Jump to content

Advertisements




Truyện tâm linh - hiendde



831 replies to this topic

#781 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/05/2013 - 13:54

MỤC LỤC

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


PHẦN MỘT

NHỮNG CHUẨN BỊ THÔNG THƯỜNG HAY BÊN NGOÀI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

LỢI


CÁCH THỨC ĐÚNG ĐẮN ĐỂ NGHE GIÁO LÝ TÂM LINH

Thái độ

THÁI ĐỘ BAO LA CỦA BỒ ĐỀ TÂM

SỰ THIỆN XẢO BAO LA TRONG PHƯƠNG TIỆN: THÁI ĐỘ CỦA MANTRA THỪA BÍ MẬT

Hành vi

ĐIỀU NÊN TRÁNH

Ba khiếm khuyết của bình chứa

Sáu sự nhiễm ô

Năm cách sai lạc trong việc nhớ tưởng

ĐIỀU NÊN LÀM

Bốn ẩn dụ

Sáu Toàn thiện Phi thường

Những Cách thức khác của Hành vi


BẢN THÂN CỦA GIÁO LÝ: MỘT GIẢI THÍCH VỀ VIỆC KHÓ TÌM ĐƯỢC NHỮNG SỰ TỰ DO VÀ THUẬN LỢI

Quán chiếu trên bản tánh của tự do

Quán chiếu về những thuận lợi đặc biệt liên quan đến Pháp

NĂM THUẬN LỢI CÁ NHÂN

NĂM THUẬN LỢI THUỘC HOÀN CẢNH

TÁM HOÀN CẢNH XÂM HẠI KHIẾN KHÔNG ĐƯỢC

TỰ DO THỰC HÀNH PHÁP

TÁM THIÊN HƯỚNG KHÔNG THÍCH HỢP KHIẾNKHÔNG CÓ TỰ DO ĐỂ THỰC HÀNH PHÁP

Quán chiếu về những hình ảnh cho thấy khó tìm được tự do và thuận lợi ra sao

Quán chiếu trên những sự so sánh bằng số lượng


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


SỰ VÔ THƯỜNG CỦA THẾ GIỚI BÊN NGOÀI TRONG ĐÓ CHÚNG SINH SINH SỐNG.

SỰ VÔ THƯỜNG CỦA CHÚNG SINH SỐNG TRONG THẾ GIỚI

SỰ VÔ THƯỜNG CỦA NHỮNG BẬC LINH THÁNH

SỰ VÔ THƯỜNG CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ ĐỊA VI THẾ LỰC

CÁC VÍ DỤ KHÁC VỀ VÔ THƯỜNG

SỰ BẤT ĐỊNH CỦA CÁC TÌNH HUỐNG CỦA CÁI CHẾT

SỰ TỈNH GIÁC MÃNH LIỆT VỀ LẼ VÔ THƯỜNG


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


NHỮNG NỖI KHỔ CỦA SINH TỬ LUÂN HỒI NÓI CHUNG

NHỮNG NỖI KHỔ ĐẶC BIỆT MÀ CHÚNG SINH TRONG SÁU CÕI PHẢI KINH NGHIỆM

Mười tám địa ngục

TÁM ĐỊA NGỤC NÓNG

Địa ngục Sống lại

Địa ngục Đường Vạch Đen

Địa ngục Vây bắt và Nghiền nát

Địa ngục Kêu rú

Địa ngục Kếu rú Vĩ đại

Địa ngục Nóng

Địa ngục Nóng Dữ dội

Địa ngục Đau khổ Tột cùng

Những địa ngục Lân cận

TÁM ĐỊA NGỤC LẠNH

CÁC ĐỊA NGỤC PHÙ DU

Ngạ quỷ

NHỮNG NGẠ QUỶ SỐNG TỤ TẬP

Ngạ quỷ bị đau khổ vì những chướng ngại bên ngoài

Ngạ quỷ bị đau khổ vì những chướng ngại bên trong

Ngạ quỷ bị đau khổ vì những chướng ngại đặc biệt

NHỮNG NGẠ QUỶ DI CHUYỂN KHẮP KHÔNG GIAN

Súc sinh

Những súc vật sống trong các độ sâu

Những súc vật sống rãi rác ở những nơi khác nhau

Cõi người

BA LOẠI ĐAU KHỔ NỀN TẢNG

Đau khổ về sự biến đổi

Đau khổ chồng chất đau khổ

Sự đau khổ của mọi thứ phức hợp

NHỮNG ĐAU KHỔ CỦA SINH, LÃO, BỆNH VÀ TỬ

Sự đau khổ của việc sinh ra

Sự đau khổ của tuổi già

Sự đau khổ của bệnh tật

Sự đau khổ của cái chết

NHỮNG ĐAU KHỔ KHÁC CỦA CON NGƯỜI

Nỗi sợ gặp kẻ thù địch

Nỗi sợ mất người thân yêu

Nỗi khổ của việc muốn mà không được

Nỗi khổ vì gặp những gì không mong muốn

A tu la

Chư Thiên

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


NHỮNG HÀNH ĐỘNG TIÊU CỰC PHẢI TỪ BỎ

Mười hành vi bất thiện nên tránh

SÁT SANH

LẤY NHỮNG GÌ KHÔNG ĐƯỢC CHO

TÀ DÂM

NÓI DỐI

GIEO MỐI BẤT HOÀ

NÓI CAY NGHIỆT

NÓI CHUYỆN PHIẾM VÔ ÍCH

THAM MUỐN

MUỐN LÀM TỔN HẠI NGƯỜI KHÁC

TÀ KIẾN

Những hậu quả của mười hành động bất thiện

KẾT QUẢ HOÀN TOÀN CHÍN MÙI

KẾT QUẢ TƯƠNG TỰ VỚI NGUYÊN NHÂN

Những hành vi tương tự với Nguyên nhân

Những kinh nghiệm Tương tự với Nguyên nhân

KẾT QUẢ ĐƯỢC QUY ĐỊNH

HẬU QUẢ PHÁT SINH NHANH CHÓNG

NHỮNG HÀNH ĐỘNG TÍCH CỰC NÊN LÀM

PHẨM TÍNH CỦA SỰ HOÀN TOÀN QUYẾT TÂM CỦA CÁC HÀNH VI


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


NHỮNG NGUYÊN NHÂN DẪN TỚI GIẢI THOÁT

IKẾT QUẢ: BA CẤP ĐỘ GIÁC NGỘ


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


KHẢO SÁT VỊ THẦY

ĐI THEO VỊ THẦY

IGANH ĐUA VỚI SỰ CHỨNG NGỘ VÀ HÀNH ĐỘNG CỦA VỊ THẦY


PHẦN HAI

NHỮNG CHUẨN BỊ PHI THƯỜNG HAY BÊN TRONG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


NHỮNG TIẾP CẬN ĐỂ QUY Y

Niềm tin

NIỀM TIN SỐNG ĐỘNG

NIỀM TIN THA THIẾT

NIỀM TIN CHẮC CHẮN

Động cơ

SỰ QUY Y CỦA CHÚNG SINH THẤP KÉM

SỰ QUY Y CỦA CHÚNG SINH TRUNG BÌNH

SỰ QUY Y CỦA NHỮNG BẬC VĨ ĐẠI

QUY Y NHƯ THẾ NÀO

NHỮNG GIỚI LUẬT VÀ LỢI ÍCH CỦA SỰ QUY Y

Những giới luật của sự quy y

BA ĐIỀU NÊN BỎ

BA ĐIỀU NÊN LÀM

BA GIỚI LUẬT BỔ SUNG

Những lợi ích của sự quy y


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


SỰ TU TẬP TÂM TRONG BỐN PHẨM TÁNH VÔ LƯỢNG

Thiền định về tâm xả

Thiền định về tâm từ

Thiền định về lòng bi

Thiền định về sự hoan hỷ

SỰ KHƠI DẬY BỒ ĐỀ TÂM

Sự phân loại đặt nền trên ba mức độ can đảm

SỰ CAN ĐẢM CỦA MỘT VỊ VUA

SỰ CAN ĐẢM CỦA MỘT NGƯỜI CHÈO THUYỀN

SỰ CAN ĐẢM CỦA MỘT NGƯỜI CHĂN CỪU

Phân loại theo các địa Bồ Tát

Phân loại theo tính chất của Bồ Đề Tâm

BỒ ĐỀ TÂM TƯƠNG ĐỐI

Ý định

Sự áp dụng

BỒ ĐỀ TÂM TUYỆT ĐỐI

Thọ giới nguyện Bồ Đề Tâm

SỰ TU TẬP TRONG GIỚI LUẬT CỦA BỒ ĐỀ TÂM

Sự tu tập trong giới luật của Bồ Đề Tâm ước nguyện

COI NGƯỜI KHÁC NGANG BẰNG VỚI CHÍNH MÌNH

25]1.2 SỰ HOÁN ĐỔI MÌNH VÀ NGƯỜI KHÁC

25]1.3 COI NGƯỜI KHÁC QUAN TRỌNG HƠN CHÍNH MÌNH

2. Sự tu tập trong giới luật của Bồ Đề Tâm áp dụng: sáu toàn thiện siêu việt

BỐ THÍ SIÊU VIỆT

Bố thí vật chất

Bố thí Pháp

Bố thí sự che chở khỏi sợ hãi

TRÌ GIỚI SIÊU VIỆT

Tránh những hành động tiêu cực

Quyết làm việc thiện

Đem lại lợi ích cho người khác

NHẪN NHỤC SIÊU VIỆT

Nhẫn nhục khi gặp bất công

Nhẫn nhục chịu đựng những gian khổ vì Giáo Pháp

Nhẫn nại đối mặt với chân lý sâu xa mà không sợ hãi

TINH TẤN SIÊU VIỆT

Tinh tấn như áo giáo

Tinh tấn trong hành động

Tinh tấn không thể ngừng lại

THIỀN ĐỊNH SIÊU VIỆT

Từ bỏ những sự phóng dật

Thiền định thực sự

TRÍ TUỆ SIÊU VIỆT

Trí tuệ nhờ sự lắng nghe

Trí tuệ nhờ sự quán chiếu

Trí tuệ nhờ sự thiền định


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


LÀM THẾ NÀO CÁC CHE CHƯỚNG CÓ THỂ ĐƯỢC TỊNH HOÁ NHỜ SỰ SÁM HỐI

BỐN NĂNG LỰC

Năng lực hỗ trợ

Năng lực ân hận đã làm điều quấy

Năng lực quyết định

Năng lực của hành động như một các đối trị

THIỀN ĐỊNH THỰC SỰ VỀ VAJRASATTVA


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


SỰ CẦN THIẾT CỦA HAI TÍCH TẬP

MẠN ĐÀ LA THÀNH TỰU

MẠN ĐÀ LA CÚNG DƯỜNG

Sự cúng dường Mạn đà la ba mươi bảy yếu tố

Sự cúng dường Mạn đà la của ba thân theo bản văn này

MẠN ĐÀ LA THÔNG THƯỜNG CỦA HOÁ THÂN

MẠN ĐÀ LA PHI THƯỜNG CỦA BÁO THÂN

MẠN ĐÀ LA ĐẶC BIỆT CỦA PHÁP THÂN


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


THÂN THỂ NHƯ MỘT SỰ CÚNG DƯỜNG

ISỰ THỰC HÀNH CÚNG DƯỜNG THÂN XÁC

Bữa tiệc trắng dành cho các thực khách

Bữa tiệc trắng dành cho các vị khách đẳng cấp thấp

Bữa tiệc đa dạng cho các thượng khách

Bữa tiệc đa dạng dành cho các vị khách đẳng cấp thấp

Ý NGHĨA CỦA THỰC HÀNH CHO


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


LÝ DO CÓ PHÁP GURU YOGA

LÀM THẾ NÀO ĐỂ THỰC HÀNH GURU YOGA

Sự Quán tưởng ruộng công đức

Sự cúng dường bảy nhánh

SỰ LỄ LẠY, CÁCH ĐỐI TRỊ TÁNH KIÊU NGẠO

SỰ CÚNG DƯỜNG

SỰ SÁM HỐI CÁC HÀNH VI CÓ HẠI

SỰ HOAN HỈ, CÁCH ĐỐI TRỊ TÁNH GANH TỊ

SỰ THÚC ĐẨY CHƯ PHẬT CHUYỂN PHÁP LUÂN

SỰ KHẨN CẦU CHƯ PHẬT KHÔNG NHẬP NIẾT BÀN

SỰ HỒI HƯỚNG

Sự khẩn cầu với đức tin kiên quyết

Nhận bốn quán đảnh


ILỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT DỊCH THUẬT

LÚC BAN ĐẦU

Dòng truyền tâm của các Đấng Chiến Thắng

Dòng truyền qua biểu tượng của các Vidyadhara

CÁC TANTRA MAHAYOGA

SỰ TRUYỀN DẠY ANUYOGA

CÁC GIÁO HUẤN TINH TUÝ CỦA ATIYOGA

GIÁO LÝ ATIYOGA ĐẾN CẢNH GIỚI CON NGƯỜI

SỰ TRUYỀN BÁ GIÁO LÝ TINH YẾU Ở XỨ TUYẾT TÂY TẠNG

Dòng truyền nhờ sự nghe của những chúng sinh bình thường


PHẦN BA

CON ĐƯỜNG CHUYỂN DI NHANH CHÓNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


NĂM LOẠI CHUYỂN DI

Sự chuyển di siêu việt tới Pháp Thân nhờ dấu ấn của cái thấy

Sự chuyển di trung bình tới Báo Thân nhờ sự hợp nhất giai đoạn phát triển và toàn thiện

Sự chuyển di thấp tới Hoá Thân nhờ lòng bi mẫn bao la

Sự chuyển di thông thường sử dụng ba ẩn dụ

Sự chuyển di được thực hiện cho người chết với cái móc của lòng bi mẫn


ISỰ CHUYỂN DI THÔNG THƯỜNG SỬ DỤNG BA ẨN DỤ

Sự tu tập chuyển di

Sự chuyển di thực sự

Những bước của thiền định về sự chuyển di

CÁC SỰ CHUẨN BỊ

SỰ QUÁN TƯỞNG CHÍNH


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#782 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 24/05/2013 - 22:12

LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI

LỜI BẠT

Vị Thượng thư xứ Dergé cao quý cả tâm linh lẫn thế tục

Với bốn phần và mười đức hạnh của nó

Qua tác phẩm này đã trút xuống một trận mưa Pháp vô tận

Nhờ những công đức này

Cầu mong giáo lý tịnh quang kim cương tột bậc này

Lan truyền và trải rộng khắp ba cõi và tồn tại lâu dài

Cầu mong mọi chúng sinh có liên hệ với giáo lý này

Nhanh chóng vui hưởng vương quốc nguyên sơ vĩ đại

Và thành tựu tự nhiên hạnh phúc của chính họ và những người khác.

Trong việc hoàn thành bản sửa đầu tiên của bản văn này, lời bạt này được viết bởi Ngài Lodro Thaye, bậc có tri giác thanh tịnh về tất cả những Đạo sự, mà không có chút thành kiến bộ phái nào.
Cầu mong đức hạnh được tăng trưởng!


Jamgon Kongtrul Lodro Thaye

Om Swasti Siddham

HẾT



Thanked by 1 Member:

#783 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 30/05/2014 - 02:44

CÔNG HẠNH BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM






- QUÁN THẾ ÂM Đấng mẹ hiền trên tất cả mẹ hiền, trên tất cả thánh nhân được tôn xưng là mẹ hiền.

- QUÁN THẾ ÂM Danh hiệu của tình thương bao la không bờ bến, bao la rộng khắp cõi hư không.

- QUÁN THẾ ÂM gắn liền với tim óc của nhân loại, của muôn loài chúng sanh.

Với QUÁN THẾ ÂM nơi nào có khổ đau, nơi nào có tai nạn! Nơi đó phát ra tiếng niệm QUÁN THẾ ÂM chí thành và tha thiết. Nơi đó có QUÁN THẾ ÂM. Nơi đó được giải trừ tất cả khổ đau và tai nạn!

Danh hiệu Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM trong nhân loại ai cũng đều biết đến, cũng đều niệm khi có tai nạn hiểm nguy và ách nạn khủng khiếp. Ngoại trừ hạng người sanh ra nơi biên địa, hoặc căn trí quá tối tăm, hoặc tín ngưỡng tà đạo, mê muội với thần quyền hữu danh mà vô thực. Hoặc là hạng người đã bán rẽ Mẹ Cha tôn thờ xác ma chết treo đầy quái gỡ làm cứu cánh. Vì chính họ đã chối bỏ Quán Âm thì Quán Âm không giao cảm đến. Tuy nhiên hạng người đó biết hồi tâm trong khoảnh khắc thì QUÁN THẾ ÂM vẫn thị hiện để hóa độ.

Ý NGHĨA QUÁN THẾ ÂM BỔ TÁT

- QUÁN là quán xét, thấy nghe, biết đối tượng thật rõ ràng.

- THẾ là cõi đời, cỏi hữu tình thế gian.

- ÂM là tiếng niệm, tiếng kêu cứu, tiếng cầu nguyện từ mọi nơi đau khổ phát ra.

- BỔ TÁT là độ thoát cho loài hữu tình, cứu thoát, giác ngộ cho tất cả các loài chúng sinh có tình cảm được vượt thoát ra khỏi khổ đau ách nạn.

Đức QUÁN THẾ ÂM BỔ TÁT, đạt được diệu quả NHĨ CĂN VIÊN THÔNG nên quán xét và nghe, thấy, biết cùng tột tiếng kêu đau khổ khắp cõi thế gian, hiện ngay nơi đó để cứu độ chúng sanh được vượt thoát tất cả những hiểm nguy, nên gọi là QUÁN THẾ ÂM.

Do công hạnh cứu độ tự tại nhiệm mầu đó, nên trong kinh điển còn gọi là QUÁN TỰ TẠI BỔ TÁT .

QUÁN THẾ ÂM tiếng Phạn Avalokitesvara, nghĩa là, Ngài nghe tiếng kêu thầm kín thiết tha từ tâm khảm chúng sanh trong thế gian mà đến cứu khổ. Đem an lạc từ bi tâm vô lượng không phân biệt dến với mọi loài, nói cách khác là tình yêu thương trìu mến vô biên gấp muôn vạn lòng dạ của bà mẹ hiền ở thế gian đối với đứa con cưng, nên gọi là Từ Mẫu QUÁN THẾ ÂM.
QUÁN THẾ ÂM VÔ ÚY

Kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn: "Bồ Tát đối với cấp nạn nguy hiểm, kinh sợ, còn ban cho chúng sanh năng lực Vô Úy để tự vượt thoát khổ ách", nên gọi là Quán Âm Vô Úy.

SỰ TÍCH BỔ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Đức Phật BỒN SƯ THÍCH CA khi nói kinh Bi Hoa đã dạy rằng:

- Về thời qúa khứ lâu xa về trước, đức QUÁN THẾ ÂM làm thái tử con của vua Vô Tránh Niệm. Thời bấy giờ có đức Phật hiệu là BẢO TẠNG NHƯ LAI, hiểu được đạo lý vô thượng, Vua và Thái tử phát tâm Bồ đề rộng lớn, nguyện tu các hạnh Bồ Tát, mong thành Phật quả để phổ độ chúng sanh.

Khởi đầu đức Vua và Thái tử làm người thí chủ chân thành cúng dường các thứ y phục, thuốc men, vật thực, mùng mền và tất cả các món cần dùng lên đức BẢO TẠNG NHƯ LAI và chúng tăng trong suốt ba tháng. Nhờ nhất niệm tinh chuyên, tinh tấn không ngừng, vua Vô Tránh Niệm chứng thành quả Phật và phát bốn mươi tám lời thệ nguyện rộng lớn, để tế độ khắp cả chúng sanh, Ngài liền thành Phật hiệu là A DI ĐÀ giáo chủ cõi Tây Phương Cực lạc. Thái tử công hạnh cũng tròn đầy viên mãn, cũng về cõi Cực Lạc thành bậc đại Bồ Tát, hiệu là QUÁN THẾ ÂM cùng với Phật A DI ĐÀ tiếp dẫn chúng sanh về cõi Cực lạc.

CÔNG HẠNH BỔ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Ngài Huyền Trang pháp sư đời Đại Đường nói:

- Quán Có, mà không trụ nơi Co, quán Không mà không trụ nơi Không. Nghe Danh, mà không lầm đối với Danh, thấy Tướng mà không chìm ở nơi Tướng. Tâm, không động ở Tâm. Cảnh không trước ở cảnh; tất cả hiện hữu đó, không làm loạn được Chơn, đó chính là TRÍ TUỆ VÔ NGẠI. Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM đã dùng TRÍ TUỆ VÔ NGẠI đó, mà tìm tiếng kêu của chúng sanh ứng hiện tới mà cứu khổ, dù muôn ngàn vạn ức tiếng kêu cầu cứu khổ, mà sự cứu khổ không mất thời gian, diệu dụng của QUÁN THẾ ÂM là như thế.

Lại nữa, trong Nhị Khóa Hiệp Giải viết rằng:

- Quán, là Trí năng quán, Thế Âm, là Cảnh sở quán. Muôn ngàn hình tượng, muôn ngàn thứ tiếng chen nhau giao động, khác biệt, cách trở điệp điệp trùng trùng, do lòng từ rộng lớn vô biên của Ngài, cùng một lúc đều được cứu độ, nên danh hiệu là QUÁN THẾ ÂM.

Thái Hư đại sư khi luận về Kinh Pháp Hoa có nói đến hạnh nguyện cứu khổ của Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM như sau:

- Đức QUÁN THẾ ÂM tìm nghe tiếng cầu cứu thống khổ của tất cả chúng sanh khắp mọi nơi, mọi chốn liền ngay khi đó đến mà cứu độ, quả vị lợi tha vô lượng vô biên luôn luôn hướng về chúng sanh và làm những việc lợi ích cho họ. Bồ tát thị hiện đầy đủ ba thân, đó là Thắng Ứng Thân, Liệt Ứng Thân, Tha Thọ Dụng Thân, nên mới đủ diệu dụng độ khắp chúng sanh trong pháp giới.

Còn Đại Thừa Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, toàn phẩm kinh Đức Thích Ca đã khuyên dạy chúng sinh trì tụng, lễ bái QUÁN THẾ ÂM thì được phước vô lượng. Về phương diện cứu khổ, Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM thị hiện ba mươi hai thân, mỗi thân đều thích ứng với tâm cảnh hiện tại, và từ đó có muôn ngàn phương tiện để giải thoát khổ nạn cho chúng sanh.

BỔ TÁT QUÁN THẾ ÂM THỊ HIỆN BẰNG CÁCH NÀO TRONG KHI CÓ VÔ SỐ CHÚNG SANH CẦU CỨU CÙNG MỘT LÚC?

Đây là một nghi vấn chung vì, chúng ta chưa thông hiểu được nghĩa diệu dụng hiện thân mầu nhiệm của Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM.

Đã là diệu dụng nhiệm mầu, thì thử hỏi ngôn ngữ trong cõi nhân loại chúng ta có thể diễn đạt được sao? Nếu, không dùng phương tiện mượn Sự, mượn Lý, mượn Hình để tỉ dụ, thì khó có thể mô tả so sánh cho thông suốt và hết ngờ vực được. Nghi ngờ là một cản trở lớn cho lòng chí thành vậy. Tuy nhiên nghi ngờ mà cầu học để giải trừ tà kiến, là một tinh tấn để mau chóng đến bờ giải thoát.

Diệu Dụng Mầu Nhiệm của Bồ Tát là tất cả các thứ Sắc Pháp và Tâm Pháp "Có, Không. Danh, Tướng. Tâm, Cảnh. Năng, Sở...cho đến xa, gần, dày, mỏng, tối, sáng, nhiều, ít...tất cả đều không chướng ngại, quý vị nhận định thỉ dụ sau đây:

Diệu dụng cứu khổ của QUÁN THẾ ÂM, tỉ như ánh sáng của Thái dương (dụ cho thường quán) luôn luôn soi chiếu khắp mọi nơi, (dụ cho sự thường trực tìm tiếng kêu). Chúng sanh như là một tấm kiếng hay là một chén nước trong, tấm kiếng hay chén nước nếu chịu hướng về ánh sáng Thái dương, thì trong tấm kiếng, chén nước có hình ảnh và ánh sáng của Thái dương (sự hướng về dụ cho lòng chí thành) ngời sáng trong đó. Ánh sáng dù luôn chiếu soi, mà tấm kiếng úp lại, chén nước thì đậy kín, nhất định hình ảnh Thái dương và ánh sáng không thể hiển hiện trong đó được. Cũng vậy chúng sanh không tha thiết chí thành, như đứa con hoang nghịch cố trốn tránh sự tìm kiếm của Mẹ hiền, sự gặp mặt tất còn lâu xa.

Một tỉ dụ khác, diệu dụng Quán Âm như tổng đài phát ra làn sóng âm thanh, hay phát ra hình ảnh. Sự phát đi, dĩ nhiên luôn luôn thường trực (dụ cho tầm thanh cứu khổ) còn chúng sanh như những máy thu thanh, thu hình, máy mở đúng làn sóng, đúng vi ba của tín hiệu, tất nhiên thấy hình, nghe tiếng (dụ cho lòng chí thành và giao cảm).

Dù cho muôn ngàn triệu chiếc máy (vô số chúng sanh) cùng một lúc bắt đúng tín hiệu tất nhiên muôn ngàn triệu chiếc máy, cùng một giờ phút, mà cùng có âm thanh và hình ảnh (dụ cho cùng niệm và cùng được sự thị hiện nhiệm mầu). Cũng như thế, tất cả mọi loài chúng sanh, nếu cùng chí thành hướng về đức QUÁN THẾ ÂM tất Bồ Tát cùng hiển hiện ngay liền khi đó.
DIỆU DỤNG KHI THỊ HIỆN CỦA BỔ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Điểm này tưởng cũng minh bạch qua các thí dụ ở đoạn trên, tuy nhiên còn vài thắc mắc khác xin được nêu ra:

Căn cứ theo các kinh Bi Hoa, Lăng Nghiêm, Tất Đàm, Phổ Môn, QUÁN THẾ ÂM thọ ký...thì, đức QUÁN THẾ ÂM thị hiện thật nhiều thân, 32, 33, 38 và tùy vô số loại mà hiện thân.

Trí óc con người vốn mang nhiều nghi hoặc, dù đã tin tưởng Phật Pháp là cao siêu mầu nhiệm, chịu thọ nhận, tụng niệm tu hành. Nhưng tiếc thay, nghiệp chướng nghi hoặc đã làm ngăn trở bước đường tiến tu không ít. Người ta cứ nghi:

"Bồ Tát sao không hiện ra trước mắt cho thấy, cho nghe; bao nhiêu hiện thân trong kinh Phật, nào Bồ Tát, Phạm Vương, Đế Thích, Thiên, Long, Đồng nam, Đồng nữ...Nhưng khi có nạn, mình có niệm chí thành lắm chớ, mà nào có thấy Bồ Tát?"

Sự kiện này, có nhiều người vì lòng tin sâu đậm và do nhận xét tinh tế, quyết chắc có sự tế độ của Bồ Tát chỉ vì mình mắt phàm, tai tục nên không thấy Ngài, nếu không có thì không thể nào mình thoát nạn một càch ly kỳ vậy được. Một số khác, lại ngờ rằng không biết có phải Bồ Tát đến độ cho mình hay không? hay là mình có số hên? Hay là do phước ông bà để lại?

Thưa, nên hiểu rằng, Bồ Tát thị hiện giao cảm trong chúng ta, trong tất cả mọi người, mọi loài.

Một đám giặc cướp sắp ồ ạt tấn công qua chiếc thuyền nhỏ bé, hay trên thuyền sắp có biến cố thê thảm xảy ra...Tại sao bọn cướp lại đổi ác ý để trở thành thiện niệm? Để rồi bọn chúng trở nên hiền từ và rút lui êm đẹp? Hơn nữa còn tiếp tế giúp đở, đó là nhờ trên chiếc thuyền có nhiều người chí thành, niệm danh hiệu đức QUÁN THẾ ÂM.

Sự đổi thay tâm ý của kẻ ác, lại không là sự thị hiện nhiệm mầu để cứu độ hay sao? Không lẽ Ngài hiện ra hung thần để đánh chìm ác tặc, rồi mới cho là linh?

Bà già ở nhà có một mình lấy rổ vá ra khấu may, mới vài đường chỉ chẳng may chỉ sút, đôi mắt lem nhem sợi chỉ không làm sao xâu qua lỗ được, bà thở dài buồn thảm:

- Mẹ hiền Quán Âm ơi con phải làm sao?

Bà tủi thân gần muốn rơi lệ lòng hướng về Phật lâm râm cầu nguyện. Đứa bé chơi từ ngoài xa, nó bổng thấy thích vào nhà bà già cô quả ấy, và đứa bé đã xâu chỉ cho bà. Quý vị đã nhận thấy Bồ Tát thị hiện trong tâm đứa bé ấy chưa?

Bạn lái xe đi trên quãng đường thôn dã, không may xe bạn hư! Với độc lực và hơn nữa là bạn chưa một lần biết sửa xe, bạn chỉ còn biết cầu nguyện...Từ bên ngoài quốc lộ có đôi bạn, lại nổi lên ý niệm ham thích được đi trên con đường hẻo lánh đó, họ gặp bạn và sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp giải nguy cho bạn. Quán Âm thị hiện là chổ đó. Đó là trưởng giả thân, cũng là đồng nam, đồng nữ vậy.

Bà Ấm người làng Sơn Tịnh, mỗi năm một lần bà lên núi Trà Bồng, hang Thạch Động để lễ Phật, cái hang động ngày xưa mà thầy Chơn Dung tu hành đã phát kỳ tích ở đấy. Hú hồn, hôm ấy bà lại gặp phải con cọp, chao ôi con cọp vằn vện to lớn quá, cọp từ xa gầm thét và phóng tới, bà chỉ kịp la lên QUÁN ÂM BỔ TÁT rồi bà bất tỉnh! Thực ra bà "THÉT" chứ không phải niệm, nhưng đó là cái thét cấp bách đầy khẩn thiết và sự chí thành được dồn hết vào cái THÉT đó. Khi tỉnh dậy, ý niệm đầu tiên của bà là tưởng mình đã chết, một lát sau khi tri giác về đủ, bà mới cảm nghe hôi hám và đau rát trên mặt. Thì ra con cọp đã liếm mặt bà rồi bỏ đi.

Tại sao cọp bỏ đi, khi miếng mồi ngon trước miệng nó? Chính đó là diêu dụng cảm hóa, tế độ của Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM trực tiếp ngay trong tâm ý của con cọp.

Bà Ấm là người quen (tu) tập chiếu mặt kiếng về ánh thái dương (thường niệm QUÁN THẾ ÂM) trong giờ phút cấp bách bà chiếu đúng ánh sáng QUÁN THẾ ÂM.

TẠI SAO HÌNH TƯỢNG QUÁN THẾ ÂM CHÚNG TA ĐANG THỜ LẠI MANG VÓC DÁNG NỮ NHÂN, NGÀI LÀ NAM HAY NỮ?

Chúng ta nên biết mười phương chư Phật không hề có nữ thân. Trong kinh Pháp Hoa phẩm Phổ Môn có câu: "Cần thích hợp một Phật thân để tế độ, Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM liền hiện Phật thân để nói Pháp và tế độ". Thế thì, đức QUÁN THẾ ÂM là Bồ Tát, Ngài làm sao có thể hiện được Phật thân?

Thực ra trong kinh ĐẠI NHẬT và kinh BI HOA đức Bổn Sư THÍCH CA đã từng dạy rằng, đức QUÁN THẾ ÂM đời quá khứ đã thành Phật, hiệu là CHÁNH PHÁP MINH NHƯ LAI, vào thuở lâu xa vô lượng kiếp về trước. Vì bi nguyện độ sanh mà Ngài thị hiện làm thân Bồ Tát. Cũng trong kinh BI HOA, đức Phật luôn luôn gọi đức QUÁN THẾ ÂM là "Thiện nam tử" tốt ! Vậy đức QUÁN THẾ ÂM không thể nào là nữ nhân được.

Căn cứ theo lịch sử về tôn giáo, nhân gian dật sử, Linh ứng truyện ký và các lịch sử (tính chất sự tích) của Trung Hoa từ sau nhà Châu vua Chiêu Vương đến cận đại, và Việt Nam từ đầu thế kỷ thứ ba đến cận kim, thì đức QUÁN THẾ ÂM Bồ Tát đã từng hóa hiện vào các thế gia và cả bần gia, để ứng cơ hóa độ chúng sanh.

Mượn sự tướng của thế đạo để dẫn dắt nhân gian hướng thượng quay về chánh đạo. Như QUÁN THẾ ÂM Diệu Thiện về đời vua Trang Vương. Quán Âm xách giỏ cá đời vua Huyền Tôn nhà Đường, Quán Âm Thị kính đời nhà Minh, Quán Âm linh ứng đời nhà Nguyễn...Tham khảo điều này cho ta thấy, qua các đời phong kiến mọi quyền hành sanh sát, và làm t*o loạn nhân gian hay thịnh suy cho đất nước, đều nằm trong tay Nam giới. Tuy vậy những nữ lưu tuyệt đẹp và xuất sắc, vẫn là cao điểm để đam mê và dễ bị nữ sắc lung lạc và điều khiển.

Vậy sự hiện người nữ nhằm để chuyển hóa tâm xấu ác và cải thiện những xa hoa trụy lạc, đó là mục tiêu tùy duyên hóa độ của Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM. Và cũng từ đó mà tượng, ảnh của Ngài trở nên NỮ MẠO trong một số quốc gia Á Châu. Nhưng điều căn bản là chúng ta phải biết rằng, đó là hình ảnh thị hiện, không nên chấp là Phật Thân của Ngài.

BA LỄ VÍA QUÁN ÂM HÀNG NĂM, CÓ KHÁC BIỆT GÌ HAY KHÔNG?

Hằng năm Phật tử khắp nơi trên thế giới thường làm lễ vía Bồ Tát QUÁN THẾ ÂM thật trang nghiêm vào các ngày: 19.2, 19.6 và 19.9 đều theo âm lịch. Nhưng đa phần chỉ biết suông là lễ vía QUÁN THẾ ÂM thế thôi! Thực ra trong Thiền môn nhật tụng cổ xưa đã ghi rõ:

- Ngày 19/2 là vía QUÁN THẾ ÂM ĐẢN SANH.

- Ngày 19/6 là vía QUÁN THẾ ÂM THÀNH ĐẠO.

- Ngày 19/9 là vía QUÁN THẾ ÂM XUẤT GIA.

Mong rằng bài viết nầy sẽ đem đến cho quý độc giả niềm tin chân chính và thành khẩn, luôn luôn tưởng niệm đến danh hiệu QUÁN THẾ ÂM BỔ TÁT, để được giao cảm hằng thường với Bồ Tát, dù tai họa đến đâu HỮU CẦU TẮC ỨNG (như trường hợp bà Ấm). Hãy chánh tín. Lời nói của Chư Phật không bao giờ hư dối.

Hoà Thượng Thích Huyền Tôn



Thanked by 2 Members:

#784 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 01/06/2014 - 04:42

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Thanked by 1 Member:

#785 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 01/07/2014 - 04:37

1. BỒ TÁT QUÁN ÂM CHỌN ĐẠO TRÀNG

Sau khi triều bái đức Phật ở Tây phương về, Quán Âm Đại sĩ muốn tìm một chỗ lập đạo tràng để truyền kinh thuyết pháp. Nga Mi Sơn đã có Phổ Hiền Bồ Tát nhanh chân lên trước, Ngũ Đài Sơn thì Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát tuyển dụng, Cửu Hoa Sơn đã có Địa Tạng Bồ Tát ngự trị; Bồ Tát Quán Âm nhất định tìm một thánh địa đủ đẹp để sánh tày với những đạo tràng kia mới nghe.

Hôm ấy, Bồ Tát Quán Âm bước lên đóa mây liên hoa, đến biển Đông Hải, từ trên không nhìn xuống thấy chi chít những quả núi hay hòn đảo với hình thù kỳ quái, giống như từng viên, từng viên ngọc phỉ thúy ẩn hiện trong một tấm thảm nhấp nhô sóng biếc ngàn trùng, quang cảnh quả thật là đẹp! Tuy nhiên, giữa hơn một ngàn hòn đảo ngọc, nên chọn đảo nào là thích hợp nhất?

Bồ Tát Quán Âm dùng trí huệ chọn tới chọn lui, thấy rằng đảo nào cũng được, nhưng lại hình như không có đảo nào hoàn mỹ cả. Ngài nghĩ, phải tìm một hòn đảo có đủ 100 đầu núi, thế mới xứng đáng được gọi là đất thánh cửa Phật.

Cuối cùng, ngài Quán Âm giáng đài sen xuống đỉnh cao nhất của ngọn Cù Sơn. Ngài thấy trên núi khói mây mù mịt, với những cây tùng xanh thẳng tắp, duới chân núi thì chập chùng sóng bạc trên một nền màu xanh ngọc bích, điểm thêm những cánh buồm màu vàng nghệ căng gió. Phong cảnh tú lệ như thế khiến ngài Quán Âm vô cùng đẹp lòng, thế là Ngài đi từ đông sang tây, từ nam lên bắc, và bắt đầu đếm đầu núi.

Thấy ngài Quán Âm làm như thế, Long Vương ở dưới biển Đông thấp thỏm lo sợ. Biển Đại Cù rộng lớn diễm lệ vốn là kho báu của Long Vương, làm sao có thể để cho ngài Quán Âm lập đạo tràng ngay bên cạnh kho báu của mình được!

Thế là Đông Hải Long Vương bèn nổi gió to, dậy sóng lớn, che lấp những đỉnh núi, phá rối khiến cho ngài Quán Âm đếm đi đếm lại mà đếm hoài không xong. Ngài Quán Âm hiểu rất rõ nguyên do, nhưng Ngài cũng không muốn tranh đua cao thấp với Long Vương nên mau mau rời đi chỗ khác. Về sau người ta đặt cho tên đỉnh núi cao ấy là “Quán Âm Sơn”.

Bồ Tát Quán Âm rời Cù Sơn, tiếp tục tiến tới phía trước tìm kiếm, đột nhiên thấy một hòn đảo nhỏ ngay dưới mắt mình, non xanh nước biếc, có những tảng đá linh ngạo nghễ đứng thẳng, thật là một nơi lý tưởng để thuyết pháp truyền kinh. Ngài lập tức thâu mây lành về, bước xuống đài sen ở địa điểm cao nhất của hòn đảo nhỏ, ngồi xếp bằng và cẩn thận đếm những đầu núi. Nhưng từ phải đếm sang trái, từ trái đếm trở về phải, đếm trọn một vòng rồi đếm tới đếm lui, mà cuối cùng vẫn chỉ có 99 đầu núi mà thôi!

Ngài Quán Âm vô cùng tiếc rẻ, quyến luyến không muốn rời, bước lên đài sen cưỡi mây lành đi. Từ trên tận mây cao quay đầu nhìn lại hòn đảo nhỏ, Ngài định thần đếm lại một lần nữa, thì lần này đếm được 100 đầu núi không dư không thiếu! Thì ra ban nãy Ngài không cẩn thận, quên đếm ngọn núi nơi mình đang ngồi! Ngài định quay trở lại, nhưng nghĩ rằng trên biển Đông có hơn một ngàn hòn đảo lớn nhỏ, lẽ nào lại chẳng có chỗ khác làm cho mình mãn ý hơn, nên hướng về phía đông tìm một ngôi Phật địa khác. Hòn đảo này dầu sao cũng được ngài Quán Âm dừng chân, nên người sau đặt tên là đảo Sóng Phật (Phật Ba Đảo).

Ngài Quán Âm rời đảo Sóng Phật, cưỡi mây liên hoa vừa bay vừa nhìn xuống, và cuối cùng đến Phổ Đà Sơn.

Nhìn chung thì thấy núi sông chầu mặt trời, trên núi sương mai lượn lờ, có những cây chương cổ thụ tỏa hương, có những dòng suối biếc róc rách, cát vàng óng ánh trải trên bờ biển. Ngài Quán Âm rất vừa ý, vội thâu mây lại bước xuống chỗ cao nhất của đảo. Lần này Ngài rất thận trọng, bắt đầu đếm từ ngọn núi dưới chân mình, đếm đi đếm lại mấy lần mà cuối cùng vẫn chỉ có 99 đầu núi mà thôi. Ngài nghĩ có thể cũng giống như lần trước mình đã quên đếm đầu núi ngay dưới chân mình chăng? Vì Ngài quá ưa thích hòn đảo này nên chẳng có tâm trí đâu để suy nghĩ kỹ, bèn cộng thêm đầu núi mình đang ngồi với 99 đầu núi kia, thế là gom vừa chẵn 100 đầu!

Ngài hài lòng cười lên, thế là Phổ Đà Sơn được Ngài tuyển chọn. Về sau, chùa chiền am miếu được cất trên đảo càng ngày càng nhiều, có một thời lên đến hơn 300 ngôi! Từ đó, Phổ Đà Sơn trở nên “Quán Âm Đạo Tràng, Hải Thiên Phật Quốc”.

Kỳ thật, Quán Âm Đại sĩ thừa biết rằng đảo Phổ Đà không có đến 99 đầu núi chứ đừng nói gì tới 100 đầu! Chỉ vì Ngài quá ưa thích hòn đảo nhỏ xinh đẹp đầy linh khí này nên mới ở lại, thế thôi!

Thanked by 3 Members:

#786 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 01/07/2014 - 06:57

2. QUÁN ÂM KHIÊU

Quán Âm Đại Sĩ ở núi Phổ Đà đọc kinh thuyết Pháp và tu thành Phật rồi, bèn đi đến Tây Phương Cực Lạc tham bái Như Lai. Mới đó mà 81 ngày đằng đẳng đã trôi qua.

Hôm ấy Ngài Quán Âm rời Lôi Âm Tự, bước lên đài sen, gió thổi mây bay đưa Ngài trở về đạo tràng của mình. Khi Ngài ở trên không nhìn xuống biển Liên Hoa thì thấy trên núi Phổ Đà có khí độc mịt mù, cây khô cằn, lá vàng úa. Thắng cảnh Nam Hải ngày xưa tươi đẹp bao nhiêu thì nay đã trở thành một ngọn núi trọc, bao bọc bằng một màn chướng khí dày đặc.

Ban đầu, Ngài không thấy rõ ràng nguyên nhân của sự thay đổi ấy, bèn đáp xuống núi Lạc Ca.

Thì ra trong 81 ngày mà Ngài Quán Âm đã vắng mặt để lên Tây Phương Cực Lạc tham bái Như Lai thì ở cõi trần gian, thời gian ấy dài bằng mấy trăm năm. Trong thời gian đó, có một con rắn lửa đã thành tinh (Hồng Xà Tinh) từ động Vân Vụ của đảo Đông Phúc đến chiếm cứ Phổ Đà sơn, và tự xưng mình là Xà vương.

Hồng Xà Tinh này thân đỏ như lửa, mắt như hai ngọn đèn pha, miệng thì như cái thúng lúa. Nó chỉ ngáp một cái là toàn đảo nồng nặc chướng khí đen nghịt. Hắn còn thích du ngoạn đó đây trong đảo để giết hại sinh linh.

Ngày hôm sau, Ngài Quán Âm đi tìm con xà tinh, thì thấy từ xa có một người đàn ông mặt đỏ từ động Phạm Âm bước ra. Người đàn ông này tiến đến trước mặt Ngài Quán Âm, dùng giọng thô lỗ mà hỏi: “Ê, ngươi đến đảo rắn để làm gì?”

Thấy thái độ của hắn như thế, Ngài Quán Âm biết ngay đây là hóa thân của Hồng Xà Tinh, bèn nhẫn nại thi lễ và hỏi:

– Ông hẳn là xà tiên rồi! Tại sao lại đến chiếm Phật môn thánh địa của ta, rồi còn làm hại sinh linh nữa?

Xà tinh trợn mắt, gầm lên:

– Ta ở trên đảo này đã hơn mấy trăm năm, sao lại dám nói ta chiếm đất Phật của ngươi?

Quán Âm thấy hắn lộ tướng hung dữ, giọng điệu ngạo mạn, biết rằng không thể nói phải trái cho hắn nghe được. Ngài nghĩ: “Con xà tinh này nóng nảy lỗ mãng, sao ta không dùng chút mưu kế để bắt hắn thần phục?” Nghĩ thế rồi, Ngài Quán Âm mới dùng lời nhã nhặn mà nói:

– Nguyên quán của ông vốn ở động Vân Vụ, bây giờ lại đến Phổ Đà sơn, chiếm cứ hai nơi như thế có ích gì? Thôi bây giờ xin ông phương tiện cho tôi mượn Phổ Đà sơn để dựng chùa thuyết pháp, được không?

Hồng Xà tinh thấy thái độ hòa nhã của Ngài Quán Âm, nghĩ rằng mình có thể tự tung tự tác, bèn nói:

– Vụ mượn núi thì có thể điều đình với nhau được, nhưng chỉ được mượn trong một thời gian ngắn thôi, không được mượn lâu.

– Không mượn lâu, không mượn lâu!

– Vậy thì mượn bao giờ trả?

Ngài Quán Âm cười:

– Bao giờ không còn tiếng mõ trên núi Phổ Đà, và sóng không còn vỗ trên bãi cát Thiên Bộ Sa thì ta sẽ trao trả đảo lại cho ông.

Con Xà Tinh nghe thế đùng đùng nổi giận: Thế mà dám nói là mượn, rõ ràng muốn chiếm đảo rắn của ta đây mà!

– Không cho mượn! Không cho mượn! Ngươi hãy đi khỏi núi Lạc Ca này mau lên!

Nói xong hắn quay mình bỏ đi. Nhưng Ngài Quán Âm đâu chịu bỏ cuộc, Ngài vội chận Hồng Xà Tinh lại, hỏi:

– Không lẽ núi Lạc Ca cũng là của ông luôn sao?

Hồng Xà Tinh trả lời:

– Thì từ trước tới giờ Phổ Đà Lạc Ca vốn là một ngọn núi, bộ ngươi không biết sao?

Ngài Quán Âm thấy Hồng Xà Tinh nổi giận, cố ý trêu tức thêm:

– Ông luôn miệng nói Phổ Đà sơn là của ông, vậy ông lấy gì làm chứng?

Hồng Xà Tinh dương dương tự đắc trả lời:

– Tại vì chân thân của ta có thể quấn đảo này đúng một vòng.

Ngài Quán Âm nắm lấy cơ hội, tiến đến một bước nói khích:

– Thân ông dài chừng ấy sao? Ta không tin, ông thử quấn một vòng cho ta xem!

Con Hồng Xà Tinh muốn phô trương bản lĩnh của mình, không hề thấy dụng ý của Ngài Quán Âm, bèn rùng mình một cái, biến thành một con rắn thật to. Trong nháy mắt, hắn giãn thân ra càng lúc càng dài, ven theo chân núi ngoằn ngoèo khúc khuỷu làm một vòng chu vi của núi Phổ Đà, không bao lâu thì đầu đuôi của hắn tiếp giáp với nhau. Ngài Quán Âm nhẹ nhàng dùng chân đạp xuống một cái, khiến núi Lạc Ca tách ra khỏi Phổ Đà thật xa. Từ đó Phổ Đà và Lạc Ca trở thành hai ngọn núi khác nhau.

Chờ Hồng Xà Tinh dùng thân quấn xong một vòng Phổ Đà sơn, đầu đuôi gặp nhau rồi, Ngài Quán Âm đứng trên núi Lạc Ca cất tiếng cười khanh khách, nói với Hồng Xà Tinh rằng:

– Ông nói Phổ Đà và Lạc Ca chỉ là một ngọn núi, sao ông quấn một vòng Phổ Đà mà chưa quấn tới Lạc Ca?

Hồng Xà Tinh ngóc đầu lên nhìn, quả nhiên thấy núi Lạc Ca rất xa núi Phổ Đà, biết mình đã bị mắc mưu, không phục mà nói:

– Không tính, không tính, để ta quấn lại một vòng!

Ngài Quán Âm đưa ra một cái bát bằng vàng:

– Không cần ông quấn một vòng núi Phổ Đà Lạc Ca nữa. Nếu ông có thể quấn một vòng cái bát bằng vàng này, thì ta nhường Phổ Đà sơn cho ông đó.

Hồng Xà Tinh nhìn cái bát vàng, nói một cách khinh miệt:

– Chuyện đó có khó gì?

Nói xong hắn lại biến thành một con rắn lửa. Chỉ thấy con rắn lăn một vòng trên mặt đất, sột soạt một tiếng, thân hắn co nhỏ lại dần, rồi nhẹ nhàng tung người lên cuộn trên miệng bát một vòng. Ngài Quán Âm lợi dụng thời cơ lấy ngón tay khẽ búng, Hồng Xà Tinh rơi vào bát cái “bộp”, rồi dùng tay đậy miệng bát lại khiến con rắn không còn hơi để thở, hổn hển luôn miệng kêu cứu:

– Quán Âm Đại sĩ tha mạng! Đại sĩ tha mạng!

Ngài Quán Âm suy nghĩ một lúc rồi nói:

– Được, tha cho ngươi một con đường sống, nhưng ngươi hãy trở về động Vân Vụ.

Nói xong Ngài thả Hồng Xà Tinh xuống biển. Hồng Xà Tinh lại cầu xin:

– Động Vân Vụ đã không có mây cũng không có sương mù, lại hoang vu, một năm bốn mùa mặt trời như thiêu như đốt, thật khó cho tôi nương náu. Xin Đại Sĩ cho tôi ở chỗ khác!

Ngài Quán Âm thuận tay bẻ một đóa hoa sen, tung lên không trung, đóa sen biến thành một áng mây hình hoa sen. Ngài nói với hồng xà:

– Ngươi mà biết cải tà quy chính thì áng mây hình hoa sen này sẽ che nắng cho ngươi hoài. Còn nếu làm ác trở lại, ta sẽ không dung thứ!

Hồng Xà Tinh khấu đầu bái tạ, theo áng mây mà trở về động Vân Vụ. Cho đến nay, áng mây hình hoa sen này vẫn còn lãng đãng trên nền trời của động Vân Vụ!

Ngài Quán Âm đuổi được con rắn lửa rồi, bèn tung người lên nhảy từ núi Lạc Ca đáp xuống núi Phổ Đà. Trên tảng đá mà Ngài đáp xuống, hiện nay còn lưu lại một dấu chân thật sâu đậm, mọi người gọi tảng đá đó là “Quán Âm Khiêu”.

Thanked by 1 Member:
A88

#787 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 01/07/2014 - 08:34

3. LONG NỮ BÁI QUÁN ÂM

Trong những hình tượng của Quán Âm đại sĩ, thường có một cặp đồng nam đồng nữ đứng hai bên. Đồng nam tên là Thiện Tài, đồng nữ tên là Long Nữ.

Long Nữ vốn là con gái út của Long Vương ở biển Đông Hải, xinh xắn thông minh, được Long Vương cưng chìu hết mực. Một hôm, Long Nữ nghe nói ở nhân gian có lễ rước đèn rất nhiệt náo, cô bèn nằng nặc đòi đi xem.

Long Vương lắc đầu, bộ râu rồng rung rung:

– Chỗ ấy đất lạ, người lại hỗn tạp, con là công chúa rồng, không thể đến nơi ấy.

Long Nữ hết nhõng nhẽo đến giả bộ khóc lóc, nhưng Long Vương vẫn không nhường. Cô bé chu chiếc miệng nhỏ xíu nghĩ thầm: “Phụ vương không cho phép, nhưng con vẫn cứ đi!”

Vào canh hai, Long Nữ lẻn ra khỏi Thủy tinh cung không một tiếng động, biến thành một cô gái đánh cá xinh đẹp, bước lên ánh trăng thênh thang hướng đến chỗ rước đèn náo nhiệt kia.

Đó là một thị trấn chuyên nghề đánh cá, ở ngoài đường đèn lồng vô số kể! Có đèn con tôm, đèn con cua, đèn con sò, đèn con ốc biển và cả đèn san hô nữa. Long Nữ hết quay qua bên phải nhìn xong quay qua bên trái ngắm, càng nhìn càng ngắm càng vui thích.

Tại một ngã tư đường, cô nhìn thấy hết đèn con cá này tới đèn con cá khác, hết núi đèn này tới núi đèn khác, muôn màu muôn sắc, sáng rực chói lọi, thật là hứng thú nên cô đứng trước một ngọn núi đèn mà ngắm nghía một cách say mê, xuất thần.

Lúc ấy, từ một cái lầu cao bên đường, có người hắt xuống nửa chén trà lạnh. Nước trà quái ác không hắt xuống bên này hay bên kia, mà lại nhắm đúng đầu của Long Nữ mà hắt xuống. Long Nữ giật bắn người la oai oái! Số là, một khi công chúa rồng biến thành một thiếu nữ, nếu chạm phải nước thì phải hiện lại nguyên hình. Lòng cô nóng như lửa đốt, sợ rằng giữa đường mà hiện tướng rồng thì mưa to gió lớn sẽ nổi lên, các ngọn đèn lồng muôn màu muôn sắc sẽ bị hư hoại hết. Vì thế, không đếm xỉa tới gì khác nữa, cô gắng sức lách ra khỏi đám đông chạy về phía bờ biển. Vừa tới bãi cát, có tiếng “phù phù” vang lên, và Long Nữ lập tức biến thành một con cá rất lớn, nằm sõng soài trên cát, vô phương động đậy.

Không bao lâu sau, có một anh ngư phủ đến bãi cát, thấy con cá to lớn toàn thân vẩy màu vàng kim óng ánh, liền bắt lấy vác ra chợ rao bán.

Chiều hôm ấy, đang ngồi chơi trong rừng trúc tím, Quán Âm đại sĩ nhìn thấy rõ ràng những gì đã xảy ra ở thị trấn kia nên khởi từ bi tâm. Ngài nói với Thiện Tài đứng bên cạnh:

– Con hãy mau đến thị trấn đánh cá mua một con cá lớn, đem ra biển phóng sinh.

Thiện Tài khấu đầu bạch:

– Bồ Tát ơi, đệ tử lấy đâu ra tiền mà mua cá?

Quán Âm bật cười, dạy:

– Con bốc một nắm tro trong lư hương là được.

Thiện Tài gật đầu, vội vàng chạy về Quán Âm viện bốc một nắm tro, bước lên một đóa hoa sen và vun vút lướt như bay về phía thị trấn đánh cá.

Lúc ấy anh chàng ngư phủ kia đã vác cá ra đến đường cái rồi, mượn một cái rìu sửa soạn chặt đầu cá để bán lẻ. Đột nhiên trong số người đang vây quanh nhìn, có một cậu bé chỉ vào mắt con cá mà kêu lên:

– Con cá đang khóc kìa! Con cá khóc!

Mọi người nhìn kỹ, quả nhiên từ đôi mắt cá tuôn xuống hai hàng lệ châu lóng lánh. Điều ấy khiến cho người nhìn phải kinh ngạc và cảm động, có người cho là kỳ quái, có người thì tán thán, tiếng bình luận lao xao nổi lên tứ phía.

Anh chàng ngư phủ sợ rằng của trên trời rơi xuống mà mình mới nhặt được sẽ biến thành mây khói, bèn vội vàng vung chiếc rìu lên toan chém xuống, thì đột nhiên từ phía sau lưng có tiếng người kêu lên:

– Đừng chặt! Đừng chặt!

Người ta chỉ thấy một chú sa di nhỏ chạy đến vừa thở hổn hển vừa nói:

– Tôi muốn mua con cá này!

Vừa nói chú vừa dúi một nắm bạc vào tay anh chàng ngư phủ, và luôn miệng hối anh ta vác cá ra bờ biển trở lại. Anh chàng ngư phủ vui mừng thầm nghĩ:

– Đúng là tiền lời, số ta hôm nay hên quá! Ta vác cá ra bờ biển, rồi biết đâu khi chú tiểu quay lưng đi, cá lại rơi vào tay ta trở lại như trước!

Anh chàng ta vác cá đi theo chú tiểu ra bờ biển và thả cá xuống nước. Con cá vừa chạm nước biển thì lập tức quẫy mình khiến bụi nước bắn tung lên và bơi ra thật xa, thật xa. Ra tới ngoài khơi rồi, cá mới quay mình lại hướng về phía chú tiểu mà gật đầu, rồi biến mất trong nháy mắt.

Anh chàng ngư phủ thấy cá đã bơi ra xa rồi mới bỏ ý nghĩ bắt cá lại kiếm chác, bèn móc túi lấy bạc ra đếm. Nào ngờ mới mở lòng bàn tay ra thì bạc kia liền biến thành tro nhang! Hắn quay đầu lại tìm chú tiểu, nhưng chú tiểu cũng đã cao bay xa chạy rồi!

Trở lại Long cung, từ khi khám phá công chúa nhỏ đã biến mất, cung trong cung ngoài gì cũng đều loạn lên như cái tổ ong. Long Vương giận đến nỗi râu rồng dựng đứng, Thừa tướng rùa cuống quýt duỗi đầu cổ ra thật dài, Tướng quân sò giữ cửa sợ đến nỗi phun bọt trắng loạn xạ, và các cung nữ tôm ngọc cứ khom lưng mà run lẩy bẩy… Cứ thế mà hỗn loạn cho tới khi trời sáng, Long Nữ về tới Thủy tinh cung, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm!

Long Vương tức giận vì con gái út tự tiện đi ra ngoài, vi phạm quy luật của cung đình, hầm hầm mắng cô một trận rồi còn nghĩ rằng: “Chuyện này mà đến tai Ngọc Hoàng Thượng Đế thì thế nào cái tội ‘dạy con gái không nghiêm’ cũng sẽ rơi lên đầu”. Trong cơn tức giận, Long Vương đang tâm đuổi con gái ra khỏi thủy tinh cung!

Long Nữ đau khổ cùng cực, biển Đông mang mang, biết đâu là chỗ dung thân? Cô khóc tức tưởi, bơi đến biển Liên Hoa. Tiếng khóc của cô vọng đến rừng trúc tím, Bồ Tát Quán Âm nghe thấy biết ngay là Long Nữ đã đến, bèn sai Thiện Tài đi đón Long Nữ về. Thiện Tài tung tăng nhảy nhót đến trước mặt Long Nữ hỏi:

– Long Nữ muội muội, có nhận ra chú tiểu hôm nọ không?

Long Nữ vội vàng chùi nước mắt, đỏ mặt nói:

– Huynh là ân nhân cứu mệnh tiểu muội, làm sao tiểu muội không nhận ra được?

Nói xong liền khấu đầu lễ. Thiện Tài đưa tay kéo Long Nữ dậy:

– Đi, chúng ta đi, Bồ Tát Quán Âm bảo huynh đi đón muội về!

Thiện Tài và Long Nữ nắm tay nhau chạy về rừng trúc tím. Long Nữ thấy Bồ Tát Quán Âm đoan tọa trên tòa sen, liền sụp xuống lễ.

Bồ Tát Quán Âm rất mến thương Long Nữ, nên để cho hai anh em ở chung trong động đá Triều Âm cách đấy không xa. Về sau, người ta gọi động đá này là “Thiện Tài Long Nữ động”.

#788 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 01/07/2014 - 09:56

4. CHỮ TÂM TRÊN ĐÁ(hay QUÁN ÂM ĐỘ THIỆN TÀI)

Từ nhỏ, Thiện Tài là đứa trẻ không cha không mẹ, sống rất khổ sở, phải gánh nước đi bán mà sống. Cậu nghèo thật là nghèo, nghèo đến nỗi không có lấy một cái thùng, mà phải lấy da trâu mỏng lót kín hai cái giỏ tre để đựng nước mà gánh.

Một hôm, Thiện Tài đến bờ giếng múc nước, bỗng nhiên nghe tiếng kêu ồm ồm:

– Thiện Tài! Bớ Thiện Tài!

Thiện Tài nhìn sang bên trái không thấy ai, nhìn sang bên phải cũng chẳng có bóng người. Cậu tưởng mình nghe lầm bèn gánh giỏ tre bỏ đi, nhưng không ngờ tiếng kêu lại vang lên nữa:

– Bớ Thiện Tài, tôi đang ở trong giếng đây! Cứu tôi với, tôi sẽ báo đáp cho cậu xứng đáng!

Thiện Tài là một đứa trẻ rất tốt bụng, nghe nói ở dưới giếng có người đang cần cậu cứu, bèn nhảy ùm xuống nước ngay. Cậu mở to mắt nhìn quanh, trong ánh sáng lung linh dưới đáy giếng cậu thấy có một khoảng trống rộng rãi nhưng chả thấy ai cả. Cậu mò bên trái, mò bên phải, giữa hai khe đá mới mò thấy một chiếc bình nhỏ bèn vớt lên, vặn nắp bình nhưng vặn hoài không ra, lắc thật mạnh thì không nghe gì cả, thì ra đó là một chiếc bình không. Cậu đập mạnh cho bể, “xoảng” một tiếng, từ trong bình bay ra một cụm mây đen như mực, cụm mây kết lại thành một người to lớn vạm vỡ, toàn thân đen như lọ nồi, nhảy ra trước mặt Thiện Tài nói lớn:

– Cậu đã cứu tôi ra khỏi bình!

Thiện Tài gật đầu:

– Đúng rồi.

Người ấy vội quỳ xuống đất, hướng về Thiện Tài mà lạy ba lạy. Thiện Tài vội ngăn lại:

– Đừng lạy! Đừng lạy! Ông là ai?

Gã đen khổng lồ nói:

– Tôi là Hắc xà tinh! Năm trăm năm về trước, Bồ Tát Quán Âm nhốt tôi trong bình và liệng bình xuống biển Liên Hoa. Ai ngờ biển Liên Hoa thông với đáy giếng này, nên sóng nước đã đẩy cái bình đến đây.

– Vậy sao, thôi ông hãy đi đi! Tôi đi gánh nước đây!

Thiện Tài nói xong bèn đặt đòn gánh lên vai toan bỏ đi.

– Chờ một chút!

Thiện Tài ngoảnh đầu lại nhìn, thấy xà tinh lè cái lưỡi đỏ như máu ra như muốn ăn tươi nuốt sống cậu. Thiện Tài giật mình sợ hãi:

– Ông muốn gì?

Xà tinh đáp:

– Ta bị nhốt trong bình suốt 500 năm không ăn không uống, bây giờ đói muốn chết đây! Mi đã làm ơn thì làm ơn cho trót, hãy để cho ta ăn thịt mi đi!

Thiện Tài thu hết can đảm đáp:

– Hồi nãy ông nói sẽ báo đáp cho tôi xứng đáng, tại sao đã không giữ lời còn muốn ăn thịt tôi?

Xà tinh nói một cách đắc ý:

– Mi phải biết, “lấy oán báo ơn” là cách đền ơn xứng đáng nhất.

Thiện Tài phẫn nộ nói:

– Nói bậy, thiên hạ đâu có cái loại lý lẽ gì kỳ cục vậy!

Xà tinh ngước mặt lên trời cười ha hả. Tiếng cười của hắn làm cho cuồng phong nổi lên, gió thổi cây đổ nhà sập, thổi luôn Thiện Tài ngã nhào xuống đất khiến cậu sợ hãi tê điếng cả người. Xà tinh trợn trừng mắt, há miệng thật to, tiến từng bước, từng bước đến gần Thiện Tài nói:

– Đói thì muốn ăn thịt người là một lẽ phải, hiểu chưa? Mi sắp sửa chết rồi, còn gì nói nữa không?

Thiện Tài từ dưới đất lồm cồm bò dậy, lại thu hết can đảm mà nói:

– Chết thì phải chết cho chính đáng, ăn cũng phải ăn cho có lý. Ta phải đi tìm người làm trọng tài phân xử xem lý của ai đúng.

Xà tinh nghĩ: “Trước sau gì ta cũng ăn thịt mi, muốn phân xử thì phân xử!”. Thế là cả hai cùng đi tìm người phân xử.

Cả hai đi vòng qua một lối rẽ, vượt qua một con đường núi, đi hoài đi mãi. Đột nhiên, từ dưới chân núi vọng lên tiếng cãi cọ. Thiện Tài chạy xuống dốc núi nhìn, thì ra có một ông lão đứng dưới một gốc cây, tay cầm rìu, dáng vẻ giận dữ. Thiện Tài chạy đến hỏi:

– Thưa cụ, cụ đang làm gì thế?

– Cây không ra quả nữa thì chặt phứt đi làm củi đốt lửa chứ để làm gì!

Thiện Tài nhìn xung quanh, chỉ thấy có mỗi một mình ông lão, bèn hỏi:

– Thưa cụ, hồi nãy cụ cãi lộn với ai vậy?

Ông lão đáp:

– Ta muốn đốn cây mà cây không cho ta đốn, nên ta cãi lộn với cây.

Cây ăn quả đột nhiên nói:

– Lúc tôi còn trẻ, tôi cho quả đầy cây, quả vừa thơm vừa ngọt, ông ta ăn không hết còn đem bán lấy được nhiều tiền. Bây giờ ông ta chê tôi già, không ra quả nhiều nữa nên đòi đốn tôi đi, cậu nghĩ xem lý lẽ gì lạ vậy?

Ông lão nói:

– Cây do ta trồng, ta muốn đốn thì đốn, đó mới chính là lẽ phải!

Cây ăn quả không đồng ý, trả lời:

– Đó là ông lấy oán báo ân!

– Lấy oán báo ân thì đã sao, ta cứ đốn!

Ông lão nói xong vung rìu lên, “ầm” một tiếng, cây ăn quả bị đốn ngã xuống đất. Xà tinh thấy thế vui quá cười lên ha hả, nói với Thiện Tài:

– Mi nghe thấy chưa? Lấy oán báo ân mới là lẽ phải, bây giờ mi chịu thua rồi chứ?

Thiện Tài vội vàng nói:

– Khoan đã, khoan đã, người thì nói có lý, người thì nói vô lý. Có lý hay vô lý đều chưa rõ rệt, chúng ta phải tìm một người khác phân xử.

Xà tinh nói:

– Dù sao mi cũng không thoát khỏi tay ta, muốn kiếm người phân xử nữa thì cứ kiếm!

Thế là cả hai lại đi tiếp. Ra khỏi rừng cây ăn trái, đi hoài, đi mãi, đi tới một bờ sông nhỏ, thấy một con ếch xanh rất lớn nổi trên mặt nước, miệng kêu “oa, oa”. Thiện Tài vội vàng chạy đến bờ sông, kể lại mọi sự cho ếch nghe, nhờ ếch phân xử xem đâu là lẽ phải.

Con ếch nghe xong, “bịch” một tiếng nhảy lên bờ, nhìn hắc khổng lồ đứng sau lưng Thiện Tài rồi ra sức mà kêu to:

– Bớ xà tinh! Ăn hiền gặp lành, ăn ác gặp ác, nếu còn làm ác, họa giáng lên đầu!

Xà tinh nghe vậy giận đùng đùng lòi cả hai con mắt ra ngoài, gầm lên rằng:

– Con ếch nhỏ mọn kia, đừng có nói bậy! Mi tài giỏi bao nhiêu mà dám dạy đời ta? Coi chừng ta ăn thịt mi trước bây giờ!

Thiện Tài vội vàng chen vào giữa ngăn lại:

– Đừng! Đừng! Đừng giận cá chém thớt rồi đòi ăn thịt ếch!

Xà tinh đẩy Thiện Tài ra, tiến lại phía con ếch một cách hung tợn. Con ếch bay lên trời rồi “bõm” một tiếng, lặn xuống đáy sông mất hút. Xà tinh không bắt được con ếch thì giận dữ vô cùng, trợn trừng đôi mắt đỏ ngầu như máu, mở miệng toác hoác bày răng nanh ra, cười gằn:

– Thiện Tài ơi, mi còn nói gì nữa thì nói đi, để ta ăn thịt mi cho rồi!

Thiện Tài sợ quá vội vắt giò lên cổ mà chạy trốn. Thiện Tài chạy, Xà tinh đuổi, thấy như sắp bắt kịp rồi. Nào ngờ không biết từ đâu xuất hiện ra một cô gái nhỏ xông ra che chở cho Thiện Tài. Thiện Tài thấy cô, vội vàng đem mọi sự kể lại nhờ cô phân xử. Cô gái nhìn Xà tinh từ đầu tới chân rồi lắc đầu nói:

– Tôi không tin. Một cậu bé con như thế làm gì cứu nổi một vị khổng lồ như ông từ giếng lên?

Xà tinh vội vàng biện hộ:

– Thật mà, thật mà! Năm trăm năm trước Bồ Tát Quán Âm trách tôi tàn hại sinh linh, vi phạm giới luật của Phật nên nhốt tôi trong một cái bình nhỏ.

Cô gái cười vang:

– Tính ác của ngươi không chừa, bộ không sợ Bồ Tát Quán Âm phạt ngươi một lần nữa hay sao?

Xà tinh lắc đầu:

– Bồ Tát Quán Âm ở tận Nam Hải Phổ Đà xa lắc, làm sao biết được mà phạt!

Cô gái lấy một chiếc bình nhỏ ra, để trong lòng bàn tay. Xà tinh nhìn thấy giật mình kinh hoàng:

– Á! Tịnh bình!

Đột nhiên, cả vạn tia sáng bắn ra, từng áng, từng áng mây lành kết lại, cô gái nhỏ biến thành Bồ Tát Quán Âm. Xà tinh thấy tình thế không ổn bèn vội vàng biến thành một cụm mây đen bay lên không trung mà trốn. Ngài Quán Âm đưa tay lên, tịnh bình bèn cưỡi một áng mây ngũ sắc bay lên đuổi theo. Mây đen chạy, mây ngũ sắc đuổi, đấu pháp với nhau trong không trung tưng bừng. Từ từ, mây đen chống đỡ không lại, biến thành một làn khói xanh, phất phơ phất phới chui vào trong tịnh bình.

Ngài Quán Âm thâu tịnh bình về, nói với Thiện Tài rằng:

– Tuy con là người hiền lành nhưng xem ra con không biết phân biệt người thiện với người ác, thôi con hãy theo ta về núi Phổ Đà mà tu tập nhé!

Thiện Tài mừng khấp khởi, quỳ xuống đất liên tục dập đầu bái tạ…. và từ đó trở thành Thiện Tài đồng tử.

Ngài Quán Âm trở về Phổ Đà Sơn, nhốt hắc xà tinh đưới một tảng núi đá ở Tây thiên. Con ếch xanh thấy vậy bèn nhảy “phóc, phóc” đến gần xà tinh kêu “oa, oa” để thử tâm xà tinh.

Cho đến nay xà tinh vẫn còn bị giam ở dưới chân núi đá, chỉ còn có thể nghểnh dài cổ ra, nhìn con ếch xanh ngóc đầu ưỡn ngực một cách hằn học nhưng không dám làm điều chi xằng bậy.

Về sau có người khắc một chữ “tâm” thật lớn trên tảng đá ở đằng trước đầu rắn, đó chính là “Tâm tự thạch”, ý nghĩa là “tâm Phật, tâm rắn, thiện ác phân minh”.

#789 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 01/07/2014 - 10:34

5. QUÁN ÂM ĐỘ VI ĐÀ

Vi Đà là một vị thiên tướng hộ Pháp của Phật giáo. Tương truyền rằng ngài là một trong 8 vị đại thần tướng của Nam phương Tăng Trưởng Đại Thiên Vương, một trong bốn Đại Thiên Vương, và là người đứng đầu 32 vị thần tướng thuộc quyền của bốn Đại Thiên Vương.

Tượng của ngài thường ở dưới dạng một người trai trẻ, thân mang áo giáp mũ sắt, hoặc một tay án chày kim cương, hoặc hai tay nâng chày lên, đứng trong điện Thiên Vương đâu lưng với Phật Di Lặc và đối diện với Phật Thích Ca Mâu Ni.

Tại sao Vi Đà lại được thờ ở Thiên Vương Điện, đâu lưng với Phật Di Lặc và đối diện với Phật Thích Ca?

Đó là vì ngài đã từng lập công trạng rất lớn trong việc diệt giặc bảo hộ Phật Pháp. Vi Đà, trong thánh điển Phật giáo còn được gọi là “Thần Hành Thái Bảo”, vì ngài nổi danh là có tài đi như bay. Tương truyền lúc Như Lai nhập Niết-bàn, có một con quỷ mệnh danh là “nhanh như chớp” đến trộm hai cái răng của Phật rồi chạy mất. Vi Đà cấp tốc đuổi theo, không lâu sau bắt kịp tên cướp, lấy lại răng Phật. Từ đó, Vi Đà trở nên một vị thần hộ pháp nổi danh.

Lúc còn trẻ, Vi Đà là một chàng trai anh tuấn, uy phong lẫm lẫm, ăn mặc như một võ tướng nên được tạo tượng khá giống các dũng tướng Trung Quốc như Triệu Vân, Mã Siêu... Vi Đà cũng là hộ pháp của Bồ Tát Quán Âm, nếu ngài tu thành chính quả cũng là nhờ sự giáo hóa của Bồ Tát vậy.

Hồi xưa, Vi Đà là một chàng thanh niên sống ở nông thôn, ven bờ sông Lạc Dương, thuộc phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến.

Cậu là người siêng năng, lanh lẹ và tốt bụng, thông minh tài giỏi, nổi tiếng là một người thợ khéo trong vùng. Nhà cậu ở bên bờ sông Lạc Dương. Sông này rất rộng, nước chảy xiết, vì không có cầu bắc ngang nên dân chúng hai bên bờ qua lại rất gian nan, phải lệ thuộc vào những chiếc thuyền chở khách. Bởi vì nước chảy xiết và trũng nước xoáy lại nhiều, lúc trời tốt qua sông đã không an toàn mà khi mưa to sóng lớn hay bão bùng thì lại càng nguy hiểm hơn nữa, nên nạn lật thuyền rất thường xảy ra, người táng thân vào bụng cá cũng không phải là ít.

Vi Đà đã bao lần chính mắt trông thấy những thảm cảnh lật tàu như thế, bèn lập nguyện xây một cây cầu bắc ngang sông, nên trong mấy năm trời ngày bán giày cỏ, đêm đi đập đá để dành từng đồng từng cắc. Lúc cậu sắp sửa xây cầu thì Bồ Tát Quán Âm vân du ở phủ Tuyền Châu, và Ngài có một đoạn nhân duyên với Vi Đà từ đó.

Mùa xuân năm ấy, một hôm Bồ Tát Quán Âm tay cầm tịnh bình, chân đạp mây lành, đứng trên không trung nhìn xuống sông Lạc Dương, bỗng nhiên nghe vọng lên tiếng la khóc cầu cứu. Ngài cúi xuống, thấy dưới chân mình có dòng sông lớn cuồn cuộn trào dâng, một ông lão lái đò đang chèo thuyền sang sông và chiếc thuyền đang bị dòng nước xiết kéo tới một con nước xoáy. Ông lái thuyền cuống cuồng chống đỡ nhưng chiếc thuyền bị con nước xoáy làm cho quay mòng mòng, dường như sắp sửa bị lật, hành khách trên thuyền kinh hoảng trăm bề, đàn bà trẻ con khóc la thảm thiết, tiếng kêu cầu thấu tới mây xanh và tới tai ngài Quán Âm.

Bồ Tát Quán Âm đại từ đại bi vội lấy nhành dương liễu từ tịnh bình ra, ném xuống chiếc thuyền đang lâm nạn trên mặt biển, thi thố thần lực áp cho sóng lặng xuống. Dòng nước giận dữ đang làm cho ba đào cuộn dâng, nước xoáy trũng sâu đang làm cho con thuyền lắc lư nghiêng ngửa bỗng tự nhiên bình lặng hiền hoà, con thuyền nhờ thế được thoát cơn hiểm nạn.

Dĩ nhiên, ông lái thuyền không biết mình đã được Bồ Tát Quán Âm cứu giúp, thấy con thuyền không còn tròng trành xoay vần và thoát ra khỏi con nước xoáy thì thở hổn hển, phần thì mừng rỡ, phần thì cố lấy lại can đảm để chèo nốt con thuyền đến bờ đối diện. Khách trên thuyền ai cũng tự cảm thấy mình đã may mắn thoát chết, và nhớ lại cảnh nguy hiểm vừa trải qua, ai cũng rùng mình rởn ốc.

Hơn ai hết, ngài Quán Âm hiểu rõ những ý nghĩ, những mong cầu của chúng sinh, vì thế Ngài lập tức quyết định ra tay làm một điều lợi ích cho dân. Thế là Ngài hạ mây xuống, biến thành một cô gái chài lưới trẻ tuổi xinh đẹp, bước lên khoang nói chuyện với ông lão chèo thuyền, hỏi ông có thể chèo trở về bờ bên kia ngay không? Lúc đó, một vài người dân làng cũng vừa đến và muốn qua sông. Ông lão còn chưa lấy lại hồn vía, bảo rằng:

– Lúc nãy suýt nữa thuyền bị lật, thoát được hiểm là một điều may mắn không ngờ. Dòng sông này nước chảy quá mạnh, mỗi lần chèo thuyền tôi đều nơm nớp phập phồng. Nói thật, bây giờ tôi hãy còn quá sợ, không muốn chèo thuyền về bên kia nữa, nhỡ có chuyện gì xảy ra thì sao?

Dân làng gấp muốn qua sông, xuống nước năn nỉ:

– Ông lão ơi, ông không đưa thì chúng tôi làm sao về được? Ông là tay nghề lão luyện, ai cũng đặt tin tưởng vào ông, xin ông chịu phiền một chút giùm đi!

Ông lão lái thuyền không từ chối được, đành để cho Bồ Tát Quán Âm cùng một vài người dân làng bước lên thuyền, một lần nữa đưa mái chèo hướng bờ đối diện, một mặt nói:

– Quý vị không biết chèo thuyền trên con sông Lạc Dương này nguy hiểm tới mức nào đâu! Mười năm trở lại đây, ngày nào tôi cũng chèo thuyền, gặp không biết bao nhiêu là cảnh nguy hiểm, tạm cho là tôi cứng tay nghề nên may mắn, lần nào cũng từ cõi chết trở về được. Trên dòng sông này, tôi đã chính mắt thấy vô số con thuyền bị lật, vô số người chết chìm làm mồi cho cá. Tôi già rồi, không còn khoẻ nữa, trước sau gì tôi cũng sẽ phải bỏ thuyền bỏ lái thôi!

Bồ Tát Quán Âm bèn xen vào hỏi:

– Thưa cụ, sông này nước chảy xiết, xoáy nước nhiều, chèo thuyền quả thật nguy khốn, làm sao không xảy ra tai nạn cho được! Tại sao chúng ta không xây một chiếc cầu bắc ngang qua sông? Cháu từ xa tới, chỗ cháu ở, nếu có dòng sông nào nguy hiểm như thế này cũng đều có cầu bắc qua cả.

Ông lão lái thuyền thở dài lắc đầu, một khách đi thuyền tiếp lời, nói:

– Trăm họ ở đây trông mong xây một cái cầu từ lâu rồi, quan huyện cũng mấy lần công bố xây cầu, nay thì kêu gọi đóng góp tiền tài, mai thì yêu cầu đóng góp thóc gạo, năm nào cũng ra công bố nhưng mấy năm rồi, cầu đâu không thấy, chỉ thấy hầu bao của quan huyện mỗi năm mỗi phồng to lên thôi.

Ngài Quán Âm hỏi:

– Dân chúng tự mình đứng ra xây cầu không được sao?

Ông lão nghe thế, cười buồn mà rằng:

– Nói thì dễ, muốn xây cầu thì một là phải có tiền, hai là phải có thợ giỏi. Dân chúng làm gì có chừng đó tiền, và cũng làm gì có người đủ tài để đứng ra tổ chức một việc to lớn như thế. Tuy nhiên cách đây vài năm có một anh chàng tên là Vi Đà cũng đã từng đề cập tới việc xây cầu. Đó là một thanh niên có chí lớn, cũng là một tay thợ khéo nổi tiếng tài giỏi ở vùng này. Một hôm thấy tôi chèo thuyền quá nguy hiểm, cậu đã nói với tôi là nhất định sẽ xây cầu. Thế mà về sau lại không thấy cậu xuất hiện nữa. Có người nói cậu đang ở nhà để dành tiền chuẩn bị việc xây cầu, mấy năm nay không thấy động tĩnh, có lẽ cậu không để dành được tiền. Chuyện xây cầu thật không phải dễ!

Quán Âm nghe thế bất giác cảm thấy hoan hỉ, nghĩ rằng ở đây mà có một chàng trai trẻ tuổi như thế thật là hy hữu, có cùng một chí nguyện với mình, về sau giao cho anh ta đứng ra tổ chức việc xây cầu không phải là một điều thích hợp lắm hay sao?

Một người dân bình thường khó mà có thể trù liệu được cần phải có bao nhiêu tiền để xây cầu, muốn cho việc xây cầu này thành tựu thì chính Ngài phải đứng ra tìm biện pháp mới xong.

Lúc ấy thuyền đã cặp bến, những người dân làng đã lên bờ và chia tay nhau ai về nhà nấy, nhưng cô gái chài lưới không lên bờ mà còn ngồi lại trong thuyền, chìm trong suy nghĩ. Ông lão chèo thuyền cảm thấy kỳ lạ, bèn hỏi:

– Cô nương, sao cô không lên bờ?

– Thưa cụ, cô gái chài lưới đáp, cháu đang suy nghĩ tới việc xây cầu. Vừa rồi cụ nói có anh chàng gì đó quyết tâm xây cầu, thật là hy hữu. Nhưng anh ấy một mình kiếm tiền thì chắc cả đời kiếm cũng không đủ. Tại sao tất cả chúng ta không cùng tìm cách giúp đỡ anh ấy?

Ông lão lái thuyền đáp:

– Cách nào bây giờ, ở đây ai cũng nghèo khổ cả, còn những người tài chủ có tiền thì ai mà chịu cắt núm ruột của mình ra!

Cô gái chài lưới đáp:

– Cụ à, muốn tìm biện pháp thì không khó, cháu nghĩ trên sông này hễ chưa có cầu là còn có tai nạn, vì thế cháu muốn giúp một tay.

Ông lão chèo thuyền nghe thế cảm thấy kỳ lạ:

– Cô ư? Cô có biện pháp nào? Trừ phi nhà cô có tiền và muốn làm việc thiện.

Cô gái đáp:

– Nhà cháu không có tiền nhưng cháu có biện pháp. Chẳng hạn, mình có cách nào lấy tiền của nhà giàu không?

Ông lão lái thuyền đáp:

– Lấy tiền của nhà giàu? Nhà giàu đời nào để cho mình lấy tiền, cô thật khéo mơ tưởng viển vông.

Có gái dân chài nói:

– Cụ ơi, cháu có cách này nhưng cần cụ giúp đỡ. Nếu cụ chịu làm chung việc này với cháu thì mình có thể lấy tiền của nhà giàu được.

Nói xong cô gái tới gần thầm thì to nhỏ vào tai ông lão, khua tay múa chân ra dấu, còn ông lão thì cứ thế mà gật gù từ đầu tới cuối.

Cuối cùng ông nói:

– Được, vậy bắt đầu từ ngày mai chúng ta bắt đầu thi hành kế hoạch của cô.

Hôm sau, vừa vặn đúng ngày mồng ba tháng ba, đó là ngày hội đình chùa lớn nhất trong năm ở phủ Tuyền Châu. Dân chúng từ bốn phương tám hướng đổ dồn về dự hội, người đi người về thật là náo nhiệt.

Hôm ấy ông lão cũng chèo thuyền như mọi ngày nhưng hôm nay có điểm khác biệt là có một cô gái vô cùng xinh đẹp ngồi trong thuyền, còn ông lão thì cười tươi như hoa, thuyền không cập bến mà lại ngừng ở ngay chính giữa dòng sông.

Sông Lạc Dương rộng khoảng năm mươi thước, thuyền ở ngay giữa dòng sông tức là cách xa hai bên bờ khoảng hai mươi mấy thước. Ông lão lái đò cùng cô gái cứ ở giữa dòng sông như thế mà chuyện trò, không chịu đưa thuyền về bến. Người muốn qua sông cứ đứng hai bên bờ mà réo:

– Ông lão ơi, mau chèo thuyền rước khách, chúng tôi muốn qua sông đây!

Nhưng họ kêu mấy cũng mặc họ, ông lão không hề màng đến, vẫn bình an giữa dòng sông. Khách chờ thuyền càng ngày càng đông, ai cũng nhìn thấy chiếc thuyền của ông lái và ai cũng tò mò không biết ông muốn làm gì, và càng đông họ càng ồn ào. Nhất là khi họ thấy ngồi trên thuyền là cô gái chài lưới có một nhan sắc hơn người. Cô gái này thật sự lôi cuốn người ta, cô mặc một cái áo trên ngắn thêu hoa nhiều màu, dưới là chiếc váy màu xanh lá cây nhạt thanh nhã nổi lên trên cái quần màu đỏ sậm, đầu bới tóc cao, tai đeo khuyên bạc, khuôn mặt trái soan đoan trang diễm lệ, da trắng nõn mịn màng, mắt như nước hồ thu gợi tình, người nào nhìn cô cũng phải khen thầm là đẹp tuyệt.

Trong những người đứng nhìn, có một số là con nhà hào phú, họ nhìn cô gái mà hồn phách điên đảo, thần trí rối loạn. Người nào cũng kêu ầm lên:

– Ông lái ơi, mau trở về chèo thuyền qua sông!

Thấy người chờ càng ngày càng đông, ông lão mới đủng đỉnh đứng dậy nhìn hai bên bờ mà vừa chỉ cô gái dân chài mà nói:

– Các vị nghe đây, hôm nay tôi không chèo thuyền vì tôi có cô cháu tức là cô nương đây, đã đi từ mãi tận Tô Châu lên đến phủ Tuyền Châu này. Cháu tôi năm nay vừa chẵn đôi tám, muốn tìm một chàng trai có duyên có số với mình để gá nghĩa trăm năm. Từ ngày hôm nay trở đi, cháu tôi sẽ ngồi trên thuyền, nếu có chàng trai nào muốn cưới cô về làm vợ, bất kỳ là người nào, đều phải tham dự vào cuộc thi này. Điều kiện duy nhất là phải ném một đồng tiền đồng hay một đồng tiền bạc về phía cháu tôi, nếu ai ném trúng người cô ấy thì coi như có duyên có số với cô vậy. Tôi sẽ đứng đây làm trọng tài, mọi người làm chứng, tuyệt đối không nói sai lời.

Lão lái thuyền nói xong, mọi người mới vỡ lẽ ra. Những người trai trẻ trong đám đông hiểu đây là một cuộc thi ném bạc kén chồng. Họ nhìn có gái xinh đẹp, ai cũng nghe tim đập rộn ràng, tinh thần sung mãn, nhất là đám vương tôn công tử thì trở nên như điên như cuồng vậy. Đó là những người hiếu sắc và có tiền, họ thấy cô gái này đẹp hơn tất cả những cô gái khác mà họ đã từng gặp, nên ai cũng muốn ném tiền trúng người cô ấy để cưới cô về làm vợ, được như thế thì thật là tuyệt vời!

Cô gái ngồi trên chiếc thuyền đang bồng bềnh ngay giữa lòng sông, cách hai bên bờ không quá hai mươi mấy thước, nhìn thì thấy tợ như gần ngay bên cạnh, lo gì ném không trúng? Những vương tôn công tử, người nào cũng thèm rỏ dãi, sốt ruột, muốn chính mình là người đầu tiên ném trúng cô nương. Họ bèn lập tức lấy tiền đem theo tùy thân tranh nhau ném về phía cô gái. Trong chốc lát, những đồng tiền từ hai bên bờ sông bay tới khoang thuyền như mưa.

Tuy nhiên, lạ lùng thay, tuy bờ không xa và cô gái thấy gần như thể ở ngay bên cạnh, và chàng thanh niên nào cũng nhắm cô gái cẩn thận trước khi ném nhưng tiền cứ rơi lên thuyền, không có đồng nào trúng được người cô. Đám vương tôn công tử cảm thấy giống như đang ở trong một canh bạc, hễ hết tiền thì sai người hầu chạy về nhà lấy thêm. Họ cùng nhau tranh dành, cãi nhau chí choé, thi nhau mà ném từng giỏ, từng giỏ bạc vụn. Những đồng tiền ấy chỉ trượt bên cô gái trong đường tơ kẽ tóc, cho nên họ vừa hận vừa mừng, cho rằng ném lại một lần nữa thì chắc chắn thế nào cũng trúng. Và như thế, họ không ngừng thử ném trở lại, ném cho tới khi trời tối mà rốt cuộc vẫn chưa ai ném trúng được người đẹp.

Lúc ấy ông lão lái thuyền mới nói với mọi người là trời đã tối, không thể tiếp tục ném nữa, ngày mai hãy trở lại ném tiếp.

Chuyện kén chồng trên thuyền đã làm chấn động cả phủ Tuyền Châu, một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn ngàn. Ngày hôm sau, ông lão lại chèo thuyền ra giữa giòng sông, và cô gái chài lưới lại ngồi trên thuyền. Người ham vui đến xem càng lúc càng đông, chen lấn nhau ở bên này và bên kia bờ sông, trong ngoài chật ních. Hai bên bến phà huyên náo giống như một buổi hát xiệc. Những vương tôn công tử chiều qua không ném trúng cô nương nhưng vẫn chưa mất hy vọng, tiếp tục chuyển tiền tới, những anh chàng này tâm hồn hoàn toàn si mê điên đảo trước nhan sắc của tuyệt thế giai nhân nên tổn phí bao nhiêu cũng không tiếc, tiền họ ném có thể đong thành bồ, thành sọt vậy.

Cứ thế hai ngày liền mà vẫn chưa có ai ném trúng cô nương mà chỉ thấy những đồng tiền cứ rào rào rơi xuống bên cạnh cô xuống tới khoang thuyền.

Lúc Bồ Tát Quán Âm lập kế kiếm tiền bằng cách kén chồng ở giữa dòng sông, Vi Đà cũng nghe nói đến sự việc lạ lùng ấy nên cũng tìm đến xem khung cảnh huyên náo. Vi Đà là một chàng thanh niên trẻ tuổi, nhìn thấy cô gái chài lưới trên thuyền cũng bị nhan sắc tuyệt vời của mỹ nhân hớp hồn, nên cũng đứng ngây người ra nhìn người ngọc. Cậu thọc tay vào túi, trên thân cũng có vài đồng tiền. Tâm cậu bị chấn động nên cũng muốn chen vào ném, nhưng lập tức cậu đè nén ý muốn ấy, nghĩ rằng bao nhiêu đó người ném mà chưa ai ném trúng, mình không nên ném mấy đồng tiền một cách oan uổng, thì thôi nên bỏ ý nghĩ ấy đi.

Nhưng vừa vặn lúc ấy có Lữ Động Tân, một trong Bát Tiên, cũng vân du đến chỗ này. Ông nhìn thấy bên dưới người đông như kiến, không biết đang có chuyện gì nên đáp mây xuống lẫn lộn trong đám đông người chen vào xem. Ông biến thành một ông lão tóc trắng như bông, mới nhìn cô gái chài lưới trên thuyền liền biết ngay đó chính là Bồ Tát Quán Âm và hiểu ngay tự sự, nên rất ngầm thán phục phương pháp kiếm tiền của ngài Quán Âm, nhưng đồng thời không khỏi cảm thấy buồn cười, thầm nghĩ:

– Đại sĩ, Đại sĩ, thật đã khổ công tìm cách làm việc thiện để nghĩ ra một diệu kế như thế. Nhưng hôm nay tôi muốn làm cho Ngài phải xuất đầu lộ diện chơi. Ngài làm cho con em các nhà hào phú ném tiền một cách oan uổng, không ai có thể ném trúng Ngài, Ngài kén chồng như thế đủ để xây cầu rồi. Nếu không có chuyện gì xảy ra thì thật là toi công cho đám công tử thiếu gia kia quá, nên tôi muốn xem Ngài đối phó làm sao nếu phải làm vợ một kẻ phàm phu!

Lữ Động Tân bèn đưa mắt tìm một anh chàng thanh niên để giúp anh ta ném trúng cô gái chài lưới, làm khó dễ Bồ Tát Quán Âm xem sao! Khéo sao ông lại đứng ngay bên cạnh Vi Đà. Ông thấy anh chàng này phúc hậu lại chín chắn, chứ không phải loại công tử đẻ bọc điều kia, và ông cũng đã bắt gặp động tác móc tiền ra rồi lại bỏ vào của anh chàng. Ông nghĩ:

– Được rồi, Đại sĩ, tôi sẽ làm cho anh chàng này ném trúng Ngài, để xem Ngài làm sao?

Thế là ông vỗ vai Vi Đà, cười nói:

– Này cậu, cậu có muốn thử một chuyến không?

Vi Đà bị hỏi bèn đỏ bừng cả mặt, xấu hổ cúi đầu. Lữ Động Tân nói:

– Cậu không có gì phải xấu hổ, trai lớn phải có vợ, một tuyệt sắc giai nhân như thế đang kén chồng thì không nên bỏ qua cơ hội, biết đâu hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, cậu có duyên có phần với cô ấy thì sao?

Chàng thanh niên nhìn ông lão nói:

– Ông ơi, cháu cũng muốn thử chứ, nhưng nghĩ lại hai ngày vừa qua, biết bao nhiêu là vương tôn công tử ném không biết bao nhiêu là tiền mà ném không trúng, còn cháu chỉ có mấy đồng bạc trên thân, nếu đem ra ném thì chỉ có phí tiền thôi chứ làm sao trúng được. Hơn nữa, mấy năm vừa qua, cháu chỉ nghĩ tới có một điều mà thôi, đó là làm sao để dành tiền xây cầu. Tiền kiếm được hãy còn ít lắm, cháu không thể tự tiện nghĩ tới vấn đề lấy vợ của cá nhân mình mà đi tiêu phí những đồng tiền này.

Lữ Động Tân nghe thế cảm thấy rất mến anh chàng này và nghĩ thầm:

– Thì ra chàng trai trẻ này cùng có chung một ý nguyện với ngài Quán Âm, thật là hy hữu, hy hữu! Ta phải giúp cho anh chàng ném trúng Quán Âm Đại sĩ, phá Ngài chơi. Rồi khi nào Ngài biết được và có nổi giận thì cũng dễ gỡ thế bí bằng cách để cho anh chàng này giúp đỡ Ngài trong việc xây cầu là xong!

Nghĩ thế rồi Lữ Động Tân nói với Vi Đà:

– Này cậu, để tôi nói cho cậu biết tại sao cô nương này lại kén chồng. Cô kén chồng bằng cách này là cũng chỉ vì muốn kiếm tiền xây cầu, cậu và cô ấy đều có cùng một ý chí nên tôi nghĩ rằng cậu sẽ ném trúng. Đôi bên kết hôn rồi chung lưng sát cánh với nhau lo chuyện xây cầu, không phải là thượng sách hay sao? Cậu cứ ném thử đi, nếu đúng duyên đúng phận, người khác ném mấy cũng không trúng nhưng cậu ném một lần là trúng. Không tin cậu cứ thử, mà dù ném không trúng đi nữa thì tiền này xem như cậu tặng cho cô ấy xây cầu chứ có mất mát đi đâu, cậu nghĩ tôi nói có đúng không?

Đúng ngay lúc ấy, giọng ông lão lái thuyền vọng tới:

– Bà con làng xóm ơi, trời đã tối rồi nên hôm nay ngừng ở đây, tôi muốn gác mái chèo về nhà nghỉ.

Lữ Động Tân nghe vậy vội thúc Vi Đà ném, Vi Đà luống cuống bèn ném bừa về phía cô gái một đồng tiền. Có lẽ vì trong suốt hai ngày Ngài Quán Âm dùng thần lực nên tiền không thể nào trúng tới mình Ngài, nay ông lão chèo thuyền đã ra hiệu ngừng để về nghỉ nên Ngài bèn xả thần lực. Thêm vào lại có Lữ Động Tân cố ý làm cho đồng tiền ném trúng Ngài nên ông thổi một cái, đồng tiền của Vi Đà theo hơi thần của ông mà rơi lên người cô gái chài lưới, không rơi bên phải, không rơi bên trái, không rơi ở trên hay ở dưới mà rơi ngay tim của cô. Lúc ấy ai cũng đã ngừng tay, chỉ còn có Vi Đà ném tiền, người đứng hai bên bờ ai cũng thấy rõ ràng, thế là sau hai ngày trời cuối cùng cũng có người ném trúng, không ai bảo ai mà mọi người đều reo hò nhảy cẫng lên vỗ tay hoan hô:

– Giỏi! Giỏi! Trúng rồi! Trúng rồi! Anh chàng này tốt phước quá!

Bồ Tát Quán Âm giật mình kinh ngạc, bị ném trúng một cách bất ngờ nên Ngài lúng túng, không biết chuyện chi xảy ra, bèn nhìn Vi Đà đang được mọi người hoan hô. Nhìn thấy rồi Ngài giận muốn đứt hơi vì trong đám đông, có Lữ Động Tân đang nhìn Ngài mà cười ha hả. Do đó Ngài biết ngay là có bàn tay phá rối của Lữ Động Tân.

Có tiếng người kêu:

– Ông lái thuyền ơi, mau chèo qua đây, chú rể đứng ở đây nè!

Bồ Tát Quán Âm rất bối rối nhưng không có cách nào hơn là để cho ông lão chèo thuyền về rước Lữ Động Tân và Vi Đà lên thuyền, một lời đã hứa đâu có dễ gì nuốt lại được!

Ông lão lái thuyền nhận ra Vi Đà, mừng rỡ nói với cô gái chài lưới:

– Cô nương, cậu này chính là anh chàng thanh niên muốn xây cầu đây, đúng là trời có mắt!

– Đúng rồi, đúng rồi, đây là duyên trời định - Lữ Động Tân nói. Cô nương à, lão phu đặc biệt tới đây để tác hợp cho hai người.

Bồ Tát Quán Âm nhìn Lữ Động Tân như thể ông là con quái vật, vừa tức vừa giận mà không thể để lộ ra ngoài mặt. Tuy nhiên, nghe nói rằng anh chàng thanh niên này chính là Vi Đà, người muốn xây cầu, thì cũng đổi giận làm vui, thầm nghĩ rằng:

– Anh chàng này phúc hậu lương thiện lại là một tay thợ đá giỏi, để cho anh ta đứng ra xây cầu thì không có gì bằng.

Còn Lữ Động Tân, Ngài Quán Âm biết ông là người hay phá phách trêu ghẹo người khác, nên Ngài cũng không giận nữa mà lại bảo rằng:

– Ông làm việc tốt, tôi xin cám ơn ông. Nhưng ông đùa lần này là quá lố, không nên đắc ý như vậy. Ông đã gieo gió thì bây giờ hãy gặt bão, theo tôi nghĩ, ông nên mau nói lên sự thật.

Ông lão lái thuyền và Vi Đà nghe ngài Quán Âm và Lữ Động Tân nói chuyện với nhau như thể là người quen biết từ lâu, cảm thấy kỳ lạ nên hai người đều đứng ngây người ra nhìn. Lữ Động Tân nghe Ngài Quán Âm dạy như thế rồi thì cũng không dám đùa nữa, và cũng nghĩ rằng mình chỉ nên đùa vừa phải thôi, phải mau nói lên sự thật kẻo càng để lâu càng khó xử. Nghĩ thế rồi, Lữ Động Tân bèn nói sự thật cho ông lão chèo thuyền và Vi Đà nghe.

Khi biết mình đang đứng trước mặt Bồ Tát Quán Âm và Lữ Động Tân, hai người vừa kinh sợ vừa vui mừng. Lại nghĩ đến ngài Quán Âm vì muốn có đủ tiền xây cầu mà phải nhọc tâm nghĩ diệu kế, mấy ngày qua thu được tiền đầy cả một khoang thuyền, hai người vô cùng kính phục tấm lòng từ bi và trí huệ của Ngài nên khấu đầu lễ bái không ngừng.

Chuyện kén chồng chỉ là một mưu kế của Bồ Tát, tiên và phàm vĩnh viễn cách biệt nên một khi giải thích rồi, không có vấn đề gì nữa.

Bốn người đếm xong tiền thu được rồi, Bồ Tát Quán Âm nói với ông lão lái thuyền và Vi Đà:

– Chuyện xây cầu là chuyện quan trọng, nay ta ủy thác cho hai người. Vi Đà là người tốt, hãy chịu khó cố gắng thêm chút nữa. Hiện tại thì số tiền này đủ để xây cầu, mong hai người hãy mau tiến hành công việc, tranh thủ thời gian để cầu được xây càng mau càng tốt. Khi nào cầu xây xong, ta sẽ trở lại.

Nói xong, Ngài hiện ra Quán Âm bảo tướng trang nghiêm, rồi cùng Lữ Động Tân lên mây mà đi.

Ông lão lái thuyền và Vi Đà được Ngài Quán Âm ủy thác việc này thì ngay ngày hôm sau là bắt tay vào việc, làm ngày làm đêm không dám trễ nãi, không tới một năm sau, một cây cầu hùng vĩ tráng lệ được bắc ngang sông Lạc Dương.

Đúng ngày cầu vừa xây xong, quả nhiên Ngài Quán Âm trở lại. Tuy Ngài vẫn xuất hiện dưới lốt một cô gái chài lưới, nhưng lần này ai cũng biết đó là Bồ Tát Quán Âm giáng lâm nên tất cả đều sụp xuống lễ lạy.

Bồ Tát nói với mọi người:

– Các vị hãy mau đứng dậy, không nên tạ ơn ta. Cầu này mà hoàn thành là do sức đóng góp của tất cả quý vị, chính ta mới phải tạ ơn các vị.

Bồ Tát Quán Âm chúc mừng việc cầu đã hoàn thành, rồi lên mây trở về Nam Hải. Nhưng trước khi đi Ngài nói riêng với Vi Đà:

– Vi Đà, ngươi đã hoàn thành tốt đẹp việc xây cầu. Ngươi đã ném tiền trúng ta vì ta với ngươi có duyên phận. Ta thấy ngươi là người có tâm thiện lành, ngươi có muốn cùng ta về Phổ Đà Sơn không? Nếu muốn thì có thể ở bên ta mà tu hành cho tới chính quả, làm thần hộ Pháp cho ta, nếu không muốn thì cứ ở lại đây.

Vi Đà vội vàng đáp:

– Bồ Tát trên cao, Vi Đà con được Bồ Tát giúp đỡ, một lòng thề nguyện xây cầu viên mãn, cầu xây xong rồi, con luôn tạc dạ ghi lòng tâm đại từ đại bi của Bồ Tát. Nếu được theo Bồ Tát mà tu hành, thì đó là điều vinh hạnh mà con vẫn hằng mơ tưởng mà không dám nghĩ có thể thành sự thật. Con nguyện theo Bồ Tát về Phổ Đà Sơn.

Bồ Tát Quán Âm bèn đưa Vi Đà về Phổ Đà Sơn. Một vài năm sau, Vi Đà tu hành thành chính quả, được phong là thần Hộ Pháp, và được gọi là “Vi Đà Thiên Tôn”, thời thời khắc khắc đứng trước mặt Bồ Tát Quán Âm để hộ vệ Ngài.

#790 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 01/07/2014 - 11:11

6. QUÁN ÂM ĐỘ DI LẶC

Trước khi Bồ Tát Di Lặc thành Phật, ngài là con của một gia đình tài chủ rất giàu có.

Từ nhỏ sinh ra đã trắng trẻo mập mạp, suốt ngày cười hà hà, đặc biệt tốt bụng, luôn luôn đem tài sản trong nhà ra bố thí cho người nghèo. Khi Di Lặc lớn lên thì gia sản kếch sù kia đã bị đem cho hết sạch sành sanh rồi, cuối cùng cả quần áo trên thân cậu cũng bố thí hết, chỉ còn lại cái quần duy nhất. Nhưng cậu không hề hối hận cũng chẳng hề buồn, cả ngày mình trần trùng trục vẫn vui vẻ uỡn bụng mà cười.

Quán Âm Đại Sĩ biết được việc này thì trong tâm rất tán thưởng nhân cách của Di Lặc. Nhưng chuyện tai nghe sao rõ bằng mắt thấy, Ngài muốn tự mình thử thách anh chàng thanh niên này, nếu như danh bất hư truyền thì sẽ hóa độ cho cậu ta về Phổ Đà Sơn thành Phật.

Một hôm, Ngài Quán Âm giả trang thành một cô gái nghèo, tìm đến Di Lặc để cầu xin bố thí. Di Lặc thật là khó xử, trên thân chỉ còn có cái quần, ngoài ra không có lấy một vật gì khác, đứng trước mặt một cô gái làm sao cậu có thể cởi quần đem bố thí cho cô ta được! Cậu xoa bụng cười hề hề mà rằng:

– Cô nương chờ một chút, tôi đến nhà mấy người nhà giàu xin cái gì về cho cô nương nhé!

Nói xong bèn xoay lưng đi ngay. Ngài Quán Âm nhẹ mỉm cười, kêu giật Di Lặc lại:

– Khoan đã! Bần nữ có hai chậu hoa ở đây, tiên sinh một chậu tôi một chậu. Nếu hoa trong chậu của tiên sinh nở trước, thì tôi sẽ không xin tiên sinh bố thí cho gì cả; còn nếu hoa trong chậu của tôi nở trước thì tiên sinh phải cho tôi cái gì của chính tiên sinh, không được đi xin vật gì của ai khác.

Di Lặc nghe xong, không đòi hỏi gì hơn, vui vẻ cười dài, luôn miệng nói “được!”, nhưng thật ra trong tâm thì cậu không có một chủ ý gì.

Ngài Quán Âm và Di Lặc đến một nơi vắng vẻ, cả hai nhắm mắt ngồi bệt xuống đất trước mặt chậu hoa của mình.

Hai giờ trôi qua, Ngài Quán Âm hé mắt ra nhìn thì thấy chậu của mình thì không có lấy một nụ hoa, còn chậu của Di Lặc thì có một đóa hoa đã nở rồi. Bồ Tát Quán Âm vẫn cố tình muốn thử Di Lặc nên mới nhẹ nhẹ đổi chỗ hai chậu hoa, rồi giả bộ làm ra vẻ ngạc nhiên và mừng rỡ kêu lên rằng:

– Hoa trong chậu của tôi đã nở rồi!

Tuy Di Lặc rất thật thà nhắm nghiền đôi mắt nhưng vẫn cảm biết khi Ngài Quán Âm đổi chỗ hai chậu hoa, cậu nghĩ thầm: “Người ta là một đại cô nương, ta phải nhường nhịn cô ta chứ có lý gì mà tị nạnh hơn thua!” Cậu bèn mở banh hai mắt, cười hề hề:

– Tôi thua rồi! Tôi thua rồi!

Bồ Tát Quán Âm thấy dáng điệu của cậu như thế thì cười:

– Tiên sinh thua rồi, bây giờ phải bố thí cái gì cho tôi!

Di Lặc gãi đầu, xoa bụng và cười hì hì:

– Cô nương ơi, cô nương cũng thấy rồi mà, thật ra tôi không có gì để tặng cô nương hết. Tuy nhiên tôi hãy còn cái giải quần này!

Nói xong Di Lặc tháo cái giải quần ra trao cho Ngài Quán Âm, còn mình thì lấy hai tay xách quần, vui vẻ cười hoài.

Ngài Quán Âm rất cảm động nên nói thật cho Di Lặc biết mình là ai, và chủ ý của mình là gì. Di Lặc đồng ý ngay, theo Quán Âm Đại sĩ về Phổ Đà Sơn.

Thần hộ Pháp của Quán Âm viện là ngài Vi Đà, thấy Bồ Tát Quán Âm đã về, đi theo sau có một anh chàng thanh niên mình trần trùng trục lại hai tay xách quần miệng cười hề hề, thì bất giác cau m*y, mắt toé lửa, đưa chày hàng ma lên, khí lực hùng dũng uy nghi chận cửa đại điện nhìn Di Lặc hét: “Đứng lại!”

Bồ Tát Quán Âm thấy Di Lặc bị chận ở ngoài đại điện thì vội vàng đến giải thích mọi sự cho ngài Vi Đà nghe, lúc ấy ngài Vi Đà mới ngây người ra để cho Di Lặc bước vào.

Ngài Quán Âm nhìn Di Lặc, rồi lại nhìn ngài Vi Đà, nói rằng:

– Di Lặc miệng luôn tươi cười, có thể đón khách thập phương. Vi Đà uy nghi lẫm liệt, làm Hộ Pháp bảo vệ điện Phật đúng lắm!

Từ đó trở đi, ngài Di Lặc, ngài Vi Đà, và tứ đại Kim Cương cùng nhau thủ hộ chùa chiền ở Thiên Vương Điện. Phật Di Lặc ngồi đối mặt với cửa chính, lúc nào cũng mang bộ mặt vui vẻ tươi cười hỉ hả.


Thanked by 1 Member:

#791 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 01/07/2014 - 17:47

7. QUÁN ÂM VÀ 18 VỊ LA HÁN

Ở chân núi Thiên Thai, khoảng hơn 3 cây số về phía bắc huyện Thiên Thai tỉnh Triết Giang, hiện nay có một ngôi chùa rất nổi tiếng tên là Quốc Thanh tự, do Kim Vương Dương Quảng đời nhà Tùy năm Khai Hoàng thứ 18 (598 DL), vâng lời Trí Giả Đại Sư mà xây nên, cũng là tổ đình Thiên Thai Tông của Phật giáo Trung Hoa. Trong giới Phật tử, ngôi chùa Thiên Thai này vẫn còn nổi danh trên khắp hoàn cầu.

Trong Đại Hùng Bảo Điện (Chính Điện) của chùa Quốc Thanh, có một bức tượng Quán Âm “Từ Hàng Phổ Độ” ở ngay trung tâm, và ngồi dọc xếp thành hai hàng ở hai bên điện có tượng 18 vị La Hán khắc bằng gỗ lim, từ đời nhà Nguyên.

Ban đầu, 18 vị La Hán chính là 18 người thợ đến làm công ở chùa này. 18 người thợ đã tỉ thí với Bồ Tát Quán Âm và thua cuộc nên được Ngài thâu làm 18 La Hán.

Sau khi chùa Quốc Thanh được xây lên rồi, Kim Vương Dương Quảng ban cho chùa rất nhiều ruộng đất, nên hòa thượng trụ trì phải mướn thợ đến cày cấy trồng trọt, tổng cộng là 18 người.

Còn việc cơm nước trong chùa thì có một bà lão rất già, đầu tóc bạc phơ, một tay đảm nhiệm. Các vị tăng trong chùa nói là lúc chùa còn đang xây thì đã thấy bà có mặt ở chùa rồi. Nhưng hiện nay chùa có 327 vị tăng thường trụ cùng 18 người thợ, bà vẫn còn là người duy nhất lo chuyện bếp núc, thế mà dọn cơm chưa từng một lần trễ giờ, cơm nấu chưa bao giờ khê cũng chưa bao giờ sống! Bà lão cũng chưa từng ngồi không, ngày ngày phải đi nhặt củi ở gần chùa rồi chất sẵn thành một núi to ở ngoài cửa, sau đó còn đi trồng rau ở trên núi trong một miếng đất của chùa. Các thầy trong chùa, từ lớn tới nhỏ ai cũng phải khen ngợi tán thán tính siêng năng cần cù của bà lão.

Sự thật thì bà lão này không ai khác hơn là Quan Thế Âm Bồ Tát, vì Kim Vương Dương Quảng muốn xây chùa Quốc Thanh nên Ngài bí mật đến giúp một tay, để biến vùng đất này thành một thánh địa nổi danh của Phật giáo.

18 người thợ là những cậu thanh niên vạm vỡ khỏe mạnh, hiếu chiến, háo thắng. Họ đến chùa này, ngày ngày ăn cơm của bà lão nấu, vừa thơm vừa ngon, đáng lẽ phải biết mang ơn, nhưng trong đầu lại nảy ra một ý kiến quái gở.

Họ thấy bà lớn tuổi dường ấy mà làm việc lại giỏi như thế, nấu cơm cho rất nhiều người ăn mà bữa nào dọn cơm rau ra cũng đúng giờ, thật là kỳ lạ! Thế là một buổi sáng, ăn sáng xong, họ ra đồng làm việc, vừa làm vừa bàn tán với nhau, hay là mình tìm cách phá bà ấy chơi? Họ bàn mưu tính kế với nhau xong, thừa lúc bà lão vắng mặt, bèn lấy nước đổ lên đống củi dùng để đốt lửa thổi cơm trước cửa, khiến củi ướt sũng, rồi mới xuống núi. Họ cười thầm trong bụng rằng để trưa nay trở về xem bà làm sao để dọn cơm đây? Thế nào lại chẳng có dịp cười bà một phen!

Nào có ngờ đâu rằng, buổi trưa trở về thì cũng như mọi bữa, cơm đã dọn ra sẵn cho mấy trăm người ăn, mười mấy mâm cơm vẫn thơm ngon như mọi bữa! 18 người thợ chạy ra ngoài cửa xem, thì thấy đống củi bị họ tưới ướt sáng nay bây giờ lại khô rang khô ráo, nên há hốc mồm đứng thừ người ra.

Nhưng họ đâu có chịu thua, họ lại bàn mưu tính kế kiếm một cách khác quỷ quái hơn. Hôm ấy, họ đem từ ngoài vào một thúng cát vàng, chờ bà lão ra ngoài xếp củi, bèn đổ hết thúng cát vào nồi cơm rồi đắc ý cười hỉ hả xuống núi làm việc, xem lần này bà lão sẽ đương đầu cách nào nhé?

Bà lão gánh củi về, đã biết đám thợ giở trò gì rồi, trong lòng không khỏi buồn cười. Bà bèn dở nắp nồi lên, cầm một cái vớt bọt bằng đồng lớn, miệng nói “vớt cát đừng vớt gạo”, khuấy vào nồi cơm như thế vài dạo thì bao nhiêu cát bọn thợ đã đổ vào hồi sáng nay đã vớt ra hết không còn một hạt.

Đến trưa, cơm vẫn nấu xong như thường lệ, và cũng như thường lệ không sống không khê, thơm phưng phức, ngon tuyệt vời, không hề lẫn lộn một hạt cát nào. 18 người thợ trở về ăn cơm thấy thế lại ngẩn người ra, họ vẫn chưa phá được bà lão nên ăn mất ngon.

Nhưng những cậu thanh niên hiếu chiến háo thắng ấy đời nào chịu thua, họ lại bàn với nhau kiếm một kế khác hiểm hóc hơn nữa. Gạo trong chùa vốn được giao tới mỗi tháng trong vựa lúa. Vựa lúa của chùa Quốc Thanh cách nhà bếp rất xa, đầu tháng nào cũng có mấy vị tăng gánh về đổ vào trong một cái lu lớn cho bà lão. Hôm ấy là ngày cuối tháng, 18 người thợ ăn xong, chờ bà lão lên núi nhặt củi rồi bèn lấy bao nhiêu gạo còn lại trong lu giấu mất, “không bột đố gột nên hồ”, lúc nhặt củi về không có gạo để nấu cơm trưa, mà muốn đi gánh về thì cũng không thể kịp, để xem lần này bà làm sao trở tay?

Bà lão nhặt củi về, nhìn lu gạo thấy trống trơn, biết ngay đây là mấy cậu thanh niên giở trò nữa, bà lại cười thầm. Chừng ấy mà có thể làm khó dễ Bồ Tát được sao? Ngài lấy thúng cát vàng mà bọn thợ đem tới hôm nọ, miệng nói “cát vàng biến thành gạo”, thế là trong nháy mắt, Ngài có một thúng gạo lớn.

Đến giờ ăn trưa, 18 người thợ trở về, lại thấy trên bàn cơm rau đã dọn sẵn, thì ra bà lão vẫn nấu cơm được như thường khiến họ một lần nữa ngẩn tò te. Lần này, họ dần dần cảm nhận rằng bà lão không phải là người tầm thường, mà họ cũng không nghĩ được cách khác để phá bà, nên trong tâm đã cảm phục nhiều rồi.

Một hôm, 18 người thợ đang gặt lúa trên đồng, bà lão nhặt củi trên núi về bèn ghé đến. Nhìn họ gặt lúa nhanh như gió, Bồ Tát cũng phải công nhận họ thật là những người thợ giỏi và thầm tán thán, nghĩ rằng nếu thâu 18 anh chàng về làm La Hán bảo vệ chùa chiền thì không phải là một điều rất tốt hay sao?

Thế là Ngài nảy ra một ý kiến, nên tiến đến chào những người làm công ấy.

– Các cậu mười mấy người nghe này, tôi hỏi các cậu, có phải các cậu đã phá tôi ba lần liên tiếp không? Các cậu có sao nói vậy, phải nói thật.

18 người làm công ngượng ngùng nói:

– Bà lão ơi, đúng thế, chính chúng cháu đã tinh nghịch muốn phá bà lão chơi. Nhưng nay thì chúng cháu không dám nữa, bà lão thật là thần thông quảng đại, chúng cháu đã khuất phục rồi, chúng cháu thật tình xin lỗi, mong bà bỏ qua cho chúng cháu.

Bồ Tát cười:

– Bọn thanh niên các cậu mà biết khuất phục người khác sao, thí dụ như hôm nay tôi gặt lúa thi với các cậu xem ai gặt mau, thì các cậu có phục hơn không?

18 người làm công nghe nói tới chuyện thi gặt lúa thì không phục nữa mà nói:

– Bà lão ơi, nấu cơm thì chúng cháu không phá nổi bà, chứ mà gặt lúa thì trong vòng 10 dặm, 100 dặm quanh đây không ai qua mặt chúng cháu được! Chúng cháu là tay nghề mà, không sợ bà đâu! Bà muốn thi thì thi, mà người thua mất gì, người thắng được gì, bà lão quyết định đi!

Bồ Tát nói:

– Nếu tôi thua thì tôi sẽ đãi các cậu một bữa tiệc 18 món, còn nếu các cậu thua thì phải ở lại chùa Quốc Thanh này làm La Hán, các cậu chịu không?

18 người làm công đâu có sợ bà lão, bèn đồng thanh trả lời:

– Chịu!

Sau đó bà lão đem tới một lưỡi liềm, cùng 18 người làm công mỗi người chiếm một luống cày, bắt đầu gặt xem ai gặt mau nhất. 18 người làm công nghĩ, chúng tôi trẻ tuổi khỏe mạnh, chân tay lanh lợi, còn bà thì già nua mà còn bị bó chân, làm sao chúng tôi thua bà được!

Nghe tiếng Bồ Tát nói “Bắt đầu!”, thế là 19 người như ngựa phi điện chớp bắt đầu gặt lúa. Bà già tuy chân bó thật nhưng khi bắt đầu gặt thì hoàn toàn biến dạng, bà làm thoăn thoắt như bay. 18 người làm công chuyên tâm cúi đầu làm việc, thoáng một cái là xong nửa luống, có một người ngẩng đầu lên xem bà lão đã làm tới đâu rồi, nghĩ rằng không chừng bà đã ngã xuống đất cũng có, nào ngờ người ấy nhìn xong bỗng sững sờ, bà lão đã gặt xong luống cày, đang đứng ở đầu bên kia mà cười!

Bây giờ thì 18 người làm công hoàn toàn phục thiện. Họ gặt xong luống của mình rồi bèn nói với bà lão:

– Bà cụ ơi, chúng cháu hoàn toàn phục bà rồi. Bà không phải là người phàm, chắc bà là Bồ Tát, chúng cháu tình nguyện xin làm đệ tử của bà.

Bấy giờ Bồ Tát Quán Âm mới hiện bảo tướng Bồ Tát, nói với 18 người làm công rằng:

– Đúng rồi, ta là Bồ Tát Quán Âm, đến đây giúp Kim Vương Dương Quảng xây chùa lập thánh địa. Nếu các ông bằng lòng theo ta, ta sẽ thâu các ông làm La Hán, cùng ta bảo hộ ngôi chùa này, các ông nghĩ sao?

18 người làm công thấy bảo tướng của Bồ Tát Quán Âm rồi liền quỳ xuống dập đầu lạy lia lịa, bạch rằng:

– Bồ Tát đại từ đại bi, chúng con nguyện xin theo Bồ Tát.

Từ đó 18 người làm công biến thành 18 vị La Hán, ai đi chùa Quốc Thanh cũng có thể thấy tượng của họ ngồi dọc hai bên Đại Hùng Bảo Điện.


#792 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 02/07/2014 - 01:32

8. QUÁN ÂM THÂU TỨ ĐẠI KIM CANG

Bồ Tát Quán Âm thâu Long Nữ và Thiện Tài rồi thì Phổ Đà Sơn, đạo tràng của Ngài trở nên càng ngày càng hưng thịnh, khách hành hương càng ngày càng đông đảo, xa gần ai cũng nghe danh và còn gọi đảo này là Hải Thiên Phật Quốc.

Bốn đại Thiên Vương hộ vệ cửa Nam Thiên nghe thế, quyết định chính mắt mình nhìn thấy mới tin, thế là mỗi vị cầm vũ khí của mình, cưỡi mây lành hướng về Phổ Đà Sơn.

Bốn đại Thiên Vương còn được gọi là bốn đại Kim Cang.

Quan điểm nhà Phật chia vũ trụ này làm ba cõi là cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Ở cõi Dục có Lục dục thiên, và tầng trời thứ nhất của Lục dục thiên, gần với thế gian nhất, chính là Tứ Thiên Vương Thiên, là nơi ngự trị của bốn vị Kim Cang này. Kinh Phật nói các vị này trụ ở lưng chừng núi Tu Di, ở đấy có ngọn Kiên Đà La, và ngọn này có bốn đỉnh tên là Tu Di Tứ Bảo Phong (bốn đỉnh báu của núi Tu Di).

Nhiệm vụ của bốn Đại Thiên Vương là mỗi ngài bảo hộ một phương của thế gian, vì thế bốn Thiên Vương còn được gọi là Hộ thế Tứ Thiên Vương.

Vị Thiên Vương ở phương đông tên là Trì Quốc Thiên Vương, âm Phạn là Đa La Sất (Dhṛ­tarāṣṭra), thân màu trắng, mang áo giáp mũ sắt, tay cầm cây đàn tì bà. Trì Quốc có nghĩa là giữ gìn bảo vệ cho cõi nước, vì ngài lấy từ bi làm đầu, bảo hộ chúng sinh. Vị này là thần âm nhạc nên tay cầm cây đàn tì bà, lấy âm nhạc để cảm hóa chúng sinh quy y Phật giáo. Thiên Vương này có tên khác là “Điều”.

Thiên Vương ở phương nam tên là Tăng Trưởng Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ Lưu Ly (Virūḍhaka), thân màu xanh, mang áo giáp mũ sắt, tay nắm bảo kiếm. Vị Thiên Vương này có nhiệm vụ là làm cho chúng sinh tăng trưởng thiện căn, hộ trì Phật giáo, nên tay cầm bảo kiếm để bảo vệ cho Phật Pháp không bị xâm phạm. Vị này còn có tên là “Phong”.

Thiên Vương của phương tây tên là Quảng Mục Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ Lưu Bác Xoa (Virū­pākṣa), thân màu đỏ, tay có quấn con rồng. Quảng Mục có nghĩa là dùng tịnh thiên nhãn để luôn luôn quán sát thế gian, hộ trì nhân dân. Tay cầm con rồng, hay cũng có thể coi như sợi dây thừng màu đỏ, nghĩa là dùng dây thừng trói người không tin Phật, khiến cho họ quy y Phật giáo. Vị này còn có tên là “Thuận”.

Thiên Vương của phương Bắc tên là Đa Văn Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa), thân màu đen, mang mũ giáp, tay cầm dù báu. Vị này dùng phúc đức để nghe ngóng khắp bốn phương, dù báu là để chế phục chúng ma, bảo hộ tài sản của nhân gian. Vị này còn có tên là “Vũ”.

Bốn vị Thiên Vương, hay còn gọi là bốn đại Kim Cang, hợp nhau để mang lại “phong điều vũ thuận” cho nhân gian.

Bốn vị Thiên Vương này là những vị thiên tướng lừng lẫy, người cao lớn, so với bậc thần tiên thường thì cao lớn gấp mười lần.

Bốn vị Kim Cang uy phong lẫm lẫm bước xuống bãi cát Thiên Bộ Sa, lấy đường Vân Đầu, dọc theo đường Ngọc Đường vừa đi vừa ngắm cảnh núi. Họ thấy trên núi tự viện hùng tráng, chùa chiền mọc như rừng, cây cổ thụ cao chọc trời, hoa cỏ xanh rì rậm rạp, sóng biếc, cát vàng bủa quanh tứ bề, nên bị cảnh Hải Thiên Phật Quốc làm cho mê đắm, thật quả danh bất hư truyền, nên trong lòng ngầm thán phục.

Họ vừa đi vừa thưởng ngoạn,vừa đi vừa say sưa nhìn ngắm nên đến giờ ăn cơm trưa lúc nào mà không hay. Họ đã ra đi lúc trời tảng sáng, đi không biết bao nhiêu là dặm đường, đến giờ là đã hơn nửa ngày trời nên cảm thấy bụng đói cồn cào, ruột sôi sùng sục, vội lo tìm xuôi tìm ngược xem có chỗ nào bố thí cơm chay mà tìm mãi không có. Trên thiên giới, bốn đại Kim Cang vốn quen muốn gì được nấy ngay, chưa bao giờ phải chịu cảnh đói khát như thế này nên tìm hoài mà không có gì ăn đâm ra cáu kỉnh, một vị Thiên Vương nổi giận la lên:

– Đạo tràng của vị Bồ Tát này chỉ là hư danh, cái gì mà một bát cơm chay cũng không có chỗ nào bố thí cả!

Bốn đại Thiên Vương bản tánh vốn nóng nảy, gặp điều không vừa ý là lửa giận bùng lên ngay, thế là cả bốn nhao nhao đả kích:

– Đại sĩ với chẳng tiểu sĩ, thật là không biết điều chút nào, bốn đại Kim Cang chúng ta giá lâm mà tại sao lại không ra đón tiếp!

– Đại sĩ dỏm, không biết nể mặt anh em chúng ta gì cả, khi nào gặp thì thế nào cũng phải làm cho bà ta biết tay mới xong!

Bồ Tát Quán Âm thật ra đã biết sự có mặt của bốn đại Kim Cang từ lâu, nay nghe họ càu nhàu như thế, trong lòng không khỏi buồn cười, lập tức nảy ra một ý kiến.

Đương lúc bốn vị Kim Cang đang lớn tiếng mạt sát, bỗng nhiên từ rừng trúc tím trước mặt bay ra một làn khói bếp. Họ bèn rảo bước về phía rừng trúc tím, tìm quanh một lúc mới thấy khói bếp ấy là từ một căn nhà bé nhỏ, vừa thấp vừa hẹp bay ra. Bốn đại Kim Cang nhìn qua khe cửa thì thấy trong nhà có một thiếu phụ đang ngồi trước bếp nhóm lửa thổi cơm.

Thiếu phụ trạc ngoài 30 tuổi, khuôn mặt thanh tú, cử chỉ an tường, trang nhã. Cơm thổi đã chín, từng cụm, từng cụm khói thơm phức bay lọt ra ngoài khiến cho bốn đại Kim Cang càng cảm thấy đói thêm, không chờ được nữa, bèn gõ cửa nói:

– Cô nhỏ ơi, chúng tôi là bốn đại Kim Cang từ thiên giới xuống đây, xin cô bố thí cho chúng tôi nồi cơm ấy đi!

Người thiếu phụ chẳng tỏ vẻ gì là kinh sợ, trả lời:

– Mời quý vị vào nhà. Nồi cơm này là để đãi khách, đủ cho bốn vị dùng.

Bốn đại Kim Cang muốn bước vào nhà nhưng người nào cũng cao lớn, nhà lại nhỏ hẹp cao không tới đầu gối của họ, làm sao chui vào cho lọt đây? Họ còn đang lúng túng, người thiếu phụ mỉm cười thúc giục:

– Quý vị vào đi chứ, tại sao lại không vào?

Bốn vị quá muốn ăn cơm nên đành cúi đầu uốn lưng tiến vào nhà. Kỳ lạ thay, bước vào rồi thì căn nhà bé nhỏ ấy dường như được nới rộng ra, bốn vị Kim Cang có thể cử động thư thái, không thấy nhà nhỏ hẹp nữa mà còn thấy rộng rãi thoải mái là khác.

Người thiếu phụ mời họ ngồi xung quanh một cái bàn vuông và nói:

– Tôi xới cơm cho quý vị dùng.

Một vị Kim Cang nói:

– Cô nhỏ à, chúng tôi đói rã rời rồi, anh em chúng tôi lại ăn rất khoẻ, xin cô làm ơn nấu thêm cơm chứ cái nồi bé tí thế kia sợ không đủ cho chúng tôi no.

Ba vị còn lại cũng phụ họa:

– Đúng rồi, đúng rồi, nồi cơm bé tí ăn không đủ no.

– Xin bốn vị tướng quân yên lòng, đừng thấy nồi nhỏ mà lo sợ, cơm trong nồi ấy đủ cho quý vị ăn no bụng.

Người thiếu phụ nói rồi, xới cơm vào bốn cái bát đem đến bàn rồi tiếp:

– Nồi hãy còn cơm, quý vị dùng xong hãy tự tiện xới thêm, tôi ra ngoài giặt quần áo một chút, không ở lại hầu chuyện với quý vị được. Mời quý vị tự nhiên ăn cơm cho no.

Nói xong cô bèn xách một cái giỏ bước ra khỏi nhà. Bốn đại Kim Cang vội vàng nâng bát, vừa ăn vừa canh chừng nồi, ai cũng nghĩ “cái nồi có chút xíu, cơm này thì đủ cho ai ăn, ta nên ăn cho mau để xới trước”. Cả bốn người đều nghĩ như nhau nên ai nấy đều ăn thật mau. Kết quả là vị Kim Cang mặt trắng ăn xong trước, chỉ và mấy cái là cả bát cơm đã vào bụng, thế là vị này chạy mau như bay đến trước bếp lửa mở nồi xúc cơm. Nào ngờ cái vung như thể bị gắn dính vào nồi, không cách nào dở lên. Ông bèn buông bát xuống, dùng hai tay để mở nồi, dùng hết cả sức lực mà cái vung vẫn trơ trơ bất động.

Vị Kim Cang mặt trắng đỏ mặt tía tai, đứng ngây người ra. Vị Kim Cang mặt đen cũng vừa ăn xong bát cơm bèn qua xúc thêm, thấy vị Kim Cang mặt trắng mở vung không ra bèn cười chế nhạo và đẩy vị ấy sang một bên, tự mình đến giở nồi. Ông những tưởng việc này dễ như trở bàn tay mà thử mấy lần không xong, bèn đứng dạng hai chân, dồn hết sức mạnh nắm chặt vung, nhưng vì dùng sức quá mạnh, vung đã không nhúc nhích mà nồi lại vuột ra khỏi bàn tay khiến ông ngã lăn đùng xuống đất, giận quá chửi toáng lên.

Hai vị Kim Cang còn lại cũng đến thử và cũng thất bại, họ dùng sức đến đâu đi nữa vung vẫn dính chết vào nồi, trơ trơ bất động!

Cuối cùng, bốn vị Kim Cang bèn đứng xếp thành hàng, vị đứng đầu cầm vung, vị đứng sau ôm bụng vị đứng trước, hễ nghe hiệu lệnh thì cùng nhau kéo về phía sau: “dô ta! dô ta!”. Họ dùng hết sức lực để “nhổ” cái vung ra khỏi nồi như người ta nhổ một củ cải ra khỏi đất, nhưng cái vung vẫn không hé ra chút xíu nào! Bốn vị cứ kéo tới kéo lui một hồi lâu, mệt quá nằm dài xuống đất thở phì phò, không còn nhúc nhích được, thật là xấu hổ!

Bỗng có tiếng cửa mở, người thiếu phụ bước vào phòng, thấy bốn đại Kim Cang nằm la liệt dưới đất nhăn răng méo miệng, buồn cười quá mà vẫn phải làm bộ kinh ngạc:

– Hẳn là bốn vị tướng quân ăn no rồi nên nằm xuống nghỉ ngơi chăng?

Vị Kim Cang mặt đỏ vội vàng cải chính:

– Không phải, không phải, chúng tôi chưa ăn xong, mới chỉ ăn được có một bát cơm mà thôi!

Người thiếu phụ nói:

– Tại sao quý vị không ăn cho xong? Hay là quý vị chê nồi nhỏ, cơm trong nồi hãy còn đầy mà, sao quý vị không múc ăn thêm?

Vị Kim Cang mặt đỏ đáp:

– Vì mở vung không ra!

Thiếu phụ nói:

– Sao lạ vậy? Cái vung bé tí ti thế này, bốn vị tướng quân sao lại mở không ra? Bốn vị là thiên tướng lừng danh trên thiên giới, sức mạnh vô địch, làm gì dở không lên một cái vung?

Bốn đại Kim Cang không trả lời được, người nào cũng cảm thấy ngượng ngùng, nhìn nhau không nói mà trong lòng phát hoảng.

Mọi người còn đang nghĩ ngợi thì người thiếu phụ bước đến trước bếp, đưa tay ra nhẹ nhàng nhấc vung lên và nói:

– Vung dễ mở lắm mà, bốn vị tướng quân, xin mời dùng thêm cơm!

Bốn đại Kim Cang sững sờ nhìn người thiếu phụ nhấc cái vung một cách ung dung nhẹ nhàng, nghĩ lại ban nãy bốn anh em phí bao nhiêu sức mà giở mãi không ra, cảm thấy thật là bất khả tư nghì!

Vị Kim Cang mặt trắng cuối cùng nhanh trí nhất, trong thoáng chốc hiểu rõ ngọn nguồn, biết người thiếu phụ này không phải là người phàm, sau đó thoắt nhiên tỉnh ngộ la lên:

– Ối! Tôi hiểu rồi! Ngài là Quán Âm đại sĩ, anh em chúng con không thấy núi Thái Sơn, xin Bồ Tát thứ lỗi!

Ba đại Kim Cang kia cũng lớn tiếng nói:

– Bồ Tát thứ lỗi! Xin Bồ Tát tha thứ cho bọn chúng con ngu si!

Nói rồi, bốn đại Kim Cang quỳ xuống trước mặt người thiếu phụ dập đầu lạy liên tiếp. Quán Âm Đại sĩ mỉm cười:

– Xin bốn đại tướng quân đứng dậy, đứng dậy đi, dùng cơm xong hãy nói chuyện.

Ăn cơm xong, bốn đại Kim Cang nói:

– Đa tạ Đại sĩ, hôm nay chúng con nhờ ơn từ bi của Bồ Tát, vô vàn cảm tạ, bây giờ xin phép Đại sĩ cho chúng con trở về thiên đình.

Quán Âm Đại sĩ nói:

– Bốn đại tướng quân còn muốn trở về sao? Bốn vị muốn trở về thì không có vấn đề gì, tuy nhiên uy danh của bốn vị chấn động thiên đình, hôm nay chỉ có một cái vung mà nhấc không lên, chỉ e... thiên binh thiên tướng có còn tôn trọng quý vị chăng? Hay là họ sẽ cười chê? Theo ta nghĩ, hay là các vị ở lại đây theo ta tu hành, các vị nghĩ sao?

Sự thật, khi Bồ Tát Quán Âm biết có bốn đại Thiên Vương đến Phổ Đà Sơn, Ngài nghĩ rằng đất này đang thiếu thần hộ Pháp, nếu có cách nào giữ bốn đại Kim Cang này ở lại thì thật là thích hợp! Vì thế Ngài đã lập ra một kế kích thích ngạo khí của họ để giữ họ ở lại.

Bốn đại Kim Cang nghe Quán Âm Đại sĩ nói như thế thì không có lời lẽ nào để trả lời, thật sự họ không còn mặt mũi nào mà trở về thiên đình nữa.

Trải qua chuyện này rồi họ mới được thấy uy lực của Phật Pháp và thần thông vô tỉ của Bồ Tát Quán Âm. Họ vô cùng kính phục Đại sĩ, đồng lòng chấp thuận ở lại Phổ Đà Sơn, theo ngài Quán Âm học Phật Pháp và hộ vệ Phổ Đà Sơn.

Từ đấy, ở hai bên trái và phải của Thiên vương điện xuất hiện những bức tượng uy vũ hùng tráng của bốn đại Thiên Vương.


#793 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 02/07/2014 - 09:58

9. QUÁN ÂM THU PHỤC GIÀ LAM

Ngày xưa, có một con tàu cướp biển ngày ngày cứ lãng vãng quanh vùng cửa sông Hoàng, mà cầm đầu là tên giặc cướp Lam Lễ Dụ. Hắn tung hoành trên mặt biển, không có chuyện ác nào là không làm, thấy tàu buôn thì cướp hàng hóa, thấy thuyền chài thì đoạt cả mẻ cá của người ta, còn nếu gặp du thuyền thì lột hết vàng bạc của khách du lịch trên tàu.

Tuy nhiên tên giặc cướp thô bạo kệch cỡm này vẫn còn một điều húy kỵ, đó là hắn không dám béng mảng tới Phổ Đà sơn cướp bóc chùa chiền hay nhiễu hại tín đồ, vì hắn rất sợ bị đức Bồ Tát Quan Thế Âm đại từ đại bi trừng phạt.

Một hôm, tàu cướp biển đi ngang qua hải phận bãi cát Thiên Bộ Sa, Lam Lễ Dụ đang ngồi trong khoang thuyền uống rượu, giương cặp mắt kèm nhèm nhìn quanh nhìn quất, bỗng hắn thấy dọc theo bờ biển Thiên Bộ Sa có một cô gái tay cầm giỏ tre, đang đùa nghịch bằng cách đạp trên đầu sóng mà đi đi lại lại.

Lam Lễ Dụ ngẩn người ra mà nhìn, nghĩ rằng: “Cô gái này bản lãnh thật cao, biết đạp trên đầu sóng mà đi!” Rồi hắn ra lệnh cho tên lâu la lái tàu chạy sát lại bờ biển. Khi có thể nhìn rõ, hắn đờ đẫn cả người vì cô gái đang đạp sóng kia là một thiếu nữ xinh đẹp như một nàng tiên trên thiên giới!

Lam Lễ Dụ vừa kinh ngạc vừa vui mừng, nghĩ rằng nếu bắt cô gái này về làm áp thuyền phu nhân thì ta chẳng phải như cọp thêm vây sao? Thật là nhất cử lưỡng tiện! Càng nghĩ càng thấy đẹp lòng, càng thấy ham muốn, bất giác nghếch mặt lên trời cười hô hố, rồi lập tức truyền lệnh cho một tên lâu la thả chiếc thuyền tam bản xuống chèo cho hắn đi vào bờ.

Không ngờ thiếu nữ nọ nhìn thấy Lam Lễ Dụ bơi thuyền tới gần thì nhoẻn miệng cười và quay đi, tiếp tục đạp sóng hướng tới động Triêu Dương. Lam Lễ Dụ lòng nóng như lửa đốt, luôn miệng hối lâu la: “Chèo mau, chèo mau đuổi theo cô ta!” và nhắm hướng động Triêu Dương mà thẳng tiến. Nhìn thì mắt thấy như đã gần bắt được cô gái rồi, nhưng cô gái lại quẹo về hướng miếu Hải Triều. Lam Lễ Dụ không nhẫn nại được nữa, vừa đuổi theo vừa la: “Cô kia đứng lại! Đứng lại ngay!”

Cô gái không lộ chút gì là lo sợ, cứ chốc chốc quay đầu lại nhìn, nhưng vẫn khoan thai tiến tới phía trước, mỗi bước chân đi làm cho những giọt hoa biển bắn lên tung toé, trông thật là hồn nhiên và dễ thương! Lam Lễ Dụ chạy theo mà cả người bốc khói, tâm ác nổi dậy, bèn rút cung tên bắn cô gái một phát.

Làm như cô gái có cặp mắt đằng sau đầu, cô chờ tên bay tới gần mình rồi mới ung dung đưa cánh tay ngọc lên “phụp”, chụp lấy mũi tên trong tay, không quay đầu mà cũng không dừng lại, chân vẫn tiếp tục đạp trên đầu ngọn sóng mà đi. Lam Lễ Dụ thấy thế giật mình, miệng la oai oái: “Giỏi! Thật là cao cường! Bản lãnh cô gái này quả là phi phàm!”

Hắn vừa kinh sợ vừa thích thú, nhưng cũng lại vừa cáu vừa thẹn, bèn nhắm hai cánh tay của cô gái bắn liên tiếp hai mũi tên, trong lòng nghĩ: “Bây giờ xem cô mình có thoát được tay ta không nhé!” Ý tưởng chưa dứt trong đầu đã thấy bàn tay phải của người thiếu nữ đưa lên chụp lấy mũi tên thứ nhất, và chuyển qua phía trái chụp lấy mũi tên thứ hai, xong cô còn quay đầu lại cười, và tiến vào một con đường nhỏ hướng tới miếu Hải Triều.

Lam Lễ Dụ ngây người kinh hoàng, sững sờ đứng lại, khi tỉnh hồn thì không thấy bóng dáng cô gái đâu, mà chỉ thấy chiếc giỏ tre của cô bỏ lại dưới đất. Hắn vội vàng tiến tới nhìn, thấy trong giỏ chỉ có một con cá không to không nhỏ, đang yếu ớt quẫy quẫy đuôi. Thật lâu sau tên ma đầu kia mới hiểu thông ra, nổi trận lôi đình la lên: “Cá trong giỏ! Cô ta muốn ám chỉ ta đây mà! Cô nương thật là to gan, dám đem tên ta ra mà giễu cợt!”.

Lập tức hắn giận dữ dùng chân đá chiếc giỏ tre bay xuống biển và hậm hực chạy tiếp đi tìm người thiếu nữ kia.

Hắn điên cuồng chạy vào đại điện của miếu Hải Triều, nhưng ngước đầu lên chỉ thấy tòa sen của Ngài Quán Âm, phía trước có một lư hương, và trong lư hương có cắm ba mũi tên nhọn mà hắn đã bắn ban nãy, đuôi tên còn bốc khói nghi ngút, giống hệt ba cây hương thơm dịu! Hắn bước đến một cách tức tối toan rút tên ra khỏi lư nhưng kéo tới lồi cả con mắt, ba cây tên vẫn trơ trơ bất động. Lúc ấy tên cướp biển mới cảm thấy sợ hãi, mặt m*y tái mét không còn một giọt máu, toàn thân toát mồ hôi lạnh, muốn quay đầu chạy trốn ra khỏi miếu nhưng tại sao chân hắn như có mọc rễ, cất bước không lên như thế này!

Người đời thường nói: “Kẻ xấu mới hay thấp thỏm lo sợ.” huống chi là một tên cướp biển đã tạo bao nhiêu tội ác! Nhưng khi hắn ngước mắt lên nhìn tượng Ngài Quán Âm trên tòa sen, và lại nhìn những mũi tên đang bốc khói thì đột nhiên đại ngộ, vội lập cập quỳ xuống đất, dập đầu lạy không ngừng.

Hôm sau hắn giải tán hết bọn lâu la, nhận chìm tàu cướp, còn mình thì tự đóng một cái gông bằng gỗ, cạo đầu nhẵn thín và từ đó ngày ngày quay mặt vào tường cầu xin ngài Quán Âm tha thứ tội lỗi cho mình.

Về sau, Quán Âm Đại sĩ thấy ông đeo gông quay mặt vào tường ròng rã ba năm, biểu lộ rõ ràng sự quyết tâm sám hối tội lỗi xưa để trở thành một con người mới, bèn chính thức truyền giới cho ông, đặt tên là Già Lam, làm đệ tử của Phật.

Từ đó ông đi theo Quán Âm Đại sĩ, trải qua không biết bao nhiêu là chướng nạn, hoàn toàn lột xác, tu hành chứng được chính quả và được mọi người gọi là Bồ Tát Già Lam.




#794 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 02/07/2014 - 22:11

10. QUÁN ÂM KHÔNG CHỊU ĐI

Tương truyền đời vua Đường Tuyên Tông, có một vị tăng người Nhật tên là Huệ Ngạc đến Trung Quốc. Thầy đã từng viếng thăm rất nhiều núi cao sông rộng, đã từng lễ bái rất nhiều chùa cổ, chùa lớn.

Hôm ấy, phong trần dày dạn, thầy rảo bước lên núi Ngũ Đài, một trong những thánh địa Phật giáo ở Trung Quốc. Cảnh Ngũ Đài Sơn rất đẹp, với những tảng đá linh sừng sững, những cây tùng cổ chọc trời, những dòng nước róc rách từ khe núi chảy ra, với trăm hoa đua nhau khoe sắc, hoặc những mái chùa ẩn hiện sau lùm cây, núi thẳm. Thật là một phong cảnh huyền bí, thanh tịnh.

Thầy Huệ Ngạc và phương trượng của Ngũ Đài Sơn cùng nhau tụng kinh, nói Pháp, tham thiền, đánh cờ, hai người trở thành đôi bạn tri kỷ.

Một hôm, thầy Huệ Ngạc thấy được một bức tượng Bồ Tát Quán Âm ở hậu viện của chính điện. Tượng khắc bằng gỗ đàn hương, thần thái an tường, mọi chi tiết được khắc một cách cân xứng và tỉ mỉ, cho tới búi tóc, lông mi cũng tinh vi sinh động như người sống.

Thầy Huệ Ngạc đứng trước tượng Bồ Tát Quán Âm, hết ngắm nghía đến tán thán, say mê đến nỗi thầy phương trượng đến mời dùng cơm, thầy cũng không nghe thấy.

Thầy phương trượng thấy thầy say mê như thế bèn hỏi:

– Pháp sư thấy tôn tượng Bồ Tát điêu khắc thế nào?

Thầy Huệ Ngạc không tiếc lời khen ngợi:

– Đẹp! Đẹp! Tôi đến từng tuổi này, lần thứ nhất mới thấy được một bức tượng như thế! Điêu khắc tinh vi đến nỗi biểu hiện được thái độ an tường của Đại Sĩ, thật là một đức Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát sống vậy!

Thầy phương trượng thấy thầy quá ưa thích nên cười tủm tỉm mà nói:

– Nếu Pháp sư ái mộ Ngài như thế thì tôi xin cúng dường pháp sư đem về thờ đó!

Thầy Huệ Ngạc nghe thế vội vàng chắp tay lễ tạ. Thầy tiếp lấy bức tượng, mừng quá không kềm chế được nên quyết định trở về Nhật Bản lập tức, xây chùa thờ tượng của Ngài để cho người Nhật có cơ duyên đến lễ bái Bồ Tát.

Thầy Huệ Ngạc rời Ngũ Đài Sơn rồi còn đến Cửu Hoa Sơn, cuối cùng từ Thiên Đài Sơn xuống tàu ở cửa biển Linh Giang, giương buồm về nước.

Hôm ấy, tàu đến hải phận Phổ Đà Sơn, bỗng nhiên có một ngọn gió lớn thổi đến, thổi mạnh đến nỗi tàu nghiêng bên này, ngả bên kia rồi cuối cùng xoay vòng vòng tại chỗ. Thầy Huệ Ngạc không còn cách nào hơn là cho tàu tiến đến một thung lũng trong đảo Phổ Đà, hạ buồm thả neo, chờ sóng yên gió lặng rồi mới tính chuyện đi tiếp.

Hôm sau, gió đã yên và sóng đã lặng. Thầy Huệ Ngạc lại cho giương buồm nhổ neo. Nhưng tàu vừa mới rời khỏi thung lũng, mặt biển đột nhiên nhả ra từng cuộn từng cuộn sương mù màu trắng xám. Sương mù bay lên mỗi lúc mỗi cao, giống như một bức mành vải được treo ngay trước mặt tàu vậy, ngăn không cho tàu đi tiếp.

Thầy Huệ Ngạc thấy chuyện kinh dị, đứng trên boong tàu ngước mặt lên trời, thì trên đầu là một khoảng trời xanh biếc; nhìn trái nhìn phải, thì hai bên bức mành sương mù là màu nước biển xanh trong. Thầy Huệ Ngạc đành cho quay mũi tàu, đi vòng bức mành sương mù mà tiến tới phía trước. Những hễ mũi tàu hướng về bên trái thì mành sương mù cũng bay về bên trái; hễ quay về bên phải thì mành sương mù cũng phất phới bay về bên phải. Con tàu cứ chuyển lui chuyển tới trên biển mà không tiến lên được, cuối cùng phải quay về hải phận của Phổ Đà Sơn.

Thầy Huệ Ngạc không nghĩ ra cách nào khác nên lại đành một lần nữa cho tàu đến thung lũng, hạ buồm thả neo, chờ sương tan rồi sẽ đi tiếp.

Qua sáng sớm thứ ba, mặt trời đỏ ửng từ đáy biển từ từ trồi lên, phóng ngàn tia ánh ráng nhuộm sáng cả bốn phương trời. Thầy Huệ Ngạc ra đứng ở khoang tàu ngước nhìn lên trời thì thấy giữa những áng mây ngũ sắc có một toà lầu nguy nga lộng lẫy, cờ phướng sáng ngời, tiên nữ vây quanh, phóng ánh sáng màu ngọc chói lòa cả mắt. Thầy rất hoan hỉ, chắp tay đảnh lễ, rồi lập tức cho giương buồm, nhổ neo. Nhưng kỳ lạ thay, tàu vừa rời khỏi thung lũng thì những cảnh vật kỳ diệu trên trời cũng đột nhiên biến mất, mây đen che kín mặt trời, gió biển khơi dậy những ngọn sóng khổng lồ.

Thầy Huệ Ngạc đâm ra lo lắng, nghĩ rằng mình đã trì hoãn ở đây hết mấy ngày trời rồi, lần nào cũng kết thúc như vậy thì bao giờ mới có thể thỉnh tượng Ngài Quán Âm về Nhật Bản đây? Thôi thì chút gió, chút sóng có là gì đâu, cứ cho tàu chạy! Mau cho tàu chạy!

Thầy Huệ Ngạc yêu cầu đoàn thủy thủ lái tàu đi ngược gió, rẽ sóng hướng về phía trước mà đi. Gió trở nên dữ dội hơn, sóng vọt cao hơn, nhưng thầy Huệ Ngạc không hoảng không loạn, cứ điềm tĩnh đứng ở mũi tàu mà chắp tay tụng kinh niệm Phật.

Tuy gió và sóng từ từ bình lặng trở lại, nhưng tàu chưa đi được bao xa bỗng nhiên đứng lặng như thể mọc rễ rồi vậy. Thầy cúi đầu nhìn thì thấy có từng đóa, từng đóa hoa sen sắt nổi lên, trong nháy mắt, cả mặt biển Phổ Đà Sơn đều phủ kín hoa sen sắt, con tàu buồm bị bao vây và kềm chặt ở giữa.

Thầy Huệ Ngạc quá sợ hãi, tâm nghĩ rằng cứ mỗi lần tàu chạy là đều bị sóng gió ngăn chận, hôm nay lại có hoa sen sắt kềm chặt khóa tàu đứng yên, không lẽ đó là vì Quán Âm Đại sĩ không chịu đi Nhật Bản chăng? Thầy trở lại khoang tàu, quỳ trước tượng Bồ Tát Quán Âm khấn nguyện rằng:

– Nếu như chúng sinh ở Nhật Bản không có cơ duyên được chiêm ngưỡng thánh nhan, đệ tử nguyện tuân lệnh Bồ Tát, Bồ Tát chỉ đâu đệ tử đi đó, và xây chùa viện để thờ Bồ Tát ở nơi ấy.

Khấn chưa dứt lời đã nghe “lập cập, lập cập”, từ đáy biển nổi lên một con trâu sắt. Trâu sắt một mặt bơi thẳng về phía trước, một mặt há miệng thật to nuốt chửng những đóa hoa sen sắt. Chỉ một lúc sau, trên mặt biển bỗng mở ra một con đường vừa đủ cho tàu chạy.

Thầy Huệ Ngạc cho tàu chạy theo con trâu sắt, và nương theo con đường mới được mở ra ấy mà tiến. Không lâu sau, lại nghe “lập cập, lập cập”, con trâu sắt chìm xuống đáy biển sâu, và những đóa sen mới đây còn tràn đầy mặt biển cũng không còn nữa. Thầy Huệ Ngạc định thần nhìn kỹ, thì ra con tàu đã trở lại thung lũng của Phổ Đà Sơn.

Mây đã tan, trời quang đãng, mặt trời đã treo cao trong hư không. Lúc ấy có một người đánh cá họ Trương từ trên núi xuống, nói với thầy Huệ Ngạc rằng:

– Tôi đã thấy hết những gì xảy ra mấy hôm nay, ngài đi không được đâu! Thôi chi bằng thỉnh Pháp sư đến nhà tôi ở lại vài bữa rồi hãy đi!

Thầy Huệ Ngạc thấy vị này sốt sắng như thế thì nhận lời. Tay thầy ôm bức tượng Bồ Tát Quán Âm, đi theo người đánh cá trèo lên núi Phổ Đà. Phóng tầm mắt nhìn ra xa thì thấy một bãi cát vàng óng ánh, thủy triều lúc dâng lúc lùi, những đỉnh núi cây cỏ xanh tươi vây quanh đảo, rồi xa hơn nữa là mặt biển như một tấm gương sáng mang mang không biên giới.

Sáng thì thưởng thức mặt trời mọc, đêm thì lắng nghe tiếng thủy triều, nếu so với Ngũ Đài Sơn thì đảo này có một nét đặc sắc khác hẳn. Thầy Huệ Ngạc lại nghĩ, Bồ Tát Quán Âm đã không muốn sang Nhật thì mình ở lại đây xây chùa, để Ngài Quán Âm định cư ở Phổ Đà Sơn vậy!

Người đánh cá họ Trương nghe tới chuyện xây chùa thì mừng rỡ vô cùng, tình nguyện nhường căn nhà tranh của mình biến thành một ngôi miếu nhỏ. Tạo miếu xong thầy Huệ Ngạc bèn đặt tượng lên thờ, và sáng tối lễ bái.

Từ đó, bức tượng Bồ Tát Quán Âm khắc bằng gỗ đàn hương đã lưu lại ở Phổ Đà Sơn. Còn căn miếu nhỏ kia thì được mang tên “Bất Khẳng Khứ Quán Âm Viện” (Viện Quán Âm không chịu đi).


Thanked by 1 Member:

#795 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 03/07/2014 - 01:25

11. HẢI THIÊN PHẬT QUỐC

Dưới chân núi Phật Đỉnh, ở bên đường Hương Vân có một tảng đá lớn nghiêng hẳn về phía trước như chực đổ xuống, trên đá có khắc bốn chữ “Hải Thiên Phật Quốc” với nét bút hùng tráng, nét khắc tinh xảo. Bốn chữ đẹp như một bức tranh thư pháp ấy không phải do một văn nhân học sĩ nào viết, mà là bút tích của một vị tướng quân nổi danh đời nhà Minh, tên là Hầu Kế Cao, nhờ dẹp tan giặc Nụy mà sử sách đề tên.

Hầu Kế Cao là một vị tướng quân văn võ song toàn, ra trận thì cầm binh như thần, tài ba vũ bão, mà bình thường thì lại là một tín đồ Phật giáo thuần thành. Năm Vạn Lịch, ông lãnh đạo quân binh diệt giặc Nụy, nhờ chiến thuật cao cường nên đánh trăm trận trăm thắng, khiến Nụy quân phải rút tàn binh ẩn náu trên đảo Lãng Cương, một hòn đảo hiểm trở, núi đồi nhấp nhô như sóng nước.

Người ta nói “Lãng Cương 3 quả núi, lên xuống thật nguy nàn” cũng không ngoa. Đảo này rất xa đất liền, giáp với biển sâu, trên biển thì sóng to gió lớn và nhiều đá ngầm, chỉ có những con thuyền nhỏ và nhẹ mới có thể lách giữa những tảng đá ngầm ấy mà đi, người nào không biết đường đi nước bước thì không cách gì đến gần bờ được.

Lúc ấy, Hầu Kế Cao cùng binh lính trấn thủ trên mặt biển, mấy lần đem quân chinh phạt nhưng vì giặc Nụy ẩn trốn rất sâu trong đảo nên mấy lần đi không đều lại về không. Ông khổ tâm suy nghĩ tính toán, nhưng không làm sao tìm được mưu chước nào để đánh đuổi bọn giặc này.

Dầu cho việc quân gian khổ, nhưng đêm đêm Hầu Kế Cao vẫn ngồi trước tượng Ngài Quán Âm tĩnh tọa một lúc, một là để tịnh dưỡng tâm thần, và hai là lợi dụng những lúc an tĩnh như thế để mà mưu tính kế hoạch.

Đêm hôm ấy, Hầu Kế Cao ngồi trước bàn thờ ngây người ra mà nhìn tượng Ngài Quán Âm. Đột nhiên, ông nghe hương thơm từ bàn thờ tỏa xuống, định thần lại nhìn kỹ thì thấy tượng Ngài Quán Âm lớn dần, lớn dần, đôi mắt hơi mở to một chút, và còn nghe Ngài nói:

– Thiên thời, địa lợi, nhân hòa! Thiên thời, địa lợi, nhân hòa!

Hầu Kế Cao mừng quá kêu lên:

– Đúng rồi! Thiên thời, địa lợi, nhân hòa!

Nhưng trong chớp mắt, tượng Ngài Quán Âm đã nhỏ lại như cũ.

Lúc ấy trời đã tờ mờ sáng, nhưng Hầu Kế Cao không hề cảm thấy mệt mỏi hay buồn ngủ. Ông lên tàu chiến chạy thẳng tới đảo Câu Kỷ. Trên đảo này, một mặt ông hỏi han dân chài, một mặt ông quan sát tình hình. Lên tới chóp đỉnh của hòn đảo nhỏ, thấy những chiếc thuyền đánh cá lấm tấm trên mặt biển ông chợt nghĩ ra một diệu kế, vội vàng trở về căn cứ và bắt đầu xếp đặt một chiến thuật khôn khéo, tinh tế.

Một vài ngày sau, có bốn chiếc thuyền đánh cá giăng lưới trên mặt biển Lãng Cương. Tướng giặc Nụy nhìn thấy mừng thầm, vung đao lên hét:

– Mau! Hãy mau bắt lấy thuyền chài!

Trong khoảnh khắc, từ thung lũng Lãng Cương túa ra hơn mười chiếc thuyền Nụy, đâm thẳng vào những chiếc thuyền đánh cá. Dân chài trên thuyền vội vàng cắt dây, vứt bỏ lưới mà chạy trốn. Giặc Nụy đuổi sát theo sau không nhả, thẳng tiến đến đảo Câu Kỷ. Bỗng nhiên, tiếng hiệu lệnh tù và vang dậy, bốn chiếc thuyền câu nhanh nhẹn quay đầu lại đối mặt với thuyền Nụy và xông thẳng tới, những người dân đánh cá ban nãy ai cũng có giáo mác, chuẩn bị hỗn chiến với giặc Nụy. Quân lính trên đảo Câu Kỷ cũng ào ạt đánh trống hỗ trợ, lên thuyền trợ chiến. Giặc Nụy thấy bị tấn công bốn bề thì hoảng hốt mở đường máu mà chạy.

Đúng vào lúc thuyền Nụy đuổi theo thuyền đánh cá, rời xa hải phận Lãng Cương thì Hầu Kế Cao dẫn một đoàn “nam phương binh” rất giỏi về thủy chiến, lên thuyền nhỏ đi đường tắt âm thầm đến đảo Lãng Cương. Như những bóng ma, họ tiêu diệt đám Nụy binh ở lại hậu cứ thủ đồn trong chớp nhoáng và chiếm lấy đảo.

Đám bại quân từ đảo Câu Kỷ chạy thoát về đến Lãng Cương thì vội vàng bỏ thuyền lên bờ, những tưởng thu thập tàn binh tổ chức kháng chiến. Nhưng Hầu Kế Cao đã phi thân nhảy lên một tảng đá lớn, dương cung lắp tên, “phụp” một tiếng, tên tướng Nụy bị một mũi tên vào cổ chết tốt. Lính Nụy như rắn mất đầu luống cuống chạy tán loạn. Hầu Kế Cao hô “sát”, thế là binh sĩ từ trên núi đổ xuống xáp la cà với binh Nụy. Sau một trận đánh kịch liệt, giặc Nụy bị dồn vào ngõ bí, lớp nhảy xuống biển, lớp mổ bụng tự sát, chẳng bao lâu không còn một người.

Nhờ chiến thuật thần diệu lấy ít đánh nhiều, Hầu Kế Cao đã toàn thắng.

Trong lòng tràn ngập niềm vui, ông bèn đến đảo Phổ Đà nào xây chùa, nào tạo tượng, và tự tay viết cuốn “Phổ Đà Sơn ký” để biểu lộ lòng thành của mình đối với Ngài Quán Âm.

Trong lúc du ngoạn, ngắm thắng cảnh cùng các chùa miếu cổ xưa của đảo, nhìn quanh thấy trời và nước hỗ tương chiếu sáng cho nhau, phong cảnh quá ư tráng lệ, bất giác ông buộc miệng khen rằng:

– Phổ Đà Sơn thật là một cõi Phật giữa trời và biển!

Tức thì ông vung bút viết lên bốn chữ “Hải Thiên Phật Quốc”, rồi mướn thợ khắc lên đá ngay sau đó.

Từ đó, Hải Thiên Phật Quốc trở thành một tên khác của Phổ Đà Sơn.


Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

6 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 6 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |