cho tới thời điểm này là dòng truyền thừa qua biểu tượng của các đấng Minh Trì (Vidyadhara).
Thanked by 2 Members:
|
|
#771
Gửi vào 24/05/2013 - 10:37
LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ GIÁO LÝ TÂM YẾU Ở XỨ TUYẾT TÂY TẠNG
Vào thời Đức Phật, Tây Tạng không có cư dân là con người. Về sau, có một bộ lạc con người phát xuất từ sự kết hợp giữa một loài vượn (là Hóa Thân của đức Quán Thế Âm Avalokiteśvara cao quý) cùng với một nữ tinh linh núi (Có chỗ nói rằng đó là một hóa thân của Đức Quan Âm (Tara). Trong thời kỳ phôi thai này, Tây Tạng ở trong một tình trạng hỗn loạn không tôn giáo, không luật lệ, không người cai trị.
Trong lúc đó ở Ấn Độ, một vị vua tên là Śatānīka sinh hạ được một bé trai. Bàn tay và bàn chân của đứa trẻ có màng giống màng của một con thiên nga và mí mắt của em khép lại hướng lên trên như mí mắt của một con chim. Cha em cho rằng đứa trẻ hẳn có nguồn gốc quái thai không phải là người, tuyên bố là em phải bị trục xuất khỏi vương quốc. Ngay khi vừa lớn lên một chút, em bé đã bị đuổi đi.
Do nghiệp lực dẫn dắt, em bé đã lang thang vô định và cuối cùng thì đến Tây Tạng. Ở đó em tình cờ gặp một vài người chăn cừu. Khi họ hỏi em từ đâu tới và là ai, em chỉ lên bầu trời. Những người chăn cừu cho rằng em bé phải là một vị Trời từ các cõi Trời hạ sinh, và tôn em làm thủ lãnh của họ.
Họ làm cho em một chiếc ngai bằng đất và đá, và họ khiêng chiếc ngai đó trên vai, và vì thế em được gọi là Nyatri Tsenpo Cổ thời – Nyatri Tsenpo có nghĩa là “Đế Vương Của Chiếc Ngai Trên Vai.” Đây là vị vua đầu tiên, và là một Hóa Thân của Bồ Tát Sarvanivāranaviskambhin.
Nhiều đời sau đó, trong triều đại Lha-Thothori Nyentsen, Ngài là một Hóa Thân của Bồ Tát Phổ Hiền (Samantabhadra), hiện ra trên mái Cung Điện Yumbu Lakhar cùng với một số các bảo vật linh thiêng: gồm có một tôn tượng được gọi là Cintāmani,290 tượng trưng cho thân tướng của chư Phật; Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh 291 và Kinh Bách Nguyện Bách Bái, tượng trưng cho ngữ của chư Phật; và một tháp pha lê cao một cubit (khoảng 46cm), tượng trưng cho tâm của chư Phật.
Đây là khởi đầu lịch sử của Giáo Pháp ở Tây Tạng.
Trải qua năm đời sau đó đến triều đại của vua Songtsen Gampo là một Hóa Thân của đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara). Ngài xây dựng tất cả các điện thờ Thadul và Yangdul và cung điện chính ở thủ đô Lhasa và kết hôn với công chúa Kongjo (Văn Thành Công Chúa) xứ Trung Hoa, một Hóa Thân của đức Quan Âm (Tara), và với công chúa Tritsun xứ Nepal, một Hóa Thân của Thiên Nữ Bhrikutī. Mỗi công chúa đều có đem theo một pho tượng của Đức Phật, như một phần thuộc của hồi môn. Hai pho tượng này được biết đến như là Jowo.
Lần đầu tiên một hệ thống chữ cái Tây Tạng được Thomi Sambhota khai lập; ông nghiên cứu ngôn ngữ dưới sự dạy dỗ của học giả Ấn Độ Devavit Simha, và sau đó đã bắt đầu dịch Bảo Vân Kinh và một số các Kinh điển khác. Vua Songtsen Gampo đã phóng toả ra một tu sĩ tên là Akarmati từ giữa cặp lông mày của ngài.
Vị tu sĩ này đi nhiếp phục các vị vua phi Phật Giáo ở Ấn Độ, và tìm thấy năm bức tượng Quán Thế Âm tự hoá hiện có tên là Năm Anh Em Cao Quý ngay trong thân của một loại cây đàn hương gọi là “Mãng Xà Tâm Yếu” ở ngay Cung Điện Cát nằm giữa Ấn Độ và Tamradvipa.
Ngài cũng đã tạc pho tượng Quán Thế Âm Avalokitesvara mười một khuôn mặt (Quán Tự Tại Thập Nhất Diện hay Thiên Thủ Thiên Nhãn) đặc biệt linh thiêng hiện còn ở Lhasa. Chính trong triều đại này mà Phật Pháp thực sự bắt rễ ở Tây TaÏng.
Trải qua năm đời nữa, đến đời vua Trisong Detsen, một Hóa Thân của đức Văn Thù Cao Quý được sinh ra đời. Khi Ngài lên mười ba tuổi thì thân phụ mất. Trước tiên Ngài chinh phục một số các xứ sở bằng vũ lực sau khi đã tham khảo ý kiến với các quan thượng thư như Ngam Tara Lugong và Lhazang Lupel.
Sau đó, lúc mười bảy tuổi, khi tham khảo các tài liệu lưu trữ của tổ tiên, Ngài nhận ra rằng trước tiên Phật Pháp đã tới xứ Tây Tạng trong triều đại Lha-Thothori Nyentsen và được vua Songtsen Gampo củng cố. Khi nhận thức được tổ tiên Ngài nhất tâm làm việc vì Pháp ra sao, Ngài cảm thấy chính mình cũng phải đặt hết mối quan tâm vào việc truyền bá giáo thuyết.
Ngài hỏi ý kiến thượng thư Bộ Tôn Giáo của mình là Go Pema Gungtsen và khéo léo thỉnh ý các vị thượng thư khác khiến họ nhất trí xây dựng một ngôi chùa. Khi phải đi tìm một vị Thầy về để tổ chức tế lễ, làm an định (tức tai) thổ địa, họ hỏi ý kiến Nyang Tingdzin Zangpo, là vị Thầy rất được nhà vua tôn kính, khi đó đang ở Samye Chimpu.
Dựa vào công phu thiềøn quán, Ngài Tingdzin Zangpo biết rằng ở Zahor miền đông Tây Tạng có một đại Tu Viện Trưởng tên là Santaraksita, con trai của Pháp Vương Gomadeviya. Ngài báo tin này cho nhà vua, và vị Tu Viện Trưởng được mời sang Tây Tạng.
Sau đó Ngài Santaraksita cố gắng hiến cúng địa điểm của ngôi chùa. Nhưng một loài rồng nước (naga) sống trong một cung điện tên là Aryapalo, biết rằng bụi cây nơi ông ta sống sắp bị đốn hạ, đã kêu gọi tất cả các tinh linh tới trợ giúp ông. Hai mươi mốt genyen được người và các chúng phi nhân (non humans) hộ tống, cùng tập hợp thành một đội quân, và khi đêm đến, các tinh linh phá hủy bất kỳ những gì được con người xây dựng vào ban ngày, đưa mọi thứ đất đá trở về lại nơi xuất phát.
Nhà vua đến gặp Tu Viện Trưởng và yêu cầu một lời giải thích:
“Có phải bởi vì các chướng duyên của trẫm quá sâu dày? Hay tại Ngài đã không gia hộ cho mảnh đất? Phải chăng kế hoạch của trẫm vẫn chưa thực hiện được?”
“Tôi đã thấu suốt Bồ Đề Tâm,” vị Tu Viện Trưởng đáp, “nhưng không thể điều phục các vị Trời và quỷ ma bằng các pháp an bình như thế. Chỉ có các pháp uy nộ mới đem lại kết quả. Hiện nay tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) ở Ấn Độ có một Đạo Sư tên là Liên Hoa Sanh xứ Oddiyāna. Ngài đến với thế giới này bằng một phương tiện thần kỳ.
Ngài tinh thông ngũ minh khoa học và đã làm chủ được năng lực của [kiến giải] tuyệt đối. Ngài đã đạt được các thành tựu thông thường lẫn siêu việt. Ngài đã dẹp tan ma quỷ, và buộc tám loại tinh linh phải quy phục Ngài. Ngài đã làm tất cả các vị Trời và ma quỷ phải run sợ và có thể điều phục các tinh linh mạnh mẽ. Nếu nhà vua thỉnh Ngài đến đây, sẽ không tinh linh nào có thể chống lại Ngài và mọi ước nguyện của nhà vua sẽ được mỹ mãn.”
“Lỡ không thể thỉnh mời được người như thế thì sao?” nhà vua hỏi.
Tu Viện Trưởng đáp:
“Không đâu, Ngài sẽ có thể mời được vị ấy do bởi các lời cầu nguyện mà Ngài đã phát nguyện trong quá khứ. Thời xa xưa ở Nepal, có một người đàn bà tên là Samvari, con gái của người chủ trại gà Salé, bà ta có bốn con trai do sống chung với một người nuôi ngựa, một người nuôi heo, một người nuôi gà vịt và một người nuôi chó,” và Ngài kể cho vua câu chuyện tháp Jarung Khashor đã được xây dựng thế nào và những lời cầu nguyện đã được phát nguyện như thế nào vào lúc đó.
Nhà vua phái Ba Trisher, Dorje Dudjom Chim Śakyaprabha và Shubu Palgyi Senge tới Ấn Độ, mỗi vị mang một số lượng bụi vàng và một cái nơ vĩnh cửu bằng vàng. Các vị ấy giải thích cho Đạo Sư rằng Ngài cần có mặt ở Tây Tạng để gia trì cho địa điểm của một ngôi chùa.
Đạo Sư hứa sẽ đến. Ngài lên đường, dừng lại trên đường để buộc mười hai tenma, mười hai vị nữ hộ thần, hai mươi mốt genyen, cùng tất cả các vị Trời và tinh linh của Tây Tạng phải tuyên thệ.
Cuối cùng Ngài đến Trakmar để gia trì mảnh đất, và tu viện Samye Tự Hiển Lộ đã được xây dựng. Tu viện có một dinh thự ở giữa cao ba tầng, được bao quanh bởi những tòa nhà tượng trưng cho bốn đại châu và các trung châu. Hai điện Yaksa, một cao và một thấp tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng.
Toàn bộ tu viện được một bức tường bao quanh. Tu Viện Trưởng Santaraksita, Đạo Sư Padma (Liên Hoa) và Vimalamitra tung hoa lên để cúng dường và làm an định cả thảy ba lần và người ta đã nhìn thấy nhiều dấu hiệu phi thường và kỳ diệu nhiệm mầu hiện ra.
Thanked by 1 Member:
|
|
#772
Gửi vào 24/05/2013 - 11:31
Dòng Nhĩ Truyền Của Những Chúng Sinh Bình Thường
Sau đó Tu Viện Trưởng Śantaraksita đã giảng dạy về các truyền thống của Luật tạng và Kinh tạng, trong khi Đạo Sư Liên Hoa Sanh và Ngài Vimalamitra thiết lập các giáo lý Mật Thừa.
Chính vào lúc này Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyāna tức Đạo Sư Padma và đại học giả Vimalamitra đã truyền dạy cho ba đệ tử tâm yếu, gồm có Đức Vua, Thần Dân và Hiền Hữu, cũng như dạy cho Nyangwen Tingdzin Zangpo và các đệ tử may mắn khác là những chiếc bình chứa thích hợp để đón nhận Giáo Pháp.
Đối với những đệ tử này các Ngài đã chuyển Pháp Luân gồm ba nội du già (inner yogas), kể cả Atiyoga của Đại Viên Mãn, và chỉ rõ ba điểm trọng yếu: phân biệt, xác quyết và tự giải thoát (distinguishing, clear decision and self-liberation). Bắt đầu từ đó trở đi, dòng truyền thừa này được gọi là “dòng truyền thừa qua lắng nghe hay dòng nhĩ truyền của những chúng sinh bình thường.”
Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyāna cũng ban Giáo Pháp thích hợp cho mỗi một người trong Hai Mươi Lăm Đại Đệ Tử của Ngài, là những vị có được phước duyên cần thiết để đón nhận bất kỳ Giáo Pháp nào trong vô số Giáo Pháp của Đức Phật, miễn là Giáo Pháp đó phù hợp với thiện nghiệp của họ.
Sau đó, những bản văn Mật Thừa này đã được viết trên “các cuộn giấy vàng” và được cất dấu như những kho tàng tâm linh hay tàng bảo kinh. Đạo Sư đã cầu nguyện và cất dấu những bản văn này như những di sản vì lợi lạc của chúng đệ tử trong tương lai.
Về sau, vào những thời điểm đã được tiên tri, Hóa Thân của những vị thành tựu giả trong số chúng đệ tử đó, là những người mà trước đây Đạo Sư đã hướng lời cầu nguyện đến, họ sẽ tái sinh trong hoàn cảnh tốt đẹp để làm nhiệm vụ khai quật những kho tàng tâm linh thâm diệu này.
Nhiều đệ tử với nghiệp lực thích ứng đã đi theo các vị này, hoằng hóa làm lợi lạc chúng sinh và lập nên các dòng truyền thừa thường được gọi là những dòng lục truyền hay cửu truyền (those lineages with six or nine transmissions).
Trong vô số các vị Hóa Thân và những vị khai quật tàng bảo kinh, có một vị có rất nhiều liên hệ với chúng ta ở đây, đó là ngài Rigdzin Jigme Lingpa. Ngài đích thực là đức Quán Thế Âm An Trụ Trong Bản Tánh Của Chân Tâm, và ngài hoá hiện trong hình tướng của một vị thiện tri thức.
Cùng một lúc, Ngài nhận lãnh những giáo huấn của toàn thể ba dòng truyền thừa, dòng truyền tâm, dòng truyền qua biểu tượng và dòng nhĩ truyền qua sự lắng nghE từ Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyāna, đại học giả Vimalamitra và bậc Toàn Giác Longchen Rabjam. Ngài là một vị Phật Toàn Giác. Ngài đã chuyển pháp luân của Giáo Pháp Viên Mãn cho những chúng sinh nào có được nhiều may mắn và thuận duyên.
Như tục ngữ có nói:
Dù sắc thân Ngai là của một vị Trời hay con nguời phàm tục
Nhưng tâm thức toàn hảo của Ngài đích thật là Phật.
Vì lý do này, vị Thầy tôn kính (Bổn Sư của Patrul Rinpoche, Ngài Jigme Gyalwai Nyugu, là một trong trưởng tử của Ngài Ridzin Jigme Lingpa) của tôi thường nói:
“Đối với những ai có khả năng tu tập và cầu nguyện thì Bổn Sư của ta, đấng Kim Cương Trì (Vajradhara) - vị Pháp Vương và Hộ Thần của toàn thể chúng sinh, Ngài thực sự là một vị Phật Toàn Giác. Ta không nói thế chỉ vì muốn tán thán hay tôn kính Ngài. Ngài thực sự là đức Kim Cương Trì Toàn Giác Vĩ Đại, đã hạ sinh để làm lợi lạc chúng sinh trong thân tướng của người phàm.
Trong dòng truyền thừa này, giữa Ngài và các con không có ai khác ngoài ta. Và đối với ta, ngay từ lần đầu tiên gặp Ngài, ta đã thọ trì tất cả những gì Ngài dạy bảo. Ta đã phụng sự Ngài theo ba phương cách và không bao giờ làm điều gì khiến Ngài phải phiền lòng hay thậm chí làm Ngài phải cau mày.
Vì thế các con có thể tin chắc rằng, các mật nguyện tuyệt đối chưa hề bao giờ bị suy đồi khiến cho sợi dây xích vàng của dòng truyền thừa này phải bị ô uế. Suối nguồn năng lực gia hộ của dòng truyền thừa này thật khác biệt với suối nguồn của bất kỳ dòng truyền nào khác.”
Mật điển Nhật Nguyệt Hợp Nhất có nói:
Nếu bạn không giải thích lịch sử nguồn gốc (của dòng truyền thừa)
Người ta sẽ phạm phải lỗi lầm
Không tin tưởng vào Chân Pháp tột cùng ẩn mật.
Chính vì cần phải đem đến nguồn cảm hứng giúp cho chúng đệ tử phát khởi niềm tin, bằng cách giảng dạy cho họ biết nguồn gốc xác thực của dòng truyền thừa, và bằng cách thuật lại chi tiết lịch sử nguồn gốc đó, nên ta đã làm công việc giảng dạy những điều như thế này trong phạm vi của pháp môn Bổn Sư Du Già (Guru Yoga).
Trong pháp Bổn Sư Du Già, điều tối quan trọng là phải trì tụng câu minh chú mười triệu lần. Một số người không trì tụng câu minh chú trong thời gian đủ dài (cho mười triệu lần), và cho rằng các tu pháp dự bị này không thực sự quan trọng. Hoặc có lẽ sau khi nghe giảng rằng giáo lý của pháp thực hành chính yếu thật sự thâm diệu như thế nào thì họ nảy sinh ra rất nhiều kỳ vọng cao xa.
Nhưng hãy thử tưởng tượng xem, việc họ có thể thực hiện các pháp tu thuộc hai giai đoạn phát triển và thành tựu mà không bỏ thời gian ra để thực hành đúng đắn các pháp tu dự bị thì cũng giống như tục ngữ phổ thông có nói:
Thè lưỡi ra trước khi cái đầu được nấu chín
Duỗi chân ra trước khi chỗ nằm được hơ ấm.
Thực hành các pháp tu dự bị mà không đi cho tới kỳ cùng, thì sẽ không có bất kỳ ý nghĩa nào cả. Cho dù có được một vài dấu hiệu nhỏ bé nhất thời như “hơi ấm” xuất hiện, nhưng những dấu hiệu này cũng không có gì là bền vững, giống như một tòa nhà không có nền móng.
Một phần của một tư tưởng sai lạc tương tự khác là việc buông bỏ các pháp tu dự bị một khi bạn bắt đầu thực hành các pháp tu chính yếu, cho rằng bạn đã thực hành các pháp tu dự bị đầy đủ đúng đắn rồi, thầm nhủ rằng các pháp tu dự bị chỉ là dự bị, và bây giờ đến lúc các pháp tu dự bị ấy không còn cần thiết nữa.
Nếu bạn bỏ rơi các pháp tu dự bị, là nền tảng của đường tu, là bạn đã chặt đứt gốc rễ rốt ráo nhất của Chân Pháp. Việc bỏ rơi các pháp tu dự bị cũng giống như việc cố gắng vẽ một tấm tranh bích họa ở nơi không có ngay cả một bức tường.
Hãy luôn luôn dụng công tu tập cho tới khi bạn khơi dậy được lòng tin chân thành nơi các pháp tu dự bị. Hãy đặc biệt tập trung tu tập pháp Bổn Sư Du Già, là cánh cổng mở vào năng lực gia trì, và hãy để cho pháp ấy trở thành nền tảng đích thực của công phu tu tập của bạn. Đây chính là vấn đề cốt tủy.
Con nhận ra vị Thầy từ ái của con đích thực là một vị Phật
Nhưng với bản tánh ngoan cố, con bất tuân những chỉ dạy của Ngài
Con biết rằng tất cả chúng sinh trong ba cõi đã từng là cha mẹ
Nhưng với tính khí xấu xa, con vẫn sỉ nhục các Pháp hữu
Xin từ bi gia hộ cho con và những ai có ác nghiệp như con
Để chúng con có thể, trong đời này và tất cả những đời khác
Khiêm tốn, vững chãi trong giới hạnh, mềm mỏng trong tâm hồn và hành động
Bước theo chân vị Đạo Sư tâm linh của mình.
#773
Gửi vào 24/05/2013 - 11:34
PHẦN BA
PHÁP CHUYỂN DI THẦN TỐC
Kangyur Rinpoche 1898 -1975.
Một học giả và hành giả vĩ đại. Cho dù Ngài có thể tiếp tục giữ những chức vụ cao cấp tại đại tu viện Riwoche, ở miền Đông Tây Tạng, nhưng Ngài đã chọn lựa để sống cuộc đời rày đây mai đó, để hành trì và dạy dỗ đệ tử.
Tránh xa những liên lụy dính mắc tại các trung tâm tôn giáo. Khởi sự từ khi còn thơ ấu, Ngài đã thấy linh ảnh của đức Liên Hoa Sanh, và khám phá ra được một số tàng bảo kinh tại Tây Tạng, Bhutan và Ấn Độ.
#774
Gửi vào 24/05/2013 - 12:23
SỰ CHUYỂN DI TÂM THỨC, CÁC GIÁO HUẤN CHO NGƯỜI HẤP HỐI:
PHẬT QUẢ KHÔNG CẦN THIỀN ĐỊNH
Cao cả thay hành động bi mẫn của Ngài đối với chúng sinh vô minh
Cao cả thay cách thức Ngài bảo bọc những kẻ đại ác như đệ tử của Ngài
Cao cả thay những phương pháp thiện xảo của Ngài đối với kẻ khó điều phục
Đạo sư vô song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.
I. NĂM LOẠI CHUYỂN DI
Có năm loại chuyển di tâm thức khác nhau:
1. Sự chuyển di siêu việt tới Pháp Thân nhờ dấu ấn của cái thấy.
2. Sự chuyển di trung bình tới Báo Thân nhờ sự hợp nhất các giai đoạn phát triển và toàn thiện.
3. Sự chuyển di thấp tới Hoá Thân nhờ lòng bi mẫn bao la.
4. Sự chuyển di thông thường sử dụng ba ẩn dụ.
5. Sự chuyển di được thực hiện cho người chết với cái móc của lòng bi mẫn.
1. Sự chuyển di siêu việt tới Pháp Thân nhờ dấu ấn của cái thấy
Đối với những người đã phát triển và thiết lập sự quen thuộc với cái thấy không lầm lạc của trạng thái tự nhiên không bị tạo tác suốt trong những cuộc đời của họ, thì vào lúc chết họ có thể đưa vào thực hành vấn đề cốt tủy của Pháp giới và sự tỉnh giác trên con đường bí mật của sự thuần tịnh nguyên thuỷ của trekcho, và chuyển di tâm thức của họ tới phạm vi Pháp Thân.
2. Sự chuyển di trung bình tới Báo Thân nhờ hợp nhất giai đoạn phát triển và toàn thiện
Đối với những người rất quen thuộc với sự thực hành đồng thời các giai đoạn phát triển và toàn thiện như một yoga bất khả phân, và tu tập viên mãn trong việc nhìn hình tướng của Bổn Tôn hoàn toàn giống như một sự phô diễn thần diệu, thì khi các ảo giác của trạng thái trung ấm xuất hiện vào lúc chết, họ có thể chuyển hoá tâm thức của họ thành thân trí tuệ hợp nhất.
3. Sự chuyển di thấp tới Hoá Thân nhờ lòng bi mẫn bao la
Những người đã nhận các quán đảnh của Kim Cương thừa, những người trì giữ samay không lỗi lầm, những người có thiên hướng về các giai đoạn phát triển và toàn thiện và những người đã nhận lãnh các giáo huấn về trạng thái trung ấm có thể, như có nói:
Hãy làm gián đoạn sự nhập thai, nhớ quay trở lại
Đây là lúc đòi hỏi sự quyết định và thuần tịnh của thị kiến.
Những người đang thực hành sự chuyển di này phải chặn đứng bất kỳ sự thâm nhập không được mong muốn nào vào một thai tạng bất tịnh. Được dẫn dắt bởi lòng đại bi và sự thực hiện thực hành nhận lấy tái sanh như một hiện thể Hoá Thân, sau đó họ chuyển di tâm thức tới một nơi tái sanh ở một trong những tịnh thổ.
4. Sự chuyển di thông thường sử dụng ba ẩn dụ
Những người thực hành phương thức chuyển di này bằng cách tưởng tượng kinh mạch trung ương như con đường, bindu của tâm thức như người lữ khách, và một tịnh thổ của đại lạc như đích đến.
5. Sự chuyển di được thực hiện cho người chết với cái móc của lòng bi mẫn
Loại chuyển di này cũng được thực hiện cho người đang hấp hối, hay cho người đã ở trong trạng thái trung ấm. Nó có thể được thực hiện bởi một yogi có sự chứng ngộ cao cấp, làm chủ được tâm thức và các tri giác, và có khả năng nhận ra tâm thức của người trong trạng thái trung ấm. Nói chung, để thực hiện sự chuyển di cho người chết, ta cần thấu đạt thật rõ rằng Con đường của Cái Thấy. Như Ngài Jetsun Mila nói:
Đừng thực hành sự chuyển di cho người chết
Trừ phi bạn đã nhận thức chân lý của con đường của cái thấy.
Tuy nhiên, bất cứ ai thực sự biết đúng lúc để thực hiện sự chuyển di, là lúc hơi thở ra đã ngưng và hơi thở vào vẫn còn tiếp tục, đều có thể thực hiện nó ngay lúc ấy nếu họ có chút kinh nghiệm về các giáo huấn chuyển di. Nó cực kỳ lợi lạc cho người đang hấp hối, và giống như một lữ khách được bằng hữu dẫn đi đúng đường, nó có khả năng ngăn chặn sự tái sinh trong các cõi thấp.
Sự chuyển di sẽ khó khăn hơn một khi tâm và thân trở nên hoàn toàn phân cách. Vì thế, cần một yogi làm chủ được bổn tâm, có thể nhận ra người chết trong trạng thái trung ấm.
Tác động tới người không còn một thân xác vật chất nữa là điều dễ dàng, và khi được thực hiện bởi một yogi như thế, sự chuyển di từ trạng thái trung ấm tự nó có năng lực để chuyển đẩy tâm thức chúng sinh tới một tịnh thổ. Tuy nhiên, hoàn toàn vô nghĩa khi cho rằng sự chuyển di có thể được thực hiện bằng cách triệu thỉnh tâm thức quay trở lại thân xác sau khi chết.
Ngày nay, nhiều người thực hành các nghi lễ chuyển di dù họ chỉ là các lạt ma hay tulku, trên danh nghĩa. Nếu họ thực hiện chúng với lòng từ bi của Bồ Đề Tâm và không có chút tính toán ích kỷ nào, thì bổn tâm họ có mọi cơ may không bị ngăn che khiến họ có thể thực sự giúp đỡ người chết.
Điều này chỉ có thể được làm bởi động lực Bồ Đề Tâm. Còn bất kỳ ai hoàn toàn thực hiện sự chuyển di vì lợi ích cá nhân, chỉ biết cách đọc tụng những ngôn từ và sau đó nhận thù lạo là một con ngựa hay thứ gì đáng giá khác, thì những kẻ ấy thật đáng khinh miệt.
Là người hướng dẫn và bậc thầy của những người khác,
Mà bản thân bạn không đi tới bến bờ giải thoát,
Thì cũng mâu thuẫn như đưa tay cho người đang chết đuối
Trong khi chín bạn đang bị nước lũ cuốn trôi.
Một lần, khi đại đạo sư Tendzin Chopel đang ở Tsari, ngài có một thị kiến về một con người có lần ngài thực sự chuyển di cho ông ta và nhận thù lao một con ngựa. Tất cả những gì ngài có thể thấy là cái đầu người nhô lên từ một cái hồ máu đỏ thẫm. Vật ấy gọi tên Tendzin Chopel và yêu cầu ngài làm điều gì đó.
Tendzin Chopel cảm thấy sợ hãi. Ngài đáp lại: “Ta tặng ngươi cuộc hành hương tới Tsari của ta,” và ảo cảnh biến mất.
Ngay cả đối với một vị thầy vĩ đại có mức độ chứng ngộ cao, việc nhận sự cúng dường nhân danh người chết mà không thực hiện một nghi lễ hay việc tương tự vì lợi lạc của họ sẽ gây nên những trở ngại trên con đường.
Khi vị hoá thân tu viện trưởng Dzogchen, ngài Gyurme Thekchok Tendzin thị tịch, Trime Shingkyong Gonpo được mời tới tang lễ. Suốt cả ngày Ngài chỉ cử hành các nghi lễ tịnh hoá và nhắc nhở tâm thức, tụng đi tụng lại sự chuyển di, giống như ngài đã làm sau cái chết của một người bình thường. Các nhà sư hỏi Ngài tại sao làm vậy.
Ngài giải thích: “Cách đây đã lâu, Dzogchen Rinpoche quên không cử hành các nghi lễ và cầu nguyện hồi hướng cho người mà nhân danh họ, một con ngựa đen đã được cúng dường cho ngài. Người đó là một kẻ đại ác và vì thế Rinpoche hơi bị chướng ngại trong các cấp bậc và con đường. Giờ đây ngài và ta đã phối hợp năng lực và giải quyết vấn đề.” Chuyện kể làm ác này được kể trong câu chuyện gọi là Golok Tendzin.
Thật sai lầm khi những người ở địa vị đại lạt ma hay tulku nhận các sự cúng dường nhân danh người chết mà chỉ nghĩ: “ta là một bậc vĩ đại nào đó,” và không thực hành Bồ Đề Tâm hay thực hiện các sự cầu nguyện, các nghi lễ cúng dường những sự hồi hướng đúng đắn và có hiệu quả. Các tulku quan trọng được công nhận là những hoá thân chính thức của các bậc thầy vĩ đại trong quá khứ vẫn còn phải học đọc lại, và bắt đầu với vần abc như những người bình thường.
Bởi các ngài đã quên cách đọc đã biết từ những đời trước nên có thể nghi ngờ chút ít rằng các ngài cũng phải quên mất mọi thứ mà các ngài từng biết về các yoga của các giai đoạn phát triển và toàn thiện. Tôi tự hỏi không biết họ có dùng chút thì giờ để tu tập Bồ Đề Tâm và học tập về sự thực hành cùng các sự nhập thất, hơn là đi quanh quẩn tìm kiếm các vật cúng dường ngay khi họ có thể cưỡi lên một con ngựa.
Sửa bởi hiendde: 24/05/2013 - 12:27
#775
Gửi vào 24/05/2013 - 12:32
SỰ CHUYỂN DI THÔNG THƯỜNG SỬ DỤNG BA ẨN DỤ
Bây giờ tôi mô tả loại chuyển di được gọi là “chuyển di thông thường sử dụng ba ẩn dụ” hay “sự chuyển di tâm thức vào vị thầy.” Nó cũng phù hợp với điều mà Tantra Sự Sám Hối Tinh khiết gọi là “sự chuyển di quả cầu ánh sáng sử dụng âm thanh vào lúc chết.” Loạt thực hành chuyển di này không cần thiết với những người đã có một mức độ chứng ngộ cao. Đối với họ, như tantra nói:
Điều gọi là cái chết chỉ là một ý niệm
Là cái gì đưa dẫn tới các cõi trời
Và, một lần nữa
Cái chết, hay cái chúng ta biêt như cái chết
Là một sự giác ngộ nhỏ bé đối với một yogi.
Những người mặc dù đã đoạt được thành lũy của sự tuyệt đối trong đời họ và thành tựu việc làm chủ sự sinh và tử hình như vẫn phải chết. Nhưng đối với họ, cái chết không khác gì việc di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Những người có kinh nghiệm trong các thực hành tinh túy của các giai đoạn phát triển và toàn thiện có thể, như chúng ta đã đề cập trước đây, sử dụng một trong ba thực hành đối với cái chết, trạng thái trung gian hay sự tái sinh để chuyển di tâm thức họ tới một trong ba thân (kaya).
Ngược lại, như có nói:
Những người không có sự tu tập đầy đủ có thể được thọ nhận nhờ sự chuyển di.
Sự thực hành này là cần yếu đối với những hành giả không đạt được sự vững chắc trên con đường, hay đối với những người mắc phạm nhiều hành động ác hại. Đối với bất kỳ ai nắm giữ những giáo huấn đặc biệt này, cánh cửa của các cõi thấp được đóng lại dù những ác hạnh của họ nặng nề tới đâu chăng nữa. Thậm chí đối với những kẻ từng phạm một tội lỗi bị quả báo tức thời, và lẽ ra phải bị đoạ thẳng xuống, chắc chắn sẽ không bị tái sinh trong các cõi thấp nếu họ sử dụng giáo lý này. Các tantra nói:
Bạn có thể từng giêt một người ba la môn mỗi ngày
Hay từng mắc phạm năm hành vi bị quả báo tức thời
Nhưng bạn vẫn sẽ được giải thoát nhờ con đường này
Sẽ không cái nào trong những tội lỗi đó làm ô nhiễm bạn.
Và:
Bất kỳ ai thực hành sự chuyển di
Tập trung nơi lỗ mở trên chín lỗ kia
Sẽ không bị ô nhiễm bởi những hành vi tiêu cực của họ
Và sẽ được tái sinh trong một cõi Phật thanh tịnh.
Và thêm nữa:
Dưới chân cha bạn, vị thầy đầy đủ phẩm tính
Được tôn vinh trên một mặt trời và mặt trăng trên đỉnh đầu bạn
Hãy đi theo con đường lụa trắng là kinh mạch trung ương của bạn
Và bạn sẽ được giải thoát
Cho dù bạn từng mắc phạm năm trọng tội với quả báo tức thì.
Như thế, những giáo huấn này về con đường chuyển di sâu xa là phương cách dẫn tới Phật Quả mà không cần thiền định, một con đường bí mật giải thoát thật mạnh mẽ ngay cả những kẻ phạm trọng tội.
Đức Phật Vajradhara đã nói:
Bạn có thể từng giết một người bà la môn mỗi ngày
Hoặc mắc phạm năm hành vi bị quả báo tức thời
Nhưng một khi bạn gặp được những giáo huấn này
Thì không còn nghi ngờ gì, bạn sẽ được giải thoát.
Và chính Đại Đạo sư xứ Oddiyana đã nói:
Mọi người đều thấu suốt Phật Quả nhờ thiền định
Nhưng ta thấu suốt một con đường không thiền định.
Đại học giả Naropa nói:
Chín lỗ mở (chín khiếu) mở ra sự luân hồi sinh tử
Nhưng một khiếu khai mở lối vào Mahamudra (Đại Ấn.
Hãy đóng lại chín khiếu và mở ra một khiếu
Chớ nghi ngờ việc nó đưa dẫn tới giải thoát.
Và Marpa, dịch giả xứ Lhodrak:
Cho tới nay ta từng thực hành sự chuyển di,
Tu tập, tu tập và tu tập nữa.
Ta có thể chết một cái chết bình thường, nhưng ta không cần lo lắng
Sự quen thuộc đã cho ta sự xác tín hoàn hảo.
Jetsun Shepa Dorje nói:
Những giáo huấn này hoà lẫn, chuyển di đi và nối kết
Là cẩm nang để vượt qua trạng thái trung gian
Ai có được một con đường như thế
Hạnh phúc biết bao, người mà sinh lực của họ đi vào kinh mạch trung ương
Kỳ diệu thay! Họ đi tới một pháp giới tuyệt đối.
#776
Gửi vào 24/05/2013 - 12:42
Các giáo huấn này có hai phần: phần đầu là sự tu tập, và sau đó là thực hành thực sự.
1. Sự tu tập chuyển di
Khi sử dụng những giảng dạy về sự chuyển di mà bạn đã thọ nhận, bản thân bạn hãy tu tập liên tục với sự tinh tấn, cho tới khi các dấu hiệu thành công xuất hiện.
Lúc này, trong khi toàn thể các kinh mạch, năng lực và tinh chất của bạn còn nguyên vẹn và mạnh mẽ, bạn sẽ nhận ra rằng thực ra tiến hành sự chuyển di thì rất khó khăn. Nhưng một khi bạn đi tới giờ phút quyết định của mình, hay vào lúc đã quá già, thì việc này trở nên rất dễ dàng. Giống như trái cây trên cành, khó hái vào mùa hè khi nó còn đang phát triển. Nhưng vào mùa thu, một khi nó đã chín và sẵn sàng rụng xuống, thì chỉ cần áo quần của bạn chạm nhẹ vào nó cũng đủ làm nó rụng.
2. Sự chuyển di thực sự
Thời điểm để đưa sự chuyển di vào thực hành thực sự là sau khi xuất hiện các dấu hiệu của cái chết đang tới gần, khi bạn chắc chắn rằng không có việc quay trở lại nữa và tiến trình phân rã đã bắt bắt đầu. Đừng làm điều này vào bất kỳ lúc nào khác.
Như có nói trong các tantra:
Hãy tiến hành sự chuyển di khi đã tới thời điểm thích hợp
Nếu không như thế, bạn sẽ giết các Bổn Tôn.·
Có nhiều giai đoạn trong tiến trình phân rã, nhưng để dễ hiểu, tiến trình này có thể được phân chia thành sự phân rã của năm năng lực giác quan, sự phân ra của bốn yếu tố (bốn đại), và những giai đoạn của sự trong sáng, tăng trưởng và thành tựu.
Sự phân rã của năm lực giác quan bắt đầu khi, ví dụ thế, sự trì tụng của các nhà sư tụ họp quanh tử sàng của bạn, chỉ còn là những âm thanh giống như một tiếng rì rầm lộn xộn. Bạn không còn có thể phân biệt được các âm tiết. Hoặc khi bạn nghe âm thanh giọng nói của con người như thể đến từ rất xa, và không thể nhận ra được lời lẽ nữa. Đó là nhĩ thức của bạn đang chấm dứt.
Nhãn thức của bạn đang kết thúc khi, thay vì nhìn thấy các hình tướng như chúng là, thì bạn chỉ có thể thấy một cảnh tượng lờ mờ. Khi những kinh nghiệm về sự ngửi thấy, nếm biết và xúc chạm cũng chấm dứt và đi tới sự phân rã sau cùng của chúng, thì dứt khoát là đã tới thời điểm thích hợp để tiến hành sự chuyển di.
Sau đó, khi yếu tố bên trong của thịt phân rã thành yếu tố bên ngoài của đất, bạn kinh nghiệm một cảm giác giống như rơi xuống một cái hố. Bạn cảm thấy nặng nề, như thể bị đè bẹp bởi sức nặng của một trái núi. Đôi khi, người hấp hối yêu cầu được nâng lên hay đỡ cao chiếc gối.
Khi máu phân rã thành yếu tố nước bên ngoài, bạn chảy nước miếng và nước mũi. Khi yếu tố nhiệt của thân phân rã thành yếu tố lửa bên ngoài, miệng và lỗ mũi bạn cảm thấy khô và thân bạn bắt đầu mất nhiệt bắt đầu với tứ chi. Trong một vài trường hợp hơi xuất hiện từ đỉnh đầu vào giai đoạn này.
Khi hơi thở bên trong, hay yếu tố năng lực phân rã thành yếu tố khí bên ngoài, thì các năng lực khác nhau của bạn, năng lực đi lên, năng lực triệt thoái; năng lực nồng nhiệt và năng lực toàn khắp, tất cả tan hoà vào năng lực hỗ trợ sinh lực.
Sự thở vào trở nên khó khăn. Sự thở ra là một sự đổ tràn hổn hển của các lá phổi qua cổ họng. Rồi tất cả máu trong thân bạn hội tụ trong kinh mạch, sinh lực và ba giọt nhỏ giọt vào trung tâm tim bạn, giọt này sau giọt kia. Với ba hơi thở dài, hơi thở của bạn đột nhiên ngừng lại.
Vào lúc đó yếu tố trằng hay tinh dịch mà bạn đã nhận từ cha bạn, nhanh chóng di chuyển đi xuống từ đỉnh đầu bạn. Như dấu hiệu bên ngoài, bạn nhận thức một thứ gì đó có màu trắng, giống như một bầu trời không mây được ánh trăng thắp sáng. Như dấu hiệu bên trong, bạn kinh nghiệm sự trong sáng trong tâm thức bạn và ba mươi ba loại niệm tưởng thù địch ngừng dứt. Trong trạng thái này được gọi là “sự trong sáng.”
Yếu tố đỏ hay máu mà bạn đã nhận từ mẹ bạn, nhanh chóng di chuyển đi lên từ vùng rốn của bạn. Như dấu hiệu bên ngoài, bạn nhận thức một thứ gì màu đỏ giống như một bầu trời trong trẻo được ánh sáng rực rỡ của mặt trời thắp sáng. Như dấu hiệu bên trong, bạn kinh nghiệm sự hỉ lạc chính yếu trong tâm thức bạn và bốn mươi loại niệm tưởng tham dục ngừng dứt. Trạng thái này được gọi là “sự tăng trưởng.”
Khi các yếu tố đỏ và trắng hội tụ trong tim bạn, tâm thức bạn đi vào giữa chúng. Dấu hiệu bên ngoài là một sự nhận thức về màu đen, giống như màu đen của một bầu trời trong trẻo hoàn toàn ngập trong bóng tối. Dấu hiệu bên ngoài là tâm thức bạn kinh nghiệm một trạng thái, không có bất kỳ niệm tưởng nào, và bạn ngất đi, rơi vào một trạng thái hoàn toàn tối tăm. Điều này được gọi là “sự thành tựu.”
Sau đó bạn xuất hiện trong một lúc từ trạng thái kích ngất đó, tới một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm về một bầu trời, không bị ảnh hưởng bất kỳ thứ gì trong ba tình cảnh trước đây. Đây là “tịnh quang của thời gian nền tảng” đang xuất hiện. Việc nhận ra nó là bổn tánh của bạn và nghỉ ngơi trong đó là điều được gọi là “sự chuyển di siêu việt tới Pháp thân.” Nó là Phật Quả không kinh qua bất kỳ trạng thái trung gian nào.
Sau thời điểm đó trạng thái trung gian của thực tại tuyệt đối và trạng thái trung gian của sự trở thành, dần dần biểu lộ, nhưng những giai đoạn đó sẽ không được miêu tả ở đây bởi chúng đã được thuật lại trong các giáo huấn về thực hành chính yếu.
Đối với những người không có kinh nghệm thích đáng về con đường, giây phút tốt đẹp nhất để thực hiện sự chuyển di là lúc bắt đầu tiến trình phân rã. Vào lúc đó, hãy hoàn toàn cắt đứt mọi bám luyến với cuộc đời này, và làm tăng trưởng lòng can đảm của bạn bằng cách nghĩ tưởng:
“Bây giờ tôi đang chết, tôi sẽ nương cậy các giáo huấn của vị thầy của tôi và bay vút tới các cõi thuần tịnh, giống như một mũi tên được một bậc phi thường bắn ra. Điều nay thật hỉ lạc biết bao!”
Sẽ khó mà nhớ lại rõ ràng mọi sự quán tưởng và những chủ đề quan trọng khác của sự chuyển di, vì thế nếu bạn có một bằng hữu có thể nhắc nhở bạn thì hãy yêu cầu người ấy làm công việc đó. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, vào lúc đó, khi nương cậy sự tu tập trước đây của bạn, và thực hành những giáo huấn của con đường sâu xa này, đã tới lúc bạn phải thực sự làm cho pháp chuyển di, trở nên hữu hiệu.
Như thế, bây giờ là những bước của sự thực hành chính của Pháp chuyển di, chúng đồng nhất dù bản thân bạn đang tu tập trong đó, hay dùng nói vào lúc thực sự chết.
#777
Gửi vào 24/05/2013 - 12:50
3. Những bước của thiền định về sự chuyển di
Hãy ngồi thoải mái trên một tấm nệm, chân bắt chéo trong tư thế kim cương, giữ cho lưng hoàn toàn thẳng.
CÁC SỰ CHUẨN BỊ
Trước tiên, hãy hoàn tất việc xuyên suốt mọi sự chuẩn bị, rõ ràng và đi vào chi tiết, bắt đầu với Kêu gọi Vị Thầy từ Xa và tiếp tục cho tới lúc giải tan trong pháp Guru Yoga.
SỰ QUÁN TƯỞNG CHÍNH
Hãy quán tưởng thân bình thường của bạn, trong chốc lát, trở thành thân tướng của một Vajra Yogini. Bà có màu đỏ, một mặt và hai tay, đang đứng với cả hai chân, bàn chân phải giở lên trong “tư thế đang bước.” Ba con mắt bà nhìn lên trời. Những giáo huấn này nhằm mục đích chuyển di nên hãy quán tưởng bà với một biểu lộ quyến rũ, an bình đồng thời hơi phẫn nộ.
Với bàn tay phải trong không, bà khua lách cách cái trống, đầu lâu nhỏ đánh thức chúng sinh khỏi giấc ngủ vô minh và lầm lạc. Nơi cạnh bàn tay trái bà cầm một lưỡi dao cong cắt đứt tận gốc ba độc. Bà trần trụi ngoại trừ một vòng hoa và các vật trang sức bằng xương. Như một cái lều bằng lụa đỏ, bà xuất hiện nhưng không có chất thể hay thực tại. Tất cả những điều này là vật bao bọc trống rỗng bên ngoài của thân tướng.
Đi xuống giữa thân thẳng đứng của bạn, hãy quán tưởng kinh mạch trung ương, giống như một cây cột trong một ngôi nhà trống. Nó được gọi là kinh mạch “trung ương” bởi nó đứng ngay nơi trục của than, không nghiêng sang trái hay phải. Nó có bốn đặc tính. Nó màu xanh dương như một phim ảnh màu chàm, tượng trưng cho Pháp Thân bất biến.
Kết cấu của nó thì tinh vi như một cánh hoa sen, tượng trưng cho tính chất mỏng manh của các màn ngăn che xuất hiện từ những khuynh hướng quen thuộc. Nó sáng như ngọn lửa của một cây đèn dầu mè, tượng trưng sự xua tan bóng tối vô minh. Và nó thẳng như một khúc tre, biểu thị rằng nó không bao giờ dẫn tới những con đường thấp và sai lạc.
Đầu trên của nó mở thẳng ra lỗ mở Brahma trên đỉnh đầu, giống như một cửa sổ mở rộng trên mái nhà, tượng trưng rằng nó là con đường đưa tới giải thoát và những tái sinh cao hơn, trong khi đầu dưới đóng lại dưới rốn bốn ngón tay không có lỗ mở nào, tượng trưng rằng mọi lối vào luân hồi sinh tử và các cõi thấp đã được đóng kín. Tất cả những điều này là vật bao bọc trống rỗng bên trong của kinh mạch trung ương.
Bây giờ hãy quán tưởng một sự sưng phồng lên trong kinh mạch trung ương ở khoảng trái tim, giống như một cái mắt trong thân tre. Trên mắt này, hãy quán tưởng bindu của năng lực, màu xanh lá cây nhạt, sống động và mạnh mẽ. Ngay trên đó là tinh tuý của tâm bạn, chữ hrih màu đỏ, với dấu nguyên âm dài và hai chấm nhỏ thay thế cho visarga,* lay động và rung rinh như một lá cờ trong gió. Điều này tượng trưng cho tâm tỉnh giác của bạn.
Trong không gian trên đầu bạn một cubit (khoảng 46cm), hãy quán tưởng một chiếc ngai báu, được tám con công trống nâng đỡ, trên đó là một hoa sen nhiều màu và đĩa mặt trời và mặt trăng, cái nọ trên cái kia, tạo thành một tấm nệm ba-lớp. An toạ trên tấm nệm là vị thầy gốc vinh quang của bạn, kho tàng bi mẫn không gì sánh, trong bản chất là hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lại, và trong thân tướng của Đức Phật Thế Tôn và Đấng Bảo trợ Amitabha (A Di Đà).
Ngài có sắc đỏ, giống như một trái núi bằng hồng ngọc được một ngàn mặt trời bao bọc. Ngài có một mặt, hai bàn tay nghỉ ngơi trong tư thế thiền định, cầm một bình bát chứa đầy chất cam lồ bất tử trí tuệ. Ngài mặt ba y tu viện, y phục của một nirmanakaya (Hoá Thân) siêu phàm tuân giữ hành vi thanh tịnh.
Thân Ngài mang ba mươi hai tướng chính và tám mươi tướng phụ, chẳng hạn như usnisa (đảnh) trên đỉnh đầu và các luân xa in dấu trên lòng bàn chân, và được bao phủ trong sự chói lọi rực rỡ từ đó vô số tia sáng chiếu rọi.
Bên phải Đức Amitabha là Đấng cao quý Avalokitesvara (Quán Tự Tại), hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật, sắc trắng, một mặt và bốn tay. Đôi bàn tay trên chắp lại nơi trái tim, lòng bàn tay úp vào nhau. Bàn tay phải bên dưới lần hột của một chuỗi pha lê trắng và bàn tay trái dưới đang cầm cọng sen trắng, bông hoa ở sát tai Ngài, tất cả các cánh đều mở lớn.
Bên trái Đức Amitabha là Vajrapani (Kim Cương Thủ), Chúa tể của những điều Bí mật, hiện thân của năng lực và sức mạnh của tất cả chư Phật. Ngài có sắc xanh dương, và trong hai bàn tay bắt chéo trước ngực, Ngài cầm một chày và chuông.
Cả hai vị Bổn Tôn này đều mang mười ba vật trang sức sambhogakaya (Báo Thân). Đức Phật Amitabha ngồi, hai chân xếp chéo trong tư thế kim cương. Điều này tượng trưng cho việc Ngài luôn an trụ mà không rơi vào những cực đoan của cả sinh tử lẫn Niết Bàn. Hai vị Bồ Tát đang đứng, điều này tượng trưng việc các Ngài không bao giờ mệt mỏi khi làm việc vì lợi lạc của chúng sinh.
Xung quanh ba Bổn Tổn chính này, tất cả các bậc thầy dòng truyền thừa của con đường chuyển di sâu xa được hội tụ như một đám mây trong một bầu trời trong trẻo. Các Ngài hướng khuôn mặt tràn đầy lòng từ ái về phía bạn và tất cả chúng sinh khác. Các Ngài chăm chú nhìn bạn với đôi mắt ánh nụ cười, nghĩ tưởng về bạn với niềm hỉ lạc.
Hãy nhớ tưởng tới các Ngài như những vị dẫn dắt vĩ đại giải thoát bạn và tất cả chúng sinh khỏi những nỗi khổ của sinh tử và các cõi thấp, đưa dẫn bạn tới cõi thuần tịnh của đại lạc. Hãy quán tưởng theo bản văn, bắt đầu từ:
Thân bình thường của con trở thành thân Đức Vajra Yogini..
xuống tới:
..Ba con mắt Bà nhìn lên bầu trời.
Rồi từ:
Kinh mạch trung ương chạy giữa thân Bà..
Cho tới câu:
..Thân Bà toàn thiện bởi mọi tướng chính và phụ.
Sau đó, với tất cả niềm tin và kỳ vọng, toàn thân bạn bừng bừng và nước mắt tuôn rơi, hãy lập lại càng nhiều lần càng tốt lời khẩn nguyện:
Đức Thế Tôn, Như Lai, A La Hán, Đức Phật Toàn Giác, Đấng Bảo trợ Amitabha, con đảnh lễ trước Ngài. Con xin cúng dường Ngài. Con nương tựa nơi Ngài.
Rồi hãy tụng đầy đủ bài cầu nguyện kế tiếp ba lần, bắt đầu từ:
Emaho! Trong nơi chốn này, cõi Akanistha tuyệt đối xuất hiện tự nhiên.
cho tới:
..Cầu mong con đoạt được pháo đài của Pháp giới Pháp thân!
Kế đó hãy tụng lần phần cuối cùng, bắt đầu từ:
Với lòng sùng mộ trong lòng con..
cuối cùng, tụng ba lần dòng duy nhất cuối cùng:
Cầu mong con đoạt được pháo đài của Pháp giới Pháp Thân!
Trong khi bạn cầu nguyện, hãy chỉ chú tâm trên chữ hrih, biểu tượng của tâm tỉnh giác của bạn, với lòng sùng mộ đối với bậc thầy và đấng bảo trợ của bạn, Đức PHật Amitabha, tới nỗi đôi mắt bạn đẫm lệ.
Bây giờ tới nghi thức để phóng xuất tâm thức. Khi bạn tụng “Hrih, Hrih,” năm lần từ phía sau vòm miệng, chữ hrih màu đỏ, tượng trưng cho tâm tỉnh giác của bạn, được nâng lên bởi bindu của năng lực rung động, màu xanh lá cây nhạt, nó nổi cao dần lên, luôn luôn rung động. Khi nó xuất hiện từ lỗ mở Brahma trên đỉnh đầu bạn, hãy kêu lớn “Hik!” và quán tưởng bindu phóng vút lên, giống như một mũi tên được một người thiện nghệ bắn đi, và tan hoà vào trái tim Đức Phật Amitabha.
Hãy thực hiện tiến tình bảy lần, hai mươi mốt lần hay nhiều hơn nữa, trong khi quán tưởng chữ hrih trong tim bạn và lập lại “Hik!” như trước đó. Trong các truyền thống khác, người ta nói “Hik!” khi tâm thức phóng lên và “Ka” khi nó quay trở xuống, nhưng trong truyền thống này chúng ta không nói “Ka” đối với lúc trở xuống.
Sau đó hãy thực hiện nghi thức như trước càng nhiều càng tốt phù hợp với bạn, bắt đầu với:
Đức Thế Tôn...Đấng Bảo trợ Amitabha..
trong khi tụng những lời cầu nguyện và thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức và phần còn lại. Rồi một lần nữa, hãy tụng ba hay bảy lần từ
Đức Thế Tôn…Đấng Bảo trợ Amitabha..
xuống tới:
..Con xin cúng dường lên Ngài. Con nương tựa nơi Ngài.
Hãy theo nghi thức này với lời khẩn nguyện chuyển di cô đọng được gọi là Sự Cài vào Cọng Cỏ, được vị khám phá kho tàng Nyi da Sangye biên soạn và trao truyền qua dòng truyền thừa của Tu viện Dzogchen:
Đức Phật Amitabha, con đảnh lễ trước Ngài
Đức Padmasambhava xứ Oddiyana, con khẩn cầu Ngài
Bậc thầy gốc từ bi, xin nắm giữ con với lòng bi mẫn của Ngài
Những bậc thầy gốc và thuộc dòng truyền thừa, xin dẫn dắt con trên đường
Xin ban phước cho con để con có thể quán triệt con đường chuyển di sâu xa
Xin ban phước cho con để con đường chuyển di ngắn gọn này
Có thể đưa con tới cõi giới của sự phúc lạc
Xin ban phước cho con và những chúng sinh khác
Để ngay khi cuộc đời này chấm dứt
Chúng con có thể được tái sinh trong Cõi Cực Lạc.
Hãy tụng lời cầu nguyện này ba lần, và sau đó lập lại ba lần dòng cuối cùng.
Hãy tiếp tục thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức càng lâu càng tốt phù hợp với bạn như trước đó. Rồi lại bắt đầu từ:
Đức Thế Tôn, Như Lai..
và tụng lời cầu nguyện chuyển di theo Giáo lý Không gian, được truyền dạy qua dòng truyền thừa của tu viện Palyul:
Emaho! Đức Phật Amitabha, đấng Bảo trợ kỳ diệu nhất
Đấng Bi mẫn vĩ đại và Đức Vajrapani đầy năng lực
Với sự nhất tâm, con khẩn cầu các Ngài
Hãy vì con và những chúng sinh khác:
Xin hãy ban phước cho chúng con
Để chúng con có thể quán triệt con đường chuyển di sâu xa
Xin ban phước cho chúng con để khi giờ chết tới
Tâm thức chúng con có thể được chuyển di tới trạng thái đại lạc.
#778
Gửi vào 24/05/2013 - 12:58
Hãy tụng lời cầu nguyện này ba lần, lập lại hai dòng sau cùng thêm ba lần nữa. Rồi hãy thực hành kỹ thuật phóng xuất như trước đó.
Hai lời cầu nguyện sau cùng này, không có trong những bản văn giáo huấn Tâm yếu của Pháp Giới Bao la, và không do Rigdzin Jigme Lingpa truyền dạy, nhưng được truyền xuống từ Dzogchen Rinpoche qua tu việc Gochen, và qua các vị trung gian khác.
Chúng tạo nên một phần của các sự truyền dạy được Ngài Kyabe Dodrup Chen Rinpoche thọ nhận, Ngài đã hợp nhất chúng thành một nguồn mạch duy nhất. Bản thân Ngài đã sử dụng chúng, như bổn sư tôn kính của tôi đã làm. Dodrup Chen Rinpoche cũng được kế thừa các giáo huấn về sự chuyển di, được truyền xuống từ Ngài Gampopa thuộc dòng Kagyu.
Bởi thế vài lời cầu nguyện của Gampopa được tìm thấy trong sách cầu nguyện chuyển di do Ngài biên soạn, mặc dù những lời cầu nguyện đặc biệt này không phải là những gì bổn sư của tôi thường trì tụng. Trong bất kỳ trường hợp nào, tiến trình quán tưởng trong tất cả những truyền thống khác nhau này, thì hoàn toàn giống nhau, vì thế không còn nghi ngờ gì là những dòng giáo huấn, đã được hợp nhất để trở thành một con sông lớn.
Vị Thầy tôn kính của tôi đã nhận lãnh chúng nhiều lần từ Kyabje Dodrup Chen Rinpoche. Tôi có cảm tưởng rằng tất cả những ai đã nhận các giáo huấn này từ Ngài, cũng phải đồng thời từng nhận những giáo huấn về sự chuyển di của truyền thống Kagyu, và vì thế được cho phép trì tụng dòng truyền tương ứng và những lời cầu nguyện khác.
Dù hai lời cầu nguyện trong tuyển tập của Dodrup Chen Rinpoche hay không, chúng cũng chỉ khác biệt rất ít đối với những bản dịch khác, và vì thế tôi ghi lại đúng những gì vị Thầy tôn kính của tôi đã giảng dạy. Có lần Thầy tôi đang truyền dạy truyền thống chuyển di Giáo lý Không gian.
Trong khi Ngài đang cử hành sự chuyển di cho một đám đông khổng lồ, thì một vài người không nhận ra câu mà Ngài thêm vào: “..tất cả những điều này (di nam), khi thời điểm cái chết đến với họ;” vì thế bây giờ một vài người nói “..những nhận thức của cuộc đời này (dir nang)..” và những người khác nói “..vì lý do đó (di ne)..” theo ý kiến của tôi cả hai sai không đáng kể.
Khi bạn hoàn tất thực hành nhiều lần và đến lúc kết thúc thời khoá, hãy niêm phong thực hành trong sự rộng mở của năm thân bằng cách tụng “P’et” năm lần. Sau đó an trú trong trạng thái thanh thản tự nhiên không tạo tác bất kỳ điều gì.
Tất cả những vị Thầy của dòng truyền trên đầu bạn, tan hoà vào ba nhân vật chính, hai Bồ Tát tan hoà vào Phật A Di Đà (Amitabha – vô Lượng Quang), Đức Phật A Di Đà tan thành ánh sáng và sau đó đi vào bạn.
Hãy quán tưởng chính bạn lập tức là vị Phật Bảo Hộ Amitayus (Vô Lượng Thọ) màu đỏ, với một mặt, hai bàn tay và hai chân. Ngài ngồi trong tư thế Vajra (Kim Cương), với ấn thiền định hai bàn tay Ngài cầm một bình sinh lực tràn đầy cam lồ trí tuệ bất tử, và trên đỉnh là một cây ban như ý, Ngài mang mười ba vật trang sức của Báo Thân.
Hãy tụng “Om Amarani Jivantiye Svaha” một trăm lần, sau đó là đà ra ni trường thọ và những thần chú khác. Điều này ngăn ngừa khoảng thời gian đời bạn bị ảnh hưởng bởi việc thực hành và nhờ chân lý tương thuộc, tẩy trừ bất kỳ chướng ngai đe doạ nào.
Phần thực hành này không cần thiết, khi bạn thực hiện sự chuyển di cho một người hấp hối hay người đã chết, và cũng không cần thiết khi bạn thực hành nó thực sự vào lúc bạn chết. Những dấu hiệu thành tựu trong thực hành này, được mô tả trong bản văn gốc như sau:
Sự nhức đầu, một giọt huyết thanh lóng lánh như sương xuất hiện
Có thể nhét từ từ một cọng cỏ vào đỉnh đầu
Hãy thực hành siêng năng cho đến khi những dấu hiệu này xuất hiện.
Để kết thúc, hồi hướng công đức và niệm Bài Nguyện Được Tái Sinh Trong Cõi Cực Lạc và những bài nguyện khác.
Không giống như những thực hành khác của giai đoạn phát triển và toàn thiện, những giáo huấn này về con đường sâu xa của sự chuyển di không đòi hỏi thời gian tu tập lâu dài. Những dấu hiệu thành tựu nhất định sẽ xảy đến sau một tuần lễ. Đó là điều tại sao phương pháp này được gọi là “giáo lý đem lại Phật Quả không cần bất kỳ sự thiền định nào”
Và đó là điều tại sao mọi người nên lấy con đường tắt, không gì sánh được này làm thực hành hàng ngày của mình.
Không thể tự lo cho mình, đối với cái chết con lảm nhảm không mạch lạc
Không thực hành, nhưng con trải rộng vòm giáo lý vô tận
Xin ban phươc cho con và những kẻ lọc lừa như con
Để chúng con có thể thực hành với sự kiên trì.
#779
Gửi vào 24/05/2013 - 13:09
KẾT LUẬN
Những giáo huấn này gồm mười hai điểm chính, sáu điểm đầu tiên trong đó liên quan tới những chuẩn bị thông thường bên ngoài:
1. Sử dụng đời người này cho điều thật sự quan trọng bằng cách quán chiếu về việc khó tìm được những sự tự do và thuận lợi.
2. Tự thôi thúc mình phải tinh tấn bằng cách quán chiếu về lẽ vô thường của cuộc đời.
3. Phát triển sự quyết tâm giải thoát và một thái độ về lòng bi mẫn nhờ việc nhận ra bản chất của toàn bộ luân hồi là đau khổ.
4. Tử bỏ điều xấu và tuân thủ điều tốt lành trong bất kỳ những gì mình làm nhờ một sự hiểu biết rành mạch về những hậu quả mình làm nhờ một sự hiểu biết rành mạch về những hậu quả của các hành vi.
5. Càng ngày càng thiết tha kết quả nhờ việc nhớ đến những lợi ích của sự giải thoát.
6. Bằng cách đi theo một vị thầy tâm linh chân chính, tu tập bản thân để ganh đua với sự chứng ngộ và các hành vi của Ngài.
Năm điểm kế tiếp bao gồm những chuẩn bị phi thường bên trong:
1. Đặt nền tảng cho sự giải thoát bằng cách quy y Tam Bảo.
2. Thiết lập một khuôn khổ cho vô số hoạt động của một Bồ Tát bằng cách khơi dậy Bồ Đề Tâm tuyệt đối.
3. Sám hối những ác hạnh và các vi phạm, là gốc rễ của mọi điều bất thiện, nhờ bốn sức mạnh, sử dụng sự thiền định và trì tụng về Đức Vajrasattva.
4. Tích tập công đức và trí tuệ là suối nguồn của mọi tiến bộ tâm linh, bằng cách cúng dường những cõi Tịnh Độ của ba Thân trong hình thức một mạn đà la.
5. Tự khơi dậy trong bản thân trí tuệ tối thượng của sự chứng ngộ bằng cách cầu nguyện vị Thầy, suối nguồn của mọi ân phước.
Cuối cùng, trong trường hợp cái chết đột ngột xảy đến trước khi hoàn tất con đường, nhờ sự chuyển di tâm thức mà một nối kết được tạo ra với các cõi tịnh độ, sẽ đem lại Phật Quả mà không cần thiền định
Những thực hành chuẩn bị này cũng có thể trình bày như sau. Nhờ bốn sự quán chiếu xoay chuyển tâm thoát khỏi luân hồi và nhờ sự hiểu biết về những lợi ích của sự giải thoát, bạn đánh thức một quyết tâm chân thành muốn được giải thoát, nó mở ra lối vào toàn bộ con đường. Nhờ việc đi theo vị Thầy tâm linh, suối nguồn của mọi phẩm tính tốt đẹp, bạn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho con đường. Nhờ việc quy y là nền tảng, sự khơi dậy Bồ Đề Tâm và tu tập trong thực hành sáu sự hoàn thiện siêu việt (sáu ba la mật), bạn được dẫn dắt theo con đường chân chính của chư Phật Toàn Trí Toàn Giác.
Có những giáo huấn khác được biết tới bởi sự giải thích của chúng về ba loại tri giác,[326] ba cấp độ khả năng của chúng sanh, Đại Thủ Ấn theo truyền thống của các Kinh điển[327] và v.v…nhưng tất cả những điểm trọng yếu của các con đường tìm thấy trong cúng được hợp nhất ở đây trong tác phẩm này.
Tuy nhiên, sự tịnh hoá và tích luỹ sử dụng hai phương pháp tối cao, cụ thể là thực hành Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa) và cúng dường Mạn đà la; Guru Yoga, con đường bí mật của sự ban phước sâu xa; và những giáo huấn về sự chuyển di đem lại Phật Quả không cần thiền định, tất cả những điều này là những giáo lý độc nhất vô nhị, đặc biệt là cách giảng giải thực hành này.
Sau những thực hành này, ta đi vào con đường chính yếu phi thường của giáo lý - cốt lõi kim cương của Tâm Yếu, bởi trong đó có những thực hành chuẩn bị đặc biệt dẫn đến ba Thân (kaya), đến tâm, và sự tỉnh giác. Sau đó, một khi ta được giới thiệu vào sự tuyệt đối qua sự quán đảnh sáng tạo của giác tánh,[328] đó là những giáo huấn không che đậy đặt nền tảng trên sự phát triển kinh nghiệm của riêng ta.*
Khi viết những giáo huấn này, tôi không được hướng dẫn một cách căn bản bởi những chú tâm tới khía cạnh mỹ học hay văn chương. Mục đích chính của tôi là chỉ ghi chép một cách trung thực những giáo huấn truyền khẩu của vị Thầy tôn kính của tôi theo một cách thức dễ hiểu và ích lợi cho tâm thức. Tôi đã làm tốt nhất trong khả năng của mình để không làm hư hỏng chúng bằng cách pha lẫn vào những ngôn từ và ý tưởng của riêng tôi.
Vào những dịp riêng biệt, Thầy tôi cũng thường ban nhiều giáo huấn đặc biệt để phơi bày những lỗi lầm che dấu, và tôi đã thêm vào bất kỳ những gì tôi nhớ được về những điều này trong những nơi chốn thích hợp nhất. Đừng nên lấy chúng như một của sổ qua đó xem xét lỗi lầm người khác, mà phải coi là một tấm gương để khảo sát chính bạn.
Hãy xem xét kỹ lưỡng trong bản thân bạn để xem mình có hay không những lỗi lầm che dấu đó. Nếu có, hãy nhận ra và trục xuất chúng. Hãy chỉnh sửa tâm bạn và thanh thản đặt nó trên con đường đúng đắn.
Như Ngài Atisa đã nói:
Vị Thầy tâm linh tuyệt vời nhất
Là người tấn công vào những lỗi lầm che dấu của bạn
Giáo huấn xuất sắc nhất
Là những giáo huấn đánh trúng những lỗi lầm đó
Những người bạn tuyệt hảo nhất
Là sự chánh niệm và tỉnh giác
Sự khích lệ tốt lành nhất
Là những kẻ thù, chướng ngại và những đau khổ của bệnh tật
Phương pháp thiện xảo nhất
Là không tạo tác bất kỳ điều gì.
Điều cực kỳ quan trọng là hãy làm cho giáo huấn tác động được tới những lỗi lầm che dấu của bạn, sử dụng Giáo Pháp để sửa chữa tâm bạn, luôn luôn duy trì sự chánh niệm và tỉnh giác, nhận vào mình toàn bộ trách nhiệm về bất kỳ điều gì xảy ra, không bao giờ buông lỏng thậm chí chỉ một tư tưởng bất thiện, và sử dụng Giáo Pháp để điều phục tâm bạn.
Nếu bạn có thể làm tất cả những điều này, bạn sẽ ban cho chính bạn một đặc ân. Giáo Pháp sẽ lợi ích cho tâm bạn, và việc đi theo một vị Thầy sẽ bắt đầu có ý nghĩa thật sự. Ngài Atisa cũng nói:
Cách tốt nhất bạn có thể giúp đỡ người khác
Là dẫn dắt để họ hiểu được Pháp
Cách tốt nhất họ có thể nhận lãnh sự giúp đỡ đó
Là xoay chuyển tâm họ hướng về Pháp.
Tóm lại, giờ đây bạn đã có được sự tự do và thuận lợi của đời người. Bạn đã gặp một vị Thầy chân chính và nhận được những giáo huấn sâu xa. Cơ hội đạt được Phật Quả bằng cách đưa chính thừa của giáo lý vào thực hành giờ đây là của bạn. Bây giờ là lúc bạn có thể tạo ra một chiến lược cho tất cả những đời tương lại của bạn, hoặc bây giờ là lúc bạn cóthể từ chối vận may của mình.
Giờ đây là lúc bạn có thể xoay chuyển tâm bạn hướng về điều thiện - hoặc giờ đây là lúc bạn từ bỏ nó để đến với điều xấu. Chính giây phút này là bước ngoặt giữa hướng đúng và sai của toàn bộ cuộc đời bạn. Cơ hội này giống như việc tìm được cái để ăn khi bạn chỉ có một bữa trong một trăm bữa suốt cuộc đời bạn. Vì thế hãy tận dụng Giáo Pháp để giải thoát bản thân trong khi bạn còn có thể, hãy lấy cái chết như sự thôi thúc của bạn vào mọi lúc.
Hãy cắt bớt những kế hoạch của bạn trong đời này, và cố gắng kiên nhẫn thực hành điều thiện và từ bỏ việc ác, cho dù phải trả giá bằng cuộc đời mình. Hãy đi theo một vị Thầy chân chính và chấp nhận không chút do dự bất cứ điều gì Ngài bảo ban bạn. Hãy dâng hiến thân và tâm bạn cho Tam Bảo. Khi hạnh phúc xảy đến, hãy nhận ra nó là lòng bi mẫn của các Ngài.
Khi đau khổ xảy ra, hãy nhận thức nó là kết quả của những hành vi trong quá khứ của chính bạn. Hãy chuyên tâm vào những thực hành của sự tích tập công đức và tịnh hoá với động cơ hoàn toàn thanh tịnh của Bồ Đề Tâm. Cuối cùng nhờ sự sùng kính thanh tịnh và samaya, hãy hợp nhất tâm bạn không thể tách biệt với tâm vị Thầy cao cả trong một dòng truyền chân chính.
Hãy giành lấy thành lũy của sự tuyệt đối ngay trong đời này, can đảm nhận lãnh trách nhiệm giải thoát tất cả chúng sanh, là những bà mẹ già nua của chúng ta, khỏi ngục tối của luân hồi. Điều này bao gồm tất cả những giáo huấn cốt yếu nhất.
Những giáo huấn cốt tủy từ dòng truyền ba nhánh trong dòng sông cam lồ
Hương vị dịu ngọt từ đôi môi của vị Thầy thuộc dòng truyền chân chính này
Những điểm trọng yếu của sự thực hành chín thừa
Tất cả được đúc kết ở đây, không lỗi lầm hay pha tạp.
Những lời tốt lành này thì giống như thực phẩm khéo nấu
Với mọi hí luận của những lời lẽ hoa mỹ đều được sàng lọc
Được nêm bằng những điểm cốt yếu thơm ngon của thực hành sâu xa nhất
Trong nước cốt của những giáo huấn đặt nền trên kinh nghiệm.
Những lời tốt đẹp này giống như một nông dân thiện nghệ
Là người mà, hướng lưỡi cày của giáo lý, đào xới tất cả lỗi lầm che dấu
Khắp mảnh đất hoang của bản tánh xấu xa mà tam độc mọc tràn lan
Và khéo léo tưới rải chất nước Giáo Pháp chân chính.
Những lời tốt đẹp này giống như một vụ mùa bội thu
Trong mảnh đất phì nhiêu của sự quyết tâm thoát khỏi luân hồi
Hạt giống Bồ Đề Tâm được gieo trồng cẩn thận
Và được nuôi dưỡng bằng công đức và sự tịnh hoá
Sinh ra trái quả của những thành tựu tâm linh.
Những lời tốt đẹp này giống như một vú em tử tế
Xem xét những lỗi lầm che dấu của lũ trẻ và nhổ bật gốc chúng
Bà khéo léo thúc đẩy chúng tốt hơn một trăm lần
Luôn quan tâm chỉ để giúp chúng trở nên toàn thiện.
Không chỉ là những ngôn từ; chúng cô một ý nghĩa đặc biệt sâu sắc
Chúng còn nồng ấm hơi thở vị Thầy vô song của tôi
Những người coi chúng như viên ngọc quý trong tâm họ
Chắc chắn nhận được chân lý, con đường thanh tịnh.
Những giáo lý tốt lành này là sự thiện xảo đặc biệt của chư Bồ Tát
Một văn bản linh thánh được viết ra không cần sự tao nhã hay thi ca
Mà sử dụng ngôn ngữ thông thường để giảng dạy con đường chân chính
Để những lợi ích và thực hành có thể thâm nhập tận đáy lòng.
Những bình giảng rộng rãi đầy ắp chi tiết
Không dễ thích hợp với không gian tù túng của những tâm thức hạn hẹp
Những luận giảng cao xa về các quan điểm triết học và giáo thuyết thâm sâu
Khó đưa vào thực hành đối với những trí năng yếu đuối
Trong thời đại suy đồi của chúng ta.
Đây là điều tại sao bản văn này cô đọng và dễ hiểu
Một thần được quý báu thấm nhập các khe hở nhỏ bé trong những tâm trí chật hẹp
Một ngọn đèn soi sáng bóng tối của những kẻ có căn cơ thấp kém
Như một thầy giáo điềm tĩnh, truyền đạt yếu nghĩa đúng đắn tự nó rõ ràng trong sáng.
Đối với nhà thông thái yếu thích luận thuyết dông dài
Đối với vị Thầy vĩ đại không tìm được gì trong các bản văn
Và truyền thống khẩu truyền khi áp dụng cho chính mình
Khi được thưởng thức những giáo huấn cam lồ cốt tuỷ tuyệt hảo này
Sẽ làm hồi sinh tây yếu của sự thực hành của họ, không còn nghi ngờ gì nữa.
Đối với người ẩn tu thiền định mà không được hướng dẫn như thể ném đá vào bóng tối,
Đối với người lão luyện kiêu căng về mọi thực hành mà họ đã làm,
Đối với những nhà thành tựu hư giả chưa từng đương đầu với các giới hạn của mình,
Con đường này sẽ chữa lành tật bệnh trong tâm họ.
Bản văn này không phải là sự pha chế nào đó gồm những câu cú vẽ vời
Một cầu vồng được tô vẽ khéo léo làm bằng những ngôn từ kỳ dị
Bởi một vài kẻ tinh thông uyên bác sáng tác nông cạn
Trong những bản văn phức tạp
Chúng chẳng là gì cả
Đối với những lời từ ái của vị Thầy tôi.
Cuộc đời của vị Phật trong thực tế, vị Thầy vô song của tôi
Các huynh đệ kim cương của tôi vẫn còn có thể làm chứng về điều này
Bởi thời đại tốt đẹp đó chưa phải là một quá khứ xa xăm
Một thời đại may mắn cho Tây Tạng và cả thế giới.
Chính hoạt động của bậc tôn quý đó gây cảm hứng cho tôi
Biên soạn một tuyển tập những lời chân xác của Ngài
Vết tích này của lòng sùng kính và thiện ý của tôi
Đáng được các huynh đệ và ngay cả chư Thiên đại hoan hỷ.
Những người may mắn sống trong những đời tương lai thì cũng thế
Hãy cảm thấy lòng sùng kính tương tự khi bạn đọc bản văn này
Như bạn gặp được vị Thầy giác ngộ của tôi trong thân người
Bởi tôi tin rằng nó chuyên chở trung thực tinh hoa những lời dạy của Ngài.
Bất kỳ công đức nào có được từ tác phẩm này
Tôi hồi hướng đến tất cả chúng sanh, những bà mẹ trong quá khứ của tôi
Để họ có thể được một vị Thầy tâm linh hoàn thiện cứu giúp
Hãy áp dụng những lời toàn hảo của Ngài vào thực hành
Và hãy nhìn xem kết quả tuyệt hảo.
Đặc bịêt là, cầu xin tất cả những người được nuôi dưỡng bằng cam lồ này
Từ đôi môi vị Thầy vô song của tôi, vị Phật toàn giác
Đều đạt được Phật Quả viên mãn
Cầu mong tôi được nhìn thấy họ lên đường và dẫn dắt chúng sanh.
Cầu xin những người thừa kế tối thượng của vị Thầy từ ái nhất của tôi
Những bậc đã uống say những lời cam lồ toàn thiện của Ngài
Và mê hoặc những người may mắn bằng bài ca say đắm
Trong các giáo huấn của Ngài
Cầu mong gót sen của các Ngài an trụ bền vững trên toà kim cương.
Từ nay trở đi, cầu xin trong mọi kiếp sống tương lai của con
Được là một người phục vụ cho vị Thầy toàn thiện của con
Và những ai đi theo Ngài
Làm vui lòng họ nhờ đáp ứng bất kỳ những gì họ yêu cầu
Cầu xin cho con được dẫn dắt như đệ tử của Ngài.
Cho tới khi vòng luân hồi chấm dứt, đối với mỗi một chúng sanh
Cầu mong con tích tập những thân thể, các vật sở hữu và công đức của con
Cầu xin con phục vụ những bà mẹ già của con bị chìm đắm trong phiền não
Và sau đó cầu xin tất cả họ cũng thực hành Giáo Pháp của Đức Phật Toàn Giác.
Trong lúc đó, cầu xin những sự ban phước của dòng truyền quý báu này
Ló rạng trong tâm họ như vầng dương xuất hiện toàn hảo
Sau khi hiến dâng đời họ để thực hành nơi ẩn thất
Cầu mong họ luôn được vị Thầy vô song giúp đỡ.
Thanked by 2 Members:
|
|
#780
Gửi vào 24/05/2013 - 13:15
Hướng dẫn tổng quát ngoài và trong này về Tâm Yếu Của Sự Rộng Mở Bao La thì trung thực với những lời của vị Thầy vô song của tôi. Nó xuất hiện do sự khẩn cầu bền bỉ của Dronma Tsering, một người bạn và là một đệ tử tinh tấn và nghiêm trì giới luật, người đã tặng cho công trình bảo quản của tôi một số ghi chú mà Ngài đã ghi lại mọi sự có thể nhớ được.
Ngài năn nỉ tôi viết một giảng văn trên căn bản của những ghi cú này, ghi chép lại trung thực những giảng dạy của vị Thầy chúng tôi. Ngoài ra, Kunzang Thekchok Dorje, một tulku quý báu và là người đại diện của vị Thầy tôn quý và là bậc nắm giữ giáo lý đem lại sự trưởng thành và làm giải thoát, sau đó đã lập lại hai ba lần lời yêu cầu tương tự, thậm chí còn cung cấp cho tôi nhiều tấm giấy để ghi chép.
Sau này lại tới phiên Ngài Kushab Rinpoche Changchub Dorje, vị Vua Pháp của mọi giáo thuyết, bậc lỗi lạc nhất trong tất cả những trưởng tử tâm linh là những bậc nắm giữ dòng truyền thừa của truyền thống khẩu truyền của vị Thầy siêu phàm của tôi, khuyến khích tôi, nói rằng tôi phải dứt khoát viết ra những lời dạy của vị Thầy đáng kính của chúng tôi trong cách mà Ngài đã dạy họ.
Bởi điều đó sẽ giúp tất cả chúng tôi tưởng nhớ tới Ngài và làm sống lại lòng sùng kính của chúng tôi. Tôi cũng được khuyến khích và truyền cảm hứng bởi một số huynh đệ kim cương thân yêu, là những người thân quý như đôi mắt của tôi, và chắc chắn họ sẽ vận còn thân thiết với tôi như ngọn lửa và tim đèn, cho tới khi tất cả chúng tôi đạt được tâm yếu của sự giác ngộ.
Vì thế, đây là nguyên bản của tác phẩm này, được viết ra bởi một người mà Ngài Rigdzin Changchub Drje, bậc là vương miện của hàng trăm vị thành tựu giả vô song, đã ban cho danh hiệu Orgyen Jigme Chokyi Wangpo, nhưng là kẻ mà phía sau sự trang điểm đẹp đẽ của một danh hiệu như vậy, thực ra chỉ là Abu Rách rưới,[331] cư xử thô lỗ và đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa của năm độc.
Bản văn này được hoàn tất tại nơi ẩn tu, còn hẻo lánh hơn cả Rudam samten Choling hẻo lánh mà nó trực thuộc, được gọi là Cung Điện Khủng Khiếp của Yamataka, một nơi được trang hoàng tráng lệ với tất cả những phẩm tính của sự cô tịch, ở đó những tàng cây tắm mình trong tinh chất ấm áp của ánh nắng mặt trời trong lúc bộ rễ của chúng hấp thu những giọt cam lồ mát lạnh.
Nơi mà những cây nho, những lùm cây, những bụi cây thấp, những cành lá, những hoa và trái đủ mọi loại trải dài trong sự sặc sỡ và những tràng hoa, chắt lọc chất cam lồ của nụ cười rạng rỡ của Con Gái Các Cung Trời Xanh Biếc, khi nó chảy xuống để hoàn toàn làm hài lòng trái tim.
Nhờ công đức của sự hoàn thành tốt lành tác phẩm này, cầu mong tất cả chúng sanh vô tận đi theo con đường tối thượng này và hoàn toàn được giải thoát vào Pháp Giới nền tảng của Đức Phật nguyên sơ!
LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI
Nguyên Tác: O-rgyan-'jigs-med-chos-kyi-dban-po (Kunzang Lama'i Shelung)
Bản dịch Anh ngữ: The Words of my Perfect Teacher - Patrul Rinpoche
Của Nhóm Dịch thuật: Padmakara
Nhà Xuất bản: Shambhala
Bản dịch Việt ngữ: Nhóm Longchenpa
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Túc Kê Linh Quái (Phương pháp coi giò gà bí truyền) - Hồ Quang |
Tủ Sách | administrator |
|
||
Michelle Obama BẢO VỆ Gus Walz sau Khoảnh khắc DNC lan truyền với Bố Tim Walz |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Tử vi Nam Phái chân truyền tiếng Trung quốc, bên trung quốc truyền, rất hiếm |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Elohim |
|
||
Dòng Họ (dòng di truyền) |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Elohim |
|
|
|
Tả Ao chân truyền địa lý - 左.眞傳地理 - 0442 |
Sách Phong Thuỷ | administrator |
|
||
Tinh túy truyền thống: Đọc Hoa Nam kinh để ngẫm về cuộc sống tự tại tiêu dao ( daikynguyen.tv ) |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | thanhthanh2014 |
|
17 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 17 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |