5
831 replies to this topic
#61
Gửi vào 08/06/2011 - 11:27
AI CẬP HUYỀN BÍ
THẦN CANH GIỮ SA MẠC
Chương Hai
Các bầu tinh tú vẫn đua nhau chớp trên nền trời xanh thẫm con trăng thượng tuần vẫn tiếp tục chói rạng trên đỉnh đầu chúng tôi, thần tượng Sphinx có vẻ biến đổi màu sắc vẫn vươn mình một cách hùng dũng dưới ánh trăng bạc. Khi tôi day đầu qua bên trái là nơi mà trong linh ảnh vừa rồi hiện ra trong trí tôi, tôi đã nhìn thấy biển cả gầm thét như sấm động và nuốt trôi cả vùng đất liền.
Một con dơi, có lẽ lầm tưởng tôi là phiến đá vô tri bất động như cái bối cảnh chung quanh, vỗ đôi cánh đụng vào đầu tôi rồi bay mất, làm cho tôi có cái cảm giác ghê tởm và rờn rợn người nơi sương xuống. Tôi nghĩ rằng có lẽ nó vừa mới chui ra từ trong một cái nấm mồ chôn xác ướp mà người ta vừa khai quật ở vùng gần bên.
Tôi ngắm nhìn cái đồng cát mênh mông chiếm trọn một diện tích ba triệu dặm vuông của vùng sa mạc Sahara, diễn ra đến tận chân trời cho đến chỗ nó giáp ranh với một dãy núi đồi dài dựng đứng như thành quách, che chở xứ Ai Cập và vùng châu thổ sông Nil. Thiên nhiên dường như cố ý dựng lên những dãy đồi của xứ Libye để bảo toàn cho xứ Ai Cập khỏi bị chôn vùi dưới đống cát của bãi sa mạc này.
Mối nguy cơ đó là một sự thật hiển nhiên. Mỗi năm vào đầu mùa xuân, một trận cuồng phong với một sức mạnh và tốc độ kinh khủng, khai chiến với vùng bắc phi và thổi mạnh qua như vũ bão từ bờ biển Đại Tây Dương, xuyên qua trọn cả vùng lục địa Châu Phi.
Chẳng khác nào một đạo binh xâm lượt khát máu và tàn bạo, trận gió lớn đi đến đâu, càng quất cát bụi đi đến đấy. Những cơn gió trốt cát bụi đi theo thành những cơn bão cát gieo sự tàn phá khắp nơi, chôn lắp nhà cửa, dinh thự, đền đài và thậm chí chôn luôn trọn cả những thành phố. Đó là cái mãnh lực của những hột cát vàng, nó ngự trị vùng này như một lãnh chúa quyền uy vô địch.
Sức mạnh của những cơn bão cát có thể làm cho nền trời hoàn toàn sẫm tối và che khuất cả mặt trời. Những cơn gió trốt cuốn cát dậy lên dày đặc như sa mù ở Luân Đôn, thổi hết tốc lực, rồi nế không có gì ngăn chặn, nó sẽ quét sạch và chinh phục mọi chướng ngại gặp ở dọc đường.
Tôi nhìn pho tượng đá Sphinx, những nét trên mặt của nó chỉ hiện ra một cách lu mờ dưới ánh sao khuya, nhưng cái miệng của nó, bề rộng có đến hai thước, đượm một vẻ bi thư hầu như đến rùng rợn, khác hẳn với cái nụ cười hồn nhiên của nhân vật hiện ra trong linh ảnh của tôi khi nãy, là hình biểu tượng Sphinx của thời buổi sơ khai, của thời đại Atlantide.
Những cơn gió bão của ca mạc thổi với tốc độ cuồng loạn đã sát phạt gương mặt của nó, cùng với sự hủy hoại do bàn tay phủ phàng thô bạo của những kẻ phàm phu không hề biết kính trọng quỷ thần!
Tự nhiên là những cơn bảo cát đã tấn công hình biểu tượng này, khi thì âm thầm che lấp bao phủ, khi thì ào ào sát phạt với cơn thịnh nộ của vũ bảo. Nó đã từng bị chôn lấp hay chăng: Đã hẳn rồi không còn nghi ngờ gì nữa.
Tôi nhớ đến giấc mộng huyền bí mà vua Thoutmès IV đã kể lại bằng chữ ám tự (hiéroglyphes) khắc trên phiến đá đỏ dựng lên giữa hai chân con sư tử đá. Tôi cũng nhớ lại lời than thở của nó trong giấc mộng vừa kể, khi nó bị cát chôn lấp đến cổ:
- Cát sa mạc đã lấp ta (vị thần che chở của nó nói), ta càng ngày càng bị chôn sâu hơn. Hãy mau ra tay dẹp cát đi, rồi ta sẽ coi ngươi như con ta và như ngươi trợ giúp ta.
Khi tỉnh giấc, vua Thoutmès nghĩ thầm rằng: "Dân chúng trong thành chỉ biết tôn sùng vị thần này, mà không có một người nào từng nghĩ đến việc giải tỏa pho tượng của ngài khỏi bị cát lấp."
Những hình vẽ ở phía trên phiến đá vẽ nhà vua dâng hương cho thần tượng Sphinx, kế đó là bài tường thuật giấc mộng lạ lùng của nhà vua, khắc bằng chữ ám tự:
"Hoàng thân Thoutmès cùng vài người bạn đi săn trong vùng Gizeh, ở ven sa mạc. Trên đường về hướng nam, hoàng thân đã tập bắn cung vào những tấm bia bằng đồng, săn sư tử và các loại thú dữ của sa mạc, và tập dong xe với những con tuấn mã chạy nhanh hơn gió.
"Vào lúc giữa trưa, hoàng thân dừng cuộc du hí vì đã quá mỏi mệt. Sau khi dùng cơm trưa xong, người muốn nghỉ ngơi đôi chút, bèn cho kẻ tùy tùng lui bước. Trước khi nằm nghỉ, hoàng thân đọc kinh cầu nguyện các thần linh.
"Trong giấc ngủ mê, thần Thái Dương Râ nói với hoàng thân như một người cha nói với con:
- Ta nhìn thấy con đây, Thoutmès, con hỡi! Ta là Herou Khout, cha của con, ta muốn cho con giang sơn này. Con sẽ kế nghiệp trên ngai vàng, giang sơn bờ cõi này sẽ thuộc về con tất cả, con sẽ sở hữu những tài nguyên phong phú của xứ Ai Cập và những lân quốc sẽ đem đồ bảo vật đến cống hiến cho con!
"Giấc mộng kết thúc bằng lời kêu gọi khẩn thiết hãy giải tỏa thần tượng Sphinx ra khỏi đống cát phủ phàng nếu hoàng thân muốn kế nghiệp giang sơn Ai Cập như đã hứa.
"Hoàng thân Thoutmès bèn triệt để tuân theo những lời kêu gọi trong giấc mộng, và dùng một số nhân công rất lớn để giải tỏa những đống cát bao phủ thần tượng Sphinx ngập lên đến ngực."
Herou Khout, vị thần linh che chở hình biểu tượng Sphinx đã giữ đúng lời hứa. Hoàng thân được truyền ngôi lên làm vua Ai Cập, qua mặt cả những người anh lớn trong hoàng gia.
Trở nên vua Thoutmès IV, người đem quân đi chinh phạt các lân quốc, luôn luôn thắng trận và mở rộng bờ cõi, đế quốc của người gồm thâu luôn cả xứ Mésopotamie ở phía đông, xứ Nubie ở phía nam, xứ Lybie ở phía tây, trong khi những đồ bảo vật cống hiến đem đến từ xứ Ethiopie, đúng như giấc mộng đã tiên đoán.
Dưới triều đại của nhà vua, tài nguyên sung túc, quốc gia phồn thịnh, nền văn minh Ai Cập đạt đến một trình độ cao tột chưa bao giờ có, thật đúng như lời báo trước trong giấc mộng. Những sự việc kể trên không phải là chuyện huyền thoại hoang đường, mà là những sự kiện có thật trong lịch sử.
Vì người cổ Ai Cập, hơn cả những dân tộc khác của thời đại cổ xưa, đã chép sử một cách chu đáo, xác thực và tinh vi đến nỗi những sự việc xảy ra trong lịch sử của họ được khắc sâu trên tảng đá, để có thể tồn lâu bền hơn gấy mực và sách vở.
Những đốm sao đã lần lượt biến mất trên nền trời xanh đậm. Tôi hiểu rằng đêm thức sáng trắng của tôi đã gần chấm dứt. Tiết trời ban đêm khá lạnh, nhưng tôi cảm thấy cổ họng của tôi lại khô và nóng.
Một lần nữa, tôi đưa mắt nhìn thần tượng bằng đá uy nghiêm, tượng trưng một cách thần diệu đấng thần minh câm lặng và tối cao có phận sự chăm nom gìn giữ bầu thế giới của chúng ta.
Phải chăng tôi đã lật một trang bí sử của thời tiền sử Ai Cập? Có ai dám thầm ước đoán tuổi của thần tượng Sphinx? Nếu người ta chấp nhận rằng nguồn gốc của nó truy nguyên ở châu Atlantide, làm sao có thể định cho nó một năm tháng ngày nhất định?
Tuy vậy tôi không có lý do để loại bỏ cái nguồn gốc đó, nó đã được phát họa một cách sơ lược trong linh ảnh của tôi dưới ánh sao khuya. Châu Atlantide không còn là một chuyện hư ảo của những triết gia Hy Lạp, những tăng lữ Ai Cập và những bộ lạc thổ dân Châu Mỹ.
Không thiếu gì những nhà bác học, mỗi người tiêu biểu cho ngành học thuật chuyên môn của mình, đã thâu lượm trên hàng trăm bằng chứng cụ thể để chứng minh rằng châu ấy có thật. Tôi cũng hiểu rằng khi thần tượng Sphinx được tạc trong khối đá, thì vùng châu thổ ở chung quanh không thể đã bị cát bao phủ, vì với sự chướng ngại của đồng cát, một công trình vĩ đại như thế không thể nào thực hiện được.
Như vậy điều hợp lý nhất là người ta phải nhìn nhận rằng công trình điêu khắc này đã có trước khi đồng bằng châu thổ bị cát chôn lấp, trong khi vùng sa mạc Sahara đang còn là một biển lớn, và ở phía ngoài biển Sahara là vùng lục địa đã có một định mệnh bi thảm, tức châu Atlantide.
Dân Ai Cập thời tiền sử, những người đã tạc thần tượng Sphinx và thành lập ra nền văn minh cổ nhất thế giới, đã từ châu Atlantide đến lập quốc tại vùng châu thổ sông Nil trong một cuộc di cư khổng lồ.
Cuộc di cư đó được thực hiện trước khi châu Atlantide sụp đổ và chìm xuống đáy biển Đại Tây Dương, một cơn tai biến mà hậu quả là làm cho biển Sahara khô cạn và trở thành một vùng sa mạc mênh mông.
Những vỏ sò, vỏ hến rải rác ở nhiều nơi và những bộ xương cá khổng lồ mà người ta tìm thấy chôn dưới cát, chứng tỏ rằng đống cát này ngày xưa chính là ở dưới đáy biển trồi lên.
Thật là cảm động thay khi biết rằng thần tượng Sphinx là một sợi dây liên lạc bền vững, cụ thể, bất biến giữa những thế hệ của nhân loại chúng ta ngày nay với những thế hệ cổ xưa của một thế giới đã tàn, thế giới của người Atlante đã biệt tích! Đối với thế giới hiện đại, hình biểu tượng này đã mất đi cái ý nghĩa của nó, nó chỉ còn là một kỳ quan của địa phương, thế thôi. Nhưng nó có ý nghĩa gì đối với người Atlante?
Để có một ý niệm đại cương, người ta phải sưu tầm những di tích văn minh mà những dân tộc thuộc nguồn gốc châu Atlantide đã bỏ sót lại. Người ta phải truy nguyên, qua những nghi lễ đã suy tàn của những thổ dân Incas hay Mayas, đến sự thờ phụng thuần khiết hơn thuộc về tổ tiên của các dân tộc này.
Nhưng sự sưu tầm đó giúp ta khám phá ra cái mục tiêu tối thượng của sự thờ phượng của họ, đó tức là ánh sáng, biểu hiện bởi ngôi Mặt Trời. Bởi lẽ đó, họ dựng lên khắp nơi bên Mỹ Châu thời cổ những ngôi đền hình kim tự tháp để thờ Mặt Trời. Những ngôi đền đó đều là những kiến trúc đồng một kiểu, hoặc có sửa đổi hình dáng chút ít, với những ngôi đền tương tự đã từng có ở châu Atlantide.
Khi Platon đến Ai Cập để học đạo tại thành Heliopolis trong 13 năm, những vị tăng lữ Ai Cập, thường vẫn rất dè dặt đối với ngoại nhân, ban cho người thí sinh Hy Lạp trẻ tuổi và hăng say này cái hân hạnh là truyền thụ cho y những giáo điều rút trong kho tài liệu bí mật mà họ giữ gìn rất kỹ lưỡng.
Trong số những điều tiết lộ, họ nói cho y biết rằng một Kim Tự Tháp lớn, nóc bằng, từ xưa đã được xây dựng tại trung tâm đảo Atlantide và trên nóc bằng đó, người ta đã dựng lên ngôi đền chánh của vùng lục địa để thờ phượng thần Thái Dương.
Những người Atlande di cư sang Ai Cập đem theo nền tôn giáo của họ và xây dựng tại đây những ngôi đền cùng một kiểu như ở Atlantide. Cái di sản đó của người Atlante có thể biểu lộ những đặc tính của nó ngày nay ở những cột trụ khổng lồ nơi các cổng đền của nó ngày nay ở những cột trụ khổng lồ nơi các cổng đền và những lăng tâm hình dim tự tháp ở Ai Cập. Ngoài ra thần Mặt Trời luôn luôn chiếm một đẳng cấp vào hàng đầu trong các vị thần của Ai Cập.
Người Atlande cũng đem vào Ai Cập cái kỹ thuật điêu khắc đại quy mô cùng cái thẩm mỹ tạc tượng khổng lồ bằng đá. Những đền cổ đã tiêu tàn ở Mễ Tây Cơ, Pérou và Yucatan, do giòng giống người Atlante dựng lên và xây bằng những khối đá to lớn với những chỗ ráp nối rất tinh vi khéo léo, có một kiểu kiến trúc giống như của Ai Cập, cũng như những tượng thần khổng lồ bên trong các thánh điện ở các xứ ấy và ở Ai Cập đều có những nét tương tự như nhau.
Như thế, một điểm ánh sáng nhỏ đã loé lên trong cuộc sưu tầm của chúng tôi về ý nghĩa của thần tượng Sphinx. Người Atlante ở xứ cổ Ai Cập có lẽ muốn dựng nó lên như một pho tượng vĩ đại nhất, hình ảnh của một ý niệm thiêng liêng nhất ghi trong ký ức của họ, mà họ muốn hiến dâng cho vị thần của Ánh Sáng tức thần Mặt Trời.
Có lẽ họ cũng đã dựng lên ở một nơi nào đó ngôi đền của vị thần ấy, ngôi đền này đối với họ cũng phải là ngôi đền vĩ đại nhất và cao trọng hơn tất cả mọi ngôi đền khác.
Thần tượng Sphinx bằng đá là cái biểu tượng tôn quý của một giống người tôn thờ ánh sáng như một cái gì gần nhất với Thiêng Liêng. Ánh sáng là một vật tinh vi, tế nhị nhất trong những sự vật mà con người có thể cảm xúc được bằng một trong năm giác quan.
Đó lá vật thanh nhẹ nhất mà khoa học có thể thực nghiệm; những luồng quang tuyến khác nhau đều là những loại ánh sáng rung động với một tốc độ ngoài phạm vi tiếp nhận được bởi con người chúng ta. Trong quyển Tạo Thiên Lập Địa cũng nói ánh sáng là vật được sáng tạo trước tiên; không có nó thì không có sinh vật nào sống được.
"Tinh thần của Thượng Đế lướt trên mặt của vực thẳm", Moise đã viết trong quyển sách kể trên "Và Thượng Đế nói: Ánh sáng hãy hiện ra! Và ánh sáng mới có". Phải chăng đó cũng là một biểu tượng hoàn hảo của cái ánh sáng thiêng liêng nó xuất hiện ra từ chỗ thâm sâu nhất của linh hồn khi con người hiến dâng trọn vẹn cả tôm hồn lẫn trí mình cho Thượng Đế?
Từ ngôi mặt trời, mới phát sinh ra ánh sáng, rồi ánh sáng mới tỏa ra khắp thế gian. Không có mặt trời, muôn loài vạn vật sẽ bị vĩnh viễn đắm chìm trong đêm tối rùng rợn, không còn cây cối thảo mộc, không còn gặt hái mùa màng, loài người sẽ không còn tồn tại và sẽ biến mất khỏi mặt đất.
Nếu sự tôn thờ ánh sáng và mặt trời là cái nguyên lý chính yếu của nền tôn giáo châu Atlantide, nó cũng chiếm một địa vị tương đương trong nền tôn giáo cổ Ai Cập. Râ thần Thái Dương, là vị chủ tể, là cha và đấng sáng tạo của tất cả các vị thần linh khác, là đấng Sáng Tạo ra tạo vật, vô sinh bất diệt.
Nếu thần tượng Sphinx thuộc về tôn giáo của ánh sáng, thì chắc là nó cũng có liên hệ đến Mặt Trời.
Vì sau khi tôi dạy phía mặt trời mọc, tôi mới nhớ lại cái dĩa bằng vàng trong linh ảnh hiện ra trongtrí tôi hồi đêm, và sự liên hệ đó xuất hiện ra với tôi mau như chớp nhoáng. Để thử lại cho chắc chắn. Tôi mới cem kỹ lại một vật mà tôi đeo ở cườm tay phải, cái địa bàn dạ quang, nó là một hướng dẫn viên chắc chắn và bạn tốt của tôi.
Và tôi nhận thấy rằng thần tượng Sphinx day mặt về hướng mà vầng Thái Dương bắt đầu xuất hiện mỗi ngày trên chân trời! Việc định hướng đông là để tượng trưng cho sự sống tái diễn không ngừng; cũng y như thế, những lăng tẩm của các nhà vua Ai Cập được xây cất trên bờ phía Tây sông Nil để tượng trưng cho sự sống đã qua, giống như mặt trời lặn.
Cũng như mặt trời lên cao tận giữa lừng trời, thì con người, sau khi được phục sinh, thăng lên cõi tinh thần. Cũng như vầng Thái Dương đi xuyên qua vòm trời rồi tiếp tục lộ trình, khuất mắt đối với chúng ta ở phía dưới chân trời, thì con người cũng phải đi nhiều vòng luân chuyển từ thế giới này qua cõi giới khác.
Con quái vật khổng lồ nơi đó biểu hiện sức mạnh của con sư tử, trí thông minh của con người và sự bằng an trầm lặng của đấng thần minh, muốn dạy ta một điều chân lý bất hủ về sự cần làm chủ lấy mình, vì con người có mục đích chủ trị những thú tánh và thắng con vật nằm trong lòng y.
Có ai ngắm nhìn cái thân mình to lớn bằng đá với những móng chân và móng vuốt sư tử, với cái đầu và gương mặt của một người cốt cách phong nhã như thần tượng Sphinx mà không thu thập lấy cái bài học sơ đẳng ấy?
Ai có thể khám phá cái ý nghĩa của biểu tượng con rắn cobra phùng mang, tượng trưng cái uy quyền của vua Ai Cập mà các vị vua chúa thường gắn trên mão, mà không hiểu rằng hình biểu tượng Sphinx không phải khuyến khích ta thống trị kẻ khác mà hãy chủ trị lấy mình? Nó là nhà truyền giáo câm lặng, một nhà giáo sĩ bằng đá, thuyết pháp bằng sự im lặng cho những ai có tai biết nghe.
Phải chăng thần tượng Sphinx tượng trưng cho một vật có tính chất thiêng liêng? Đúng thế, nếu người ta tin theo những chữ ám tự khắc trên vách các ngôi đền ở miền thượng du Ai Cập, chẳng hạn như ở Edfou, nơi đó người ta thấy một vị thần biến hình thành một con sư tử đầu người để chiến thắng Set, quỷSatan Ai Cập.
Một sự kiện lạ lùng làm cho người ta nghĩ rằng thần tượng Sphinx có chứa đựng một bí mật kiến trúc nào đó và che dấu vài điều bí mật khắc trong đá. Rải rác khắp nơi ở Ai Cập, những thần tượng Sphinx kiểu nhỏ được dựng lên trước những ngôi đền miếu như là những vị thần canh gác và bảo vệ ngoài cổng thánh đường.
Trong vài trường hợp, ngoài cổng đền cũng có dựng lên những tượng sư tử bằng đá. Thậm chí những chìa khóa mở cửa đền cũng đúc giống hình sư tử. Thần tượng Sphinx ở Gizeh hình như là pho tượng duy nhất mà người ta không thấy đứng trước một ngôi đền nào.
Vậy ngôi đền thật sự của hình biểu tượng Sphinx là ở đâu? Tôi ngửng đầu lên và nhìn về phía sau pho tượng đá. Từ chỗ tôi ngồi, tôi nhìn thấy hãy còn vương lên một cách lu mờ dưới ánh sáng đầu tiên của buổi rạng đông, đưa thẳng lên trời cái mũi nhọn hơi tà đầu ngôi kiến trúc vĩ đại nhất của thế giới.
Cái kho tàng bí mật bằng đá chưa hề được giải đáp, cái phép lạ tuyệt vời của vũ trụ đối với cổ nhân và đối với cả chúng ta, cái bài toán đố bí hiểm của tất cả mọi thời đại, người bạn xứng đáng của thần tượng Sphinx khổng lồ: Ngọn Kim Tự Tháp!
Cả hai kỳ quan, được dựng lên từ hồi thời đại Atlantide, đều vươn lên mình như những bằng chứng của vùng lục địa đã sụp đổ, và như cái di sản câm lặng của một giống người đã biệt tích một cách cũng bí mật như vùng lục địa quê hương của họ.
Cả hai thứ kỳ quan đều nhắc nhở cho hậu thế, những kẻ kế nghiệp giống người Atlante, biết những thành tích huy hoàng của nền văn minh đã mất.
THẦN CANH GIỮ SA MẠC
Chương Hai
Các bầu tinh tú vẫn đua nhau chớp trên nền trời xanh thẫm con trăng thượng tuần vẫn tiếp tục chói rạng trên đỉnh đầu chúng tôi, thần tượng Sphinx có vẻ biến đổi màu sắc vẫn vươn mình một cách hùng dũng dưới ánh trăng bạc. Khi tôi day đầu qua bên trái là nơi mà trong linh ảnh vừa rồi hiện ra trong trí tôi, tôi đã nhìn thấy biển cả gầm thét như sấm động và nuốt trôi cả vùng đất liền.
Một con dơi, có lẽ lầm tưởng tôi là phiến đá vô tri bất động như cái bối cảnh chung quanh, vỗ đôi cánh đụng vào đầu tôi rồi bay mất, làm cho tôi có cái cảm giác ghê tởm và rờn rợn người nơi sương xuống. Tôi nghĩ rằng có lẽ nó vừa mới chui ra từ trong một cái nấm mồ chôn xác ướp mà người ta vừa khai quật ở vùng gần bên.
Tôi ngắm nhìn cái đồng cát mênh mông chiếm trọn một diện tích ba triệu dặm vuông của vùng sa mạc Sahara, diễn ra đến tận chân trời cho đến chỗ nó giáp ranh với một dãy núi đồi dài dựng đứng như thành quách, che chở xứ Ai Cập và vùng châu thổ sông Nil. Thiên nhiên dường như cố ý dựng lên những dãy đồi của xứ Libye để bảo toàn cho xứ Ai Cập khỏi bị chôn vùi dưới đống cát của bãi sa mạc này.
Mối nguy cơ đó là một sự thật hiển nhiên. Mỗi năm vào đầu mùa xuân, một trận cuồng phong với một sức mạnh và tốc độ kinh khủng, khai chiến với vùng bắc phi và thổi mạnh qua như vũ bão từ bờ biển Đại Tây Dương, xuyên qua trọn cả vùng lục địa Châu Phi.
Chẳng khác nào một đạo binh xâm lượt khát máu và tàn bạo, trận gió lớn đi đến đâu, càng quất cát bụi đi đến đấy. Những cơn gió trốt cát bụi đi theo thành những cơn bão cát gieo sự tàn phá khắp nơi, chôn lắp nhà cửa, dinh thự, đền đài và thậm chí chôn luôn trọn cả những thành phố. Đó là cái mãnh lực của những hột cát vàng, nó ngự trị vùng này như một lãnh chúa quyền uy vô địch.
Sức mạnh của những cơn bão cát có thể làm cho nền trời hoàn toàn sẫm tối và che khuất cả mặt trời. Những cơn gió trốt cuốn cát dậy lên dày đặc như sa mù ở Luân Đôn, thổi hết tốc lực, rồi nế không có gì ngăn chặn, nó sẽ quét sạch và chinh phục mọi chướng ngại gặp ở dọc đường.
Tôi nhìn pho tượng đá Sphinx, những nét trên mặt của nó chỉ hiện ra một cách lu mờ dưới ánh sao khuya, nhưng cái miệng của nó, bề rộng có đến hai thước, đượm một vẻ bi thư hầu như đến rùng rợn, khác hẳn với cái nụ cười hồn nhiên của nhân vật hiện ra trong linh ảnh của tôi khi nãy, là hình biểu tượng Sphinx của thời buổi sơ khai, của thời đại Atlantide.
Những cơn gió bão của ca mạc thổi với tốc độ cuồng loạn đã sát phạt gương mặt của nó, cùng với sự hủy hoại do bàn tay phủ phàng thô bạo của những kẻ phàm phu không hề biết kính trọng quỷ thần!
Tự nhiên là những cơn bảo cát đã tấn công hình biểu tượng này, khi thì âm thầm che lấp bao phủ, khi thì ào ào sát phạt với cơn thịnh nộ của vũ bảo. Nó đã từng bị chôn lấp hay chăng: Đã hẳn rồi không còn nghi ngờ gì nữa.
Tôi nhớ đến giấc mộng huyền bí mà vua Thoutmès IV đã kể lại bằng chữ ám tự (hiéroglyphes) khắc trên phiến đá đỏ dựng lên giữa hai chân con sư tử đá. Tôi cũng nhớ lại lời than thở của nó trong giấc mộng vừa kể, khi nó bị cát chôn lấp đến cổ:
- Cát sa mạc đã lấp ta (vị thần che chở của nó nói), ta càng ngày càng bị chôn sâu hơn. Hãy mau ra tay dẹp cát đi, rồi ta sẽ coi ngươi như con ta và như ngươi trợ giúp ta.
Khi tỉnh giấc, vua Thoutmès nghĩ thầm rằng: "Dân chúng trong thành chỉ biết tôn sùng vị thần này, mà không có một người nào từng nghĩ đến việc giải tỏa pho tượng của ngài khỏi bị cát lấp."
Những hình vẽ ở phía trên phiến đá vẽ nhà vua dâng hương cho thần tượng Sphinx, kế đó là bài tường thuật giấc mộng lạ lùng của nhà vua, khắc bằng chữ ám tự:
"Hoàng thân Thoutmès cùng vài người bạn đi săn trong vùng Gizeh, ở ven sa mạc. Trên đường về hướng nam, hoàng thân đã tập bắn cung vào những tấm bia bằng đồng, săn sư tử và các loại thú dữ của sa mạc, và tập dong xe với những con tuấn mã chạy nhanh hơn gió.
"Vào lúc giữa trưa, hoàng thân dừng cuộc du hí vì đã quá mỏi mệt. Sau khi dùng cơm trưa xong, người muốn nghỉ ngơi đôi chút, bèn cho kẻ tùy tùng lui bước. Trước khi nằm nghỉ, hoàng thân đọc kinh cầu nguyện các thần linh.
"Trong giấc ngủ mê, thần Thái Dương Râ nói với hoàng thân như một người cha nói với con:
- Ta nhìn thấy con đây, Thoutmès, con hỡi! Ta là Herou Khout, cha của con, ta muốn cho con giang sơn này. Con sẽ kế nghiệp trên ngai vàng, giang sơn bờ cõi này sẽ thuộc về con tất cả, con sẽ sở hữu những tài nguyên phong phú của xứ Ai Cập và những lân quốc sẽ đem đồ bảo vật đến cống hiến cho con!
"Giấc mộng kết thúc bằng lời kêu gọi khẩn thiết hãy giải tỏa thần tượng Sphinx ra khỏi đống cát phủ phàng nếu hoàng thân muốn kế nghiệp giang sơn Ai Cập như đã hứa.
"Hoàng thân Thoutmès bèn triệt để tuân theo những lời kêu gọi trong giấc mộng, và dùng một số nhân công rất lớn để giải tỏa những đống cát bao phủ thần tượng Sphinx ngập lên đến ngực."
Herou Khout, vị thần linh che chở hình biểu tượng Sphinx đã giữ đúng lời hứa. Hoàng thân được truyền ngôi lên làm vua Ai Cập, qua mặt cả những người anh lớn trong hoàng gia.
Trở nên vua Thoutmès IV, người đem quân đi chinh phạt các lân quốc, luôn luôn thắng trận và mở rộng bờ cõi, đế quốc của người gồm thâu luôn cả xứ Mésopotamie ở phía đông, xứ Nubie ở phía nam, xứ Lybie ở phía tây, trong khi những đồ bảo vật cống hiến đem đến từ xứ Ethiopie, đúng như giấc mộng đã tiên đoán.
Dưới triều đại của nhà vua, tài nguyên sung túc, quốc gia phồn thịnh, nền văn minh Ai Cập đạt đến một trình độ cao tột chưa bao giờ có, thật đúng như lời báo trước trong giấc mộng. Những sự việc kể trên không phải là chuyện huyền thoại hoang đường, mà là những sự kiện có thật trong lịch sử.
Vì người cổ Ai Cập, hơn cả những dân tộc khác của thời đại cổ xưa, đã chép sử một cách chu đáo, xác thực và tinh vi đến nỗi những sự việc xảy ra trong lịch sử của họ được khắc sâu trên tảng đá, để có thể tồn lâu bền hơn gấy mực và sách vở.
Những đốm sao đã lần lượt biến mất trên nền trời xanh đậm. Tôi hiểu rằng đêm thức sáng trắng của tôi đã gần chấm dứt. Tiết trời ban đêm khá lạnh, nhưng tôi cảm thấy cổ họng của tôi lại khô và nóng.
Một lần nữa, tôi đưa mắt nhìn thần tượng bằng đá uy nghiêm, tượng trưng một cách thần diệu đấng thần minh câm lặng và tối cao có phận sự chăm nom gìn giữ bầu thế giới của chúng ta.
Phải chăng tôi đã lật một trang bí sử của thời tiền sử Ai Cập? Có ai dám thầm ước đoán tuổi của thần tượng Sphinx? Nếu người ta chấp nhận rằng nguồn gốc của nó truy nguyên ở châu Atlantide, làm sao có thể định cho nó một năm tháng ngày nhất định?
Tuy vậy tôi không có lý do để loại bỏ cái nguồn gốc đó, nó đã được phát họa một cách sơ lược trong linh ảnh của tôi dưới ánh sao khuya. Châu Atlantide không còn là một chuyện hư ảo của những triết gia Hy Lạp, những tăng lữ Ai Cập và những bộ lạc thổ dân Châu Mỹ.
Không thiếu gì những nhà bác học, mỗi người tiêu biểu cho ngành học thuật chuyên môn của mình, đã thâu lượm trên hàng trăm bằng chứng cụ thể để chứng minh rằng châu ấy có thật. Tôi cũng hiểu rằng khi thần tượng Sphinx được tạc trong khối đá, thì vùng châu thổ ở chung quanh không thể đã bị cát bao phủ, vì với sự chướng ngại của đồng cát, một công trình vĩ đại như thế không thể nào thực hiện được.
Như vậy điều hợp lý nhất là người ta phải nhìn nhận rằng công trình điêu khắc này đã có trước khi đồng bằng châu thổ bị cát chôn lấp, trong khi vùng sa mạc Sahara đang còn là một biển lớn, và ở phía ngoài biển Sahara là vùng lục địa đã có một định mệnh bi thảm, tức châu Atlantide.
Dân Ai Cập thời tiền sử, những người đã tạc thần tượng Sphinx và thành lập ra nền văn minh cổ nhất thế giới, đã từ châu Atlantide đến lập quốc tại vùng châu thổ sông Nil trong một cuộc di cư khổng lồ.
Cuộc di cư đó được thực hiện trước khi châu Atlantide sụp đổ và chìm xuống đáy biển Đại Tây Dương, một cơn tai biến mà hậu quả là làm cho biển Sahara khô cạn và trở thành một vùng sa mạc mênh mông.
Những vỏ sò, vỏ hến rải rác ở nhiều nơi và những bộ xương cá khổng lồ mà người ta tìm thấy chôn dưới cát, chứng tỏ rằng đống cát này ngày xưa chính là ở dưới đáy biển trồi lên.
Thật là cảm động thay khi biết rằng thần tượng Sphinx là một sợi dây liên lạc bền vững, cụ thể, bất biến giữa những thế hệ của nhân loại chúng ta ngày nay với những thế hệ cổ xưa của một thế giới đã tàn, thế giới của người Atlante đã biệt tích! Đối với thế giới hiện đại, hình biểu tượng này đã mất đi cái ý nghĩa của nó, nó chỉ còn là một kỳ quan của địa phương, thế thôi. Nhưng nó có ý nghĩa gì đối với người Atlante?
Để có một ý niệm đại cương, người ta phải sưu tầm những di tích văn minh mà những dân tộc thuộc nguồn gốc châu Atlantide đã bỏ sót lại. Người ta phải truy nguyên, qua những nghi lễ đã suy tàn của những thổ dân Incas hay Mayas, đến sự thờ phụng thuần khiết hơn thuộc về tổ tiên của các dân tộc này.
Nhưng sự sưu tầm đó giúp ta khám phá ra cái mục tiêu tối thượng của sự thờ phượng của họ, đó tức là ánh sáng, biểu hiện bởi ngôi Mặt Trời. Bởi lẽ đó, họ dựng lên khắp nơi bên Mỹ Châu thời cổ những ngôi đền hình kim tự tháp để thờ Mặt Trời. Những ngôi đền đó đều là những kiến trúc đồng một kiểu, hoặc có sửa đổi hình dáng chút ít, với những ngôi đền tương tự đã từng có ở châu Atlantide.
Khi Platon đến Ai Cập để học đạo tại thành Heliopolis trong 13 năm, những vị tăng lữ Ai Cập, thường vẫn rất dè dặt đối với ngoại nhân, ban cho người thí sinh Hy Lạp trẻ tuổi và hăng say này cái hân hạnh là truyền thụ cho y những giáo điều rút trong kho tài liệu bí mật mà họ giữ gìn rất kỹ lưỡng.
Trong số những điều tiết lộ, họ nói cho y biết rằng một Kim Tự Tháp lớn, nóc bằng, từ xưa đã được xây dựng tại trung tâm đảo Atlantide và trên nóc bằng đó, người ta đã dựng lên ngôi đền chánh của vùng lục địa để thờ phượng thần Thái Dương.
Những người Atlande di cư sang Ai Cập đem theo nền tôn giáo của họ và xây dựng tại đây những ngôi đền cùng một kiểu như ở Atlantide. Cái di sản đó của người Atlante có thể biểu lộ những đặc tính của nó ngày nay ở những cột trụ khổng lồ nơi các cổng đền của nó ngày nay ở những cột trụ khổng lồ nơi các cổng đền và những lăng tâm hình dim tự tháp ở Ai Cập. Ngoài ra thần Mặt Trời luôn luôn chiếm một đẳng cấp vào hàng đầu trong các vị thần của Ai Cập.
Người Atlande cũng đem vào Ai Cập cái kỹ thuật điêu khắc đại quy mô cùng cái thẩm mỹ tạc tượng khổng lồ bằng đá. Những đền cổ đã tiêu tàn ở Mễ Tây Cơ, Pérou và Yucatan, do giòng giống người Atlante dựng lên và xây bằng những khối đá to lớn với những chỗ ráp nối rất tinh vi khéo léo, có một kiểu kiến trúc giống như của Ai Cập, cũng như những tượng thần khổng lồ bên trong các thánh điện ở các xứ ấy và ở Ai Cập đều có những nét tương tự như nhau.
Như thế, một điểm ánh sáng nhỏ đã loé lên trong cuộc sưu tầm của chúng tôi về ý nghĩa của thần tượng Sphinx. Người Atlante ở xứ cổ Ai Cập có lẽ muốn dựng nó lên như một pho tượng vĩ đại nhất, hình ảnh của một ý niệm thiêng liêng nhất ghi trong ký ức của họ, mà họ muốn hiến dâng cho vị thần của Ánh Sáng tức thần Mặt Trời.
Có lẽ họ cũng đã dựng lên ở một nơi nào đó ngôi đền của vị thần ấy, ngôi đền này đối với họ cũng phải là ngôi đền vĩ đại nhất và cao trọng hơn tất cả mọi ngôi đền khác.
Thần tượng Sphinx bằng đá là cái biểu tượng tôn quý của một giống người tôn thờ ánh sáng như một cái gì gần nhất với Thiêng Liêng. Ánh sáng là một vật tinh vi, tế nhị nhất trong những sự vật mà con người có thể cảm xúc được bằng một trong năm giác quan.
Đó lá vật thanh nhẹ nhất mà khoa học có thể thực nghiệm; những luồng quang tuyến khác nhau đều là những loại ánh sáng rung động với một tốc độ ngoài phạm vi tiếp nhận được bởi con người chúng ta. Trong quyển Tạo Thiên Lập Địa cũng nói ánh sáng là vật được sáng tạo trước tiên; không có nó thì không có sinh vật nào sống được.
"Tinh thần của Thượng Đế lướt trên mặt của vực thẳm", Moise đã viết trong quyển sách kể trên "Và Thượng Đế nói: Ánh sáng hãy hiện ra! Và ánh sáng mới có". Phải chăng đó cũng là một biểu tượng hoàn hảo của cái ánh sáng thiêng liêng nó xuất hiện ra từ chỗ thâm sâu nhất của linh hồn khi con người hiến dâng trọn vẹn cả tôm hồn lẫn trí mình cho Thượng Đế?
Từ ngôi mặt trời, mới phát sinh ra ánh sáng, rồi ánh sáng mới tỏa ra khắp thế gian. Không có mặt trời, muôn loài vạn vật sẽ bị vĩnh viễn đắm chìm trong đêm tối rùng rợn, không còn cây cối thảo mộc, không còn gặt hái mùa màng, loài người sẽ không còn tồn tại và sẽ biến mất khỏi mặt đất.
Nếu sự tôn thờ ánh sáng và mặt trời là cái nguyên lý chính yếu của nền tôn giáo châu Atlantide, nó cũng chiếm một địa vị tương đương trong nền tôn giáo cổ Ai Cập. Râ thần Thái Dương, là vị chủ tể, là cha và đấng sáng tạo của tất cả các vị thần linh khác, là đấng Sáng Tạo ra tạo vật, vô sinh bất diệt.
Nếu thần tượng Sphinx thuộc về tôn giáo của ánh sáng, thì chắc là nó cũng có liên hệ đến Mặt Trời.
Vì sau khi tôi dạy phía mặt trời mọc, tôi mới nhớ lại cái dĩa bằng vàng trong linh ảnh hiện ra trongtrí tôi hồi đêm, và sự liên hệ đó xuất hiện ra với tôi mau như chớp nhoáng. Để thử lại cho chắc chắn. Tôi mới cem kỹ lại một vật mà tôi đeo ở cườm tay phải, cái địa bàn dạ quang, nó là một hướng dẫn viên chắc chắn và bạn tốt của tôi.
Và tôi nhận thấy rằng thần tượng Sphinx day mặt về hướng mà vầng Thái Dương bắt đầu xuất hiện mỗi ngày trên chân trời! Việc định hướng đông là để tượng trưng cho sự sống tái diễn không ngừng; cũng y như thế, những lăng tẩm của các nhà vua Ai Cập được xây cất trên bờ phía Tây sông Nil để tượng trưng cho sự sống đã qua, giống như mặt trời lặn.
Cũng như mặt trời lên cao tận giữa lừng trời, thì con người, sau khi được phục sinh, thăng lên cõi tinh thần. Cũng như vầng Thái Dương đi xuyên qua vòm trời rồi tiếp tục lộ trình, khuất mắt đối với chúng ta ở phía dưới chân trời, thì con người cũng phải đi nhiều vòng luân chuyển từ thế giới này qua cõi giới khác.
Con quái vật khổng lồ nơi đó biểu hiện sức mạnh của con sư tử, trí thông minh của con người và sự bằng an trầm lặng của đấng thần minh, muốn dạy ta một điều chân lý bất hủ về sự cần làm chủ lấy mình, vì con người có mục đích chủ trị những thú tánh và thắng con vật nằm trong lòng y.
Có ai ngắm nhìn cái thân mình to lớn bằng đá với những móng chân và móng vuốt sư tử, với cái đầu và gương mặt của một người cốt cách phong nhã như thần tượng Sphinx mà không thu thập lấy cái bài học sơ đẳng ấy?
Ai có thể khám phá cái ý nghĩa của biểu tượng con rắn cobra phùng mang, tượng trưng cái uy quyền của vua Ai Cập mà các vị vua chúa thường gắn trên mão, mà không hiểu rằng hình biểu tượng Sphinx không phải khuyến khích ta thống trị kẻ khác mà hãy chủ trị lấy mình? Nó là nhà truyền giáo câm lặng, một nhà giáo sĩ bằng đá, thuyết pháp bằng sự im lặng cho những ai có tai biết nghe.
Phải chăng thần tượng Sphinx tượng trưng cho một vật có tính chất thiêng liêng? Đúng thế, nếu người ta tin theo những chữ ám tự khắc trên vách các ngôi đền ở miền thượng du Ai Cập, chẳng hạn như ở Edfou, nơi đó người ta thấy một vị thần biến hình thành một con sư tử đầu người để chiến thắng Set, quỷSatan Ai Cập.
Một sự kiện lạ lùng làm cho người ta nghĩ rằng thần tượng Sphinx có chứa đựng một bí mật kiến trúc nào đó và che dấu vài điều bí mật khắc trong đá. Rải rác khắp nơi ở Ai Cập, những thần tượng Sphinx kiểu nhỏ được dựng lên trước những ngôi đền miếu như là những vị thần canh gác và bảo vệ ngoài cổng thánh đường.
Trong vài trường hợp, ngoài cổng đền cũng có dựng lên những tượng sư tử bằng đá. Thậm chí những chìa khóa mở cửa đền cũng đúc giống hình sư tử. Thần tượng Sphinx ở Gizeh hình như là pho tượng duy nhất mà người ta không thấy đứng trước một ngôi đền nào.
Vậy ngôi đền thật sự của hình biểu tượng Sphinx là ở đâu? Tôi ngửng đầu lên và nhìn về phía sau pho tượng đá. Từ chỗ tôi ngồi, tôi nhìn thấy hãy còn vương lên một cách lu mờ dưới ánh sáng đầu tiên của buổi rạng đông, đưa thẳng lên trời cái mũi nhọn hơi tà đầu ngôi kiến trúc vĩ đại nhất của thế giới.
Cái kho tàng bí mật bằng đá chưa hề được giải đáp, cái phép lạ tuyệt vời của vũ trụ đối với cổ nhân và đối với cả chúng ta, cái bài toán đố bí hiểm của tất cả mọi thời đại, người bạn xứng đáng của thần tượng Sphinx khổng lồ: Ngọn Kim Tự Tháp!
Cả hai kỳ quan, được dựng lên từ hồi thời đại Atlantide, đều vươn lên mình như những bằng chứng của vùng lục địa đã sụp đổ, và như cái di sản câm lặng của một giống người đã biệt tích một cách cũng bí mật như vùng lục địa quê hương của họ.
Cả hai thứ kỳ quan đều nhắc nhở cho hậu thế, những kẻ kế nghiệp giống người Atlante, biết những thành tích huy hoàng của nền văn minh đã mất.
#62
Gửi vào 08/06/2011 - 11:28
AI CẬP HUYỀN BÍ
NGỌN KIM TỰ THÁP
Chương Ba
Những vị vua Ai Cập Pharaon nay đã hóa ra người thiên cổ, nhưng ngày nay họ còn để lại cho chúng ta những Kim Tự Tháp kiến trúc hùng vĩ, kiên cố dựng trên một vùng cao nguyên nhô giữa đồng cát.
Nếu nước cổ Ai Cập vẫn còn hấp dẫn sự chú ý và thích thú của thế giới hiện đại, thì trước hết là nhờ bởi những ngọn tháp này làm bằng chứng của thời đại cổ xưa ấy. Không có một đế quốc Đông Phương nào đã biệt tích mà để lại cho hậu thế những kỳ quan vĩ đại và lạ lùng như thế.
Triết gia Pline khẳng định rằng uy danh của các Kim Tự Tháp Ai Cập sẽ vang dội đến chỗ tận cùng của thế giới. Kể từ ấy đã có hai nghìn năm qua, những thời gian không hề xóa mờ cái uy tín đó. Gần đây tôi có viết thư vài người bạn sống một cuộc đời rất ẩn dật tại một vùng hẻo lánh ở dưới tậncùng miền nam Ấn Độ.
Những người này có lẽ không bao giờ đi xa hơn dãy đồi ở vùng chung quanh làng họ Ở, họ không hề chọc phá thế gian và thế gian cũng không hề làm phiền họ. Tôi cho họ biết về những công việc sưu tầm mà tôi đang theo đuổi ở ngọn Kim Tự Tháp lớn.
Tôi không cần giải thích đó là cái gì và nó ở tại đâu, vì tôi biết chắc họ cũng biết rõ. Bức thư trả lời của họ đã xác nhận sự tin tưởng của tôi. Thật vậy những người Ấn Độ chất phát này đã biết rõ đó là cái gì. Uy danh của những Kim Tự Tháp đã vang dội xa hơn là hồi thời đại của triết gia Pline.
Những ngôi kiến trúc cổ bất chấp sự tàn phá của thời gian này đã hấp dẫn sự chú ý của các nhà bác học cũng như sự tò mò của người đời. Tại sao? Bởi vì chúng xuất hiện từ vực thẩm của một dĩ vãng xa xăm, và cũng bởi vì kích thước quy mô của những ngọn tháp này đã làm ngạc nhiên cả một thế hệ loài người đã từng quen thuộc với lối kiến trúc khổng lồ.
Lần đầu tiên mà chúng ta nhìn Kim Tự Tháp, chúng ta có cảm giác như trở về một thời đại cổ xưa lạ lùng, mà nét cổ kính thâm nghiêm biểu lộ rõ ràng ở lối kiến trúc dị kỳ ấy. Chúng ta lấy làm ngạc nhiên mà thấy bằng cách nào những dân tộc cổ xưa đã xây dựng trên một bãi sa mạc khô khan những ngọn núi nhân tạo như thế, không thua kém cả những công trình tạo tác thiên nhiên.
Khi những viên tướng soái Hy Lạp tiến vào Ai Cập và nhìn thấy những ngôi kiến trúc phi thường này chỉ mũi nhọn thẳng lên nền trời xanh của vùng sa mạc, họ nín thở vì ngạc nhiên và đứng nhìn trân trối trong im lặng. Khi những nhà hiền triết của thời đại Alexandre soạn một quyển sách nói về những đại kỳ quan của thế giới, họ để Kim Tự Tháp đứng lên hàng đầu. Ngày nay, trong số bảy kỳ quan, chỉ còn cái kỳ quan đầu tiên là còn đứng vững.
Nhưng cái tính cách cổ xưavà kích thước vĩ đại đó dẫu rằng có gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đời, cũng chưa phải lý do duy nhất đã làm cho ngọn Kim Tự Tháp có cái uy danh lừng lẫy như vậy.
Có nhiều sự kiện được người đời biết rõ hoặc không hề biết về Kim Tự Tháp lớn, có thể gây cho chúng ta một sự kinh ngạc lớn lao không kém sự kinh ngạc mà nó đã gây ra cho người cổ Hy Lạp.
Vậy cổ nhân xây Kim Tự Tháp với mụch đích gì? Thần tượng Sphinx tượng trưng cho cái gì? Đó là hai điều bí mật lạ lùng nhất, hào hứng sôi nổi nhất mà xứ Ai Cập dành cho du khách ngoại quốc cũng như cho dân tộc của họ. Đó cũng là những bí mật khó giải đáp nhất.
Phải chăng Kim Tự Tháp Ai Cập được dựng lên chỉ để làm ngôi mộ tàng trữ cái xác ướp của vua Pharaon? Ta có nên dựa theo những quyển du lịcxh chỉ nam và nhe theo lời của những người chỉ dẫn viên Ả Rập mà tin như vậy chăng? Có lẽ nào người ta lại dựng lên một ngôi kiến trúc vĩ đại với những khối đá tảng hằng mấy người ôm, cắt ra từ vùng núi đá vôi Tourah và cưa ra từ trong động đá đỏ Syène ở xa hơn nữa, chỉ để che lấp một cái thi hài bọc lụa trắng?
Có lẽ nào người ta đã phí mất biết bao nhiêu công lao khó nhọc, làm việc ráo riết dưới cái nóng thiêu người của mặt trời Châu Phi, vận chuyển trên ba mươi triệu thước khối đá tảng, chỉ để phục vụ ý muốn sau cùng của một ông vua? Có lẽ nào người ta chịu khó cẩn thận ráp nối hai triệu ba trăm nghàn tảng đá khối, mỗi tảng nặng khoảng hai tấn rưỡi, để làm một cái mộ chỉ cần có vài tảng đá cũng xong?
Những sử gia thận trọng cho biết rằng người ta không hề tìm thấy trong Kim Tự Tháp một quan tài, một xác chết, hay một cỗ xe tang nào, dẫu rằng có vài truyền thống cho rằng một trong những vì vua Ai Cập có cho dựng trước cửa cung một cái hòm dựng xác ướp bằng gỗ trạm trổ rất khéo, mà người ta đã lấy từ Kim Tự Tháp đem về.
Trên những vách tường Kim Tự Tháp không thấy có khắc những chữ ám tự hay trạm hình nổi hoặc tranh vẽ những sự việc xảy ra trong thuở sanh tiền của các nhà vua đã băng, nói tóm lại không hề có những gì mà người ta thường thấy bên trong tất cả những ngôi mộ và lăng tẩm khác của Ai Cập.
Các vách tường bên trong Kim Tự Tháp đều trống trơn, không trình bày những mỹ phẩm như tranh vẽ, hình nổi, hay ám tự để trang hoàng cho đẹp mắt các vị vua Pharaon tường hay bày biện trong các lăng tẩm của họ, cũng không có dấu vết nào của sự trang trí mà người ta thường thấy ở những ngôi mộ quan trọng nhất ở xứ Ai Cập.
Điều mà có lẽ người ta cho là bằng chứng hiển nhiên nhất của giả thuyết đó là lăng tẩm của một vị vua Ai Cập, là cái hòm trống trơn bằng đá đỏ, không đậy nắm, đặt dưới đất trong phòng lớn mà về sau người ta gọi là Vương Cung. Phải chăng cái hòm đá đã quá rõ rệt là cái quan tài của vua? Đối với nhà Ai Cập Học, điều đó đã hiển nhiên và vấn đề đã được giải quyết.
Nhưng tại sao hai bên chiếc hòm bằng đá này không có khắc những chữ ám tự hoặc tranh vẽ theo thủ tục thông thường của nền tôn giáo cổ Ai Cập? Tại sao không thấy có một chữ nào hay một câu văn tự nào?
Mọi cỗ quan tài khác đều luôn luôn có khắc chữ hoặc hình ảnh để lưu lại những kỷ niệm, ký ức về những trường hợp xảy ra chung quanh cái chết của người quá vãng. Tại sao cỗ quan tài này lại là một ngoại lệ, nếu nó là cái quan tài của một trong các vị minh vương nổi tiếng nhất của Ai Cập?
Tại sao ống thông hơi dài trên bảy mươi thước được đặt từ trong phòng đựng cỗ quan tài bằng đá để thông với không khí bên ngoài? Những xác ướp không cần thở không khí, còn phu thợ họ cũng không cần trở lại phòng làm gì nữa một khi họ đã xây xong cái nóc phòng. Không một nơi nào ở Ai Cập tôi thấy có một ngôi mộ của các bậc vua chúa mà có những ống thông hơi với bên ngoài.
Tại sao người ta đặt cỗ quan tài trong một phòng năm mươi thước cao hơn mặt đất, trong khi ở những nơi khác người ta thường đào hầm đặt quan tài sâu dưới lòng đất? Đó là cái tập tục thông dụng khắp xứ, người ta đặt thi hài người chết hoặc dưới lòng đất hoặc trên mặt đất. Há ta chẳng thường nghe nhắn nhủ rằng: "Ngươi là các bụi, và ngươi sẽ trở về cát bụi."
Tại sao người ta đặt gian phòng thứ nhì, gọi là Hậu Cung ở gần bên gian phòng thứ nhất? Những vị vua Pharaon không hề được đem chôn ở gần bên các bà hậu phi, và một xác ướp không cần phải có đến hai huyệt. Nếu hậu cung có những hình ảnh hay những chữ ám tự khắc trên vách như phần nhiều những lăng tẩm mồ mả của Ai Cập, thì ở đây người ta có thể coi nó như một hành lang, nhưng đàng này nó cũng trống trơn và không có một bày biện trang hoàng nào như Vương Cung.
Và tại sao Vương Cung lại có những ống thông hơi, mặc dù những lỗ thông hơi đều bị bịt kín khi người ta khám phá ra chúng? Tại sao người ta lại thông hơi vào những gian phòng kín mệnh danh là những ngôi mộ này? Và cũng tường nhắc lại, người chết không cần thở khí trời.
Không, người ta càng tìm ra cái lý do thật sự của một công trình đòi hỏi bao nhiêu phí tổn về tiền của, thời giờ, nhân lực và nguyên liệu như thế, thì lý trí con người bắt buộc phải loại bỏ cái giả thuyết cho rằng Kim Tự Tháp là những mồ chôn xác người, hay là những kho tài liệu tiên tri bằng đá. Người ta phải quay trở lại tìm sự giải đáp khác.
Cửa vào Kim Tự Tháp mà các du khách dùng hiện nay không phải là cánh cửa chính của người cổ Ai Cập. Cửa chính này từ nhiều thế kỷ vẫn là cái bí mật của Kim Tự Tháp, một bí mật được giữ gìn rất chặt chẽ, cho đến khi một ông vua Ả Rập cương quyết đã chi phí cả một gia tài khổng lồ và huy động cả một đạo binh phu thợ để chọc thủng tấm màng bí mật kia và đã phát hiện ra cái của Kim Tự Tháp đã khép chặt.
Từ khi cánh cửa chính bị đóng chặt, thì nhiều thế kỷ đã lặng lờ trôi qua mà bên trong phía Kim Tự Tháp không hề có chân người bước vào, cho đến khi cái giấc triền miên ấy bị khuấy phá bởi những người đi tìm kiếm kho tàng. Sau cùng người ta đã tìm ra cái cửa chính đó vào khoảng năm tám trăm hai mươi.
Vua Ả Rập Al Mamoun quy tựu trên cao nguyên Gizeh những viên kỹ sư, kiến trúc sư, nhà xây cất và thợ giỏi nhất của ông ta, rồi ra lệnh cho họ hãy tìm ra cái của vào Kim Tự Tháp. Viên kỹ sư chỉ huy chiến dịch khai phá này mới tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, việc này không thể làm được.
- Quả nhân muốn việc này phải được thực hiện.
Công trình khai phá này không theo một kế hoạch nào nhất định. Tục truyền rằng của chính nằm ở mặt phía bắc của Kim Tự Tháp. Tự nhiên là người ta chọn chỗ trung tâm điểm của mặt phía bắc để khởi công. Sự có mặt của vua Ả Rập ở tại chỗ là một sự khích lệ tin thần cho đám phu thợ.
Nhà vua muốn trắc nghiệm truyền thuyết cho rằng những vị vua Pharaon thời cổ đã từng chôn dấu Kim Tự Tháp những kho bảo vật khổng lồ. Tưởng cũng nói thêm rằng vua Al Mamoun chính là thái tử của vua Haroun Al Rachid, nhân vật nổi tiếng trong truyện Một nghìn Lẻ Một Đêm.
Vua Al Mamoun không phải là một ông vua tầm thường. Ông ta đã ra lịnh cho những văn nhân trong xứ hãy dịch những tác phẩm của các bậc hiền triết Hy Lạp. Ông luôn luôn nhắc nhở cho quốc dân Ả Rập đừng quên những lợi ích của sự học hành. Chính ông ta đã từng tham dự những cuộc thảo luận giữa những bậc thức giả trong nước.
Những nhà xây cất Kim Tự Tháp thời xưa, tiên liệu rằng thế nhân lòng dạ tham lam sẽ có ngày xúc phạm đến nơi cổ kính thâm nghiêm nầy, mới trổ cánh cửa kính một trỗ ở một khoảng độ vài thước cách điểm trung tâm mặt phía bắc, và cao hơn rất xa chỗ người ta định chắc là chỗ cửa ra vào.
Kết quả là những phu thợ của vua Al Mamoun đã làm việc suốt nhiều tháng mà vẫn không tìm ra dấu vết gì của một cửa vào hay lối đi. Họ không tìm thấy gì khác hơn những vách tường kiên cố bằng đá khối dày đặc và cứng ngắc. Nếu họ chỉ dùng những dụng cụ thô sơ như búa đục, thì công trình đục khoét đó có lẽ kéo dài đến hết triều đại của nhà vua hay lâu hơn nữa.
Nhưng họ tìm cách đốt những đám lửa nhỏ ở những chỗ ráp nối các tảng đá đến độ nung cháy đỏ, và tưới dấm thanh lên đó cho đến khi các tảng đá nứt nẻ ra. Ngày nay người ta còn nhìn thấy các vết cháy đen xạm trên các tảng đá đã từng kháng cự lại sức búa rìu cách đây trên một nghìn năm.
Thợ rèn không ngừng làm việc suốt ngày để mài dũa những búa đục bị sức mẻ vì va chạm với những tảng đá khối, trong khi những loại tảng đá bằng gỗ tiếp sức với lao công để cống gắng chọc lủng một lỗ cửa vào Kim Tự Tháp! Mặc dầu bao nhiêu cố gắng, trải qua bao nhiêu tháng trường dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời Ai Cập, cửa vào Kim Tự Tháp vẫn khép chặt, không ai tìm thấy, và họ bắt đầu chán nản tuyệt vọng.
Phu thợ đã đào xới một khoảng trên ba mươi thước, họ đã sắp sửa buông hết dụng cụ và công khai nổi loạn không chịu tiếp tục một công việc vô ích như thế nữa, thì thình lình họ nghe thấy tiếng động của một tảng đá nặng vừa bị rơi xuống. Tiếng động ấy đến từ bên trong Kim Tự Tháp, chỉ cách họ đang làm việc một khoảng không xa.
Định mệnh đã can thiệp vào vụ này. Khi đó, sự hăng say và hứng khởi làm việc đã được hâm nóng lại. Không bao lâu, người ta đã mở đường đưa đến lối vào Kim Tự Tháp lớn từ nay mở cửa lại.
Kể từ lúc đó, người ta có thể đi lần theo con đường ấy để tìm thấy cái cửa bí mật. Cửa này được che dấu một cách khéo léo đến nỗi người ta không thể nào khám phá được từ bên ngoài. Sau bao nhiêu thế kỷ bị khóa chặc, cái cửa bí mật ấy không còn hoạt động được nữa mà dính luôn vào vách. Ngày nay nó đã biến mất, sau những vụ cướp phá để lấy đá về xây nhà sau vụ động đất tại thành phố Cairo.
Cửa ấy giống như những cái cửa bằng đá mà người cổ Ai Cập đặt ở những lối vào những đền miếu bí mật của họ. Đó là một tảng đá xoay vòng chung quanh những bản lề và khi khép lại thì nó ăn khớp với mặt tường bên ngoài đến nỗi không ai có thể phân biệt được nó với những tảng đá khác ở chung quanh.
Sự ngụy trang khéo léo đó cũng chưa đủ. Bên trong cánh cửa bí mật ấy, lối vào bị chăn lại một cánh cửa bằng gỗ rất nặng. Qua được cửa này, người ta còn phải vượt qua mười cánh cửa khác nữa trước khi lọt vào Vương Cung.
Phần nhiều trong số mười cửa này đều bằng gỗ, nhưng có một cửa giống y như cánh cửa đá bên ngoài là một tảng đá khối xoay vòng trên bản lề và ăn khớp với vách tường đá như một cửa bí mật. Tất cả những cửa này về sau không còn.
Sau khi những toán kỹ sư và phu thợ của nhà vua Al Mamoun đã lọt vào bên trong Kim Tự Tháp, họ nhận thấy rằng công việc của họ chưa phải đã xong.
Họ còn gặp phải bao nhiêu trướng ngại vật, những tảng đá khổng lồ chận ngang lối đi mà dụng cụ của họ đem theo không làm sao chọc thủng. Có khi họ phải đục xuyên vách đá để mở một lối đi khác thông qua những dãy hành lang dài đưa đến những gian phòng trống trơn, mà về sau người ta đặt tên là Vương Cung, và Hậu Cung để cho dễ kêu gọi. Thật ra người cổ Ai Cập không hề sử dụng những danh từ đó bao giờ.
Trải qua bao nhiêu gian nan, lao khổ và chướng ngại, khi họ lọt được vào gian phòng gọi là Vương Cung, thì vua Al Mamoun và toán kỹ sư, thợ thuyền đi theo điều lấy làm vô cùng thất vọng. Đó chỉ là một gian phòng trống, với một cỗ quan tài bằng đá, không đậy nắp.
Trong cỗ quan tài người ta chỉ thấy có cát bụi, ngoài ra không có gì cả! Họ nghĩ phải chăng đó là một điều phi lý khi người cổ Ai Cập xây cất một ngôi mộ hùng vĩ như thế mà không có mụch đích hay dụng ý rõ rệt?
Họ bèn ra công nậy bật lên những tảng đá lót dưới đất, đào xới một góc trong gian phòng, dùng búa đập mạnh vào vách để thăm dò xem chỗ nào có thể là nơi chôn dấu kho tàng. Nhưng vô ích, thâm ý của những nhà xây cất Kim Tự Tháp vẫn là một điều bí hiểm khôn dò và chôn chặt trong lòng đất lạnh. Đoàn người thám hiểm bèn lui gót ra về trong cơn thối trí và tuyệt vọng.
Toán phu thợ còn thám hiểm nhiều đường hần bí mật và một cái giếng sâu thẳm và đen tối như mật ăn sâu dưới lòng đất, nhưng không hề tìm thấy kho tàng của cải, cùng bảo vật mà óc tưởng tượng loài người vẫn tin rằng có thật và vẫn nằm im một góc bí mật nào đó trong Kim Tự Tháp!
Đến đây kết thúc cuộc phiêu lưu đáng ghi nhớ của vua Al Mamoun sau khi ông ta đã mở được cánh cửa bí mật của Kim Tự Tháp lớn, để mở màn cho những cuộc thám hiểm về sau này trong lịch sử tìm tòi khảo cổ về Kim Tự Tháp Ai Cập.
Sau khi vua Al Mamoun đã tìm ra cái cửa bí mật vào Kim Tự Tháp, nhiều thế kỷ đã trôi qua một cách lặng lẽ không ai dám bước vào bên trong ngọn tháp này. Sự truyền tụng trong dân gian không bao lâu đã bao trùm ngôi Kim Tự Tháp với một bầu không khí dị đoan mê tín và rùng rợn với nhiều truyện huyền thoại kinh dị đến rợn người!
Bởi đó người dân Ả Rập tránh việc đi vào Kim Tự Tháp như người ta tránh ôn dịch. Chỉ có những tay phiêu lưu mạo hiểm mới thỉnh thoảng đột nhập vào để thám hiểm bên trong Kim Tự Tháp. Phần lớn những hành lang đen tối và những gian phòng trống trơn trong Kim Tự Tháp vẫn tiếp tục yên nghỉ trong cái yên lặng thâm u nghìn đời không người bước chân vào.
Mãi cho đến cuối thế kỷ mười tám mới có những người Châu Âu là những người nặng mùi vật chất và không mê tín, đến xem xét những đồng cát chung quanh, và từ đó người ta mới bắt đầu nghe lại những tiếng búa đục vang dội bên trong ngọn tháp cổ này.
Một người Anh có tinh thần phiêu lưu tên là Nathaniel Davison, lãnh sự Anh tại Alger vào khoảng năm một ngàn bảy trăm sáu mươi, xin nghỉ phép dài hạn để sang Ai Cập. Ngọn Kim Tự Tháp làm cho ông ta suy nghĩ rất nhiều.
Ông ta biết rằng người cổ Ai Cập thường chôn dấu trong ngôi lăng tẩm các vị vua chúa của họ một số vàng ngọc châu báu. Ông ta cũng biết dư luận chung của người đời coi những Kim Tự Tháp như những ngôi mộ khổng lồ.
Khi ông ta lọt được vào bên trong Vương Cung, ông ta khám phá được một việc: Mỗi khi ông ta hô lên một tiếng lớn thì có một tiếng vang dội lại nhiều lần liên tiếp. Ông ta mới nghĩ rằng chắc là có một gian phòng trống gần đâu đây, ở phía sau những tảng đá đỏ bao bọc chung quanh gian phòng đầu tiên.
Có thể rằng trong cái khoảng trống ấy, nguyên nhân gây ra tiếng vang dội nói trên, có nằm yên nghỉ một cái xác ướp quấn hàng lụa và có mang theo những đồ châu ngọc và bảo vật quý giá.
Ông Davison bèn mộ vài người phu thợ và bắt tay vào việc. Từ nhiều thế kỷ trước, vua Al Mamoun đã thăm dò cái nền đá trong Vương Cung, nhưng không tìm thấy gì. Những tiếng vang phản dội tiếng kêu của ông Davison dường như vọng lại từ phía trên.
Ông ta mới chú ý đến cái nóc Vương Cung. Khi xem xét kỹ lưỡng trần nhà và những hành lang chung quanh, ông ta thấy rằng phương pháp tiện lợi nhất để trổ lên nóc nhà là đào một lỗ trống ở phần trên tường của dãy hành lang lớn để xen xét cho chắc thì lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng ngay tại chỗ ấy đã có sẵn một cái lỗ trống.
Ông ta bèn chui vào và thấy một gian phòng chiều dài độ bảy thước, ở ngay trên trần của Vương Cung. Cái nóc của gian phòng này rất thấp đến nỗi ông Davison phải bò trên hai đầu gối để tìm cái kho tàng vô giá nó đã hấp dẫn ông đến đây.
Nhưng gian phòng hoàn toàn trống rỗng! Ông ta bèn trở về Alger tay không. Ông ta chỉ được cái vinh dự là những nhà khảo cổ đến sau ông đã lấy tên ông để đặt tên cho cái gian phòng nhỏ hẹp mà ông đã khám phá trên nóc Vương Cung!
Trong những năm đầu của thế kỷ mười chín, người kế nghiệp của ông Davison trong công việc tìm tòi ở Kim Tự Tháp là một nhân vật lạ lùng, gồm những đặt tính của những triết gia mơ tưởng, một nhà thần bí và một nhà khảo cổ.
Đó là đại úy Caviglia, một người Ý Đại Lợi. Ông đã dành một thời gian khá lâu cho việc sưu tầm ở Kim Tự Tháp. Lord Lindsay, người đã gặp ông ta trong một chuyến du hành sang Ai Cập, có viết một bức thư gửi về Anh Quốc như sau:
"Caviglia có nói với tôi rằng y đã dành cho việc học hỏi khoa Huyền Môn một sự hăng say đến nỗi làm cho y suýt chết. Y tuyên bố đã đạt tới cái giới hạn tùng cột trên lãnh vực Huyền Môn bị ngăn cấm với tầm hiểu biết của con người.
Chỉ có sự trong sạch trong ý đồ của y đã cứu được y. Y có những tư tưởng lạ lùng, nó không phải là của trần gian. Y cho rằng là rất nguy hiểm mà tiết lộ những tư tưởng đó... "
Trong công cuộc sưu tầm khảo cổ của ông, Caviglia tạm trú một thời gian trong gian phòng Davison, sau khi ông đã dọn dẹp cái phòng thấp và tối tăm đó thành một gian phòng để ở ngay trong Kim Tự Tháp! Công trình khảo cổ của ông không phải chỉ là giới hạn trong Kim Tự Tháp lớn mà thôi.
Ông còn để lại cho đời những sưu tầm trong hai Kim Tự Tháp thứ nhì và thứ ba, sự thám hiểm những hầm chôn xác ướp ở giữa các Kim Tự Tháp và thần Sphinx, việc khai quật vài cỗ quan tài quan trọng và những di tích lạ lùng khác của nền văn minh cổ Ai Cập.
Vào thời đại của nữ hoàng Victoria, định mệnh đã đưa sang Ai Cập một viên sĩ quan ưu tú của quân đội Hoàng Gia Anh Quốc, kiêm một nhà khảo cổ học uyên bác, đó là đại tá Howard Vyse. Ông ta đã huy động hàng trăm phu thợ để thực hiện những cuộc đào xới chung quanh các Kim Tự Tháp trong một công trình thám hiểm đại quy mô chưa từng có từ một nghìn năm nay, kể từ thời đại của vua Al Mamoun.
Ông ta đã kêu gọi sự hợp tác của đại úy Caviglia trong một thời gian, nhưng hai người lại xung đột nhau vì tính khí bất đồng; một người Anh kỹ lưỡng, cẩn thận, trọng nguyên tắc kỷ luật và một người Ý tay ngang, bất chấp những quy ước, cỗ lệ, đành phải sớm xa nhau.
Đại tá Vyse đã chi phí cho công trình khảo cổ của ông ở Ai Cập hết mười ngàn Anh kim tiền riêng của ông và đã thu hoạch được những kết quả cụ thể. Nhiều thùng lớn chứa đầy những di tích cổ và bảo vật lý thú đã vượt biển để sung vào Bảo Tàng Viện Anh Quốc. Nhưng những cổ vật lý thú nhất vẫn còn ở lại tại chỗ.
Ông Vyse đã khám phá bốn gian phòng trong Kim Tự Tháp lớn chồng chất lên nhau ở ngay trên trần nhà của gian phòng Davison. Công việc khám hiểm này không phải là dễ dàng và không nguy hiểm.
Trong khi họ đào một lối đi hẹp từ dưới lên trên xuyên qua những nóc phòng đá dày đặc, những phu thợ của ông ta luôn luôn suýt ngã xuống đất từ một bề cao mười thước! Những gian phòng này cũng thấp và hẹp như gian phòng Davison, và cũng hoàn toàn trống trơn không có gì cả.
Do sự khám phá kể trên và khi xem xét cái trần nhà bằng đá vôi của gian phòng ở trên chót đỉnh, người ta mới hiểu lý do của việc xây cất năm gian phòng thấp hẹp chồng chất lên nhau. Đó là để bảo vệ Vương Cung cho khỏi chịu cái áp lực nặng nề của toàn thể khối đá tảng khổng lồ ở phía trên, chẳng khác như một hệ thống trái độn bằng không khí tạo nên bởi những khoảng trống của gian phòng.
Việc xây cất hệ thống trái độn này cũng che trở Vương Cung khỏi bị đè bẹp bởi khối đá tảng ở phần trên trong trường hợp có thể xảy ra một cơn động đất làm sụp đổ Kim Tự Tháp. Bởi đó, Kim Tự Tháp đã chống đỡ một cách hữu hiệu sự tàn phá của thời gian trong bao nhiêu nghìn năm và chứng tỏ sự chu toàn cùng cái kiến trúc vô cùng thần diệu của người cổ Ai Cập.
Trong số những điều phát hiện của đại tá Vyse, có một điều lạ lùng là một loạt những chữ ám tự này chưa hề thấy trong Kim Tự Tháp. Những chữ ám tự này do những người đá khắc trên mặt những phiến đá tảng dùng để xây cất năm gian phòng kể trên.
Trong những ám tự ấy có những tên của ba vị vua Ai Cập, là Khoufou, Khnem. Khoufou, và Khnem. Các nhà Ai Cập Học không thể đưa ra sự giải thích nào khác về cái tên khnem vì họ không tìm thấy tài liệu lịch sử về một vị vua Ai Cập nào có cái tên đó.
Nhưng họ biết rõ tên vua Khoufou: Đó là vị vua Pharaon của triều đại thứ tư, mà người Hy Lạp gọi là vua Khéops. Sự khám phá của ông Vyse đã đưa đến việc xác định vua Khoufou là người đã xây dựng nên Kim Tự Tháp, và xác định Kim Tự Tháp được dựng lên từ thời nào.
Tuy nhiên, cái xác ướp của vua Khoufou không hề được tìm thấy ở bất cứ nơi nào bên trong Kim Tự Tháp.
NGỌN KIM TỰ THÁP
Chương Ba
Những vị vua Ai Cập Pharaon nay đã hóa ra người thiên cổ, nhưng ngày nay họ còn để lại cho chúng ta những Kim Tự Tháp kiến trúc hùng vĩ, kiên cố dựng trên một vùng cao nguyên nhô giữa đồng cát.
Nếu nước cổ Ai Cập vẫn còn hấp dẫn sự chú ý và thích thú của thế giới hiện đại, thì trước hết là nhờ bởi những ngọn tháp này làm bằng chứng của thời đại cổ xưa ấy. Không có một đế quốc Đông Phương nào đã biệt tích mà để lại cho hậu thế những kỳ quan vĩ đại và lạ lùng như thế.
Triết gia Pline khẳng định rằng uy danh của các Kim Tự Tháp Ai Cập sẽ vang dội đến chỗ tận cùng của thế giới. Kể từ ấy đã có hai nghìn năm qua, những thời gian không hề xóa mờ cái uy tín đó. Gần đây tôi có viết thư vài người bạn sống một cuộc đời rất ẩn dật tại một vùng hẻo lánh ở dưới tậncùng miền nam Ấn Độ.
Những người này có lẽ không bao giờ đi xa hơn dãy đồi ở vùng chung quanh làng họ Ở, họ không hề chọc phá thế gian và thế gian cũng không hề làm phiền họ. Tôi cho họ biết về những công việc sưu tầm mà tôi đang theo đuổi ở ngọn Kim Tự Tháp lớn.
Tôi không cần giải thích đó là cái gì và nó ở tại đâu, vì tôi biết chắc họ cũng biết rõ. Bức thư trả lời của họ đã xác nhận sự tin tưởng của tôi. Thật vậy những người Ấn Độ chất phát này đã biết rõ đó là cái gì. Uy danh của những Kim Tự Tháp đã vang dội xa hơn là hồi thời đại của triết gia Pline.
Những ngôi kiến trúc cổ bất chấp sự tàn phá của thời gian này đã hấp dẫn sự chú ý của các nhà bác học cũng như sự tò mò của người đời. Tại sao? Bởi vì chúng xuất hiện từ vực thẩm của một dĩ vãng xa xăm, và cũng bởi vì kích thước quy mô của những ngọn tháp này đã làm ngạc nhiên cả một thế hệ loài người đã từng quen thuộc với lối kiến trúc khổng lồ.
Lần đầu tiên mà chúng ta nhìn Kim Tự Tháp, chúng ta có cảm giác như trở về một thời đại cổ xưa lạ lùng, mà nét cổ kính thâm nghiêm biểu lộ rõ ràng ở lối kiến trúc dị kỳ ấy. Chúng ta lấy làm ngạc nhiên mà thấy bằng cách nào những dân tộc cổ xưa đã xây dựng trên một bãi sa mạc khô khan những ngọn núi nhân tạo như thế, không thua kém cả những công trình tạo tác thiên nhiên.
Khi những viên tướng soái Hy Lạp tiến vào Ai Cập và nhìn thấy những ngôi kiến trúc phi thường này chỉ mũi nhọn thẳng lên nền trời xanh của vùng sa mạc, họ nín thở vì ngạc nhiên và đứng nhìn trân trối trong im lặng. Khi những nhà hiền triết của thời đại Alexandre soạn một quyển sách nói về những đại kỳ quan của thế giới, họ để Kim Tự Tháp đứng lên hàng đầu. Ngày nay, trong số bảy kỳ quan, chỉ còn cái kỳ quan đầu tiên là còn đứng vững.
Nhưng cái tính cách cổ xưavà kích thước vĩ đại đó dẫu rằng có gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đời, cũng chưa phải lý do duy nhất đã làm cho ngọn Kim Tự Tháp có cái uy danh lừng lẫy như vậy.
Có nhiều sự kiện được người đời biết rõ hoặc không hề biết về Kim Tự Tháp lớn, có thể gây cho chúng ta một sự kinh ngạc lớn lao không kém sự kinh ngạc mà nó đã gây ra cho người cổ Hy Lạp.
Vậy cổ nhân xây Kim Tự Tháp với mụch đích gì? Thần tượng Sphinx tượng trưng cho cái gì? Đó là hai điều bí mật lạ lùng nhất, hào hứng sôi nổi nhất mà xứ Ai Cập dành cho du khách ngoại quốc cũng như cho dân tộc của họ. Đó cũng là những bí mật khó giải đáp nhất.
Phải chăng Kim Tự Tháp Ai Cập được dựng lên chỉ để làm ngôi mộ tàng trữ cái xác ướp của vua Pharaon? Ta có nên dựa theo những quyển du lịcxh chỉ nam và nhe theo lời của những người chỉ dẫn viên Ả Rập mà tin như vậy chăng? Có lẽ nào người ta lại dựng lên một ngôi kiến trúc vĩ đại với những khối đá tảng hằng mấy người ôm, cắt ra từ vùng núi đá vôi Tourah và cưa ra từ trong động đá đỏ Syène ở xa hơn nữa, chỉ để che lấp một cái thi hài bọc lụa trắng?
Có lẽ nào người ta đã phí mất biết bao nhiêu công lao khó nhọc, làm việc ráo riết dưới cái nóng thiêu người của mặt trời Châu Phi, vận chuyển trên ba mươi triệu thước khối đá tảng, chỉ để phục vụ ý muốn sau cùng của một ông vua? Có lẽ nào người ta chịu khó cẩn thận ráp nối hai triệu ba trăm nghàn tảng đá khối, mỗi tảng nặng khoảng hai tấn rưỡi, để làm một cái mộ chỉ cần có vài tảng đá cũng xong?
Những sử gia thận trọng cho biết rằng người ta không hề tìm thấy trong Kim Tự Tháp một quan tài, một xác chết, hay một cỗ xe tang nào, dẫu rằng có vài truyền thống cho rằng một trong những vì vua Ai Cập có cho dựng trước cửa cung một cái hòm dựng xác ướp bằng gỗ trạm trổ rất khéo, mà người ta đã lấy từ Kim Tự Tháp đem về.
Trên những vách tường Kim Tự Tháp không thấy có khắc những chữ ám tự hay trạm hình nổi hoặc tranh vẽ những sự việc xảy ra trong thuở sanh tiền của các nhà vua đã băng, nói tóm lại không hề có những gì mà người ta thường thấy bên trong tất cả những ngôi mộ và lăng tẩm khác của Ai Cập.
Các vách tường bên trong Kim Tự Tháp đều trống trơn, không trình bày những mỹ phẩm như tranh vẽ, hình nổi, hay ám tự để trang hoàng cho đẹp mắt các vị vua Pharaon tường hay bày biện trong các lăng tẩm của họ, cũng không có dấu vết nào của sự trang trí mà người ta thường thấy ở những ngôi mộ quan trọng nhất ở xứ Ai Cập.
Điều mà có lẽ người ta cho là bằng chứng hiển nhiên nhất của giả thuyết đó là lăng tẩm của một vị vua Ai Cập, là cái hòm trống trơn bằng đá đỏ, không đậy nắm, đặt dưới đất trong phòng lớn mà về sau người ta gọi là Vương Cung. Phải chăng cái hòm đá đã quá rõ rệt là cái quan tài của vua? Đối với nhà Ai Cập Học, điều đó đã hiển nhiên và vấn đề đã được giải quyết.
Nhưng tại sao hai bên chiếc hòm bằng đá này không có khắc những chữ ám tự hoặc tranh vẽ theo thủ tục thông thường của nền tôn giáo cổ Ai Cập? Tại sao không thấy có một chữ nào hay một câu văn tự nào?
Mọi cỗ quan tài khác đều luôn luôn có khắc chữ hoặc hình ảnh để lưu lại những kỷ niệm, ký ức về những trường hợp xảy ra chung quanh cái chết của người quá vãng. Tại sao cỗ quan tài này lại là một ngoại lệ, nếu nó là cái quan tài của một trong các vị minh vương nổi tiếng nhất của Ai Cập?
Tại sao ống thông hơi dài trên bảy mươi thước được đặt từ trong phòng đựng cỗ quan tài bằng đá để thông với không khí bên ngoài? Những xác ướp không cần thở không khí, còn phu thợ họ cũng không cần trở lại phòng làm gì nữa một khi họ đã xây xong cái nóc phòng. Không một nơi nào ở Ai Cập tôi thấy có một ngôi mộ của các bậc vua chúa mà có những ống thông hơi với bên ngoài.
Tại sao người ta đặt cỗ quan tài trong một phòng năm mươi thước cao hơn mặt đất, trong khi ở những nơi khác người ta thường đào hầm đặt quan tài sâu dưới lòng đất? Đó là cái tập tục thông dụng khắp xứ, người ta đặt thi hài người chết hoặc dưới lòng đất hoặc trên mặt đất. Há ta chẳng thường nghe nhắn nhủ rằng: "Ngươi là các bụi, và ngươi sẽ trở về cát bụi."
Tại sao người ta đặt gian phòng thứ nhì, gọi là Hậu Cung ở gần bên gian phòng thứ nhất? Những vị vua Pharaon không hề được đem chôn ở gần bên các bà hậu phi, và một xác ướp không cần phải có đến hai huyệt. Nếu hậu cung có những hình ảnh hay những chữ ám tự khắc trên vách như phần nhiều những lăng tẩm mồ mả của Ai Cập, thì ở đây người ta có thể coi nó như một hành lang, nhưng đàng này nó cũng trống trơn và không có một bày biện trang hoàng nào như Vương Cung.
Và tại sao Vương Cung lại có những ống thông hơi, mặc dù những lỗ thông hơi đều bị bịt kín khi người ta khám phá ra chúng? Tại sao người ta lại thông hơi vào những gian phòng kín mệnh danh là những ngôi mộ này? Và cũng tường nhắc lại, người chết không cần thở khí trời.
Không, người ta càng tìm ra cái lý do thật sự của một công trình đòi hỏi bao nhiêu phí tổn về tiền của, thời giờ, nhân lực và nguyên liệu như thế, thì lý trí con người bắt buộc phải loại bỏ cái giả thuyết cho rằng Kim Tự Tháp là những mồ chôn xác người, hay là những kho tài liệu tiên tri bằng đá. Người ta phải quay trở lại tìm sự giải đáp khác.
Cửa vào Kim Tự Tháp mà các du khách dùng hiện nay không phải là cánh cửa chính của người cổ Ai Cập. Cửa chính này từ nhiều thế kỷ vẫn là cái bí mật của Kim Tự Tháp, một bí mật được giữ gìn rất chặt chẽ, cho đến khi một ông vua Ả Rập cương quyết đã chi phí cả một gia tài khổng lồ và huy động cả một đạo binh phu thợ để chọc thủng tấm màng bí mật kia và đã phát hiện ra cái của Kim Tự Tháp đã khép chặt.
Từ khi cánh cửa chính bị đóng chặt, thì nhiều thế kỷ đã lặng lờ trôi qua mà bên trong phía Kim Tự Tháp không hề có chân người bước vào, cho đến khi cái giấc triền miên ấy bị khuấy phá bởi những người đi tìm kiếm kho tàng. Sau cùng người ta đã tìm ra cái cửa chính đó vào khoảng năm tám trăm hai mươi.
Vua Ả Rập Al Mamoun quy tựu trên cao nguyên Gizeh những viên kỹ sư, kiến trúc sư, nhà xây cất và thợ giỏi nhất của ông ta, rồi ra lệnh cho họ hãy tìm ra cái của vào Kim Tự Tháp. Viên kỹ sư chỉ huy chiến dịch khai phá này mới tâu rằng:
- Tâu bệ hạ, việc này không thể làm được.
- Quả nhân muốn việc này phải được thực hiện.
Công trình khai phá này không theo một kế hoạch nào nhất định. Tục truyền rằng của chính nằm ở mặt phía bắc của Kim Tự Tháp. Tự nhiên là người ta chọn chỗ trung tâm điểm của mặt phía bắc để khởi công. Sự có mặt của vua Ả Rập ở tại chỗ là một sự khích lệ tin thần cho đám phu thợ.
Nhà vua muốn trắc nghiệm truyền thuyết cho rằng những vị vua Pharaon thời cổ đã từng chôn dấu Kim Tự Tháp những kho bảo vật khổng lồ. Tưởng cũng nói thêm rằng vua Al Mamoun chính là thái tử của vua Haroun Al Rachid, nhân vật nổi tiếng trong truyện Một nghìn Lẻ Một Đêm.
Vua Al Mamoun không phải là một ông vua tầm thường. Ông ta đã ra lịnh cho những văn nhân trong xứ hãy dịch những tác phẩm của các bậc hiền triết Hy Lạp. Ông luôn luôn nhắc nhở cho quốc dân Ả Rập đừng quên những lợi ích của sự học hành. Chính ông ta đã từng tham dự những cuộc thảo luận giữa những bậc thức giả trong nước.
Những nhà xây cất Kim Tự Tháp thời xưa, tiên liệu rằng thế nhân lòng dạ tham lam sẽ có ngày xúc phạm đến nơi cổ kính thâm nghiêm nầy, mới trổ cánh cửa kính một trỗ ở một khoảng độ vài thước cách điểm trung tâm mặt phía bắc, và cao hơn rất xa chỗ người ta định chắc là chỗ cửa ra vào.
Kết quả là những phu thợ của vua Al Mamoun đã làm việc suốt nhiều tháng mà vẫn không tìm ra dấu vết gì của một cửa vào hay lối đi. Họ không tìm thấy gì khác hơn những vách tường kiên cố bằng đá khối dày đặc và cứng ngắc. Nếu họ chỉ dùng những dụng cụ thô sơ như búa đục, thì công trình đục khoét đó có lẽ kéo dài đến hết triều đại của nhà vua hay lâu hơn nữa.
Nhưng họ tìm cách đốt những đám lửa nhỏ ở những chỗ ráp nối các tảng đá đến độ nung cháy đỏ, và tưới dấm thanh lên đó cho đến khi các tảng đá nứt nẻ ra. Ngày nay người ta còn nhìn thấy các vết cháy đen xạm trên các tảng đá đã từng kháng cự lại sức búa rìu cách đây trên một nghìn năm.
Thợ rèn không ngừng làm việc suốt ngày để mài dũa những búa đục bị sức mẻ vì va chạm với những tảng đá khối, trong khi những loại tảng đá bằng gỗ tiếp sức với lao công để cống gắng chọc lủng một lỗ cửa vào Kim Tự Tháp! Mặc dầu bao nhiêu cố gắng, trải qua bao nhiêu tháng trường dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời Ai Cập, cửa vào Kim Tự Tháp vẫn khép chặt, không ai tìm thấy, và họ bắt đầu chán nản tuyệt vọng.
Phu thợ đã đào xới một khoảng trên ba mươi thước, họ đã sắp sửa buông hết dụng cụ và công khai nổi loạn không chịu tiếp tục một công việc vô ích như thế nữa, thì thình lình họ nghe thấy tiếng động của một tảng đá nặng vừa bị rơi xuống. Tiếng động ấy đến từ bên trong Kim Tự Tháp, chỉ cách họ đang làm việc một khoảng không xa.
Định mệnh đã can thiệp vào vụ này. Khi đó, sự hăng say và hứng khởi làm việc đã được hâm nóng lại. Không bao lâu, người ta đã mở đường đưa đến lối vào Kim Tự Tháp lớn từ nay mở cửa lại.
Kể từ lúc đó, người ta có thể đi lần theo con đường ấy để tìm thấy cái cửa bí mật. Cửa này được che dấu một cách khéo léo đến nỗi người ta không thể nào khám phá được từ bên ngoài. Sau bao nhiêu thế kỷ bị khóa chặc, cái cửa bí mật ấy không còn hoạt động được nữa mà dính luôn vào vách. Ngày nay nó đã biến mất, sau những vụ cướp phá để lấy đá về xây nhà sau vụ động đất tại thành phố Cairo.
Cửa ấy giống như những cái cửa bằng đá mà người cổ Ai Cập đặt ở những lối vào những đền miếu bí mật của họ. Đó là một tảng đá xoay vòng chung quanh những bản lề và khi khép lại thì nó ăn khớp với mặt tường bên ngoài đến nỗi không ai có thể phân biệt được nó với những tảng đá khác ở chung quanh.
Sự ngụy trang khéo léo đó cũng chưa đủ. Bên trong cánh cửa bí mật ấy, lối vào bị chăn lại một cánh cửa bằng gỗ rất nặng. Qua được cửa này, người ta còn phải vượt qua mười cánh cửa khác nữa trước khi lọt vào Vương Cung.
Phần nhiều trong số mười cửa này đều bằng gỗ, nhưng có một cửa giống y như cánh cửa đá bên ngoài là một tảng đá khối xoay vòng trên bản lề và ăn khớp với vách tường đá như một cửa bí mật. Tất cả những cửa này về sau không còn.
Sau khi những toán kỹ sư và phu thợ của nhà vua Al Mamoun đã lọt vào bên trong Kim Tự Tháp, họ nhận thấy rằng công việc của họ chưa phải đã xong.
Họ còn gặp phải bao nhiêu trướng ngại vật, những tảng đá khổng lồ chận ngang lối đi mà dụng cụ của họ đem theo không làm sao chọc thủng. Có khi họ phải đục xuyên vách đá để mở một lối đi khác thông qua những dãy hành lang dài đưa đến những gian phòng trống trơn, mà về sau người ta đặt tên là Vương Cung, và Hậu Cung để cho dễ kêu gọi. Thật ra người cổ Ai Cập không hề sử dụng những danh từ đó bao giờ.
Trải qua bao nhiêu gian nan, lao khổ và chướng ngại, khi họ lọt được vào gian phòng gọi là Vương Cung, thì vua Al Mamoun và toán kỹ sư, thợ thuyền đi theo điều lấy làm vô cùng thất vọng. Đó chỉ là một gian phòng trống, với một cỗ quan tài bằng đá, không đậy nắp.
Trong cỗ quan tài người ta chỉ thấy có cát bụi, ngoài ra không có gì cả! Họ nghĩ phải chăng đó là một điều phi lý khi người cổ Ai Cập xây cất một ngôi mộ hùng vĩ như thế mà không có mụch đích hay dụng ý rõ rệt?
Họ bèn ra công nậy bật lên những tảng đá lót dưới đất, đào xới một góc trong gian phòng, dùng búa đập mạnh vào vách để thăm dò xem chỗ nào có thể là nơi chôn dấu kho tàng. Nhưng vô ích, thâm ý của những nhà xây cất Kim Tự Tháp vẫn là một điều bí hiểm khôn dò và chôn chặt trong lòng đất lạnh. Đoàn người thám hiểm bèn lui gót ra về trong cơn thối trí và tuyệt vọng.
Toán phu thợ còn thám hiểm nhiều đường hần bí mật và một cái giếng sâu thẳm và đen tối như mật ăn sâu dưới lòng đất, nhưng không hề tìm thấy kho tàng của cải, cùng bảo vật mà óc tưởng tượng loài người vẫn tin rằng có thật và vẫn nằm im một góc bí mật nào đó trong Kim Tự Tháp!
Đến đây kết thúc cuộc phiêu lưu đáng ghi nhớ của vua Al Mamoun sau khi ông ta đã mở được cánh cửa bí mật của Kim Tự Tháp lớn, để mở màn cho những cuộc thám hiểm về sau này trong lịch sử tìm tòi khảo cổ về Kim Tự Tháp Ai Cập.
Sau khi vua Al Mamoun đã tìm ra cái cửa bí mật vào Kim Tự Tháp, nhiều thế kỷ đã trôi qua một cách lặng lẽ không ai dám bước vào bên trong ngọn tháp này. Sự truyền tụng trong dân gian không bao lâu đã bao trùm ngôi Kim Tự Tháp với một bầu không khí dị đoan mê tín và rùng rợn với nhiều truyện huyền thoại kinh dị đến rợn người!
Bởi đó người dân Ả Rập tránh việc đi vào Kim Tự Tháp như người ta tránh ôn dịch. Chỉ có những tay phiêu lưu mạo hiểm mới thỉnh thoảng đột nhập vào để thám hiểm bên trong Kim Tự Tháp. Phần lớn những hành lang đen tối và những gian phòng trống trơn trong Kim Tự Tháp vẫn tiếp tục yên nghỉ trong cái yên lặng thâm u nghìn đời không người bước chân vào.
Mãi cho đến cuối thế kỷ mười tám mới có những người Châu Âu là những người nặng mùi vật chất và không mê tín, đến xem xét những đồng cát chung quanh, và từ đó người ta mới bắt đầu nghe lại những tiếng búa đục vang dội bên trong ngọn tháp cổ này.
Một người Anh có tinh thần phiêu lưu tên là Nathaniel Davison, lãnh sự Anh tại Alger vào khoảng năm một ngàn bảy trăm sáu mươi, xin nghỉ phép dài hạn để sang Ai Cập. Ngọn Kim Tự Tháp làm cho ông ta suy nghĩ rất nhiều.
Ông ta biết rằng người cổ Ai Cập thường chôn dấu trong ngôi lăng tẩm các vị vua chúa của họ một số vàng ngọc châu báu. Ông ta cũng biết dư luận chung của người đời coi những Kim Tự Tháp như những ngôi mộ khổng lồ.
Khi ông ta lọt được vào bên trong Vương Cung, ông ta khám phá được một việc: Mỗi khi ông ta hô lên một tiếng lớn thì có một tiếng vang dội lại nhiều lần liên tiếp. Ông ta mới nghĩ rằng chắc là có một gian phòng trống gần đâu đây, ở phía sau những tảng đá đỏ bao bọc chung quanh gian phòng đầu tiên.
Có thể rằng trong cái khoảng trống ấy, nguyên nhân gây ra tiếng vang dội nói trên, có nằm yên nghỉ một cái xác ướp quấn hàng lụa và có mang theo những đồ châu ngọc và bảo vật quý giá.
Ông Davison bèn mộ vài người phu thợ và bắt tay vào việc. Từ nhiều thế kỷ trước, vua Al Mamoun đã thăm dò cái nền đá trong Vương Cung, nhưng không tìm thấy gì. Những tiếng vang phản dội tiếng kêu của ông Davison dường như vọng lại từ phía trên.
Ông ta mới chú ý đến cái nóc Vương Cung. Khi xem xét kỹ lưỡng trần nhà và những hành lang chung quanh, ông ta thấy rằng phương pháp tiện lợi nhất để trổ lên nóc nhà là đào một lỗ trống ở phần trên tường của dãy hành lang lớn để xen xét cho chắc thì lấy làm ngạc nhiên mà thấy rằng ngay tại chỗ ấy đã có sẵn một cái lỗ trống.
Ông ta bèn chui vào và thấy một gian phòng chiều dài độ bảy thước, ở ngay trên trần của Vương Cung. Cái nóc của gian phòng này rất thấp đến nỗi ông Davison phải bò trên hai đầu gối để tìm cái kho tàng vô giá nó đã hấp dẫn ông đến đây.
Nhưng gian phòng hoàn toàn trống rỗng! Ông ta bèn trở về Alger tay không. Ông ta chỉ được cái vinh dự là những nhà khảo cổ đến sau ông đã lấy tên ông để đặt tên cho cái gian phòng nhỏ hẹp mà ông đã khám phá trên nóc Vương Cung!
Trong những năm đầu của thế kỷ mười chín, người kế nghiệp của ông Davison trong công việc tìm tòi ở Kim Tự Tháp là một nhân vật lạ lùng, gồm những đặt tính của những triết gia mơ tưởng, một nhà thần bí và một nhà khảo cổ.
Đó là đại úy Caviglia, một người Ý Đại Lợi. Ông đã dành một thời gian khá lâu cho việc sưu tầm ở Kim Tự Tháp. Lord Lindsay, người đã gặp ông ta trong một chuyến du hành sang Ai Cập, có viết một bức thư gửi về Anh Quốc như sau:
"Caviglia có nói với tôi rằng y đã dành cho việc học hỏi khoa Huyền Môn một sự hăng say đến nỗi làm cho y suýt chết. Y tuyên bố đã đạt tới cái giới hạn tùng cột trên lãnh vực Huyền Môn bị ngăn cấm với tầm hiểu biết của con người.
Chỉ có sự trong sạch trong ý đồ của y đã cứu được y. Y có những tư tưởng lạ lùng, nó không phải là của trần gian. Y cho rằng là rất nguy hiểm mà tiết lộ những tư tưởng đó... "
Trong công cuộc sưu tầm khảo cổ của ông, Caviglia tạm trú một thời gian trong gian phòng Davison, sau khi ông đã dọn dẹp cái phòng thấp và tối tăm đó thành một gian phòng để ở ngay trong Kim Tự Tháp! Công trình khảo cổ của ông không phải chỉ là giới hạn trong Kim Tự Tháp lớn mà thôi.
Ông còn để lại cho đời những sưu tầm trong hai Kim Tự Tháp thứ nhì và thứ ba, sự thám hiểm những hầm chôn xác ướp ở giữa các Kim Tự Tháp và thần Sphinx, việc khai quật vài cỗ quan tài quan trọng và những di tích lạ lùng khác của nền văn minh cổ Ai Cập.
Vào thời đại của nữ hoàng Victoria, định mệnh đã đưa sang Ai Cập một viên sĩ quan ưu tú của quân đội Hoàng Gia Anh Quốc, kiêm một nhà khảo cổ học uyên bác, đó là đại tá Howard Vyse. Ông ta đã huy động hàng trăm phu thợ để thực hiện những cuộc đào xới chung quanh các Kim Tự Tháp trong một công trình thám hiểm đại quy mô chưa từng có từ một nghìn năm nay, kể từ thời đại của vua Al Mamoun.
Ông ta đã kêu gọi sự hợp tác của đại úy Caviglia trong một thời gian, nhưng hai người lại xung đột nhau vì tính khí bất đồng; một người Anh kỹ lưỡng, cẩn thận, trọng nguyên tắc kỷ luật và một người Ý tay ngang, bất chấp những quy ước, cỗ lệ, đành phải sớm xa nhau.
Đại tá Vyse đã chi phí cho công trình khảo cổ của ông ở Ai Cập hết mười ngàn Anh kim tiền riêng của ông và đã thu hoạch được những kết quả cụ thể. Nhiều thùng lớn chứa đầy những di tích cổ và bảo vật lý thú đã vượt biển để sung vào Bảo Tàng Viện Anh Quốc. Nhưng những cổ vật lý thú nhất vẫn còn ở lại tại chỗ.
Ông Vyse đã khám phá bốn gian phòng trong Kim Tự Tháp lớn chồng chất lên nhau ở ngay trên trần nhà của gian phòng Davison. Công việc khám hiểm này không phải là dễ dàng và không nguy hiểm.
Trong khi họ đào một lối đi hẹp từ dưới lên trên xuyên qua những nóc phòng đá dày đặc, những phu thợ của ông ta luôn luôn suýt ngã xuống đất từ một bề cao mười thước! Những gian phòng này cũng thấp và hẹp như gian phòng Davison, và cũng hoàn toàn trống trơn không có gì cả.
Do sự khám phá kể trên và khi xem xét cái trần nhà bằng đá vôi của gian phòng ở trên chót đỉnh, người ta mới hiểu lý do của việc xây cất năm gian phòng thấp hẹp chồng chất lên nhau. Đó là để bảo vệ Vương Cung cho khỏi chịu cái áp lực nặng nề của toàn thể khối đá tảng khổng lồ ở phía trên, chẳng khác như một hệ thống trái độn bằng không khí tạo nên bởi những khoảng trống của gian phòng.
Việc xây cất hệ thống trái độn này cũng che trở Vương Cung khỏi bị đè bẹp bởi khối đá tảng ở phần trên trong trường hợp có thể xảy ra một cơn động đất làm sụp đổ Kim Tự Tháp. Bởi đó, Kim Tự Tháp đã chống đỡ một cách hữu hiệu sự tàn phá của thời gian trong bao nhiêu nghìn năm và chứng tỏ sự chu toàn cùng cái kiến trúc vô cùng thần diệu của người cổ Ai Cập.
Trong số những điều phát hiện của đại tá Vyse, có một điều lạ lùng là một loạt những chữ ám tự này chưa hề thấy trong Kim Tự Tháp. Những chữ ám tự này do những người đá khắc trên mặt những phiến đá tảng dùng để xây cất năm gian phòng kể trên.
Trong những ám tự ấy có những tên của ba vị vua Ai Cập, là Khoufou, Khnem. Khoufou, và Khnem. Các nhà Ai Cập Học không thể đưa ra sự giải thích nào khác về cái tên khnem vì họ không tìm thấy tài liệu lịch sử về một vị vua Ai Cập nào có cái tên đó.
Nhưng họ biết rõ tên vua Khoufou: Đó là vị vua Pharaon của triều đại thứ tư, mà người Hy Lạp gọi là vua Khéops. Sự khám phá của ông Vyse đã đưa đến việc xác định vua Khoufou là người đã xây dựng nên Kim Tự Tháp, và xác định Kim Tự Tháp được dựng lên từ thời nào.
Tuy nhiên, cái xác ướp của vua Khoufou không hề được tìm thấy ở bất cứ nơi nào bên trong Kim Tự Tháp.
#63
Gửi vào 08/06/2011 - 11:30
AI CẬP HUYỀN BÍ
MỘT ĐÊM TRONG KIM TỰ THÁP
CHƯƠNG BỐN
Tôi sắp sửa đuổi theo một hoạt động lạ lùng nhất của đời tôi, tuy lạ lùng nhưng vẫn trong sự thầm lặng. Tôi có ý định ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp và ngồi thức suốt đêm trong Vương cung trong khi đêm tối dày đặc bao phủ nền trời Châu Phi.
Tôi đã ở một đêm trong ngôi kiến trúc kỳ dị nhất mà con người đã từng dựng lên trên bầu hành tinh của chúng ta.
Thật không phải dễ gì mà lọt được vào lúc ban đêm trong Kim Tự Tháp. Tuy mọi người đều có thể viếng ngọn tháp cổ này, nhưng nó không phải là tài sản của công chúng. Nó là tài sản của Chánh Phủ Ai Cập. Không phải ai cũng có thể lọt được vào trong đó và chiếm được một gian phòng trống để ngủ một đêm, chẳng khác như xâm nhập gia cư của người khác và nằm trong phòng ngủ tốt nhất của họ.
Mỗi khi một du khách muốn vào trong Kim Tự Tháp, y phải mua một tấm thẻ của Sở Bảo Trì Cổ Tích với giá năm đồng. Tôi bèn đến đó và xin phép ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp lớn.
Khi công chức sở ấy nghe lời thỉnh cầu của tôi, y tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên chẳng khác nào như y nghe tôi xin giấy phép để du hành lên mặt trăng. Tôi nói vài lời vắn tắt để bày tỏ lý do sự yêu cầu của tôi.
Từ sự ngạc nhiên, viên công chức bước qua sự thích thú, y mỉm cười. Tôi hiểu rằng có lẻ y coi tôi như một nhân vật có đủ điề kiện để lọt vào một nơi mà ít người muốn ở lại ban đêm trong đó. Sau cùng y nói với tôi:
- Tôi chưa hề nhận được một lời thỉnh cầu như thế bao giờ. Tôi không có thẩm quyền chấp thuận hay từ chối.
Y bèn giao tôi lên cho thượng cấp của y quyết định. Cái cảnh tượng buồn cười ở văn phòng viên công chức lúc nãy lại tái diễn. Tôi bắt đầu cảm thấy bớt lạc quan trong ý định của mình.
- Không thể được! Viên chủ sự nói với một giọng cương quyết tuy rằng đầy hảo ý, chắc hẳn rằng y đang đứng trước một người bị loạn thần kinh. "Điều ấy thật vô lý. Tôi rất tiếc." Y vừa nói vừa gằn từng tiếng vừa nhún vai, và đứng dậy để sửa soạn đưa tôi ra cửa.
Tôi về nhà ngồi suy nghĩ để tìm cách thực hiện mục đích. Quyết định này của tôi trở nên một sự ám ảnh. Hôm sau, tôi bèn xin vào yết kiến Thiếu tướng El Lewa Russell pacha, chỉ huy trưởng cảnh sát thành phố Cairo. Tôi ra khỏi văn phòng ông ta với một huấn lệnh viết tay, yêu cầu viên cảnh sát trưởng quận đô thành gồm khu vực Kim Tự Tháp, hãy dành cho tôi mọi sự giúp đỡ cần thiết để thực hiện mục đích.
Chiều đến, tôi bèn đến văn phòng thiếu tá Mackersey, trưởng ty cảnh sát địa phương, bót cảnh sát Mena. Họ đưa cho tôi một quyển sổ để tôi ký tên vào đó, xong rồi bóy cảnh sát có phận sự giữ gìn an ninh cho tôi cho đến sáng ngày mai. Một cảnh binh bót Mena được biệt phái để hộ tống tôi đến Kim Tự Tháp và ra chỉ thị cho viên cảnh sát có võ trang túc trực ở phía ngoài trong đêm đó.
Khi chúng tôi bắt tay từ giả, Thiếu tá Mackersey nói đùa:
- Chúng tôi chịu trách nhiệm lớn mà để ông một mình ở trong đó suốt đêm. Ông không có ý định đặt chất nổ để phá Kim Tự Tháp chứ?
- Tôi hứa với ông không bấy nhiêu đó, mà còn hứa sẽ không vác nó lên lưng mà chạy!
- Tôi e rằng chúng tôi phải tạm nhốt ông trong đó một đêm. Cứ tối đến, chúng tôi phải khóa trái cái cửa sắt ở chỗ cổng vào. Như vậy ông bị cầm tù trong mười hai tiếng đồng hồ.
- Tốt lắm! Hôm nay, không có cái dinh thự nào làm cho tôi thích hơn là cái nhà giam đó.
Tôi bước vào trong Kim Tự Tháp do cái khoảng trống mà ngày xưa vua Al Mamoun đã cho đào một gốc để tìm lối vào, và bắt đầu thám hiểm bên trong ngọn tháp không lồ. Thật ra trước kia tôi đã từng bước vào đó rồi, nhưng bây giờ là lần đầu tiên mà tôi đến đây để thự hiện một công trình khảo sát cũng lạ lùng như cái công trình nó thúc đẩy tôi trở lại xứ Ai Cập.
Sau khi đã đi qua những dãy hành lang và đường hầm đen tối quanh co như mê cung, tôi lọt vào gian phòng chính của Kim Tự Tháp, gọi là Vương Cung. Nhưng ống dẫn khí thông hơi ra đến bên ngoài, là những bằng chứng đánh đổ giả thuyết cho rằng Kim Tự Tháp là một ngôi lăng tẩm.
Tôi rọi đèn bấm lên các vách và trên trần, và lại một lần nữa lấy làm thán phục sự nối ráp một cách toàn hảo và tinh vi những khối đá rắn chắc và to lớn đã được mài dũa trơn bén. Dưới mặt đất cũng như trên các vách đá, còn những vết tích để lại do những cuộc thám hiểm của những kẻ tìm kiếm kho tàng.
Ở một góc về phía tây bắc, có một lỗ vuông dài và sâu, và ở kế bên là một tảng đá dài dựng bên vách, trước kia dùng để lót sàn bằng đá nhưng bị cậy bật lên bởi những kẻ tìm vàng và còn để lại đó.
Nằm song song với tảng đá này là một cái hòm bằng đá không có nắp, mặt đá phẳng lỳ không có trạm trổ hay khắc chữ chi cả giống như một cổ quan tài. Đó là vật duy nhất trong gian phòng trống trơn, đầu xoay về hướng Bắc chân xoay về hướng Nam.
Tảng đá cậy bật lên từ dưới đất có thể dùng làm chỗ ngồi. Tôi bèn ngồi lên đó, hai chân sếp bằng và sửa soạn ở lại đó suốt đêm. Tôi đặt xuống bàn tay mặt tôi cái nón, áo ngoài và đôi giày, phía bên trái tôi để cái đèn bấm bậc sáng, một bình thủy thermos đựng trà nóng, một bình nước lạnh, quyển sổ tay và cây bút máy. Tôi đưa mắt nhìn một lần cuối cùng khắp chung quanh gian phòng, nhìn qua cái hòm đá ở bên cạnh tôi, rôi tắt luôn ngọn đèn bấm.
Khi tôi đột nhiên đắm chìm trong đêm tối, tôi tự hỏi: Việc gì có thể xảy đến cho tôi đêm nay? Trong hoàn cảnh lạ lùng này, tôi chỉ có một việc là đợi chờ ...
Giờ phúc trôi qua một cách chậm chạp, trong khi đó tôi cũng từ từ cảm thấy gian phòng Vương Cung này có một bầu không khí rất lạ mà tôi chỉ có thể gọi bằng tĩnh từ thiêng liêng. Tôi đã cố tình giữ một tinh thần thụ cảm, một cảm giác thụ động, một thái độ tiêu cực, để có thể ghi nhận một cách rõ ràng và toàn vẹn mọi sự gì vượt khỏi lãnh vực phàm gian thực tại.
Tôi muốn rằng không có một thành kiến riêng tư nào ngăn cản tôi tiếp nhận sự gì có thể xảy đến từ lãnh vực siêu linh. Lần lần tôi định tĩnh tinh thần cho đến khi tâm trí tôi hầu như vắng lặng, hư không.
Sự vắng lặng nó bao phủ tâm trí tôi lúc ấy đem đến cho tôi một sự hiểu biết rõ ràng về một cái vắng lặng khác, đó là cái vắng lặng tràn ngập cuộc đời tôi. Cõi thế gian, với sự náo động ồn ào của nó, đối với tôi trở nên xa lạ như nó không hề có từ bao giờ.
Không một tiếng động, không một hơi thở đến với tôi từ cảnh đêm tối chung quanh. Thật ra, thế giới của những Kim Tự Tháp do im lặng ngự trị một cách im lặng đã có từ thời tiền sử xa xăm và không một người du khách nào có thể làm gián đoạn, bởi vì mỗi đêm lại đem lại sự im lặng trở về nguyên vẹn, hoàn toàn, gây cho ta sự sợ hãy nghiêm trọng nhất.
Tôi bèn quan sát bầu không khí uy nghiêm trong gian phòng. Những người nhạy cảm thường nhận thức được cái kinh nghiệm thông thường này trong những nơi đền miếu cổ kính thâm nghiêm. Kinh nghiệm của tôi cũng bắt đầu bằng cái cảm giác tương tự.
Thời gian càng trôi qua, cái ý thức về sự cỗ lổ thậm thâm của ngọn Kim Tự Tháp này càng in dấu vết sâu đậm trong tâm hồn tôi, tôi càng cảm thấy rằng thế kỷ hai mươi đang lui dần và mất dạng. Tuân theo cái quyết định mà tôi đã lập sẵn cho mình, tôi không đưa ra một sự phản ứng nào cả để chống lại cái cảm giác đó, trái lại, tôi để cho nó tăng cường thêm gấp đôi.
Tôi bắt đầu có cái cảm giác lạ lùng về một sự hiện diện vô hình đến gián đoạn sự cô đơn của tôi. Dưới bức màn đen tối dầy đặc bao phủ chung quanh, tôi cảm thấy rằng có một cái gì cựa quậy và sống động bắt đầu xuất hiện. Đó là một cảm giác mơ hồ nhưng có thật. Phối hợp với ý niệm mỗi lúc càng tăng về sự trở về dĩ vãng, nó làm cho tôi có ý thức rõ rệt về một ảnh hưởng siêu linh, thần bí.
Tuy thế, không có gì nhất định, rõ rệt trong cái ý niệm mơ hồ đó về một sự hiện diện lạ lùng và sống động trong bóng tối. Giờ phút trôi qua lặng lẻ, đưa đến một luồng khí lạnh mỗi lúc càng tăng. Ảnh hưởng của ba ngày nhịn đói mà tôi đã áp dụng để tăng gia sự nhạy cảm của tôi, lúc ấy biểu lộ bằng những cơn run rẫy mỗi lúc càng nhiều.
Do những ống thông hơi, không khí lạnh từ bên ngoài lọt vào Vương Cung đã thấm vào mình tôi xuyên qua lớp áo mỏng, làm cho tôi run lên cầm cập. Tôi bèn đứng dậy mặc thêm áo ngoài mà tôi đã bỏ trên tảng đá cách đó vài giờ vì e sợ tiết trời nóng nực. Nhưng đó là tiết trời ở một vài nơi tại vùng cận Đông. Khí hậu nóng bức lúc ban ngày, và lạnh lẻo lúc ban đêm.
Tôi ngồi lại trên tảng đá và đắm mình trong cái im lặng chết người và trong đêm tối rùng rợn. Cái im lặng của nhà mồ, cái hòm bằng đá trống trơn ở bên cạnh tôi không làm cho thần kinh tôi lắng dịu, trong khi sự gián đoạn vừa rồi trong cơn thiền định của tôi dường như cũng làm gián đoạn cả một chuyện khác.
Thật vậy, tôi nhận thấy rằng điều nghi ngại về một sự sống vô hình lởn vởn ở chung quanh tôi đã trở thành một điều chắc chắn. Quả thật, bên cạnh tôi có một cái gì sống động, thổn thức, nhịp nhàng, tuy rằng tôi vẫn chưa nhìn thấy đó là vật gì.
Đột nhiên tôi cảm thấy lo sợ khi tôi nghĩ đến sự cô quạnh của tôi và những nguy cơ có thể xảy đến. Tôi vẫn ngồi yên như thế một mình, trong gian phòng tối ở một chiều cao bảy chục thước khỏi mặt đất, cao hơn nhiều đối với sự sinh hoạt của một triệu dân thành phố Cairo, ở giữa màn đêm đen tối như mực, bị giam lỏng trong ngọn tháp lạ lùng này mà cửa ngoài đã khóa chặt, ở ven một bãi sa mạc rộng đến hàng mấy trăm dặm.
Trong khi ở bên cạnh gian nhà ngục tạm thời của tôi trong một đêm, có lẽ là ngôi kiến trúc cổ xưa nhất thế giới, đang chen chúc nhau một cách la liệt hỗn độn bao nhiêu những mồ mả âm u, trong cái nghĩa địa của một đế đô cổ xưa nghìn đời ngay nay đã biệt tích.
Dưới cặp mắt tôi, là cặp mắt đã từng quan sát tỉ mỉ cõi giới siêu linh, những điều huyền bí thuộc cõi siêu hình, và sưu tầm cặn kẽ khoa pháp môn phù thủy của phương Đông, thì gian phòng rộng rãi của Vương Cung lúc ấy có sự hiện diện của những nhân vật vô hình, và những vị Thần linh có nhiệm vụ canh gác ngôi kiến trúc thâm nghiêm này.
Dường như một giọng nói từ cõi u minh sắp sửa thốt lên bất cứ lúc nào để phá tan cái im lặng bao la này. Tôi đã từng quen thuộc với sự cô đơn, và tôi rất thích sống trong cô đơn, nhưng sự cô quạnh của gian phòng này có một cái gì nguy hiểm và rùng rợn đáng sợ.
Sự tối tăm nó làm đắm chìm tất cả mọi sự vật, bắt đầu đè nặng lên đầu tôi như một khối sắt nghìn cân. Trong người tôi phảng phất một sự sợ hãy vô lý. Tôi bèn xua đuổi nó đi tức khắc. Người ta không cần có một sự can đảm thể chất để lại bên trong Kim Tự Tháp hoang vắng, mà là cần có ít nhiều can đảm tinh thần.
Người ta chắc rằng không có một con rắn nào chui ra từ một cái lỗ hay một khe đá, cũng không có một kẻ sát nhân nào ẩn núp trong đó từ lúc tối trời. Thật ra những sinh vật duy nhất hiện ra trước mắt tôi từ chặp tối là một con chuột sợ hãy chạy loạn cả lên để tìm lối thoát khi nó gặp ánh đèn sáng rực của tôi ở ngoài hành lang.
Kế đó tôi khám phá ra hai con cắc kè bò ở trên trần của Hậu Cung, màu da vàng đục của chúng cho thấy chúng đã sống rất lâu đời, và sau cùng là những con dơi ở dưới hầm đá.
Cần nói thêm là vài con dế đã thốt ra tiếng kêu rất lớn khi tôi bước vào hành lang chính, nhưng khi nghe tiếng động, chúng nó liền im bặt. Và bấy giờ, thì cái im lặng bao trùm khắp Kim Tự Tháp.
Không có gì của thế giới vật chất làm tôi bất mãn, nhưng dẫu sao, tôi lại cảm thấy một lần nữa một cảm giác khó chịu mơ hồ dường như có những cặp mắt vô hình đang rình rập tôi ở đâu đây. Chốn này thật là phảng phất một bầu không khí yêu ma hư ảo.
Vài loại rung động của tinh lực, âm thanh và ánh sáng lọt ra ngoài phạm vi khả năng cảm xúc thông thường của con người. Những chương trình truyền thanh đi xuyên khắp không gian để đến tai những thính giả trên thế giới, nhưng họ sẽ không nghe thấy gì nếu họ không điều chỉnh cho máy thu thanh của họ bắt đúng luồng sóng điện.
Tôi đã xả thiền và thoát ra khỏi trạng thái hoàn toàn thụ cảm, để dồn tất cả sức mạnh, tập chung ý chí vào sự cố gắng nhằm chọc thủng cái im lặng và bóng tối dày đặt nó bao phủ chung quanh tôi. Nếu do hậu quả sự tập trung tinh thần mãnh liệt vào nội tâm, khả năng quan sát của tôi được nới rộng đến một tầm mức phi thường, thì chừng đó có thể nào tôi không bắt chợt nhìn thấy sự hiện hiện của những sức mạnh vô hình? Biết đâu?
Tôi chỉ biết rằng khi tôi tự điều chỉnh bằng phương pháp hồi quan phản chiếu mà tôi được truyền thụ từ lâu trước chuyến du hành lần hai sang Ai Cập, tôi nhận biết được rằng có những mãnh lực bất hảo đã xâm chiếm gian phòng, có một cái gì tiến lại gần tôi mà tôi cảm thấy là nguy hiểm. Một sự sợ hãi làm rung chuyển tâm hồn tôi.
Tôi cố xua đuổi đi thì nó lại trở lại từng hồi. Tôi cố gắng áp dụng phương pháp hồi quan phảng chiếu một cách ráo riết hơn nữa sự nhạy cảm càng tăng theo cái đà thường lệ của nó và biến thành một linh ảnh.
Những hình bóng lởn vởn chập chờn vô định trong gian phòng, lần lần chúng nó hiện ra với những hình thù rõ rệt hơn, đột nhiên có những vong linh hung ác xuất hiện và xáp lại gần kề bên gương mặt tôi. Kế đó, một vật đen ngòm tiến lại gần tôi với một cái nhìn dữ tợn và đưa tay lên với một cử chỉ hăm dọa, như muốn gây cho tôi một sự kiêng nể pha lẫn với sự kinh hoàng.
Những vong linh mà người ta không thể lường được tuổi từ bao nhiêu đời, dường như đã kéo nhau lại đó từ cái nghĩa địa gần bên, một cái nghĩa địa cổ xưa đến nỗi những xác ướp quật lên liền tan ra thành tro bụi trong những chiếc hòm bằng đá. Chính những vong hồn còn bám víu xác ướp cổ lổ này, đã xuất hiện một cách hung dữ trong gian phòng của tôi.
Tất cả những chuyện huyền thoại về những ma quái lởn vởn ở vòng chung quanh Kim Tự Tháp đã trở lại trong ký ức của tôi, với những chi tiết rùng rợn khi những chuyện ấy được kể lại cho những người Ả Rập ở làng gần bên. Khi tôi nói với một người bạn trẻ Ả Rập tôi có ý định ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp, y cố gắng khuyên can tôi:
- Mỗi tấc đất trong đó điều có ma! Vùng này có tất cả một đạo binh yêu ma và thần linh.
Sự cảnh cáo này không phải là vô ích, vì bây giờ tôi có thể nhận thấy đúng như thế. Những hồn ma bóng quế đã xâm nhập vào nơi tạm trú của tôi, và quay cuồng khắp chốn, cái cảm giác khó chịu và khó tả của tôi lúc đầu nay đã được hoàn toàn giải đáp.
Dưới một sự căng thẳng như thế, ở chính giữa cái thể xác bất động của tôi, tôi nhận thấy rằng quả tim của tôi đập mạnh như búa bổ. Sự sợ hãy điều quái dị, nó rình rập chúng ta luôn luôn, lại xâm chiếm chiếm lấy tôi một lần nữa. Sự sợ sệt, kinh hãi, khủng khiếp lần lượt đến với tôi và lột trần bộ mặt dữ tợn của chúng.
Hai bàn tay tôi tự nhiên nắm chặt lại như những gọng kềm. Nhưng tôi quyết vượt qua cơn thử thách, tuy rằng những hình thù ma quái lúc đầu đã gây cho tôi cảm giác sợ sệt, sau cùng chúng nó làm tôi phải huy động tất cả sự can đảm và tinh thần chiến đấu mà tôi có thể.
Đôi mắt tôi vẫn nhắm, trong khi tất cả những vong hồn màu xám đục, và mờ sương, lướt nhẹ chung quanh và hiện rõ rệt trong linh cảm của tôi, luôn luôn với sự thù nghịch mãnh liệt, sự nhất tâm ráo riết ngăn cản theo đuổi quyết định của tôi.
Cả một đoàn ma quái thù nghịch vây phủ lấy tôi. Tôi có thể giải vây được dễ dàng bằng cách bật đèn bấm hoặc đốt đuốc lên, hoặc đứng lên để thoát mau ra khỏi phòng và chạy một quảng độ vài ba trăm bộ đến cổng ngoài, tại đó người gác cổng có võ trang có thể đem đến cho tôi một sự tăng viện đáng kể.
Cơn thử thách bắt tôi phải chịu một hình thức tế nhị của sự cực hình, nó khuấy phá linh hồn tôi, trong khi thể xác tôi vẫn nguyên vẹn. Nhưng đồng thời trong tôi cũng có một sự thúc đẩy mạnh mẽ buộc tôi phải vượt qua giai đoạn thử thách ấy cho đến cùng.
Sau cùng giai đoạn quyết liệt đã đến. Những loài yêu quái hình thù ghê rợn, gớm ghiếc, không thể tả nỗi mà chỉ có ở cõi Âm Ty, những loài ma quỷ hình dung cổ quái, dị hợm, điên rồ, rùng rợn, quái đản, từ đâu kéo đến thật đông chung quanh tôi, sự ghê tởm mà chúng nó gây cho tôi làm cho tôi chảy qua một cơn đau khổ không thể tưởng tượng!
Trong vài phút đồng hồ, tôi đã trải qua những cơn xúc động mà kể từ đó về sau tôi không thể nào quên được. Cái cảnh tượng độc đáo ấy đã được khắc trong ký ức của tôi bằng những nét sâu đậm không thể xóa mơ. Kể từ nay, bất cứ giá nào ở cõi trần gian này tôi sẽ không bao giờ muốn tái diễn cái kinh nghiệm khủng khiếp như đêm nay; tôi sẽ không bao giờ ở lại một đêm nữa trong Kim Tự Tháp.
Cảnh tượng ấy chấm dứt đột ngột lạ thường. Những loài yêu ma, quỷ quái biến mất dạng trong bóng tối mà từ đó chúng đã xuất hiện ra; chúng trở về cõi U Minh của những người đã chết, đem theo luôn với chúng tất cả những sự gớm ghiếc, ghê tởm và rùng rợn. Thần kinh của tôi hầu như bị bẻ gãy hết nữa phần, đã cảm giác được một sự thoải mái dễ chịu lớn lao chẳng khác nào như một lính chiến ngoài mặt trận khi cơn oanh tạc dữ dội đột nhiên chấm dứt.
Không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua cho đến khi tôi ý thức được một sự hiện diện mới trong gian phòng. Đó là một sự hiện diện tốt lành, một nhân vật có thiện cảm, đứng ngay ở chỗ cửa vào và ban cho tôi những cái nhìn đầy hảo ý. Sự có mặt của người này đem đến một sự thay đổi hoàn toàn cho bầu không khí chung quanh, một sự thay đổi rất khả quan và lành mạnh.
Một yếu tố mới bắt đầu ảnh hưởng đến con người nhạy cảm của tôi, vừa bị trải qua một cơn đe dọa khủng khiếp, bây giờ thì tôi đã trấn tĩnh và trở về với sự bình yên. Nhân vật ấy bước đến gần tảng đá chỗ tôi đang ngồi, khi đó tôi thấy có một nhân vật khác nữa cùng đi theo sau.
Cả hai người cùng đứng gần bên tôi và nhìn tôi một cách nghiêm chỉnh; những cái nhìn của họ chứa đầy một ý nghĩa tiên tri. Tôi cảm thấy rằng một giờ phút quan trọng của đời tôi sắp đến gần.
Hai vị này hiện ra trong linh ảnh của tôi với một hình dáng khó quên. Những tà áo rộng trắng và giầy dép của họ, tất cả đều trở lại trí nhớ của tôi trong khoảnh khắc. Ngoài ra, họ có mang những phù hiệu rõ ràng về chức sắc của họ, người ta nhận ra ngay họ là những vị Đạo trưởng cao cấp của nền tôn giáo cổ Ai Cập.
Một ánh hào quang bao phủ quanh mình họ chiếu một ánh sáng lạ lùng khắp một phần của gian phòng. Thật ra, họ có vẻ đặc biệt hơn những người thường; họ có cái cốt cách huy hoàng của những bậc siêu nhân, gương mặt họ toát ra một sự bằng an lạ thường, cái bằng an của một đạo viện thâm nghiêm.
Hai vị vẫn đứng yên như hai pho tượng, họ chăm chú nhìn tôi với hai chắp ngang trên ngực, và giữ một sự im lặng hoàn toàn.
Phải chăng tôi đang hoạt động trong một chiều đo thứ tư của không gian, và thức tỉnh để quan sát một cái dĩ vãng nghìn đời? Cái ý thức của tôi về thời gian phải chăng đã thụt lùi trở về thời cát bụi xa xăm của nước cổ Ai Cập? Không, không thể được, vì tôi đang nhận thức rõ ràng hai nhân vật ấy có thể nhìn thấy tôi, thậm chí họ cũng đang sắp sửa nói chuyện với tôi.
Hai vị khuất mặt nghiên mình tới trước, một vị hình như đôi môi mấp máy; gương mặt người kề sát bên gương mặt tôi, đôi mắt người chiếu diệu một tia sáng huyền ảo. Giọng nói của người vang dội bên tai tôi:
- Tại sao ngươi lại đến chốn này và định kêu gọi đến những năng lực huyền bí? Cuộc sống trần gian không đủ làm thỏa mãn ngươi hay sao?
Những lời này đến với tôi không phải bằng sự xúc cảm vật chất của thính giác; vì lẽ không có một rung động âm thanh nào đã xé tan cái im lặng trong gian phòng. Nhưng dường như tôi nghe những lời ấy cũng như một người điếc nghe được ở bên trong lỗ tai của mình.
Tiếng nói mà tôi nghe được, người ta có thể ngờ rằng đó là tiếng nói trong nội tâm, bởi vì tuy rõ ràng là tôi nghe thấy bên trong lỗ tai tôi, nhưng nó cũng có thể gây ra cái ấn tượng của một tư tưởng. Nhưng thật ra không phải như vậy. Đó là một tiếng nói thật sự.
Tôi đáp:
- Thưa không!
Vị đạo trưởng nói với tôi:
- Sự náo nhiệt phồn hoa của chốn thị thành đông đúc sẽ chấn an tinh thần cho những kẻ lòng còn run sợ. Đi, người hãy trở về với những thân nhân bạn bè, và ngươi sẽ chóng quên cái điều vọng tưởng vu vơ nó đã đưa ngươi đến đây.
- Tôi không thể.
Người lại nói:
- Con đường ảo vọng sẽ làm cho ngươi mất cả lý trí. Nhiều người đã từng đi lạc vào đó, và trở về thành kẻ loạn óc, điên khùng. Người hãy trở về trong khi còn kịp thời giờ, hãy trở về với con đường dành cho những bước đi của người trần gian.
Nhưng tôi lắc đầu và nói nhỏ như trong hơi thở:
- Tôi phải theo con đường này, đối với tôi không còn con đường nào khác.
Vị đạo trưởng lại bước đến gần và lại nghiêng mình về phía chỗ tôi ngồi. Tôi nhìn thấy đó là gương mặt một vị trưởng lão hiện ra trong đêm tối. Trưởng lão nói thì thầm vào tai tôi:
- Kẻ nào tiếp xúc với chúng ta sẽ tuyệt giao với cuộc đời thế tục. Ngươi dám chắc rằng ngươi có đủ sức đi vững bước một mình chăng?
- Thật ra tôi cũng không biết.
Vị trưởng lão lại nói thì thầm:
- Hãy theo ta, rồi khi ngươi đã nhìn thấy, ngươi hãy trả lời cho ta biết.
Kế đó tôi nhìn thấy, như trong một linh ảnh xa xăm, những đường lộ ngoắt ngoéo như mê cung của một thành phố lớn. Cảnh tượng đó hiện ra rất mau chóng, cho đến khi tôi nhận thấy ở phía trước có một ngôi nhà cổ, gần một nơi có rào sắt. Tôi thấy một cầu thang tối om đưa lên một phòng nhỏ hẹp ở phía dưới nóc nhà.
Vị đạo trưởng lại đột nhiên xuất hiện tại chỗ ấy, ngồi một bên giường nằm của một ông già khác mà râu tóc rối nùi, với những nét mặt gân guốc phong trần. Ông già này hẳn là đã vượt quá từ lâu về cái độ về chiều của cuộc đời, căn cứ vào nước da màu xám tro và bọc lấy xương của ông ta.
Gương mặt hốc hác xương xẩu của ông ta chứng tỏ một sức lực đã tàn, làm cho tôi động lòng trắc ẩn, nhưng khi nhìn kỹ ông ta tôi cảm thấy rợn người vì tôi thấy ông ta đang vật lộn với tử thần, một cuộc vật lộn mà kết quả đã hiển nhiên không còn nghi ngờ gì nữa. Vị đạo trưởng dẫn đường cho tôi nhìn người hấp hối với cái nhìn thương hại. Người dơ tay lên và nói:
- Đợi vài phút nữa thôi, ông bạn hỡi, và ông bạn sẽ được bình an. Đây tôi có đem đến cho ông bạn một người đi tìm những mãnh lực nhiệm mầu. Ông bạn hãy nói với y vài lời, để chia sẽ với y ích nhiều kinh nghiệm.
Đột nhiên tôi trở nên không phải chỉ là một người chứng kiến, mà lại là diễn viên trong cái màn bi kịch lạ lùng này. Với một tiếng thở rất nhọc mệt làm se thắt lòng, người hấp hối day đầu lại và nhìn thẳng vào mặt tôi. Dẫu cho tôi có đi tận chân trời góc bể tôi cũng không bao giờ quên cái nét kinh hoàng hiện ra trong đôi mắt của y.
- Anh còn trẻ hơn tôi, y nói thì thầm, nhưng tôi đã đi khắp vũ trụ một lần, hai lần, ba lần. Tôi cũng vậy, tôi đi tìm cái mà anh đang tìm. Ồ! Tôi đã tìm kiếm xiết bao!
Y ngừng lại một lúc, đầu y lại rơi xuống gối, y cố gắng nhớ lại việc cũ. Kế đó y ngồi nhỏm dậy, chống đở trên hai khủy tay, rồi đưa ra một cánh tay dài và gầy ốm. Bàn tay y với những ngón tay xương xẩu, giống như tay của một bộ xương người. Y nắm lấy bàn tay tôi siết chặt như một cái kềm. Tôi cảm thấy rằng cái nhìn sâu sắc của y soi vào tận hai mắt tôi và định tìm hiểu linh hồn tôi.
- Đồ điên, y nói lớn, những mãnh lực duy nhất mà tôi tìm thấy chỉ là những mãnh lực của xác thịt và của ác quỷ! Không có mãnh lực nào khác. Anh nghe chưa, không có mãnh lực nào khác nữa!
Sự cố gắng ấy vượt quá sức của y. Y liền rơi xuống gối, và tắt thở. Vị hướng dẫn tôi không nói một lời. Người ngồi yên trong một phút suy tư bên cạnh giường. Khi đó, cái linh ảnh đã tan đi mất. Một lần nữa tôi lại thấy tôi ngồi trong Kim Tự Tháp. Vị đạo trưởng im lặng nhìn tôi, và tôi cũng đáp lại bằng cái nhìn câm lặng. Người đọc được tưởng tôi, nên từ trong bóng tối, vọng đến tai tôi những lời này:
- Được, ngươi đã chọn con đường này. Quyết định của ngươi từ nay sẽ không thay đổi. Vĩnh biệt.
Người liền biến mất. Tôi còn ngồi lại một mình với vị đạo trưởng thứ nhì, vị này từ lúc đầu chỉ đóng vai trò một nhân chứng im lặng. Người bèn bước đến trước chiếc hòm bằng đá. Người có cái gương mặt của một ông lão rất già. Tôi không thể đoán tuổi tác của người đến bao nhiêu.
- Con hỡi, ông lão nói một cách bình tĩnh, những đấng cao cả gìn giữ những quyền năng thần bí đã thu nhận con trong bàn tay của các ngài. Đêm nay con phải được đắt đến phòng thụ huấn. Con hãy nằm ngữa trên tảng đá này. Hồi thời cổ xưa, thì phải nằm trong cái hòm đá kia, có lót những cành và lá cây chỉ thảo.
Đoạn ông lão chỉ cỗ quan tài ở giữa phòng. Tôi không làm gì khác hơn là vâng lời vị đạo trưởng già bí mật. Tôi nằm đặt lưng trên tảng đá. Tôi vẫn chưa biết rõ chuyện gì xảy ra ngay sau khi đó. Tôi cảm thấy như ông lão đã cho tôi uống một liều thuốc mê đặc biệt, có ảnh hưởng rất chậm vì tất cả bắp thịt của tôi đều cứng đơ, kế đó thì một sự tê liệt từ từ xâm chiếm lấy cả tứ chi.
Toàn thân tôi trở nên nặng nề và cứng ngắc. Trước hết, hai bàn chân tôi tê lạnh, rồi lần lần đến hai chân và cảm giác tê lạnh cứ đi dần dần từ dưới lên trên. Bây giờ thì cả hai chân tôi đều không còn cảm giác gì nữa.
Dường như tôi sắp bước vào trạng thái nữa mê nửa tỉnh, một cái linh tính bí mật báo cho tôi biết rằng sự chết đã đến gần. Tuy thế, tôi vẫn không nao núng, vì từ lâu tôi đã vượt khỏi sự chết cố hữu của người đời và tôi chấp nhận điều không thể tránh được với một tinh thần triết lý.
Cảm giác lạnh đã lên đến ngực, phần dưới thân hình tôi đã hoàn toàn tê liệt. Khi đó, tôi có một cái gì như là nhói vào quả tim, nhưng cái cảm giác đó qua mau và tôi hiểu rằng cơn khủng hoảng cuối cùng sẽ không còn lâu nữa. Nếu tôi có thể nới rộng hai quai hàm đã cứng thì tôi đã bật cười về cái tư tưởng đầu tiên đến với tôi lúc ấy.
Cái tư tưởng đó là: "Ngày mai, người ta sẽ tìm thấy xác chết của tôi trong Kim Tự Tháp, và thế là hết." Tôi biết chắc rằng tất cả những cảm giác của tôi đều do cái nguyên nhân là sự chuyển tiếp của linh hồn tôi giữa cuộc đời thế tục và cõi giới bên kia nấm mồ.
Tuy tôi biết rõ ràng tôi đang trải qua những cảm giác của một kẻ đang hấp hối, nhưng tôi không có một sự phản ứng nào không thể chống cự lại. Sau cùng, tất cả ý thức của tôi đã tập trung lên đầu, một sự quay cuồng điên loạn cuối cùng diễn ra trong khốc óc của tôi.
Tôi cảm thấy dường như tôi bị cuốn lôi theo một trận cuồng phong dữ dội và tôi chui qua một cái lỗ nhỏ hẹp. Rồi trong một lúc, tôi hoảng sợ như sắp bị ném vào khoảng không gian vô tận, tôi lao mình vào khoảng không ... , và tôi liền được giải thoát!
Không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả những nỗi sung sướng của sự giải thoát mà tôi vừa trải qua. Tôi đã biến thành một vật tâm linh, một vật cấu tạo bằng tư tưởng và tình cảm, không còn bị trói buộc bởi những chướng ngại của cái ngục tù nó vẫn giam hãm tôi, tức là cái thể xác nặng nề bằng xương thịt này.
Thoát ly ra khỏi cái gánh nặng của thể xác. Tôi đã trở nên giống như một vong linh, như một người chết vừa chui ra khỏi mồ, nhưng tuyệt nhiên không hề mất đi cái ý thức của mình. Thật ra, ý thức về sự sống của tôi lại còn đậm đà nồng nhiệt hơn trước. Trên hết mọi sự, việc thoát lên một cõi giới thanh cao hơn đem cho tôi cái cảm giác tự do, một sự tự do sung sướng, tốt lành của cõi giới thuộc về chiều đo thứ tư nó dung nạp lấy tôi.
Trước tiên, tôi thấy tôi còn nằm ngửa trên lưng, giống như cái thể xác mà tôi vừa rời bỏ, và lơ lửng trên cái sàn gạch đá. Kế đó tôi cảm thấy như có một bàn tay đẩy nhẹ tôi tới trước và đở tôi đứng dậy trên hai chân. Sau cùng, tôi cảm thấy như vừa đứng, lại vừa lơ lửng trên không.
Từ trên không gian, tôi ngắm nhìn cái thể xác bằng xương thịt mà tôi vừa rời bỏ, đang nằm yên, bất động trên tảng đá. Gương mặt không cảm xúc, lật ngửa lên trần nhà, đôi mắt hé mở, tuy nhiên hai con ngươi không còn đủ sáng để chỉ rằng hai mí mắt không đóng chặt.
Hai tay chắp trước ngực, cử chỉ mà tôi không nhớ đã làm trước khi đó. Hay là ai đó đã chấp hai tay của tôi lại mà tôi không hay? Hai chân duỗi thẳng dọc theo nhau từ đầu đến cuối. Đó là cái thể xác nằm ngửa của tôi, dường như đã chết, mà tôi vừa thoát ra khỏi và bỏ lại đó.
Tôi nhận thấy rằng một tia ánh sáng yếu ớt và trắng như bạc từ mình tôi, cái tôi mới, phóng xuống cái thể xác đang nằm yên bất động trên tảng đá. Đó là một điều lạ, nhưng lạ hơn nữa là tôi thấy cái sợi nhau rún vô hình bí mật đó chiếu sáng cả một gốc phòng Vương Cung mà tôi đang lơ lửng trên không, và soi lên những viên đá trên tường như một ánh trăng sáng diệu.
Tôi chỉ còn là một bóng ma, một vong linh không thể xác đang vẫn vơ trong không gian. Tôi đã hiểu tại sao các nhà hiền triết cổ Ai Cập dùng con chim làm biểu tượng của linh hồn trong những chữ ám tự cổ xưa.
Với cảm giác bay lơ lửng trên không chẳng khác nào như tôi có mọc hai cánh và bay lướt trên cái thể xác đã bỏ rơi, giống như con chim bay lượn trên một vật gì ở dưới đất, cái biểu tượng đó thật là khéo lựa chọn.
Vậy là tôi đang ở trong không gian, tôi đã tách rời linh hồn tôi ra khỏi cái xác phàm, tôi đã tự phân thân tôi ra làm thành hai phần khác nhau, tôi đã rời bỏ cõi thế gian mà tôi vẫn ở bấy lâu nay.
Tôi có cảm giác như trở nên một vật tinh anh như dĩ thái, thanh nhẹ vô cùng, trong một cái thể mới, tức cái thể vía, mà tôi khoát lấy kể từ nay. Nhìn tảng đá lạnh trên đó cái thể xác tôi đang nằm, tôi có một ý nghĩ giản dị nó biểu lộ ra một cách thầm lặng bằng những lời này:
- Đó là trạng thái của sự chết. Bây giờ tôi biết rằng tôi là một linh hồn, và tôi có thể sống ngoài xác thân. Tôi sẽ tin như vậy luôn luôn, vì tôi đã trải qua kinh nghiệm đó.
Cái tư tưởng đó bám chặt lấy tôi một cách ráo riết như một gọng kềm, trong khi tôi vẫn lơ lửng phất phơ trên cái thể xác trống rỗng. Tôi đã kinh nghiệm sự tồn tại của linh hồn bằng phương pháp hiệu quả nhất: Bằng cách di chuyển thật sự ra khỏi thể xác, rồi thấy rằng mình vẫn còn sống!
Tôi tiếp tục nhìn cái xác phàm còn bỏ sót lại. Phải chăng là nó mà trong bao nhiêu năm tôi vẫn gọi là cái tôi? Một đống nhục thể, vô tri giác, có thế thôi. Đó là điều mà bấy giờ tôi mới khán phá, với bằng chứng rõ ràng. Nhìn vào đôi mắt mù tịch không còn thấy gì nữa, không còn đáp ứng với ngoại cảnh, tôi mới nhận thấy rõ tất cả sự mỉa mai của vấn đề.
Cái thể xác vật chất của tôi vẫn giam hãm lấy tôi, cái tôi thật, nhưng bây giờ tôi đã thật được tự do. Trước kia, tôi vẫn được trở đi lại đó đây trên hành tinh này, bằng một cái cơ thể mà từ lâu nay tôi vẫn lầm lẫn với cái tôi thật.
Dường như cái ý thức về luật hấp dẫn đã biến mất, tôi vẫn phất phơ trên không trung và cảm thấy vừa như treo lơ lửng lại vừa như đứng một cách lạ lùng. Bỗng nhiên xuất hiện bên cạnh tôi vị đạo trưởng già đạo mạo, cốt cách thanh kỳ. Đôi mắt nhìn lên, gương mặt trầm tĩnh, phong độ ung dung, người cầu nguyện:
- Ô Amen, Ô Amen ở trên trời, hãy nhìn về cái thể xác đứa con ngài và ban cho y ân huệ trong cõi giới tâm linh.
Kế đó người nói với tôi:
- Bây giờ con đã học xong bài học lớn. Con người, mà linh hồn sinh ra từ đấng bất diệt, không thể nào chết mất đi đâu. Con hãy ghi nhận cái chân lý đó bằng ngôn ngữ của trần gian.
Ngay lúc đó, trước mặt tôi lần lượt xuất hiện gương mặt khá quen thuộc của một thiếu phụ đã quá vãng mà tôi đã đi đám táng trên hai mươi năm về trước, rồi đến những nét mặt quen thuộc của một người bạn chí thân mà tôi đã đưa đến chỗ yên nghĩ cuối cùng cách đây hai mươi năm, sau cùng là nụ cười hồn nhiên của một đứa trẻ mà tôi đã biết chết trong một tai nạn.
Cả ba người điều nhìn tôi trong sự trầm lặng, giọng nói thân mật của họ đã thốt ra chung quanh tôi. Tôi nói ít lời vắn tắt với mỗi người ấy, rồi họ lui gót rồi biến mất. Vị đạo trường già nói:
- Họ cũng sống như con đây, như cái Kim Tự Tháp này đã từng chứng kiến cái chết của nữa phần nhân loại và nó vẫn còn tồn tại. Con hỡi, con nên biết rằng trong ngọn tháp cổ này còn ấn tàng cái di sản đã mất của những giống người đầu tiên và sự liên minh mà họ đã ký kết với đấng tạo hóa, do sự trung gian của vị tiên tri đầu tiên.
Nhưng người được chọn lựa ngày xưa đã được đưa đến đây để trình bày cho thấy cái liên minh đó và để khi họ trở về nhà, họ có thể duy trì sự bí mật đó mãi mãi trong dân gian. Con hãy ghi nhớ lời cảnh cáo này:
"Khi nào con người từ bỏ đấng Hóa Công và nuôi sự thù hằn với kẻ đồng loại, thì họ phải chịu cái số phận của những vị quốc vương châu Atlantide ở vào thời đại xây cất cái Kim Tự Tháp này. Họ sẽ bị diệt vong bởi chính lòng tà vạy của họ cũng như dân Atlantide ngày xưa vậy."
Không phải đấng tạo hóa đã nhận chìm châu Atlantide mà chính sự ích kỷ, bạo tàn và mù quán tâm linh của những dân tộc sống trên vùng lục địa vô phước ấy. Đấng tạo hóa yêu thương tất cả nhân loại, nhưng sự sống còn của con người bị cai quản bởi những định luật huyền bí mà Ngài đặt ra cho họ. Vậy con hãy ghi nhớ những lời cảnh cáo này.
Khi ấy, tôi bị xâm chiếm bởi một sự ước muốn mãnh liệt là muốn biết thêm sự liên minh bí mật ấy. Chắc hẳn vị đạo trưởng đã đọc được tư tưởng của tôi, vì người liền nói nhanh:
- Mọi sự phải đến vào đúng ngày giờ của nó. Chưa phải lúc, con ạ, chưa phải lúc.
Tôi cảm thấy một sự thất vọng chua cay. Người nhìn tôi trong vài giây đồng hồ rồi nói tiếp:
- Chưa có một người nào thuộc chủng tộc của con được phép biết điều ấy. Nhưng vì con đã giỏi về các khoa này, vì con đã đến với chúng ta với cả tấm lòng thiện chí và hiểu biết, con có thể được vài sự hài lòng. Bây giờ, con hãy theo ta.
Khi đó xảy ra một chuyện lạ kỳ. Dường như tôi đã lọt vào một cơn mê, trong một lúc tôi đã mất cả ý thức về ngoại cảnh và kế đó tôi đã được đưa đến một chỗ khác. Tôi thấy tôi đanng ở một dãy hành lang dài, có chiếu một thứ ánh sáng êm dịu, tuy tôi không thấy có cửa sổ hay đèn đuốc chi cả.
Tôi nghĩ rằng cái nguồn phát ra ánh sáng này không gì khác hơn là cái hào quang bao bọc chung quanh mình vị đạo trưởng già đồng hành với tôi, pha lẫn với sự chiếu sáng với sợi dây từ điển rung động trong dĩ thái ở phía sau lưng tôi.
Nhưng tôi phải nhìn nhận rằng sự giải thích nầy vẫn chưa đủ. Các vách tường điều bằng đá ửng màu đất nung, và các phiến đá được ráp nối một cách vô cùng tinh vi. Đất nghiêng theo đường dọc lài lài xuống, theo một gốc tương đương với dốc lài từ cửa vào Kim Tự Tháp.
Gian phòng vuông vức và thấp, nhưng không gây trở ngại. Tôi không thể khám phá ra nguồn gốc của cái ánh sáng bí mật ấy, phía trong gian phòng cũng chiếu sáng không kém, dường như có một ngọn đèn soi sáng khắp phòng. Vị đạo trưởng già mời tôi đi theo con đường dốc. Người căn dặn:
- Đừng quay đầu lại nhìn phía sau.
Chúng tôi vẫn đi như thế trên một quãng đường dốc, kế đó tôi thấy một gian phòng lớn, gống như một nơi thánh điện, ở tận chỗ cuối đường. Tôi đang biết rõ là tôi đang ở phía trong hay ở phía dưới hầm Kim Tự Tháp, nhưng trước đó tôi không hề thấy con đường dốc và gian phòng này.
Lẽ tất nhiên con đường dốc và gian phòng này điều bí mật cho đến khi nó vẫn chưa hề bị khám phá. Tôi không khỏi cảm thấy kinh sợ, do sự phát hiện đột nhiên này, trong khi một sự tò mò mãnh liệt cũng không kém khiến tôi tự hỏi đâu là chỗ cửa vào con đường hầm bí mật này và cửa đó ra sao.
Sau cùng tôi day đầu lại và liếc nhìn ra phía sau để hy vọng tìm thấy cái cửa bí mật. Tôi lọt vào con đường dốc này mà không do một ngã nào, nhưng ờ phí cuối đường hầm tôi nhận thấy rằng hầu như chỗ cửa vào đã bị đóng chặt bởi những tảng đá vuông lớn và trét bằng một chất nhựa giống như xi măng.
Tôi xem xét một vách tường đá trắng, kế đó tôi cảm thấy như bị xô té bởi sức mạnh vô hình không cưỡng lại được, cho đến khi tất cả cảnh tượng ấy biến mất dạng và tiếp tục bay lơ lửng trên không gian.
Tôi còn nghe cái âm hưởng vọng lại từ xa như một tiếng vang "Chưa phải lúc ... chưa phải lúc ... " và trong giây phút tôi đã nhìn thấy cái thể xác vô tri bất động của tôi nằm trên tảng đá. Vị đạo trưởng già nói nhỏ với tôi.
- Con hỡi! Con có tìm thấy cái cửa bí mật hay không, điều ấy cũng không quan hệ gì. Con hãy tìm trong nội tâm con đường huyền bí nó đưa con đến nơi thánh điện ẩn dấu trong chỗ thầm kín của linh hồn, rồi con sẽ tìm thấy cái kho tàng bí mật.
Sự bí mật của Kim Tự Tháp chính là sự bí ẩn trong người của con vậy. Những thánh điện thâm nghiêm, những di tích chứng minh của thời cổ, tất cả đều có chứa bên trong linh hồn của con.
Bài học của Kim Tự Tháp chính là đây: Con người phải quay về nội tâm, thám hiểm tận chỗ chung tâm huyền bí của bản chất mình để tìm thấy chân ngã, cũng như người ta phải thám hiểm tận chỗ thâm sâu ẩn dấu của ngọn tháp này để khám phá ra điều bí mật tối trong của nó. Thôi, ta vĩnh biệt con từ đây!
Tâm hồn tôi quay cuồng trong một cơn gió lốc nó lôi cuốn tôi đi, tôi trượt xuống dưới thấp, xuống thấp mãi, một sự mê man nặng nề xâm chiếm lấy tôi. Tôi thu thập tàn lực để cố gắng cử động những bắp thịt đã cứng đơ, nhưng vô hiệu quả, sau cùng tôi ngất lịm đi.
Tôi giật mình và mở mắt dậy trong bóng tối dày đặc. Khi toàn thân tôi đã co giãn lại được, tôi dò dẫm trong đêm tối để tìm ngọn đèn bấm và bậc đèn lên. Tôi vẫn ở trong Vương Cung, tinh thần căng thẳng đến cực độ, làm cho tôi phải phóng mình nhảy dựng lên và kêu to, tiếng kêu của tôi vang dội lại rền rỉ trong đêm trường.
Nhưng thay vì chân tôi đạp lên mặt đất phía dưới, tôi cảm thấy dường như tôi bị rơi trong khoảng không. Tôi bèn đưa hai tay quơ và bám chặt lấy cạnh của tảng đá và treo mình lủng lẳng trên vực thẳm, nhờ đó tôi mới khỏi té ngã.
Khi đó tôi mới việc gì đã xảy ra. Khi tôi vừa nhảy dựng lên tôi đã đi đến đầu cuối của tảng đá mà tôi không hay và hai chân tôi đã ở phía trên một cái lỗ trống đào sẵn ở phía góc tây bắc của gian phòng.
Tôi bèn định tĩnh tinh thần và tự gỡ mình thoát ra tình trạng đó một cách an toàn. Tôi lấy đèn bấm soi đồng hồ đeo tay thì thấy kiếng đã bể ở hai nơi do hậu quả của bước nhảy, khi tôi quơ tay đụng vào tường. Nhưng đồng hồ vẫn còn chạy, phát ra tiếng kêu "tích tắc" nhẹ nhàng và lanh lẹ. Khi tôi xem giờ, tôi muốn phát cười to lên, dẫu rằng giữa bầu không khí cỗ kính thâm nghiêm này.
Đồng hồ chỉ vừa đúng nửa đêm, cái giờ cổ điển của những biến cố ly kỳ. Hai cái kim giao nhau chỉ đúng ngay vào số mười hai, không suy chuyển một phút hơn hay kém!
Khi viên cảnh binh trực đêm mở cái cổng sắt vào lúc mặt trời mọc, một lãng tử mình dính bụi bậm, dáng điệu mệt nhọc hai mắt thâm quầng, tập tễnh đi ra từ phía hành lang tối om bên trong Kim Tự Tháp. Y dụi hai mắt, và nhìn ra về phía đồng bằng với những cảnh vật quen thuộc.
Trước hết y hít những hơi thở dài để thở bầu không khí tự do trong lành. Rồi do bản năng thúc đẩy, y quay mặt về phía RÂ, bầu tinh tú của lúc bình minh, và âm thầm thờ kính Thần Thái Dương đã ban cho loài người cái ân huệ vô giá: Ánh Sáng!
MỘT ĐÊM TRONG KIM TỰ THÁP
CHƯƠNG BỐN
Tôi sắp sửa đuổi theo một hoạt động lạ lùng nhất của đời tôi, tuy lạ lùng nhưng vẫn trong sự thầm lặng. Tôi có ý định ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp và ngồi thức suốt đêm trong Vương cung trong khi đêm tối dày đặc bao phủ nền trời Châu Phi.
Tôi đã ở một đêm trong ngôi kiến trúc kỳ dị nhất mà con người đã từng dựng lên trên bầu hành tinh của chúng ta.
Thật không phải dễ gì mà lọt được vào lúc ban đêm trong Kim Tự Tháp. Tuy mọi người đều có thể viếng ngọn tháp cổ này, nhưng nó không phải là tài sản của công chúng. Nó là tài sản của Chánh Phủ Ai Cập. Không phải ai cũng có thể lọt được vào trong đó và chiếm được một gian phòng trống để ngủ một đêm, chẳng khác như xâm nhập gia cư của người khác và nằm trong phòng ngủ tốt nhất của họ.
Mỗi khi một du khách muốn vào trong Kim Tự Tháp, y phải mua một tấm thẻ của Sở Bảo Trì Cổ Tích với giá năm đồng. Tôi bèn đến đó và xin phép ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp lớn.
Khi công chức sở ấy nghe lời thỉnh cầu của tôi, y tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên chẳng khác nào như y nghe tôi xin giấy phép để du hành lên mặt trăng. Tôi nói vài lời vắn tắt để bày tỏ lý do sự yêu cầu của tôi.
Từ sự ngạc nhiên, viên công chức bước qua sự thích thú, y mỉm cười. Tôi hiểu rằng có lẻ y coi tôi như một nhân vật có đủ điề kiện để lọt vào một nơi mà ít người muốn ở lại ban đêm trong đó. Sau cùng y nói với tôi:
- Tôi chưa hề nhận được một lời thỉnh cầu như thế bao giờ. Tôi không có thẩm quyền chấp thuận hay từ chối.
Y bèn giao tôi lên cho thượng cấp của y quyết định. Cái cảnh tượng buồn cười ở văn phòng viên công chức lúc nãy lại tái diễn. Tôi bắt đầu cảm thấy bớt lạc quan trong ý định của mình.
- Không thể được! Viên chủ sự nói với một giọng cương quyết tuy rằng đầy hảo ý, chắc hẳn rằng y đang đứng trước một người bị loạn thần kinh. "Điều ấy thật vô lý. Tôi rất tiếc." Y vừa nói vừa gằn từng tiếng vừa nhún vai, và đứng dậy để sửa soạn đưa tôi ra cửa.
Tôi về nhà ngồi suy nghĩ để tìm cách thực hiện mục đích. Quyết định này của tôi trở nên một sự ám ảnh. Hôm sau, tôi bèn xin vào yết kiến Thiếu tướng El Lewa Russell pacha, chỉ huy trưởng cảnh sát thành phố Cairo. Tôi ra khỏi văn phòng ông ta với một huấn lệnh viết tay, yêu cầu viên cảnh sát trưởng quận đô thành gồm khu vực Kim Tự Tháp, hãy dành cho tôi mọi sự giúp đỡ cần thiết để thực hiện mục đích.
Chiều đến, tôi bèn đến văn phòng thiếu tá Mackersey, trưởng ty cảnh sát địa phương, bót cảnh sát Mena. Họ đưa cho tôi một quyển sổ để tôi ký tên vào đó, xong rồi bóy cảnh sát có phận sự giữ gìn an ninh cho tôi cho đến sáng ngày mai. Một cảnh binh bót Mena được biệt phái để hộ tống tôi đến Kim Tự Tháp và ra chỉ thị cho viên cảnh sát có võ trang túc trực ở phía ngoài trong đêm đó.
Khi chúng tôi bắt tay từ giả, Thiếu tá Mackersey nói đùa:
- Chúng tôi chịu trách nhiệm lớn mà để ông một mình ở trong đó suốt đêm. Ông không có ý định đặt chất nổ để phá Kim Tự Tháp chứ?
- Tôi hứa với ông không bấy nhiêu đó, mà còn hứa sẽ không vác nó lên lưng mà chạy!
- Tôi e rằng chúng tôi phải tạm nhốt ông trong đó một đêm. Cứ tối đến, chúng tôi phải khóa trái cái cửa sắt ở chỗ cổng vào. Như vậy ông bị cầm tù trong mười hai tiếng đồng hồ.
- Tốt lắm! Hôm nay, không có cái dinh thự nào làm cho tôi thích hơn là cái nhà giam đó.
Tôi bước vào trong Kim Tự Tháp do cái khoảng trống mà ngày xưa vua Al Mamoun đã cho đào một gốc để tìm lối vào, và bắt đầu thám hiểm bên trong ngọn tháp không lồ. Thật ra trước kia tôi đã từng bước vào đó rồi, nhưng bây giờ là lần đầu tiên mà tôi đến đây để thự hiện một công trình khảo sát cũng lạ lùng như cái công trình nó thúc đẩy tôi trở lại xứ Ai Cập.
Sau khi đã đi qua những dãy hành lang và đường hầm đen tối quanh co như mê cung, tôi lọt vào gian phòng chính của Kim Tự Tháp, gọi là Vương Cung. Nhưng ống dẫn khí thông hơi ra đến bên ngoài, là những bằng chứng đánh đổ giả thuyết cho rằng Kim Tự Tháp là một ngôi lăng tẩm.
Tôi rọi đèn bấm lên các vách và trên trần, và lại một lần nữa lấy làm thán phục sự nối ráp một cách toàn hảo và tinh vi những khối đá rắn chắc và to lớn đã được mài dũa trơn bén. Dưới mặt đất cũng như trên các vách đá, còn những vết tích để lại do những cuộc thám hiểm của những kẻ tìm kiếm kho tàng.
Ở một góc về phía tây bắc, có một lỗ vuông dài và sâu, và ở kế bên là một tảng đá dài dựng bên vách, trước kia dùng để lót sàn bằng đá nhưng bị cậy bật lên bởi những kẻ tìm vàng và còn để lại đó.
Nằm song song với tảng đá này là một cái hòm bằng đá không có nắp, mặt đá phẳng lỳ không có trạm trổ hay khắc chữ chi cả giống như một cổ quan tài. Đó là vật duy nhất trong gian phòng trống trơn, đầu xoay về hướng Bắc chân xoay về hướng Nam.
Tảng đá cậy bật lên từ dưới đất có thể dùng làm chỗ ngồi. Tôi bèn ngồi lên đó, hai chân sếp bằng và sửa soạn ở lại đó suốt đêm. Tôi đặt xuống bàn tay mặt tôi cái nón, áo ngoài và đôi giày, phía bên trái tôi để cái đèn bấm bậc sáng, một bình thủy thermos đựng trà nóng, một bình nước lạnh, quyển sổ tay và cây bút máy. Tôi đưa mắt nhìn một lần cuối cùng khắp chung quanh gian phòng, nhìn qua cái hòm đá ở bên cạnh tôi, rôi tắt luôn ngọn đèn bấm.
Khi tôi đột nhiên đắm chìm trong đêm tối, tôi tự hỏi: Việc gì có thể xảy đến cho tôi đêm nay? Trong hoàn cảnh lạ lùng này, tôi chỉ có một việc là đợi chờ ...
Giờ phúc trôi qua một cách chậm chạp, trong khi đó tôi cũng từ từ cảm thấy gian phòng Vương Cung này có một bầu không khí rất lạ mà tôi chỉ có thể gọi bằng tĩnh từ thiêng liêng. Tôi đã cố tình giữ một tinh thần thụ cảm, một cảm giác thụ động, một thái độ tiêu cực, để có thể ghi nhận một cách rõ ràng và toàn vẹn mọi sự gì vượt khỏi lãnh vực phàm gian thực tại.
Tôi muốn rằng không có một thành kiến riêng tư nào ngăn cản tôi tiếp nhận sự gì có thể xảy đến từ lãnh vực siêu linh. Lần lần tôi định tĩnh tinh thần cho đến khi tâm trí tôi hầu như vắng lặng, hư không.
Sự vắng lặng nó bao phủ tâm trí tôi lúc ấy đem đến cho tôi một sự hiểu biết rõ ràng về một cái vắng lặng khác, đó là cái vắng lặng tràn ngập cuộc đời tôi. Cõi thế gian, với sự náo động ồn ào của nó, đối với tôi trở nên xa lạ như nó không hề có từ bao giờ.
Không một tiếng động, không một hơi thở đến với tôi từ cảnh đêm tối chung quanh. Thật ra, thế giới của những Kim Tự Tháp do im lặng ngự trị một cách im lặng đã có từ thời tiền sử xa xăm và không một người du khách nào có thể làm gián đoạn, bởi vì mỗi đêm lại đem lại sự im lặng trở về nguyên vẹn, hoàn toàn, gây cho ta sự sợ hãy nghiêm trọng nhất.
Tôi bèn quan sát bầu không khí uy nghiêm trong gian phòng. Những người nhạy cảm thường nhận thức được cái kinh nghiệm thông thường này trong những nơi đền miếu cổ kính thâm nghiêm. Kinh nghiệm của tôi cũng bắt đầu bằng cái cảm giác tương tự.
Thời gian càng trôi qua, cái ý thức về sự cỗ lổ thậm thâm của ngọn Kim Tự Tháp này càng in dấu vết sâu đậm trong tâm hồn tôi, tôi càng cảm thấy rằng thế kỷ hai mươi đang lui dần và mất dạng. Tuân theo cái quyết định mà tôi đã lập sẵn cho mình, tôi không đưa ra một sự phản ứng nào cả để chống lại cái cảm giác đó, trái lại, tôi để cho nó tăng cường thêm gấp đôi.
Tôi bắt đầu có cái cảm giác lạ lùng về một sự hiện diện vô hình đến gián đoạn sự cô đơn của tôi. Dưới bức màn đen tối dầy đặc bao phủ chung quanh, tôi cảm thấy rằng có một cái gì cựa quậy và sống động bắt đầu xuất hiện. Đó là một cảm giác mơ hồ nhưng có thật. Phối hợp với ý niệm mỗi lúc càng tăng về sự trở về dĩ vãng, nó làm cho tôi có ý thức rõ rệt về một ảnh hưởng siêu linh, thần bí.
Tuy thế, không có gì nhất định, rõ rệt trong cái ý niệm mơ hồ đó về một sự hiện diện lạ lùng và sống động trong bóng tối. Giờ phút trôi qua lặng lẻ, đưa đến một luồng khí lạnh mỗi lúc càng tăng. Ảnh hưởng của ba ngày nhịn đói mà tôi đã áp dụng để tăng gia sự nhạy cảm của tôi, lúc ấy biểu lộ bằng những cơn run rẫy mỗi lúc càng nhiều.
Do những ống thông hơi, không khí lạnh từ bên ngoài lọt vào Vương Cung đã thấm vào mình tôi xuyên qua lớp áo mỏng, làm cho tôi run lên cầm cập. Tôi bèn đứng dậy mặc thêm áo ngoài mà tôi đã bỏ trên tảng đá cách đó vài giờ vì e sợ tiết trời nóng nực. Nhưng đó là tiết trời ở một vài nơi tại vùng cận Đông. Khí hậu nóng bức lúc ban ngày, và lạnh lẻo lúc ban đêm.
Tôi ngồi lại trên tảng đá và đắm mình trong cái im lặng chết người và trong đêm tối rùng rợn. Cái im lặng của nhà mồ, cái hòm bằng đá trống trơn ở bên cạnh tôi không làm cho thần kinh tôi lắng dịu, trong khi sự gián đoạn vừa rồi trong cơn thiền định của tôi dường như cũng làm gián đoạn cả một chuyện khác.
Thật vậy, tôi nhận thấy rằng điều nghi ngại về một sự sống vô hình lởn vởn ở chung quanh tôi đã trở thành một điều chắc chắn. Quả thật, bên cạnh tôi có một cái gì sống động, thổn thức, nhịp nhàng, tuy rằng tôi vẫn chưa nhìn thấy đó là vật gì.
Đột nhiên tôi cảm thấy lo sợ khi tôi nghĩ đến sự cô quạnh của tôi và những nguy cơ có thể xảy đến. Tôi vẫn ngồi yên như thế một mình, trong gian phòng tối ở một chiều cao bảy chục thước khỏi mặt đất, cao hơn nhiều đối với sự sinh hoạt của một triệu dân thành phố Cairo, ở giữa màn đêm đen tối như mực, bị giam lỏng trong ngọn tháp lạ lùng này mà cửa ngoài đã khóa chặt, ở ven một bãi sa mạc rộng đến hàng mấy trăm dặm.
Trong khi ở bên cạnh gian nhà ngục tạm thời của tôi trong một đêm, có lẽ là ngôi kiến trúc cổ xưa nhất thế giới, đang chen chúc nhau một cách la liệt hỗn độn bao nhiêu những mồ mả âm u, trong cái nghĩa địa của một đế đô cổ xưa nghìn đời ngay nay đã biệt tích.
Dưới cặp mắt tôi, là cặp mắt đã từng quan sát tỉ mỉ cõi giới siêu linh, những điều huyền bí thuộc cõi siêu hình, và sưu tầm cặn kẽ khoa pháp môn phù thủy của phương Đông, thì gian phòng rộng rãi của Vương Cung lúc ấy có sự hiện diện của những nhân vật vô hình, và những vị Thần linh có nhiệm vụ canh gác ngôi kiến trúc thâm nghiêm này.
Dường như một giọng nói từ cõi u minh sắp sửa thốt lên bất cứ lúc nào để phá tan cái im lặng bao la này. Tôi đã từng quen thuộc với sự cô đơn, và tôi rất thích sống trong cô đơn, nhưng sự cô quạnh của gian phòng này có một cái gì nguy hiểm và rùng rợn đáng sợ.
Sự tối tăm nó làm đắm chìm tất cả mọi sự vật, bắt đầu đè nặng lên đầu tôi như một khối sắt nghìn cân. Trong người tôi phảng phất một sự sợ hãy vô lý. Tôi bèn xua đuổi nó đi tức khắc. Người ta không cần có một sự can đảm thể chất để lại bên trong Kim Tự Tháp hoang vắng, mà là cần có ít nhiều can đảm tinh thần.
Người ta chắc rằng không có một con rắn nào chui ra từ một cái lỗ hay một khe đá, cũng không có một kẻ sát nhân nào ẩn núp trong đó từ lúc tối trời. Thật ra những sinh vật duy nhất hiện ra trước mắt tôi từ chặp tối là một con chuột sợ hãy chạy loạn cả lên để tìm lối thoát khi nó gặp ánh đèn sáng rực của tôi ở ngoài hành lang.
Kế đó tôi khám phá ra hai con cắc kè bò ở trên trần của Hậu Cung, màu da vàng đục của chúng cho thấy chúng đã sống rất lâu đời, và sau cùng là những con dơi ở dưới hầm đá.
Cần nói thêm là vài con dế đã thốt ra tiếng kêu rất lớn khi tôi bước vào hành lang chính, nhưng khi nghe tiếng động, chúng nó liền im bặt. Và bấy giờ, thì cái im lặng bao trùm khắp Kim Tự Tháp.
Không có gì của thế giới vật chất làm tôi bất mãn, nhưng dẫu sao, tôi lại cảm thấy một lần nữa một cảm giác khó chịu mơ hồ dường như có những cặp mắt vô hình đang rình rập tôi ở đâu đây. Chốn này thật là phảng phất một bầu không khí yêu ma hư ảo.
Vài loại rung động của tinh lực, âm thanh và ánh sáng lọt ra ngoài phạm vi khả năng cảm xúc thông thường của con người. Những chương trình truyền thanh đi xuyên khắp không gian để đến tai những thính giả trên thế giới, nhưng họ sẽ không nghe thấy gì nếu họ không điều chỉnh cho máy thu thanh của họ bắt đúng luồng sóng điện.
Tôi đã xả thiền và thoát ra khỏi trạng thái hoàn toàn thụ cảm, để dồn tất cả sức mạnh, tập chung ý chí vào sự cố gắng nhằm chọc thủng cái im lặng và bóng tối dày đặt nó bao phủ chung quanh tôi. Nếu do hậu quả sự tập trung tinh thần mãnh liệt vào nội tâm, khả năng quan sát của tôi được nới rộng đến một tầm mức phi thường, thì chừng đó có thể nào tôi không bắt chợt nhìn thấy sự hiện hiện của những sức mạnh vô hình? Biết đâu?
Tôi chỉ biết rằng khi tôi tự điều chỉnh bằng phương pháp hồi quan phản chiếu mà tôi được truyền thụ từ lâu trước chuyến du hành lần hai sang Ai Cập, tôi nhận biết được rằng có những mãnh lực bất hảo đã xâm chiếm gian phòng, có một cái gì tiến lại gần tôi mà tôi cảm thấy là nguy hiểm. Một sự sợ hãi làm rung chuyển tâm hồn tôi.
Tôi cố xua đuổi đi thì nó lại trở lại từng hồi. Tôi cố gắng áp dụng phương pháp hồi quan phảng chiếu một cách ráo riết hơn nữa sự nhạy cảm càng tăng theo cái đà thường lệ của nó và biến thành một linh ảnh.
Những hình bóng lởn vởn chập chờn vô định trong gian phòng, lần lần chúng nó hiện ra với những hình thù rõ rệt hơn, đột nhiên có những vong linh hung ác xuất hiện và xáp lại gần kề bên gương mặt tôi. Kế đó, một vật đen ngòm tiến lại gần tôi với một cái nhìn dữ tợn và đưa tay lên với một cử chỉ hăm dọa, như muốn gây cho tôi một sự kiêng nể pha lẫn với sự kinh hoàng.
Những vong linh mà người ta không thể lường được tuổi từ bao nhiêu đời, dường như đã kéo nhau lại đó từ cái nghĩa địa gần bên, một cái nghĩa địa cổ xưa đến nỗi những xác ướp quật lên liền tan ra thành tro bụi trong những chiếc hòm bằng đá. Chính những vong hồn còn bám víu xác ướp cổ lổ này, đã xuất hiện một cách hung dữ trong gian phòng của tôi.
Tất cả những chuyện huyền thoại về những ma quái lởn vởn ở vòng chung quanh Kim Tự Tháp đã trở lại trong ký ức của tôi, với những chi tiết rùng rợn khi những chuyện ấy được kể lại cho những người Ả Rập ở làng gần bên. Khi tôi nói với một người bạn trẻ Ả Rập tôi có ý định ở lại một đêm trong Kim Tự Tháp, y cố gắng khuyên can tôi:
- Mỗi tấc đất trong đó điều có ma! Vùng này có tất cả một đạo binh yêu ma và thần linh.
Sự cảnh cáo này không phải là vô ích, vì bây giờ tôi có thể nhận thấy đúng như thế. Những hồn ma bóng quế đã xâm nhập vào nơi tạm trú của tôi, và quay cuồng khắp chốn, cái cảm giác khó chịu và khó tả của tôi lúc đầu nay đã được hoàn toàn giải đáp.
Dưới một sự căng thẳng như thế, ở chính giữa cái thể xác bất động của tôi, tôi nhận thấy rằng quả tim của tôi đập mạnh như búa bổ. Sự sợ hãy điều quái dị, nó rình rập chúng ta luôn luôn, lại xâm chiếm chiếm lấy tôi một lần nữa. Sự sợ sệt, kinh hãi, khủng khiếp lần lượt đến với tôi và lột trần bộ mặt dữ tợn của chúng.
Hai bàn tay tôi tự nhiên nắm chặt lại như những gọng kềm. Nhưng tôi quyết vượt qua cơn thử thách, tuy rằng những hình thù ma quái lúc đầu đã gây cho tôi cảm giác sợ sệt, sau cùng chúng nó làm tôi phải huy động tất cả sự can đảm và tinh thần chiến đấu mà tôi có thể.
Đôi mắt tôi vẫn nhắm, trong khi tất cả những vong hồn màu xám đục, và mờ sương, lướt nhẹ chung quanh và hiện rõ rệt trong linh cảm của tôi, luôn luôn với sự thù nghịch mãnh liệt, sự nhất tâm ráo riết ngăn cản theo đuổi quyết định của tôi.
Cả một đoàn ma quái thù nghịch vây phủ lấy tôi. Tôi có thể giải vây được dễ dàng bằng cách bật đèn bấm hoặc đốt đuốc lên, hoặc đứng lên để thoát mau ra khỏi phòng và chạy một quảng độ vài ba trăm bộ đến cổng ngoài, tại đó người gác cổng có võ trang có thể đem đến cho tôi một sự tăng viện đáng kể.
Cơn thử thách bắt tôi phải chịu một hình thức tế nhị của sự cực hình, nó khuấy phá linh hồn tôi, trong khi thể xác tôi vẫn nguyên vẹn. Nhưng đồng thời trong tôi cũng có một sự thúc đẩy mạnh mẽ buộc tôi phải vượt qua giai đoạn thử thách ấy cho đến cùng.
Sau cùng giai đoạn quyết liệt đã đến. Những loài yêu quái hình thù ghê rợn, gớm ghiếc, không thể tả nỗi mà chỉ có ở cõi Âm Ty, những loài ma quỷ hình dung cổ quái, dị hợm, điên rồ, rùng rợn, quái đản, từ đâu kéo đến thật đông chung quanh tôi, sự ghê tởm mà chúng nó gây cho tôi làm cho tôi chảy qua một cơn đau khổ không thể tưởng tượng!
Trong vài phút đồng hồ, tôi đã trải qua những cơn xúc động mà kể từ đó về sau tôi không thể nào quên được. Cái cảnh tượng độc đáo ấy đã được khắc trong ký ức của tôi bằng những nét sâu đậm không thể xóa mơ. Kể từ nay, bất cứ giá nào ở cõi trần gian này tôi sẽ không bao giờ muốn tái diễn cái kinh nghiệm khủng khiếp như đêm nay; tôi sẽ không bao giờ ở lại một đêm nữa trong Kim Tự Tháp.
Cảnh tượng ấy chấm dứt đột ngột lạ thường. Những loài yêu ma, quỷ quái biến mất dạng trong bóng tối mà từ đó chúng đã xuất hiện ra; chúng trở về cõi U Minh của những người đã chết, đem theo luôn với chúng tất cả những sự gớm ghiếc, ghê tởm và rùng rợn. Thần kinh của tôi hầu như bị bẻ gãy hết nữa phần, đã cảm giác được một sự thoải mái dễ chịu lớn lao chẳng khác nào như một lính chiến ngoài mặt trận khi cơn oanh tạc dữ dội đột nhiên chấm dứt.
Không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua cho đến khi tôi ý thức được một sự hiện diện mới trong gian phòng. Đó là một sự hiện diện tốt lành, một nhân vật có thiện cảm, đứng ngay ở chỗ cửa vào và ban cho tôi những cái nhìn đầy hảo ý. Sự có mặt của người này đem đến một sự thay đổi hoàn toàn cho bầu không khí chung quanh, một sự thay đổi rất khả quan và lành mạnh.
Một yếu tố mới bắt đầu ảnh hưởng đến con người nhạy cảm của tôi, vừa bị trải qua một cơn đe dọa khủng khiếp, bây giờ thì tôi đã trấn tĩnh và trở về với sự bình yên. Nhân vật ấy bước đến gần tảng đá chỗ tôi đang ngồi, khi đó tôi thấy có một nhân vật khác nữa cùng đi theo sau.
Cả hai người cùng đứng gần bên tôi và nhìn tôi một cách nghiêm chỉnh; những cái nhìn của họ chứa đầy một ý nghĩa tiên tri. Tôi cảm thấy rằng một giờ phút quan trọng của đời tôi sắp đến gần.
Hai vị này hiện ra trong linh ảnh của tôi với một hình dáng khó quên. Những tà áo rộng trắng và giầy dép của họ, tất cả đều trở lại trí nhớ của tôi trong khoảnh khắc. Ngoài ra, họ có mang những phù hiệu rõ ràng về chức sắc của họ, người ta nhận ra ngay họ là những vị Đạo trưởng cao cấp của nền tôn giáo cổ Ai Cập.
Một ánh hào quang bao phủ quanh mình họ chiếu một ánh sáng lạ lùng khắp một phần của gian phòng. Thật ra, họ có vẻ đặc biệt hơn những người thường; họ có cái cốt cách huy hoàng của những bậc siêu nhân, gương mặt họ toát ra một sự bằng an lạ thường, cái bằng an của một đạo viện thâm nghiêm.
Hai vị vẫn đứng yên như hai pho tượng, họ chăm chú nhìn tôi với hai chắp ngang trên ngực, và giữ một sự im lặng hoàn toàn.
Phải chăng tôi đang hoạt động trong một chiều đo thứ tư của không gian, và thức tỉnh để quan sát một cái dĩ vãng nghìn đời? Cái ý thức của tôi về thời gian phải chăng đã thụt lùi trở về thời cát bụi xa xăm của nước cổ Ai Cập? Không, không thể được, vì tôi đang nhận thức rõ ràng hai nhân vật ấy có thể nhìn thấy tôi, thậm chí họ cũng đang sắp sửa nói chuyện với tôi.
Hai vị khuất mặt nghiên mình tới trước, một vị hình như đôi môi mấp máy; gương mặt người kề sát bên gương mặt tôi, đôi mắt người chiếu diệu một tia sáng huyền ảo. Giọng nói của người vang dội bên tai tôi:
- Tại sao ngươi lại đến chốn này và định kêu gọi đến những năng lực huyền bí? Cuộc sống trần gian không đủ làm thỏa mãn ngươi hay sao?
Những lời này đến với tôi không phải bằng sự xúc cảm vật chất của thính giác; vì lẽ không có một rung động âm thanh nào đã xé tan cái im lặng trong gian phòng. Nhưng dường như tôi nghe những lời ấy cũng như một người điếc nghe được ở bên trong lỗ tai của mình.
Tiếng nói mà tôi nghe được, người ta có thể ngờ rằng đó là tiếng nói trong nội tâm, bởi vì tuy rõ ràng là tôi nghe thấy bên trong lỗ tai tôi, nhưng nó cũng có thể gây ra cái ấn tượng của một tư tưởng. Nhưng thật ra không phải như vậy. Đó là một tiếng nói thật sự.
Tôi đáp:
- Thưa không!
Vị đạo trưởng nói với tôi:
- Sự náo nhiệt phồn hoa của chốn thị thành đông đúc sẽ chấn an tinh thần cho những kẻ lòng còn run sợ. Đi, người hãy trở về với những thân nhân bạn bè, và ngươi sẽ chóng quên cái điều vọng tưởng vu vơ nó đã đưa ngươi đến đây.
- Tôi không thể.
Người lại nói:
- Con đường ảo vọng sẽ làm cho ngươi mất cả lý trí. Nhiều người đã từng đi lạc vào đó, và trở về thành kẻ loạn óc, điên khùng. Người hãy trở về trong khi còn kịp thời giờ, hãy trở về với con đường dành cho những bước đi của người trần gian.
Nhưng tôi lắc đầu và nói nhỏ như trong hơi thở:
- Tôi phải theo con đường này, đối với tôi không còn con đường nào khác.
Vị đạo trưởng lại bước đến gần và lại nghiêng mình về phía chỗ tôi ngồi. Tôi nhìn thấy đó là gương mặt một vị trưởng lão hiện ra trong đêm tối. Trưởng lão nói thì thầm vào tai tôi:
- Kẻ nào tiếp xúc với chúng ta sẽ tuyệt giao với cuộc đời thế tục. Ngươi dám chắc rằng ngươi có đủ sức đi vững bước một mình chăng?
- Thật ra tôi cũng không biết.
Vị trưởng lão lại nói thì thầm:
- Hãy theo ta, rồi khi ngươi đã nhìn thấy, ngươi hãy trả lời cho ta biết.
Kế đó tôi nhìn thấy, như trong một linh ảnh xa xăm, những đường lộ ngoắt ngoéo như mê cung của một thành phố lớn. Cảnh tượng đó hiện ra rất mau chóng, cho đến khi tôi nhận thấy ở phía trước có một ngôi nhà cổ, gần một nơi có rào sắt. Tôi thấy một cầu thang tối om đưa lên một phòng nhỏ hẹp ở phía dưới nóc nhà.
Vị đạo trưởng lại đột nhiên xuất hiện tại chỗ ấy, ngồi một bên giường nằm của một ông già khác mà râu tóc rối nùi, với những nét mặt gân guốc phong trần. Ông già này hẳn là đã vượt quá từ lâu về cái độ về chiều của cuộc đời, căn cứ vào nước da màu xám tro và bọc lấy xương của ông ta.
Gương mặt hốc hác xương xẩu của ông ta chứng tỏ một sức lực đã tàn, làm cho tôi động lòng trắc ẩn, nhưng khi nhìn kỹ ông ta tôi cảm thấy rợn người vì tôi thấy ông ta đang vật lộn với tử thần, một cuộc vật lộn mà kết quả đã hiển nhiên không còn nghi ngờ gì nữa. Vị đạo trưởng dẫn đường cho tôi nhìn người hấp hối với cái nhìn thương hại. Người dơ tay lên và nói:
- Đợi vài phút nữa thôi, ông bạn hỡi, và ông bạn sẽ được bình an. Đây tôi có đem đến cho ông bạn một người đi tìm những mãnh lực nhiệm mầu. Ông bạn hãy nói với y vài lời, để chia sẽ với y ích nhiều kinh nghiệm.
Đột nhiên tôi trở nên không phải chỉ là một người chứng kiến, mà lại là diễn viên trong cái màn bi kịch lạ lùng này. Với một tiếng thở rất nhọc mệt làm se thắt lòng, người hấp hối day đầu lại và nhìn thẳng vào mặt tôi. Dẫu cho tôi có đi tận chân trời góc bể tôi cũng không bao giờ quên cái nét kinh hoàng hiện ra trong đôi mắt của y.
- Anh còn trẻ hơn tôi, y nói thì thầm, nhưng tôi đã đi khắp vũ trụ một lần, hai lần, ba lần. Tôi cũng vậy, tôi đi tìm cái mà anh đang tìm. Ồ! Tôi đã tìm kiếm xiết bao!
Y ngừng lại một lúc, đầu y lại rơi xuống gối, y cố gắng nhớ lại việc cũ. Kế đó y ngồi nhỏm dậy, chống đở trên hai khủy tay, rồi đưa ra một cánh tay dài và gầy ốm. Bàn tay y với những ngón tay xương xẩu, giống như tay của một bộ xương người. Y nắm lấy bàn tay tôi siết chặt như một cái kềm. Tôi cảm thấy rằng cái nhìn sâu sắc của y soi vào tận hai mắt tôi và định tìm hiểu linh hồn tôi.
- Đồ điên, y nói lớn, những mãnh lực duy nhất mà tôi tìm thấy chỉ là những mãnh lực của xác thịt và của ác quỷ! Không có mãnh lực nào khác. Anh nghe chưa, không có mãnh lực nào khác nữa!
Sự cố gắng ấy vượt quá sức của y. Y liền rơi xuống gối, và tắt thở. Vị hướng dẫn tôi không nói một lời. Người ngồi yên trong một phút suy tư bên cạnh giường. Khi đó, cái linh ảnh đã tan đi mất. Một lần nữa tôi lại thấy tôi ngồi trong Kim Tự Tháp. Vị đạo trưởng im lặng nhìn tôi, và tôi cũng đáp lại bằng cái nhìn câm lặng. Người đọc được tưởng tôi, nên từ trong bóng tối, vọng đến tai tôi những lời này:
- Được, ngươi đã chọn con đường này. Quyết định của ngươi từ nay sẽ không thay đổi. Vĩnh biệt.
Người liền biến mất. Tôi còn ngồi lại một mình với vị đạo trưởng thứ nhì, vị này từ lúc đầu chỉ đóng vai trò một nhân chứng im lặng. Người bèn bước đến trước chiếc hòm bằng đá. Người có cái gương mặt của một ông lão rất già. Tôi không thể đoán tuổi tác của người đến bao nhiêu.
- Con hỡi, ông lão nói một cách bình tĩnh, những đấng cao cả gìn giữ những quyền năng thần bí đã thu nhận con trong bàn tay của các ngài. Đêm nay con phải được đắt đến phòng thụ huấn. Con hãy nằm ngữa trên tảng đá này. Hồi thời cổ xưa, thì phải nằm trong cái hòm đá kia, có lót những cành và lá cây chỉ thảo.
Đoạn ông lão chỉ cỗ quan tài ở giữa phòng. Tôi không làm gì khác hơn là vâng lời vị đạo trưởng già bí mật. Tôi nằm đặt lưng trên tảng đá. Tôi vẫn chưa biết rõ chuyện gì xảy ra ngay sau khi đó. Tôi cảm thấy như ông lão đã cho tôi uống một liều thuốc mê đặc biệt, có ảnh hưởng rất chậm vì tất cả bắp thịt của tôi đều cứng đơ, kế đó thì một sự tê liệt từ từ xâm chiếm lấy cả tứ chi.
Toàn thân tôi trở nên nặng nề và cứng ngắc. Trước hết, hai bàn chân tôi tê lạnh, rồi lần lần đến hai chân và cảm giác tê lạnh cứ đi dần dần từ dưới lên trên. Bây giờ thì cả hai chân tôi đều không còn cảm giác gì nữa.
Dường như tôi sắp bước vào trạng thái nữa mê nửa tỉnh, một cái linh tính bí mật báo cho tôi biết rằng sự chết đã đến gần. Tuy thế, tôi vẫn không nao núng, vì từ lâu tôi đã vượt khỏi sự chết cố hữu của người đời và tôi chấp nhận điều không thể tránh được với một tinh thần triết lý.
Cảm giác lạnh đã lên đến ngực, phần dưới thân hình tôi đã hoàn toàn tê liệt. Khi đó, tôi có một cái gì như là nhói vào quả tim, nhưng cái cảm giác đó qua mau và tôi hiểu rằng cơn khủng hoảng cuối cùng sẽ không còn lâu nữa. Nếu tôi có thể nới rộng hai quai hàm đã cứng thì tôi đã bật cười về cái tư tưởng đầu tiên đến với tôi lúc ấy.
Cái tư tưởng đó là: "Ngày mai, người ta sẽ tìm thấy xác chết của tôi trong Kim Tự Tháp, và thế là hết." Tôi biết chắc rằng tất cả những cảm giác của tôi đều do cái nguyên nhân là sự chuyển tiếp của linh hồn tôi giữa cuộc đời thế tục và cõi giới bên kia nấm mồ.
Tuy tôi biết rõ ràng tôi đang trải qua những cảm giác của một kẻ đang hấp hối, nhưng tôi không có một sự phản ứng nào không thể chống cự lại. Sau cùng, tất cả ý thức của tôi đã tập trung lên đầu, một sự quay cuồng điên loạn cuối cùng diễn ra trong khốc óc của tôi.
Tôi cảm thấy dường như tôi bị cuốn lôi theo một trận cuồng phong dữ dội và tôi chui qua một cái lỗ nhỏ hẹp. Rồi trong một lúc, tôi hoảng sợ như sắp bị ném vào khoảng không gian vô tận, tôi lao mình vào khoảng không ... , và tôi liền được giải thoát!
Không một ngôn ngữ nào có thể diễn tả những nỗi sung sướng của sự giải thoát mà tôi vừa trải qua. Tôi đã biến thành một vật tâm linh, một vật cấu tạo bằng tư tưởng và tình cảm, không còn bị trói buộc bởi những chướng ngại của cái ngục tù nó vẫn giam hãm tôi, tức là cái thể xác nặng nề bằng xương thịt này.
Thoát ly ra khỏi cái gánh nặng của thể xác. Tôi đã trở nên giống như một vong linh, như một người chết vừa chui ra khỏi mồ, nhưng tuyệt nhiên không hề mất đi cái ý thức của mình. Thật ra, ý thức về sự sống của tôi lại còn đậm đà nồng nhiệt hơn trước. Trên hết mọi sự, việc thoát lên một cõi giới thanh cao hơn đem cho tôi cái cảm giác tự do, một sự tự do sung sướng, tốt lành của cõi giới thuộc về chiều đo thứ tư nó dung nạp lấy tôi.
Trước tiên, tôi thấy tôi còn nằm ngửa trên lưng, giống như cái thể xác mà tôi vừa rời bỏ, và lơ lửng trên cái sàn gạch đá. Kế đó tôi cảm thấy như có một bàn tay đẩy nhẹ tôi tới trước và đở tôi đứng dậy trên hai chân. Sau cùng, tôi cảm thấy như vừa đứng, lại vừa lơ lửng trên không.
Từ trên không gian, tôi ngắm nhìn cái thể xác bằng xương thịt mà tôi vừa rời bỏ, đang nằm yên, bất động trên tảng đá. Gương mặt không cảm xúc, lật ngửa lên trần nhà, đôi mắt hé mở, tuy nhiên hai con ngươi không còn đủ sáng để chỉ rằng hai mí mắt không đóng chặt.
Hai tay chắp trước ngực, cử chỉ mà tôi không nhớ đã làm trước khi đó. Hay là ai đó đã chấp hai tay của tôi lại mà tôi không hay? Hai chân duỗi thẳng dọc theo nhau từ đầu đến cuối. Đó là cái thể xác nằm ngửa của tôi, dường như đã chết, mà tôi vừa thoát ra khỏi và bỏ lại đó.
Tôi nhận thấy rằng một tia ánh sáng yếu ớt và trắng như bạc từ mình tôi, cái tôi mới, phóng xuống cái thể xác đang nằm yên bất động trên tảng đá. Đó là một điều lạ, nhưng lạ hơn nữa là tôi thấy cái sợi nhau rún vô hình bí mật đó chiếu sáng cả một gốc phòng Vương Cung mà tôi đang lơ lửng trên không, và soi lên những viên đá trên tường như một ánh trăng sáng diệu.
Tôi chỉ còn là một bóng ma, một vong linh không thể xác đang vẫn vơ trong không gian. Tôi đã hiểu tại sao các nhà hiền triết cổ Ai Cập dùng con chim làm biểu tượng của linh hồn trong những chữ ám tự cổ xưa.
Với cảm giác bay lơ lửng trên không chẳng khác nào như tôi có mọc hai cánh và bay lướt trên cái thể xác đã bỏ rơi, giống như con chim bay lượn trên một vật gì ở dưới đất, cái biểu tượng đó thật là khéo lựa chọn.
Vậy là tôi đang ở trong không gian, tôi đã tách rời linh hồn tôi ra khỏi cái xác phàm, tôi đã tự phân thân tôi ra làm thành hai phần khác nhau, tôi đã rời bỏ cõi thế gian mà tôi vẫn ở bấy lâu nay.
Tôi có cảm giác như trở nên một vật tinh anh như dĩ thái, thanh nhẹ vô cùng, trong một cái thể mới, tức cái thể vía, mà tôi khoát lấy kể từ nay. Nhìn tảng đá lạnh trên đó cái thể xác tôi đang nằm, tôi có một ý nghĩ giản dị nó biểu lộ ra một cách thầm lặng bằng những lời này:
- Đó là trạng thái của sự chết. Bây giờ tôi biết rằng tôi là một linh hồn, và tôi có thể sống ngoài xác thân. Tôi sẽ tin như vậy luôn luôn, vì tôi đã trải qua kinh nghiệm đó.
Cái tư tưởng đó bám chặt lấy tôi một cách ráo riết như một gọng kềm, trong khi tôi vẫn lơ lửng phất phơ trên cái thể xác trống rỗng. Tôi đã kinh nghiệm sự tồn tại của linh hồn bằng phương pháp hiệu quả nhất: Bằng cách di chuyển thật sự ra khỏi thể xác, rồi thấy rằng mình vẫn còn sống!
Tôi tiếp tục nhìn cái xác phàm còn bỏ sót lại. Phải chăng là nó mà trong bao nhiêu năm tôi vẫn gọi là cái tôi? Một đống nhục thể, vô tri giác, có thế thôi. Đó là điều mà bấy giờ tôi mới khán phá, với bằng chứng rõ ràng. Nhìn vào đôi mắt mù tịch không còn thấy gì nữa, không còn đáp ứng với ngoại cảnh, tôi mới nhận thấy rõ tất cả sự mỉa mai của vấn đề.
Cái thể xác vật chất của tôi vẫn giam hãm lấy tôi, cái tôi thật, nhưng bây giờ tôi đã thật được tự do. Trước kia, tôi vẫn được trở đi lại đó đây trên hành tinh này, bằng một cái cơ thể mà từ lâu nay tôi vẫn lầm lẫn với cái tôi thật.
Dường như cái ý thức về luật hấp dẫn đã biến mất, tôi vẫn phất phơ trên không trung và cảm thấy vừa như treo lơ lửng lại vừa như đứng một cách lạ lùng. Bỗng nhiên xuất hiện bên cạnh tôi vị đạo trưởng già đạo mạo, cốt cách thanh kỳ. Đôi mắt nhìn lên, gương mặt trầm tĩnh, phong độ ung dung, người cầu nguyện:
- Ô Amen, Ô Amen ở trên trời, hãy nhìn về cái thể xác đứa con ngài và ban cho y ân huệ trong cõi giới tâm linh.
Kế đó người nói với tôi:
- Bây giờ con đã học xong bài học lớn. Con người, mà linh hồn sinh ra từ đấng bất diệt, không thể nào chết mất đi đâu. Con hãy ghi nhận cái chân lý đó bằng ngôn ngữ của trần gian.
Ngay lúc đó, trước mặt tôi lần lượt xuất hiện gương mặt khá quen thuộc của một thiếu phụ đã quá vãng mà tôi đã đi đám táng trên hai mươi năm về trước, rồi đến những nét mặt quen thuộc của một người bạn chí thân mà tôi đã đưa đến chỗ yên nghĩ cuối cùng cách đây hai mươi năm, sau cùng là nụ cười hồn nhiên của một đứa trẻ mà tôi đã biết chết trong một tai nạn.
Cả ba người điều nhìn tôi trong sự trầm lặng, giọng nói thân mật của họ đã thốt ra chung quanh tôi. Tôi nói ít lời vắn tắt với mỗi người ấy, rồi họ lui gót rồi biến mất. Vị đạo trường già nói:
- Họ cũng sống như con đây, như cái Kim Tự Tháp này đã từng chứng kiến cái chết của nữa phần nhân loại và nó vẫn còn tồn tại. Con hỡi, con nên biết rằng trong ngọn tháp cổ này còn ấn tàng cái di sản đã mất của những giống người đầu tiên và sự liên minh mà họ đã ký kết với đấng tạo hóa, do sự trung gian của vị tiên tri đầu tiên.
Nhưng người được chọn lựa ngày xưa đã được đưa đến đây để trình bày cho thấy cái liên minh đó và để khi họ trở về nhà, họ có thể duy trì sự bí mật đó mãi mãi trong dân gian. Con hãy ghi nhớ lời cảnh cáo này:
"Khi nào con người từ bỏ đấng Hóa Công và nuôi sự thù hằn với kẻ đồng loại, thì họ phải chịu cái số phận của những vị quốc vương châu Atlantide ở vào thời đại xây cất cái Kim Tự Tháp này. Họ sẽ bị diệt vong bởi chính lòng tà vạy của họ cũng như dân Atlantide ngày xưa vậy."
Không phải đấng tạo hóa đã nhận chìm châu Atlantide mà chính sự ích kỷ, bạo tàn và mù quán tâm linh của những dân tộc sống trên vùng lục địa vô phước ấy. Đấng tạo hóa yêu thương tất cả nhân loại, nhưng sự sống còn của con người bị cai quản bởi những định luật huyền bí mà Ngài đặt ra cho họ. Vậy con hãy ghi nhớ những lời cảnh cáo này.
Khi ấy, tôi bị xâm chiếm bởi một sự ước muốn mãnh liệt là muốn biết thêm sự liên minh bí mật ấy. Chắc hẳn vị đạo trưởng đã đọc được tư tưởng của tôi, vì người liền nói nhanh:
- Mọi sự phải đến vào đúng ngày giờ của nó. Chưa phải lúc, con ạ, chưa phải lúc.
Tôi cảm thấy một sự thất vọng chua cay. Người nhìn tôi trong vài giây đồng hồ rồi nói tiếp:
- Chưa có một người nào thuộc chủng tộc của con được phép biết điều ấy. Nhưng vì con đã giỏi về các khoa này, vì con đã đến với chúng ta với cả tấm lòng thiện chí và hiểu biết, con có thể được vài sự hài lòng. Bây giờ, con hãy theo ta.
Khi đó xảy ra một chuyện lạ kỳ. Dường như tôi đã lọt vào một cơn mê, trong một lúc tôi đã mất cả ý thức về ngoại cảnh và kế đó tôi đã được đưa đến một chỗ khác. Tôi thấy tôi đanng ở một dãy hành lang dài, có chiếu một thứ ánh sáng êm dịu, tuy tôi không thấy có cửa sổ hay đèn đuốc chi cả.
Tôi nghĩ rằng cái nguồn phát ra ánh sáng này không gì khác hơn là cái hào quang bao bọc chung quanh mình vị đạo trưởng già đồng hành với tôi, pha lẫn với sự chiếu sáng với sợi dây từ điển rung động trong dĩ thái ở phía sau lưng tôi.
Nhưng tôi phải nhìn nhận rằng sự giải thích nầy vẫn chưa đủ. Các vách tường điều bằng đá ửng màu đất nung, và các phiến đá được ráp nối một cách vô cùng tinh vi. Đất nghiêng theo đường dọc lài lài xuống, theo một gốc tương đương với dốc lài từ cửa vào Kim Tự Tháp.
Gian phòng vuông vức và thấp, nhưng không gây trở ngại. Tôi không thể khám phá ra nguồn gốc của cái ánh sáng bí mật ấy, phía trong gian phòng cũng chiếu sáng không kém, dường như có một ngọn đèn soi sáng khắp phòng. Vị đạo trưởng già mời tôi đi theo con đường dốc. Người căn dặn:
- Đừng quay đầu lại nhìn phía sau.
Chúng tôi vẫn đi như thế trên một quãng đường dốc, kế đó tôi thấy một gian phòng lớn, gống như một nơi thánh điện, ở tận chỗ cuối đường. Tôi đang biết rõ là tôi đang ở phía trong hay ở phía dưới hầm Kim Tự Tháp, nhưng trước đó tôi không hề thấy con đường dốc và gian phòng này.
Lẽ tất nhiên con đường dốc và gian phòng này điều bí mật cho đến khi nó vẫn chưa hề bị khám phá. Tôi không khỏi cảm thấy kinh sợ, do sự phát hiện đột nhiên này, trong khi một sự tò mò mãnh liệt cũng không kém khiến tôi tự hỏi đâu là chỗ cửa vào con đường hầm bí mật này và cửa đó ra sao.
Sau cùng tôi day đầu lại và liếc nhìn ra phía sau để hy vọng tìm thấy cái cửa bí mật. Tôi lọt vào con đường dốc này mà không do một ngã nào, nhưng ờ phí cuối đường hầm tôi nhận thấy rằng hầu như chỗ cửa vào đã bị đóng chặt bởi những tảng đá vuông lớn và trét bằng một chất nhựa giống như xi măng.
Tôi xem xét một vách tường đá trắng, kế đó tôi cảm thấy như bị xô té bởi sức mạnh vô hình không cưỡng lại được, cho đến khi tất cả cảnh tượng ấy biến mất dạng và tiếp tục bay lơ lửng trên không gian.
Tôi còn nghe cái âm hưởng vọng lại từ xa như một tiếng vang "Chưa phải lúc ... chưa phải lúc ... " và trong giây phút tôi đã nhìn thấy cái thể xác vô tri bất động của tôi nằm trên tảng đá. Vị đạo trưởng già nói nhỏ với tôi.
- Con hỡi! Con có tìm thấy cái cửa bí mật hay không, điều ấy cũng không quan hệ gì. Con hãy tìm trong nội tâm con đường huyền bí nó đưa con đến nơi thánh điện ẩn dấu trong chỗ thầm kín của linh hồn, rồi con sẽ tìm thấy cái kho tàng bí mật.
Sự bí mật của Kim Tự Tháp chính là sự bí ẩn trong người của con vậy. Những thánh điện thâm nghiêm, những di tích chứng minh của thời cổ, tất cả đều có chứa bên trong linh hồn của con.
Bài học của Kim Tự Tháp chính là đây: Con người phải quay về nội tâm, thám hiểm tận chỗ chung tâm huyền bí của bản chất mình để tìm thấy chân ngã, cũng như người ta phải thám hiểm tận chỗ thâm sâu ẩn dấu của ngọn tháp này để khám phá ra điều bí mật tối trong của nó. Thôi, ta vĩnh biệt con từ đây!
Tâm hồn tôi quay cuồng trong một cơn gió lốc nó lôi cuốn tôi đi, tôi trượt xuống dưới thấp, xuống thấp mãi, một sự mê man nặng nề xâm chiếm lấy tôi. Tôi thu thập tàn lực để cố gắng cử động những bắp thịt đã cứng đơ, nhưng vô hiệu quả, sau cùng tôi ngất lịm đi.
Tôi giật mình và mở mắt dậy trong bóng tối dày đặc. Khi toàn thân tôi đã co giãn lại được, tôi dò dẫm trong đêm tối để tìm ngọn đèn bấm và bậc đèn lên. Tôi vẫn ở trong Vương Cung, tinh thần căng thẳng đến cực độ, làm cho tôi phải phóng mình nhảy dựng lên và kêu to, tiếng kêu của tôi vang dội lại rền rỉ trong đêm trường.
Nhưng thay vì chân tôi đạp lên mặt đất phía dưới, tôi cảm thấy dường như tôi bị rơi trong khoảng không. Tôi bèn đưa hai tay quơ và bám chặt lấy cạnh của tảng đá và treo mình lủng lẳng trên vực thẳm, nhờ đó tôi mới khỏi té ngã.
Khi đó tôi mới việc gì đã xảy ra. Khi tôi vừa nhảy dựng lên tôi đã đi đến đầu cuối của tảng đá mà tôi không hay và hai chân tôi đã ở phía trên một cái lỗ trống đào sẵn ở phía góc tây bắc của gian phòng.
Tôi bèn định tĩnh tinh thần và tự gỡ mình thoát ra tình trạng đó một cách an toàn. Tôi lấy đèn bấm soi đồng hồ đeo tay thì thấy kiếng đã bể ở hai nơi do hậu quả của bước nhảy, khi tôi quơ tay đụng vào tường. Nhưng đồng hồ vẫn còn chạy, phát ra tiếng kêu "tích tắc" nhẹ nhàng và lanh lẹ. Khi tôi xem giờ, tôi muốn phát cười to lên, dẫu rằng giữa bầu không khí cỗ kính thâm nghiêm này.
Đồng hồ chỉ vừa đúng nửa đêm, cái giờ cổ điển của những biến cố ly kỳ. Hai cái kim giao nhau chỉ đúng ngay vào số mười hai, không suy chuyển một phút hơn hay kém!
Khi viên cảnh binh trực đêm mở cái cổng sắt vào lúc mặt trời mọc, một lãng tử mình dính bụi bậm, dáng điệu mệt nhọc hai mắt thâm quầng, tập tễnh đi ra từ phía hành lang tối om bên trong Kim Tự Tháp. Y dụi hai mắt, và nhìn ra về phía đồng bằng với những cảnh vật quen thuộc.
Trước hết y hít những hơi thở dài để thở bầu không khí tự do trong lành. Rồi do bản năng thúc đẩy, y quay mặt về phía RÂ, bầu tinh tú của lúc bình minh, và âm thầm thờ kính Thần Thái Dương đã ban cho loài người cái ân huệ vô giá: Ánh Sáng!
#64
Gửi vào 08/06/2011 - 11:47
AI CẬP HUYỀN BÍ
NHÀ PHÙ THỦY THÀNH CAIRO
CHƯƠNG NĂM
Tại Cairo, người ta sống trong hai thế giới khác nhau. Bạn lọt vào thế giới Ả Rập khi từ công trường trung ương Ataba el Khadra, bạn đi về phía đông. Bạn lọt vào thế giới Âu Tây hiện đại nếu bạn đi ngược lại chiều hướng trên.
Một sự sống lạ lùng hỗn hợp Đông phương với Tây phương, thời trung cổ với thời kỳ hiện đại, màu mè sặc sỡ và sự sống cẩu thả, thiếu vệ sinh của phương Đông, cùng với sự ngăn nắp sạch sẽ của Âu Tây chung lộn với nhau dưới cái nhịp độ sinh hoạt thực tế hằng ngày.
Chính tại Cairo mà tôi khám phá hằng hà sa số những pháp sư, phù thủy và đồng tử, nhà tiên tri và chiêm tinh gia, thầy bói và tướng số, tu sĩ và thuật sĩ, gồm những thành phần rất đông đảo và đủ mọi hạng. Chính phủ Ai Cập đã ra lịnh cấm phần nhiều những hoạt động của họ, và áp dụng những biện pháp hạn chế.
Mặc dầu tôi vẫn có thiện cảm với những người thuộc thành phần kể trên, tôi phải nhìn nhận rằng chánh phủ hoàn toàn có lý khi áp dụng biện pháp gắt gao đối với họ. Những tay bợm bãi thường lừa bịp những người mê tín nhẹ dạ, những người buôn thần bán thánh dễ thuyết phục những người sẵn sàn nghe theo họ, những kẻ tiên tri giả mạo thường làm cho công chúng tin tưởng nơi những sự lầm lạc của mình.
Người ta không thể làm được đúng mức những sự tổn hại mà các ông thầy bói và tướng số sẽ gây cho thân chủ quá thật thà, thường vịn theo những lời bói toán, tiên tri làm cái kim chỉ nam cho cách sinh hoạt và sử thế của mình. Tuy vậy, người ta cũng biết khá đủ về những tệ đoan gây nên, nó là cho chánh phục phải can thiệp.
Dầu sao, trong số những thành phần ấy đã có một vài nhân vật làm cho tôi thích thú ngoài phạm vi hành nghề của họ. Đó là: Một nhà phù thủy đã làm chết một con gà mái dưới mắt tôi bằng những câu thần chú và bằng khoa pháp môn:
Một nữ phù thủy người Soudan, đã đoán trúng rằng xứ Ấn Độ là nơi mà tôi đã trải qua một thời gian rất may mắn tốt lành, và sau đó đã tiên đoán vài điều về tương lai; một người thanh niên Ai Cập đạo Gia Tô và gốc xứ Syrie, tin tưởng chắc chắn rằng y là hậu nhân của thánh Elie và sống một cuộc đời ẩn dật lánh xa thế tục như đấng tiên tri nọ.
Một ông lão dị kỳ sống với gia nhân trong một tòa nhà lớn bên cạnh một ngồi đền hồi giáo, và sống tách rời thế gian đến nỗi ông ta dùng hết thời giờ của mình để nói chuyện với các vong linh bí mật; một bà nọ rất can đảm, bất chấp lịnh cấm của vua Ibn Séoud, đã lén quay phim tại thánh địa Mecca.
Nhưng bây giờ lại muốn học hỏi vấn đề đạo lý với những bậc danh sư thượng thặng; nhà thuật sĩ trứ danh Tahra Bey, không ngần ngại cắn một lưỡi dao găm vào cỗ họng mình hoặc vào ngực trên cổ quả tim mà không sao cả, thậm chí cũng không chảy máu.
Những nhân vật khác nữa cũng làm cho tôi phải chú ý, nhưng tôi không thể diễn tả hết mọi người với đầy đủ chi tiết, mà chỉ kể đại khái những chuyện về một vài người đáng lưu ý nhất.
Một khía cạnh khác đời sống ở Cairo cũng rất hấp dẫn đối với tôi, đó là khía cạnh tôn giáo, vì thành phố này đã từng là trung tâm truyền bá nền văn minh Hồi giáo trong khoảng trên một nghìn năm.
Tôi tìm thấy ở chỗ của nhà phù thủy vào một buổi trưa hè nóng bức, sau khi đã đi tìm đường rất lâu và mất rất nhiều công phu dọ hỏi. Tôi đi theo một con đường lớn vẫn còn lót bằng những tảng đá rất cũ đến một khu xóm ồn ào, cũ kỹ, bình dân, mà những con đường hẹp quanh co chen chúc nhau giữa ngôi đền hồi giáo El Azhar và khu nghĩa địa âm U Bad el Wazir.
Một đoàn lạc đà nối đuôi nhau đi vào thành phố, mỗi con lạc đà đều có đeo trên cổ một cái lục lạc đồng, khiến cho cuộc diễn hành của chúng phát ra những tiếng khua nghe rất vui tai. Để tìm địa chỉ của nhà phù thủy, tôi vạch một lối đi xuyên qua nhiều ngõ ngách tối tăm, quanh co lẩn khuất như chốn mê cung.
Nhiều lối đi chật hẹp đến nỗi nền trời chỉ xuất hiện qua những khe hở không đều giữa những nóc nhà hai bên đường. Tuy nhiên, ánh nắng mặt trời rọi xuống lối đi chật hẹp đó tạo nên một khung cảnh chỗ sáng chỗ tối trông rất ngoạn mục.
Sau cùng tôi đi vào một con đường khúc khủyu đưa đến nhà một người mà tôi tìm kiếm, xuyên qua những lớp bụi trắng rất dầy và những ngọn gió đưa vào từ những ngọn đồi khô khan nhô lên ở vùng ngoại ô thành phố. Ngôi nhà rộng lớn và có vẻ cũ kỹ, mặt tiền xây bằng những tảng đá dài sơn màu mè sặc sỡ, và trên gác có nhiều cửa sổ, tôi đợi một lát thì một đứa trẻ độ mười bảy tuổi ra hỏi với một giọng do dự:
- Thưa ông muốn hỏi ai?
Khi tôi nói đích danh nhà phù thủy, thì người thiếu niên lùi bước với vẻ ngạc nhiên. Hẳn là trong số những thân chủ của nhà này, không có nhiều người Âu.
Người thiếu niên nói:
- Ông kiếm cha tôi! Về chuyện chi, xin ông cho biết?
Tôi cho biết ý kiến của tôi và đưa ra một tờ giấy giới thiệu viết bằng viết chì. Khi y thấy chữ kí tên, đôi mắt y sáng lên, y mời tôi vào nhà, mời tôi vào phòng khách, chỉ một cái divan có lót vải trắng và mời tôi ngồi.
Kế đó, y bước lên lầu và liền trở xuống. Tôi nghe tiếng chân người lê những bước đi chậm chạp, và những người thiếu niên bước vào phòng, theo sau có một người thân hình vạm vỡ, trạc độ sáu mươi tuổi, người này vừa bước vào vừa đưa tay lên trán để chào tôi theo lối bản xứ.
Y choàng trên đầu một chiếc khăn trắng phủ xuống tận vai, để một mái tóc đen như huyền. Nét mặc y già dặn và biểu lộ một tính tình cỡi mở, tốt bụng, râu mép khá rậm những bộ râu dưới cằm thì thưa. Đôi mắt y lớn luôn luôn xuống đất và đôi mí nheo lại. Y mời tôi cứ an tọa và y ngồi trên một chiếc ghế lớn.
Với vài lời vắn tắt, nhà phù thủy bài tỏ sự hân hạnh được tôi đến viếng, và mời tôi dùng giải lao trước khi vào đề câu chuyện. Tôi cám ơn, nhưng vì biết rõ tập quán bổn xứ, tôi yêu cầu y đừng cho tôi uống cà phê, vì tôi không dùng thứ ấy.
Y mời tôi dùng trà của xứ Ba Tư, một thứ trà rất ngon, tôi bèn vui lòng nhận. Trong khi chờ đợi, tôi định phỏng vấn nhà phù thủy về đời tư của y, nhưng vô hiệu quả. Ngoài vài lời độc âm ngắn ngủi theo phép lịch sự bổn xứ, y không chịu nói gì về cuộc đời của mình. Trái lại, y xoay chiều câu chuyện và đưa ra nhiều câu hỏi về mục đích của tôi.
Tôi trả lời thành thật và không do dự. Trong khi đó, người gia bộc đã dọn ra những thức ăn đặc biệt Ai Cập, gồm có những khoanh bánh ngọt làm bằng bột mì trộn với mật ong và chiên vàng, chuối và những chén trà Ba Tư thơm phức. Khi chủ nhà hiểu rằng việc sưu tầm của tôi không có mục đích chế nhạo hoặc ác ý gì khác, y trở nên rất cở mở.
Nhưng, dưới cái lớp nhã nhặn lịch sự bên ngoài đó, tôi nhận thấy y luôn luôn giữ mình, dường như không muốn tiết lộ cuộc đời mình cho người khách lạ. Bỗng nhiên, y thay đổi thái độ, và đề nghị cho tôi xem một vài bí thuật phù thủy của y. Y nói:
- Ông hãy đưa cho tôi cái khăn tay.
Tôi đưa khăn cho y, y cầm lấy rồi trả lại tôi rồi nói:
- Được rồi. Bây giờ ông hãy xé nó ra làm hai mảnh.
Tôi làm y theo lời. Y cầm lấy mảnh khăn và viết trên đó một vài dấu hiệu nguệch ngoạc bằng một cây viết mực. Xong rồi, y xếp mảnh khăn lại đưa cho tôi, và yêu cầu tôi để trong một cái dĩa nhỏ bằng đồng ở cạnh tôi trên divan.
Tôi theo dõi với ít nhiều thích thú. Nhà phù thủy bèn cầm một mảnh giấy và vẽ trên đó một hình tam giác lớn, trong đó y vẽ vài dấu hiệu bí mật và vài chữ Ả Rập. Y đưa cho tôi mảnh giấy và bảo tôi để lên cái khăn đã xếp làm tư. Xong, y mới nói lầm thầm trong vài phút một thứ ngôn ngữ dị kỳ khó hiểu, hai mắt y nhắm nghiền. Rồi thình lình y mở mắt ra.
Ngay khi đó, cái khăn bị xé hai bốc cháy trên cái dĩa đồng bên cạnh tôi. Ngọn lửa bốc lên cao làm tôi ngạc nhiên, và trở thành một luồng khói dày đặc bay khắp phòng. Khói làm tôi ngộp thở và cay mắt. Tôi bèn vội vã đứng dậy đi ra cửa, thì nhà phù thủy đã ra đến đó trước tôi, y gọi người gia bộc mở hết các cửa sổ cho bớt khói.
Phải chăng đó là khoa phù thủy chánh hiệu, hay đó chỉ là một trò ảo thuật dùng những hóa chất bắt lửa? Tôi không băn khoăn cho lắm về việc ấy, vì tôi không thấy cần một sự chứng minh để làm gì. Nhưng ông lão tỏ vẽ rất hãnh diện về cái kì công của y. Tôi hỏi:
- Ông đã đốt cái khăn bằng cách nào?
- Bằng cái sai khiến âm binh.
Đó là câu giải thích của y, nó chẳng giải thích gì cả, nhưng tôi không hỏi thêm gì nữa. Đó là vì Ai Cập người ta thường dùng cách đó để giải thích những điều mầu nhiệm ngoài lãnh vực thiên nhiên.
Nhà phù thủy bảo tôi:
- Ông hãy trở lại trong ba ngày nhưng ông đừng quên đem theo một con gà lông trắng. Tôi nhận thấy nơi ông có một cái gì tôi thích, bởi đó tôi vui lòng giúp ông một việc. Ông hãy nhớ đem một con gà tơ, đừng già quá, mà lông trắng mà thôi.
Tôi nghĩ đến những tay phù thủy Phi Châu thường cắt cổ gà trống trắng rồi phóng tia huyết gà lên đầu những thân chủ của họ, nên tôi từ chối lời đề nghị của ông này. Y khẩn khoản mời mọc tôi nhiều lần, và nói thêm rằng nghi thức phù thủy này có bàn tay của một vị thần linh rất cao tay ấn sẵn sàng hành động để phò trợ cho tôi. Nhưng tôi vẫn một mực từ chối.
Sau cùng tôi nói cho y biết rằng loại nghi thức này làm cho tôi ghê tởm, và tôi thà không có những sự lợi ích mà y đã gán cho việc hành lễ ấy. Nhà phù thủy bảo đảm rằng sẽ không có việc đổ máu trong nghi thức này. Nghe như thế tôi đồng ý.
Một lần nữa, tôi lại đi qua con đường nhỏ hẹp dưa đến chỗ ở của nhà phù thủy. Lần này, tôi đi qua chợ bán gà vịt ở phía sau công trường Ataba el Khadra, và mua một con gà mái tơ lông trắng. Tôi ôm con gà trong tay và cảm thấy hơi thở ấm của nó dưới lòng bàn tay tôi. Tôi tự hỏi không biết lão phù thủy sẽ dành cho nó một số phận ra sao.
Khi tôi đến nơi, lão phù thủy không còn dè dặt nghiêm nghị như mọi ngày, mà lại mỉm cười. Y yêu cầu tôi để con gà ở giữa tấm thảm trải trên nền gạch, rồi bước qua ba lần trên một bình lư hương đốt trầm nghi ngút ở một góc phòng. Khi tôi đã bước qua ba lần trên khói trầm thơm phức, tôi bèn ngồi trên divan và nhìn lão chủ nhà.
Nhà phù thủy lấy ra một tờ giấy, vẽ trên đóù một hình vuông chia làm chín ô vuông nhỏ, trong mỗi ô vuông đó y vẽ một dấu hiệu thần bí hoặc một chữ Ả Rập. Kế đó, y niệm lầm thầm, một câu thần chú và đôi mắt y nhìn chăm chú vào con gà.
Thỉnh thoảng, y dậm thêm vào những câu thần chú bằng một cử chỉ ngắn như ra lệnh bằng ngón tay trỏ. Con vật bắt đầu sợ hãy và chạy chốn vào một góc phòng, núp dưới một cái ghế. Khi đó, nhà phù thủy bảo tôi bắt con gà lại và để nó ở giữa tấm thảm như cũ.
Tôi nói cho y biết tôi không muốn sờ vào con gà một lần nữa. Người con trai ông lão khi đó bước vào phòng ngồi với chúng tôi, y mới bắt con gà và để lại chỗ cũ.
Con gà lại bắt đầu tỏ vẻ sợ sệt và lại muốn chạy vào góc phòng. Nhưng lão phù thủy, bằng một giọng mạnh mẽ, ra lịnh cho nó hãy nằm yên. Con gà bèn nằm yên lập tức. Lúc ấy, tôi nhận thấy toàn thân nó run lên.
Nhà phù thủy lại mời tôi bước qua ba lần trên lò trầm. Khi tôi trở lại ngồi trên divan, con gà không nhìn vào lão phù thủy nữa, mà hai con mắt nó nhìn về phía tôi cho đến lúc cuối cùng.
Khi đó tôi nhận thấy một sự lạ lùng. Hơi thở của con gà trở nên nặng nề và khó khăn, mỗi hơi thở chỉ còn là một hơi thở dài và hổn hển, mỏ nó há ra luôn dường như nó đang cố gắng để đem không khí vào phổi. Nhà phù thủy bèn đặt lá bùa dưới đất ở một bên nó.
Y lui gót một cách nhẹ nhàng về phía cửa mở, y đứng nơi đó và lại vừa đọc thần chú vừa nhìn thẳng vào con gà. Những câu thần chú của y lên giọng ra lịnh, lần lần người ta thấy con gà đã uể oải và như sắp tắt thở. Nó cố gắng một lần chót để đứng dậy nhưng lại té ngã xuống vì kiệt sức.
Vài phút trôi qua, nó giật mình vài cái, hai cánh vỗ một cách yếu ớt. Những cử động của nó càng bớt dần và dứt hẳn. Thân mình nó cứng đơ, rồi đến cái đầu, rồi tôi nhận thấy rằng con gà nóng hổi mà tôi vừa đem đến nửa giờ trước đây, không thốt ra được lời nào và có một cảm giác như buồn mửa. Lão già yêu cầu tôi để cái khăn tay trên xác con gà, và nói với một giọng lạ lùng:
- Khoa pháp môn đã thành công hoàn toàn. Kể từ nay, vị thần linh đã giết con gà này sẽ phù trợ cho ông. Đôi khi, tôi cũng đã làm một nghi thức như thế mà con gà không chết, đó là bởi vì thần linh từ chối không chịu phò trợ cho thân chủ của tôi.
Tôi quan sát nhà phù thủy này suốt buổi hành lễ và thấy y luôn luôn nhìn xuống đất. Y giải thích thái độ đó như sau:
- Khi tôi niệm chú hô thần để kêu gọi một vị, và khi thần linh xuất hiện để chịu cho tôi sai khiến, thì không bao giờ tôi nhìn thẳng vào y. Đó là một trong những quy luật phải noi theo.
Nhưng cuộc lễ hy sinh này chưa phải là đã xong. Ông còn bổn phận gói xác con gà lại và đem về nhà cho đến ngày mai, đợi đến lúc nữa đêm, ông sẽ đi đến cầu Kasr el Nil và liện xác nó xuống sông. Trong khi đó, ông hãy đưa ra một lời ước nguyện, và có ngày thần linh sẽ giúp được ý ông muốn.
Cái khăn của tôi không đủ để gói xác con gà. Tôi thấy trong phòng có một tờ báo, tôi bèn dùng nó để gói lại. Về đến nhà, tôi đưa cái gói cho tên gia bộc Ả Rập còn trẻ tuổi của tôi, và đăn y nên mở ra và sờ mó gì đến nó cho đến đêm sau.
Nhưng lời dặn này là thừa. Tôi chỉ nói thoáng qua là con gà đã bị hy sinh do bàn tay của một nhà phù thủy, và không phải dùng để ăn. Tên gia nô lùi lại trong sự sợ hãi, và kể từ lúc ấy, y tránh không đến gần con gà.
Chiều đến, tôi ra tiệm dùng cơm với hai người bạn, một người Mỹ và một người Ai Cập. Tôi thuật lại cho họ nghe chuyện con gà bị giết bằng khoa phù thủy. Họ quả quyết rằng con gà bị giết bằng những phương pháp khác hơn là khoa pháp môn. Về phần tôi, tôi không bày tỏ ý kiến gì mà chỉ giữ kín quan niệm của tôi.
Khi thuật lại tất cả các chi tiết, họ phá lên cười, và con gà là đầu đề chính của câu chuyện chúng tôi trong buổi tối hôm đó. Tôi cũng phải thú nhận rằng tôi cũng mỉm cười khi tôi nghe những câu nói đùa châm biếm của những ông bạn tôi về nhà phù thủy vắng mặt, họ dùng y làm cái bia cho sự những sự chỉ trích và bỡn cợt rất ngộ nghĩnh.
Thình lình tất cả đều tắt phụt trong tiệm ăn, chúng tôi còn đang ăn dở bữa chưa xong. Tất cả những cố gắng của người chủ tiệm vẫn không thể nào làm cho đèn cháy lại được, và bữa tối hôm ấy kết thúc dưới ánh đèn nửa mờ nửa tỏ. Người bạn Ai Cập của tôi, cựu sinh viên trường đại học Sorbonne và có tiếng là một con người đa nghi, bèn mất đi trong một lúc sự hài hước đùa cợt của y.
- Chính nhà phù thủy của anh đã làm chuyện ấy!
Y nói với một giọng với vẻ giễu cợt bề ngoài, nhưng tôi thấy bên trong có ẩn một điểm lo ngại. Có thể rằng cái cầu chì tình cờ bị nổ làm tắt điện, điều ấy là hiển nhiên.
Nhưng việc này xảy ra trong những hoàn cảnh nó làm tôi nhớ lại hai việckhác đã xảy ra mợt cách lạ lùng trong những trường hợp tương tự. Việc thứ nhất là trường hợp cá nhân của tôi, còn việc thứ hai được nhà văn hào trứ danh Robert Hichens thuật lại cho tôi, có quen thân với nhân vật chính câu chuyện.
Câu chuyện thứ nhất xảy đến cho tôi từ nhiều năm qua khi tôi theo đuổi về cuộc sưu tầm về những giáo phái xuất hiện về những thời kỳ đó, ở khắp Châu Âu và Mỹ Châu. Một trong những chi phái đó là do sự điều khiển của một phần tử bất hảo, cụ linh mục bị trục xuất khỏi Giáo Đường, nhưng y là một nhân vật có quyền năngvà kiến thức rộng.
Do sự điều tra, tôi được biết rằng y có một thuật thôi miên rất mạnh và y lợi dụng thuật ấy để đạt những mục đích tà vạy, để khai thác và làm tiền những kẻ nhẹ dạ mê tín. Thay vì cảnh cáo những người mà tôi quen biết trong số các nạn nhân của y, tôi giữ kín sự khám phá của tôi, vì tôi tin rằng những kẻ bất lương sớm muộn gì cũng phải đền tội.
Yếu tố quyết định đã xảy đến dường như do sự tình cờ khi tôi gặp lúc mười giờ đêm, một thiếu phụ, vợ của một người mà tôi rất quen biết. Cách đi đứng của bà ta có vẻ lạ lùng làm cho tôi phải ngừng bước giữa đường để hỏi chuyện với bà ấy, và tôi vô cùng ngạc nhiên mà nghe nói rằng bà ta đang đi đến nhà của thầy dòng tu xuất để ngủ đêm tại đó.
Tôi đưa bà ấy đến cột trụ đèn gần nhất và dưới ánh đèn đện, tôi quan sát cặp tròng trắng và con ngươi trong mắt bà ta, thì thấy rằng bà ta đã hoàn toàn bị thôi miên. Tôi thấy có bổn phận phải giải tỏa phép thôi miên cho bà ấy ngay lập tức và thuyết phục bà hãy trở về nhà.
Qua ngày hôm sau, tôi đến viếng một người bạn Ấn Độ để hỏi thăm ý kiến của y về vấn đề này. Tôi thuật lại cho y nghe rõ tất cả những điều tôi khám phá về hành động bất lương của tên lưu manh nọ, và nói rằng theo ý tôi một ngưới như thế thật là quá nguy hiểm mà để cho họ tự do để làm hại kẻ khác.
Người Ấn Độ đồng ý với tôi, y còn tỏ ra vô cùng phẫn nộ và đề nghị trừng phạt tên lưu manh bằng một sự trù ẻo nặng nề. Tôi biết rõ người bạn tôi đã được thụ huấn về môn Yoga của Ấn Độ và về những bí thuật khác của các nhà đạo sĩ Đông phương: Một sự trù ẻo xuất phát từ cửa miệng của y không phải là chuyện tầm thường.
Xét thấy rằng sự trừng phạt đó hơi quá đáng đối với trường hợp này, tôi nói rằng y có thể hành động theo như ý muốn nhưng theo tôi nghĩ rằng nên dùng phương pháp nhẹ hơn, để làm cho tên nọ phải bỏ xứ ra đi mà không trở về. Người Ấn Độ bằng lòng, nhưng về phần y thì điều đó cũng không ngăn trở y thốt ra một sự trù ẻo, và y đã làm.
Xong rồi, tôi mới đi tìm tay đạo đức giả nọ, và thấy y đang tụ hợp một số đệ tử đông đảo trong một gian phòng hẹp, nơi đó đang diễn ra một sự hỗn loạn ồn ào, vang rền tiếng kêu thất thanh của tên giáo chủ bịp bợm, biểu lộ một sự vô cùng sợ hãi và tuyệt vọng.
- Ác quỷ có mặt ở đây! Đó là do bàn tay của ác quỷ!
Tôi bật vài cái diêm quẹt, thì thấy y nằm dài trên cái bục gỗ, dường như đang bị chứng động kinh và mê man bất tĩnh. Người ta thấp đèn cầy lên. Những đệ tử của y chở y sang một khách sạn gần bên, và cố gắng làm cho y tỉnh dậy bằng thứ giải lao quen thuộc của y là rượu Whisky.
Trong khi đó những người khác thuật lại cho tôi nghe những gì đã xảy ra. Tất cả môn đồ đang ngồi trên ghế, lẳng lặng nghe vị giáo chủ của họ thuyết pháp, thình lình tất cả những bóng đèn điện đều nổ tung một lượt với một sức mãnh liệt như bom nổ, những mãnh chai của các bóng đèn bị hất văng ra tứ phía.
Gian phòng bị đắm chìm trong đêm tối, và giữa những cơn hỗn loạn kinh khiếp, họ nghe tiếng thầy họ té ngã một cách nặng nề trên bục gỗ và thốt ra những tiếng kêu thất thanh vì kinh hãi.
Tôi bèn theo y qua bên khách sạn, tôi một bức thư ngắn rồi bỏ trong một bao thư có niêm phong cẩn thận. Tôi đưa bức thư đó cho viên trưởng tràng của nhóm đệ tử bị gạt, và yêu cầu y đưa cho thầy y khi nào anh ta tỉnh dậy và có thể đọc được.
Đó là một bức tối hậu thư, bắt buộc y phải rời bỏ thành phố trong vòng hai mươi bốn giờ và không được trở lại nữa nếu không cảnh sát sẽ truy nã y. Y bèn ra đi, và độ một năm sau, tôi nghe tin y đã chết trong một làng hẻo lánh. Nhưng điều lạ lùng nhất trong câu chuyện này là gian phòng bị tắt điện tối om đúng vào lúc mà cuộc lễ trù ẻo của người Ấn Độ bạn tôi lên đến mức độ hữu hiệu tuyệt đối!
Câu chuyện thứ hai liên hệ đến Huân tước Carnavon, nhà khảo cổ đã khai quậtlăng tẩm của vua Toutankhamon. Cả thế giới đều biết câu chuyện hy hữu về sự khám phá dị kỳ này, không một ai không biết rằng người cổ Ai Cập đã trù ếm những kẻ nào xâm phạm đến ngôi lăng tẩm này.
Vì chứng bịnh bạo phát, người ta phải chở Huân tước Carnavon đến Cairo để được điều trị bằng những phương liệu y khoa tốt nhất mà thành phố ấy có thể cung cấp. Người ta đưa ông Carnavon vào khách sạn Continenal Savoy, một trong những khách sạn lớn nhất của Cairo.
Một buổi tối, ít lâu sau khi ông được đưa vào đây, tất cả các ngọn đèn điện bị tắt. Đêm tối kéo dài gần một giờ. Khi đường dây điện được thiết lập lại, người nữ y tá săn sóc cho Huân tước Carnavon thấy ông ta đã chết trên giường bệnh.
Bây giờ, tôi hãy trở lại chuyện con gà.
Hôm sau vào lúc nửa đêm, người ta thấy một người tay ôm một cái gói nhỏ lững thững đi qua cầu Kasrel Nil, đến giữa cầu y có vẻ ngập ngừng chờ đợi lúc thuận tiện để thi hành một công tác gì bí mật.
Việc ấy không thể dễ làm như người ta có thể tưởng, vì chiếc cầu này ở ngay trung tâm khu vực người Âu. Một trại lýnh Anh nằm ở một phía bên cầu, ở phía bên kia, là tổng hành dinh của viên Cao Ủy Anh, có cảnh sát canh gác nghiêm nhặt.
Vào giờ này mà ném từ trên cầu một vật khả nghi bọc bằng giấy xuống dòng sông đen ngòm, lỡ có ai nhìn thấy, phải chăng người ta kết luận rằng mình là một kẻ sát nhân, toan vất bỏ một mảnh thi hài của người chết để phi tang? Tuy nhiên, tôi cũng có dịp quăng cái gói xuống sông từ lan can cầu.
Khi nó rơi xuống nước với một tiếng chõm, người dạ hành thở phào một cái nhẹ nhõm và rảo bước đi ngay một cách an toàn. Tên gia bộc Ả Rập của tôi cám ơn Allah khi tôi trở về nhà bình yên. Y có vẻ sung sướng như một con mèo bắt được con chuột đầu tiên.
Trong những thăm viếng kế tiếp, tôi cố gắng yêu cầu nhà phù thủy giải thích những phương pháp của y với những chi tiết hơn, để có thể biết xem đó có phải là những trò ảo thuật không? Nhưng ông lão không muốn đề cập tới vấn đề ấy, và đắm chìm trong những cơn im lặng kéo dài dường như đã lọt vào một thế giới khác, có lẽ là thế giới của quỷ thần.
Tôi hiểu rằng thật rất khó mà muốn cho một người kín đáo trầm lặng mở miệng để nói chuyện tâm tình cởi mở với mình. Người con trai của ông lão trả lời những câu hỏi của tôi biết rằng cha y không hề nói cho bất cứ một người nào biết những bí mật của ông ta.
Chính người con trai đã từng hỏi cha y về những điều bí mật đó từ lâu để cho y có thể nối nghiệp cha mình, nhưng y liền bị từ chối và ông lão cho y biết rằng nghề phù thủy vừa khó thực hành lại vừa nguy hiểm. Ông lão đã thuật cho y nghe câu chuyện của một nhà phù nọ, sau khi đã kêu gọi một vị thần để sai khiến, chừng xong việc rồi thì không thể nào làm cho vị thần kia biến mất!
Kết quả thì vị thần kia phản ngược lại y và gây cho y những sự đau khổ gớm giếc kinh khủng! Đó là một ví dụ của những sự khó khăn trong nghề vẫ thường xảy ra. Hiện nay những ngưới con trai theo học luật khoa, một nghành hoạt động ít nguy hiểm hơn, so với khoa phù thủy.
Thế là tôi không thể hy cọng nhà phù thủy già tiết lộ những bí mật của y, dù là thật hay giả. Vì chính cái màn bí mật này nó bảo đảm cho cái quyền năng và tiếng tăm của y. Tôi đành thôi không hỏi thêm gì nữa. Đó cũng là một sự tự nhiên nếu nhà phù thủy không thấy cao hứng để tiết lộ những điều có ảnh hưởng đến tiếng tăm và sự nghiệp của mình.
Nhưng nếu tôi không thể làm cho y cởi mở tấm lòng, thì tôi tưởng tôi có thể thuyết phục y nói cho tôi nghe những lý thuyết đại cương, và do đó tôi có thể học hỏi được những gì bí ẩn đằng sau những câu chuyện mà người Ai Cập thuật lại về các loại thần linh.
Trong khi tôi nói chuyện với y, thì tôi nghe xuyên qua cửa sổ, tiếng trống nhịp nhàng đều đặn vọng lại từ một nhà gần bên. Bên nhà láng giềng, một tay phù thủy Ả Rập hạng trung cấp đang cố gắng, bằng những câu thần chú và tiếng trống, đuổi tà ra khỏi xác thân một người bệnh mà người ta cho là quỷ phá. Nhà phù thủy thấy tôi đang ngẫm nghĩ, bèn nói:
- Những dân tộc các ông bên Tây phương không tin khoa pháp môn cổ truyền của chúng tôi, bởi vì khoa này sử dụng những sức mạnh của thần linh.
Tôi im lặng. Tôi hiểu thái độ tư tưởng của một người phương Đông một cách dễ dàng, nếu không, tôi đã khônhg bao giờ chú ý đến những xứ này. Ở đay, người ta cho rằng thần linh ở khắp mọi nơi.
Nếu một người bị đau ốm, hay bị một điều tai họa, đau khổ, đó là họ bị hung thần nhập xác hay ám ảnh cuộc đời họ. Nếu họ được giàu sang hay quyền thế, đó là vì họ được sự phò trợ, giúp đỡ của một thần phò mạng tốt lành. Sau cùng tôi hỏi nhà phù thủy:
- Những vị thần đó như thế nào?
Tôi đã hỏi đúng lúc, vì y đang vui vẻ. Y đáp:
- Ông nên biết rằng những vị thần linh đó có thật, tuy rằng người thời nay đã mất cái nhãn quan để nhìn thấy họ. Cũng như trong cõi vật chất có loài động vật, thì trong cõi vô hình cũng có những cõi tâm linh, không phải người chết, mà họ xuất xứ trong cõi giới tâm linh.
Đó là những thần linh. Tuy thế, ta đừng lầm họ với những linh hồn thú vật, vì họ có một tính chất khác hẳn. Vài vị thần có trí khôn như người, có những vị tốt lành như những bậc thánh, cũng có những hạn khác là hung thần, ác quỷ.
Nói chung những nhân vật trong cõi tâm linh có thể chia làm ba hạng chính: Thần linh, nhân loại và Thiên Thần. Các hàng Thiên Thần, thuộc về hạng tốt lành, không hề sống trên mặt đất. Những hạn thần linh gồm cả thiện lẫn ác, cũng không hề sống trên thế gian. Còn hạng nhân loại thì đó là những người, nam hay nữ, đã từng sống ở thế gian và rời bỏ sau khi chết.
Cũng như loài vật có bổn phận phụng sự loài người ở cõi thế gian, như loài chó, ngựa, lạc đà được tập luyện để biết vâng lời sai khiến của con người, thì một vài thần linh có thển để con người sử dụng và sai khiến trong cõi giới vô hình hoặc hữu hình.
Khoa pháp môn thời cổ, cũng như khoa pháp môn của vài nhà phù thủy chân chính còn sống vào thời đại này, phần chính yếu là biết làm thế nào để kêu gọi sự trợi giúp của những hạng thần linh ấy. Nói tóm lại, đó cũng là một loại thần linh học.
- Người ta dùng phương pháp nào để có được sự trợ giúp đó?
- Trước hết, cần phải biết tên mỗi vị thần linh để có thể ra lệnh cho họ. Kế đó, phải viết trên một tờ giấy một lá bùa gồm có tên của vị thần, một đoạn kinh Coran, một số hệ lồng trong khung của một sơ đồ, thường là một hình vuông hay hình tam giác.
Điều thứ ba là phải đốt các loại hương trầm, mà thành phần các chất hương liệu sẽ thay đổi tùy theo tính chất vị thần mà mình muốn kêu gọi. Điều thứ tư là phải đọc những câu thần chú. Sau cùng, phải có quyền năng mà nhà phù thủy tiếp nhận được trong khi làm lễ thụ huấn do thầy y ban cho.
Nhà phù thủy ngưng một chút rồi nói tiếp:
- Nhưng muốn có được cái bản lĩnh đó, người học trò khoa pháp môn phải trải qua một thời kỳ tập sự lâu dài và nguy hiểm. Bởi đó khoa pháp môn bao giờ cũng vẫn là cái sở đắc của một thiểu số người.
Tôi có thể trình bày cho ông biết những sự tin tưởng của chúng tôi, như tôi đang nói trong lúc này, nhưng còn tiết lộ những bí thuật có một giá trị thật sự, thì tôi đã có lời thệ nguyện với thầy tôi là không bao giờ làm điều đó, trừ khi nào tôi được truyền pháp cho một đệ tử được thâu nhận sau nhiều năm học hỏi.
Thật là một điều nguy hại cho nhân loại nếu những bí mật của chúng tôi bị tiết lộ cho mọi người bởi vì chừng đó những kẻ hung dữ có thể lợi dụng khoa này để làm hại kẻ khác vì mục đích ích kỷ, còn về phần chúng tôi thì sẽ mất hết quyền năng, không còn hiệu lực gì nữa.
Từ trước đến nay tôi vẫn luôn luôn từ chối việc thâu nhận học trò. Thật ra, theo những luật lệ của môn phái chúng tôi, thì tôi có bổn phận truyền pháp cho một đệ tử trước khi tôi qua đời, để cho khoa pháp môn được tồn tại mãi mãi trong nhân loại. Nhưng vì tôi đã biết trước được ngày giờ tôi chết, nên tôi sẽ thi hành bổn phận đó vào đúng lúc.
Nhà phù thủy lại ngừng một lúc. Tôi lấy làm hài lòng mà được y từ bỏ sự dè dặt để nói chuyện cởi mở với tôi. Tôi bèn hỏi thăm về sự nhập môn của y. Y đáp:
- Tôi xin kể một phần tiểu sử của tôi.Tôi sinh ra đã sáu mươi năm nay tại thành Suag, thuộc tỉnh Girga. Cha tôi cũng là một nhà phù thủy và chiêm tinh gia chuyên nghiệp nổi tiếng. Tôi còn nhớ rõ, khoa pháp môn của cha tôi hấp dẫn tôi một cách mãnh liệt và làm cho tôi rất say mê.
Cha tôi nhận thấy tôi có khuynh hướng đó, người mới tuyên bố là truyền pháp cho tôi, và huấn luyện để chuẩn bị cho tôi nối nghiệp người. Cha tôi có rất nhiều sách cổ viết bằng bút tự Ả Rập và những loại sách quý rất hiếm có về khoa pháp môn, người mới đưa cho tôi học. Sau khi người đã truyền pháp cho rồi, tôi bèn rời khỏi nhà rồi đến Cairo để vào trường Đại Học El Azhar.
Hồi đó tôi mới có 18 tuổi. Tôi học về các khoa văn chương và tôn giáo nhưng tôi vẫn hoàn toàn giữ kín bí mật của tôi. Tôi có đem theo vài quyển bút tự của cha tôi, và tiếp tục học sách ấy ở nhà. Tôi học được một điều, là phân biệt được những tính chất khác nhau của con người, cho đến khi tôi trở nên thuần thục để có thể biết được với cái nhìn thoáng qua, tánh tình và ý muốn của một người.
Tôi rời khỏi trường Đại Học lúc tôi 28 tuổi. Sau đó tôi sống biệt lập ở một nơi hẻo lánh, và tiếp tục thực hành khoa pháp môn cho đến khi tôi cảm thấy có đủ bản lãnh để có thể hoàn toàn kiểm chếvà làm chủ được những Thần linh.
Khi đó tôi mới thực sự bước vào nghề và bắt đầu nhập thế. Trừ phi người ta có thể đạt được tới bản lãnh đó, thì tốt hơn đừng nên theo đuổi khoa pháp môn. Mấy đứa con tôi đã van xin tôi truyền pháp cho chúng, nhưng tôi đã hướng chúng đi theo con đường khác, vì tôi thấy chúng nó thiếu sự can đảm cần thiết để trở nên một nhà phù thủy lành nghề và có thể thành công.
Tôi cũng đã thực hành khoa chiêm tinh. Nhiều người Ai Cập có địa vị cao đã đến viếng tôi, và tôi thường tiên đoán vận mạng của họ. Những vị hoàng thân, bộ trưởng, quan chức, phú thương điều có đến hỏi ý kiến tôi.
Một vị quan to của triều đình Abyssinie đã nhờ tôi đoán số; năm ngoái, tôi tiếp đoán vị công chúa của hoàng triều Abyssinie. Quốc Vương xứ Maroc đã gởi đến tôi một vị đặc sứ mang theo quốc thư để hỏi về vận mạng tương lai.
một năm nọ bốn tên ăn trộm lẻn vào nhà tôi lúc ban đêm định giết tôi để cướp của, tôi đuổi chúng đi với chỉ có một cây gậy. Qua ngày hôm sau, tôi dùng bí thuật để biết tên của chúng. Sau đó tôi có đủ bằng chứng để đưa chúng ra trước pháp luật và cho chúng lãnh án năm năm tù.
Cách đây không lâu, tôi được gọi đến một nhà bị ma khuấy phá, làm lật đổ bàn ghế và vật dụng trong nhà lúc ban đêm. Tôi đốt một lò hương trầm và niệm chú; trong mười lăm phút, vài âm binh đã xuất hiện. Đó là những âm binh đã khuấy phá trong nhà nọ. Tôi ra lệnh cho chúng phải đi ngay và để cho nhà kia được bình yên. Chúng bèn đi mất và mọi sự đều trở lại bình thường.
Nhà phù thủy vỗ hai tay làm hiệu, tên gia bộc bèn bưng ra một mâm đựng mứt, bánh ngọt và trà thơm Ba Tư. Nhân lúc dùng trà bánh, tôi hỏi:
- Có thể nào làm cho một người khác thấy được những vị thần linh đó không?
- Được chứ, sau những cuộc chuẩn bị lâu dài và nhiều cố gắng, điều đó có thể thực hiện được. Cuộc chuẩn bị gồm có việc đốt trầm hương và niệm thần chú. Khi đó một vị thần xuất hiện từ luồng khói trong gian phòng tối tăm và nói lớn tiếng. Tôi không thực hành khía cạnh đó của khoa pháp môn vì tôi đã già để làm những cố gắng dày công như thế.
Tôi lấy làm ngạc nhiên trước nhân vật lạ lùng này, nếu y có thể tiếp xúc với quỷ thần một cách dễ dàng như thế thì đó thật là một người nguy hiểm. Tuy nhiên, y cũng tỏ ra có những tình cảm như mọi người, vì khi ấy đứa cháu gái y mới lên sáu tuổi và mặc quần áo ngộ nghĩnh bất chợt chạy tung tăng vào phòng, y cuối xuống hôn nó một cách rất trìu mến và chơi với nó rất lâu.
Tôi lại hỏi:
- Những điều nguy hiểm của khoa pháp môn này như thế nào?
- Người nào kiểm soát và sai khiến được thần linh phải chịu nhiều điều nguy hiểm. Thần linh không phải chỉ là những vật vô tri trong bàn tay của y. Đó là những nhân vật có trí khôn và ý chí riêng biệt. Họ luôn luôn có thể nỗi loạn chống lại người đã khuất phục được họ.
Tuy họ tuân lệnh nhà phù thủy đã làm chủ được họ và phụng sự người ấy hết lòng, nhưng nếu nhà phù thủy mất sự tự chủ và ý trí của y bị sút kém, hoặc y lạm dụng quyền năng vì mục đích tà bậy, thì khi đó vài loại thần linh có thể phản công trở lại và tác hại, gây cho y những khó khăn bất ngờ, như tai nạn hoặc chết bất đắc kỳ tử.
Với sự trợ giúp của những thần linh đó, người ta có thể làm được những việc phi thường, nhưng khi nhà phù thủy không đủ sức kềm chế thần linh, họ có thể phản động lại một cách trắng trợn và hại người đã khuất phục được họ.
- Phải chăng người cổ Ai Cập cũng đã từng biết rõ những hạng thần linh đó?
- Lẽ tất nhiên, sự hiểu biết đó là yếu tố căn bản về quyền năng của các vị tăng lữ trong các đền cổ Ai Cập. Họ sử dụng thần linh như những vị thần canh gác mồ mả hoặc giữ kho tàng của cải rất vĩ đại. Người ta kêu gọi đến thần linh trong những cuộc hành lễ ở các đền thờ. Tôi cần nói thêm rằng có khi người ta cũng dùng các thần linh để thực hiện những mục đích tà bậy, bất chánh.
Tôi thuật lại cho ông lão nghe kinh nghiệm của tôi trong Kim Tự Tháp lớn, khi tôi thức suốt một đêm trong Vương Cung, và cái kinh ảnh khi tôi nhìn thấy cái vong hồn của hai vị đạo trưởng già và con đường hầm bí mật.
Nhà phù thủy cho biết:
- Bên trong Kim Tự Tháp và ở vùng chung quanh thần tượng Sphinx có một hạng thần linh đặc biệt. Những thần linh này đã bị các vị pháp sư lão thành của thời cổ Ai Cập bắt nhốt tại đó để gìn giữ nhưng nơi bí mật ...
Những vị thần linh ấy phóng ra những ảo ảnh để đánh lạc hướng những người nào muốn đột nhập vào những chốn thâm nghiêm bí ẩn trong các đền thờ, và nhờ đó họ giữ gìn cho những nơi ấy trở nên bất khả xâm phạm.
Tôi cũng tin rằng Kim Tự Tháp lớn có những đường hầm bí mật, những gian phòng kín và những tài liệu ẩn dấu. Tôi cũng đã đến đó một lần với ý định tìm kiếm những thứ ấy, nhưng vì những người canh gác không cho bất cứ một ai đi xuống con đường hầm, nên tôi đành thất vọng trở về.
Lẽ dĩ nhiên, những vị thần gìn giữ những nơi bí mật của Kim Tự Tháp và thần tượng Sphinx có thể bị lôi cuốn và mua chuộc, nhưng muốn như vậy, người ta phải biết rõ hình dáng và tên của họ cùng những câu thần chú đặc biệt để kêu gọi các vị thần. Nhưng tiếc thay, những điều đó nay đã mất không còn nữa, và đã bị chôn vùi theo các nhà đạo sĩ cổ Ai Cập.
Tôi bèn hỏi những quyền năng mà y đã đề cập đến, vì tôi được bí nhưng quyền năng đó không phải là vô giới hạn. Y đáp:
- Lẽ tất nhiên chúng tôi không dám tự hào làm được bất cứ việc gì. Chúng tôi có thể làm một vài việc, chỉ có thể làm được một vài việc, thế thôi. Chỉ có đấng Allah mới biết hết tất cả và quyết định mọi sự. Chúng tôi chỉ có thể cố gắng thi thố tài nghệ của mình mà thôi, còn thành hay bại là tùy nơi đấng Allah.
Tôi xin kiếu từ và lại trở ra con đường hẹp và đầy các bụi, dưới ánh nắng trong sáng của mặt trời thành Cairo. Tôi còn cất trong túi áo một viên ngọc lớn, chùi láng bóng, màu nâu đỏ, hình bầu dục mà nhà phù thủy đã tặng cho tôi để làm vật kỷ niệm, và theo như lời y cho biết thì viên ngọc này ngày xưa là vật sở hữu của một vị vua Pharaon.
Tôi ngắm viên ngọc và nghĩ đến nhà phù thủy mà tôi vừa tiếp xúc, cùng những thần linh bí mật vô hình mà y nói là lúc nào cũng sẵn sàng vâng lời sai khiến của y. Tôi thấy rằng, khi đạt đến đó, người ta đã bước vào một lãnh vực nguy hiểm, gần kề với khoa pháp môn huyền bí và tà môn tả đạo.
Những thần linh ấy phải chăng là những sự bịa đặt cổ truyền và vô căn cứ? Không, tôi phải nhìn nhận rằng trong những cõi giới bí ẩn của thiên nhiên, có những sinh vật không phải là loài người. Một lý luận giản dị bằng cách so sánh có thể đưa đến kết luận đó.
Cũng có thể là trong hàng ngũ những sinh vật vô hình đó, có những loại hung ác, tà bậy, cũng như có những loại hiền hòa và tốt lành. Một vấn đề nữa là xác định xem những thần linh đó có thể làm những việc phi thường chăng như là phù thủy đã tuyên bố. Tôi không thể giải đáp vấn đề đó ngay tại chỗ.
Tôi có ý định nghiên cứu những khía cạnh của khoa pháp môn chính hiệu. Đó là kết quả đầu tiên và lạ lùng mà tôi đã gặt hái trong chuyến du hành sang Ai Cập.
NHÀ PHÙ THỦY THÀNH CAIRO
CHƯƠNG NĂM
Tại Cairo, người ta sống trong hai thế giới khác nhau. Bạn lọt vào thế giới Ả Rập khi từ công trường trung ương Ataba el Khadra, bạn đi về phía đông. Bạn lọt vào thế giới Âu Tây hiện đại nếu bạn đi ngược lại chiều hướng trên.
Một sự sống lạ lùng hỗn hợp Đông phương với Tây phương, thời trung cổ với thời kỳ hiện đại, màu mè sặc sỡ và sự sống cẩu thả, thiếu vệ sinh của phương Đông, cùng với sự ngăn nắp sạch sẽ của Âu Tây chung lộn với nhau dưới cái nhịp độ sinh hoạt thực tế hằng ngày.
Chính tại Cairo mà tôi khám phá hằng hà sa số những pháp sư, phù thủy và đồng tử, nhà tiên tri và chiêm tinh gia, thầy bói và tướng số, tu sĩ và thuật sĩ, gồm những thành phần rất đông đảo và đủ mọi hạng. Chính phủ Ai Cập đã ra lịnh cấm phần nhiều những hoạt động của họ, và áp dụng những biện pháp hạn chế.
Mặc dầu tôi vẫn có thiện cảm với những người thuộc thành phần kể trên, tôi phải nhìn nhận rằng chánh phủ hoàn toàn có lý khi áp dụng biện pháp gắt gao đối với họ. Những tay bợm bãi thường lừa bịp những người mê tín nhẹ dạ, những người buôn thần bán thánh dễ thuyết phục những người sẵn sàn nghe theo họ, những kẻ tiên tri giả mạo thường làm cho công chúng tin tưởng nơi những sự lầm lạc của mình.
Người ta không thể làm được đúng mức những sự tổn hại mà các ông thầy bói và tướng số sẽ gây cho thân chủ quá thật thà, thường vịn theo những lời bói toán, tiên tri làm cái kim chỉ nam cho cách sinh hoạt và sử thế của mình. Tuy vậy, người ta cũng biết khá đủ về những tệ đoan gây nên, nó là cho chánh phục phải can thiệp.
Dầu sao, trong số những thành phần ấy đã có một vài nhân vật làm cho tôi thích thú ngoài phạm vi hành nghề của họ. Đó là: Một nhà phù thủy đã làm chết một con gà mái dưới mắt tôi bằng những câu thần chú và bằng khoa pháp môn:
Một nữ phù thủy người Soudan, đã đoán trúng rằng xứ Ấn Độ là nơi mà tôi đã trải qua một thời gian rất may mắn tốt lành, và sau đó đã tiên đoán vài điều về tương lai; một người thanh niên Ai Cập đạo Gia Tô và gốc xứ Syrie, tin tưởng chắc chắn rằng y là hậu nhân của thánh Elie và sống một cuộc đời ẩn dật lánh xa thế tục như đấng tiên tri nọ.
Một ông lão dị kỳ sống với gia nhân trong một tòa nhà lớn bên cạnh một ngồi đền hồi giáo, và sống tách rời thế gian đến nỗi ông ta dùng hết thời giờ của mình để nói chuyện với các vong linh bí mật; một bà nọ rất can đảm, bất chấp lịnh cấm của vua Ibn Séoud, đã lén quay phim tại thánh địa Mecca.
Nhưng bây giờ lại muốn học hỏi vấn đề đạo lý với những bậc danh sư thượng thặng; nhà thuật sĩ trứ danh Tahra Bey, không ngần ngại cắn một lưỡi dao găm vào cỗ họng mình hoặc vào ngực trên cổ quả tim mà không sao cả, thậm chí cũng không chảy máu.
Những nhân vật khác nữa cũng làm cho tôi phải chú ý, nhưng tôi không thể diễn tả hết mọi người với đầy đủ chi tiết, mà chỉ kể đại khái những chuyện về một vài người đáng lưu ý nhất.
Một khía cạnh khác đời sống ở Cairo cũng rất hấp dẫn đối với tôi, đó là khía cạnh tôn giáo, vì thành phố này đã từng là trung tâm truyền bá nền văn minh Hồi giáo trong khoảng trên một nghìn năm.
Tôi tìm thấy ở chỗ của nhà phù thủy vào một buổi trưa hè nóng bức, sau khi đã đi tìm đường rất lâu và mất rất nhiều công phu dọ hỏi. Tôi đi theo một con đường lớn vẫn còn lót bằng những tảng đá rất cũ đến một khu xóm ồn ào, cũ kỹ, bình dân, mà những con đường hẹp quanh co chen chúc nhau giữa ngôi đền hồi giáo El Azhar và khu nghĩa địa âm U Bad el Wazir.
Một đoàn lạc đà nối đuôi nhau đi vào thành phố, mỗi con lạc đà đều có đeo trên cổ một cái lục lạc đồng, khiến cho cuộc diễn hành của chúng phát ra những tiếng khua nghe rất vui tai. Để tìm địa chỉ của nhà phù thủy, tôi vạch một lối đi xuyên qua nhiều ngõ ngách tối tăm, quanh co lẩn khuất như chốn mê cung.
Nhiều lối đi chật hẹp đến nỗi nền trời chỉ xuất hiện qua những khe hở không đều giữa những nóc nhà hai bên đường. Tuy nhiên, ánh nắng mặt trời rọi xuống lối đi chật hẹp đó tạo nên một khung cảnh chỗ sáng chỗ tối trông rất ngoạn mục.
Sau cùng tôi đi vào một con đường khúc khủyu đưa đến nhà một người mà tôi tìm kiếm, xuyên qua những lớp bụi trắng rất dầy và những ngọn gió đưa vào từ những ngọn đồi khô khan nhô lên ở vùng ngoại ô thành phố. Ngôi nhà rộng lớn và có vẻ cũ kỹ, mặt tiền xây bằng những tảng đá dài sơn màu mè sặc sỡ, và trên gác có nhiều cửa sổ, tôi đợi một lát thì một đứa trẻ độ mười bảy tuổi ra hỏi với một giọng do dự:
- Thưa ông muốn hỏi ai?
Khi tôi nói đích danh nhà phù thủy, thì người thiếu niên lùi bước với vẻ ngạc nhiên. Hẳn là trong số những thân chủ của nhà này, không có nhiều người Âu.
Người thiếu niên nói:
- Ông kiếm cha tôi! Về chuyện chi, xin ông cho biết?
Tôi cho biết ý kiến của tôi và đưa ra một tờ giấy giới thiệu viết bằng viết chì. Khi y thấy chữ kí tên, đôi mắt y sáng lên, y mời tôi vào nhà, mời tôi vào phòng khách, chỉ một cái divan có lót vải trắng và mời tôi ngồi.
Kế đó, y bước lên lầu và liền trở xuống. Tôi nghe tiếng chân người lê những bước đi chậm chạp, và những người thiếu niên bước vào phòng, theo sau có một người thân hình vạm vỡ, trạc độ sáu mươi tuổi, người này vừa bước vào vừa đưa tay lên trán để chào tôi theo lối bản xứ.
Y choàng trên đầu một chiếc khăn trắng phủ xuống tận vai, để một mái tóc đen như huyền. Nét mặc y già dặn và biểu lộ một tính tình cỡi mở, tốt bụng, râu mép khá rậm những bộ râu dưới cằm thì thưa. Đôi mắt y lớn luôn luôn xuống đất và đôi mí nheo lại. Y mời tôi cứ an tọa và y ngồi trên một chiếc ghế lớn.
Với vài lời vắn tắt, nhà phù thủy bài tỏ sự hân hạnh được tôi đến viếng, và mời tôi dùng giải lao trước khi vào đề câu chuyện. Tôi cám ơn, nhưng vì biết rõ tập quán bổn xứ, tôi yêu cầu y đừng cho tôi uống cà phê, vì tôi không dùng thứ ấy.
Y mời tôi dùng trà của xứ Ba Tư, một thứ trà rất ngon, tôi bèn vui lòng nhận. Trong khi chờ đợi, tôi định phỏng vấn nhà phù thủy về đời tư của y, nhưng vô hiệu quả. Ngoài vài lời độc âm ngắn ngủi theo phép lịch sự bổn xứ, y không chịu nói gì về cuộc đời của mình. Trái lại, y xoay chiều câu chuyện và đưa ra nhiều câu hỏi về mục đích của tôi.
Tôi trả lời thành thật và không do dự. Trong khi đó, người gia bộc đã dọn ra những thức ăn đặc biệt Ai Cập, gồm có những khoanh bánh ngọt làm bằng bột mì trộn với mật ong và chiên vàng, chuối và những chén trà Ba Tư thơm phức. Khi chủ nhà hiểu rằng việc sưu tầm của tôi không có mục đích chế nhạo hoặc ác ý gì khác, y trở nên rất cở mở.
Nhưng, dưới cái lớp nhã nhặn lịch sự bên ngoài đó, tôi nhận thấy y luôn luôn giữ mình, dường như không muốn tiết lộ cuộc đời mình cho người khách lạ. Bỗng nhiên, y thay đổi thái độ, và đề nghị cho tôi xem một vài bí thuật phù thủy của y. Y nói:
- Ông hãy đưa cho tôi cái khăn tay.
Tôi đưa khăn cho y, y cầm lấy rồi trả lại tôi rồi nói:
- Được rồi. Bây giờ ông hãy xé nó ra làm hai mảnh.
Tôi làm y theo lời. Y cầm lấy mảnh khăn và viết trên đó một vài dấu hiệu nguệch ngoạc bằng một cây viết mực. Xong rồi, y xếp mảnh khăn lại đưa cho tôi, và yêu cầu tôi để trong một cái dĩa nhỏ bằng đồng ở cạnh tôi trên divan.
Tôi theo dõi với ít nhiều thích thú. Nhà phù thủy bèn cầm một mảnh giấy và vẽ trên đó một hình tam giác lớn, trong đó y vẽ vài dấu hiệu bí mật và vài chữ Ả Rập. Y đưa cho tôi mảnh giấy và bảo tôi để lên cái khăn đã xếp làm tư. Xong, y mới nói lầm thầm trong vài phút một thứ ngôn ngữ dị kỳ khó hiểu, hai mắt y nhắm nghiền. Rồi thình lình y mở mắt ra.
Ngay khi đó, cái khăn bị xé hai bốc cháy trên cái dĩa đồng bên cạnh tôi. Ngọn lửa bốc lên cao làm tôi ngạc nhiên, và trở thành một luồng khói dày đặc bay khắp phòng. Khói làm tôi ngộp thở và cay mắt. Tôi bèn vội vã đứng dậy đi ra cửa, thì nhà phù thủy đã ra đến đó trước tôi, y gọi người gia bộc mở hết các cửa sổ cho bớt khói.
Phải chăng đó là khoa phù thủy chánh hiệu, hay đó chỉ là một trò ảo thuật dùng những hóa chất bắt lửa? Tôi không băn khoăn cho lắm về việc ấy, vì tôi không thấy cần một sự chứng minh để làm gì. Nhưng ông lão tỏ vẽ rất hãnh diện về cái kì công của y. Tôi hỏi:
- Ông đã đốt cái khăn bằng cách nào?
- Bằng cái sai khiến âm binh.
Đó là câu giải thích của y, nó chẳng giải thích gì cả, nhưng tôi không hỏi thêm gì nữa. Đó là vì Ai Cập người ta thường dùng cách đó để giải thích những điều mầu nhiệm ngoài lãnh vực thiên nhiên.
Nhà phù thủy bảo tôi:
- Ông hãy trở lại trong ba ngày nhưng ông đừng quên đem theo một con gà lông trắng. Tôi nhận thấy nơi ông có một cái gì tôi thích, bởi đó tôi vui lòng giúp ông một việc. Ông hãy nhớ đem một con gà tơ, đừng già quá, mà lông trắng mà thôi.
Tôi nghĩ đến những tay phù thủy Phi Châu thường cắt cổ gà trống trắng rồi phóng tia huyết gà lên đầu những thân chủ của họ, nên tôi từ chối lời đề nghị của ông này. Y khẩn khoản mời mọc tôi nhiều lần, và nói thêm rằng nghi thức phù thủy này có bàn tay của một vị thần linh rất cao tay ấn sẵn sàng hành động để phò trợ cho tôi. Nhưng tôi vẫn một mực từ chối.
Sau cùng tôi nói cho y biết rằng loại nghi thức này làm cho tôi ghê tởm, và tôi thà không có những sự lợi ích mà y đã gán cho việc hành lễ ấy. Nhà phù thủy bảo đảm rằng sẽ không có việc đổ máu trong nghi thức này. Nghe như thế tôi đồng ý.
Một lần nữa, tôi lại đi qua con đường nhỏ hẹp dưa đến chỗ ở của nhà phù thủy. Lần này, tôi đi qua chợ bán gà vịt ở phía sau công trường Ataba el Khadra, và mua một con gà mái tơ lông trắng. Tôi ôm con gà trong tay và cảm thấy hơi thở ấm của nó dưới lòng bàn tay tôi. Tôi tự hỏi không biết lão phù thủy sẽ dành cho nó một số phận ra sao.
Khi tôi đến nơi, lão phù thủy không còn dè dặt nghiêm nghị như mọi ngày, mà lại mỉm cười. Y yêu cầu tôi để con gà ở giữa tấm thảm trải trên nền gạch, rồi bước qua ba lần trên một bình lư hương đốt trầm nghi ngút ở một góc phòng. Khi tôi đã bước qua ba lần trên khói trầm thơm phức, tôi bèn ngồi trên divan và nhìn lão chủ nhà.
Nhà phù thủy lấy ra một tờ giấy, vẽ trên đóù một hình vuông chia làm chín ô vuông nhỏ, trong mỗi ô vuông đó y vẽ một dấu hiệu thần bí hoặc một chữ Ả Rập. Kế đó, y niệm lầm thầm, một câu thần chú và đôi mắt y nhìn chăm chú vào con gà.
Thỉnh thoảng, y dậm thêm vào những câu thần chú bằng một cử chỉ ngắn như ra lệnh bằng ngón tay trỏ. Con vật bắt đầu sợ hãy và chạy chốn vào một góc phòng, núp dưới một cái ghế. Khi đó, nhà phù thủy bảo tôi bắt con gà lại và để nó ở giữa tấm thảm như cũ.
Tôi nói cho y biết tôi không muốn sờ vào con gà một lần nữa. Người con trai ông lão khi đó bước vào phòng ngồi với chúng tôi, y mới bắt con gà và để lại chỗ cũ.
Con gà lại bắt đầu tỏ vẻ sợ sệt và lại muốn chạy vào góc phòng. Nhưng lão phù thủy, bằng một giọng mạnh mẽ, ra lịnh cho nó hãy nằm yên. Con gà bèn nằm yên lập tức. Lúc ấy, tôi nhận thấy toàn thân nó run lên.
Nhà phù thủy lại mời tôi bước qua ba lần trên lò trầm. Khi tôi trở lại ngồi trên divan, con gà không nhìn vào lão phù thủy nữa, mà hai con mắt nó nhìn về phía tôi cho đến lúc cuối cùng.
Khi đó tôi nhận thấy một sự lạ lùng. Hơi thở của con gà trở nên nặng nề và khó khăn, mỗi hơi thở chỉ còn là một hơi thở dài và hổn hển, mỏ nó há ra luôn dường như nó đang cố gắng để đem không khí vào phổi. Nhà phù thủy bèn đặt lá bùa dưới đất ở một bên nó.
Y lui gót một cách nhẹ nhàng về phía cửa mở, y đứng nơi đó và lại vừa đọc thần chú vừa nhìn thẳng vào con gà. Những câu thần chú của y lên giọng ra lịnh, lần lần người ta thấy con gà đã uể oải và như sắp tắt thở. Nó cố gắng một lần chót để đứng dậy nhưng lại té ngã xuống vì kiệt sức.
Vài phút trôi qua, nó giật mình vài cái, hai cánh vỗ một cách yếu ớt. Những cử động của nó càng bớt dần và dứt hẳn. Thân mình nó cứng đơ, rồi đến cái đầu, rồi tôi nhận thấy rằng con gà nóng hổi mà tôi vừa đem đến nửa giờ trước đây, không thốt ra được lời nào và có một cảm giác như buồn mửa. Lão già yêu cầu tôi để cái khăn tay trên xác con gà, và nói với một giọng lạ lùng:
- Khoa pháp môn đã thành công hoàn toàn. Kể từ nay, vị thần linh đã giết con gà này sẽ phù trợ cho ông. Đôi khi, tôi cũng đã làm một nghi thức như thế mà con gà không chết, đó là bởi vì thần linh từ chối không chịu phò trợ cho thân chủ của tôi.
Tôi quan sát nhà phù thủy này suốt buổi hành lễ và thấy y luôn luôn nhìn xuống đất. Y giải thích thái độ đó như sau:
- Khi tôi niệm chú hô thần để kêu gọi một vị, và khi thần linh xuất hiện để chịu cho tôi sai khiến, thì không bao giờ tôi nhìn thẳng vào y. Đó là một trong những quy luật phải noi theo.
Nhưng cuộc lễ hy sinh này chưa phải là đã xong. Ông còn bổn phận gói xác con gà lại và đem về nhà cho đến ngày mai, đợi đến lúc nữa đêm, ông sẽ đi đến cầu Kasr el Nil và liện xác nó xuống sông. Trong khi đó, ông hãy đưa ra một lời ước nguyện, và có ngày thần linh sẽ giúp được ý ông muốn.
Cái khăn của tôi không đủ để gói xác con gà. Tôi thấy trong phòng có một tờ báo, tôi bèn dùng nó để gói lại. Về đến nhà, tôi đưa cái gói cho tên gia bộc Ả Rập còn trẻ tuổi của tôi, và đăn y nên mở ra và sờ mó gì đến nó cho đến đêm sau.
Nhưng lời dặn này là thừa. Tôi chỉ nói thoáng qua là con gà đã bị hy sinh do bàn tay của một nhà phù thủy, và không phải dùng để ăn. Tên gia nô lùi lại trong sự sợ hãi, và kể từ lúc ấy, y tránh không đến gần con gà.
Chiều đến, tôi ra tiệm dùng cơm với hai người bạn, một người Mỹ và một người Ai Cập. Tôi thuật lại cho họ nghe chuyện con gà bị giết bằng khoa phù thủy. Họ quả quyết rằng con gà bị giết bằng những phương pháp khác hơn là khoa pháp môn. Về phần tôi, tôi không bày tỏ ý kiến gì mà chỉ giữ kín quan niệm của tôi.
Khi thuật lại tất cả các chi tiết, họ phá lên cười, và con gà là đầu đề chính của câu chuyện chúng tôi trong buổi tối hôm đó. Tôi cũng phải thú nhận rằng tôi cũng mỉm cười khi tôi nghe những câu nói đùa châm biếm của những ông bạn tôi về nhà phù thủy vắng mặt, họ dùng y làm cái bia cho sự những sự chỉ trích và bỡn cợt rất ngộ nghĩnh.
Thình lình tất cả đều tắt phụt trong tiệm ăn, chúng tôi còn đang ăn dở bữa chưa xong. Tất cả những cố gắng của người chủ tiệm vẫn không thể nào làm cho đèn cháy lại được, và bữa tối hôm ấy kết thúc dưới ánh đèn nửa mờ nửa tỏ. Người bạn Ai Cập của tôi, cựu sinh viên trường đại học Sorbonne và có tiếng là một con người đa nghi, bèn mất đi trong một lúc sự hài hước đùa cợt của y.
- Chính nhà phù thủy của anh đã làm chuyện ấy!
Y nói với một giọng với vẻ giễu cợt bề ngoài, nhưng tôi thấy bên trong có ẩn một điểm lo ngại. Có thể rằng cái cầu chì tình cờ bị nổ làm tắt điện, điều ấy là hiển nhiên.
Nhưng việc này xảy ra trong những hoàn cảnh nó làm tôi nhớ lại hai việckhác đã xảy ra mợt cách lạ lùng trong những trường hợp tương tự. Việc thứ nhất là trường hợp cá nhân của tôi, còn việc thứ hai được nhà văn hào trứ danh Robert Hichens thuật lại cho tôi, có quen thân với nhân vật chính câu chuyện.
Câu chuyện thứ nhất xảy đến cho tôi từ nhiều năm qua khi tôi theo đuổi về cuộc sưu tầm về những giáo phái xuất hiện về những thời kỳ đó, ở khắp Châu Âu và Mỹ Châu. Một trong những chi phái đó là do sự điều khiển của một phần tử bất hảo, cụ linh mục bị trục xuất khỏi Giáo Đường, nhưng y là một nhân vật có quyền năngvà kiến thức rộng.
Do sự điều tra, tôi được biết rằng y có một thuật thôi miên rất mạnh và y lợi dụng thuật ấy để đạt những mục đích tà vạy, để khai thác và làm tiền những kẻ nhẹ dạ mê tín. Thay vì cảnh cáo những người mà tôi quen biết trong số các nạn nhân của y, tôi giữ kín sự khám phá của tôi, vì tôi tin rằng những kẻ bất lương sớm muộn gì cũng phải đền tội.
Yếu tố quyết định đã xảy đến dường như do sự tình cờ khi tôi gặp lúc mười giờ đêm, một thiếu phụ, vợ của một người mà tôi rất quen biết. Cách đi đứng của bà ta có vẻ lạ lùng làm cho tôi phải ngừng bước giữa đường để hỏi chuyện với bà ấy, và tôi vô cùng ngạc nhiên mà nghe nói rằng bà ta đang đi đến nhà của thầy dòng tu xuất để ngủ đêm tại đó.
Tôi đưa bà ấy đến cột trụ đèn gần nhất và dưới ánh đèn đện, tôi quan sát cặp tròng trắng và con ngươi trong mắt bà ta, thì thấy rằng bà ta đã hoàn toàn bị thôi miên. Tôi thấy có bổn phận phải giải tỏa phép thôi miên cho bà ấy ngay lập tức và thuyết phục bà hãy trở về nhà.
Qua ngày hôm sau, tôi đến viếng một người bạn Ấn Độ để hỏi thăm ý kiến của y về vấn đề này. Tôi thuật lại cho y nghe rõ tất cả những điều tôi khám phá về hành động bất lương của tên lưu manh nọ, và nói rằng theo ý tôi một ngưới như thế thật là quá nguy hiểm mà để cho họ tự do để làm hại kẻ khác.
Người Ấn Độ đồng ý với tôi, y còn tỏ ra vô cùng phẫn nộ và đề nghị trừng phạt tên lưu manh bằng một sự trù ẻo nặng nề. Tôi biết rõ người bạn tôi đã được thụ huấn về môn Yoga của Ấn Độ và về những bí thuật khác của các nhà đạo sĩ Đông phương: Một sự trù ẻo xuất phát từ cửa miệng của y không phải là chuyện tầm thường.
Xét thấy rằng sự trừng phạt đó hơi quá đáng đối với trường hợp này, tôi nói rằng y có thể hành động theo như ý muốn nhưng theo tôi nghĩ rằng nên dùng phương pháp nhẹ hơn, để làm cho tên nọ phải bỏ xứ ra đi mà không trở về. Người Ấn Độ bằng lòng, nhưng về phần y thì điều đó cũng không ngăn trở y thốt ra một sự trù ẻo, và y đã làm.
Xong rồi, tôi mới đi tìm tay đạo đức giả nọ, và thấy y đang tụ hợp một số đệ tử đông đảo trong một gian phòng hẹp, nơi đó đang diễn ra một sự hỗn loạn ồn ào, vang rền tiếng kêu thất thanh của tên giáo chủ bịp bợm, biểu lộ một sự vô cùng sợ hãi và tuyệt vọng.
- Ác quỷ có mặt ở đây! Đó là do bàn tay của ác quỷ!
Tôi bật vài cái diêm quẹt, thì thấy y nằm dài trên cái bục gỗ, dường như đang bị chứng động kinh và mê man bất tĩnh. Người ta thấp đèn cầy lên. Những đệ tử của y chở y sang một khách sạn gần bên, và cố gắng làm cho y tỉnh dậy bằng thứ giải lao quen thuộc của y là rượu Whisky.
Trong khi đó những người khác thuật lại cho tôi nghe những gì đã xảy ra. Tất cả môn đồ đang ngồi trên ghế, lẳng lặng nghe vị giáo chủ của họ thuyết pháp, thình lình tất cả những bóng đèn điện đều nổ tung một lượt với một sức mãnh liệt như bom nổ, những mãnh chai của các bóng đèn bị hất văng ra tứ phía.
Gian phòng bị đắm chìm trong đêm tối, và giữa những cơn hỗn loạn kinh khiếp, họ nghe tiếng thầy họ té ngã một cách nặng nề trên bục gỗ và thốt ra những tiếng kêu thất thanh vì kinh hãi.
Tôi bèn theo y qua bên khách sạn, tôi một bức thư ngắn rồi bỏ trong một bao thư có niêm phong cẩn thận. Tôi đưa bức thư đó cho viên trưởng tràng của nhóm đệ tử bị gạt, và yêu cầu y đưa cho thầy y khi nào anh ta tỉnh dậy và có thể đọc được.
Đó là một bức tối hậu thư, bắt buộc y phải rời bỏ thành phố trong vòng hai mươi bốn giờ và không được trở lại nữa nếu không cảnh sát sẽ truy nã y. Y bèn ra đi, và độ một năm sau, tôi nghe tin y đã chết trong một làng hẻo lánh. Nhưng điều lạ lùng nhất trong câu chuyện này là gian phòng bị tắt điện tối om đúng vào lúc mà cuộc lễ trù ẻo của người Ấn Độ bạn tôi lên đến mức độ hữu hiệu tuyệt đối!
Câu chuyện thứ hai liên hệ đến Huân tước Carnavon, nhà khảo cổ đã khai quậtlăng tẩm của vua Toutankhamon. Cả thế giới đều biết câu chuyện hy hữu về sự khám phá dị kỳ này, không một ai không biết rằng người cổ Ai Cập đã trù ếm những kẻ nào xâm phạm đến ngôi lăng tẩm này.
Vì chứng bịnh bạo phát, người ta phải chở Huân tước Carnavon đến Cairo để được điều trị bằng những phương liệu y khoa tốt nhất mà thành phố ấy có thể cung cấp. Người ta đưa ông Carnavon vào khách sạn Continenal Savoy, một trong những khách sạn lớn nhất của Cairo.
Một buổi tối, ít lâu sau khi ông được đưa vào đây, tất cả các ngọn đèn điện bị tắt. Đêm tối kéo dài gần một giờ. Khi đường dây điện được thiết lập lại, người nữ y tá săn sóc cho Huân tước Carnavon thấy ông ta đã chết trên giường bệnh.
Bây giờ, tôi hãy trở lại chuyện con gà.
Hôm sau vào lúc nửa đêm, người ta thấy một người tay ôm một cái gói nhỏ lững thững đi qua cầu Kasrel Nil, đến giữa cầu y có vẻ ngập ngừng chờ đợi lúc thuận tiện để thi hành một công tác gì bí mật.
Việc ấy không thể dễ làm như người ta có thể tưởng, vì chiếc cầu này ở ngay trung tâm khu vực người Âu. Một trại lýnh Anh nằm ở một phía bên cầu, ở phía bên kia, là tổng hành dinh của viên Cao Ủy Anh, có cảnh sát canh gác nghiêm nhặt.
Vào giờ này mà ném từ trên cầu một vật khả nghi bọc bằng giấy xuống dòng sông đen ngòm, lỡ có ai nhìn thấy, phải chăng người ta kết luận rằng mình là một kẻ sát nhân, toan vất bỏ một mảnh thi hài của người chết để phi tang? Tuy nhiên, tôi cũng có dịp quăng cái gói xuống sông từ lan can cầu.
Khi nó rơi xuống nước với một tiếng chõm, người dạ hành thở phào một cái nhẹ nhõm và rảo bước đi ngay một cách an toàn. Tên gia bộc Ả Rập của tôi cám ơn Allah khi tôi trở về nhà bình yên. Y có vẻ sung sướng như một con mèo bắt được con chuột đầu tiên.
Trong những thăm viếng kế tiếp, tôi cố gắng yêu cầu nhà phù thủy giải thích những phương pháp của y với những chi tiết hơn, để có thể biết xem đó có phải là những trò ảo thuật không? Nhưng ông lão không muốn đề cập tới vấn đề ấy, và đắm chìm trong những cơn im lặng kéo dài dường như đã lọt vào một thế giới khác, có lẽ là thế giới của quỷ thần.
Tôi hiểu rằng thật rất khó mà muốn cho một người kín đáo trầm lặng mở miệng để nói chuyện tâm tình cởi mở với mình. Người con trai của ông lão trả lời những câu hỏi của tôi biết rằng cha y không hề nói cho bất cứ một người nào biết những bí mật của ông ta.
Chính người con trai đã từng hỏi cha y về những điều bí mật đó từ lâu để cho y có thể nối nghiệp cha mình, nhưng y liền bị từ chối và ông lão cho y biết rằng nghề phù thủy vừa khó thực hành lại vừa nguy hiểm. Ông lão đã thuật cho y nghe câu chuyện của một nhà phù nọ, sau khi đã kêu gọi một vị thần để sai khiến, chừng xong việc rồi thì không thể nào làm cho vị thần kia biến mất!
Kết quả thì vị thần kia phản ngược lại y và gây cho y những sự đau khổ gớm giếc kinh khủng! Đó là một ví dụ của những sự khó khăn trong nghề vẫ thường xảy ra. Hiện nay những ngưới con trai theo học luật khoa, một nghành hoạt động ít nguy hiểm hơn, so với khoa phù thủy.
Thế là tôi không thể hy cọng nhà phù thủy già tiết lộ những bí mật của y, dù là thật hay giả. Vì chính cái màn bí mật này nó bảo đảm cho cái quyền năng và tiếng tăm của y. Tôi đành thôi không hỏi thêm gì nữa. Đó cũng là một sự tự nhiên nếu nhà phù thủy không thấy cao hứng để tiết lộ những điều có ảnh hưởng đến tiếng tăm và sự nghiệp của mình.
Nhưng nếu tôi không thể làm cho y cởi mở tấm lòng, thì tôi tưởng tôi có thể thuyết phục y nói cho tôi nghe những lý thuyết đại cương, và do đó tôi có thể học hỏi được những gì bí ẩn đằng sau những câu chuyện mà người Ai Cập thuật lại về các loại thần linh.
Trong khi tôi nói chuyện với y, thì tôi nghe xuyên qua cửa sổ, tiếng trống nhịp nhàng đều đặn vọng lại từ một nhà gần bên. Bên nhà láng giềng, một tay phù thủy Ả Rập hạng trung cấp đang cố gắng, bằng những câu thần chú và tiếng trống, đuổi tà ra khỏi xác thân một người bệnh mà người ta cho là quỷ phá. Nhà phù thủy thấy tôi đang ngẫm nghĩ, bèn nói:
- Những dân tộc các ông bên Tây phương không tin khoa pháp môn cổ truyền của chúng tôi, bởi vì khoa này sử dụng những sức mạnh của thần linh.
Tôi im lặng. Tôi hiểu thái độ tư tưởng của một người phương Đông một cách dễ dàng, nếu không, tôi đã khônhg bao giờ chú ý đến những xứ này. Ở đay, người ta cho rằng thần linh ở khắp mọi nơi.
Nếu một người bị đau ốm, hay bị một điều tai họa, đau khổ, đó là họ bị hung thần nhập xác hay ám ảnh cuộc đời họ. Nếu họ được giàu sang hay quyền thế, đó là vì họ được sự phò trợ, giúp đỡ của một thần phò mạng tốt lành. Sau cùng tôi hỏi nhà phù thủy:
- Những vị thần đó như thế nào?
Tôi đã hỏi đúng lúc, vì y đang vui vẻ. Y đáp:
- Ông nên biết rằng những vị thần linh đó có thật, tuy rằng người thời nay đã mất cái nhãn quan để nhìn thấy họ. Cũng như trong cõi vật chất có loài động vật, thì trong cõi vô hình cũng có những cõi tâm linh, không phải người chết, mà họ xuất xứ trong cõi giới tâm linh.
Đó là những thần linh. Tuy thế, ta đừng lầm họ với những linh hồn thú vật, vì họ có một tính chất khác hẳn. Vài vị thần có trí khôn như người, có những vị tốt lành như những bậc thánh, cũng có những hạn khác là hung thần, ác quỷ.
Nói chung những nhân vật trong cõi tâm linh có thể chia làm ba hạng chính: Thần linh, nhân loại và Thiên Thần. Các hàng Thiên Thần, thuộc về hạng tốt lành, không hề sống trên mặt đất. Những hạn thần linh gồm cả thiện lẫn ác, cũng không hề sống trên thế gian. Còn hạng nhân loại thì đó là những người, nam hay nữ, đã từng sống ở thế gian và rời bỏ sau khi chết.
Cũng như loài vật có bổn phận phụng sự loài người ở cõi thế gian, như loài chó, ngựa, lạc đà được tập luyện để biết vâng lời sai khiến của con người, thì một vài thần linh có thển để con người sử dụng và sai khiến trong cõi giới vô hình hoặc hữu hình.
Khoa pháp môn thời cổ, cũng như khoa pháp môn của vài nhà phù thủy chân chính còn sống vào thời đại này, phần chính yếu là biết làm thế nào để kêu gọi sự trợi giúp của những hạng thần linh ấy. Nói tóm lại, đó cũng là một loại thần linh học.
- Người ta dùng phương pháp nào để có được sự trợ giúp đó?
- Trước hết, cần phải biết tên mỗi vị thần linh để có thể ra lệnh cho họ. Kế đó, phải viết trên một tờ giấy một lá bùa gồm có tên của vị thần, một đoạn kinh Coran, một số hệ lồng trong khung của một sơ đồ, thường là một hình vuông hay hình tam giác.
Điều thứ ba là phải đốt các loại hương trầm, mà thành phần các chất hương liệu sẽ thay đổi tùy theo tính chất vị thần mà mình muốn kêu gọi. Điều thứ tư là phải đọc những câu thần chú. Sau cùng, phải có quyền năng mà nhà phù thủy tiếp nhận được trong khi làm lễ thụ huấn do thầy y ban cho.
Nhà phù thủy ngưng một chút rồi nói tiếp:
- Nhưng muốn có được cái bản lĩnh đó, người học trò khoa pháp môn phải trải qua một thời kỳ tập sự lâu dài và nguy hiểm. Bởi đó khoa pháp môn bao giờ cũng vẫn là cái sở đắc của một thiểu số người.
Tôi có thể trình bày cho ông biết những sự tin tưởng của chúng tôi, như tôi đang nói trong lúc này, nhưng còn tiết lộ những bí thuật có một giá trị thật sự, thì tôi đã có lời thệ nguyện với thầy tôi là không bao giờ làm điều đó, trừ khi nào tôi được truyền pháp cho một đệ tử được thâu nhận sau nhiều năm học hỏi.
Thật là một điều nguy hại cho nhân loại nếu những bí mật của chúng tôi bị tiết lộ cho mọi người bởi vì chừng đó những kẻ hung dữ có thể lợi dụng khoa này để làm hại kẻ khác vì mục đích ích kỷ, còn về phần chúng tôi thì sẽ mất hết quyền năng, không còn hiệu lực gì nữa.
Từ trước đến nay tôi vẫn luôn luôn từ chối việc thâu nhận học trò. Thật ra, theo những luật lệ của môn phái chúng tôi, thì tôi có bổn phận truyền pháp cho một đệ tử trước khi tôi qua đời, để cho khoa pháp môn được tồn tại mãi mãi trong nhân loại. Nhưng vì tôi đã biết trước được ngày giờ tôi chết, nên tôi sẽ thi hành bổn phận đó vào đúng lúc.
Nhà phù thủy lại ngừng một lúc. Tôi lấy làm hài lòng mà được y từ bỏ sự dè dặt để nói chuyện cởi mở với tôi. Tôi bèn hỏi thăm về sự nhập môn của y. Y đáp:
- Tôi xin kể một phần tiểu sử của tôi.Tôi sinh ra đã sáu mươi năm nay tại thành Suag, thuộc tỉnh Girga. Cha tôi cũng là một nhà phù thủy và chiêm tinh gia chuyên nghiệp nổi tiếng. Tôi còn nhớ rõ, khoa pháp môn của cha tôi hấp dẫn tôi một cách mãnh liệt và làm cho tôi rất say mê.
Cha tôi nhận thấy tôi có khuynh hướng đó, người mới tuyên bố là truyền pháp cho tôi, và huấn luyện để chuẩn bị cho tôi nối nghiệp người. Cha tôi có rất nhiều sách cổ viết bằng bút tự Ả Rập và những loại sách quý rất hiếm có về khoa pháp môn, người mới đưa cho tôi học. Sau khi người đã truyền pháp cho rồi, tôi bèn rời khỏi nhà rồi đến Cairo để vào trường Đại Học El Azhar.
Hồi đó tôi mới có 18 tuổi. Tôi học về các khoa văn chương và tôn giáo nhưng tôi vẫn hoàn toàn giữ kín bí mật của tôi. Tôi có đem theo vài quyển bút tự của cha tôi, và tiếp tục học sách ấy ở nhà. Tôi học được một điều, là phân biệt được những tính chất khác nhau của con người, cho đến khi tôi trở nên thuần thục để có thể biết được với cái nhìn thoáng qua, tánh tình và ý muốn của một người.
Tôi rời khỏi trường Đại Học lúc tôi 28 tuổi. Sau đó tôi sống biệt lập ở một nơi hẻo lánh, và tiếp tục thực hành khoa pháp môn cho đến khi tôi cảm thấy có đủ bản lãnh để có thể hoàn toàn kiểm chếvà làm chủ được những Thần linh.
Khi đó tôi mới thực sự bước vào nghề và bắt đầu nhập thế. Trừ phi người ta có thể đạt được tới bản lãnh đó, thì tốt hơn đừng nên theo đuổi khoa pháp môn. Mấy đứa con tôi đã van xin tôi truyền pháp cho chúng, nhưng tôi đã hướng chúng đi theo con đường khác, vì tôi thấy chúng nó thiếu sự can đảm cần thiết để trở nên một nhà phù thủy lành nghề và có thể thành công.
Tôi cũng đã thực hành khoa chiêm tinh. Nhiều người Ai Cập có địa vị cao đã đến viếng tôi, và tôi thường tiên đoán vận mạng của họ. Những vị hoàng thân, bộ trưởng, quan chức, phú thương điều có đến hỏi ý kiến tôi.
Một vị quan to của triều đình Abyssinie đã nhờ tôi đoán số; năm ngoái, tôi tiếp đoán vị công chúa của hoàng triều Abyssinie. Quốc Vương xứ Maroc đã gởi đến tôi một vị đặc sứ mang theo quốc thư để hỏi về vận mạng tương lai.
một năm nọ bốn tên ăn trộm lẻn vào nhà tôi lúc ban đêm định giết tôi để cướp của, tôi đuổi chúng đi với chỉ có một cây gậy. Qua ngày hôm sau, tôi dùng bí thuật để biết tên của chúng. Sau đó tôi có đủ bằng chứng để đưa chúng ra trước pháp luật và cho chúng lãnh án năm năm tù.
Cách đây không lâu, tôi được gọi đến một nhà bị ma khuấy phá, làm lật đổ bàn ghế và vật dụng trong nhà lúc ban đêm. Tôi đốt một lò hương trầm và niệm chú; trong mười lăm phút, vài âm binh đã xuất hiện. Đó là những âm binh đã khuấy phá trong nhà nọ. Tôi ra lệnh cho chúng phải đi ngay và để cho nhà kia được bình yên. Chúng bèn đi mất và mọi sự đều trở lại bình thường.
Nhà phù thủy vỗ hai tay làm hiệu, tên gia bộc bèn bưng ra một mâm đựng mứt, bánh ngọt và trà thơm Ba Tư. Nhân lúc dùng trà bánh, tôi hỏi:
- Có thể nào làm cho một người khác thấy được những vị thần linh đó không?
- Được chứ, sau những cuộc chuẩn bị lâu dài và nhiều cố gắng, điều đó có thể thực hiện được. Cuộc chuẩn bị gồm có việc đốt trầm hương và niệm thần chú. Khi đó một vị thần xuất hiện từ luồng khói trong gian phòng tối tăm và nói lớn tiếng. Tôi không thực hành khía cạnh đó của khoa pháp môn vì tôi đã già để làm những cố gắng dày công như thế.
Tôi lấy làm ngạc nhiên trước nhân vật lạ lùng này, nếu y có thể tiếp xúc với quỷ thần một cách dễ dàng như thế thì đó thật là một người nguy hiểm. Tuy nhiên, y cũng tỏ ra có những tình cảm như mọi người, vì khi ấy đứa cháu gái y mới lên sáu tuổi và mặc quần áo ngộ nghĩnh bất chợt chạy tung tăng vào phòng, y cuối xuống hôn nó một cách rất trìu mến và chơi với nó rất lâu.
Tôi lại hỏi:
- Những điều nguy hiểm của khoa pháp môn này như thế nào?
- Người nào kiểm soát và sai khiến được thần linh phải chịu nhiều điều nguy hiểm. Thần linh không phải chỉ là những vật vô tri trong bàn tay của y. Đó là những nhân vật có trí khôn và ý chí riêng biệt. Họ luôn luôn có thể nỗi loạn chống lại người đã khuất phục được họ.
Tuy họ tuân lệnh nhà phù thủy đã làm chủ được họ và phụng sự người ấy hết lòng, nhưng nếu nhà phù thủy mất sự tự chủ và ý trí của y bị sút kém, hoặc y lạm dụng quyền năng vì mục đích tà bậy, thì khi đó vài loại thần linh có thể phản công trở lại và tác hại, gây cho y những khó khăn bất ngờ, như tai nạn hoặc chết bất đắc kỳ tử.
Với sự trợ giúp của những thần linh đó, người ta có thể làm được những việc phi thường, nhưng khi nhà phù thủy không đủ sức kềm chế thần linh, họ có thể phản động lại một cách trắng trợn và hại người đã khuất phục được họ.
- Phải chăng người cổ Ai Cập cũng đã từng biết rõ những hạng thần linh đó?
- Lẽ tất nhiên, sự hiểu biết đó là yếu tố căn bản về quyền năng của các vị tăng lữ trong các đền cổ Ai Cập. Họ sử dụng thần linh như những vị thần canh gác mồ mả hoặc giữ kho tàng của cải rất vĩ đại. Người ta kêu gọi đến thần linh trong những cuộc hành lễ ở các đền thờ. Tôi cần nói thêm rằng có khi người ta cũng dùng các thần linh để thực hiện những mục đích tà bậy, bất chánh.
Tôi thuật lại cho ông lão nghe kinh nghiệm của tôi trong Kim Tự Tháp lớn, khi tôi thức suốt một đêm trong Vương Cung, và cái kinh ảnh khi tôi nhìn thấy cái vong hồn của hai vị đạo trưởng già và con đường hầm bí mật.
Nhà phù thủy cho biết:
- Bên trong Kim Tự Tháp và ở vùng chung quanh thần tượng Sphinx có một hạng thần linh đặc biệt. Những thần linh này đã bị các vị pháp sư lão thành của thời cổ Ai Cập bắt nhốt tại đó để gìn giữ nhưng nơi bí mật ...
Những vị thần linh ấy phóng ra những ảo ảnh để đánh lạc hướng những người nào muốn đột nhập vào những chốn thâm nghiêm bí ẩn trong các đền thờ, và nhờ đó họ giữ gìn cho những nơi ấy trở nên bất khả xâm phạm.
Tôi cũng tin rằng Kim Tự Tháp lớn có những đường hầm bí mật, những gian phòng kín và những tài liệu ẩn dấu. Tôi cũng đã đến đó một lần với ý định tìm kiếm những thứ ấy, nhưng vì những người canh gác không cho bất cứ một ai đi xuống con đường hầm, nên tôi đành thất vọng trở về.
Lẽ dĩ nhiên, những vị thần gìn giữ những nơi bí mật của Kim Tự Tháp và thần tượng Sphinx có thể bị lôi cuốn và mua chuộc, nhưng muốn như vậy, người ta phải biết rõ hình dáng và tên của họ cùng những câu thần chú đặc biệt để kêu gọi các vị thần. Nhưng tiếc thay, những điều đó nay đã mất không còn nữa, và đã bị chôn vùi theo các nhà đạo sĩ cổ Ai Cập.
Tôi bèn hỏi những quyền năng mà y đã đề cập đến, vì tôi được bí nhưng quyền năng đó không phải là vô giới hạn. Y đáp:
- Lẽ tất nhiên chúng tôi không dám tự hào làm được bất cứ việc gì. Chúng tôi có thể làm một vài việc, chỉ có thể làm được một vài việc, thế thôi. Chỉ có đấng Allah mới biết hết tất cả và quyết định mọi sự. Chúng tôi chỉ có thể cố gắng thi thố tài nghệ của mình mà thôi, còn thành hay bại là tùy nơi đấng Allah.
Tôi xin kiếu từ và lại trở ra con đường hẹp và đầy các bụi, dưới ánh nắng trong sáng của mặt trời thành Cairo. Tôi còn cất trong túi áo một viên ngọc lớn, chùi láng bóng, màu nâu đỏ, hình bầu dục mà nhà phù thủy đã tặng cho tôi để làm vật kỷ niệm, và theo như lời y cho biết thì viên ngọc này ngày xưa là vật sở hữu của một vị vua Pharaon.
Tôi ngắm viên ngọc và nghĩ đến nhà phù thủy mà tôi vừa tiếp xúc, cùng những thần linh bí mật vô hình mà y nói là lúc nào cũng sẵn sàng vâng lời sai khiến của y. Tôi thấy rằng, khi đạt đến đó, người ta đã bước vào một lãnh vực nguy hiểm, gần kề với khoa pháp môn huyền bí và tà môn tả đạo.
Những thần linh ấy phải chăng là những sự bịa đặt cổ truyền và vô căn cứ? Không, tôi phải nhìn nhận rằng trong những cõi giới bí ẩn của thiên nhiên, có những sinh vật không phải là loài người. Một lý luận giản dị bằng cách so sánh có thể đưa đến kết luận đó.
Cũng có thể là trong hàng ngũ những sinh vật vô hình đó, có những loại hung ác, tà bậy, cũng như có những loại hiền hòa và tốt lành. Một vấn đề nữa là xác định xem những thần linh đó có thể làm những việc phi thường chăng như là phù thủy đã tuyên bố. Tôi không thể giải đáp vấn đề đó ngay tại chỗ.
Tôi có ý định nghiên cứu những khía cạnh của khoa pháp môn chính hiệu. Đó là kết quả đầu tiên và lạ lùng mà tôi đã gặt hái trong chuyến du hành sang Ai Cập.
#65
Gửi vào 08/06/2011 - 11:47
AI CẬP HUYỀN BÍ
NIỀM AN TĨNH CỦA THÁNH ĐỊA ABYDOS
CHƯƠNG SÁU
Trên bảy ngàn năm trước khi đức giáo chủ Mahomet đem cho những bộ lạc du mục xứ Ả Rập cái đức tin nơi một đấng thượng đế hoàn toàn siêu linh, thì xứ ấy đã từng có một nền tôn giáo cổ thờ những thần tượng không lồ bằng đá mà về sau đức Mahomet chủ trương phải dẹp bỏ.
Tuy vậy những tín đồ ưu tú nhất của nền tôn giáo cổ xưa đó thật ra cũng chỉ tôn sùng một vị thượng đế như đức Mahomet đã khởi xướng. Sự tín ngưỡng của họ không phải chỉ là tôn thờ thần tượng mà thôi.
Những nhà Ai Cập học uyên bác ngày nay không thể biết nhiều hơn về một tôn giáo thuộc về tiền sử có rất ít tài liệu đến nỗi không ai có thể vén tấm màn bí mật của nó, và người ta chỉ còn đưa ra những giả thuyết về những nhân vật và những sự việc xảy ra vào một thời kỳ quá khứ xa xăm như thế.
Tại một vài nơi ở Ai Cập, những đến thờ cổ xưa và những ngôi đền Hồi Giáo ở gần sát bên nhau, chẳng hạn như tại Louqsor. Về điểm này, xứ Ai Cập cho ta thấy một sự tương phản lạ lùng. Đã bao lần những đoàn kỵ binh hùng dũng của đạo binh xâm lăng Ả Rập đã từng cắm ngọn cờ xanh màu lục của đấng tiên tri khắp xứ Ai Cập.
Thời gian trôi qua, ngọn cờ màu lục đã có lúc chuyển qua các ngọn cờ màu hồng, màu trắng, màu xanh dương, rồi lại tái xuất hiện. Nhưng trong cái bối cảnh ở tận đằng sau, vẫn còn rên rỉ tiếng còi yếu ớt trong những ngôi đền cổ.
Xứ Ai Cập không thể làm mất đi những dấu vết của nền tôn giáo cổ của họ. Dĩ vãng, giống như con chim phụng hoàng, luôn luôn xuất hiện thình lình trước mắt ta do công trình đào xới của các nhà khảo cổ. Những di tích thần tượng bằng đá nhắc lại những thời đại cổ xưa, mà người đời không còn biết đến nữa.
Tuy nhiên, cái ranh giới giữa dĩ vãng và hiện tại vẫn còn mơ hồ. Những người nhạy cảm đều đồng nhận thấy rằng cái bầu không khí cổ thâm nghiêm cùng sự tín ngưỡng đáng quý của những dân tộc biệt tích đó vẫn còn phản phất một cách sự thật và đè nặng lên xứ này.
Nếu những ngôi đền cổ của họ ngày nay chỉ còn là những di tích hoang tàn, sụp đỗ, làm nơi trú ngụ của những loài dơi vỗ cánh bay lượn trong đêm tối, nếu ở đó nay chỉ còn một vài xác chết đã bị moi ruột, được những nhà chuyên môn thời cổ dùng chất hương liệu ướp xác và tẩm liệm để giữ gìn nguyên vẹn cho đến bây giờ.
Thì dù sao vong hồn của họ cũng còn phản phất không xa những chốn đền đài cổ kín mà xưa kia họ đã từng quen thuộc. Cái mãnh lực, quyền uy của người chết vẫn còn tồn tại ở Ai Cập một cách bền bỉ hơn bất cứ ở xứ nào mà tôi được biết.
Cái dấu vết tinh anh tế nhị đó, tôi lại có dịp nhận thấy khi tôi ngồi xếp bằng ở một chỗ kín đáo bên trong một dãy hành lang nhiều cột trong ngôi đền Seti ở Abydos. Những hình tượng lạ lùng nhìn tôi hoặc biểu dương các tư thế trên vách tường chung quanh. Cái ấn tượng mạnh mẽ của quá khứ xâm chiếm lấy tâm hồn tôi và đưa đến trước mắt tôi những linh ảnh của một thời đại đã bị xóa mờ trong dĩ vãng.
Tôi nhìn thấy một cách vô ý thức những đám rước cổ xưa đi vào đền và tiến bước một cách nhịp nhàng vào những nơi thánh điện. Tôi cản thấy cái quyền uy của những vị tăng lữ kiêm pháp sư thời cổ đã từng làm cho Abydos trở thành một trung tâm tôn thờ thần Osiris, vị thần mà họ hình dung là đội một cái mão có ba ngấn.
Những lời cầu nguyện của họ đã phóng ra những tiếng vang dội đến tận trời xanh và từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Sự hiển diện im lặng và huy hoàng của một đấng thần linh cao cả bắt đầu bao trùm lấy tôi và làm cho tôi ngây ngất.
Dưới đôi cánh che trở của người, tôi thấy rằng cuộc đời thế tục của tôi với những dục vong lăng xăng của nó, bắt đầu mở dần và biến mất như cát trôi qua kẽ ngón tay. Vào thời trước, Strabon đã viết:
- Tại Abydos, người ta thờ thần Osiris, nhưng trong ngôi đền này thì không một nhạc công nào được phép dùng nhạc khí như ống sáo hay đàn dây để mở đầu những nghi lễ cúng tế thần theo nghi thức thông thường trong những cuộc hành lễ tôn giáo.
Sự an tĩnh toát ra từ những vách tường trắng của gian phòng này, một niềm an tĩnh thần tiên mà thế giới bên ngoài không biết được và không thể hiểu. Không phải trong sự náo động ồn ào mà người ta tìm thấy trong những giờ phút tốt đẹp của đời mình, chỉ khi nào sự an tĩnh từ từ lướt nhẹ vào tâm hồn ta, ta mới có được sự hợp nhất thâm thúy với hạnh phúc, minh triết và quyền lực thiêng liêng.
Tôi ngồi một cách thoải mái trong một góc tường, có lẽ giống như một vị tăng lữ thời xưa, một trăm thế hệ trở về trước, và để cho cái ảnh hưởng êm đềm của bầu không khí chung quanh thấm nhuần vào người tôi như một giấc mơ.
Thật là một điều kỳ diệu mà cảm thấy mìng cô lập trong giây lát, quên đi tất những kết quả mà sự văn minh tiến bộ đem đến cho ta. Quên đi sự ích kỷ cố hữu của thế nhân, những sự hiểu lầm không tránh khỏi, những thù ghét vô lý.
Những sự ganh tị đắng cay nó sẽ ngẩng đầu lên như con rắn để phun nọc và mổ vào mình ta, khi ta trở về với cõi thế tục vô minh hắc ám! Tôi tự hỏi: "tại sao người ta phải trở về đấy nhỉ?"
Sự cô đơn dường như là một điều bất hạnh đối với chúng ta, nhưng một sự minh triết thâm sâu dạy cho ta biết nhìn nó như một ân huệ. Chúng ta phải vượt lên đỉnh núi cao tột của những điều mơ ước và hãy tập quen sống trong sự cô đơn.
Bởi vì chúng ta muốn tìm thấy sự sống tâm linh giữa đám đông người, ta sẽ thấy gì? Linh hồn không có ở đó. Nếu ta muốn tìm chân lý hay sự thật, ta chỉ thấy có sự hư giả, dối trá.
Sự ấm áp vốn ngự trong tâm hồn. Người ta có thể trãi qua một buổi dạ hội trong một phòng khách lớn, giữa một nhóm độ ba bốn người, và vẫn thấy mình cô độc như ở trên bãi sa mạc Sahara. Những thân hình có thể ngồi lại gần nhau, những tâm trí họ vẫn cách biệt muôn trùng, và mỗi người vẫn thấy mình cô độc.
Có người mời ta đến nhà vì phép xã giao bắt buộc, theo những lề lối thông thường, chúng ta đến nơi nhưng chủ nhà không có ở đó để tiếp ta. Y chỉ để lại đó có cái xác không hồn, vì biết rằng giữa tâm hồn ta với y có một vực quá sâu thẳm để có thể lấp bằng. Làm quen với một người như thế, thà rằng đừng làm quen nữa còn hơn! Những gì thượng đế đã phân ly, ngăn cách, thì con người chớ khá kết hợp lại!
Tôi đã lên dường để tìm sự bằng an của cõi trời, một cõi giới bao la mà những tin tức thời sự của trần gian không hề lọt vào. Tại sao ta không chịu sống cô đơn và nhận lấy những ân huệ tốt lành của một cuộc đời ẩn dật, thoát ly khỏi những điều phiền não vô ích, ở những nơi vắng vẻ tĩnh mịch như tại ngôi đền Abydos này?
Chúng ta thường khinh rẻ những người bỏ cuộc đời thế tục để đi tìm một đời sống cao thượng hơn, trong khi mà sự ẩn dật của họ chỉ có mụch đích là sẽ trở lại để truyền cho người thế gian một vài điều tốt lành.
Tôi nhớ lại lời cam kết long trọng của tôi với những bậc mà tôi kính trọng, tôi biết rằng sự trở về của tôi là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên điều này không làm cho tôi lo buồn, vì tôi cũng hiểu rằng bao giờ tôi chán nản cuộc đời trần gian, tôi lại có thể trở về với cái nguồn gốc thâm trầm của bản chất tâm linh tôi và lại tìm thấy sự mát mẻ của tâm hồn, ung dung tự tại, bằng an và hạnh phúc.
Thật vậy, trong sự im lặng thiên liêng đó từ trong nội tâm của tôi, tôi có thể rõ ràng nghe tiếng nói của Thượng Đế, cũng như trong cái im lặng thâm trầm của ngôi đền Abydos tôi có thể nghe những tiếng yếu ớt hơn của những đấng thần minh.
Khi ta sống với ngoại cảnh, ta sống giữa những hình bóng hư ảo và những sự băn khoăn, ưu phiền, nhưng khi ta hướng vào bên trong, ta sẽ thấy những chân lý siêu việt và những niềm phúc lạc trường cửu.
Chúng ta đã mất cái nghệ thuật ngồi một mình, chúng ta không còn biết phải làm gì trong những giờ phút cô đơn. Chúng ta không biết tìm hạnh phúc trong cái kho tàng thầm kín của lòng ta, chúng ta phải bỏ tiền ra để mua lấy sự tiêu khiển từ bên ngoài, hoặc trả tiền thù lao cho những kẻ đem cho ta một thú vui giả tạm trong chốc lát.
Không những chúng ta không biết ngồi một mình, mà chúng ta còn không biết giữ im lặng. Nhưng nếu chúng ta biết ngồi im một chỗ trong một thời gian ngắn và sử dụng tâm trí theo một phương pháp nhất định, chúng ta sẽ thu hoạch được một sự minh triết thâm sâu đáng kể, và đem cho tâm hồn ta một sự bằng an tuyệt vời.
Tôi ngồi suốt như thế trong suốt hai tiếng đồng hồ, thời gian trôi qua, tiếng kim đồng tay vẫn chạy đều vọng vào tay tôi, tôi lại mở mắt một lần nữa. Tôi nhìn quanh, những cột trụ lớn và chắc của gian phòng đỡ lấy cái trần nhà dầy đặc. Những tia nắng xuyên qua những lỗ hở trên nóc chiếu vào phòng làm nổi bậc lên những hình tượng các vị thần chạm trổ trên vách.
Người ta thấy một vị vua Pharaon đứng chiêm ngưỡng một vị thần được tôn sùng vào thời đó hoặc được dắt trước tượng thần Osiris. Ngoài ra, còn có những loạt hàng chữ ám tự khắc trên vách, ý nghĩa rất bí hiểm và khó đối với người thường.
Người ta thấy ở khắp nơi hình ảnh của vua Pharaon đang chiêm bái, dâng hương và nhận lãnh ân huệ của các đấng thần minh. Trong một thánh điện đặc biệt, không dành riêng cho sự thời phượng một đấng thần linh nào nhất định, có nhiều vị thần của Ai Cập được tôn sùng.
Mỗi vị có một bàn thời riêng, thời hình tượng hoặc vẽ hoặc tạc trên đá, nhưng tựu trung thì thần Osiris giữ một ưu thế tuyệt đối và một cấp bậc cao hơn tất cả. Bảy nơi thánh điện xây bằng những tản đá lớn được dành cho các vị thần Horus và Isis, Ptah và Harakht cùng những đấng thần minh khác.
Nữ thần Isis mang tấm màn thưa che mặt, tức nữ thần Minh Triết, được hình dung tại đây với vẻ hiền từ của một đức hiền mẫu, đưa cánh tay mặt ra đặt trên vai của vua Pharaon sùng tín. Một bên ngài là chiếc thuyền bát nhã, giữa thuyền có đặt một bàn thờ chạm hình hoa sen, dòng nước dợn sóng sẵn sàng đưa nữ thần lên tận cảnh giới Thiên Đường cực lạc là nơi cư ngụ của các đấng thần minh, các vị nữ thần và những người trần gian được các ngài ban ân huệ.
Trước cảnh tượng này, người du khách sẽ ngạc nhiên tự hỏi sao người cổ Ai Cập lại có thể quá ngây ngô để chấp nhận những sự tin tưởng đó, những vị thần nay đã hoàn toàn biệt tích và những con thuyền bát nhã linh thiêng chở các đấng ấy lên Trời.
Thật ra những chiếc thuyền ấy chỉ là những biểu tượng, yếu tố của một thứ ngôn ngữ huyền bí mà các đạo gia ưu của thời xưa hiểu được dễ dàng nhưng thế giới hiện đại không thể nào hiểu nổi. Còn những đấng thần minh, đó không phải chỉ là những điều hư giả.
Trong cái vũ trụ vô biên vô tận của Thượng Đế, có những cảnh giới dành cho những nhân vật khác hẳn và tiến hóa cao hơn loài người. Nếu trải qua thời gian tên họ và hình dáng của những vị ấy tiến hóa và thay đổi, thì tính chất căn bản của họ vẫn giữ nguyên vẹn, bất biến.
Tôi đồng ý với Plutarque khi ông ta nói rằng: "Chỉ có bấy nhiêu vị thần chung cho tất cả mọi dân tộc khác nhau, dù là dân Hy Lạp hay dân tộc dã man cũng vậy. Cũng như mặt trời, mặt trăng, các bầu tinh tú, trời cao, đất rộng, biển cả là của chung của muôn loài, thì những đấng thần minh cũng là sở hữu chung của tất cả mọi người, dẫu rằng mỗi quốc gia hay dân tộc đặt cho các đấng ấy những cái tên khác nhau."
Nếu những đấng ấy lọt ra ngoài tầm nhãn quang của chúng ta, công trình của họ vẫn không phải là đã chấm dứt. Họ hoạt động trên những cõi vô hình mà chúng ta không nhìn thấy, nhưng chúng ta vẫn ở trong vòng ảnh hưởng của họ. Họ luôn luôn dòm ngó đến bầu thế giới được giao phó cho họ săn sóc chăm nom.
Họ vẫn tiếp tục kiểm soát, điều khiển sự tiến hóa của nhân loại, dẫu rằng họ không còn xuất hiện dưới thế gian. Tôi tin nơi các đấng thần minh, cũng như người cổ Ai Cập.
Tôi cho các đấng ấy là một tập đoàn gồm những bậc siêu nhân loại, có sứ mạng trông nom điều khiển vận mạng, và dìu dắt những hoạt động chính yếu của các dân tộc, và sau cùng, hướng dẫn từng cá nhân và từng sự việc thế gian đi đến cứu cánh hoàn hảo và toàn diện.
Bảy thánh điện trong ngôi đềnAbydos đã chứng minh người xưa đã từng dùng lửa và nước, dâgn hương và có những nghi thức lễ bái cầu nguyện. Những cuộc hành lễ này có tính cách thời hình tượng hoặc có tính cách tâm linh tùy theo quan niệm và ý đồ của những người hành lễ.
Người nào cho rằng những nghi thức cúng tế bề ngoài là đủ thay thế cho đạo đức, rơi vào sự mê tín dị đoan. Người nào dùng nghi thức lễ bái như những biểu tượng để nhắc nhở, khiêu gợi lòng sùng tín và lòng hy sinh mà y muốn hiến dâng suốt đời cho đấng Tạo Hóa, sẽ tăng tiến đạo hạnh trong nền tôn giáo chân chính. Còn vị tăng lữ dùng những nghi lễ của khoa pháp môn cổ truyền, thì gánh lấy một trách nhiệm rất lớn, vì y có thể kêu gọi đến những mảnh lực vô song thuộc về quyềnh năng của ác quỷ hay của Thiên Thần.
Kẻ phàm tục không hề được phép đột nhập vào nơi thánh điện tôn nghiêm này, mà những bàn thời thếp vàng lóng lánh hồi thời cổ xưa, nay đã biệt tích. Trong phần nhiều những đền cổ Ai Cập mà chỉ có giai cấp tăng lữ là đóng vai trò cốt yếu. Những vị tăng lữ này đã từng tranh thủ và chiếm giữ uy quyền trong lúc thhịnh thời, sau cùng đã mất hết cả ảnh hưởng đối với dân chúng khi nền tôn giáo cổ bắt đầu suy tàn.
Thời gian đem đến với nó những sự biến thiên lạ lùng, chiếc hòm đá của nhà vua Pharaon sáng lập ra ngôi đền này, cổ quan tài đựng xác ướp của vua Seti, ngày nay đang nằm ở cách Abydos trên ba nghìn dậm đường, trong một cổ tàng viện ở giữa thành phố Luân Đôn náo nhiệt phồn hoa. Tôi nghĩ rằng nếu thi hài nhà vua này được chôn sâu hơn độ ba mươi thước nữa dưới lòng đất, thì có lẽ xác ướp của ông ta đã tránh khỏi cái lộ trình từ Ai Cập sang Anh Quốc.
Tôi đến ngồi dưới bóng mát của gian phòng có nhiều cột. Tục truyền rằng chính Abydos là nơi mà Osiris, bậc thánh nhân thời cổ Ai Cập, được tẩm liệm và chôn cất trong nghĩa địa của nhà vua Thinis, một thành phố ngày xưa được dựng lên ở tại đó nhưng nay đã biệt tích.
Vua Neferhotep cho biết rằng ông đã khám phá ra Abydos trong tình trạng điêu tàn khi lên ngôi vua Pharaon. Ông cho biết rằng ông đã sưu tầm trong thư viện thành Heliopolis để tìm ra những tài liệu nói về ngôi đền Osiris ngày xưa được dựng lên ở Abydos. Ông nói thêm rằng sau khi nghiên cứu những tài liệu cổ xưa ấy, ông đã có thể phục hồi lại những nghi lễ đã mất.
Những vì vua kế nghiệp ông sau đó đã dùng tài liệu này để sửa sang lại những chỗ hoang tàn, xây cất lại ngôi đền và cất thêm nhiều kiếntrúc mới chung quanh. Như thế, những đền đài cổ đã được dựng lên trong thành Thinis, nhưng thời gian đã tàn phá tất cả.
Trong thời kỳ sơ khai của xứ cổ Ai Cập, những nghi lễ huyền bí của Orisis là một nghi thức chính đại của nến tôn giáo cổ, và người ta thực hành những nghi lễ này trước tiên tại Abydos. Bởi đó, nơi này, ngày xưa là một trong những thánh địa thiên liêng nhất.
Tôi hiểu rằng chính cái bầu không khí cổ xưa đó hãy còn phảng phất đâu đây và gây cho tôi một ấn tượng sâu xa, trong khi tôi vẫn dửng dưng đối với những nghi thức trịnh trọng mà người ta vẫn thực hành hằng ngày trong những tòa thánh diện rất tráng lệ nhưng kém cổ xưa của vua Seti dựng lên.
Lịch sử buổi sơ khai của thánh địa Abydos có liên hệ mật thiết với tiểu sử của Osiris và thục lùi trong vực thẳm của thời gian về thời kỳ tiền sử của Ai Cập, một cái dĩ vãng xa xăm không còn dấu vết trước cả thời kỳ xuất hiện của các vì vua Pharaon, nghĩa là từ thuở ban đầu. Đó là cái thời kỳ xa xưa mà các đấng thần minh vẫn còn chưa biệt dạng khỏi tầm nhãn quang của con người, cái thời kỳ mà theo các sử gia Ai Cập, những bậc Thánh Vương hãy còn cầm quyền cai trị dân gian.
Tôi nghĩ rằng: Thật là huyền diệu thay! Những luồng từ điển huyền bí vẫn tiếp tục rung động một cách thường xuyên ở tại đây, luôn luôn sống động và duy trì cái bầu không khí thần diệu của thánh địa Abydos từ thời tiền sử, mà những tâm hồn nhạy cảm mà có thể cảm xúc được.
Chính tại đây, Abydos, là nơi được thành lập ngôi đền chính và đầu tiên để thời thần Osiris tại Ai cập. Nhưng Osiris là ai? Truyền thuyết và huyền thoại nói rằng đó là một nhân vật bị sát hại và phân thây, nhưng về sau những mảnh thi hài được chấp nối lại làm cho người sống lại.
Tôi đã thiền định rất lâu để tìm hiểu vấn đề này và đợi câu trả lời ... Lời giải đáp đã đến với tôi từ cái im lặng chôn sâu tự muôn đời trong dĩ vãng:
Hồi thời kỳ Atlantide, một vị Thánh Vương đã tiên liệu cần phải xây dựng một nơi cư trú mới cho những người đạo đức tâm linh trong giới thế hệ trẻ, và đã di cư cho họ về hướng đông, trên một vùng đất gọi là xứ Ai Cập ngày nay.
Vị Thánh Vương ấy đã biến hóa rất cao đến một trình độ siêu nhân loại, tức trình độ của các bậc thần tiên, bởi đó ngài không những là một nhà lãnh đạo cai trị dân gian như người ta hiểu theo lối thường tình của thế nhân, mà người ta còn suy tôn ngài như thầm thánh.
Ngài mới sắp đặt cuộc di cư cho những phần tử ưu tú đó ra khỏi lục địa, trong khi châu Alantide đang đạt tới mức văn minh tột đỉnh, vì những đấng Thần Minh đã bắt đầu chuẩn bị những vùng đất mới từ lâu trước khi châu Atlantide bị thiên tai và biệt tích.
Như thế, không để cho châu Atlantie sụp đổ, nhiều đoàn người trong số những phần tử u tú nhất bắt đầu tản cư. Những người ở miền tây châu ấy di cư sang vùng Trung Mỹ và Nam Mỹ châu, còn những người thuộc các đế quốc miền đông châu Atlantide di cư sang Phi Châu, và đặt nền tảng cho văn minh Ai Cập.
Những người ấy sửa soạn tàu bè, trương buồm lướt sóng trực chỉ hướng đông. Vùng này đối với họ hãy còn xa lạ, họ đến đó khai phá đất hoang và thiết lập nhiều vùng thuộc địa mới trên những điểm khác nhau dọc theo miền duyên hải Âu Phi.
Đoàn người do sự điều khiển trực tiếp của Osiris đặt chân lên vùng đất Ai Cập thời tiền sử, họ dừng chân trên các vùng bờ biển trước khi đi ngược dòng sông Nil, vượt qua ba ngọn Kim Tự Tháp và thần tượng Sphinx, những ngôi kiến trúc và tượng đá này đã được xây cất và bỏ sót lại do đoàn người Atlantide đầu tiên đổ bộ lên Ai Cập.
Sau cùng Osiris mới dừng chân tại đó, ở một vùng cách không xa vị trí thành Abydos hiện tại. Đoàn người di cư này thấy miền Bắc Ai Cập đã có một giống thổ dân bản xứ cư ngụ, họ được một nhóm dân này tiếp đón một cách hiền hòa, và vì đoàn người Atlante có một nền văn minh cao hơn, nên được dân bản xứ chịu khuất phục và chịu điều khiển. Do đó mới phát sinh ra nền Ai Cập đầu tiên.
Trước khi từ giả dân chúng, Osiris đã đặt ra những nghi lễ tôn giáo thuộc về Huyền Môn mà ngài để lại cho dân Ai Cập như một cái di sản dài hạn, để duy trì tên tuổi, công nghiệp và giáo lý của ngài.
Như vậy dân Ai Cập thời tiền sử đã có một nền văn minh và văn hóa trước khi thành phố Luân Đôn mới ngoi lên giữa bãi sình lầy nước đọng. Nhiều thế kỷ trôi qua, đã đến lúc mà người ta phải phục sinh và chấn chỉnh lại nền tôn giáo cổ Osiris. Khi đó mới xuất hiện một bậc giáo chủ, một vị thánh nhân danh hiệu là Thoth, ngài lập ra thành Sais một trung tâm mới để dạy khoa Huyền Môn của Osiris cho những tập đoàn dân bổ xứ của Ai Cập thời tiền sử.
Nhưng còn chuyện huyền thoại về việc Osiris bị sát hại do đâu mà ra? Tôi không thể tìm ra một câu trả lời trực tiếp. Bởi vậy tôi dành cho nó một cơn thiền định sau này.
Tôi đành đứng dậy sửa soạn ra về. Tôi bước qua những tản đá lớn nhỏ không đều mà mặt đá đã mòn từ lâu. Ngày xưa, những mặt đá này có chạm trỗ bông hoa rất đẹp, nhưng bây giờ thời gian đã xóa mờ tất cả.
Tôi còn nhìn một lần cuối cùngnhững cột trụ to lớn hùng vĩ, đầu cột trụ nhô lên cao, đã từng nâng đỡ suốt bao nhiêu thế kỷ những tản đá lớn chạm trỗ trên nóc, và nay vẫn còn vương mình đỡ lấy nóc đền một cách hùng dũng, oai nghi. Thế là cuộc thăm viếng của tôi ở ngôi đền cổ kết thúc.
Đó là thánh địa Abydos, được coi như là nơi an nghỉ cuối cùng của bậc Thánh Nhân Osiris, nhưng thật ra thì đó là ngôi đền đầu tiên để làm lễ điểm đạo cho các vị môn đồ của phái Huyền Môn thời cổ Ai Cập.
Tôi đã tìm được một nơi thích thú, vì tôi biết rằng cái niềm an tĩnh thiêng liêng bất diệt của nó đã xâm chiếm lấy hồn tôi như một bàn tay vô hình.
Nếu trong những giờ phút qua mau của cuộc đời, tôi đã có đôi khi sống được dài khoảnh khắc bất diệt mà tôi hằng nhớ đời đời không quên, thì chỉ khi đó tôi ý thức rằng tôi đã không sống một cách vô ích. Ấy là những giờ phút mà tôi đã trải qua tại Abydos.
NIỀM AN TĨNH CỦA THÁNH ĐỊA ABYDOS
CHƯƠNG SÁU
Trên bảy ngàn năm trước khi đức giáo chủ Mahomet đem cho những bộ lạc du mục xứ Ả Rập cái đức tin nơi một đấng thượng đế hoàn toàn siêu linh, thì xứ ấy đã từng có một nền tôn giáo cổ thờ những thần tượng không lồ bằng đá mà về sau đức Mahomet chủ trương phải dẹp bỏ.
Tuy vậy những tín đồ ưu tú nhất của nền tôn giáo cổ xưa đó thật ra cũng chỉ tôn sùng một vị thượng đế như đức Mahomet đã khởi xướng. Sự tín ngưỡng của họ không phải chỉ là tôn thờ thần tượng mà thôi.
Những nhà Ai Cập học uyên bác ngày nay không thể biết nhiều hơn về một tôn giáo thuộc về tiền sử có rất ít tài liệu đến nỗi không ai có thể vén tấm màn bí mật của nó, và người ta chỉ còn đưa ra những giả thuyết về những nhân vật và những sự việc xảy ra vào một thời kỳ quá khứ xa xăm như thế.
Tại một vài nơi ở Ai Cập, những đến thờ cổ xưa và những ngôi đền Hồi Giáo ở gần sát bên nhau, chẳng hạn như tại Louqsor. Về điểm này, xứ Ai Cập cho ta thấy một sự tương phản lạ lùng. Đã bao lần những đoàn kỵ binh hùng dũng của đạo binh xâm lăng Ả Rập đã từng cắm ngọn cờ xanh màu lục của đấng tiên tri khắp xứ Ai Cập.
Thời gian trôi qua, ngọn cờ màu lục đã có lúc chuyển qua các ngọn cờ màu hồng, màu trắng, màu xanh dương, rồi lại tái xuất hiện. Nhưng trong cái bối cảnh ở tận đằng sau, vẫn còn rên rỉ tiếng còi yếu ớt trong những ngôi đền cổ.
Xứ Ai Cập không thể làm mất đi những dấu vết của nền tôn giáo cổ của họ. Dĩ vãng, giống như con chim phụng hoàng, luôn luôn xuất hiện thình lình trước mắt ta do công trình đào xới của các nhà khảo cổ. Những di tích thần tượng bằng đá nhắc lại những thời đại cổ xưa, mà người đời không còn biết đến nữa.
Tuy nhiên, cái ranh giới giữa dĩ vãng và hiện tại vẫn còn mơ hồ. Những người nhạy cảm đều đồng nhận thấy rằng cái bầu không khí cổ thâm nghiêm cùng sự tín ngưỡng đáng quý của những dân tộc biệt tích đó vẫn còn phản phất một cách sự thật và đè nặng lên xứ này.
Nếu những ngôi đền cổ của họ ngày nay chỉ còn là những di tích hoang tàn, sụp đỗ, làm nơi trú ngụ của những loài dơi vỗ cánh bay lượn trong đêm tối, nếu ở đó nay chỉ còn một vài xác chết đã bị moi ruột, được những nhà chuyên môn thời cổ dùng chất hương liệu ướp xác và tẩm liệm để giữ gìn nguyên vẹn cho đến bây giờ.
Thì dù sao vong hồn của họ cũng còn phản phất không xa những chốn đền đài cổ kín mà xưa kia họ đã từng quen thuộc. Cái mãnh lực, quyền uy của người chết vẫn còn tồn tại ở Ai Cập một cách bền bỉ hơn bất cứ ở xứ nào mà tôi được biết.
Cái dấu vết tinh anh tế nhị đó, tôi lại có dịp nhận thấy khi tôi ngồi xếp bằng ở một chỗ kín đáo bên trong một dãy hành lang nhiều cột trong ngôi đền Seti ở Abydos. Những hình tượng lạ lùng nhìn tôi hoặc biểu dương các tư thế trên vách tường chung quanh. Cái ấn tượng mạnh mẽ của quá khứ xâm chiếm lấy tâm hồn tôi và đưa đến trước mắt tôi những linh ảnh của một thời đại đã bị xóa mờ trong dĩ vãng.
Tôi nhìn thấy một cách vô ý thức những đám rước cổ xưa đi vào đền và tiến bước một cách nhịp nhàng vào những nơi thánh điện. Tôi cản thấy cái quyền uy của những vị tăng lữ kiêm pháp sư thời cổ đã từng làm cho Abydos trở thành một trung tâm tôn thờ thần Osiris, vị thần mà họ hình dung là đội một cái mão có ba ngấn.
Những lời cầu nguyện của họ đã phóng ra những tiếng vang dội đến tận trời xanh và từ thế kỷ này sang thế kỷ khác. Sự hiển diện im lặng và huy hoàng của một đấng thần linh cao cả bắt đầu bao trùm lấy tôi và làm cho tôi ngây ngất.
Dưới đôi cánh che trở của người, tôi thấy rằng cuộc đời thế tục của tôi với những dục vong lăng xăng của nó, bắt đầu mở dần và biến mất như cát trôi qua kẽ ngón tay. Vào thời trước, Strabon đã viết:
- Tại Abydos, người ta thờ thần Osiris, nhưng trong ngôi đền này thì không một nhạc công nào được phép dùng nhạc khí như ống sáo hay đàn dây để mở đầu những nghi lễ cúng tế thần theo nghi thức thông thường trong những cuộc hành lễ tôn giáo.
Sự an tĩnh toát ra từ những vách tường trắng của gian phòng này, một niềm an tĩnh thần tiên mà thế giới bên ngoài không biết được và không thể hiểu. Không phải trong sự náo động ồn ào mà người ta tìm thấy trong những giờ phút tốt đẹp của đời mình, chỉ khi nào sự an tĩnh từ từ lướt nhẹ vào tâm hồn ta, ta mới có được sự hợp nhất thâm thúy với hạnh phúc, minh triết và quyền lực thiêng liêng.
Tôi ngồi một cách thoải mái trong một góc tường, có lẽ giống như một vị tăng lữ thời xưa, một trăm thế hệ trở về trước, và để cho cái ảnh hưởng êm đềm của bầu không khí chung quanh thấm nhuần vào người tôi như một giấc mơ.
Thật là một điều kỳ diệu mà cảm thấy mìng cô lập trong giây lát, quên đi tất những kết quả mà sự văn minh tiến bộ đem đến cho ta. Quên đi sự ích kỷ cố hữu của thế nhân, những sự hiểu lầm không tránh khỏi, những thù ghét vô lý.
Những sự ganh tị đắng cay nó sẽ ngẩng đầu lên như con rắn để phun nọc và mổ vào mình ta, khi ta trở về với cõi thế tục vô minh hắc ám! Tôi tự hỏi: "tại sao người ta phải trở về đấy nhỉ?"
Sự cô đơn dường như là một điều bất hạnh đối với chúng ta, nhưng một sự minh triết thâm sâu dạy cho ta biết nhìn nó như một ân huệ. Chúng ta phải vượt lên đỉnh núi cao tột của những điều mơ ước và hãy tập quen sống trong sự cô đơn.
Bởi vì chúng ta muốn tìm thấy sự sống tâm linh giữa đám đông người, ta sẽ thấy gì? Linh hồn không có ở đó. Nếu ta muốn tìm chân lý hay sự thật, ta chỉ thấy có sự hư giả, dối trá.
Sự ấm áp vốn ngự trong tâm hồn. Người ta có thể trãi qua một buổi dạ hội trong một phòng khách lớn, giữa một nhóm độ ba bốn người, và vẫn thấy mình cô độc như ở trên bãi sa mạc Sahara. Những thân hình có thể ngồi lại gần nhau, những tâm trí họ vẫn cách biệt muôn trùng, và mỗi người vẫn thấy mình cô độc.
Có người mời ta đến nhà vì phép xã giao bắt buộc, theo những lề lối thông thường, chúng ta đến nơi nhưng chủ nhà không có ở đó để tiếp ta. Y chỉ để lại đó có cái xác không hồn, vì biết rằng giữa tâm hồn ta với y có một vực quá sâu thẳm để có thể lấp bằng. Làm quen với một người như thế, thà rằng đừng làm quen nữa còn hơn! Những gì thượng đế đã phân ly, ngăn cách, thì con người chớ khá kết hợp lại!
Tôi đã lên dường để tìm sự bằng an của cõi trời, một cõi giới bao la mà những tin tức thời sự của trần gian không hề lọt vào. Tại sao ta không chịu sống cô đơn và nhận lấy những ân huệ tốt lành của một cuộc đời ẩn dật, thoát ly khỏi những điều phiền não vô ích, ở những nơi vắng vẻ tĩnh mịch như tại ngôi đền Abydos này?
Chúng ta thường khinh rẻ những người bỏ cuộc đời thế tục để đi tìm một đời sống cao thượng hơn, trong khi mà sự ẩn dật của họ chỉ có mụch đích là sẽ trở lại để truyền cho người thế gian một vài điều tốt lành.
Tôi nhớ lại lời cam kết long trọng của tôi với những bậc mà tôi kính trọng, tôi biết rằng sự trở về của tôi là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên điều này không làm cho tôi lo buồn, vì tôi cũng hiểu rằng bao giờ tôi chán nản cuộc đời trần gian, tôi lại có thể trở về với cái nguồn gốc thâm trầm của bản chất tâm linh tôi và lại tìm thấy sự mát mẻ của tâm hồn, ung dung tự tại, bằng an và hạnh phúc.
Thật vậy, trong sự im lặng thiên liêng đó từ trong nội tâm của tôi, tôi có thể rõ ràng nghe tiếng nói của Thượng Đế, cũng như trong cái im lặng thâm trầm của ngôi đền Abydos tôi có thể nghe những tiếng yếu ớt hơn của những đấng thần minh.
Khi ta sống với ngoại cảnh, ta sống giữa những hình bóng hư ảo và những sự băn khoăn, ưu phiền, nhưng khi ta hướng vào bên trong, ta sẽ thấy những chân lý siêu việt và những niềm phúc lạc trường cửu.
Chúng ta đã mất cái nghệ thuật ngồi một mình, chúng ta không còn biết phải làm gì trong những giờ phút cô đơn. Chúng ta không biết tìm hạnh phúc trong cái kho tàng thầm kín của lòng ta, chúng ta phải bỏ tiền ra để mua lấy sự tiêu khiển từ bên ngoài, hoặc trả tiền thù lao cho những kẻ đem cho ta một thú vui giả tạm trong chốc lát.
Không những chúng ta không biết ngồi một mình, mà chúng ta còn không biết giữ im lặng. Nhưng nếu chúng ta biết ngồi im một chỗ trong một thời gian ngắn và sử dụng tâm trí theo một phương pháp nhất định, chúng ta sẽ thu hoạch được một sự minh triết thâm sâu đáng kể, và đem cho tâm hồn ta một sự bằng an tuyệt vời.
Tôi ngồi suốt như thế trong suốt hai tiếng đồng hồ, thời gian trôi qua, tiếng kim đồng tay vẫn chạy đều vọng vào tay tôi, tôi lại mở mắt một lần nữa. Tôi nhìn quanh, những cột trụ lớn và chắc của gian phòng đỡ lấy cái trần nhà dầy đặc. Những tia nắng xuyên qua những lỗ hở trên nóc chiếu vào phòng làm nổi bậc lên những hình tượng các vị thần chạm trổ trên vách.
Người ta thấy một vị vua Pharaon đứng chiêm ngưỡng một vị thần được tôn sùng vào thời đó hoặc được dắt trước tượng thần Osiris. Ngoài ra, còn có những loạt hàng chữ ám tự khắc trên vách, ý nghĩa rất bí hiểm và khó đối với người thường.
Người ta thấy ở khắp nơi hình ảnh của vua Pharaon đang chiêm bái, dâng hương và nhận lãnh ân huệ của các đấng thần minh. Trong một thánh điện đặc biệt, không dành riêng cho sự thời phượng một đấng thần linh nào nhất định, có nhiều vị thần của Ai Cập được tôn sùng.
Mỗi vị có một bàn thời riêng, thời hình tượng hoặc vẽ hoặc tạc trên đá, nhưng tựu trung thì thần Osiris giữ một ưu thế tuyệt đối và một cấp bậc cao hơn tất cả. Bảy nơi thánh điện xây bằng những tản đá lớn được dành cho các vị thần Horus và Isis, Ptah và Harakht cùng những đấng thần minh khác.
Nữ thần Isis mang tấm màn thưa che mặt, tức nữ thần Minh Triết, được hình dung tại đây với vẻ hiền từ của một đức hiền mẫu, đưa cánh tay mặt ra đặt trên vai của vua Pharaon sùng tín. Một bên ngài là chiếc thuyền bát nhã, giữa thuyền có đặt một bàn thờ chạm hình hoa sen, dòng nước dợn sóng sẵn sàng đưa nữ thần lên tận cảnh giới Thiên Đường cực lạc là nơi cư ngụ của các đấng thần minh, các vị nữ thần và những người trần gian được các ngài ban ân huệ.
Trước cảnh tượng này, người du khách sẽ ngạc nhiên tự hỏi sao người cổ Ai Cập lại có thể quá ngây ngô để chấp nhận những sự tin tưởng đó, những vị thần nay đã hoàn toàn biệt tích và những con thuyền bát nhã linh thiêng chở các đấng ấy lên Trời.
Thật ra những chiếc thuyền ấy chỉ là những biểu tượng, yếu tố của một thứ ngôn ngữ huyền bí mà các đạo gia ưu của thời xưa hiểu được dễ dàng nhưng thế giới hiện đại không thể nào hiểu nổi. Còn những đấng thần minh, đó không phải chỉ là những điều hư giả.
Trong cái vũ trụ vô biên vô tận của Thượng Đế, có những cảnh giới dành cho những nhân vật khác hẳn và tiến hóa cao hơn loài người. Nếu trải qua thời gian tên họ và hình dáng của những vị ấy tiến hóa và thay đổi, thì tính chất căn bản của họ vẫn giữ nguyên vẹn, bất biến.
Tôi đồng ý với Plutarque khi ông ta nói rằng: "Chỉ có bấy nhiêu vị thần chung cho tất cả mọi dân tộc khác nhau, dù là dân Hy Lạp hay dân tộc dã man cũng vậy. Cũng như mặt trời, mặt trăng, các bầu tinh tú, trời cao, đất rộng, biển cả là của chung của muôn loài, thì những đấng thần minh cũng là sở hữu chung của tất cả mọi người, dẫu rằng mỗi quốc gia hay dân tộc đặt cho các đấng ấy những cái tên khác nhau."
Nếu những đấng ấy lọt ra ngoài tầm nhãn quang của chúng ta, công trình của họ vẫn không phải là đã chấm dứt. Họ hoạt động trên những cõi vô hình mà chúng ta không nhìn thấy, nhưng chúng ta vẫn ở trong vòng ảnh hưởng của họ. Họ luôn luôn dòm ngó đến bầu thế giới được giao phó cho họ săn sóc chăm nom.
Họ vẫn tiếp tục kiểm soát, điều khiển sự tiến hóa của nhân loại, dẫu rằng họ không còn xuất hiện dưới thế gian. Tôi tin nơi các đấng thần minh, cũng như người cổ Ai Cập.
Tôi cho các đấng ấy là một tập đoàn gồm những bậc siêu nhân loại, có sứ mạng trông nom điều khiển vận mạng, và dìu dắt những hoạt động chính yếu của các dân tộc, và sau cùng, hướng dẫn từng cá nhân và từng sự việc thế gian đi đến cứu cánh hoàn hảo và toàn diện.
Bảy thánh điện trong ngôi đềnAbydos đã chứng minh người xưa đã từng dùng lửa và nước, dâgn hương và có những nghi thức lễ bái cầu nguyện. Những cuộc hành lễ này có tính cách thời hình tượng hoặc có tính cách tâm linh tùy theo quan niệm và ý đồ của những người hành lễ.
Người nào cho rằng những nghi thức cúng tế bề ngoài là đủ thay thế cho đạo đức, rơi vào sự mê tín dị đoan. Người nào dùng nghi thức lễ bái như những biểu tượng để nhắc nhở, khiêu gợi lòng sùng tín và lòng hy sinh mà y muốn hiến dâng suốt đời cho đấng Tạo Hóa, sẽ tăng tiến đạo hạnh trong nền tôn giáo chân chính. Còn vị tăng lữ dùng những nghi lễ của khoa pháp môn cổ truyền, thì gánh lấy một trách nhiệm rất lớn, vì y có thể kêu gọi đến những mảnh lực vô song thuộc về quyềnh năng của ác quỷ hay của Thiên Thần.
Kẻ phàm tục không hề được phép đột nhập vào nơi thánh điện tôn nghiêm này, mà những bàn thời thếp vàng lóng lánh hồi thời cổ xưa, nay đã biệt tích. Trong phần nhiều những đền cổ Ai Cập mà chỉ có giai cấp tăng lữ là đóng vai trò cốt yếu. Những vị tăng lữ này đã từng tranh thủ và chiếm giữ uy quyền trong lúc thhịnh thời, sau cùng đã mất hết cả ảnh hưởng đối với dân chúng khi nền tôn giáo cổ bắt đầu suy tàn.
Thời gian đem đến với nó những sự biến thiên lạ lùng, chiếc hòm đá của nhà vua Pharaon sáng lập ra ngôi đền này, cổ quan tài đựng xác ướp của vua Seti, ngày nay đang nằm ở cách Abydos trên ba nghìn dậm đường, trong một cổ tàng viện ở giữa thành phố Luân Đôn náo nhiệt phồn hoa. Tôi nghĩ rằng nếu thi hài nhà vua này được chôn sâu hơn độ ba mươi thước nữa dưới lòng đất, thì có lẽ xác ướp của ông ta đã tránh khỏi cái lộ trình từ Ai Cập sang Anh Quốc.
Tôi đến ngồi dưới bóng mát của gian phòng có nhiều cột. Tục truyền rằng chính Abydos là nơi mà Osiris, bậc thánh nhân thời cổ Ai Cập, được tẩm liệm và chôn cất trong nghĩa địa của nhà vua Thinis, một thành phố ngày xưa được dựng lên ở tại đó nhưng nay đã biệt tích.
Vua Neferhotep cho biết rằng ông đã khám phá ra Abydos trong tình trạng điêu tàn khi lên ngôi vua Pharaon. Ông cho biết rằng ông đã sưu tầm trong thư viện thành Heliopolis để tìm ra những tài liệu nói về ngôi đền Osiris ngày xưa được dựng lên ở Abydos. Ông nói thêm rằng sau khi nghiên cứu những tài liệu cổ xưa ấy, ông đã có thể phục hồi lại những nghi lễ đã mất.
Những vì vua kế nghiệp ông sau đó đã dùng tài liệu này để sửa sang lại những chỗ hoang tàn, xây cất lại ngôi đền và cất thêm nhiều kiếntrúc mới chung quanh. Như thế, những đền đài cổ đã được dựng lên trong thành Thinis, nhưng thời gian đã tàn phá tất cả.
Trong thời kỳ sơ khai của xứ cổ Ai Cập, những nghi lễ huyền bí của Orisis là một nghi thức chính đại của nến tôn giáo cổ, và người ta thực hành những nghi lễ này trước tiên tại Abydos. Bởi đó, nơi này, ngày xưa là một trong những thánh địa thiên liêng nhất.
Tôi hiểu rằng chính cái bầu không khí cổ xưa đó hãy còn phảng phất đâu đây và gây cho tôi một ấn tượng sâu xa, trong khi tôi vẫn dửng dưng đối với những nghi thức trịnh trọng mà người ta vẫn thực hành hằng ngày trong những tòa thánh diện rất tráng lệ nhưng kém cổ xưa của vua Seti dựng lên.
Lịch sử buổi sơ khai của thánh địa Abydos có liên hệ mật thiết với tiểu sử của Osiris và thục lùi trong vực thẳm của thời gian về thời kỳ tiền sử của Ai Cập, một cái dĩ vãng xa xăm không còn dấu vết trước cả thời kỳ xuất hiện của các vì vua Pharaon, nghĩa là từ thuở ban đầu. Đó là cái thời kỳ xa xưa mà các đấng thần minh vẫn còn chưa biệt dạng khỏi tầm nhãn quang của con người, cái thời kỳ mà theo các sử gia Ai Cập, những bậc Thánh Vương hãy còn cầm quyền cai trị dân gian.
Tôi nghĩ rằng: Thật là huyền diệu thay! Những luồng từ điển huyền bí vẫn tiếp tục rung động một cách thường xuyên ở tại đây, luôn luôn sống động và duy trì cái bầu không khí thần diệu của thánh địa Abydos từ thời tiền sử, mà những tâm hồn nhạy cảm mà có thể cảm xúc được.
Chính tại đây, Abydos, là nơi được thành lập ngôi đền chính và đầu tiên để thời thần Osiris tại Ai cập. Nhưng Osiris là ai? Truyền thuyết và huyền thoại nói rằng đó là một nhân vật bị sát hại và phân thây, nhưng về sau những mảnh thi hài được chấp nối lại làm cho người sống lại.
Tôi đã thiền định rất lâu để tìm hiểu vấn đề này và đợi câu trả lời ... Lời giải đáp đã đến với tôi từ cái im lặng chôn sâu tự muôn đời trong dĩ vãng:
Hồi thời kỳ Atlantide, một vị Thánh Vương đã tiên liệu cần phải xây dựng một nơi cư trú mới cho những người đạo đức tâm linh trong giới thế hệ trẻ, và đã di cư cho họ về hướng đông, trên một vùng đất gọi là xứ Ai Cập ngày nay.
Vị Thánh Vương ấy đã biến hóa rất cao đến một trình độ siêu nhân loại, tức trình độ của các bậc thần tiên, bởi đó ngài không những là một nhà lãnh đạo cai trị dân gian như người ta hiểu theo lối thường tình của thế nhân, mà người ta còn suy tôn ngài như thầm thánh.
Ngài mới sắp đặt cuộc di cư cho những phần tử ưu tú đó ra khỏi lục địa, trong khi châu Alantide đang đạt tới mức văn minh tột đỉnh, vì những đấng Thần Minh đã bắt đầu chuẩn bị những vùng đất mới từ lâu trước khi châu Atlantide bị thiên tai và biệt tích.
Như thế, không để cho châu Atlantie sụp đổ, nhiều đoàn người trong số những phần tử u tú nhất bắt đầu tản cư. Những người ở miền tây châu ấy di cư sang vùng Trung Mỹ và Nam Mỹ châu, còn những người thuộc các đế quốc miền đông châu Atlantide di cư sang Phi Châu, và đặt nền tảng cho văn minh Ai Cập.
Những người ấy sửa soạn tàu bè, trương buồm lướt sóng trực chỉ hướng đông. Vùng này đối với họ hãy còn xa lạ, họ đến đó khai phá đất hoang và thiết lập nhiều vùng thuộc địa mới trên những điểm khác nhau dọc theo miền duyên hải Âu Phi.
Đoàn người do sự điều khiển trực tiếp của Osiris đặt chân lên vùng đất Ai Cập thời tiền sử, họ dừng chân trên các vùng bờ biển trước khi đi ngược dòng sông Nil, vượt qua ba ngọn Kim Tự Tháp và thần tượng Sphinx, những ngôi kiến trúc và tượng đá này đã được xây cất và bỏ sót lại do đoàn người Atlantide đầu tiên đổ bộ lên Ai Cập.
Sau cùng Osiris mới dừng chân tại đó, ở một vùng cách không xa vị trí thành Abydos hiện tại. Đoàn người di cư này thấy miền Bắc Ai Cập đã có một giống thổ dân bản xứ cư ngụ, họ được một nhóm dân này tiếp đón một cách hiền hòa, và vì đoàn người Atlante có một nền văn minh cao hơn, nên được dân bản xứ chịu khuất phục và chịu điều khiển. Do đó mới phát sinh ra nền Ai Cập đầu tiên.
Trước khi từ giả dân chúng, Osiris đã đặt ra những nghi lễ tôn giáo thuộc về Huyền Môn mà ngài để lại cho dân Ai Cập như một cái di sản dài hạn, để duy trì tên tuổi, công nghiệp và giáo lý của ngài.
Như vậy dân Ai Cập thời tiền sử đã có một nền văn minh và văn hóa trước khi thành phố Luân Đôn mới ngoi lên giữa bãi sình lầy nước đọng. Nhiều thế kỷ trôi qua, đã đến lúc mà người ta phải phục sinh và chấn chỉnh lại nền tôn giáo cổ Osiris. Khi đó mới xuất hiện một bậc giáo chủ, một vị thánh nhân danh hiệu là Thoth, ngài lập ra thành Sais một trung tâm mới để dạy khoa Huyền Môn của Osiris cho những tập đoàn dân bổ xứ của Ai Cập thời tiền sử.
Nhưng còn chuyện huyền thoại về việc Osiris bị sát hại do đâu mà ra? Tôi không thể tìm ra một câu trả lời trực tiếp. Bởi vậy tôi dành cho nó một cơn thiền định sau này.
Tôi đành đứng dậy sửa soạn ra về. Tôi bước qua những tản đá lớn nhỏ không đều mà mặt đá đã mòn từ lâu. Ngày xưa, những mặt đá này có chạm trỗ bông hoa rất đẹp, nhưng bây giờ thời gian đã xóa mờ tất cả.
Tôi còn nhìn một lần cuối cùngnhững cột trụ to lớn hùng vĩ, đầu cột trụ nhô lên cao, đã từng nâng đỡ suốt bao nhiêu thế kỷ những tản đá lớn chạm trỗ trên nóc, và nay vẫn còn vương mình đỡ lấy nóc đền một cách hùng dũng, oai nghi. Thế là cuộc thăm viếng của tôi ở ngôi đền cổ kết thúc.
Đó là thánh địa Abydos, được coi như là nơi an nghỉ cuối cùng của bậc Thánh Nhân Osiris, nhưng thật ra thì đó là ngôi đền đầu tiên để làm lễ điểm đạo cho các vị môn đồ của phái Huyền Môn thời cổ Ai Cập.
Tôi đã tìm được một nơi thích thú, vì tôi biết rằng cái niềm an tĩnh thiêng liêng bất diệt của nó đã xâm chiếm lấy hồn tôi như một bàn tay vô hình.
Nếu trong những giờ phút qua mau của cuộc đời, tôi đã có đôi khi sống được dài khoảnh khắc bất diệt mà tôi hằng nhớ đời đời không quên, thì chỉ khi đó tôi ý thức rằng tôi đã không sống một cách vô ích. Ấy là những giờ phút mà tôi đã trải qua tại Abydos.
#66
Gửi vào 08/06/2011 - 11:48
AI CẬP HUYỀN BÍ
LỄ ĐIỄM ĐẠO HUYỀN BÍ TRONG ĐỀN CỖ AI CẬP
CHƯƠNG BẢY
Câu trả lời mà tôi tìm kiếm để giải đáp sự bí hiểm của câu chuyện huyền thoại về cái chết của Osiris, tôi đã thấy được sau khi đi ngược dòng sông Ni lđể khảo cứu về ngôi đền nữ thần Hathor ở Denderad. Ngôi đền này rất lớn và được giữ gìn nguyên vẹn, nhờ nó bị hoàn toàn chôn vùi dưới lớp cát mịn và nóng của sa mạc suốt hơn một nghìn năm. Từ hướng Bắc, tôi trèo lên một cầu thang rất hẹp và đã mòn.
Dọc đường thỉnh thoảng tôi ngừng lại để nhìn xem, dưới ánh đuốc cầm nơi tay, những cảnh tượng chạm trổ trên vách tường. Đó là một cảnh tượng một đám rước lễ quan trọng nhất của đền Denderad vào lúc đầu năm, chính vua Pharaon đích thân dẫn đầu cuộc diễn hành.
Các vị tăng lữ, vị tăng lữ, tư tế của phái Huyền Môn, những người cầm cờ nối tiếp nhau đi trên vách tường cũng như họ đã từng diễn hành như thế hồi thuở sanh tiền, và đi từ dưới lên trên chính cái cầu thang này.
Lên khỏi cầu thang, tôi đã ra khỏi bóng tối để ra chỗ đầy ánh nắng chói lòa và xuyên qua những tản đá khổng lồ của nóc đền, tôi đến trước một thánh điện nhỏ đứng cô lập một mình trong một góc của nốc bằng. Nóc đền được nâng đỡ bằng những cột trụ lớn có chạm hình nữ thần Hathor.
Tôi bước vào và nhận ra đó là một thánh điện mà xưa kia người ta dùng để hành lễ điểm đạo theo khoa Huyền Môn của Osiris cho đến thời đại các vị vua Ptolémée. Trên tường, những hình chạm nổi phô diễn đức Osiris nằm trên giường, chung quanh là những người trợ tá để giúp đỡ những việc vặt và những lò hương trầm.
Những hàng chữ ám tự và tranh ảnh thuật lại lịch sử sự chết và sự phục sinh của Osiris, và những chữ khắc trên tường ghi lại những lời cầu nguyện từng giờ suốt một đêm mười hai giờ.
Tôi ngồi xuống đất, tức là nóc bằng của ngôi đền lớn, và bắt đầu thiền định về câu chuyện huyền thoại cổ xưa. Sau khi đã ngồi yên khá lâu trong cơn trầm tư mặc tưởng, tôi bắt đầu tìm ra manh mối sự thật mà trải qua nhiều thế kỷ, nó đã biến thành một câu chuyện huyền thoại ly kỳ: Osiris bị phân thây và sau đó được ráp lại từng mảnh.
Do đâu mà tôi có cái chìa khóa của bài toán đố bí hiểm này? Do một sự nhớ lại thình lình. Tôi nhớ lại lúc tôi ngồi trong Vương Cung bên trong Kim Tử Tháp lớn, khi mà từ trong bóng tối dầy đặc, hiện ra cái linh ảnh cho tôi thấy hai vị Đạo Trưởng Ai Cập đã cao niên, một trong hai vị này đã làm cho thể xác tôi mê thiếp đi và đưa linh hồn tôi vào một trạng thái ý thức rõ ràng.
Trên thực tế, thể xác hôn mê của tôi lúc đó đã hoàn toàn vô tri giác, sự sống chỉ còn tồn tại là do một sự hô hấp vô ý thức, còn linh hồn thì đã thoát ra ngoài. Tôi chỉ là một người chết, mà linh hồn đã từ bỏ thể xác.
Nhưng, khi kinh nghiệm ấy chấm dứt, tôi đã hồi sinh trở lại và trạng thái chết giả cũng không còn. Phải chăng đó quảù là một sự phục sinh hẳn hòi, một sự tái sinh trở lại đời sống phàm trần sau khi đã nhìn xem cõi giới bên kia? Phải chăng đó là một sự sống trong cõi vô hình?
Tôi đứng dậy nhìn xem một lần nữa những hình ảnh trên tường để xác định lại điều ấy. Osiris nằm duỗi thẳng thân mình, dường như đã chết, xem giống như một xác ướp và liệm vào hòm. Tuy nhiên, tất cả những chi tiết cho thấy sự chuẩn bị một nghi lễ dành cho người sống chứ không phải cho người chết: Thể xác hôn mê, những vị tăng lữ hành lễ, những bình lư hương để làm cho mê thiếp đi.
Những cuộc lễ điểm đạo này luôn luôn được cử hành vào lúc ban đêm. Người thí sinh được đặt trong trạng thái xuất thần trong một thời gian dài ngắn không chừng, trình độ điểm đạo càng cao thì cơn xuất thần của y càng dài và càng sâu hơn. Những vụ tăng lữ canh chừng y suốt những giờ ban đêm dành cho cuộc hành lễ này.
Đó là cảnh tượng thường diễn ra trong những cuộc lễ điểm đạo Huyền Môn từ những thời đại cổ xưa trong dĩ vãng. Nó có ý nghĩa gì? Sự Sát Hại Osiris tức là việc đặt người đạo đồ trong một trạng thái chết giả, nghĩa là trong sự kết hợp tâm linh với Osiris, người sáng lập ra tổ chức Huyền Môn này.
Lối kiến trúc các ngôi đền cổ đều theo một kế hoạch song đôi, mỗi ngôi đền đều có hai phần, một phần dành cho những hoạt động tôn giáo thông thường, một phần dành cho những cuộc lễ điểm đạo Huyền Môn. Phần sau này hoàn toàn được ngăn ra thành một chỗ riêng biệt trong đền.
Bằng phương pháp thôi miên, gồm có việc xử dụng những chất hương liệu rất mạnh, dùng hai bàn tay truyền nhân điện dọc theo thân mình, cùng với việc xử dụng một chiếc đủa thần, người thí sinh được đưa vào một trạng thái đồng thiếp làm cho y mê man bất tỉnh như người chết.
Xác thân y tê liệt, nhưng linh hồn y vẫn tỉnh táo và nối liền với thể xác bằng một sợi dây từ điển vô hình mà chỉ vị chủ lễ điểm đạo có thần nhãn mới nhìn thấy được. Như vậy mặc dù mọi hoạt động thể xác đã ngưng, nhưng nguồn sinh lực vẫn tồn tại.
Tất cả ý nghĩa và mục đích của cuộc điểm đạo này là để dạy cho người thí sinh biết rằng vốn không có sự chết. Người thí sinh được truyền thụ cái chân lý đó bằng một phương pháp rõ ràng và thật tế nhất, nghĩa là bằng cách làm cho y kinh nghiệm qua chính bản thân mình mọi diễn biến khách quan của sự chết, bằng cách dùng một phương pháp huyền bí để đưa y lọt vào cõi giới bên kia.
Cơn đồng thiếp của y thâm sâu đến nỗi người ta đặt y trong một cái hòm đựng xác ướp có vẽ tranh ảnh và khắc chữ bên ngoài, nắp hòm được đóng chặt và khóa lại cẩn thận. Xét về bên ngoài, thì y là người đã chết!
Nhưng khi cơn đồng thiếp của y hết kỳ hạn, người ta mở nắp hòm ra, và bằng những phương tiện thích nghi, y được làm cho tỉnh dậy. Đó là ý nghĩa của lời huyền thoại tượng trưng nói rằng những mảnh xác bị tách rời của Osiris được ráp nối và làm cho ngài được hồi sinh. Sự phục sinh bí hiểm và hoang đường của Osiris không khác gì hơn là sự tỉnh dậy của người đệ tử Huyền Môn sau cuộc lễ Điểm Đạo.
Tòa thánh điện mà tôi đang quan sát, ngày xưa đã từng là nơi chứng kiến bao nhiêu những cuộc hạ sát và những cuộc phục sinh như đã diễn tả ở trên. Hồi thời đó, trong phòng có một cái giường và những vật liệu cần thiết cho cuộc điểm đạo.
Khi người thí sinh đã trải qua trạng thái đồng thiếp và sắp sửa được đánh thức dậy, người ta chở y đến một nơi thoáng khí để cho những tia nắng đầu tiên của mặt trời mọc lúc bình minh rọi thẳng vào gương mặt còn mê man của y.
Trong những thời đại cổ xưa nhất, nhiề vị tăng lữ cao cấp nhất và tất cả những vị tư tế ở các đền thờ bên Ai Cập đều có sự hiểu biết thâm sâu về những điều huyền bí của các khoa thôi miên và từ điển, và có thể đặt những người thí sinh vào một cơn đồng thiếp thâm sâu đến nỗi dường như họ đã chết.
Những vị tăng lữ thượng tọa còn có thể làm hơn thế nữa, hơn cả những nhà thôi miên hiện đại, vì những vị ấy biết phương pháp làm cho linh hồn người thí sinh vẫn thức tỉnh trong khi thể xác của y nằm trong cơn đồng thiếp, làm cho y thực hiện được những kinh nghiệm siêu phàm, mà y sẽ nhớ lại được sau khi y tỉnh dậy và trở về trạng thái bình thường.
Bằng cách đó, họ có thể đem người thí sinh sự hiểu biết về tính chất của linh hồn, và khi bắt buộc linh hồn y tạm thời rút lui ra khỏi thể xác, họ làm cho y nhận thức được sự hiện hữu củ cõi thế giới bên kia cửa Tử, mà những hình ảnh trên hòm được xác ướp có vẽ những biểu tượng đầy ý nghĩa.
Bởi đó, người cổ Ai Cập khắc trên nắp những cổ quan tài bằng đá, hoặc vẽ bằng màu trên những hòm đựng xác ướp, hoặc tô điểm ngoài bìa những kinh sách tôn giáo của họ những hình chim dị kỳ, bay ra khỏi hoặc đứng trên cái xác ướp. Đó là một con chim có đầu người và tay người, thường được hình dung một tay cầm một cánh buồm, tượng trưng cho hơi thở, và tay kia cầm một hình thập tự cuốn tròn, tượng trưng cho sự sống.
Những biểu tượng này dù khắc trên đá hay vẽ trên giấy, đều ngụ ý tượng trưng dạy cho ta biết rằng ngoài cõi phàm trần vật chất này còn có một cõi giới tâm linh. Trong quyển sách Tử Thư (sách của người chết) có chỗ đề cặp đến những người chết, nhưng thật ra đó là nói về những người chết giả, nằm mê trong cơn đồng thiếp, vô tri bất động như ngươi chết thật, và linh hồn đã đi qua một kẻ khác.
Đoạn sách ấy đề cập đến cuộc điểm đạo. Cõi giới bên kia đi xuyên qua cõi trần một cách huyền diệu, và những vong linh ở cõi ấy có thể ở gần bên chúng ta. Một từ ngữ khoa học nói rằng trong thiên nhiên vốn không có gì mất đi đâu. Khi một người từ bỏ cõi trần, bỏ lại cái thể xác vô tri bất động, linh hồn y lại xuất hiện trên cõi vô hình, vô hình đối với mắt phàm chúng ta, nhưng hữu hình đối với những nhân vật tinh anh trên đó.
Tuy rằng phương pháp điểm đạo này có những đặc tính bề ngoài giống như khoa thôi miên hiện đại, nhưng nó vượt rất xa những phương pháp thôi miên, vì khoa này chỉ thức động đến chỗ tiềm thức, mà không thể làm cho đương sự có ý thức được sự sinh hoạt trên các cõi giới thâm sâu huyền diệu hơn.
Theo sự tin tưởng của quần chúng, thì Osiris là một nhân vật đã chịu pháp nạn và bị giết, rồi được phục sinh và chui lên khỏi mồ. Tên của ngài đã trở nên đồng nghĩa với sự hồi sinh, sự bất tử của ngài gây cho mọi người một niềm hy vọng trở nên bất tử y như người sau khi chết.
Hồi thời ấy, người ta đã tin tưởng ở sự bất diệt của linh hồn và ở đời sống bên kia nấm mồ. Người ta cũng tin rằng trong khi con người bước vào đời sống mới đo, những đấng thần minh xét đoán linh hồn và duyệt xét lại những hành động thiện ác của y trong quá khứ.
Kẻ dữ sẽ bị trừng phạt thích dáng, người hiền sẽ được và cảnh thiên đàng hạnh phúc, và hợp nhứt với Osiris. Những điều đó khá thích hợp với quần chúng và đem đến cho những tâm hồn chất phác những viễn ảnh mà họ có thể quan niệm được dễ dàng. Người ta không nhồi sọ dân chúng với những triết lý thâm sâu hoặc những giải thích tế nhị về tâm lý.
Tất cả những huyền thoại hoang đường và chuyện ngụ ngôn bình dân phải được hiểu như là những biểu tượng có hàm xúc một ý nghĩa hợp lý và chứa đựng một chân lý thâm sâu. Để duy trì cho giáo lý ấy luôn luôn tồn tại trong dân gian, giai cấp tăng lữ trong trong các đền thờ không những chỉ dùng nghi thức lễ bái thờ phượng, mà thỉnh thoảng còn tổ chức những buổi trình diễn kịch nghệ công cộng có tính cách tượng trưng dể trình bày cho dân chúng biết lịch sử của Osiris.
Những nghi thức lễ bái và trình diễn công cộng là để dành cho quần chúng vì nó thích hợp với phần đông, nhưng có còn một phần giáo lý thâm sâu hơn và pháp môn huyền bí thì để truyền thụ cho những người trí thức. Những người Ai Cập có học thức, có văn hóa và những người có giai cấp quý tộc cũng biết rõ điều ấy, nếu họ cảm thấy có khuynh hướng về con đường này thì họ tìm cách để xin được nhập môn.
Các ngôi đền gồm có những gian phòng kiến trúc đặc biệt và cô lập một nơi dành cho những cuộc lễ điểm đạo, mà chỉ có những vị tăng lữ ưu tú và chọn lọc mới có quyền hành lễ, những người này được gọi là Đạo Trưởng hay Thượng Tọa. Những cuộc lễ Điểm đạo này được cử hành trong vòng bí mật và ngoài phạm vi những nghi lễ hằng ngày để chiêm bái các vị thần. Người Ai Cập gọi những cuộc lễ đặc biệt này là những lễ Điểm Đạo Huyền Môn.
Những vị đạo đồ (đệ tử Huyền Môn đã được điểm đạo, Initié) đã từng nói đến tính cách khác thường của những cuộc điểm đạo, không giống như những nghi lễ thông thường. Thí dụ, một vi đạo đồ đã tuyên bố rằng" nhờ những lễ điểm đạo mà người ta biết rằng sự chết không phải là một điều dở mà là một điều hay cho người thế gian".
Chính vì vị đạo đồ ấy đã trở nên một xác chết và đã thu hoạch được những điều lợi ích rất lớn sau cái kinh nghiệm đó. Những bài văn viết bằng chữ ám tự nói về người ấy như là" được hồi sinh", và y có thể thêm vào tên họ của y dòng chữ này: "Người đã tái sinh hai lần". Trên vài ngôi mộ cổ, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra câu này, nó diễn tả trình độ tâm linh của người chết.
Những vị môn đồ chọn lọc đã học được những điều bí mật gì trong những cuộc điểm đạo ấy? Điều nay tùy nơi trình độ mà họ đã vượt qua, nhưng đại khái người ta có thể đúc kết những kinh nghiệm của họ thành hai loại kết quả chính, tiêu biểu những gì họ đã được tiết lộ cho biết.
Ở những trình độ sơ khai, các thí sinh được hiểu biết về Tiểu Ngã, tức linh hồn con người mà khoa ám tự hình dung bằng một "Người chim" nhỏ, do đó họ đã giải đáp được điều bí mật về sự chết.
Họ biết rằng người ta chỉ thoát ra một trạng thái sinh hoạt này để bước vào một trạng thái sinh hoạt khác, và sự chết chỉ là của thể xác hình hài chứ không tiêu diệt được linh hồn, tức Chân Ngã. Họ cũng biết rằng không những linh hồn còn tồn tại sau khi cái thể xác đã mất còn tiến hóa lên những cõi giới thanh cao hơn.
Ở những trình độ điểm đạo cao hơn, người thí sinh được biết về Đại Ngã, họ được giao cảm trực tiếp với đấng tạo hóa, nà tiếp ngay với đấng thiêng liêng. Họ nhận được sự giải thích đúng đắn về sự đọa lạc của con người, ngày nay đã xuống quá thấp từ cái trạng thái tâm linh nguyên thủy.
Họ được cho biết về huyền sử của châu Atlantide, có liên hệ chặt chẽ với sự suy vong của nó. Kế đó được đưa lần lần lên những cõi thanh cao huyền diệu hơn, cho đến khi họ đạt tới cái ý thức tâm linh cao cả mà con người đã từng có từ thời kỳ nguyên thủy. Như thế trong khi họ tiếp tục con đường hành hương trong thời gian họ thu thập được những kho tàng tân linh quý báu của cõi vô cùng.
Khi tôi thực lại những cảm tưởng du hành của tôi đến điểm này, có lẽ tôi không ra ngoài đề nếu tôi ghi chép nơi đây vài lời diễn tả những sinh hoạt khác trong các đạo viện Huyền Môn thời cổ, do lời tường thuật của một người đã từng sống vào một thời kỳ cổ điển và đã từng họ điểm đạo, ít nhất là ở vào những cấp bậc đầu tiên.
Vì y có lời thề nguyền là sẽ không tiết lộ từng chi tiết rõ ràng những gì y đã kinh nghiệm trong cuộc điểm đạo, y chỉ có đưa ra những lời giải thích đại cương và những sự ngụ ý mơ hồ. Tuy thế, lời tường thuật này cũng là một văn kiện đầy đủ nhất mà chúng ta được biết của một vị đạo đồ để lại.
Vị ấy là Apuleé, được điểm đạo ở cấp bậc đầu tiên của phái Huyền Môn Isis. Tác giả một cuốn sách tự thuật nhan đề Lucius. Trong quyển sách này, tác giả tự thuật lại cuộc đời của mình khi ông ta gõ cửa đền với tấm lòng nhiệt thành cầu Đạo.
Từ lâu đời, khoa Huyền Môn Ai Cập vẫn được giữ kín và được khép chặt đối với người ngoại quốc. Chỉ trong một thời kỳ về sau này mới có một số ít những người đó được thu nhận và được điểm đạo. Họ luôn luôn tôn trọng lời cam kết giữ gìn bí mật. Những luật lệ nhập môn đều rất chặt chẽ và nghiêm khắc.
Trong danh sách ấy, Apulée viết:
"Với mỗi ngày trôi qua, sự ước muốn được điểm đạo của tôi càng gia tăng. Tôi tim đến nhiều vị Đạo Trưởng và khẩn cầu người ít nhất hãy bằng lòng điểm đạo cho tôi. Nhưng vị Đạo Trưởng, có tiếng là người rất cương nghị và áp dụng rất chặt chẽ những luật lệ nghiêm khắc của Đạo, bác bỏ lời thỉnh cầu của tôi với những lời lẽ êm ái dịu dàng, cũng như bậc cha mẹ gạt bỏ những ước vọng điên rồ của con cái hãy còn quá non dại.
Người trấn an tâm hồn tôi bằng cách đưa cho tôi bằng điều hy vọng là hãy sở cậy nơi một niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Ngươi nói rằng ngày giờ điểm được chỉ định cho mỗi người do mật lệnh của vị Nữ Thần, và ngươi Đạo Trưởng đứng ra làm chủ lễ trong dịp ấy cũng phải do Thiên Ý chọn lựa.
"Vị Đạo Trưởng bảo tôi hãy chờ mật lệnh ấy cũng như mọi người với một tấm lòng kiên nhẫn sùng kính, và khuyên tôi nên gạt bỏ lòng nhiệt thành quá đáng cùng mọi người băn khoăn bồn chồn. Trong khi tôi cố tránh hai điều ấy, tôi cũng phải luôn luôn túc trực sẵn sàng để đáp ứng kịp thời khi có lệnh gọi, va đừng tỏ ra xôn xao nóng nảy khi tôi không được lưu ý đến.
"Đó là bởi vì cửa vào địa ngục và quyền ban sự sống đều ở trong tay Nữ Thần, và chính cuộc lễ điểm đạo được coi như sự chết tình nguyện của người thí sinh, có khi nguy hiểm đến tính mạng của y.
Bởi đó, Nữ Thần thích chọn những người mà cuộc đời đã sắp tàn, và sắp sửa bước vào cõi Tử, đối với những người ấy, những điều huyền bí nhiệm mầu của Nữ Thần có thể được tiết lộ cho họ một cách an toàn.
Do định mệnh thiêng liêng, Nữ Thần bảo đảm cho những người ấy một sự phục sinh mới mẻ, người đặt họ vào chỗ khởi điểm của một giai đoạn sinh hoạt mới. Bởi vậy, trường hợp của con cũng thế, con phải đợi đến khi có lệnh gọi của Thiêng Liêng.
"Ân huệ tốt lành của vị Nữ Thần đã không bỏ rơi tôi sau khi ngài đã bắt tôi phải chịu sự dày vò đay nghiến của một sự chờ đợi lâu dài. Nhưng trong ban đêm tăm tối, những mật lệnh rõ ràng của Nữ Thần đã báo cho tôi biết rằng ngày mong ước của tôi đã đến, và ngài chấp nhận những lời khẩn cầu nồng nhiệt của tôi.
"Bằng những lời an ủi khả ái, Nữ Thần đem đến cho tâm hồn tôi một niềm phúc lạc rất lớn, đến nỗi tôi bỏ ngủ thức dậy trước lúc bình minh và hối hả đi đến tịnh thất của vị Đạo Trưởng. Tôi vừa đến nơi thì vị Đạo Trưởng cũng đã vừa bước ra khỏi phòng, tôi bèn nghiêng mình kính cẩn chào Người.
Tôi nhất định yêu cầu Người làm lễ điểm đạo cho tôi với một giọng khẩn thiết hơn trước, như là một điều mà bây giờ tôi có quyền đòi hỏi. Nhưng khi vừa thấy tôi thì người đã lên tiếng trước:
"À, hữu phước thay cho con, Lucius, Nữ Thần cao cả đã chiếu cố đến con để ban cho con cái ân huệ thiêng liêng đó! Ngày mà con mong đợi từ lâu, nay đã đến, do lệnh dạy thiêng liêng của Nữ Thần đáng tôn kính, ta sẽ làm lễ điểm đạo cho con được bước vào cửa đạo diệu huyền."
"Khi đó, vị Đạo trưởng cao niên đạo mạo đặt bàn tay mặt của người trong lòng bàn tay tôi và dắt tôi đến trước cửa Thánh Điện. Sau khi đã long trọng làm lễ khai môn và lễ dâng hương hoa buổi sáng, người mới lấy từ những chỗ bí mật của đền thờ vài quyển sách bút tự viết bằng một thứ chữ lạ kỳ.
"Kế đó, Người bước đến trước Thánh Điện và trong lúc mặt trời còn chưa ló dạng, Người dắt tôi đến quỳ dưới chân Nữ Thần. Sau khi đã tiết lộ cho tôi vài đều bí mật, những điều này quá thiêng liêng để có thể nói ra bằng lời, Người mới dặn tôi, trước mặt tất cả mọi người đến chứng kiến cuộc lễ hôm đó, hãy giữ gìn trai giới trong suốt mười ngày liên tiếp, không ăn thịt loài vật và không uống rượu.
"Tôi tuân theo những lời răn đó một cách chặt chẻ. Sau cùng, đã đến hành lễ điểm đạo, tức ngày tôi hiến dâng cuộc đời tôi cho Nữ Thần. Mặt trời đã ngả về tây, đêm tối đã sắp đến trong khi ấy từ bốn phương xuất hiện rất đông đảo những vị đạo đồ thánh thiện của quá khứ đứng vây chung quanh tôi.
Mỗi vị đều ban cho tôi những quà tặng theo nghi lễ cổ truyền. Kế đó, sau khi những vị chưa được điểm đạo đã được mời đi ra ngoài, tôi được cho mặt áo mới và vị Đạo trưởng cầm tay tôi để dắt tôi đến giữa thánh điện.
"Qúy vị độc giả hiếu kỳ có lẽ nóng lòng muốn biết những gì đã xảy ra vào lúc đó. Tôi chắc hẳn là muốn tường thuật lại cho quý vị nghe nếu tôi được phép nói, và nếu quý vị cũng được phép nghe.
Nhưng lưỡi tôi sẽ tê cứng và tai quý vị cũng sẽ điếc như bị đầu độc nếu tôi vi phạm lời thề để làm thỏa mản sự tò mò của quý vị. Tuy nhiên chắc hẳn quý vị cũng bị thúc đẩy bởi một lòng mong ước thanh cao, nên tôi không để cho quý vị phải đợi chờ lâu hơn nữa. Vậy quý vị hãy nghe và tin tưởng, vì điều tôi nói đây là sự thật.
Tôi đã bước đến gần kề địa hạt của Tử Thần, tôi đã đặt chân lên ngưỡng cửa của Âm Ty, tôi đã vượt qua mọi cảnh giới, và rồi tôi đã trở lại cõi trần. Tôi đã nhìn thấy mặt trời chói rạng huy hoàng, giữa lúc đêm tối.
Tôi đã đến gần các đấng Thần Minh ở cõi trên cũng như hạ giới, và tôi đã đến chiêm bái các ngài tận mặt. Qúy vị hãy coi chừng: Tôi đã nói ra những điều mà, mặc dầu đã được nghe, quý vị không bao giờ nên biết."
Một năm sau, Lucius đã được điểm đạo ở cấp bậc Huyền Môn Osiris, cao hơn cấp bậc Isis. Trong số ít những người ngoại quốc khác đã được điểm đạo theo khoa Huyền Môn Ai Cập, có Platon, Pythagore, Thales, Lycurgue, Solon, Jamblique, Plutarque và Hérodote.
Trong những tác phẩm của Hérotote, ông đã nhắc đến điều ấy với một sự dè dặt tối đa. Ông đã diễn tả từng chi tiết những buổi trình diễn văn nghệ tượng trưng và những cuộc lễ bái công cộng, nhưng ông từ chối không chịu tiết lộ những điều bí mật bên trong.
Ông ấy nói như sau: "Đối với những điều huyền bí đó, mà tôi đã được biết đầy đủ, tôi có lời cam kết phải giữ một sự im lặng hoàn toàn." Sử gia Plutarque đã viết rằng:
"Khi ta nghe nói đến huyền thoại của người Ai Cập về các đấng Thần Minh, những chuyến du hành, sự phân thây, và những chuyện huyền hoặc hoang đường khác nữa, ta chớ nên tưởng rằng tất cả những chuyện ấy đều có thật.
Mỗi dân tộc đều có những biểu tượng, khi thì mờ ám, khi thì dễ hiểu, để trình bày những điều chân lý bất hủ. Chính bằng cách đó mà ta nên đọc hoặc nghe những chuyện đó với lòng sùng kính và với một tinh thần triết lý."
Plutarque nói về mục đích điểm đạo ở cấp đẳng Huyền Môn Isis như sau:
"Bằng phương tiện điểm đạo, người thí sinh có thể được chuẩn bị đến mức tối đa để đạt tới sự thông cảm với đấng Tối Cao. Bởi lẽ đó, đền thờ đấng Thiêng Liêng được gọi là Iseion, ám chỉ sự hiểu biết đấng Vô Cùng, bất sinh bất diệt, sự hiểu biết đó có thể đạt được bằng cách điểm đạo nếu người thí sinh đã được chuẩn bị sẵn sàng."
Đó là quan điểm của triết gia Hy lạp Plutarque. Ta hãy nghe nhà hiền triết xứ Syrie tên là Jamblique nói về khoa Huyền Môn Ai Cập mà ông là một vị đạo đồ, như sau:
"Cái tinh hoa và toàn vẹn của mọi đều thiện đều có sẵn nơi các đấng Thần Minh, cái quyền lực đầu tiên và cổ xưa của các ngài cũng là đều sở hữu của các vị tăng lữ ở các đền thờ. Một sự hiểu biết các đấng Thần Minh sẽ phản ảnh lại nơi con người chúng ta, và giúp cho ta tự biết mình.
Cái phần Thiêng Liêng nhất của con người, trước tiên được hợp nhất với Thần Minh, về sau lại bị chướng ngại bởi một sự trói buộc của mọi điều dục vọng trần gian và sự kiềm tỏa của định mệnh. Bởi vậy, cần phải xét xem bằng cách nào con người có thể được giải tỏa khỏi những trái buộc ấy.
Chỉ có sự hiểu biết về Thượng Đế mới phá tan những sợi dây kiềm tỏa đó. Đó là mục đích của Huyền Môn Ai Cập, làm cho con người nâng cao linh hồn mình để hòa hợp với Thượng Đế".
Một vị đạo đồ khác là Proclus nói rằng:
"Trong một cuộc điểm đạo ở mọi cấp đẳng Huyền Môn, các dấng Thần Minh cho thấy nhiều khía cạnh của các ngài. Đôi khi người thí sinh thấy xuất hiện trước mặt y một vầng sáng không hình thể nhất định toát ra từ các ngài, xem dường thể một vầng hào quang.
Có khi vầng hào quang đó khoác lấy hình người, có khi khoác lấy một hình thể khác. Một vài hình thể đó không phải là Thần Minh, và làm cho ta sợ hãi."
Triết gia Platon cũng đả từng được điểm đạo, nói rằng:
"Do hậu quả của lễ điểm đạo thiêng liêng, chúng ta chiêm ngưỡng những linh ảnh giản dị xuất hiện trong một vầng sáng tinh anh, và nhờ được thanh lọc để trở nên tinh khiết, chúng ta được giải thoát được cái xác thân trọng trược, mà từ trước chúng ta vẫn bị dính liền với nó như con sò dính trong cái vỏ."
Như vậy ông muốn nói rằng mục đích tối hậu của sự điểm đạo Huyền Môn là đưa con ngươi trở về với những nguyên tắc tâm linh mà nhân loại đã mất đi từ lúc nguyên thủy.
Một vị đạo đồ khác nữa là Moise, người Do Thái lai Ai Cập. Sách Tân Ước nói rằng "Moise đã từng giáo dục trong tất cả nền minh triết của Ai Cập." Ý nghĩa của câu này là nền minh triết thâm sâu nhất của xứ Ai Cập đã được tiết lộ cho Moise, điều đó không khác gì hơn là sự hiểu biết mà Moise được truyền dạy bởi giáo lý Huyền Môn Ai Cập.
Sách Tân Ước còn nói rằng: "Moise phủ kín mặt bằng một tấm màng che". Tính chất tấm màng che như thế nào, thì đoạn sau này trong sách ấy đã cho ta thấy ý nghĩa của nó:
"Cho đến ngày nay, tấm màng che ấy vẫn phủ kín lên việc đọc sách Cựu Ước" (2è épitre aux Corinthiens). Như vậy, đó không phải là tấm che bằng vải, mà là một tấm màng che kín ý nghĩa của những chữ trong sách, che lấp sự hiểu biết. Bởi đó, tấm màng che mặt của Moise thật ra lời thệ nguyện giữ im lặng và giữ bí mật mà ngài đã cam kết trong cuộc lễ điểm đạo.
Moise đã thu thập được sự minh triết của ngài tại đạo viện thuộc ngôi đền tại thành phố On, mà người Hy Lạp gọi là He'liopolis khi họ chinh phục xứ Ai Cập, một thành phố đã biệt tích ở cách vài dặm phía Bắc Cairo.
He'liopolis và Memphis, một thành phố khác nữa cũng đã biệt tích ngày xưangười ta có thể nhìn thấy từ trên đỉnh Kim Tử Tháp, đều coi Kim Tử Tháp lớn như một nơi thánh điện tối cao để hành lễ điểm đạo Huyền Môn. Thành He'liopolis và ngôi đền lớn của nó ngày nay không còn nữa, những bức tường gạch kiên cố bao bọc chung quanh thành phố và những cột trụ đền đến ngày nay đã bị chôn vùi dưới đống các sâu bốn thước.
Chỉ còn cây thạch tiễn (obe'lisque) bằng đá đỏ ở trước cổng thành là còn đứng vững. Moise đã từng nhìn thấy cây thạch tiễn này vì ông đã đi ngang qua đó nhiều lần. Đó là cây thạch tiễn cổ xưa nhất còn đứng vững ở Ai Cập. Trong số những vị học giả mộ đạo thời cổ đã từng bước chân đến cổng đền này để tìm ánh sánh minh triết, có triết gia Platon và sử gia Herodote.
Những vị này cũng đã thấy cây thạch tiễn đến ngày nay vẫn còn trơ gan cùng tế nguyệt, đứng tro trọi một mình giữa cảnh đồng ruộng bao la. Dưới chân cây thạch tiễn, những nông phu đang cà sâu cuốc bẩm, và hàng ngày dắt trâu ra đồng.
Còn một cây thạch tiễn khác nữa mà vua Thoutmès III dựng lên trước đền thờ Thái Dương ở He'liopolis và ngày nay đang nhô lên cao vút bên bờ sông Tamise ở Luân Đôn. Được biết dưới cái tên là Mũi Kim của Cléopâtre, nó nhắc nhở cho dân chúng thủ đô Anh quốc náo nhiệt phồn hoa ngày nay nhớ lại cả một thế giới đã biệt tích cùng với một nền văn minh lộng lẫy huy hoàng của một thời đại cổ xưa nay không còn nữa.
Cây thạch tiễn có vẽ như một tên quân canh đúng gác cổng đền, còn những hàng chữ ám tự khắc trên bốn mặt của nó thuật lại lịch sử của ngôi đền. Nhưng nó không phải chỉ là một mũi tên khổng lồ bằng đa được dựng lên để khắc chữ trên đó, nó còn là một biểu tượng thiêng liêng, và mũi nhọn của mỗi cây thạch tiễn đều lấy hình dáng một Kim Tử Tháp nhỏ.
Heliopolis ngày xưa là một trung tâm rất lớn về các nghành học thuật cổ điển và đạo lý, nó gồm có đến 13,000 học viên và có một dân số rất đông đảo. Nó có một thư viện nổi tiếng, thư viện này về sau góp phần xây dựng thư viện Alexanrie, danh tiếng nhất của thời đại cổ.
Lúc thiếu thời, Moise đã tiến bộ rất mau chóng, tỏ ra có một học vấn uyên thâm và một đức hạnh gương mẫu đến nỗi ông vượt qua một cách danh dự tất cả những cấp bậc điểm đạo, và đạt tới cấp đẳng cao tột ít người có, là cấp đẳng chân sư. Từ đó, ông đã có thể trở nên một vị đâo trưởng.
Chính tại đạo viện mà ông được thụ huấn trước kia, dính liền với ngôi đền lớn tại Heliopolis, thành phố của mặt trời, mà ông nhận lãnh chức vị đó. Ông đứng làm chủ lễ điểm đạo cho những thí sinh khác theo nghi lễ Huyền Môn Osiris, là lễ nghi thuộc về cấp đẳng cao nhất.
Hồi thời đó, ông có tên là Osarsiph, một tên chữ Ai Cập, vì ông vốn la người Ai Cập lai Do Thái. Đến khúc quanh của đời ông, khi ông nhận sứ mạng mà định mệnh giao phó, ông ghi dấu cơ hội này bằng cách đối lấy một tên người Do Thái. Những người Ai Cập trí thức đều tin rằng tên họ của mỗi người vốn có năng lực thần bí. Vì đó, mà tên Osarsiph đã trở thành Moise.
Vị vua Pharaon trị vì lúc đương thời, vốn là một hôn quân vô đạo và hung ác, ngược đãi người Do Thái một cách bất nhân độc ác đến nỗi làm cho Moise phải động lòng vì chính ông cũng có dòng máu Do Thái trong huyết quản.
Sử chép rằng ông đã giải phóng những bộ lạc Do Thái ra khỏi tình trạng nô lệ, giam cầm, ông đã hướng dẫn họ rời khỏi vùng thung lũng Gochen và noi theo lịch sử ngày xưa vẫn nối liền Châu Phi và Châu Á, con đương mà chính hoàng đế Nã Phá Luân đã cỡi ngựa đi qua và suýt chết chìm khi ông gần đến thành Suez.
Người ta có thể tìm thấy vài mẩu chuyện về sau của Moise trong Kinh Thánh, nhưng những chuyện này lại bị pha lẫn một cách đáng tiếc với những truyền thuyết và huyền thoại mơ hồ.
Năm quyển đầu tiên của bộ sách Cựu Ước, được góp nhặt lại dưới nhan đề Pentateuque là do Moise soạn ra. Những quyển sách ấy chứa đựng một nền minh triết thâm sâu mà Moise muốn truyền lại cho dân tộc Do Thái, nhưng về sau lại có lẫn lộn những yếu tố lịch sử liên quan đến sự sáng tạo thế giới và những chủng tộc đầu tiên của nhân loại.
Thật ra thì Moise, với tư cách một chân sư, từng biết rõ và sử dụng lối văn tự huyền bí của các vị đạo đồ nghĩa là dùng chữ ám tự với một ý nghĩa tâm linh ẩn dấu. Ông soạn bộ sách Pentatueque bằng chữ ám tự Ai Cập mà chỉ có những bậc tăng lữ đã điểm đạo mới có thể hiểu.
Nhưng khi người Do Thái tới định cư tại Palestine, trải qua nhiều thế kỷ, sự hiểu biết về khoa ám tự càng ngày càng giảm sút. Lần lần, giới tăng lữ đã không còn đọc được thứ chữ ấy nữa, và có thể đoán mò một cách khó khăn.
Điều này không co gì lạ, nếu người ta nhờ rằng chính ở tại Ai Cập, vào thế kỷ thứ tư sau Thiên Chúa giáng sinh, phép diễn đạt khoa khoa ám tư đã hoàn toàn mất hẳn. Độ một nghìn năm sau cuộc di cư của dân Do Thái, khi những bậc cao niên lão thành củ dân tộc ấy góp nhặt một bộ sách mà ngày nay ta gọi là Cựu Ước, thì họ gặp phải một khó khăn rất lớn khi đem dịch những quyển sách của Moise ra chữ Do Thái.
Đó là vì Moise đã viết sách ấy bằng thứ chữ riêng của các vị chân sư, còn những bậc trưởng lão Do Thái, dầu có học thức uyên thâm, cũng chưa phải là những vị chân sư đó.
Bởi đó, thường có những chỗ dịch sai nghĩa, những ý nghĩa tượng trưng thì lại bị hiểu lầm như những sự việc có thật, những sự mô tả bằng ám tự được coi mô tả những việc đã xảy ra, những câu ý nghĩa bóng bẫy bị hiểu lệch lạc thành ra những chỗ dịch sai lầm.
Một thí dụ là "Sá ngày tạo thiên lập địa" đối với Moise có nghĩa làsáu chu kỳ thời gian dài đăng đẳng, được gọi là một cách tượng trưng là sáu ngày vì những lý do mà chỉ các vị đạo đồ biết được mà thôi. Nhưng câu ấy được dịch lại sát nghĩa từng chữ, vì các nhà phiên dịch tưởng rằng đó là sáu ngày hai mươi bốn giờ!
Hậu quả là những quyển đầu tiên của bộ Kinh Thánh chứa đựng nhiều sự việc dị kỳ đối với thế hệ hiện tại vì khoa học tiến bộ càng ngày càng kiểm thảo chặt chẽ những bản dịch cổ tự đó từng điểm một.
Nhưng bộ sách Kinh Thánh sẽ trở nên vô cùng phong phú khi người ta đọc nó với sự hiểu biết những chìa khóa bí mật được truyền dạy cho những vị đạo đồ trong các đền cổ bên Ai Cập.
Như vậy, Moise phải được coi như một trong những nhân vật đáng kể nhất đã ngộ đạo trong cơn xuất thần huyền bí của những cuộc điểm đạo Huyền Môn.
LỄ ĐIỄM ĐẠO HUYỀN BÍ TRONG ĐỀN CỖ AI CẬP
CHƯƠNG BẢY
Câu trả lời mà tôi tìm kiếm để giải đáp sự bí hiểm của câu chuyện huyền thoại về cái chết của Osiris, tôi đã thấy được sau khi đi ngược dòng sông Ni lđể khảo cứu về ngôi đền nữ thần Hathor ở Denderad. Ngôi đền này rất lớn và được giữ gìn nguyên vẹn, nhờ nó bị hoàn toàn chôn vùi dưới lớp cát mịn và nóng của sa mạc suốt hơn một nghìn năm. Từ hướng Bắc, tôi trèo lên một cầu thang rất hẹp và đã mòn.
Dọc đường thỉnh thoảng tôi ngừng lại để nhìn xem, dưới ánh đuốc cầm nơi tay, những cảnh tượng chạm trổ trên vách tường. Đó là một cảnh tượng một đám rước lễ quan trọng nhất của đền Denderad vào lúc đầu năm, chính vua Pharaon đích thân dẫn đầu cuộc diễn hành.
Các vị tăng lữ, vị tăng lữ, tư tế của phái Huyền Môn, những người cầm cờ nối tiếp nhau đi trên vách tường cũng như họ đã từng diễn hành như thế hồi thuở sanh tiền, và đi từ dưới lên trên chính cái cầu thang này.
Lên khỏi cầu thang, tôi đã ra khỏi bóng tối để ra chỗ đầy ánh nắng chói lòa và xuyên qua những tản đá khổng lồ của nóc đền, tôi đến trước một thánh điện nhỏ đứng cô lập một mình trong một góc của nốc bằng. Nóc đền được nâng đỡ bằng những cột trụ lớn có chạm hình nữ thần Hathor.
Tôi bước vào và nhận ra đó là một thánh điện mà xưa kia người ta dùng để hành lễ điểm đạo theo khoa Huyền Môn của Osiris cho đến thời đại các vị vua Ptolémée. Trên tường, những hình chạm nổi phô diễn đức Osiris nằm trên giường, chung quanh là những người trợ tá để giúp đỡ những việc vặt và những lò hương trầm.
Những hàng chữ ám tự và tranh ảnh thuật lại lịch sử sự chết và sự phục sinh của Osiris, và những chữ khắc trên tường ghi lại những lời cầu nguyện từng giờ suốt một đêm mười hai giờ.
Tôi ngồi xuống đất, tức là nóc bằng của ngôi đền lớn, và bắt đầu thiền định về câu chuyện huyền thoại cổ xưa. Sau khi đã ngồi yên khá lâu trong cơn trầm tư mặc tưởng, tôi bắt đầu tìm ra manh mối sự thật mà trải qua nhiều thế kỷ, nó đã biến thành một câu chuyện huyền thoại ly kỳ: Osiris bị phân thây và sau đó được ráp lại từng mảnh.
Do đâu mà tôi có cái chìa khóa của bài toán đố bí hiểm này? Do một sự nhớ lại thình lình. Tôi nhớ lại lúc tôi ngồi trong Vương Cung bên trong Kim Tử Tháp lớn, khi mà từ trong bóng tối dầy đặc, hiện ra cái linh ảnh cho tôi thấy hai vị Đạo Trưởng Ai Cập đã cao niên, một trong hai vị này đã làm cho thể xác tôi mê thiếp đi và đưa linh hồn tôi vào một trạng thái ý thức rõ ràng.
Trên thực tế, thể xác hôn mê của tôi lúc đó đã hoàn toàn vô tri giác, sự sống chỉ còn tồn tại là do một sự hô hấp vô ý thức, còn linh hồn thì đã thoát ra ngoài. Tôi chỉ là một người chết, mà linh hồn đã từ bỏ thể xác.
Nhưng, khi kinh nghiệm ấy chấm dứt, tôi đã hồi sinh trở lại và trạng thái chết giả cũng không còn. Phải chăng đó quảù là một sự phục sinh hẳn hòi, một sự tái sinh trở lại đời sống phàm trần sau khi đã nhìn xem cõi giới bên kia? Phải chăng đó là một sự sống trong cõi vô hình?
Tôi đứng dậy nhìn xem một lần nữa những hình ảnh trên tường để xác định lại điều ấy. Osiris nằm duỗi thẳng thân mình, dường như đã chết, xem giống như một xác ướp và liệm vào hòm. Tuy nhiên, tất cả những chi tiết cho thấy sự chuẩn bị một nghi lễ dành cho người sống chứ không phải cho người chết: Thể xác hôn mê, những vị tăng lữ hành lễ, những bình lư hương để làm cho mê thiếp đi.
Những cuộc lễ điểm đạo này luôn luôn được cử hành vào lúc ban đêm. Người thí sinh được đặt trong trạng thái xuất thần trong một thời gian dài ngắn không chừng, trình độ điểm đạo càng cao thì cơn xuất thần của y càng dài và càng sâu hơn. Những vụ tăng lữ canh chừng y suốt những giờ ban đêm dành cho cuộc hành lễ này.
Đó là cảnh tượng thường diễn ra trong những cuộc lễ điểm đạo Huyền Môn từ những thời đại cổ xưa trong dĩ vãng. Nó có ý nghĩa gì? Sự Sát Hại Osiris tức là việc đặt người đạo đồ trong một trạng thái chết giả, nghĩa là trong sự kết hợp tâm linh với Osiris, người sáng lập ra tổ chức Huyền Môn này.
Lối kiến trúc các ngôi đền cổ đều theo một kế hoạch song đôi, mỗi ngôi đền đều có hai phần, một phần dành cho những hoạt động tôn giáo thông thường, một phần dành cho những cuộc lễ điểm đạo Huyền Môn. Phần sau này hoàn toàn được ngăn ra thành một chỗ riêng biệt trong đền.
Bằng phương pháp thôi miên, gồm có việc xử dụng những chất hương liệu rất mạnh, dùng hai bàn tay truyền nhân điện dọc theo thân mình, cùng với việc xử dụng một chiếc đủa thần, người thí sinh được đưa vào một trạng thái đồng thiếp làm cho y mê man bất tỉnh như người chết.
Xác thân y tê liệt, nhưng linh hồn y vẫn tỉnh táo và nối liền với thể xác bằng một sợi dây từ điển vô hình mà chỉ vị chủ lễ điểm đạo có thần nhãn mới nhìn thấy được. Như vậy mặc dù mọi hoạt động thể xác đã ngưng, nhưng nguồn sinh lực vẫn tồn tại.
Tất cả ý nghĩa và mục đích của cuộc điểm đạo này là để dạy cho người thí sinh biết rằng vốn không có sự chết. Người thí sinh được truyền thụ cái chân lý đó bằng một phương pháp rõ ràng và thật tế nhất, nghĩa là bằng cách làm cho y kinh nghiệm qua chính bản thân mình mọi diễn biến khách quan của sự chết, bằng cách dùng một phương pháp huyền bí để đưa y lọt vào cõi giới bên kia.
Cơn đồng thiếp của y thâm sâu đến nỗi người ta đặt y trong một cái hòm đựng xác ướp có vẽ tranh ảnh và khắc chữ bên ngoài, nắp hòm được đóng chặt và khóa lại cẩn thận. Xét về bên ngoài, thì y là người đã chết!
Nhưng khi cơn đồng thiếp của y hết kỳ hạn, người ta mở nắp hòm ra, và bằng những phương tiện thích nghi, y được làm cho tỉnh dậy. Đó là ý nghĩa của lời huyền thoại tượng trưng nói rằng những mảnh xác bị tách rời của Osiris được ráp nối và làm cho ngài được hồi sinh. Sự phục sinh bí hiểm và hoang đường của Osiris không khác gì hơn là sự tỉnh dậy của người đệ tử Huyền Môn sau cuộc lễ Điểm Đạo.
Tòa thánh điện mà tôi đang quan sát, ngày xưa đã từng là nơi chứng kiến bao nhiêu những cuộc hạ sát và những cuộc phục sinh như đã diễn tả ở trên. Hồi thời đó, trong phòng có một cái giường và những vật liệu cần thiết cho cuộc điểm đạo.
Khi người thí sinh đã trải qua trạng thái đồng thiếp và sắp sửa được đánh thức dậy, người ta chở y đến một nơi thoáng khí để cho những tia nắng đầu tiên của mặt trời mọc lúc bình minh rọi thẳng vào gương mặt còn mê man của y.
Trong những thời đại cổ xưa nhất, nhiề vị tăng lữ cao cấp nhất và tất cả những vị tư tế ở các đền thờ bên Ai Cập đều có sự hiểu biết thâm sâu về những điều huyền bí của các khoa thôi miên và từ điển, và có thể đặt những người thí sinh vào một cơn đồng thiếp thâm sâu đến nỗi dường như họ đã chết.
Những vị tăng lữ thượng tọa còn có thể làm hơn thế nữa, hơn cả những nhà thôi miên hiện đại, vì những vị ấy biết phương pháp làm cho linh hồn người thí sinh vẫn thức tỉnh trong khi thể xác của y nằm trong cơn đồng thiếp, làm cho y thực hiện được những kinh nghiệm siêu phàm, mà y sẽ nhớ lại được sau khi y tỉnh dậy và trở về trạng thái bình thường.
Bằng cách đó, họ có thể đem người thí sinh sự hiểu biết về tính chất của linh hồn, và khi bắt buộc linh hồn y tạm thời rút lui ra khỏi thể xác, họ làm cho y nhận thức được sự hiện hữu củ cõi thế giới bên kia cửa Tử, mà những hình ảnh trên hòm được xác ướp có vẽ những biểu tượng đầy ý nghĩa.
Bởi đó, người cổ Ai Cập khắc trên nắp những cổ quan tài bằng đá, hoặc vẽ bằng màu trên những hòm đựng xác ướp, hoặc tô điểm ngoài bìa những kinh sách tôn giáo của họ những hình chim dị kỳ, bay ra khỏi hoặc đứng trên cái xác ướp. Đó là một con chim có đầu người và tay người, thường được hình dung một tay cầm một cánh buồm, tượng trưng cho hơi thở, và tay kia cầm một hình thập tự cuốn tròn, tượng trưng cho sự sống.
Những biểu tượng này dù khắc trên đá hay vẽ trên giấy, đều ngụ ý tượng trưng dạy cho ta biết rằng ngoài cõi phàm trần vật chất này còn có một cõi giới tâm linh. Trong quyển sách Tử Thư (sách của người chết) có chỗ đề cặp đến những người chết, nhưng thật ra đó là nói về những người chết giả, nằm mê trong cơn đồng thiếp, vô tri bất động như ngươi chết thật, và linh hồn đã đi qua một kẻ khác.
Đoạn sách ấy đề cập đến cuộc điểm đạo. Cõi giới bên kia đi xuyên qua cõi trần một cách huyền diệu, và những vong linh ở cõi ấy có thể ở gần bên chúng ta. Một từ ngữ khoa học nói rằng trong thiên nhiên vốn không có gì mất đi đâu. Khi một người từ bỏ cõi trần, bỏ lại cái thể xác vô tri bất động, linh hồn y lại xuất hiện trên cõi vô hình, vô hình đối với mắt phàm chúng ta, nhưng hữu hình đối với những nhân vật tinh anh trên đó.
Tuy rằng phương pháp điểm đạo này có những đặc tính bề ngoài giống như khoa thôi miên hiện đại, nhưng nó vượt rất xa những phương pháp thôi miên, vì khoa này chỉ thức động đến chỗ tiềm thức, mà không thể làm cho đương sự có ý thức được sự sinh hoạt trên các cõi giới thâm sâu huyền diệu hơn.
Theo sự tin tưởng của quần chúng, thì Osiris là một nhân vật đã chịu pháp nạn và bị giết, rồi được phục sinh và chui lên khỏi mồ. Tên của ngài đã trở nên đồng nghĩa với sự hồi sinh, sự bất tử của ngài gây cho mọi người một niềm hy vọng trở nên bất tử y như người sau khi chết.
Hồi thời ấy, người ta đã tin tưởng ở sự bất diệt của linh hồn và ở đời sống bên kia nấm mồ. Người ta cũng tin rằng trong khi con người bước vào đời sống mới đo, những đấng thần minh xét đoán linh hồn và duyệt xét lại những hành động thiện ác của y trong quá khứ.
Kẻ dữ sẽ bị trừng phạt thích dáng, người hiền sẽ được và cảnh thiên đàng hạnh phúc, và hợp nhứt với Osiris. Những điều đó khá thích hợp với quần chúng và đem đến cho những tâm hồn chất phác những viễn ảnh mà họ có thể quan niệm được dễ dàng. Người ta không nhồi sọ dân chúng với những triết lý thâm sâu hoặc những giải thích tế nhị về tâm lý.
Tất cả những huyền thoại hoang đường và chuyện ngụ ngôn bình dân phải được hiểu như là những biểu tượng có hàm xúc một ý nghĩa hợp lý và chứa đựng một chân lý thâm sâu. Để duy trì cho giáo lý ấy luôn luôn tồn tại trong dân gian, giai cấp tăng lữ trong trong các đền thờ không những chỉ dùng nghi thức lễ bái thờ phượng, mà thỉnh thoảng còn tổ chức những buổi trình diễn kịch nghệ công cộng có tính cách tượng trưng dể trình bày cho dân chúng biết lịch sử của Osiris.
Những nghi thức lễ bái và trình diễn công cộng là để dành cho quần chúng vì nó thích hợp với phần đông, nhưng có còn một phần giáo lý thâm sâu hơn và pháp môn huyền bí thì để truyền thụ cho những người trí thức. Những người Ai Cập có học thức, có văn hóa và những người có giai cấp quý tộc cũng biết rõ điều ấy, nếu họ cảm thấy có khuynh hướng về con đường này thì họ tìm cách để xin được nhập môn.
Các ngôi đền gồm có những gian phòng kiến trúc đặc biệt và cô lập một nơi dành cho những cuộc lễ điểm đạo, mà chỉ có những vị tăng lữ ưu tú và chọn lọc mới có quyền hành lễ, những người này được gọi là Đạo Trưởng hay Thượng Tọa. Những cuộc lễ Điểm đạo này được cử hành trong vòng bí mật và ngoài phạm vi những nghi lễ hằng ngày để chiêm bái các vị thần. Người Ai Cập gọi những cuộc lễ đặc biệt này là những lễ Điểm Đạo Huyền Môn.
Những vị đạo đồ (đệ tử Huyền Môn đã được điểm đạo, Initié) đã từng nói đến tính cách khác thường của những cuộc điểm đạo, không giống như những nghi lễ thông thường. Thí dụ, một vi đạo đồ đã tuyên bố rằng" nhờ những lễ điểm đạo mà người ta biết rằng sự chết không phải là một điều dở mà là một điều hay cho người thế gian".
Chính vì vị đạo đồ ấy đã trở nên một xác chết và đã thu hoạch được những điều lợi ích rất lớn sau cái kinh nghiệm đó. Những bài văn viết bằng chữ ám tự nói về người ấy như là" được hồi sinh", và y có thể thêm vào tên họ của y dòng chữ này: "Người đã tái sinh hai lần". Trên vài ngôi mộ cổ, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra câu này, nó diễn tả trình độ tâm linh của người chết.
Những vị môn đồ chọn lọc đã học được những điều bí mật gì trong những cuộc điểm đạo ấy? Điều nay tùy nơi trình độ mà họ đã vượt qua, nhưng đại khái người ta có thể đúc kết những kinh nghiệm của họ thành hai loại kết quả chính, tiêu biểu những gì họ đã được tiết lộ cho biết.
Ở những trình độ sơ khai, các thí sinh được hiểu biết về Tiểu Ngã, tức linh hồn con người mà khoa ám tự hình dung bằng một "Người chim" nhỏ, do đó họ đã giải đáp được điều bí mật về sự chết.
Họ biết rằng người ta chỉ thoát ra một trạng thái sinh hoạt này để bước vào một trạng thái sinh hoạt khác, và sự chết chỉ là của thể xác hình hài chứ không tiêu diệt được linh hồn, tức Chân Ngã. Họ cũng biết rằng không những linh hồn còn tồn tại sau khi cái thể xác đã mất còn tiến hóa lên những cõi giới thanh cao hơn.
Ở những trình độ điểm đạo cao hơn, người thí sinh được biết về Đại Ngã, họ được giao cảm trực tiếp với đấng tạo hóa, nà tiếp ngay với đấng thiêng liêng. Họ nhận được sự giải thích đúng đắn về sự đọa lạc của con người, ngày nay đã xuống quá thấp từ cái trạng thái tâm linh nguyên thủy.
Họ được cho biết về huyền sử của châu Atlantide, có liên hệ chặt chẽ với sự suy vong của nó. Kế đó được đưa lần lần lên những cõi thanh cao huyền diệu hơn, cho đến khi họ đạt tới cái ý thức tâm linh cao cả mà con người đã từng có từ thời kỳ nguyên thủy. Như thế trong khi họ tiếp tục con đường hành hương trong thời gian họ thu thập được những kho tàng tân linh quý báu của cõi vô cùng.
Khi tôi thực lại những cảm tưởng du hành của tôi đến điểm này, có lẽ tôi không ra ngoài đề nếu tôi ghi chép nơi đây vài lời diễn tả những sinh hoạt khác trong các đạo viện Huyền Môn thời cổ, do lời tường thuật của một người đã từng sống vào một thời kỳ cổ điển và đã từng họ điểm đạo, ít nhất là ở vào những cấp bậc đầu tiên.
Vì y có lời thề nguyền là sẽ không tiết lộ từng chi tiết rõ ràng những gì y đã kinh nghiệm trong cuộc điểm đạo, y chỉ có đưa ra những lời giải thích đại cương và những sự ngụ ý mơ hồ. Tuy thế, lời tường thuật này cũng là một văn kiện đầy đủ nhất mà chúng ta được biết của một vị đạo đồ để lại.
Vị ấy là Apuleé, được điểm đạo ở cấp bậc đầu tiên của phái Huyền Môn Isis. Tác giả một cuốn sách tự thuật nhan đề Lucius. Trong quyển sách này, tác giả tự thuật lại cuộc đời của mình khi ông ta gõ cửa đền với tấm lòng nhiệt thành cầu Đạo.
Từ lâu đời, khoa Huyền Môn Ai Cập vẫn được giữ kín và được khép chặt đối với người ngoại quốc. Chỉ trong một thời kỳ về sau này mới có một số ít những người đó được thu nhận và được điểm đạo. Họ luôn luôn tôn trọng lời cam kết giữ gìn bí mật. Những luật lệ nhập môn đều rất chặt chẽ và nghiêm khắc.
Trong danh sách ấy, Apulée viết:
"Với mỗi ngày trôi qua, sự ước muốn được điểm đạo của tôi càng gia tăng. Tôi tim đến nhiều vị Đạo Trưởng và khẩn cầu người ít nhất hãy bằng lòng điểm đạo cho tôi. Nhưng vị Đạo Trưởng, có tiếng là người rất cương nghị và áp dụng rất chặt chẽ những luật lệ nghiêm khắc của Đạo, bác bỏ lời thỉnh cầu của tôi với những lời lẽ êm ái dịu dàng, cũng như bậc cha mẹ gạt bỏ những ước vọng điên rồ của con cái hãy còn quá non dại.
Người trấn an tâm hồn tôi bằng cách đưa cho tôi bằng điều hy vọng là hãy sở cậy nơi một niềm hạnh phúc lớn lao hơn. Ngươi nói rằng ngày giờ điểm được chỉ định cho mỗi người do mật lệnh của vị Nữ Thần, và ngươi Đạo Trưởng đứng ra làm chủ lễ trong dịp ấy cũng phải do Thiên Ý chọn lựa.
"Vị Đạo Trưởng bảo tôi hãy chờ mật lệnh ấy cũng như mọi người với một tấm lòng kiên nhẫn sùng kính, và khuyên tôi nên gạt bỏ lòng nhiệt thành quá đáng cùng mọi người băn khoăn bồn chồn. Trong khi tôi cố tránh hai điều ấy, tôi cũng phải luôn luôn túc trực sẵn sàng để đáp ứng kịp thời khi có lệnh gọi, va đừng tỏ ra xôn xao nóng nảy khi tôi không được lưu ý đến.
"Đó là bởi vì cửa vào địa ngục và quyền ban sự sống đều ở trong tay Nữ Thần, và chính cuộc lễ điểm đạo được coi như sự chết tình nguyện của người thí sinh, có khi nguy hiểm đến tính mạng của y.
Bởi đó, Nữ Thần thích chọn những người mà cuộc đời đã sắp tàn, và sắp sửa bước vào cõi Tử, đối với những người ấy, những điều huyền bí nhiệm mầu của Nữ Thần có thể được tiết lộ cho họ một cách an toàn.
Do định mệnh thiêng liêng, Nữ Thần bảo đảm cho những người ấy một sự phục sinh mới mẻ, người đặt họ vào chỗ khởi điểm của một giai đoạn sinh hoạt mới. Bởi vậy, trường hợp của con cũng thế, con phải đợi đến khi có lệnh gọi của Thiêng Liêng.
"Ân huệ tốt lành của vị Nữ Thần đã không bỏ rơi tôi sau khi ngài đã bắt tôi phải chịu sự dày vò đay nghiến của một sự chờ đợi lâu dài. Nhưng trong ban đêm tăm tối, những mật lệnh rõ ràng của Nữ Thần đã báo cho tôi biết rằng ngày mong ước của tôi đã đến, và ngài chấp nhận những lời khẩn cầu nồng nhiệt của tôi.
"Bằng những lời an ủi khả ái, Nữ Thần đem đến cho tâm hồn tôi một niềm phúc lạc rất lớn, đến nỗi tôi bỏ ngủ thức dậy trước lúc bình minh và hối hả đi đến tịnh thất của vị Đạo Trưởng. Tôi vừa đến nơi thì vị Đạo Trưởng cũng đã vừa bước ra khỏi phòng, tôi bèn nghiêng mình kính cẩn chào Người.
Tôi nhất định yêu cầu Người làm lễ điểm đạo cho tôi với một giọng khẩn thiết hơn trước, như là một điều mà bây giờ tôi có quyền đòi hỏi. Nhưng khi vừa thấy tôi thì người đã lên tiếng trước:
"À, hữu phước thay cho con, Lucius, Nữ Thần cao cả đã chiếu cố đến con để ban cho con cái ân huệ thiêng liêng đó! Ngày mà con mong đợi từ lâu, nay đã đến, do lệnh dạy thiêng liêng của Nữ Thần đáng tôn kính, ta sẽ làm lễ điểm đạo cho con được bước vào cửa đạo diệu huyền."
"Khi đó, vị Đạo trưởng cao niên đạo mạo đặt bàn tay mặt của người trong lòng bàn tay tôi và dắt tôi đến trước cửa Thánh Điện. Sau khi đã long trọng làm lễ khai môn và lễ dâng hương hoa buổi sáng, người mới lấy từ những chỗ bí mật của đền thờ vài quyển sách bút tự viết bằng một thứ chữ lạ kỳ.
"Kế đó, Người bước đến trước Thánh Điện và trong lúc mặt trời còn chưa ló dạng, Người dắt tôi đến quỳ dưới chân Nữ Thần. Sau khi đã tiết lộ cho tôi vài đều bí mật, những điều này quá thiêng liêng để có thể nói ra bằng lời, Người mới dặn tôi, trước mặt tất cả mọi người đến chứng kiến cuộc lễ hôm đó, hãy giữ gìn trai giới trong suốt mười ngày liên tiếp, không ăn thịt loài vật và không uống rượu.
"Tôi tuân theo những lời răn đó một cách chặt chẻ. Sau cùng, đã đến hành lễ điểm đạo, tức ngày tôi hiến dâng cuộc đời tôi cho Nữ Thần. Mặt trời đã ngả về tây, đêm tối đã sắp đến trong khi ấy từ bốn phương xuất hiện rất đông đảo những vị đạo đồ thánh thiện của quá khứ đứng vây chung quanh tôi.
Mỗi vị đều ban cho tôi những quà tặng theo nghi lễ cổ truyền. Kế đó, sau khi những vị chưa được điểm đạo đã được mời đi ra ngoài, tôi được cho mặt áo mới và vị Đạo trưởng cầm tay tôi để dắt tôi đến giữa thánh điện.
"Qúy vị độc giả hiếu kỳ có lẽ nóng lòng muốn biết những gì đã xảy ra vào lúc đó. Tôi chắc hẳn là muốn tường thuật lại cho quý vị nghe nếu tôi được phép nói, và nếu quý vị cũng được phép nghe.
Nhưng lưỡi tôi sẽ tê cứng và tai quý vị cũng sẽ điếc như bị đầu độc nếu tôi vi phạm lời thề để làm thỏa mản sự tò mò của quý vị. Tuy nhiên chắc hẳn quý vị cũng bị thúc đẩy bởi một lòng mong ước thanh cao, nên tôi không để cho quý vị phải đợi chờ lâu hơn nữa. Vậy quý vị hãy nghe và tin tưởng, vì điều tôi nói đây là sự thật.
Tôi đã bước đến gần kề địa hạt của Tử Thần, tôi đã đặt chân lên ngưỡng cửa của Âm Ty, tôi đã vượt qua mọi cảnh giới, và rồi tôi đã trở lại cõi trần. Tôi đã nhìn thấy mặt trời chói rạng huy hoàng, giữa lúc đêm tối.
Tôi đã đến gần các đấng Thần Minh ở cõi trên cũng như hạ giới, và tôi đã đến chiêm bái các ngài tận mặt. Qúy vị hãy coi chừng: Tôi đã nói ra những điều mà, mặc dầu đã được nghe, quý vị không bao giờ nên biết."
Một năm sau, Lucius đã được điểm đạo ở cấp bậc Huyền Môn Osiris, cao hơn cấp bậc Isis. Trong số ít những người ngoại quốc khác đã được điểm đạo theo khoa Huyền Môn Ai Cập, có Platon, Pythagore, Thales, Lycurgue, Solon, Jamblique, Plutarque và Hérodote.
Trong những tác phẩm của Hérotote, ông đã nhắc đến điều ấy với một sự dè dặt tối đa. Ông đã diễn tả từng chi tiết những buổi trình diễn văn nghệ tượng trưng và những cuộc lễ bái công cộng, nhưng ông từ chối không chịu tiết lộ những điều bí mật bên trong.
Ông ấy nói như sau: "Đối với những điều huyền bí đó, mà tôi đã được biết đầy đủ, tôi có lời cam kết phải giữ một sự im lặng hoàn toàn." Sử gia Plutarque đã viết rằng:
"Khi ta nghe nói đến huyền thoại của người Ai Cập về các đấng Thần Minh, những chuyến du hành, sự phân thây, và những chuyện huyền hoặc hoang đường khác nữa, ta chớ nên tưởng rằng tất cả những chuyện ấy đều có thật.
Mỗi dân tộc đều có những biểu tượng, khi thì mờ ám, khi thì dễ hiểu, để trình bày những điều chân lý bất hủ. Chính bằng cách đó mà ta nên đọc hoặc nghe những chuyện đó với lòng sùng kính và với một tinh thần triết lý."
Plutarque nói về mục đích điểm đạo ở cấp đẳng Huyền Môn Isis như sau:
"Bằng phương tiện điểm đạo, người thí sinh có thể được chuẩn bị đến mức tối đa để đạt tới sự thông cảm với đấng Tối Cao. Bởi lẽ đó, đền thờ đấng Thiêng Liêng được gọi là Iseion, ám chỉ sự hiểu biết đấng Vô Cùng, bất sinh bất diệt, sự hiểu biết đó có thể đạt được bằng cách điểm đạo nếu người thí sinh đã được chuẩn bị sẵn sàng."
Đó là quan điểm của triết gia Hy lạp Plutarque. Ta hãy nghe nhà hiền triết xứ Syrie tên là Jamblique nói về khoa Huyền Môn Ai Cập mà ông là một vị đạo đồ, như sau:
"Cái tinh hoa và toàn vẹn của mọi đều thiện đều có sẵn nơi các đấng Thần Minh, cái quyền lực đầu tiên và cổ xưa của các ngài cũng là đều sở hữu của các vị tăng lữ ở các đền thờ. Một sự hiểu biết các đấng Thần Minh sẽ phản ảnh lại nơi con người chúng ta, và giúp cho ta tự biết mình.
Cái phần Thiêng Liêng nhất của con người, trước tiên được hợp nhất với Thần Minh, về sau lại bị chướng ngại bởi một sự trói buộc của mọi điều dục vọng trần gian và sự kiềm tỏa của định mệnh. Bởi vậy, cần phải xét xem bằng cách nào con người có thể được giải tỏa khỏi những trái buộc ấy.
Chỉ có sự hiểu biết về Thượng Đế mới phá tan những sợi dây kiềm tỏa đó. Đó là mục đích của Huyền Môn Ai Cập, làm cho con người nâng cao linh hồn mình để hòa hợp với Thượng Đế".
Một vị đạo đồ khác là Proclus nói rằng:
"Trong một cuộc điểm đạo ở mọi cấp đẳng Huyền Môn, các dấng Thần Minh cho thấy nhiều khía cạnh của các ngài. Đôi khi người thí sinh thấy xuất hiện trước mặt y một vầng sáng không hình thể nhất định toát ra từ các ngài, xem dường thể một vầng hào quang.
Có khi vầng hào quang đó khoác lấy hình người, có khi khoác lấy một hình thể khác. Một vài hình thể đó không phải là Thần Minh, và làm cho ta sợ hãi."
Triết gia Platon cũng đả từng được điểm đạo, nói rằng:
"Do hậu quả của lễ điểm đạo thiêng liêng, chúng ta chiêm ngưỡng những linh ảnh giản dị xuất hiện trong một vầng sáng tinh anh, và nhờ được thanh lọc để trở nên tinh khiết, chúng ta được giải thoát được cái xác thân trọng trược, mà từ trước chúng ta vẫn bị dính liền với nó như con sò dính trong cái vỏ."
Như vậy ông muốn nói rằng mục đích tối hậu của sự điểm đạo Huyền Môn là đưa con ngươi trở về với những nguyên tắc tâm linh mà nhân loại đã mất đi từ lúc nguyên thủy.
Một vị đạo đồ khác nữa là Moise, người Do Thái lai Ai Cập. Sách Tân Ước nói rằng "Moise đã từng giáo dục trong tất cả nền minh triết của Ai Cập." Ý nghĩa của câu này là nền minh triết thâm sâu nhất của xứ Ai Cập đã được tiết lộ cho Moise, điều đó không khác gì hơn là sự hiểu biết mà Moise được truyền dạy bởi giáo lý Huyền Môn Ai Cập.
Sách Tân Ước còn nói rằng: "Moise phủ kín mặt bằng một tấm màng che". Tính chất tấm màng che như thế nào, thì đoạn sau này trong sách ấy đã cho ta thấy ý nghĩa của nó:
"Cho đến ngày nay, tấm màng che ấy vẫn phủ kín lên việc đọc sách Cựu Ước" (2è épitre aux Corinthiens). Như vậy, đó không phải là tấm che bằng vải, mà là một tấm màng che kín ý nghĩa của những chữ trong sách, che lấp sự hiểu biết. Bởi đó, tấm màng che mặt của Moise thật ra lời thệ nguyện giữ im lặng và giữ bí mật mà ngài đã cam kết trong cuộc lễ điểm đạo.
Moise đã thu thập được sự minh triết của ngài tại đạo viện thuộc ngôi đền tại thành phố On, mà người Hy Lạp gọi là He'liopolis khi họ chinh phục xứ Ai Cập, một thành phố đã biệt tích ở cách vài dặm phía Bắc Cairo.
He'liopolis và Memphis, một thành phố khác nữa cũng đã biệt tích ngày xưangười ta có thể nhìn thấy từ trên đỉnh Kim Tử Tháp, đều coi Kim Tử Tháp lớn như một nơi thánh điện tối cao để hành lễ điểm đạo Huyền Môn. Thành He'liopolis và ngôi đền lớn của nó ngày nay không còn nữa, những bức tường gạch kiên cố bao bọc chung quanh thành phố và những cột trụ đền đến ngày nay đã bị chôn vùi dưới đống các sâu bốn thước.
Chỉ còn cây thạch tiễn (obe'lisque) bằng đá đỏ ở trước cổng thành là còn đứng vững. Moise đã từng nhìn thấy cây thạch tiễn này vì ông đã đi ngang qua đó nhiều lần. Đó là cây thạch tiễn cổ xưa nhất còn đứng vững ở Ai Cập. Trong số những vị học giả mộ đạo thời cổ đã từng bước chân đến cổng đền này để tìm ánh sánh minh triết, có triết gia Platon và sử gia Herodote.
Những vị này cũng đã thấy cây thạch tiễn đến ngày nay vẫn còn trơ gan cùng tế nguyệt, đứng tro trọi một mình giữa cảnh đồng ruộng bao la. Dưới chân cây thạch tiễn, những nông phu đang cà sâu cuốc bẩm, và hàng ngày dắt trâu ra đồng.
Còn một cây thạch tiễn khác nữa mà vua Thoutmès III dựng lên trước đền thờ Thái Dương ở He'liopolis và ngày nay đang nhô lên cao vút bên bờ sông Tamise ở Luân Đôn. Được biết dưới cái tên là Mũi Kim của Cléopâtre, nó nhắc nhở cho dân chúng thủ đô Anh quốc náo nhiệt phồn hoa ngày nay nhớ lại cả một thế giới đã biệt tích cùng với một nền văn minh lộng lẫy huy hoàng của một thời đại cổ xưa nay không còn nữa.
Cây thạch tiễn có vẽ như một tên quân canh đúng gác cổng đền, còn những hàng chữ ám tự khắc trên bốn mặt của nó thuật lại lịch sử của ngôi đền. Nhưng nó không phải chỉ là một mũi tên khổng lồ bằng đa được dựng lên để khắc chữ trên đó, nó còn là một biểu tượng thiêng liêng, và mũi nhọn của mỗi cây thạch tiễn đều lấy hình dáng một Kim Tử Tháp nhỏ.
Heliopolis ngày xưa là một trung tâm rất lớn về các nghành học thuật cổ điển và đạo lý, nó gồm có đến 13,000 học viên và có một dân số rất đông đảo. Nó có một thư viện nổi tiếng, thư viện này về sau góp phần xây dựng thư viện Alexanrie, danh tiếng nhất của thời đại cổ.
Lúc thiếu thời, Moise đã tiến bộ rất mau chóng, tỏ ra có một học vấn uyên thâm và một đức hạnh gương mẫu đến nỗi ông vượt qua một cách danh dự tất cả những cấp bậc điểm đạo, và đạt tới cấp đẳng cao tột ít người có, là cấp đẳng chân sư. Từ đó, ông đã có thể trở nên một vị đâo trưởng.
Chính tại đạo viện mà ông được thụ huấn trước kia, dính liền với ngôi đền lớn tại Heliopolis, thành phố của mặt trời, mà ông nhận lãnh chức vị đó. Ông đứng làm chủ lễ điểm đạo cho những thí sinh khác theo nghi lễ Huyền Môn Osiris, là lễ nghi thuộc về cấp đẳng cao nhất.
Hồi thời đó, ông có tên là Osarsiph, một tên chữ Ai Cập, vì ông vốn la người Ai Cập lai Do Thái. Đến khúc quanh của đời ông, khi ông nhận sứ mạng mà định mệnh giao phó, ông ghi dấu cơ hội này bằng cách đối lấy một tên người Do Thái. Những người Ai Cập trí thức đều tin rằng tên họ của mỗi người vốn có năng lực thần bí. Vì đó, mà tên Osarsiph đã trở thành Moise.
Vị vua Pharaon trị vì lúc đương thời, vốn là một hôn quân vô đạo và hung ác, ngược đãi người Do Thái một cách bất nhân độc ác đến nỗi làm cho Moise phải động lòng vì chính ông cũng có dòng máu Do Thái trong huyết quản.
Sử chép rằng ông đã giải phóng những bộ lạc Do Thái ra khỏi tình trạng nô lệ, giam cầm, ông đã hướng dẫn họ rời khỏi vùng thung lũng Gochen và noi theo lịch sử ngày xưa vẫn nối liền Châu Phi và Châu Á, con đương mà chính hoàng đế Nã Phá Luân đã cỡi ngựa đi qua và suýt chết chìm khi ông gần đến thành Suez.
Người ta có thể tìm thấy vài mẩu chuyện về sau của Moise trong Kinh Thánh, nhưng những chuyện này lại bị pha lẫn một cách đáng tiếc với những truyền thuyết và huyền thoại mơ hồ.
Năm quyển đầu tiên của bộ sách Cựu Ước, được góp nhặt lại dưới nhan đề Pentateuque là do Moise soạn ra. Những quyển sách ấy chứa đựng một nền minh triết thâm sâu mà Moise muốn truyền lại cho dân tộc Do Thái, nhưng về sau lại có lẫn lộn những yếu tố lịch sử liên quan đến sự sáng tạo thế giới và những chủng tộc đầu tiên của nhân loại.
Thật ra thì Moise, với tư cách một chân sư, từng biết rõ và sử dụng lối văn tự huyền bí của các vị đạo đồ nghĩa là dùng chữ ám tự với một ý nghĩa tâm linh ẩn dấu. Ông soạn bộ sách Pentatueque bằng chữ ám tự Ai Cập mà chỉ có những bậc tăng lữ đã điểm đạo mới có thể hiểu.
Nhưng khi người Do Thái tới định cư tại Palestine, trải qua nhiều thế kỷ, sự hiểu biết về khoa ám tự càng ngày càng giảm sút. Lần lần, giới tăng lữ đã không còn đọc được thứ chữ ấy nữa, và có thể đoán mò một cách khó khăn.
Điều này không co gì lạ, nếu người ta nhờ rằng chính ở tại Ai Cập, vào thế kỷ thứ tư sau Thiên Chúa giáng sinh, phép diễn đạt khoa khoa ám tư đã hoàn toàn mất hẳn. Độ một nghìn năm sau cuộc di cư của dân Do Thái, khi những bậc cao niên lão thành củ dân tộc ấy góp nhặt một bộ sách mà ngày nay ta gọi là Cựu Ước, thì họ gặp phải một khó khăn rất lớn khi đem dịch những quyển sách của Moise ra chữ Do Thái.
Đó là vì Moise đã viết sách ấy bằng thứ chữ riêng của các vị chân sư, còn những bậc trưởng lão Do Thái, dầu có học thức uyên thâm, cũng chưa phải là những vị chân sư đó.
Bởi đó, thường có những chỗ dịch sai nghĩa, những ý nghĩa tượng trưng thì lại bị hiểu lầm như những sự việc có thật, những sự mô tả bằng ám tự được coi mô tả những việc đã xảy ra, những câu ý nghĩa bóng bẫy bị hiểu lệch lạc thành ra những chỗ dịch sai lầm.
Một thí dụ là "Sá ngày tạo thiên lập địa" đối với Moise có nghĩa làsáu chu kỳ thời gian dài đăng đẳng, được gọi là một cách tượng trưng là sáu ngày vì những lý do mà chỉ các vị đạo đồ biết được mà thôi. Nhưng câu ấy được dịch lại sát nghĩa từng chữ, vì các nhà phiên dịch tưởng rằng đó là sáu ngày hai mươi bốn giờ!
Hậu quả là những quyển đầu tiên của bộ Kinh Thánh chứa đựng nhiều sự việc dị kỳ đối với thế hệ hiện tại vì khoa học tiến bộ càng ngày càng kiểm thảo chặt chẽ những bản dịch cổ tự đó từng điểm một.
Nhưng bộ sách Kinh Thánh sẽ trở nên vô cùng phong phú khi người ta đọc nó với sự hiểu biết những chìa khóa bí mật được truyền dạy cho những vị đạo đồ trong các đền cổ bên Ai Cập.
Như vậy, Moise phải được coi như một trong những nhân vật đáng kể nhất đã ngộ đạo trong cơn xuất thần huyền bí của những cuộc điểm đạo Huyền Môn.
#67
Gửi vào 08/06/2011 - 11:49
AI CẬP HUYỀN BÍ
NGÔI ĐỀN DENDERAD
CHƯƠNG TÁM
Trước khi rời khỏi thánh điện trên nóc bằng của ngôi đền Denderad, tôi nhìn xem một vòng Hoàng Đạo (Zodiaque) rất đẹp khắc trên trần. Tôi biết rằng đó chỉ là một phó bổn đã được sao lục lại, vì bổn chánh đã bị tháo gỡ và đem về Ba Lê cách đây trên một thế kỷ. Nhưng phó bổn được sao lại một cách hoàn toàn đúng đắn.
Cái vòng tròn đó chứa đầy những hình ảnh các loài thú, hình người và các vị thần, được sắp chung trong một bầu tròn và ở chung quanh là mười hai cung Hoàng Đạo. Tô điểm thêm cho cái biểu tượng này, có hình mười hai vị thần và nữ thần khác nhau, kẻ đứng, người quì, sắp chung quanh hình bầu tròn, hai tay đưa lên, lòng bàn tay duỗi thẳng nối tiếp nhau thành một vòng tròn.
Như thế, toàn thể vũ trụ lưng chuyển không ngừng được hình dung nơi đây một cách chính xác, tuy rằng dưới hình thức tượng trưng. Đó chính là sự trình bày những bầu thế giới luân chuyển theo một nhịp độ bất di dịch trên một nền trời. Những người biết suy nghĩ, dẫu rằng là người có óc hoài nghi nhất, không khỏi cảm thấy thán phục cái trí óc thông minh tuyệt vời đã làm kiểu mẫu cho cái vũ trụ đó.
Hiểu một cách đúng đắn, thì vòng Hoàng Đạo của đền Denderad hình như mô tả hình trời ở vào một thời kỳ nhất định nào đó trong quá khứ. Vậy đó là thời kỳ nào? Đó là một vấn đề khác. Chúng tôi không thể nêu ra đây những sự giải thích thiên văn trừu tượng và phức tạp. Chỉ biết rằng vị trí các tinh tú ở vào thời đó không trùng hợp với thiên tượng mà người ta quan sát vào thời nay. Xuân Phân Điểm (équinoxe du printemps) không chiếm cùng một vị trí như hiện nay, theo đó mặt trời đang đi vào một chòm sao khác hẳn.
Sự biến chuyển lớn lao đó diễn ra bằng cách nào? Do bởi sự xoay vần của trái đất, mà cái trục liên tục nhắm vào những vì sao Bắc Đẩu khác nhau. Điều đó có nghĩa là Mặt Trời của chúng ta luân chuyển chung quanh một ngôi định tinh riêng của nó. Sự luân chuyển tế vi, khó nhận thấy, của Đường Phân Điểm (équinoxe) trải qua một thời gian dài và chậm chạp, cũng thay đổi những vị trí mọc và lặn của vài bầu tinh tú đối với chòm sao.
Khi đã đo lường sự vận chuyển trung bình của những bầu tinh tú đó, người ta biết có bao nhiêu ngàn năm đã trôi qua kể từ khi chúng nằm ở vị trí đầu tiên. Khoảng cách biệt đó gọi là Tuế Sai (précession des équinoxes). Đó là điểm giao tiếp của đường xích đạo và đường Hoàng Đạo, là chỗ đánh dấu xuân phân điểm, di chuyển một cách chậm chạp trên bầu trời theo cái tuế sai đó.
Nói cách khác, đều đó có nghĩa là những tinh tú di chuyển ngược chiều với mười hai cung Hoàng Đạo, va mỗi năm chỉ vượt qua một phần tối thiểu của không gian. Sự luân chuyển vĩ đại đó của các tinh cầu trên nền trời, thứ vũ trụ kế mà nền trời là cái mặt đồng hồ, trên đó người ta có thể đọc cả hai chiều và ghi nhận những cuộc vận hành của các tinh cầu trong nhiều ngàn năm.
Khi xem xét một bản đồ thiên văn cũ, một nhà thiên văn học có thể xác định bản đồ đó được thiết lập vào thời kỳ nào. Việc nghiên cứu cái dĩ vãng xa xăm đôi khi có thể giúp cho ta tìm ra những sự kiện vô cùng quan trọng.
Khi các nhà tháp tùng theo Napoléon sang Ai Cập phát hiện ra vòng Hoàng Đạo tai đền Denderad, họ lấy làm vô cùng phấn khởi, và tưởng rằng họ đã tìm được cái chìa khóa để tri nguyên ra khoảng thời gian của nền văn minh cổ Ai Cập, vì họ thấy trong vòng Hoàng Đạo đó, xuân phân điểm cách xa vị trí của nó bây giờ.
Nhưng mãi về sau, khi người ta nhận thấy rằng ngôi đền này chỉ mới dựng lên vào thời kỳ đế quốc Hy Lạp La Mã và vòng Hoàng Đạo Ai Cập này đã phối hợp một Hoàng Đạo Hy Lạp, vấn đề này mới bị dẹp bỏ và từ đó người ta không theo vấn đề đó nữa.
Một ý kiến cho rằng vòng Hoàng Đạo này chỉ là của Hy Lạp, nhưng đó là một ý kiến sai lầm. Phải chăng nói như thế là kết luận người Ai Cập không có vòng Hoàng Đạo của họ? Nếu vậy thì giới tăng lữ Ai Cập đã từng khảo cứu khoa chiêm tinh và khoa thiên văn trong bao nhiêu ngàn năm, trước khi người Hy Lạp đặt chân lên xứ Ai Cập, mà lại không có vòng Hoàng Đạo chăng?
Giới tăng lữ Ai Cập đã từng tôn trọng khoa chiêm tinh đến nỗi họ đã xáp nhập khoa này vào tôn giáo của họ, làm cho họ có thể thực hành khoa chiêm tinh mà lại không có một vòng Hoàng Đạo? Ngoài ra những vị tăng lữ Ai Cập cũng rất tinh thông về khoa thiên văn.
Thật vậy, người Ai Cập đã sao lục một phần vòng Hoàng Đạo của họ theo bản chính đã có từ trước tại đền Denderad, ngôi đền này đã được xây đi dựng lại nhiều lần. Một tài liệu thiên văn như thế hẳn là phải được sao lục làm nhiều phó bổn để bảo đảm cho nó được tồn tại muôn đời.
Những tài liệu văn khố cổ xưa cũng được bảo trì bằng cách đó, nhưng lại bị rơi trong quên lãng và rốt cục đã biến mất theo những nhân viên bảo trì văn khố, tức là những vị tăng lữ thời cổ Ai Cập.
Những nhà khảo cổ đã phát hiện tại xứ Mésopotamie những viên gạch cổ xưa, trên đó các nhà thiên văn xứ ấy đã ghi nhận rằng mùa xuân bắt đầu khi mặt trời đi vào chòm sao Kim Ngưu.
Vì lẽ rằng trong kỷ nguyên Thiên Chúa, ngày đó được ghi nhận là ngày Mặt Trời đi vào chòm sao Bạch Dương, tức là ngày 21 tháng 3 dương lịch, người ta nhận thấy tằng một sự thay đổi lớn lao như thế đưa nền văn minh xứ Chaldée thụt lùi về một thời kỳ dĩ vãng xa xăm nhất, đúng như chính người Chaldée đã tuyên bố.
Cũng như thế, cứ xét vị trí của đường điểm phân trong vòng Hoàng Đạo của đền Denderad, thì nó đánh dấu một thời kỳ thái cổ hàng bao nhiêu thế kỷ. Nhờ đó, người ta truy nguyên ra nền văn minh cổ nhất của Ai Cập ở vào thời kỳ nào. Cái vị trí đó chỉ rằng từ đó đến nay, có trên ba "đại niên" rưỡi đã trôi qua trên vũ trụ kế, tức là mặt trời đã xoay vòng chung quanh ngôi định tinh của nó trên ba lần rưỡi.
Sự kiểm điểm chính xác những thống kê thiên văn xác định rằng sự xê dịch trung bình củu tuế sai là 50.2 giây mỗi năm, do đó người ta có thể tính tron g dĩ vãng để đi đến điểm quy định bở vị trí của Hoàng Đạo đền Denderad. Ví vòng lớn của Hoàng Đạo chia làm 360 độ, nên khoảng tuế sai 25, 800 năm lập thành một chu kỳ "đại niên."
Như thế, mỗi chu kỳ trọn vẹn của mặt trời trải qua không dưới 25, 800 năm, tính ra thì ít nhất là 90,000 năm đã trôi qua kể từ cái ngày được ghi nhận trên Hoàng Đạo đền Denderad.
Chín mươi ngàn năm! Phải chăng đó là một điều khó tin? Những vị tăng lữ thông thiên văn Ai Cập không chấp nhận điều đó. Sử gia Hy Lạp Hérodote thuật lại lời các tăng lữ đã nói với ông rằng dân tộc Ai Cập tự cho là dân tộc cổ xưa nhất thế giới, và họ cất giữ trong các đạo viện và các đền thờ cổ những văn khố tài liệu xưa đến 12,000 năm trước khi ông đến viếng xứ này.
Người ta biết Hérodote đã thu thập các tài liệu lịch sử một cách thận trọng tỉ mỉ là dường nào, và ông thực sự xứng đáng gọi là "Người cha của lịch sử." Các vị tăng lữ đó còn nói với ông rằng "Mặt trời đã từng mọc lên hai lần ở tai chỗ mà ngày nay nó lặn, và trái ngược lại."
Lời khẳng định lạ lùng này ngụ ý rằng hai miền cực địa của trái đất đã hoàn toàn đảo lộn những vị trí đầu tiên của chúng, điều này ám chỉ rằng trên địa cầu đã từng có những cuộc biến thiên vĩ đại đã làm thay đổi cục diện các vùng lục địa và đại dương. Những cuộc sưu tầm địa chất học đã xác nhận điều đó, nhưng còn những thời kỳ xảy ra những cơn biến thiên đó thì thụt lùi về một cái dĩ vãng xa xăm tịt mù.
Một hậu quả khác là khí hậu ở các vùng địa cực ngày xưa không phải lạnh lẽo mà đó là khí hậu của miền nhiệt đới. Trạng thái đó của quả địa cầu chỉ có thể gây ra bởi những sự biến chuyển vĩ đại trong không gian, và điều này đã chúng thực lời nói của các vị tăng lữ Ai Cập.
Những vị tăng lữ ấy không hề biết gì về khoa địa chất học hiện đại, họ chỉ có những tài liệu cổ khắc trên mặt đá của những cây thực tiễn, trên những tấm bia đá, những mâm đồng, hoặc viết trên lá cây chỉ thảo. Ngoài ra còn có những giáo điều và lịch sử bí truyền chỉ được tiết lộ trong khoa Huyền Môn, hoặc được truyền khẩu cho môn đồ trong các đạo viện trải qua bằng bao nhiêu thế kỷ.
Bằng cách nào giới tăng lữ, tuy không biết gì về địa chất học, lại biết được những sự biến thiên và dời đổi cuộc diện trên địa cầu, nếu không phải là nhờ những tài liệu cổ của họ? Sự hiểu biết đó càng xác nhận sự kiện rằng họ đã nắm giữ được những tài liệu đó, và cũng giải thích sự hiện hữu của những vòng Hoàng Đạo chính cống mà bổn Hoàng Đạo của đền Denderad chỉ ghi chép lại một phần.
Do những sự việc kể trên, một khoảng thời gian 90,000 năm không còn là chuyện mơ hồ khó tin. Điều đó không nhất thiết có nghĩa là nền văn minh Ai Cập. Có thể rằng dân tộc và nền văn minh Ai Cập đã từng có trên một vùng lục địa khác và chỉ di cư sang Châu Phi trong một thời kỳ về sau này.
Lịch sử Ai Cập bắt đầu ở triều đại thứ nhất, nhưng ta phải nhớ rằng xứ ấy đã từng có người ở từ lâu trước thời kỳ của tài liệu cổ xưa nhất còn tồn tại đến bây giờ. Lịch sử của dân tộc Ai Cập cổ xưa và những tên tuổi của những vị vua chúa của họ là những điều mà các nhà Ai Cập học không hề biết. Lịch sử Ai Cập thời thái cổ dính liền với lịch sử (đã mất) của châu Atlantide.
Các vị tăng lữ Ai Cập cũng là những nhà thiên văn, đã thừa hưởng vòng Hoảng Đạo của họ từ châu Atlantide. Đó là lý do vì sao vòng Hoàng Đạo của đền Denderad có thể cho thấy dấu vết của những cuộc vận hành tinh tú khổng lồ trải qua những giòng thời gian dài vô tận so với những vòng Hoàng Đạo của kỷ nguyên lịch sử.
Sự khám phá mỗi di tích mới của nền văn minh cổ xưa đó làm cho chúng ta phải thốt ra những tiếng kêu ngạc nhiên. Trong khi mà, Theov những quan niệm của chúng ta về sự "Tiến bộ" chúng ta tưởng rằng càng đi thụt lùi về dĩ vãng, thì chỉ có giống người càng thô kệch và dã man hơn, nhưng trái lại có khi ta lại thấy có những dân tộc văn minh, tiến hóa và rất tôn sùng tín ngưỡng tôn giáo.
Dẫu cho ở vào một vài thời kỳ tiền sử xa xăm, cũng có những dân tộc dã man và những dân tộc văn minh sống đồng thời với nhau trên địa cầu. Khoa học, tuy đã phát họa cho ta thấy một thời quá khứ của địa cầu nó thách thức tầm hiểu biết thiển cận của chúng ta, nhưng vẫn chưa có đủ dữ kiện để trình bày đầy đủ những chi tiết về những thời kỳ đó.
Nhưng khoa học vẫn tiến bộ không ngừng, và sẽ có thể làm được điều đó. Vậy chúng ta chớ nên phủ nhận một cách vội vàng những truyền thống cổ Ai Cập về con số 90,000 ngàn năm, và cũng đừng nên vội chấp nhận con số năm hay sáu ngàn năm lịch sử của nhân loại như người ta vẫn thường nhìn nhận.
Tuổi của quả địa cầu luôn luôn đính chánh sự tin tưởng này của những người có một quan niệm quá nghèo nàn về tổ tiên của chúng ta, sự hiểu biết về quá trình của vũ trụ sẽ có thể đem đến cho họ, tuy không phải là một cách dễ dàng, những tầm nhãn quang bao quát và rộng lớn hơn nữa.
Trong những khoảng không gian bao la vô tận, phải chăng còn có những nghĩa địa của càn khôn, ở nơi đó có những tinh cầu chết và những bầu tinh tú tắt nguội, đã từng có một thời phát triển trong những nền văn minh rực rỡ huy hoàng ngày nay đã mất?
Tôi bước xuống cầu thang và trở ra cửa ngoài đã quan sát phía bên trong ngôi đền lớn mà lúc đầu tôi đã đi qua nhanh để tìm nơi thánh điện Huyền Môn mà tôi muốn xem trước hết. Trong gian phòng rộng, hai mươi bốn cây cột lớn mang trên chớp vuông gương mặt chạm trỗ nhưng đã bị sứt mẻ của nữ thần Hathor, những mặt cột đền có khắc đầy những hàng chữ ám tự.
Thật đáng buồn mà thấy rằng ngôi đền thờ nữ thần Hathor, vị nữ thần Ai Cập tượng trưng Sắc Đẹp và Ái Tình, đã thoát khỏi sự tàn phá của thời gian để rồi lại bị tàn phá nhiều hơn do bàn tay phủ phàng của con người. Hầu hết pho tượng của nữ thần đều bị chặt, đẽo bằng búa rều, do sự phẫn nộ của những người cuồng tín, những gương mặt bị sứt mẻ chỉ còn thấy những vành lỗ tai dài và những mái tóc dầy cộm.
Dền Denderad là một trong những ngôi đền đồ sộ to lớn nhất của Ai Cập, và trong số những đền mà người ta còn tế lễ thờ phượng khi hoàng đế La Mã Théodose, vào năm 379 sau Thiên Chúa kỷ nguyên, ban hành một chỉ dụ ngăn cấm nền tôn giáo cổ đã suy tàn và làm cho nó chết hẳn.
Viên sứ giả của hoàng đế là Cynegius đã thio hành lệnh cấm ấy một cách vô cùng gắt gao. Ông tuyên bố đóng cửa tất cả các đền thờ và các đạo viện, ngăn cấm mọi cuộc hành lễ điểm đạo và những nghi lễ cổ truyền.
Lúc đó những đám dân cuồng tín đột nhập đền Denderad, đuổi các tăng lữ và xâm phạm vào những nơi thánh điện thiêng liêng. Họ phá hũy các pho tượng nữ thần Hathor, cướp bốc những đồ vàng ngọc, chặt đẽo gương mặt xinh đẹp và chạm trổ tinh vi của nử thần, ở bất cứ nơi nào họ đi đến.
Ở những nơi khác, sự tàn phá còn khóc liệt hơn nữa, vì người ta phá hủy các tường rào, triệt hạ những cột đền và đập tan từng mảnh những pho tượng khổng lồ, người ta tiêu diệt công trình của bao nhiêu ngàn năm.
Đó là những biến thiên của nền tôn giáo mà những tín đồ lúc đầu đã chịu đựng những sự ngược đãi bắt bớ, chịu pháp nạn rồi tử vì Đạo, và cuối cùng lại dành một sự ngược đãi tương tự cho kẻ khác. Họ cho rằng bổn phận họ phải phá hủy công trình của tiền nhân, để tạo nên một công trình khác thích hợp với họ.
Lúc bước vào đền, tôi nghĩ đến các vì vua của triều đại Ptolémeé, những vì vua kiêu hãnh đã từng đến ngôi đền này trên những cổ xe thếp vàng óng ánh, trước một đám quần chúng im lặng và tôn kính. Thời đó, đã có bao nhiêu là đám rước lễ long trọng, náo nhiệt tưng bừng, diễn ra trên sân đền rộng lớn, mà ngày nay sân đền lại vắng tanh không một bóng người!
Nhìn di tích của chánh điện mà lòng tôi còn thấy buồn man mác, huống chi là những hang động âm u ở dưới hầm mà tôi đang bước đến? Những gian phòng tối đen dưới hầm này được xây bên tron gnhững bức tường nền dầy kinh khủng. Vách tường cũng được tô điểm bằng những hình ảnh chạm trổ rất công phu, mô tả những cuộc lễ điểm đạo thiêng liêng ngày xưa đã từng diễn ra ở dưới hầm này.
Rời những hầm tối đen giống như những nhà mồ, tôi trở lại chỗ cửa chính. Cổng đền ngày xưa được khép bằng những cánh cửa bằng đồng rất kiên cố thếp vàng sáng chói lộng lẫy. Tôi bước ra ngoài và đi quanh một vòng chung quanh đền.
Thật khó mà tin rằng khio vua Ả Rập Abbas Pacha phát hiện ra ngôi đền này giữa thế kỷ 19, phần lớn đã bị chôn vùi dưới một đồi cát và sỏi vụn. Nó được phơi bày ra ánh sáng trở lại nhờ bởi những nhát cuốc xẻng của những phụ thợ đến làm công việc đồi cát này. Có bao nhiêu người đã đi qua vùng này ngày xưa, mà không hề biết đến cái kho tàng thiêng liêng của dĩ vãng mà họ đang dày xéo dưới gót chân của họ.
Tôi ngừng lại một lúc để nhìn lên mặt ngoài tường cái hình nổi chạn trổ chân dung nữ hoàng Cléopâtre. Vị nữ hoàng Ai Cập này lúc đương thời đã ra lệnh tu bổ bức tường chung quanh đền, hồi đó đã bắt đầu sụp lở. Để ghi tạ công đức, người ta đã tạc tượng nữ hoàng ở trên tường để làm kỷ niệm.
Hoàng tử Césarion cũng được khắc tượng ở một bên nữ hoàng, giống người cha một cách lạ thường. Nữ hoàng Cléopatre, con gái của vua Ptolémée, cũng là người cuối cùng trong tất cả các nữ hoàng Ai Cập. Khi hoàng đế Jules César cầm quân vượt biển Địa Trung Hải đi chinh phục xứ Ai Cập, thì nữ hoàng Cléopâtre đã trở nên tình nhân của vua ngay từ khi César vừa đổ bộ lên đất liền.
Chính do sự trung gian của Cesar mà nữ hoàng đã hướng xứ Ai Cập đến việc liên kết với một hải đảo xa xôi, mà định mệnh đã đặt để rằng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Ai Cập trên 18 thế kỷ về sau!
Và những quân sĩ La Mã cũng đã đem vào Anh Quốc tôn giáoSérapis, cùng với bao nhiêu di sản tinh thần khác nguồn gốc Ai Cập. Một sự liên lạc, tuy gián tiếp, đã bắt đầu có giữa hai nước kể từ khi đó.
Trên bức tường chạm trổ, nữ hoàng Cléopatre đội cái thứ mão tròn như cái dĩa có sừng, giống như mão của nữ thần Hathor, để bộ mái tóc dài thắt bính. Gương mặt đầy đặn và xinh đẹp, tướng mạo uy nghi của một bậc vương giả quren truyền lịnh và sai phái kẻ dưới, cương quyết thực hiện mọi kế hoạch đến cùng, bằng mọi phương tiện.
Chính do ành hưởng của nữ hoàng mà Jules César đã nuôi cái mộng dùng thành Alexandrie làm kinh đô của đế quốc La Mã và trung tâm của thế giới. Khi Cléopâtre qua đời, thì nền độc lập của Ai Cập cũng không còn nữa.
Tôi hồi tưởng lại rằng Cléopâtre cũng là một giai nhân tuyệt sắc củu thế giới cổ xưa, và là một trong những người đàn bà đã từng đóng vai trò quyết định của lịch sử. Có ai ngờ rằng vận mệnh của một bậc vĩ nhân, vận mệnh của cả một đế quốc rộng lớn, có đôi khi lại treo lơ lửng dưới cái nụ cười quyền rũ hiện ra trên đôi môi xinh đẹp của một giai nhân?
Phần trên những vách tường đá của ngôi đền đều có khắc hàng chữ ám tự (hiéroglyphes). Truyền thuyết cho rằng loại chữ ám tự của thời cổ Ai Cập là do vị thánh sư Thoth tức Tehuti, phát minh ra. Điều này cũng có một sự thật về lịch sử.
Vì chính một vị siêu nhân, một đấng Chân Sư daqnh hiệu là Thoth, đã đem thứ chữ này, như một sự tiết lộ của thánh thần, cho những con cháu của dân Atlante di cư sang vùng đất mới trên bờ sông Nil, trước khi những luồng sóng cuối cùng đã nhận chìm châu Atlantide xuống đáy biển. Vị chân sư Thoth cũng là tác giả của quyển Tử Thư (Sách của người chết).
Người Ai Cập mô tả chữ ám tự của họ là thứ ngôn ngữ của Thần Minh. Đó là bởi vì không những họ tin rằng loại chữ này được Thần Minh ban cho họ, mà cũng vì nghĩa ẩn dấu của nó được giữ kín đối với quần chúng và chỉ tiết lộ cho những vị môn đồ Huyền Môn đã được điểm đạo.
Những nhà Ai Cập hiện đại chỉ có thể hiểu được ý nghĩa thông thường của chữ ám tự theo sự hiểu biết của người bình dân, điều đó đã là một thành quả vẻ quang rồi. Còn cái ý nghĩa ẩn dấu, bí truyền thì họ tịt mù chẳng biết gì cả.
Đó là bởi vì muốn thấu triệt loại chữ ám tự, ngôn ngữ của Thần Minh, người ta phải cần dùng đến một thứ đạo nhỡn, để hiểu biết nó trên khía cạnh tâm linh, chứ nếu không, thì không thể nào hiểu tận cùng đến chỗ sâu xa huyền diệu của nó. Điều này cũng tương tự như trường hợp của người thí sinh muốn thấu hiểu những pháp môn bí truyền được tiết lộ cho y trong các cuộc lễ điểm đạo của phái Huyền Môn Ai Cập.
Nhờ công trình của các nhà Ai Cập học, và nột phần cũng do bàn tay của định mệnh, những kho tàng tâm linh quý báu thể hiện nơi những hàng chữ ám tự khắc trên tường đá trong các đền thờ hoặc viết trong những pho sách cổ bằng lá cây chỉ thảo, mới được phiên dịch ra và lưu truyèn lại cho hậu thế.
Vai trò của định mệnh trong sự khám phá này thật là la lùng. Nếu Napoléon không đem binh viễn chinh sang Ai Cập, thì loại ngôn ngữ huyền bí khắc trên tường và viết trên giấy chỉ thảo ngày nay có lẽ vẫn còn câm lặng không hề có người đọc.
Chính Napoléon vẫn từng là người của định mệnh đến một mức độ phi thường. Ông ta không hề tiếp xúc với một quốc gia nào, một cá nhân nào, hay một nhân vật nào mà không ảnh hưởng sâu rộng đến vận mạng của họ. Ông là khí cụ của định mệnh, hay là của thần Némésis.
Cuộc viễn chinh của Napoléon sang Ai Cập đã dọn đường cho sự tìm tòi khảo cứu về cách sinh hoạt và tư tưởng xứ Ai Cập thời cổ. Khi xứ Ai Cập bị đặt dưới quyền đô hộ của Hy Lạp, loại ngôn ngữ cổ xưa này bị suy sụp. Lẽ tự nhiên là chính quyền toan tính phổ biến ngôn ngữ và nền giáo dục Hy Lạp trong những giai cấp có học thức.
Những quan chức quan trọng trong chính quyền đều dành cho những người Ai Cập giữ chức giỏi chữ Hy Lạp. Nhà cầm quyền Ai Cập đóng cửa các đạo viện cổ ở He'liopolis, là nơi đào tạo rất đông những tăng lữ thời xưa và nơi truyền bá sự học hỏi ngôn ngữ Ai Cập. Trừ ra một số ít tăng lữ vẫn duy trì việc dùng tiếng Ai Cập trong vòng bí mật, chữ Hy Lạp đã thật sự trở nên một thứ quốc ngữ Ai Cập.
Đến cuối thế kỷ thứ 3 của Thiên Chúa kỷ nguyên, trong xứ Ai Cập người ta không còn tìm thấy một người nào có thể giải thích ý nghĩa thông thường bình dân của chữ ám tự cổ nữa, đừng nói chi đến việc sử dụng thứ chữ ấy. Mười lăm thế kỷ đã trôi qua.
Việc dùng chữ ám tự dường như đã hoàn toàn biến mất ở Ai Cập, thì đột nhiên xuất hiện trước hải cảng Alexandrie, do một cơn bão tắp vào bến, và vượt qua sự canh tuần của hạm đội Anh dưới quyền chỉ huy của đô đốc Nelson, chiếc thuyền chở Napoleon và định mệnh của người.
Không bao lâu, quân đội viễn chinh Pháp được chuyển đến sứ Ai Cập. Người ta đào đất ở nhiều nơi để xây móng đắp nền làm những công sự phòng thủ. Một trong những địa điển lần đầu tiên được lựa chọn do bởi tầm quan trọng chiến lược của nó là vùng châu thổ sông Nil, kế cận hải cảng Rosette.
Một viên sĩ quan trẻ tuổi, trung úy pháo binh Boussard, đã phát hiện một điều vô cùng quan trọng như một sự tình cờ đưa đến cái chìa khóa để truy ra ý nghĩa của các ám tự Ai Cập. Trong khi đào đất đắp nền xây pháo đài St Juluen, những quân sĩ của ông ta thình lình đào được một khối đá đen đã bể.
Trung úy Boussard liền hiểu ngay rằng tảng đá này có một tầm quan trọng rất lớn vì nó có khắc chữ, đó là một sắc lệnh của giới tăng lữ thành Memphis ban bằng sắc danh dự cho vua Ptolémeé thứ 5. Bản chính bằng chữ Hy Lạp khắc trên 54 giòng, kèm theo hai bản dịch ra chữ ám tự và cổ tự.
Viên đá này được gởi về Châu Âu, tại đây các nhà bác học mới ra công nghiên cứu cho đến khi họ có thể thiết lập toàn bộ chữ cái ám tự Ai Cập tương đương với những cái Hy Lạp. Cái chìa khóa này từ đó đã giúp cho các nhà khảo cổ và Ai Cập học đọc được những bản chữ ám tự khắc trên tường và trong các sách chỉ thảo đã từng là những điều bí hiểm trong bao nhiêu thế kỷ.
NGÔI ĐỀN DENDERAD
CHƯƠNG TÁM
Trước khi rời khỏi thánh điện trên nóc bằng của ngôi đền Denderad, tôi nhìn xem một vòng Hoàng Đạo (Zodiaque) rất đẹp khắc trên trần. Tôi biết rằng đó chỉ là một phó bổn đã được sao lục lại, vì bổn chánh đã bị tháo gỡ và đem về Ba Lê cách đây trên một thế kỷ. Nhưng phó bổn được sao lại một cách hoàn toàn đúng đắn.
Cái vòng tròn đó chứa đầy những hình ảnh các loài thú, hình người và các vị thần, được sắp chung trong một bầu tròn và ở chung quanh là mười hai cung Hoàng Đạo. Tô điểm thêm cho cái biểu tượng này, có hình mười hai vị thần và nữ thần khác nhau, kẻ đứng, người quì, sắp chung quanh hình bầu tròn, hai tay đưa lên, lòng bàn tay duỗi thẳng nối tiếp nhau thành một vòng tròn.
Như thế, toàn thể vũ trụ lưng chuyển không ngừng được hình dung nơi đây một cách chính xác, tuy rằng dưới hình thức tượng trưng. Đó chính là sự trình bày những bầu thế giới luân chuyển theo một nhịp độ bất di dịch trên một nền trời. Những người biết suy nghĩ, dẫu rằng là người có óc hoài nghi nhất, không khỏi cảm thấy thán phục cái trí óc thông minh tuyệt vời đã làm kiểu mẫu cho cái vũ trụ đó.
Hiểu một cách đúng đắn, thì vòng Hoàng Đạo của đền Denderad hình như mô tả hình trời ở vào một thời kỳ nhất định nào đó trong quá khứ. Vậy đó là thời kỳ nào? Đó là một vấn đề khác. Chúng tôi không thể nêu ra đây những sự giải thích thiên văn trừu tượng và phức tạp. Chỉ biết rằng vị trí các tinh tú ở vào thời đó không trùng hợp với thiên tượng mà người ta quan sát vào thời nay. Xuân Phân Điểm (équinoxe du printemps) không chiếm cùng một vị trí như hiện nay, theo đó mặt trời đang đi vào một chòm sao khác hẳn.
Sự biến chuyển lớn lao đó diễn ra bằng cách nào? Do bởi sự xoay vần của trái đất, mà cái trục liên tục nhắm vào những vì sao Bắc Đẩu khác nhau. Điều đó có nghĩa là Mặt Trời của chúng ta luân chuyển chung quanh một ngôi định tinh riêng của nó. Sự luân chuyển tế vi, khó nhận thấy, của Đường Phân Điểm (équinoxe) trải qua một thời gian dài và chậm chạp, cũng thay đổi những vị trí mọc và lặn của vài bầu tinh tú đối với chòm sao.
Khi đã đo lường sự vận chuyển trung bình của những bầu tinh tú đó, người ta biết có bao nhiêu ngàn năm đã trôi qua kể từ khi chúng nằm ở vị trí đầu tiên. Khoảng cách biệt đó gọi là Tuế Sai (précession des équinoxes). Đó là điểm giao tiếp của đường xích đạo và đường Hoàng Đạo, là chỗ đánh dấu xuân phân điểm, di chuyển một cách chậm chạp trên bầu trời theo cái tuế sai đó.
Nói cách khác, đều đó có nghĩa là những tinh tú di chuyển ngược chiều với mười hai cung Hoàng Đạo, va mỗi năm chỉ vượt qua một phần tối thiểu của không gian. Sự luân chuyển vĩ đại đó của các tinh cầu trên nền trời, thứ vũ trụ kế mà nền trời là cái mặt đồng hồ, trên đó người ta có thể đọc cả hai chiều và ghi nhận những cuộc vận hành của các tinh cầu trong nhiều ngàn năm.
Khi xem xét một bản đồ thiên văn cũ, một nhà thiên văn học có thể xác định bản đồ đó được thiết lập vào thời kỳ nào. Việc nghiên cứu cái dĩ vãng xa xăm đôi khi có thể giúp cho ta tìm ra những sự kiện vô cùng quan trọng.
Khi các nhà tháp tùng theo Napoléon sang Ai Cập phát hiện ra vòng Hoàng Đạo tai đền Denderad, họ lấy làm vô cùng phấn khởi, và tưởng rằng họ đã tìm được cái chìa khóa để tri nguyên ra khoảng thời gian của nền văn minh cổ Ai Cập, vì họ thấy trong vòng Hoàng Đạo đó, xuân phân điểm cách xa vị trí của nó bây giờ.
Nhưng mãi về sau, khi người ta nhận thấy rằng ngôi đền này chỉ mới dựng lên vào thời kỳ đế quốc Hy Lạp La Mã và vòng Hoàng Đạo Ai Cập này đã phối hợp một Hoàng Đạo Hy Lạp, vấn đề này mới bị dẹp bỏ và từ đó người ta không theo vấn đề đó nữa.
Một ý kiến cho rằng vòng Hoàng Đạo này chỉ là của Hy Lạp, nhưng đó là một ý kiến sai lầm. Phải chăng nói như thế là kết luận người Ai Cập không có vòng Hoàng Đạo của họ? Nếu vậy thì giới tăng lữ Ai Cập đã từng khảo cứu khoa chiêm tinh và khoa thiên văn trong bao nhiêu ngàn năm, trước khi người Hy Lạp đặt chân lên xứ Ai Cập, mà lại không có vòng Hoàng Đạo chăng?
Giới tăng lữ Ai Cập đã từng tôn trọng khoa chiêm tinh đến nỗi họ đã xáp nhập khoa này vào tôn giáo của họ, làm cho họ có thể thực hành khoa chiêm tinh mà lại không có một vòng Hoàng Đạo? Ngoài ra những vị tăng lữ Ai Cập cũng rất tinh thông về khoa thiên văn.
Thật vậy, người Ai Cập đã sao lục một phần vòng Hoàng Đạo của họ theo bản chính đã có từ trước tại đền Denderad, ngôi đền này đã được xây đi dựng lại nhiều lần. Một tài liệu thiên văn như thế hẳn là phải được sao lục làm nhiều phó bổn để bảo đảm cho nó được tồn tại muôn đời.
Những tài liệu văn khố cổ xưa cũng được bảo trì bằng cách đó, nhưng lại bị rơi trong quên lãng và rốt cục đã biến mất theo những nhân viên bảo trì văn khố, tức là những vị tăng lữ thời cổ Ai Cập.
Những nhà khảo cổ đã phát hiện tại xứ Mésopotamie những viên gạch cổ xưa, trên đó các nhà thiên văn xứ ấy đã ghi nhận rằng mùa xuân bắt đầu khi mặt trời đi vào chòm sao Kim Ngưu.
Vì lẽ rằng trong kỷ nguyên Thiên Chúa, ngày đó được ghi nhận là ngày Mặt Trời đi vào chòm sao Bạch Dương, tức là ngày 21 tháng 3 dương lịch, người ta nhận thấy tằng một sự thay đổi lớn lao như thế đưa nền văn minh xứ Chaldée thụt lùi về một thời kỳ dĩ vãng xa xăm nhất, đúng như chính người Chaldée đã tuyên bố.
Cũng như thế, cứ xét vị trí của đường điểm phân trong vòng Hoàng Đạo của đền Denderad, thì nó đánh dấu một thời kỳ thái cổ hàng bao nhiêu thế kỷ. Nhờ đó, người ta truy nguyên ra nền văn minh cổ nhất của Ai Cập ở vào thời kỳ nào. Cái vị trí đó chỉ rằng từ đó đến nay, có trên ba "đại niên" rưỡi đã trôi qua trên vũ trụ kế, tức là mặt trời đã xoay vòng chung quanh ngôi định tinh của nó trên ba lần rưỡi.
Sự kiểm điểm chính xác những thống kê thiên văn xác định rằng sự xê dịch trung bình củu tuế sai là 50.2 giây mỗi năm, do đó người ta có thể tính tron g dĩ vãng để đi đến điểm quy định bở vị trí của Hoàng Đạo đền Denderad. Ví vòng lớn của Hoàng Đạo chia làm 360 độ, nên khoảng tuế sai 25, 800 năm lập thành một chu kỳ "đại niên."
Như thế, mỗi chu kỳ trọn vẹn của mặt trời trải qua không dưới 25, 800 năm, tính ra thì ít nhất là 90,000 năm đã trôi qua kể từ cái ngày được ghi nhận trên Hoàng Đạo đền Denderad.
Chín mươi ngàn năm! Phải chăng đó là một điều khó tin? Những vị tăng lữ thông thiên văn Ai Cập không chấp nhận điều đó. Sử gia Hy Lạp Hérodote thuật lại lời các tăng lữ đã nói với ông rằng dân tộc Ai Cập tự cho là dân tộc cổ xưa nhất thế giới, và họ cất giữ trong các đạo viện và các đền thờ cổ những văn khố tài liệu xưa đến 12,000 năm trước khi ông đến viếng xứ này.
Người ta biết Hérodote đã thu thập các tài liệu lịch sử một cách thận trọng tỉ mỉ là dường nào, và ông thực sự xứng đáng gọi là "Người cha của lịch sử." Các vị tăng lữ đó còn nói với ông rằng "Mặt trời đã từng mọc lên hai lần ở tai chỗ mà ngày nay nó lặn, và trái ngược lại."
Lời khẳng định lạ lùng này ngụ ý rằng hai miền cực địa của trái đất đã hoàn toàn đảo lộn những vị trí đầu tiên của chúng, điều này ám chỉ rằng trên địa cầu đã từng có những cuộc biến thiên vĩ đại đã làm thay đổi cục diện các vùng lục địa và đại dương. Những cuộc sưu tầm địa chất học đã xác nhận điều đó, nhưng còn những thời kỳ xảy ra những cơn biến thiên đó thì thụt lùi về một cái dĩ vãng xa xăm tịt mù.
Một hậu quả khác là khí hậu ở các vùng địa cực ngày xưa không phải lạnh lẽo mà đó là khí hậu của miền nhiệt đới. Trạng thái đó của quả địa cầu chỉ có thể gây ra bởi những sự biến chuyển vĩ đại trong không gian, và điều này đã chúng thực lời nói của các vị tăng lữ Ai Cập.
Những vị tăng lữ ấy không hề biết gì về khoa địa chất học hiện đại, họ chỉ có những tài liệu cổ khắc trên mặt đá của những cây thực tiễn, trên những tấm bia đá, những mâm đồng, hoặc viết trên lá cây chỉ thảo. Ngoài ra còn có những giáo điều và lịch sử bí truyền chỉ được tiết lộ trong khoa Huyền Môn, hoặc được truyền khẩu cho môn đồ trong các đạo viện trải qua bằng bao nhiêu thế kỷ.
Bằng cách nào giới tăng lữ, tuy không biết gì về địa chất học, lại biết được những sự biến thiên và dời đổi cuộc diện trên địa cầu, nếu không phải là nhờ những tài liệu cổ của họ? Sự hiểu biết đó càng xác nhận sự kiện rằng họ đã nắm giữ được những tài liệu đó, và cũng giải thích sự hiện hữu của những vòng Hoàng Đạo chính cống mà bổn Hoàng Đạo của đền Denderad chỉ ghi chép lại một phần.
Do những sự việc kể trên, một khoảng thời gian 90,000 năm không còn là chuyện mơ hồ khó tin. Điều đó không nhất thiết có nghĩa là nền văn minh Ai Cập. Có thể rằng dân tộc và nền văn minh Ai Cập đã từng có trên một vùng lục địa khác và chỉ di cư sang Châu Phi trong một thời kỳ về sau này.
Lịch sử Ai Cập bắt đầu ở triều đại thứ nhất, nhưng ta phải nhớ rằng xứ ấy đã từng có người ở từ lâu trước thời kỳ của tài liệu cổ xưa nhất còn tồn tại đến bây giờ. Lịch sử của dân tộc Ai Cập cổ xưa và những tên tuổi của những vị vua chúa của họ là những điều mà các nhà Ai Cập học không hề biết. Lịch sử Ai Cập thời thái cổ dính liền với lịch sử (đã mất) của châu Atlantide.
Các vị tăng lữ Ai Cập cũng là những nhà thiên văn, đã thừa hưởng vòng Hoảng Đạo của họ từ châu Atlantide. Đó là lý do vì sao vòng Hoàng Đạo của đền Denderad có thể cho thấy dấu vết của những cuộc vận hành tinh tú khổng lồ trải qua những giòng thời gian dài vô tận so với những vòng Hoàng Đạo của kỷ nguyên lịch sử.
Sự khám phá mỗi di tích mới của nền văn minh cổ xưa đó làm cho chúng ta phải thốt ra những tiếng kêu ngạc nhiên. Trong khi mà, Theov những quan niệm của chúng ta về sự "Tiến bộ" chúng ta tưởng rằng càng đi thụt lùi về dĩ vãng, thì chỉ có giống người càng thô kệch và dã man hơn, nhưng trái lại có khi ta lại thấy có những dân tộc văn minh, tiến hóa và rất tôn sùng tín ngưỡng tôn giáo.
Dẫu cho ở vào một vài thời kỳ tiền sử xa xăm, cũng có những dân tộc dã man và những dân tộc văn minh sống đồng thời với nhau trên địa cầu. Khoa học, tuy đã phát họa cho ta thấy một thời quá khứ của địa cầu nó thách thức tầm hiểu biết thiển cận của chúng ta, nhưng vẫn chưa có đủ dữ kiện để trình bày đầy đủ những chi tiết về những thời kỳ đó.
Nhưng khoa học vẫn tiến bộ không ngừng, và sẽ có thể làm được điều đó. Vậy chúng ta chớ nên phủ nhận một cách vội vàng những truyền thống cổ Ai Cập về con số 90,000 ngàn năm, và cũng đừng nên vội chấp nhận con số năm hay sáu ngàn năm lịch sử của nhân loại như người ta vẫn thường nhìn nhận.
Tuổi của quả địa cầu luôn luôn đính chánh sự tin tưởng này của những người có một quan niệm quá nghèo nàn về tổ tiên của chúng ta, sự hiểu biết về quá trình của vũ trụ sẽ có thể đem đến cho họ, tuy không phải là một cách dễ dàng, những tầm nhãn quang bao quát và rộng lớn hơn nữa.
Trong những khoảng không gian bao la vô tận, phải chăng còn có những nghĩa địa của càn khôn, ở nơi đó có những tinh cầu chết và những bầu tinh tú tắt nguội, đã từng có một thời phát triển trong những nền văn minh rực rỡ huy hoàng ngày nay đã mất?
Tôi bước xuống cầu thang và trở ra cửa ngoài đã quan sát phía bên trong ngôi đền lớn mà lúc đầu tôi đã đi qua nhanh để tìm nơi thánh điện Huyền Môn mà tôi muốn xem trước hết. Trong gian phòng rộng, hai mươi bốn cây cột lớn mang trên chớp vuông gương mặt chạm trỗ nhưng đã bị sứt mẻ của nữ thần Hathor, những mặt cột đền có khắc đầy những hàng chữ ám tự.
Thật đáng buồn mà thấy rằng ngôi đền thờ nữ thần Hathor, vị nữ thần Ai Cập tượng trưng Sắc Đẹp và Ái Tình, đã thoát khỏi sự tàn phá của thời gian để rồi lại bị tàn phá nhiều hơn do bàn tay phủ phàng của con người. Hầu hết pho tượng của nữ thần đều bị chặt, đẽo bằng búa rều, do sự phẫn nộ của những người cuồng tín, những gương mặt bị sứt mẻ chỉ còn thấy những vành lỗ tai dài và những mái tóc dầy cộm.
Dền Denderad là một trong những ngôi đền đồ sộ to lớn nhất của Ai Cập, và trong số những đền mà người ta còn tế lễ thờ phượng khi hoàng đế La Mã Théodose, vào năm 379 sau Thiên Chúa kỷ nguyên, ban hành một chỉ dụ ngăn cấm nền tôn giáo cổ đã suy tàn và làm cho nó chết hẳn.
Viên sứ giả của hoàng đế là Cynegius đã thio hành lệnh cấm ấy một cách vô cùng gắt gao. Ông tuyên bố đóng cửa tất cả các đền thờ và các đạo viện, ngăn cấm mọi cuộc hành lễ điểm đạo và những nghi lễ cổ truyền.
Lúc đó những đám dân cuồng tín đột nhập đền Denderad, đuổi các tăng lữ và xâm phạm vào những nơi thánh điện thiêng liêng. Họ phá hũy các pho tượng nữ thần Hathor, cướp bốc những đồ vàng ngọc, chặt đẽo gương mặt xinh đẹp và chạm trổ tinh vi của nử thần, ở bất cứ nơi nào họ đi đến.
Ở những nơi khác, sự tàn phá còn khóc liệt hơn nữa, vì người ta phá hủy các tường rào, triệt hạ những cột đền và đập tan từng mảnh những pho tượng khổng lồ, người ta tiêu diệt công trình của bao nhiêu ngàn năm.
Đó là những biến thiên của nền tôn giáo mà những tín đồ lúc đầu đã chịu đựng những sự ngược đãi bắt bớ, chịu pháp nạn rồi tử vì Đạo, và cuối cùng lại dành một sự ngược đãi tương tự cho kẻ khác. Họ cho rằng bổn phận họ phải phá hủy công trình của tiền nhân, để tạo nên một công trình khác thích hợp với họ.
Lúc bước vào đền, tôi nghĩ đến các vì vua của triều đại Ptolémeé, những vì vua kiêu hãnh đã từng đến ngôi đền này trên những cổ xe thếp vàng óng ánh, trước một đám quần chúng im lặng và tôn kính. Thời đó, đã có bao nhiêu là đám rước lễ long trọng, náo nhiệt tưng bừng, diễn ra trên sân đền rộng lớn, mà ngày nay sân đền lại vắng tanh không một bóng người!
Nhìn di tích của chánh điện mà lòng tôi còn thấy buồn man mác, huống chi là những hang động âm u ở dưới hầm mà tôi đang bước đến? Những gian phòng tối đen dưới hầm này được xây bên tron gnhững bức tường nền dầy kinh khủng. Vách tường cũng được tô điểm bằng những hình ảnh chạm trổ rất công phu, mô tả những cuộc lễ điểm đạo thiêng liêng ngày xưa đã từng diễn ra ở dưới hầm này.
Rời những hầm tối đen giống như những nhà mồ, tôi trở lại chỗ cửa chính. Cổng đền ngày xưa được khép bằng những cánh cửa bằng đồng rất kiên cố thếp vàng sáng chói lộng lẫy. Tôi bước ra ngoài và đi quanh một vòng chung quanh đền.
Thật khó mà tin rằng khio vua Ả Rập Abbas Pacha phát hiện ra ngôi đền này giữa thế kỷ 19, phần lớn đã bị chôn vùi dưới một đồi cát và sỏi vụn. Nó được phơi bày ra ánh sáng trở lại nhờ bởi những nhát cuốc xẻng của những phụ thợ đến làm công việc đồi cát này. Có bao nhiêu người đã đi qua vùng này ngày xưa, mà không hề biết đến cái kho tàng thiêng liêng của dĩ vãng mà họ đang dày xéo dưới gót chân của họ.
Tôi ngừng lại một lúc để nhìn lên mặt ngoài tường cái hình nổi chạn trổ chân dung nữ hoàng Cléopâtre. Vị nữ hoàng Ai Cập này lúc đương thời đã ra lệnh tu bổ bức tường chung quanh đền, hồi đó đã bắt đầu sụp lở. Để ghi tạ công đức, người ta đã tạc tượng nữ hoàng ở trên tường để làm kỷ niệm.
Hoàng tử Césarion cũng được khắc tượng ở một bên nữ hoàng, giống người cha một cách lạ thường. Nữ hoàng Cléopatre, con gái của vua Ptolémée, cũng là người cuối cùng trong tất cả các nữ hoàng Ai Cập. Khi hoàng đế Jules César cầm quân vượt biển Địa Trung Hải đi chinh phục xứ Ai Cập, thì nữ hoàng Cléopâtre đã trở nên tình nhân của vua ngay từ khi César vừa đổ bộ lên đất liền.
Chính do sự trung gian của Cesar mà nữ hoàng đã hướng xứ Ai Cập đến việc liên kết với một hải đảo xa xôi, mà định mệnh đã đặt để rằng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Ai Cập trên 18 thế kỷ về sau!
Và những quân sĩ La Mã cũng đã đem vào Anh Quốc tôn giáoSérapis, cùng với bao nhiêu di sản tinh thần khác nguồn gốc Ai Cập. Một sự liên lạc, tuy gián tiếp, đã bắt đầu có giữa hai nước kể từ khi đó.
Trên bức tường chạm trổ, nữ hoàng Cléopatre đội cái thứ mão tròn như cái dĩa có sừng, giống như mão của nữ thần Hathor, để bộ mái tóc dài thắt bính. Gương mặt đầy đặn và xinh đẹp, tướng mạo uy nghi của một bậc vương giả quren truyền lịnh và sai phái kẻ dưới, cương quyết thực hiện mọi kế hoạch đến cùng, bằng mọi phương tiện.
Chính do ành hưởng của nữ hoàng mà Jules César đã nuôi cái mộng dùng thành Alexandrie làm kinh đô của đế quốc La Mã và trung tâm của thế giới. Khi Cléopâtre qua đời, thì nền độc lập của Ai Cập cũng không còn nữa.
Tôi hồi tưởng lại rằng Cléopâtre cũng là một giai nhân tuyệt sắc củu thế giới cổ xưa, và là một trong những người đàn bà đã từng đóng vai trò quyết định của lịch sử. Có ai ngờ rằng vận mệnh của một bậc vĩ nhân, vận mệnh của cả một đế quốc rộng lớn, có đôi khi lại treo lơ lửng dưới cái nụ cười quyền rũ hiện ra trên đôi môi xinh đẹp của một giai nhân?
Phần trên những vách tường đá của ngôi đền đều có khắc hàng chữ ám tự (hiéroglyphes). Truyền thuyết cho rằng loại chữ ám tự của thời cổ Ai Cập là do vị thánh sư Thoth tức Tehuti, phát minh ra. Điều này cũng có một sự thật về lịch sử.
Vì chính một vị siêu nhân, một đấng Chân Sư daqnh hiệu là Thoth, đã đem thứ chữ này, như một sự tiết lộ của thánh thần, cho những con cháu của dân Atlante di cư sang vùng đất mới trên bờ sông Nil, trước khi những luồng sóng cuối cùng đã nhận chìm châu Atlantide xuống đáy biển. Vị chân sư Thoth cũng là tác giả của quyển Tử Thư (Sách của người chết).
Người Ai Cập mô tả chữ ám tự của họ là thứ ngôn ngữ của Thần Minh. Đó là bởi vì không những họ tin rằng loại chữ này được Thần Minh ban cho họ, mà cũng vì nghĩa ẩn dấu của nó được giữ kín đối với quần chúng và chỉ tiết lộ cho những vị môn đồ Huyền Môn đã được điểm đạo.
Những nhà Ai Cập hiện đại chỉ có thể hiểu được ý nghĩa thông thường của chữ ám tự theo sự hiểu biết của người bình dân, điều đó đã là một thành quả vẻ quang rồi. Còn cái ý nghĩa ẩn dấu, bí truyền thì họ tịt mù chẳng biết gì cả.
Đó là bởi vì muốn thấu triệt loại chữ ám tự, ngôn ngữ của Thần Minh, người ta phải cần dùng đến một thứ đạo nhỡn, để hiểu biết nó trên khía cạnh tâm linh, chứ nếu không, thì không thể nào hiểu tận cùng đến chỗ sâu xa huyền diệu của nó. Điều này cũng tương tự như trường hợp của người thí sinh muốn thấu hiểu những pháp môn bí truyền được tiết lộ cho y trong các cuộc lễ điểm đạo của phái Huyền Môn Ai Cập.
Nhờ công trình của các nhà Ai Cập học, và nột phần cũng do bàn tay của định mệnh, những kho tàng tâm linh quý báu thể hiện nơi những hàng chữ ám tự khắc trên tường đá trong các đền thờ hoặc viết trong những pho sách cổ bằng lá cây chỉ thảo, mới được phiên dịch ra và lưu truyèn lại cho hậu thế.
Vai trò của định mệnh trong sự khám phá này thật là la lùng. Nếu Napoléon không đem binh viễn chinh sang Ai Cập, thì loại ngôn ngữ huyền bí khắc trên tường và viết trên giấy chỉ thảo ngày nay có lẽ vẫn còn câm lặng không hề có người đọc.
Chính Napoléon vẫn từng là người của định mệnh đến một mức độ phi thường. Ông ta không hề tiếp xúc với một quốc gia nào, một cá nhân nào, hay một nhân vật nào mà không ảnh hưởng sâu rộng đến vận mạng của họ. Ông là khí cụ của định mệnh, hay là của thần Némésis.
Cuộc viễn chinh của Napoléon sang Ai Cập đã dọn đường cho sự tìm tòi khảo cứu về cách sinh hoạt và tư tưởng xứ Ai Cập thời cổ. Khi xứ Ai Cập bị đặt dưới quyền đô hộ của Hy Lạp, loại ngôn ngữ cổ xưa này bị suy sụp. Lẽ tự nhiên là chính quyền toan tính phổ biến ngôn ngữ và nền giáo dục Hy Lạp trong những giai cấp có học thức.
Những quan chức quan trọng trong chính quyền đều dành cho những người Ai Cập giữ chức giỏi chữ Hy Lạp. Nhà cầm quyền Ai Cập đóng cửa các đạo viện cổ ở He'liopolis, là nơi đào tạo rất đông những tăng lữ thời xưa và nơi truyền bá sự học hỏi ngôn ngữ Ai Cập. Trừ ra một số ít tăng lữ vẫn duy trì việc dùng tiếng Ai Cập trong vòng bí mật, chữ Hy Lạp đã thật sự trở nên một thứ quốc ngữ Ai Cập.
Đến cuối thế kỷ thứ 3 của Thiên Chúa kỷ nguyên, trong xứ Ai Cập người ta không còn tìm thấy một người nào có thể giải thích ý nghĩa thông thường bình dân của chữ ám tự cổ nữa, đừng nói chi đến việc sử dụng thứ chữ ấy. Mười lăm thế kỷ đã trôi qua.
Việc dùng chữ ám tự dường như đã hoàn toàn biến mất ở Ai Cập, thì đột nhiên xuất hiện trước hải cảng Alexandrie, do một cơn bão tắp vào bến, và vượt qua sự canh tuần của hạm đội Anh dưới quyền chỉ huy của đô đốc Nelson, chiếc thuyền chở Napoleon và định mệnh của người.
Không bao lâu, quân đội viễn chinh Pháp được chuyển đến sứ Ai Cập. Người ta đào đất ở nhiều nơi để xây móng đắp nền làm những công sự phòng thủ. Một trong những địa điển lần đầu tiên được lựa chọn do bởi tầm quan trọng chiến lược của nó là vùng châu thổ sông Nil, kế cận hải cảng Rosette.
Một viên sĩ quan trẻ tuổi, trung úy pháo binh Boussard, đã phát hiện một điều vô cùng quan trọng như một sự tình cờ đưa đến cái chìa khóa để truy ra ý nghĩa của các ám tự Ai Cập. Trong khi đào đất đắp nền xây pháo đài St Juluen, những quân sĩ của ông ta thình lình đào được một khối đá đen đã bể.
Trung úy Boussard liền hiểu ngay rằng tảng đá này có một tầm quan trọng rất lớn vì nó có khắc chữ, đó là một sắc lệnh của giới tăng lữ thành Memphis ban bằng sắc danh dự cho vua Ptolémeé thứ 5. Bản chính bằng chữ Hy Lạp khắc trên 54 giòng, kèm theo hai bản dịch ra chữ ám tự và cổ tự.
Viên đá này được gởi về Châu Âu, tại đây các nhà bác học mới ra công nghiên cứu cho đến khi họ có thể thiết lập toàn bộ chữ cái ám tự Ai Cập tương đương với những cái Hy Lạp. Cái chìa khóa này từ đó đã giúp cho các nhà khảo cổ và Ai Cập học đọc được những bản chữ ám tự khắc trên tường và trong các sách chỉ thảo đã từng là những điều bí hiểm trong bao nhiêu thế kỷ.
#68
Gửi vào 08/06/2011 - 11:50
AI CẬP HUYỀN BÍ
BÍ MẬT CỦA NHỮNG KỲ QUAN KARNAK
CHƯƠNG CHÍN
Sau cùng, chúng tôi đã đến xứ Ai Cập cổ kính, thâm nghiêm, và hấp dẫn mà con sông Nil, những đền đài, đồng ruộng, làng mạc và nền trời xanh đậm cùng nhau phối hợp để tạo nên một cảm giác quyến rủ và sống động.
Đó là xứ Ai Cập của những thời đại mà các vị vua Pharaon sang cả quyền uy còn đang trở về, mà hết cả ngày này sang ngày kia, những sân đền còn vang dội âm hưởng tiếng thánh ca của các vị tăng lữ.
Tôi đến Louqsor, cách thủ đô Cairo 450 dặm sau khi đi ngược dòng sông Nil. Đến đây, người ta trở về dĩ vãng và sống với dĩ vãng một cách dể dàng khộng cần một cố gắng nào cả, cảnh vật chung quanh đem đến cho ta một lọat những hình ảnh cổ xưa.
Chỉ có miền nam Ai Cập, mà các nhà địa lý học gọi là miền thượng du Ai Cập, còn giử được cái phong vị đó trước mắt nhưng du khách thời nay. Cố đô danh tiếng của nó, thành phố cổ điển Thèbes, mà thi hào Homère gọi là "Thành phố một trăm cửa," ngày nay đã biệt tích, nhưng nó còn để lại cho chúng ta tại Karnak, một trong những trung tâm tôn giáo của giới tăng lữ Ai Cập.
Ngày nay, Karnak là viên ngọc quý của vùng này. Những đền đài cổ, điêu tàn nhưng vẫn còn hùng vĩ của nó nổi tiếng khắp nơi trên thế giới. Một trong những ngôi đền này mà ngôi đền to lớn nhất mà người ta có thể tìm thấy ở Ai Cập, dó là đền thờ Amen Ra.
Thời xưa, tất cả những ngôi đền khác ở Ai Cập đều phụ thuộc vào ngôi đền này. Thế là tôi đã đi hành hương tại Karnak và chiêm ngưỡng những đền thờ hoang tàn sụp đổ dưới ánh mặt trời nắng gắt cũng như dưới ánh trăng khuya êm dịu.
Karnak ở kếcận một khu rừng xanh biếc, cách ba dặm ở phía bắc Louqsor. Người ta đến đây bằng con đường đầy bụi bặm, đi xuyên qua một cánh đồng lớn dưới một nền trời xanh lợt. Dọc đường có một ngôi mộ của một vị vua Ả Rập, nóc bầu tròn sơn trắng, sau cùng nhô lên trước mắt tôi hai cây cột trụ cao vút của cổng đền.
Cổng đền xem rất hùng vĩ ngoạn mục, đặc biệt hấp dẩn sự chú ý của du khách. Trên chót người ta nhìn thấy tượng vua Ptolémée xây dưng lên ngôi đền này, đang cúng dâng lể vật cho các vị thần thành Thèbes.
Bước vào cổng, tôi đã ở trong ngôi đền thần Khonsou, vị thần đầu chim ưng, mà ngôn ngữ bình dân gọi là con của Amen. Trên tường có chạm hình nổi diển tả một đám rước lể du thuyền tấp nập trên sông, dưới thuyền chở tượng thần Amen Ra đi ngược dòng sông Nil đến tận Louqsor.
Tôi bước vào ngôi đền sụp đổ, tại đây ngày xưa người ta giữ chiếc linh thuyền rước tượng thần Konsou. Tất cả những đồ vật dùng để rước lể được cất giữ tại đây có ý nghĩa rất nhiều đối với quần chúng, những tăng lữ tham quyền cố vị và nhất là đối với các vị vua chúa.
Trái lại, nó không phải là quan trọng đối với một số ít đạo đồ, những vị này chỉ coi các nghi lể cúng tế như những nghi thức tượng trưng, chứ không có một giá trị tâm linh thật sự.
Kế đó, tôi phát hiện một lọat những hình nôi rất lý thú chạm trổ trên tường phía đông của một gian phòng bên trong, tiếp cận với chánh điện. Điều làm cho tôi chú ý trước nhất là pho tượng một nhân vật đã từng quen thuộc với tôi trong một đêm suy tư giữa bãi sa mạc, thần tượng Sphinx!
Tôi liền hiểu ngay đó là một điều quan trọng và người ta có thể quan sát khắp đền trong nhiều ngày giữa những tường, vách và cột trụ đá mà không tìm thấy có thần tượng này.
Hình nổi đầu tiên là hình vua Ramsès thứ 4, đang đứng trước mặt nữ thần Ament và dâng nữ thần một pho tượng nhỏ. Kế đó là một hình nổi trên tường có chạm hình hai nhân vật. Phía trước là một hình thiếu nhi, không ai khác hơn là Horus, con của Orisis.
Trên đầu Horus có hình biểu tượng mặt trời và con rắn, tay trái để lên hai đầu gối, còn tay mặt đưa lên, ngó tay trỏ chỉ môi, ngụ ý giữ im lặng. Còn nhân vật kia, phía sau Horus, là thần tượng Sphinx.
Nữ thần Ament đưa bàn tay về phía Ramsès, tay cầm một thập tự giá có quai hình vòng tròn ở một đầu, còn đầu kia điểm vào giữa mắt của vua Ramsès. Bức hình đó có ý nghĩa gì?
Một nhà Ai Cập học có chắc sẽ đưa ra một sự giải thích hoàn toàn hợp lý và khá đúng theo quan điểm của y. Y sẽ nói rằng nhà vua đang hiến dâng lể vật cho nữ thần, thế thôi. Y không còn nói gì hơn. Những cảnh tượng chạm trổ trên vách như thế thường diển tả những mẩu chuyện vặt hoặc nhắc lại điển tích những chiến công rực rỡ của một triều vua nào đó.
Nhưng ở đây lại là môt việc khác. Trước hết người ta nhận ra đó là việc thực hành một nghi lể tối thiên liêng, nhất là bức hình được chạm gần bên chánh điện trung ương là chổ thâm nghiêm nhất của ngôi đền này.
Cũng như lọai ám chữ Ai Cập được dùng để diển tả một ý nghĩa bí truyền mà chỉ có những người tăng lữ đã điểm đạo được biết mà thôi, thì đây cũng vậy, gương mặt các và thần đối với những vị đạo đồ thời cổ có hàm xúc một ý nghĩa thâm sâu hơn là đối với quần chúng. Như vậy, ý nghĩa huyền diệu của các bức hình này chỉ có thể hiểu được bởi những người nào đã từng thấu triệt giáo lý Huyền Môn.
Điểm cốt yếu trên bức hình nổi, là cử chỉ hành động của nữ thần Ament. Cái thập tự giá có quai hình vòng trònmà nữ thần điểm vào giữa hai mắt của vua Ramsès, các tăng lữ điểm đạo gọi là cái chìa khóa của Huyền Môn, nó tượng trưng cho việc điểm đạo để thu nhận vào tổ chức Huyền Môn thật sự vậy.
Một nhà Ai Câp học sẽ cho rằng nó chỉ tượng trưng cho việc mở cửa, từ lâu vẫn khép chặt, để bước vào tổ chức thiên liêng này. Dưới hình thức kỷ hà, nó tượng trưng linh hồn bất diệt của người đạo đồ đã được giải thoát ra khỏi cái thể xác vật chất "Bị đóng chặt trên thập tự giá."
Cái vòng tròn, không đầu không đuôi, tượng trưng tính chất bất diệt của linh hồn tương đương với các đấng Thần Minh, còn cái thập tự giá tượng trưng cho trạng thái xuất thần của người đạo đồ, do đó có sự chết và bị "đóng chặt vào thập tự giá" của y. Trong vài đền thờ cổ, người ta đặt y nằm trên cái giường gổ hình thập tự giá.
Điểm giữa hai chân mày chỉ vị trí của tùng quả tuyến, tức bộ hạch óc mà những động tác phức tạp vẫn chưa được khoa học hoàn toàn biết rõ.
Trong những cấp bật điểm đạo đầu tiên, vị Đạo Trưởng dùng phép làm kích động bộ hạch ấy một phần nào, để giúp cho người thí sinh tạm thời mở rộng thần nhãn và nhận thấy những ma quái hiện hình hoặc những nhân vật tâm linh xuất hiện ở gần bên y.
Phương pháp sử dụng vào việc này một phần do mãnh lực từ điển, một phần tùy thuộc vào một vài chất hương liệu rất mạnh.
Bởi đó, khi nữ thần Ament cầm cái thập tự giá điểm vào giữa hai mắt của vua Pharaon, cử chỉ đó ngụ ý rằng nhà vua đã được điểm đạo theo tổ chức Huyền Môn, và nhà vua sẽ tạm thời mở thần nhìn trong một thời gian.
Nhưng nhà vua bị cấm nhặt không được tiết lộ cho ai biết những gì nhà vua được thấy và những cảm xúc trong cuộc lễ điểm đạo. Điều này được diễn tả bởi nhân vật đầu tiên trong bức hình nổi, thiếu nhi Horus, tức là vị thần Hormakhou, mà ngón tay đưa lên môi khép chặt ngụ ý phải tuyệt đối giữ im lặng và bí mật.
Những hình ảnh tương tự cũng được phô bày gần bên các thánh điện và những gian phòng điểm đạo trong tất cả các ngôi đền thờ cổ, luôn luôn với ngón tay trỏ đưa lên môi. Một hiệu lệnh ngầm có ý tượng trưng:
Hãy giữ im lặng về những gì liên hệ đến những gì bí mật thiêng liêng. Còn nhà vua cầm pho tượng nhỏ với một cử chỉ hiến dâng có nghĩa là người sẵn sàng hy sinh lời nói của mình và luôn luôn giữ im lặng.
Phía sau thần Hormakhou còn có hình chạm một nhân vật thứ hai thần tượng Sphinx. Đó là ngụ ý gì?
Cũng như vị đạo đồ trong cơn xuất thần đã mất khả năng dùng lời nói trong thời gian điểm đạo, thần tượng Sphinx vẫn luôn luôn im lặng và không hề thốt ra một tiếng nào. Thần tượng Sphinx luôn luôn biết giữ gìn bí mật. Vậy đó là những bí mật gì?
Đó là những điều huyền bí trong cuộc điển đạo.
Thần tượng Sphinx canh gác ngôi đền điểm đạo hùng vĩ nhất của thế giới cổ: Ngọn Kim Tự Tháp. Những người đi hành lể ở Kim Tự Tháp thời xưa đều đến từ bờ sông Nil, trước khi đến nơi họ phải đi ngang qua trước thần tượng Sphinx. Trong cái im lặng của nó, thần tượng Sphinx tượng trưng cho sự im lặng và sự bí mật của cuộc điểm đạo.
Như thế vua Pharaon đã được mới tham dự một nghi lể huyền bí lớn nhất có thể được ban cho con người.
Ba bức hình khác hoàn thành một loạt những cảnh tượng làm lể điểm đạo, mà ngày nay du khách có thể xen tự do, nhưng ngày xưa chỉ dành cho một số ít người biệt đại. Trên những bức hình đó, người ta thấy những cảnh tượng tiếp theo sau khi nhà vua đã bước qua cửa Huyền Môn.
Trong bức hình thứ hai, nhà vua đứng giữa hai vị thần, Horus trưởng thành và Thoth. Mổi vị thần này cầm một cái bình rót lên trên đầu vua Ramses, không phải rót nước, mà rót một dòng những thập tự giá có quai tròn tràn ngập đầu và rớt xuống chung quanh vua.
Thoth là vị thần minh triết và bí giáo. Trong hính này, ngài ban cho vua sự hiểu biết bí truyền về những sức mạnh thần bí và minh triết tâm linh, là những điều quý báu đã từng làm cho Ai Cập nổi tiếng như cồn vào thời đại cổ. Ngài cũng là vị thần Nguyệt Tinh.
Bởi đó, tất cả các nghi lể tôn giáo và phù phép có tầm quan trọng bí mật, nhất là những cuộc lể điểm đạo Huyền Môn, đều diển ra ban đêm vào những lúc trăng non và trăng rằm, là những giai đoạn mặt trăng có ảnh hưởng lớn nhất.
Hours khi trưởng thành, là thần thái dương. Vai trò của thần Horus trong hình này chỉ rằng, mặc dầu khởi sự vào lúc ban đêm, lể điểm đạo kết thúc vào lúc ban ngày vào giờ bình minh. Khi những tia nắng đầu tiên của mặt trời sớm mai rọi thẳng vào đỉnh đầu người thí sinh thì vị đạo Trưởng niệm thần chú để y tỉnh dậy.
Trong bức hình thứ ba, vua Ramses trở nên vị đạo đồ đầy minh triết, được hai vị thần khác nắm lấy tay vua để chúc mừng, vừa đưa lên trước mặt vua những thập tự giá có quai, ngụ ý rằng từ nay nhà vua trở nên bạn hữu đồng môn với các đấng thần minh do bởi cuộc điểm đạo vừa trải qua. Trong cảnh cuối cùng, nhà vua dâng một pho tượng nhỏ cho thần Ament-Ra.
Đó là pho tượng một vị thần ngồi, có một lông chim cắm trên đầu, tức là thần chân lý, nghĩa là với một sự hiến dâng trọng vẹn, người sẽ hướng mọi tư tưởng và hành vi theo những định luật tâm linh nó cai quản đời sống con người, như đã được tiết lộ cho nhà vua trong cuộc lể điểm đạo.
Như vậy, những bức hình chạm trổ này đã cho tôi thấy đời sống tâm linh của một vị Pharaon có đạo đức, và phát hiện cho tôi biết vài điều về những nghi thức lể trong khoa Huyền Môn Ai Cập.
Tôi bước qua cánh cửa ở đầu gian phòng lớn của chánh điện, và đứng trước một bàn thờ nhỏ, ở hai bên có hình tượng vua Pharaon đang chiêm bái và cây linh kỳ của nữ thần Hathor. Ở phía dưới, một lổ hỏng lớn của một nền đá bị sụp lở tối đen ngòm, tôi lấy đèn bấm soi xuống thì thấy chổ sụp lở đó đưa xuống một đường hầm dưới đất.
Đó là cái động xây dưới hầm của đền thờ Karnak, có nhiều ngăng cách và hành lang dài. Ở bề mặt cánh cửa lớn, tôi nhận thấy có hai lổ hỏng khác cũng là chổ nền đá bị sụp lở và đưa xuống những đường hầm nhỏ hẹp đầy bụi bặm chưa từng có vết chân người bước đến.
Tôi bèn thám hiểm những con đường hẹp này thì thấy một đường đi xuyên qua động dưới hầm đến chổ thờ thần Khonsou. Đường dưới hầm bao phủ một lớp bụi dầy đặc đến nổi người ta phải nhìn nhận rằng bụi đã đóng ở đây nhiều thế kỷ, tôi cố tìm thấy dấu vết xem có người đã đến đây chăng.
Nhưng ngoài những dấu bàn chân, hẳn từ người Ả Rập gác đền thờ Khonsou ở gần bên, tôi không thấy gì nữa, chỉ thấy có những đường cong ngoằn ngoèo rất nhiều và xem rất có mỹ thuật được vẽ ra từ hai cái lổ đen bởi một vài con rắn nhỏ.
Những đường hầm đen tối kia và cái động đá bí mật kia có ý nghĩa gì?
Tôi đang tự hỏi như thế, thì cái động thâm u dưới hầm, giống như cái nhà mồ, dường như xuất hiện trước mắt tôi. Tôi nhớ lại cuộc hành lể cổ truyền tái diển sự chết và sự hồi sinh của Osiris, và cuộc lể mà tôi đã thấy khắc trên vách đá của thánh điện nhỏ trên nóc bằng của đền thờ Denderah.
Hính cuộc lể mà tôi đã nhìn thấy trong linh ảnh và tôi đã sống qua kinh nghiệm bản thân một đêm trong Kim Tự Tháp, chính cuộc lể mà Osiris đã truyền lại từ châu Atlantide cho những vị Đạo Trưởng và tăng lữ của thời cổ Ai Cập.
Tại sao người ta lại làm lể điểm đạo Huyền Môn ở những nơi đen tối và âm u như những chốn này?
Có ba lý do để giải thích câu hỏi đó. Để giữ gìn tuyệt đối bí mật và an toàn cho việc ban phép mầu vừa có tính cách riêng tư lại vừa nguy hiểm. Để làm cho người thí sinh bước vào trạng thái xuất thần một cách dể dàng hơn, bằng cách không cho y nhìn thấy vật gì ở chung quanh và như vậy, để cho y dễ tập trung sự chú ý vào nội tâm.
Sau cùng, để có được một hình thức biểu tượng hoàn hảo mà cổ nhân vẫn thích dùng, phải chăng các vị Đạo Trưởng nhận thấy người thí sinnh vẫn còn ở trong trạng thái vô minh u tối về phương diện tâm linh, vào lúc sắp bắt đầu cuộc lễ điểm đạo?
Và sự thức tĩnh của y sẽ dược thực hiện bằng cách mở mắt chào đón những tia sáng mặt trời ở một chỗ khác, nơi đó y sẽ được chở đến sau khi điển đạo, khi đó y đạt được sự giác ngộ tâm linh.
Sau một cuộc điểm đạo kéo dài một cách chậm chạp, bắt đầu lúc ban đêm và kết thúc vào buổi trời rực sáng, người đạo đồ đã vượt qua từ sự vô minh hắc ám (đêm tối) đến sự soi sáng tâm linh (ánh sáng).
Cuộc hành lễ điểm đạo Huyền Môn được thực hiện những động đá dưới hầm, hoặc trong những gian phòng đặc biệt bên cạnh thánh điện thâm nghiêm, hoặc trong những thánh điện nhỏ trên nóc bằng của ngôi đền, chứ không bao giờ của một nơi nào khác.
Tất cả những nơi này đều bị triệt để cấm nhặt đối với dân chúng, họ không hề dám lại gần, vì những kẻ nào vi phạm sẽ bị những sự trừng phạt rất nặng nề, khủng khiếp. Những vi Đạo Trưởng nhận lấy việc điểm đạo cho một thí sinh, tức là đảm đương một trách nhiệm nặng nề, vì vấn đề sống chết của vị thí sinh nằm trong tay các ngài.
Người thí sinh có thể bị thiệt mạng nếu có kẻ nào vô phúc thình lình xuất hiện, làm gián đoạn cuộc lễ điểm đạo thiêng liêng.
Như vậy có khác nào trong khi một người bị bịnh nặng đang chịu một cuộc giải phẩu hiểm nghèo, mà để cho người ngoài cuộc bỗng nhiên đột nhập vào phòng mổ? Nói cho cùng, thì lễ điểm đạo phải chăng không khác gì một cuộc giải phẫu tách rời linh hồn ra khỏi thể xác? Đó là lý do vì sao tất cả những phòng điểm đạo đều được giữ gìn, canh phòng cẩn mật và đặt ngoài vòng xâm nhập của người đời.
Những phòng gần bên thánh điện của một ngôi đền lớn, người ta chỉ có thể đi đến sau khi đã vượt qua một đường hẹp tối om, ánh sáng mỗi lúc càng mờ dần từ phía cửa vào, để rồi hoàn toàn biến mất khi người ta đến ngưỡng cửa thánh điện.
Khi người thí sinh đã hoàn toàn mê thiếp đi trong cơn xuất thần, thì thể xác y được đặt trong bóng tối âm u của gian phòng, cho đến khi cuộc điểm đạo chấm dứt, người ta mới mang y ra bên ngoài ánh sáng.
Còn ở những phòng điểm đạo trong động đá dưới hầm, người ta cũng hành lễ một cách tương tự, tất cả mọi thứ áng sáng đều tắt hẳn trong cơn đồng thiếp, và động đá trở thành cái nhà mồ, nói theo cả hai ý nghĩa tượng trưng và thật sự.
Tôi chui xuống động đá dưới hầm do một lỗ hỏng trên nền đá và thám hiểm một gian phòng tối âm u, tại đây ngày xưa các vị tăng lữ đã cử hành những nghi lễ huyền bí nhất của họ. Xong rồi tôi chui lên khỏi hầm với một cảm giác thoải mái dễ chịu giữa ánh sáng mặt trời êm ấm và không khí trong lành.
Tôi đi qua những cổng vĩ đại của đền thờ Amen Ra, kéo dài cuộc hành hương của tôi giữa những di tích của một thời đại huy hoàng ngày nay đã mất.
Những cổng đền này có lẽ vừa kích thước với những người khổng lồ hơn là với những người trần gian nhỏ bé như chúng ta. Sở thích của người Ai Cập về những kích thước đại quy mô đôi khi đưa đến kết quả là gây một cảm giác rợn người, cũng như trường hợp Kim Tử Tháp lớn gần thủ đô Cairo và những bức tường rào với những cổng đền mà tôi đang đứng núp dưới bóng mát trong lúc này.
Bề dày của những vách tường này đến 15 thước, dẫu cho những thành quách củng không bao giờ cần đến một bề dầy như vậy. Hẳn là người ta ngụ ý rằng thế giới phàm tục bên ngoài phải được ngăn cách để khỏi làm hoen ố vòng thánh thiêng liêng của ngôi đền mà người cổ Ai Cập gọi một cách hãnh diện là "Ngai vàng của thế giới."
Than ôi! Ngai vàng ngày nay đã điêu tàng trong cô quạnh. Khi tôi bước vào sân đền rộng lớn, tôi thấy có một đống gạch ngói còn sót lại của những tòa kiến trúc đồ sộ đã sụp đỗ, chỉ còn vài cây cột trụ đứng trơ vơ giữa cảnh đổ nát hoang tàn.
Tôi chậm rãi tiến bước, chân tôi dẫm lên nền đất gồ ghề mọc đầy cỏ dại, nay đã dành lấy chổ của thềm đá hoa đẹp lộng lẫy ngày xưa xây trên một diện tích rộng lớn, chiều dài có đến trên một trăm thước.
Qua khỏi sân đền hình vuông dài, tôi đã đến một cổng cao có chạm đầy những hình nổi sơn màu, và mở ra giữa những tàn tích của một cái cổng khác mà hai cột trụ đá hai bên đã sụp đổ chỉ còn trơ lại một đống đá ngổn ngang dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời.
Ngày nay, cổng đền này cao không dưới ba chục thước. Bảy bậc đá tam cấp cũng đã biệt tích mà những nhà kiến trúc thời xưa xây ở ngoài cổng đền, như những hình thức biểu tượng ám chỉ sự tuần tự tiến hóa của con người từ cõi hạ giới phàm trần lên đến cõi giới cao siêu nhất mà y có thể đạt tới bằng sự phát triển tâm linh.
Cũng như nhiều dân tộc khác của những nền văn minh cổ, người cổ Ai Cập diển đạt ý nghĩa huyền bí của số hệ theo quy mô trật tự của sự cấu tạo vũ trụ càn khôn.
Họ quan niệm rằng ngày thứ bảy hay cõi thứ bảy đem đến sự nghỉ ngơi, sự bằng an tuyệt vời cho con người cũng như cho muôn loài vạn vật trên thế gian. Tôi đã nhận thấy sự hiện diện của con số bảy trong tất cả các đền thờ ở khắp nơi tại xứ này, và dãy hành lang lớn trong Kim Tự Tháp cũng có sự biểu lộ của con số bảy một cách rõ ràng và lạ lùng.
Bởi đó, thật là một điều tự nhiên mà thấy bảy bậc tam cấp, ngày nay đã sụp đổ, được dựng lên ngoài cổng vào tòa kiến trúc cao lớn và hùng vĩ nhất của Karnak, tòa đại sảnh đường của đền thờ Amen Ra.
Tôi bước vào. Một viễn cảnh phi thường, mười sáu hàng cột trụ đá khổng lồ chen chúc nhau xuất hiện trước mắt tôi. Ánh nắng mặt trời rọi xuống cảnh tượng đó, tạo thành một hình ảnh độc đáo mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Mổi cột trong số 130 cây cột trụ đứng, phát ra một cái bóng dài trên nền đá đã loang lỗ nhiều nơi.
Những cột trụ đá trắng dựng lên chơm chởm như một đạo binh khổng lồ, bề chu vi của mổi cột có đến mười thước tây! Thật là kinh khủng, một kỷ thuật kiến trúc đại quy mô không tiền khoáng hậu, vĩ đại vô cùng! Một rừng cây khổng lồ bằng đá trên một diện tích 100 thước bề rộng, thật là một điều rất là Ai Cập!
Tòa đại sảnh dường này phần lớn được xây cất vào hồi triều đại vua Seti, chính vị vua Pharaon này cũng đã xây dựng nên ngôi đền Abydos là nơi tôi đã hưởng một sự yên tĩnh lạ thường. Nhưng ở đây thì cái ấn tượng hùng tráng, oai vệ ngự trị khắp cả, nó khiêu gợi các hình ảnh của một thời đại đã tàn, mà người ta đã từng thực hiện một công trình vĩ đại như thế.
Vua Seti đã không sống được lâu để hoàn thành công trình sáng tạo khổng lồ này. Chính vua Ramsès đại đế đã tiếp tục công trình ấy, ông dùng những khối đá của vùng đồi Aswan dể tạc thành những cây cột trụ to lớn của sãnh đường.
Bằng lối kiến trúc đại quy mô đó, cổ nhân đã dụng ý khai phóng tâm hồn cho con người thấy những viễn ảnh rộng lớn, làm cho con người thoát ly ra khỏi cái vòng bẩn chật nhỏ nhen của những tham vọng thường tình, gây nguồn cảm hứng cho y có những hoài bảo to tác và chí nguyện cao cả, giúp cho y mở rộng tầm nhãn quan và nung nấu chí khí để làm những việc vĩ đại phi thường.
Nói tóm lại, người ta muốn được giống như vị minh quân Ramsès, xây dựng lên những ngôi đền to lớn vĩ đại, rồi thiết lập chung quanh đó những thành thị kiểu mẫu, nơi đó người ta có thể sống trong ánh sáng của những hoài bảo thanh cao và những lý tưởng siêu việt.
Trời đã sắp sửa về chiều. Tôi còn dừng bước ở nán lại, trong khi mặt trời sắp sửa lặn tỏa ra khắp vùng những ánh hào quang rực rỡ đủ màu. Cuộc hành hương của tôi đã kết thúc.
Toàn thể cảnh vật gồn những đền miếu sụp đổ hoang tàn, những cánh đồng và bãi sa mạc chung quanh nhuộm bao nhiêu sắc màu dồi dào phong phú của bóng hoàng hôn của vùngnhiệt đới, đã đem đến cho tôi một niềm phúc lạc thâm trầm say sưa, lâng lâng thoát tục.
Cái thú vị thần tiên ở chốn này thật thấm thía đậm đà, nó thấm nhuần vào người chúng ta giống như sương mù bao phủ trên sông, một cách từ từ mà ta không hề hay biết, cho đến khi ta nhận thấy rằng nó đã hiện diện khắp chung quanh ta.
Nếu người ta không có một linh hồn tinh vi, tế nhị, thì người ta còn thấy gì hơn trong những ngôi đền sụp đổ này, ngoài những đống gạch đá, cát sỏi và bụi bậm? À, phải chứ!
Trong sự chiêm ngưỡng như nơi cổ tích hùng vĩ này, chúng ta hãy biết tìm thấy những ấn tượng khác nữa, để khi trở về ta sẽ thấy rung động đến tận tâm hồn, trong lòng tràn ngập một niềm sùng kính thiêng liêng, ý thúc được cái vẻ đẹp huy hoàng và sự tranh trọng tôn nghiêm nó vẫn còn phảng phất và tồn tại mãi với thời gian.
Bầu không khí vắng vẻ hoang vu của Karnak đã đem đến cho tôi một điều ích lợi rất lớn. Tôi đã có thể đắm mình trong sự im lặng thần tiên của nó để hưởng thụ được nhiều lạc thú tâm linh luôn luôn đổi mới.
Thời đại hiện kim không giúp cho chúng ta hưởng cái thú ngồi cô đơn một mình, thế hệ cơ giới ngày nay không còn để cho ta thưởng thức cái vui trong im lặng. Tuy nhiên, tôi tưởng rằng mỗi ngày ta cần phải có một sự ẩn dật tạm thời, dành ít nhiều thì giờ cho một sự trầm tư vắng lặng.
Chính bằng cách đó mà người ta hồi phục lại sự bình an của cõi lòng, và nguồn cảm hứng tốt lành sẽ trở về với một tâm hồn chán nản. Đời sống của chúng ta hiện nay giống như một cái nồi súp de sôi sục và rú lên từng chập, con người chỉ biết lăn xả vào đó. Mỗi ngày, người ta càng mất đi sự gần gũi thân mật với chính mình, và lại càng gần gũi thân mật nhiều hơn với cái nồi súp de!
Sự suy tu trầm lặng hàng ngày đem đến những kết quả dối dào của sự sinh hoạt tâm linh. Do đó người ta có được sự cương nghị trong những giờ phút quyết định, sự can đảm dám sống một cuộc đời độc lập không tùy thuộc vào dư luận của một số đông người, và sự ổn định tinh thần giữa tất cả những cơn loạn động ồn ào của cuộc đời thế tục.
Đời sống hiện đại có cái tác động tệ hại nhất là nó làm nhục đi cái khả năng suy tưởng thâm trầm. Trong sự náo động ồ ạt của một thành phố lớn, có ai đã dừng chân để nhớ lại rằng đời sống nội tâm của mình đang đi đến chỗ tê liệt? Họ chỉ biết rằng họ đang vội vàng gấp rút, thế thôi.
Nhưng luật tự nhiên không hề gấp rút vội vàng. Nó đã phải cần đến bao nhiêu triệu năm để cấu tạo nên cái nhân vật vừa yếu đuối vừa loạn động như con người thời nay. Và rất có thể rằng nó sẽ đợi chờ đến một thời kỳ mà con người biết sống một cuộc đời bình dị hơn, yên tịnh và trầm lặng hơn, để cho y thoát ra khỏi tình trạng đọa lạc và đau khổ mà y tự chuốc lấy cho mình.
Chừng đó, con người mới có thể nhìn vào cái nguồn cội thâm sâu của mọi tư tưởng thiêng liêng, nó đã bị vùi lấp đi trong sự náo động cuồng loạn mà y và những kẻ đồng loại đã từng lao đầu vào trong cuộc sống hàng ngày.
Những cuộc thăm viếng của tôi vào giờ ban đêm tại Karnak là những chuyến đi thích thú nhất, nhất là vào đêm trăng rằm. Màn đêm Ai Cập bao phủ những ngôi đền cổ với một ánh trăng huyền ảo, nó hé lộ cho ta thấy những khí cạnh thú vị, và che khuất phần còn lại trong một bóng tối thích hợp với những ngôi đền miếu thâm nghiêm này.
Trong những chuyến hành hương về đêm, tôi đã dùng nhiều phương tiện di chuyển khác nhau, mà tất cả đều làm cho tôi thích thú. Tôi đã đi thuyền bườm ngược giòng sông Nil xuôi theo cơn gió thổi mạnh, hoặc cởi lạc đà, hoặc dùng xe ngựa đi theo con đường mòn cũ kỹ, với ít nhiều tiện nghi.
Nhưng trong đêm trăng rằm như đêm nay, tôi thấy không gì thích thú hơn là đi bộ, và tôi đã vượt qua quãng đường hai hay ba dặm bằng chân như các vị tăng lữ thời xưa, dầu trong những ngày lễ long trọng rực rỡ của sứ cổ Ai Cập. Một ánh trăng bạc rọi xuống lớp vụi trắng dày đặc bao phủ con đường mòn mà tôi đi qua.
Thỉnh thoảng, những con dơi lớn vỗ cánh trên không và kêu to rồi bay mất dạng. Ngoài ra không còn tiếng động nào nữa, một cái im lặng thâm trầm xâm nhập chiếm lấy cả vùng chung quanh cho đến khi tôi bước chân đến làng Karnak.
Trên con đường làng, thỉnh thoảng tôi gặp một vài người đi lưa thưa, tay xách một ngọn đèn lồøng nhỏ ánh sáng lập lòe, những ánh đèn dầu khi mờ khi tỏ chiếu ra ngoài những cửa sổ hai bên đường. Thỉnh thoảng tiếng chân người làm cho vài con chó cất tiếng sủa vang.
Đế đầu đường, tôi thấy nhô lên trước mặt tôi cái cổng đền màu bạc của vua Ptolémeé, giống như một tháp canh khổng lồ gìn giữ mặt ngoài của ngôi đền lớn mà nóc nhọn vươn lên trên nền trời xanh thẩm.
Vì là ban đêm, nên cổng đền đã bị ngăn lại bằng một bức rào. Tôi đánh thức người gác cổng đang ngủ trong một cái chòi tranh gần bên, ngọn đèn bấm sáng trưng của tôi làm cho y nheo cặp mắt đỏ ngầu đang ngái ngủ. Sau khi đã mở cổng cho tôi bước vào, tôi đưa cho y một món tiền thù lao để đền bù việc làm y thức giấc nửa đêm, và y đã cho tôi đi lại tự do.
Tôi bước qua sân đền và ngồi trong vài phút giữa đống tảng đá ngỗn ngang của một cái cổng thứ nhì đã sụp đổ, cổng này ngày xưa đứng ở chỗ cuối sân trước khi đưa vào phòng đại sảnh đường. Tôi suy tư một lúc về sự cao cả huy hoàng xưa kia của đền thờ Amen Ra ngày nay đã suy tàn.
Một lúc sau tôi đã đứng giữa cột trụ hùng vĩ và những cảng tượng loang lỗ điêu tàn của tòa đại sảnh đường. Ánh trăng khuya soi xuống các cột trụ, tỏa xuống nền đất những bóng đen dầy, làm cho những hàng chữ ám tự khắc trên cột ẩn hiện chập chờn khi mờ khi tỏ.
Tôi tắt ngọn đèn bấm để thưởng thức cái đẹp của đêm trăng, nó làm cho toàn thể ngôi đền đượm nét ảo huyền như cảnh mộng. Trước mặt tôi là cây trụ thạch (obe'lisque) của nữ hoàng Hatchepsou, vương mình lên cao giống như một cây kim khổng lồ bằng bạc.
Tôi vừa từ từ bước trong bóng tối mờ đến những nơi thánh điện ở phía sau những dãy cột trụ khổng lồ của đại sảnh đường, thì tôi có cảm giác mơ màng dường như có sự hiện diện nào ở bên tôi? Tuy nhiên, ít nhất là mười lăm thế kỷ đã trôi qua mà những người sùng tính không còn đặt chân đến những nơi đền miếu hoang tàn này nữa.
Những tượng thần bằng đá bị sứt mẻ cũng đã chịu đựng trong sự im lặng cô đơn đó đã từng bấy nhiêu lâu, tôi cũng biết rằng xứ Ai Cập ngày nay không có một người nào còn sự tin tưởng và truyền bá nền tôn giáo cổ. Vậy tại sao tôi cảm thấy có sự hiện diện của người sống chung quanh tôi, trong ngôi đền đã chịu sức tàn phá của thời gian và đắm chìm trong sự im lặng của nhà mồ?
Tôi rọi đèn khắp nơi, soi khắp các cột trụ cùng vách tường, những đống gạch đá sụp đổ ngổn ngang mà những thền đá sứt mẻ, cũng không thấy có dấu vết của một bóng người.
Tôi lại rảo bước tiến tới, một mình cô quạnh trong đêm khuya, tôi vẫn không sao thoát khỏi cái cảm giác ám ảnh đó. Ban đêm luôn luôn đem đến những sự sợ hãi rùng rợn của nó, luôn luôn làm tăng thêm sự sợ sệt của ta dẫu cho lúc đầu đó chỉ là những sự e ngại nhỏ nhặt.
Tôi đã từng chấp nhận và mến yêu những đêm ấm áp và yên tĩnh của xứ Ai Cập, mà cái thú vị thần tiên đã thâm nhập vào người tôi. Nhưng đêm nay thì lại khác hẳn: Những ngôi đền sụp đổ tàn tạ này dưới ánh trăng huyền ảo có những nét hầu như rùng rợn. Tôi ý thức được một cảm giác bức rức khó chịu dưới ảnh hưởng của giờ đêm khuya khoắt và của nơi chốn này. Tại sao?
Tôi đi lần theo con đường lót đá cũ đưa đến những ngôi kiến trúc điêu tàn ở về hướng bắc, và đến cái miếu nhỏ thờ thần Ptah. Tôi đi qua cái sân hẹp có nhiều cột và một cửa khác, tôi đã bước vào thánh điện.
Một ánh trăng rọi vào một trong những bức tượng kỳ lạ nhất của Karnak, đó là pho tượng nữ thần Sekhmet, với thân thể một nữ nhân, đầu sư tử. Truyện thần thoại Ai Cập gán cho nữ thần này cái vai trò trừng phạt và tiêu diệt nhân loại.
Tôi ngồi xuống một bậc thềm đá, và nhìn xem ánh trăng soi xuống những bức tường đổ nát. Từ xa xa, vọng lại một tiếng kêu rùng rợn của một con chó rừng săn mồi. Tại đây trong trạng thái thụ cảm, tôi lại cảm thấy trong lòng tôi có cái ấn tượng về một sự hiện diện vô hình, pha lẫn sư sợ sệt hoang mang.
Phải chăng những vong hồn của các vị tăng lữ thời xưa, của những đám đông tín đồ tôn sùng hãy còn lởn vởn ở chung quanh những nơi đền miếu cổ xưa này? Hay họ vẫn còn khấn vái cầu nguyện thần Ptah, tay cầm một linh trượng tượng trưng cho quyền lực và sự ổn định?
Phải chăng vong hồn các vị tăng lữ và vua chúa thời xưa nay vẫn còn phảng phất trong những tòa đền đài cổ của họ, những hình bóng sống động, tuy không còn thể chất?
Tôi tình cờ nhớ lại câu chuyện la lùng mà tôi được nghe thuật lại do một người bạn, mộ viên chức người Anh tùng sự với chánh phủ Ai Cập tại Cairo. Người bạn tôi đã gặp một thanh niên giòng quý tộc ở Anh Quốc đến Ai Cập trong vài tuần để đi du ngoạn và xem thắng cảnh.
Đó là một thanh niên vô tư lự, chỉ biết ưa thích sự xa hoa vật chất. Từ Louqsor, y đến Karnak vào một buổi trưa và chụp một bức ảnh tòa sảnh đường của đền thờ Amen Ra. Khi tấm hình được rửa xong, y lấy làm ngạc nhiên mà nhìn thấy trong đó có hình một vị đại tư tế Ai Cập, đứng dựa lưng vào một cột trụ đá, hai tay khoanh trên ngực.
Y cảm thấy rúng động trong tâm hồn đến nổi tâm tính y hoàn toàn thay đổi. Kể từ đó, người thanh niên này chăm chì khảo cứu học hỏi về các hiện tượng thần bí và các vấn đề tâm linh.
Tôi vẫn ngồi yên trên thềm đá, không còn muốn đứng dậy. Lúc ấy tôi đã đắm chìm trong một cơn suy tư triền miên không dứt, giữa những hình tượng câm lặng của các vị thần.
Nửa giờ trôi qua như thế, kế đó tôi bước vào trạng thái mơ màng. Một tấm màn dường như rơi xuống che phủ tầm nhãn quang của tôi, tất cả sự chú ý của tôi đều tập trung vào một điểm ở khoảng giữa hai chân mày, sau đó một luồng ánh sáng kỳ diệu phi thường, không hề thấy ở trần gian, bao phủ lấy tôi.
Trong ánh sáng đó, tôi thấy một người đàn ông màu da sậm, vai rộng và cao, đứng gần một bên tôi. Khi tôi ngẩng mặt lên để nhìn người ấy thì y cũng day mặt lại và ngó ngay tôi. Tôi run rẩy dưới cơn xúc động, khi tôi nhận ra y. Vì người ấy không phải ai xa lạ, mà..chính là tôi!
Người ấy có một khuôn mặt giống như của tôi bây giờ, nhưng y mặc y phục của xứ Ai Cập thời cổ. Đó không phải là bậc vương giả hay một người dân bình thường, mà là một tăng lữ với một cấp bậc nào đó, mà tôi nhận ra ngay do cái mão và chiếc áo của y.
Luồng ánh sáng lan rộng một cách mau chóng chung quanh y và lan ra tận phía sau, cho đến khi nó bao trùm một cảnh tượng diễn ra bên một bàn thờ: Nhân vật trong linh ảnh của tôi bắt đầu cử động và từ từ tiến đến chỗ bàn thờ. Khi y đến nơi bèn chấp tay cầu nguyện thì thầm ...
Khi y bước đi, tôi cũng bước đi với y; khi y cầu nguyện, tôi cũng cầu nguyện với y, không phải như một người ngoài cuộc đi kèm theo một bên y, mà cũng như chính tôi là người ấy. Một linh ảnh mâu thuẫn: Trong đó tôi vừa là khán giả lại vừa là diễn viên.
Tôi nhận thấy người ấy đang đau xót đến tận đáy lòng, vì tình trạng xứ sở của y, y động mối thương tâm ví nhìn thấy xứ cổ Ai Cập đang lâm vào cảnh suy tàn.
Trên hết mọi sự, y đang đau khổ mà nhìn thấy nền tôn giáo thiêng liêng của y đang lọt vào bàn tay nhơ bẩn của những kẻ bất lương tàn bạo. Trong cuộc cầu nguyện, y luôn luôn khẩn cầu các vị Thánh Thần hãy ra tay cứu vớt nền chân lý cho dân tộc của y.
Nhưng sau cùng, Cơn buồn thảm của y vẫn không vơi, vì y không nhận được một lời ứng đáp nào và hiểu rằng sự suy tàn của Ai Cập là một điều không thể cứu vãn. Y bèn lui ra trong cơn thất vọng, và nét mặt ưu tư, lòng buồn rười rượi.
Ánh sáng ấy trở lại, vị tăng lữ đã biến mất cùng với cái bàn thờ. Tôi vẫn ngồi trơ một mình, trần lặng suy tư gần bên đền thờ Ptah, một lần nữa. Lúc ấy tôi cũng đang nét mặt ưu tư và lòng buồn rười rượi ...
Phải chăng đó chỉ là một giấc mơ, do các khung cảnh đặc biệt chung quanh tôi lúc ấy gây nên? Phải chăng đó là sự cuồng loạn của một khối óc suy tư? Phải chăng đó là sự thoát thai của một ý nghĩ tìm tàng gây nên bởi lòng tha thiết cuả tôi đối với dĩ vãng?
Phải chăng đó là do nhãn quang thần bí khiến cho tôi nhìn thấy vong hồn của một vị tăng lữ thât sự đã xuất hiện ở ngay chổ? Hay phải chăng đó là cái ký ức xa xôi về một tiền kiếp cuả tôi khi xưa ở Ai Cập?
Đối với tôi, thì vì tôi nhận biết biết rõ sự cảm xúc của tôi đã căng thẳng đến mức độ nào trong khi và sau khi tôi có cái linh ảnh đó, nên tôi chỉ có thể có một câu trả lời. Người khôn ngoan không bao giờ kết luận vội vàng, vì sự thật là một cái gì quá mỏng manh mà ta khó nắm chắc.
Cổ nhân đã từng nói rằng sự thật nằm ở tận đáy của một cái giếng vô cùng sâu thẩm. Dẫu rằng thế nào, tôi nhìn nhận rằng tôi phải trả lời là đúng cho câu hỏi cuối cùng.
Nhà bác học Einstein đã bỏ cái quan niệm bảo thủ vẫn có từ trước về vấn đề thời gian. Ông đã chứng minh bằng toán pháp rằng người nào có thể quan niệm sự vật theo hệ thống bốn chiều đo sẽ nhìn dĩ vãng và hiện tại với một tầm hiểu biết khác hẳn với quan niệm thông thường của người đời.
Điều đó có thể giúp cho ta hiểu rằng thiên nhiên vẫn giữ một ký ức toàn vẹn về dĩ vãng, nghĩa là tất cả sự diễn biến trong vũ trụ trong hàng bao nhiêu thế kỷ đã qua đều vẫn còn tồn tại trong ký ức thiên nhiên. Do đó tôi mới hiểu bằng cách nào, trong những cơn thiền định thâm sâu, người ta có thể giao cảm một cách bí mật và tự nhiên với cái ký ức đó.
BÍ MẬT CỦA NHỮNG KỲ QUAN KARNAK
CHƯƠNG CHÍN
Sau cùng, chúng tôi đã đến xứ Ai Cập cổ kính, thâm nghiêm, và hấp dẫn mà con sông Nil, những đền đài, đồng ruộng, làng mạc và nền trời xanh đậm cùng nhau phối hợp để tạo nên một cảm giác quyến rủ và sống động.
Đó là xứ Ai Cập của những thời đại mà các vị vua Pharaon sang cả quyền uy còn đang trở về, mà hết cả ngày này sang ngày kia, những sân đền còn vang dội âm hưởng tiếng thánh ca của các vị tăng lữ.
Tôi đến Louqsor, cách thủ đô Cairo 450 dặm sau khi đi ngược dòng sông Nil. Đến đây, người ta trở về dĩ vãng và sống với dĩ vãng một cách dể dàng khộng cần một cố gắng nào cả, cảnh vật chung quanh đem đến cho ta một lọat những hình ảnh cổ xưa.
Chỉ có miền nam Ai Cập, mà các nhà địa lý học gọi là miền thượng du Ai Cập, còn giử được cái phong vị đó trước mắt nhưng du khách thời nay. Cố đô danh tiếng của nó, thành phố cổ điển Thèbes, mà thi hào Homère gọi là "Thành phố một trăm cửa," ngày nay đã biệt tích, nhưng nó còn để lại cho chúng ta tại Karnak, một trong những trung tâm tôn giáo của giới tăng lữ Ai Cập.
Ngày nay, Karnak là viên ngọc quý của vùng này. Những đền đài cổ, điêu tàn nhưng vẫn còn hùng vĩ của nó nổi tiếng khắp nơi trên thế giới. Một trong những ngôi đền này mà ngôi đền to lớn nhất mà người ta có thể tìm thấy ở Ai Cập, dó là đền thờ Amen Ra.
Thời xưa, tất cả những ngôi đền khác ở Ai Cập đều phụ thuộc vào ngôi đền này. Thế là tôi đã đi hành hương tại Karnak và chiêm ngưỡng những đền thờ hoang tàn sụp đổ dưới ánh mặt trời nắng gắt cũng như dưới ánh trăng khuya êm dịu.
Karnak ở kếcận một khu rừng xanh biếc, cách ba dặm ở phía bắc Louqsor. Người ta đến đây bằng con đường đầy bụi bặm, đi xuyên qua một cánh đồng lớn dưới một nền trời xanh lợt. Dọc đường có một ngôi mộ của một vị vua Ả Rập, nóc bầu tròn sơn trắng, sau cùng nhô lên trước mắt tôi hai cây cột trụ cao vút của cổng đền.
Cổng đền xem rất hùng vĩ ngoạn mục, đặc biệt hấp dẩn sự chú ý của du khách. Trên chót người ta nhìn thấy tượng vua Ptolémée xây dưng lên ngôi đền này, đang cúng dâng lể vật cho các vị thần thành Thèbes.
Bước vào cổng, tôi đã ở trong ngôi đền thần Khonsou, vị thần đầu chim ưng, mà ngôn ngữ bình dân gọi là con của Amen. Trên tường có chạm hình nổi diển tả một đám rước lể du thuyền tấp nập trên sông, dưới thuyền chở tượng thần Amen Ra đi ngược dòng sông Nil đến tận Louqsor.
Tôi bước vào ngôi đền sụp đổ, tại đây ngày xưa người ta giữ chiếc linh thuyền rước tượng thần Konsou. Tất cả những đồ vật dùng để rước lể được cất giữ tại đây có ý nghĩa rất nhiều đối với quần chúng, những tăng lữ tham quyền cố vị và nhất là đối với các vị vua chúa.
Trái lại, nó không phải là quan trọng đối với một số ít đạo đồ, những vị này chỉ coi các nghi lể cúng tế như những nghi thức tượng trưng, chứ không có một giá trị tâm linh thật sự.
Kế đó, tôi phát hiện một lọat những hình nôi rất lý thú chạm trổ trên tường phía đông của một gian phòng bên trong, tiếp cận với chánh điện. Điều làm cho tôi chú ý trước nhất là pho tượng một nhân vật đã từng quen thuộc với tôi trong một đêm suy tư giữa bãi sa mạc, thần tượng Sphinx!
Tôi liền hiểu ngay đó là một điều quan trọng và người ta có thể quan sát khắp đền trong nhiều ngày giữa những tường, vách và cột trụ đá mà không tìm thấy có thần tượng này.
Hình nổi đầu tiên là hình vua Ramsès thứ 4, đang đứng trước mặt nữ thần Ament và dâng nữ thần một pho tượng nhỏ. Kế đó là một hình nổi trên tường có chạm hình hai nhân vật. Phía trước là một hình thiếu nhi, không ai khác hơn là Horus, con của Orisis.
Trên đầu Horus có hình biểu tượng mặt trời và con rắn, tay trái để lên hai đầu gối, còn tay mặt đưa lên, ngó tay trỏ chỉ môi, ngụ ý giữ im lặng. Còn nhân vật kia, phía sau Horus, là thần tượng Sphinx.
Nữ thần Ament đưa bàn tay về phía Ramsès, tay cầm một thập tự giá có quai hình vòng tròn ở một đầu, còn đầu kia điểm vào giữa mắt của vua Ramsès. Bức hình đó có ý nghĩa gì?
Một nhà Ai Cập học có chắc sẽ đưa ra một sự giải thích hoàn toàn hợp lý và khá đúng theo quan điểm của y. Y sẽ nói rằng nhà vua đang hiến dâng lể vật cho nữ thần, thế thôi. Y không còn nói gì hơn. Những cảnh tượng chạm trổ trên vách như thế thường diển tả những mẩu chuyện vặt hoặc nhắc lại điển tích những chiến công rực rỡ của một triều vua nào đó.
Nhưng ở đây lại là môt việc khác. Trước hết người ta nhận ra đó là việc thực hành một nghi lể tối thiên liêng, nhất là bức hình được chạm gần bên chánh điện trung ương là chổ thâm nghiêm nhất của ngôi đền này.
Cũng như lọai ám chữ Ai Cập được dùng để diển tả một ý nghĩa bí truyền mà chỉ có những người tăng lữ đã điểm đạo được biết mà thôi, thì đây cũng vậy, gương mặt các và thần đối với những vị đạo đồ thời cổ có hàm xúc một ý nghĩa thâm sâu hơn là đối với quần chúng. Như vậy, ý nghĩa huyền diệu của các bức hình này chỉ có thể hiểu được bởi những người nào đã từng thấu triệt giáo lý Huyền Môn.
Điểm cốt yếu trên bức hình nổi, là cử chỉ hành động của nữ thần Ament. Cái thập tự giá có quai hình vòng trònmà nữ thần điểm vào giữa hai mắt của vua Ramsès, các tăng lữ điểm đạo gọi là cái chìa khóa của Huyền Môn, nó tượng trưng cho việc điểm đạo để thu nhận vào tổ chức Huyền Môn thật sự vậy.
Một nhà Ai Câp học sẽ cho rằng nó chỉ tượng trưng cho việc mở cửa, từ lâu vẫn khép chặt, để bước vào tổ chức thiên liêng này. Dưới hình thức kỷ hà, nó tượng trưng linh hồn bất diệt của người đạo đồ đã được giải thoát ra khỏi cái thể xác vật chất "Bị đóng chặt trên thập tự giá."
Cái vòng tròn, không đầu không đuôi, tượng trưng tính chất bất diệt của linh hồn tương đương với các đấng Thần Minh, còn cái thập tự giá tượng trưng cho trạng thái xuất thần của người đạo đồ, do đó có sự chết và bị "đóng chặt vào thập tự giá" của y. Trong vài đền thờ cổ, người ta đặt y nằm trên cái giường gổ hình thập tự giá.
Điểm giữa hai chân mày chỉ vị trí của tùng quả tuyến, tức bộ hạch óc mà những động tác phức tạp vẫn chưa được khoa học hoàn toàn biết rõ.
Trong những cấp bật điểm đạo đầu tiên, vị Đạo Trưởng dùng phép làm kích động bộ hạch ấy một phần nào, để giúp cho người thí sinh tạm thời mở rộng thần nhãn và nhận thấy những ma quái hiện hình hoặc những nhân vật tâm linh xuất hiện ở gần bên y.
Phương pháp sử dụng vào việc này một phần do mãnh lực từ điển, một phần tùy thuộc vào một vài chất hương liệu rất mạnh.
Bởi đó, khi nữ thần Ament cầm cái thập tự giá điểm vào giữa hai mắt của vua Pharaon, cử chỉ đó ngụ ý rằng nhà vua đã được điểm đạo theo tổ chức Huyền Môn, và nhà vua sẽ tạm thời mở thần nhìn trong một thời gian.
Nhưng nhà vua bị cấm nhặt không được tiết lộ cho ai biết những gì nhà vua được thấy và những cảm xúc trong cuộc lễ điểm đạo. Điều này được diễn tả bởi nhân vật đầu tiên trong bức hình nổi, thiếu nhi Horus, tức là vị thần Hormakhou, mà ngón tay đưa lên môi khép chặt ngụ ý phải tuyệt đối giữ im lặng và bí mật.
Những hình ảnh tương tự cũng được phô bày gần bên các thánh điện và những gian phòng điểm đạo trong tất cả các ngôi đền thờ cổ, luôn luôn với ngón tay trỏ đưa lên môi. Một hiệu lệnh ngầm có ý tượng trưng:
Hãy giữ im lặng về những gì liên hệ đến những gì bí mật thiêng liêng. Còn nhà vua cầm pho tượng nhỏ với một cử chỉ hiến dâng có nghĩa là người sẵn sàng hy sinh lời nói của mình và luôn luôn giữ im lặng.
Phía sau thần Hormakhou còn có hình chạm một nhân vật thứ hai thần tượng Sphinx. Đó là ngụ ý gì?
Cũng như vị đạo đồ trong cơn xuất thần đã mất khả năng dùng lời nói trong thời gian điểm đạo, thần tượng Sphinx vẫn luôn luôn im lặng và không hề thốt ra một tiếng nào. Thần tượng Sphinx luôn luôn biết giữ gìn bí mật. Vậy đó là những bí mật gì?
Đó là những điều huyền bí trong cuộc điển đạo.
Thần tượng Sphinx canh gác ngôi đền điểm đạo hùng vĩ nhất của thế giới cổ: Ngọn Kim Tự Tháp. Những người đi hành lể ở Kim Tự Tháp thời xưa đều đến từ bờ sông Nil, trước khi đến nơi họ phải đi ngang qua trước thần tượng Sphinx. Trong cái im lặng của nó, thần tượng Sphinx tượng trưng cho sự im lặng và sự bí mật của cuộc điểm đạo.
Như thế vua Pharaon đã được mới tham dự một nghi lể huyền bí lớn nhất có thể được ban cho con người.
Ba bức hình khác hoàn thành một loạt những cảnh tượng làm lể điểm đạo, mà ngày nay du khách có thể xen tự do, nhưng ngày xưa chỉ dành cho một số ít người biệt đại. Trên những bức hình đó, người ta thấy những cảnh tượng tiếp theo sau khi nhà vua đã bước qua cửa Huyền Môn.
Trong bức hình thứ hai, nhà vua đứng giữa hai vị thần, Horus trưởng thành và Thoth. Mổi vị thần này cầm một cái bình rót lên trên đầu vua Ramses, không phải rót nước, mà rót một dòng những thập tự giá có quai tròn tràn ngập đầu và rớt xuống chung quanh vua.
Thoth là vị thần minh triết và bí giáo. Trong hính này, ngài ban cho vua sự hiểu biết bí truyền về những sức mạnh thần bí và minh triết tâm linh, là những điều quý báu đã từng làm cho Ai Cập nổi tiếng như cồn vào thời đại cổ. Ngài cũng là vị thần Nguyệt Tinh.
Bởi đó, tất cả các nghi lể tôn giáo và phù phép có tầm quan trọng bí mật, nhất là những cuộc lể điểm đạo Huyền Môn, đều diển ra ban đêm vào những lúc trăng non và trăng rằm, là những giai đoạn mặt trăng có ảnh hưởng lớn nhất.
Hours khi trưởng thành, là thần thái dương. Vai trò của thần Horus trong hình này chỉ rằng, mặc dầu khởi sự vào lúc ban đêm, lể điểm đạo kết thúc vào lúc ban ngày vào giờ bình minh. Khi những tia nắng đầu tiên của mặt trời sớm mai rọi thẳng vào đỉnh đầu người thí sinh thì vị đạo Trưởng niệm thần chú để y tỉnh dậy.
Trong bức hình thứ ba, vua Ramses trở nên vị đạo đồ đầy minh triết, được hai vị thần khác nắm lấy tay vua để chúc mừng, vừa đưa lên trước mặt vua những thập tự giá có quai, ngụ ý rằng từ nay nhà vua trở nên bạn hữu đồng môn với các đấng thần minh do bởi cuộc điểm đạo vừa trải qua. Trong cảnh cuối cùng, nhà vua dâng một pho tượng nhỏ cho thần Ament-Ra.
Đó là pho tượng một vị thần ngồi, có một lông chim cắm trên đầu, tức là thần chân lý, nghĩa là với một sự hiến dâng trọng vẹn, người sẽ hướng mọi tư tưởng và hành vi theo những định luật tâm linh nó cai quản đời sống con người, như đã được tiết lộ cho nhà vua trong cuộc lể điểm đạo.
Như vậy, những bức hình chạm trổ này đã cho tôi thấy đời sống tâm linh của một vị Pharaon có đạo đức, và phát hiện cho tôi biết vài điều về những nghi thức lể trong khoa Huyền Môn Ai Cập.
Tôi bước qua cánh cửa ở đầu gian phòng lớn của chánh điện, và đứng trước một bàn thờ nhỏ, ở hai bên có hình tượng vua Pharaon đang chiêm bái và cây linh kỳ của nữ thần Hathor. Ở phía dưới, một lổ hỏng lớn của một nền đá bị sụp lở tối đen ngòm, tôi lấy đèn bấm soi xuống thì thấy chổ sụp lở đó đưa xuống một đường hầm dưới đất.
Đó là cái động xây dưới hầm của đền thờ Karnak, có nhiều ngăng cách và hành lang dài. Ở bề mặt cánh cửa lớn, tôi nhận thấy có hai lổ hỏng khác cũng là chổ nền đá bị sụp lở và đưa xuống những đường hầm nhỏ hẹp đầy bụi bặm chưa từng có vết chân người bước đến.
Tôi bèn thám hiểm những con đường hẹp này thì thấy một đường đi xuyên qua động dưới hầm đến chổ thờ thần Khonsou. Đường dưới hầm bao phủ một lớp bụi dầy đặc đến nổi người ta phải nhìn nhận rằng bụi đã đóng ở đây nhiều thế kỷ, tôi cố tìm thấy dấu vết xem có người đã đến đây chăng.
Nhưng ngoài những dấu bàn chân, hẳn từ người Ả Rập gác đền thờ Khonsou ở gần bên, tôi không thấy gì nữa, chỉ thấy có những đường cong ngoằn ngoèo rất nhiều và xem rất có mỹ thuật được vẽ ra từ hai cái lổ đen bởi một vài con rắn nhỏ.
Những đường hầm đen tối kia và cái động đá bí mật kia có ý nghĩa gì?
Tôi đang tự hỏi như thế, thì cái động thâm u dưới hầm, giống như cái nhà mồ, dường như xuất hiện trước mắt tôi. Tôi nhớ lại cuộc hành lể cổ truyền tái diển sự chết và sự hồi sinh của Osiris, và cuộc lể mà tôi đã thấy khắc trên vách đá của thánh điện nhỏ trên nóc bằng của đền thờ Denderah.
Hính cuộc lể mà tôi đã nhìn thấy trong linh ảnh và tôi đã sống qua kinh nghiệm bản thân một đêm trong Kim Tự Tháp, chính cuộc lể mà Osiris đã truyền lại từ châu Atlantide cho những vị Đạo Trưởng và tăng lữ của thời cổ Ai Cập.
Tại sao người ta lại làm lể điểm đạo Huyền Môn ở những nơi đen tối và âm u như những chốn này?
Có ba lý do để giải thích câu hỏi đó. Để giữ gìn tuyệt đối bí mật và an toàn cho việc ban phép mầu vừa có tính cách riêng tư lại vừa nguy hiểm. Để làm cho người thí sinh bước vào trạng thái xuất thần một cách dể dàng hơn, bằng cách không cho y nhìn thấy vật gì ở chung quanh và như vậy, để cho y dễ tập trung sự chú ý vào nội tâm.
Sau cùng, để có được một hình thức biểu tượng hoàn hảo mà cổ nhân vẫn thích dùng, phải chăng các vị Đạo Trưởng nhận thấy người thí sinnh vẫn còn ở trong trạng thái vô minh u tối về phương diện tâm linh, vào lúc sắp bắt đầu cuộc lễ điểm đạo?
Và sự thức tĩnh của y sẽ dược thực hiện bằng cách mở mắt chào đón những tia sáng mặt trời ở một chỗ khác, nơi đó y sẽ được chở đến sau khi điển đạo, khi đó y đạt được sự giác ngộ tâm linh.
Sau một cuộc điểm đạo kéo dài một cách chậm chạp, bắt đầu lúc ban đêm và kết thúc vào buổi trời rực sáng, người đạo đồ đã vượt qua từ sự vô minh hắc ám (đêm tối) đến sự soi sáng tâm linh (ánh sáng).
Cuộc hành lễ điểm đạo Huyền Môn được thực hiện những động đá dưới hầm, hoặc trong những gian phòng đặc biệt bên cạnh thánh điện thâm nghiêm, hoặc trong những thánh điện nhỏ trên nóc bằng của ngôi đền, chứ không bao giờ của một nơi nào khác.
Tất cả những nơi này đều bị triệt để cấm nhặt đối với dân chúng, họ không hề dám lại gần, vì những kẻ nào vi phạm sẽ bị những sự trừng phạt rất nặng nề, khủng khiếp. Những vi Đạo Trưởng nhận lấy việc điểm đạo cho một thí sinh, tức là đảm đương một trách nhiệm nặng nề, vì vấn đề sống chết của vị thí sinh nằm trong tay các ngài.
Người thí sinh có thể bị thiệt mạng nếu có kẻ nào vô phúc thình lình xuất hiện, làm gián đoạn cuộc lễ điểm đạo thiêng liêng.
Như vậy có khác nào trong khi một người bị bịnh nặng đang chịu một cuộc giải phẩu hiểm nghèo, mà để cho người ngoài cuộc bỗng nhiên đột nhập vào phòng mổ? Nói cho cùng, thì lễ điểm đạo phải chăng không khác gì một cuộc giải phẫu tách rời linh hồn ra khỏi thể xác? Đó là lý do vì sao tất cả những phòng điểm đạo đều được giữ gìn, canh phòng cẩn mật và đặt ngoài vòng xâm nhập của người đời.
Những phòng gần bên thánh điện của một ngôi đền lớn, người ta chỉ có thể đi đến sau khi đã vượt qua một đường hẹp tối om, ánh sáng mỗi lúc càng mờ dần từ phía cửa vào, để rồi hoàn toàn biến mất khi người ta đến ngưỡng cửa thánh điện.
Khi người thí sinh đã hoàn toàn mê thiếp đi trong cơn xuất thần, thì thể xác y được đặt trong bóng tối âm u của gian phòng, cho đến khi cuộc điểm đạo chấm dứt, người ta mới mang y ra bên ngoài ánh sáng.
Còn ở những phòng điểm đạo trong động đá dưới hầm, người ta cũng hành lễ một cách tương tự, tất cả mọi thứ áng sáng đều tắt hẳn trong cơn đồng thiếp, và động đá trở thành cái nhà mồ, nói theo cả hai ý nghĩa tượng trưng và thật sự.
Tôi chui xuống động đá dưới hầm do một lỗ hỏng trên nền đá và thám hiểm một gian phòng tối âm u, tại đây ngày xưa các vị tăng lữ đã cử hành những nghi lễ huyền bí nhất của họ. Xong rồi tôi chui lên khỏi hầm với một cảm giác thoải mái dễ chịu giữa ánh sáng mặt trời êm ấm và không khí trong lành.
Tôi đi qua những cổng vĩ đại của đền thờ Amen Ra, kéo dài cuộc hành hương của tôi giữa những di tích của một thời đại huy hoàng ngày nay đã mất.
Những cổng đền này có lẽ vừa kích thước với những người khổng lồ hơn là với những người trần gian nhỏ bé như chúng ta. Sở thích của người Ai Cập về những kích thước đại quy mô đôi khi đưa đến kết quả là gây một cảm giác rợn người, cũng như trường hợp Kim Tử Tháp lớn gần thủ đô Cairo và những bức tường rào với những cổng đền mà tôi đang đứng núp dưới bóng mát trong lúc này.
Bề dày của những vách tường này đến 15 thước, dẫu cho những thành quách củng không bao giờ cần đến một bề dầy như vậy. Hẳn là người ta ngụ ý rằng thế giới phàm tục bên ngoài phải được ngăn cách để khỏi làm hoen ố vòng thánh thiêng liêng của ngôi đền mà người cổ Ai Cập gọi một cách hãnh diện là "Ngai vàng của thế giới."
Than ôi! Ngai vàng ngày nay đã điêu tàng trong cô quạnh. Khi tôi bước vào sân đền rộng lớn, tôi thấy có một đống gạch ngói còn sót lại của những tòa kiến trúc đồ sộ đã sụp đỗ, chỉ còn vài cây cột trụ đứng trơ vơ giữa cảnh đổ nát hoang tàn.
Tôi chậm rãi tiến bước, chân tôi dẫm lên nền đất gồ ghề mọc đầy cỏ dại, nay đã dành lấy chổ của thềm đá hoa đẹp lộng lẫy ngày xưa xây trên một diện tích rộng lớn, chiều dài có đến trên một trăm thước.
Qua khỏi sân đền hình vuông dài, tôi đã đến một cổng cao có chạm đầy những hình nổi sơn màu, và mở ra giữa những tàn tích của một cái cổng khác mà hai cột trụ đá hai bên đã sụp đổ chỉ còn trơ lại một đống đá ngổn ngang dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời.
Ngày nay, cổng đền này cao không dưới ba chục thước. Bảy bậc đá tam cấp cũng đã biệt tích mà những nhà kiến trúc thời xưa xây ở ngoài cổng đền, như những hình thức biểu tượng ám chỉ sự tuần tự tiến hóa của con người từ cõi hạ giới phàm trần lên đến cõi giới cao siêu nhất mà y có thể đạt tới bằng sự phát triển tâm linh.
Cũng như nhiều dân tộc khác của những nền văn minh cổ, người cổ Ai Cập diển đạt ý nghĩa huyền bí của số hệ theo quy mô trật tự của sự cấu tạo vũ trụ càn khôn.
Họ quan niệm rằng ngày thứ bảy hay cõi thứ bảy đem đến sự nghỉ ngơi, sự bằng an tuyệt vời cho con người cũng như cho muôn loài vạn vật trên thế gian. Tôi đã nhận thấy sự hiện diện của con số bảy trong tất cả các đền thờ ở khắp nơi tại xứ này, và dãy hành lang lớn trong Kim Tự Tháp cũng có sự biểu lộ của con số bảy một cách rõ ràng và lạ lùng.
Bởi đó, thật là một điều tự nhiên mà thấy bảy bậc tam cấp, ngày nay đã sụp đổ, được dựng lên ngoài cổng vào tòa kiến trúc cao lớn và hùng vĩ nhất của Karnak, tòa đại sảnh đường của đền thờ Amen Ra.
Tôi bước vào. Một viễn cảnh phi thường, mười sáu hàng cột trụ đá khổng lồ chen chúc nhau xuất hiện trước mắt tôi. Ánh nắng mặt trời rọi xuống cảnh tượng đó, tạo thành một hình ảnh độc đáo mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Mổi cột trong số 130 cây cột trụ đứng, phát ra một cái bóng dài trên nền đá đã loang lỗ nhiều nơi.
Những cột trụ đá trắng dựng lên chơm chởm như một đạo binh khổng lồ, bề chu vi của mổi cột có đến mười thước tây! Thật là kinh khủng, một kỷ thuật kiến trúc đại quy mô không tiền khoáng hậu, vĩ đại vô cùng! Một rừng cây khổng lồ bằng đá trên một diện tích 100 thước bề rộng, thật là một điều rất là Ai Cập!
Tòa đại sảnh dường này phần lớn được xây cất vào hồi triều đại vua Seti, chính vị vua Pharaon này cũng đã xây dựng nên ngôi đền Abydos là nơi tôi đã hưởng một sự yên tĩnh lạ thường. Nhưng ở đây thì cái ấn tượng hùng tráng, oai vệ ngự trị khắp cả, nó khiêu gợi các hình ảnh của một thời đại đã tàn, mà người ta đã từng thực hiện một công trình vĩ đại như thế.
Vua Seti đã không sống được lâu để hoàn thành công trình sáng tạo khổng lồ này. Chính vua Ramsès đại đế đã tiếp tục công trình ấy, ông dùng những khối đá của vùng đồi Aswan dể tạc thành những cây cột trụ to lớn của sãnh đường.
Bằng lối kiến trúc đại quy mô đó, cổ nhân đã dụng ý khai phóng tâm hồn cho con người thấy những viễn ảnh rộng lớn, làm cho con người thoát ly ra khỏi cái vòng bẩn chật nhỏ nhen của những tham vọng thường tình, gây nguồn cảm hứng cho y có những hoài bảo to tác và chí nguyện cao cả, giúp cho y mở rộng tầm nhãn quan và nung nấu chí khí để làm những việc vĩ đại phi thường.
Nói tóm lại, người ta muốn được giống như vị minh quân Ramsès, xây dựng lên những ngôi đền to lớn vĩ đại, rồi thiết lập chung quanh đó những thành thị kiểu mẫu, nơi đó người ta có thể sống trong ánh sáng của những hoài bảo thanh cao và những lý tưởng siêu việt.
Trời đã sắp sửa về chiều. Tôi còn dừng bước ở nán lại, trong khi mặt trời sắp sửa lặn tỏa ra khắp vùng những ánh hào quang rực rỡ đủ màu. Cuộc hành hương của tôi đã kết thúc.
Toàn thể cảnh vật gồn những đền miếu sụp đổ hoang tàn, những cánh đồng và bãi sa mạc chung quanh nhuộm bao nhiêu sắc màu dồi dào phong phú của bóng hoàng hôn của vùngnhiệt đới, đã đem đến cho tôi một niềm phúc lạc thâm trầm say sưa, lâng lâng thoát tục.
Cái thú vị thần tiên ở chốn này thật thấm thía đậm đà, nó thấm nhuần vào người chúng ta giống như sương mù bao phủ trên sông, một cách từ từ mà ta không hề hay biết, cho đến khi ta nhận thấy rằng nó đã hiện diện khắp chung quanh ta.
Nếu người ta không có một linh hồn tinh vi, tế nhị, thì người ta còn thấy gì hơn trong những ngôi đền sụp đổ này, ngoài những đống gạch đá, cát sỏi và bụi bậm? À, phải chứ!
Trong sự chiêm ngưỡng như nơi cổ tích hùng vĩ này, chúng ta hãy biết tìm thấy những ấn tượng khác nữa, để khi trở về ta sẽ thấy rung động đến tận tâm hồn, trong lòng tràn ngập một niềm sùng kính thiêng liêng, ý thúc được cái vẻ đẹp huy hoàng và sự tranh trọng tôn nghiêm nó vẫn còn phảng phất và tồn tại mãi với thời gian.
Bầu không khí vắng vẻ hoang vu của Karnak đã đem đến cho tôi một điều ích lợi rất lớn. Tôi đã có thể đắm mình trong sự im lặng thần tiên của nó để hưởng thụ được nhiều lạc thú tâm linh luôn luôn đổi mới.
Thời đại hiện kim không giúp cho chúng ta hưởng cái thú ngồi cô đơn một mình, thế hệ cơ giới ngày nay không còn để cho ta thưởng thức cái vui trong im lặng. Tuy nhiên, tôi tưởng rằng mỗi ngày ta cần phải có một sự ẩn dật tạm thời, dành ít nhiều thì giờ cho một sự trầm tư vắng lặng.
Chính bằng cách đó mà người ta hồi phục lại sự bình an của cõi lòng, và nguồn cảm hứng tốt lành sẽ trở về với một tâm hồn chán nản. Đời sống của chúng ta hiện nay giống như một cái nồi súp de sôi sục và rú lên từng chập, con người chỉ biết lăn xả vào đó. Mỗi ngày, người ta càng mất đi sự gần gũi thân mật với chính mình, và lại càng gần gũi thân mật nhiều hơn với cái nồi súp de!
Sự suy tu trầm lặng hàng ngày đem đến những kết quả dối dào của sự sinh hoạt tâm linh. Do đó người ta có được sự cương nghị trong những giờ phút quyết định, sự can đảm dám sống một cuộc đời độc lập không tùy thuộc vào dư luận của một số đông người, và sự ổn định tinh thần giữa tất cả những cơn loạn động ồn ào của cuộc đời thế tục.
Đời sống hiện đại có cái tác động tệ hại nhất là nó làm nhục đi cái khả năng suy tưởng thâm trầm. Trong sự náo động ồ ạt của một thành phố lớn, có ai đã dừng chân để nhớ lại rằng đời sống nội tâm của mình đang đi đến chỗ tê liệt? Họ chỉ biết rằng họ đang vội vàng gấp rút, thế thôi.
Nhưng luật tự nhiên không hề gấp rút vội vàng. Nó đã phải cần đến bao nhiêu triệu năm để cấu tạo nên cái nhân vật vừa yếu đuối vừa loạn động như con người thời nay. Và rất có thể rằng nó sẽ đợi chờ đến một thời kỳ mà con người biết sống một cuộc đời bình dị hơn, yên tịnh và trầm lặng hơn, để cho y thoát ra khỏi tình trạng đọa lạc và đau khổ mà y tự chuốc lấy cho mình.
Chừng đó, con người mới có thể nhìn vào cái nguồn cội thâm sâu của mọi tư tưởng thiêng liêng, nó đã bị vùi lấp đi trong sự náo động cuồng loạn mà y và những kẻ đồng loại đã từng lao đầu vào trong cuộc sống hàng ngày.
Những cuộc thăm viếng của tôi vào giờ ban đêm tại Karnak là những chuyến đi thích thú nhất, nhất là vào đêm trăng rằm. Màn đêm Ai Cập bao phủ những ngôi đền cổ với một ánh trăng huyền ảo, nó hé lộ cho ta thấy những khí cạnh thú vị, và che khuất phần còn lại trong một bóng tối thích hợp với những ngôi đền miếu thâm nghiêm này.
Trong những chuyến hành hương về đêm, tôi đã dùng nhiều phương tiện di chuyển khác nhau, mà tất cả đều làm cho tôi thích thú. Tôi đã đi thuyền bườm ngược giòng sông Nil xuôi theo cơn gió thổi mạnh, hoặc cởi lạc đà, hoặc dùng xe ngựa đi theo con đường mòn cũ kỹ, với ít nhiều tiện nghi.
Nhưng trong đêm trăng rằm như đêm nay, tôi thấy không gì thích thú hơn là đi bộ, và tôi đã vượt qua quãng đường hai hay ba dặm bằng chân như các vị tăng lữ thời xưa, dầu trong những ngày lễ long trọng rực rỡ của sứ cổ Ai Cập. Một ánh trăng bạc rọi xuống lớp vụi trắng dày đặc bao phủ con đường mòn mà tôi đi qua.
Thỉnh thoảng, những con dơi lớn vỗ cánh trên không và kêu to rồi bay mất dạng. Ngoài ra không còn tiếng động nào nữa, một cái im lặng thâm trầm xâm nhập chiếm lấy cả vùng chung quanh cho đến khi tôi bước chân đến làng Karnak.
Trên con đường làng, thỉnh thoảng tôi gặp một vài người đi lưa thưa, tay xách một ngọn đèn lồøng nhỏ ánh sáng lập lòe, những ánh đèn dầu khi mờ khi tỏ chiếu ra ngoài những cửa sổ hai bên đường. Thỉnh thoảng tiếng chân người làm cho vài con chó cất tiếng sủa vang.
Đế đầu đường, tôi thấy nhô lên trước mặt tôi cái cổng đền màu bạc của vua Ptolémeé, giống như một tháp canh khổng lồ gìn giữ mặt ngoài của ngôi đền lớn mà nóc nhọn vươn lên trên nền trời xanh thẩm.
Vì là ban đêm, nên cổng đền đã bị ngăn lại bằng một bức rào. Tôi đánh thức người gác cổng đang ngủ trong một cái chòi tranh gần bên, ngọn đèn bấm sáng trưng của tôi làm cho y nheo cặp mắt đỏ ngầu đang ngái ngủ. Sau khi đã mở cổng cho tôi bước vào, tôi đưa cho y một món tiền thù lao để đền bù việc làm y thức giấc nửa đêm, và y đã cho tôi đi lại tự do.
Tôi bước qua sân đền và ngồi trong vài phút giữa đống tảng đá ngỗn ngang của một cái cổng thứ nhì đã sụp đổ, cổng này ngày xưa đứng ở chỗ cuối sân trước khi đưa vào phòng đại sảnh đường. Tôi suy tư một lúc về sự cao cả huy hoàng xưa kia của đền thờ Amen Ra ngày nay đã suy tàn.
Một lúc sau tôi đã đứng giữa cột trụ hùng vĩ và những cảng tượng loang lỗ điêu tàn của tòa đại sảnh đường. Ánh trăng khuya soi xuống các cột trụ, tỏa xuống nền đất những bóng đen dầy, làm cho những hàng chữ ám tự khắc trên cột ẩn hiện chập chờn khi mờ khi tỏ.
Tôi tắt ngọn đèn bấm để thưởng thức cái đẹp của đêm trăng, nó làm cho toàn thể ngôi đền đượm nét ảo huyền như cảnh mộng. Trước mặt tôi là cây trụ thạch (obe'lisque) của nữ hoàng Hatchepsou, vương mình lên cao giống như một cây kim khổng lồ bằng bạc.
Tôi vừa từ từ bước trong bóng tối mờ đến những nơi thánh điện ở phía sau những dãy cột trụ khổng lồ của đại sảnh đường, thì tôi có cảm giác mơ màng dường như có sự hiện diện nào ở bên tôi? Tuy nhiên, ít nhất là mười lăm thế kỷ đã trôi qua mà những người sùng tính không còn đặt chân đến những nơi đền miếu hoang tàn này nữa.
Những tượng thần bằng đá bị sứt mẻ cũng đã chịu đựng trong sự im lặng cô đơn đó đã từng bấy nhiêu lâu, tôi cũng biết rằng xứ Ai Cập ngày nay không có một người nào còn sự tin tưởng và truyền bá nền tôn giáo cổ. Vậy tại sao tôi cảm thấy có sự hiện diện của người sống chung quanh tôi, trong ngôi đền đã chịu sức tàn phá của thời gian và đắm chìm trong sự im lặng của nhà mồ?
Tôi rọi đèn khắp nơi, soi khắp các cột trụ cùng vách tường, những đống gạch đá sụp đổ ngổn ngang mà những thền đá sứt mẻ, cũng không thấy có dấu vết của một bóng người.
Tôi lại rảo bước tiến tới, một mình cô quạnh trong đêm khuya, tôi vẫn không sao thoát khỏi cái cảm giác ám ảnh đó. Ban đêm luôn luôn đem đến những sự sợ hãi rùng rợn của nó, luôn luôn làm tăng thêm sự sợ sệt của ta dẫu cho lúc đầu đó chỉ là những sự e ngại nhỏ nhặt.
Tôi đã từng chấp nhận và mến yêu những đêm ấm áp và yên tĩnh của xứ Ai Cập, mà cái thú vị thần tiên đã thâm nhập vào người tôi. Nhưng đêm nay thì lại khác hẳn: Những ngôi đền sụp đổ tàn tạ này dưới ánh trăng huyền ảo có những nét hầu như rùng rợn. Tôi ý thức được một cảm giác bức rức khó chịu dưới ảnh hưởng của giờ đêm khuya khoắt và của nơi chốn này. Tại sao?
Tôi đi lần theo con đường lót đá cũ đưa đến những ngôi kiến trúc điêu tàn ở về hướng bắc, và đến cái miếu nhỏ thờ thần Ptah. Tôi đi qua cái sân hẹp có nhiều cột và một cửa khác, tôi đã bước vào thánh điện.
Một ánh trăng rọi vào một trong những bức tượng kỳ lạ nhất của Karnak, đó là pho tượng nữ thần Sekhmet, với thân thể một nữ nhân, đầu sư tử. Truyện thần thoại Ai Cập gán cho nữ thần này cái vai trò trừng phạt và tiêu diệt nhân loại.
Tôi ngồi xuống một bậc thềm đá, và nhìn xem ánh trăng soi xuống những bức tường đổ nát. Từ xa xa, vọng lại một tiếng kêu rùng rợn của một con chó rừng săn mồi. Tại đây trong trạng thái thụ cảm, tôi lại cảm thấy trong lòng tôi có cái ấn tượng về một sự hiện diện vô hình, pha lẫn sư sợ sệt hoang mang.
Phải chăng những vong hồn của các vị tăng lữ thời xưa, của những đám đông tín đồ tôn sùng hãy còn lởn vởn ở chung quanh những nơi đền miếu cổ xưa này? Hay họ vẫn còn khấn vái cầu nguyện thần Ptah, tay cầm một linh trượng tượng trưng cho quyền lực và sự ổn định?
Phải chăng vong hồn các vị tăng lữ và vua chúa thời xưa nay vẫn còn phảng phất trong những tòa đền đài cổ của họ, những hình bóng sống động, tuy không còn thể chất?
Tôi tình cờ nhớ lại câu chuyện la lùng mà tôi được nghe thuật lại do một người bạn, mộ viên chức người Anh tùng sự với chánh phủ Ai Cập tại Cairo. Người bạn tôi đã gặp một thanh niên giòng quý tộc ở Anh Quốc đến Ai Cập trong vài tuần để đi du ngoạn và xem thắng cảnh.
Đó là một thanh niên vô tư lự, chỉ biết ưa thích sự xa hoa vật chất. Từ Louqsor, y đến Karnak vào một buổi trưa và chụp một bức ảnh tòa sảnh đường của đền thờ Amen Ra. Khi tấm hình được rửa xong, y lấy làm ngạc nhiên mà nhìn thấy trong đó có hình một vị đại tư tế Ai Cập, đứng dựa lưng vào một cột trụ đá, hai tay khoanh trên ngực.
Y cảm thấy rúng động trong tâm hồn đến nổi tâm tính y hoàn toàn thay đổi. Kể từ đó, người thanh niên này chăm chì khảo cứu học hỏi về các hiện tượng thần bí và các vấn đề tâm linh.
Tôi vẫn ngồi yên trên thềm đá, không còn muốn đứng dậy. Lúc ấy tôi đã đắm chìm trong một cơn suy tư triền miên không dứt, giữa những hình tượng câm lặng của các vị thần.
Nửa giờ trôi qua như thế, kế đó tôi bước vào trạng thái mơ màng. Một tấm màn dường như rơi xuống che phủ tầm nhãn quang của tôi, tất cả sự chú ý của tôi đều tập trung vào một điểm ở khoảng giữa hai chân mày, sau đó một luồng ánh sáng kỳ diệu phi thường, không hề thấy ở trần gian, bao phủ lấy tôi.
Trong ánh sáng đó, tôi thấy một người đàn ông màu da sậm, vai rộng và cao, đứng gần một bên tôi. Khi tôi ngẩng mặt lên để nhìn người ấy thì y cũng day mặt lại và ngó ngay tôi. Tôi run rẩy dưới cơn xúc động, khi tôi nhận ra y. Vì người ấy không phải ai xa lạ, mà..chính là tôi!
Người ấy có một khuôn mặt giống như của tôi bây giờ, nhưng y mặc y phục của xứ Ai Cập thời cổ. Đó không phải là bậc vương giả hay một người dân bình thường, mà là một tăng lữ với một cấp bậc nào đó, mà tôi nhận ra ngay do cái mão và chiếc áo của y.
Luồng ánh sáng lan rộng một cách mau chóng chung quanh y và lan ra tận phía sau, cho đến khi nó bao trùm một cảnh tượng diễn ra bên một bàn thờ: Nhân vật trong linh ảnh của tôi bắt đầu cử động và từ từ tiến đến chỗ bàn thờ. Khi y đến nơi bèn chấp tay cầu nguyện thì thầm ...
Khi y bước đi, tôi cũng bước đi với y; khi y cầu nguyện, tôi cũng cầu nguyện với y, không phải như một người ngoài cuộc đi kèm theo một bên y, mà cũng như chính tôi là người ấy. Một linh ảnh mâu thuẫn: Trong đó tôi vừa là khán giả lại vừa là diễn viên.
Tôi nhận thấy người ấy đang đau xót đến tận đáy lòng, vì tình trạng xứ sở của y, y động mối thương tâm ví nhìn thấy xứ cổ Ai Cập đang lâm vào cảnh suy tàn.
Trên hết mọi sự, y đang đau khổ mà nhìn thấy nền tôn giáo thiêng liêng của y đang lọt vào bàn tay nhơ bẩn của những kẻ bất lương tàn bạo. Trong cuộc cầu nguyện, y luôn luôn khẩn cầu các vị Thánh Thần hãy ra tay cứu vớt nền chân lý cho dân tộc của y.
Nhưng sau cùng, Cơn buồn thảm của y vẫn không vơi, vì y không nhận được một lời ứng đáp nào và hiểu rằng sự suy tàn của Ai Cập là một điều không thể cứu vãn. Y bèn lui ra trong cơn thất vọng, và nét mặt ưu tư, lòng buồn rười rượi.
Ánh sáng ấy trở lại, vị tăng lữ đã biến mất cùng với cái bàn thờ. Tôi vẫn ngồi trơ một mình, trần lặng suy tư gần bên đền thờ Ptah, một lần nữa. Lúc ấy tôi cũng đang nét mặt ưu tư và lòng buồn rười rượi ...
Phải chăng đó chỉ là một giấc mơ, do các khung cảnh đặc biệt chung quanh tôi lúc ấy gây nên? Phải chăng đó là sự cuồng loạn của một khối óc suy tư? Phải chăng đó là sự thoát thai của một ý nghĩ tìm tàng gây nên bởi lòng tha thiết cuả tôi đối với dĩ vãng?
Phải chăng đó là do nhãn quang thần bí khiến cho tôi nhìn thấy vong hồn của một vị tăng lữ thât sự đã xuất hiện ở ngay chổ? Hay phải chăng đó là cái ký ức xa xôi về một tiền kiếp cuả tôi khi xưa ở Ai Cập?
Đối với tôi, thì vì tôi nhận biết biết rõ sự cảm xúc của tôi đã căng thẳng đến mức độ nào trong khi và sau khi tôi có cái linh ảnh đó, nên tôi chỉ có thể có một câu trả lời. Người khôn ngoan không bao giờ kết luận vội vàng, vì sự thật là một cái gì quá mỏng manh mà ta khó nắm chắc.
Cổ nhân đã từng nói rằng sự thật nằm ở tận đáy của một cái giếng vô cùng sâu thẩm. Dẫu rằng thế nào, tôi nhìn nhận rằng tôi phải trả lời là đúng cho câu hỏi cuối cùng.
Nhà bác học Einstein đã bỏ cái quan niệm bảo thủ vẫn có từ trước về vấn đề thời gian. Ông đã chứng minh bằng toán pháp rằng người nào có thể quan niệm sự vật theo hệ thống bốn chiều đo sẽ nhìn dĩ vãng và hiện tại với một tầm hiểu biết khác hẳn với quan niệm thông thường của người đời.
Điều đó có thể giúp cho ta hiểu rằng thiên nhiên vẫn giữ một ký ức toàn vẹn về dĩ vãng, nghĩa là tất cả sự diễn biến trong vũ trụ trong hàng bao nhiêu thế kỷ đã qua đều vẫn còn tồn tại trong ký ức thiên nhiên. Do đó tôi mới hiểu bằng cách nào, trong những cơn thiền định thâm sâu, người ta có thể giao cảm một cách bí mật và tự nhiên với cái ký ức đó.
#69
Gửi vào 08/06/2011 - 11:51
AI CẬP HUYỀN BÍ
TÔI GẶP MỘT VỊ CHÂN SƯ
CHƯƠNG MƯỜI
Cách vài dặm phía tây bờ sông Nil ở Louqsor, một dãy đồi màu nâu sậm tách khỏi nền trời, ngăn cách vùng thung lũng phì nhiêu với vùng sa mạc Lybie. Dãy đồi này che khuất một truông núi khô khan dưới ánh nắng như thiêu đốt của mặt trời, không một ngọn cỏ mọc, toàn là đá tảng và cát nóng, không một sinh vật nào sống tại đó chỉ trừ loài rắn rết và bồ cạp.
Đó là vùng nghĩa địa chôn xác chết của thành Thèbes thuở xưa, ngày nay đã biệt tích. Nhiều xác ướp hãy còn nguyên vẹn đã được bốc ra khỏi những hầm hố tối tăm trưng bày trước mắt công chúng tại những viện bảo tàng lớn ở Âu Mỹ.
Tôi đang sưu tầm khảo cứu về nhiều vấn đề trong những ngôi lăng tẩm và những ngôi đền lộ thiên ở cách thung lũng này chừng vài dặm, và trong những dấu vết còn sót lại của thành Thèbes cổ xưa vừa mới được đào xới lên khỏi mặt đất ở ven miền sa mạc phía Tây.
Để thực hiện chuyến đi thám hiểm đó từ Louqsor, không có phương tiện di chuyển nào tốt hơn là một con lừa, vì giống lừa có một bước đi vững chắc, biết tìm đường vạch lối đi xuyên qua những tảng đá lởm chởm, tránh những đá sỏi bén nhọn và những bờ vực thẳm.
Đó là những cuộc du hành lý thú, do đó tôi có dịp thỏa mãn sự khao khát hiểu biết, tìm tòi những tài liệu cổ về những pháp môn bí truyền và những hoài bảo tâm linh của thành Thébes cổ xưa nay đã bị chôn vùi dưới mặt đất.
Tôi cũng đã ghi nhận những dấu vết huyền linh còn xót lại trong bầu không khí của vài ngôi mộ cổ, hãy còn chưa xóa mờ cái ảnh hưởng của sự suy tàn và kiệt quệ tâm linh đã làm cho giòng dõi của một dân tộc kiêu hùng và cao cả của thời xưa rơi vào bàn tay ô uế của những kẻ thực hành khoa Bàng môn tả đạo.
Trong chuyến du hành thám hiểm đó, tôi đã gặp một bậc dị nhân và có dịp đàm đạo với ngài. Trước hết, tôi đã do dự không muốn tường thuật lại câu chuyện giữa chúng tôi, bởi vì tôi không thể kiểm chứng bằng những cuộc sưu tầm riêng những điều mà ngài đã tuyên bố.
Và bởi vì những điều ấy có thể làm cho cài thế hệ hoài nghi của chúng ta ngạc nhiên, hoặc đem bậc dị nhân ấy làm một đề tài diễu cợt, và tất nhiên là có cả tôi vì tôi đã cho rằng những chuyện hoang đường như thế có thể đem tường thuật lại cho quý độc giả.
Tuy nhiên, tôi đã cân nhắc đắn đo hơn thiệt, và tôi thấy cần phải thuật lại. Hơn nữa, đó là ý muốn của bậc dị nhân ấy, ngài muốn tôi công bố điều mà hình như ngài cho là quan trọng cho thế hệ hiện đại.
Tôi đã sưu tầm trong những ngôi mộ cổ trên thung lũng từ sáng sớm đến quá trưa. Để trở về nhà mau hơn, tôi noi theo con đường tắt vượt qua các ngọn đồi và tránh con đường vòng quanh xa lắc dưới đồi. Lên đến đỉnh đồi, tôi bước xuống đất để cho con lừa nghỉ mệt một lúc vì nó đã thở hổn hển.
Thừa dịp đó, tôi ngắm cảnh hùng vĩ ngoạn mục ở xa xa, dài ra đến tận chân trời. Đỉnh ngọn đồi này cao hơn cả các ngọn đồi khác, và ngự tri khắp vùng đồng bằng ở chung quanh. Màu cát vàng của sa mạc tương phản rõ rệt với nền xanh tươi của đồng ruộng đã được tưới nước.
Một sự yên tĩnh lạ thường bao trùm khắp cả, và thấm nhuần vào người tôi với một cảm hứng tâm linh dồi dào. Người ta có thể cảm thông với thiên nhiên một cách tuyệt diệu không đâu hơn chỗ này. Bốn bề hoàn toàn im lặng, tôi cảm thấy rằng hình như tôi đã cắt đứt mọi sợi dây liên lạc với thế giới bên ngoài.
Tôi vừa quay lại, và đi vài bước thì chính lúc đó, tôi nhìn thấy người lạ mặt. Người ngồi xếp bằng hai chân tréo, trên một tảng đá mà người đả cẩn thận trải lên đó một mảnh vải lót. Đầu bịt khăn trắng, hai bên mép tai để lộ mái tóc huyền có điểm bạc.
Người ngồi yên bất động, và dường như đắm chìm trong sự chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên diễn ra dưới tận chân đồi. Tác người hơi nhỏ, với đôi bàn chân nhỏ, người mặc một chiếc áo xám đen rộng, dưới cằm có một chòm râu ngắn.
Người có vẻ trạc độ tứ tuần. Tôi không kịp nhìn thấy mắt người trước khi người day mặt về phía tôi. Khi tầm nhãn quang của người phóng về cặp mắt tôi, tôi cảm thấy một cách khó tả rằng tôi đang đứng trước một người phi thường. Sự gặp gỡ này chắc chắn sẽ in sâu mãi vào ký ức tôi.
Trên gương mặt đặc biệt ấy, trước hết đôi mắt đã làm cho tôi bị lôi cuốn một cách lạ lùng. Đó là một đôi mắt lớn, hình bầu dục cân đối hoàn toàn, đẹp và trong sáng. Tròng trắng tinh anh tương phản rõ rệt với tròng đen như huyền làm cho đôi mắt có một nét thâm trầm thoát tục.
Chúng tôi im lặng nhìn nhau suốt hai phút đồng hồ. Cái phong độ oai nghi và trang trọng trên nét mặt của người này làm cho tôi cảm thấy rằng tôi nên giữ lễ mà không nên mở lời trước. Tiếc thay, tôi không thể nhớ những gì người đã nói trước tiên, vì trí óc của tôi hình như bị bao phủ trong một lớp sương mờ trước khi người bắt đầu cất tiếng.
Một bộ phận nào bí mật thình lình hoạt động trong người tôi, khiến cho tôi nhìn thấy một linh ảnh đặc biệt. Tôi thấy quay tít trước mắt một cái luân xa chiếu ánh sáng rạng ngời, những sự trói buộc của thể xác hình như tách rời khỏi nơi tôi và tôi đã rơi vào một trạng thái tâm thức siêu việt, phi phàm.
Khi cái linh ảnh đó chấm dứt, thì người lạ mặt đang nói chuyện với tôi. Tôi định tĩnh tinh thần, thì mới hiểu rằng lúc ấy tôi vẫn đang đứng đó, trên đỉnh ngọn đồi cao nhất vùng Thèbes và một cảnh tượng hoang vắng cô liêu đang diễn ra trước mắt và ở chung quanh tôi.
Tôi bèn cất tiếng chào dị nhân bằng một tiếng thổ ngữ Ả Rập. Người đáp lại bằng tiếng Anh với một giọng rất đúng. Nếu lúc ấy tôi nhắm mắt lại, có lẽ tôi đã tưởng đó là của một người Anh tốt nghiệp đại học Oxford hay Cambridge, chớ không phải là một người phương Dông mặc áo rộng. Trước khi tôi định nói câu gì để vào đề, thì như bị thúc đẩy bởi một sức mạnh bên trong, tôi cất tiếng nói:
- Thưa ngài, tôi chắc ngài đã biết rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm khác thường khi tôi vùa đứng đây, ở bên cạnh ngài.
Và tôi bèn diễn tả cái linh ảnh lạ lùng khi nảy. Dị nhân nhìn tôi một cách mơ màng, rồi hơi nghiêng đầu rồi nói một cách thản nhiên:
- Phải tôi hiểu.
Tôi rất thụ cảm đối với những ảnh hưởng huyền linh, tôi nói tiếp, vì điều ấy đến với tôi trong khi tôi được tiếp xúc với ngài, nên nó làm cho tôi tin rằng ngài có những huyền năng lạ lùng.
Đôi mắt của dị nhân lại nhìn tôi một cách chăm chú. Sau một lúc ngài nói:
- Chính tôi đã có ý gây cho ông cái kinh nghiệm đó. Tôi muốn rằng nó đem cho ông một thông điệp không lời. Thật đúng như vậy.
- Ngài muốn nói chi?
- Tôi muốn cho ông nhận ra cái pháp vị của tôi trước đã.
Thật đúng như tôi nghĩ. Tôi đã nhận thấy nơi dị nhân tất cả những ấn chứng rõ rệt về cái quả vị cao cả của một đạo gia siêu thoát. Dầu cho tôi có cái kinh nghiệm lạ lùng vừa rồi, tôi chỉ nhìn vào đôi mắt của người, cũng đủ cho cái cảm tưởng của tôi được xác nhận bằng trực giác.
Đôi mắt huy hoàng cao cả ấy bắt buộc người ta phải chú ý và khâm phục. Đôi mắt lớn, sáng ngời phóng những tia điện lực mạnh mẽ oai hùng, và khi người nhìn tôi, thì đôi mắt ấy đứng yên một chỗ rất lâu.
Khi tôi nói chuyện với người, tôi cảm thấy đôi mắt ấy vừa có cái quyền năng soi thấu mọi sự đều có mảnh lực thôi miên. Đôi mắt ấy thấu suốt và ngự trị linh hồn tôi. Dôi mắt ấy vạch trần những điều bí ẩn trong tâm hồn tôi và làm cho tôi trở nên thụ động trước mảnh lực của chúng. Tôi nói:
- Thật là một diễm phúc bất ngờ cho tôi, người duy nhất mà tôi được gặp ở nơi thanh vắng này lại là một đấng cao cả ở quả vị của ngài.
- Thật vậy sao? Dị nhân đáp. Riêng tôi, tôi không ngạc nhiên. Thời giờ đã điểm cho cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay, giữa ông và tôi. Không phải là do sự tình cờ mà ông vừa nói chuyện với tôi. Tôi nói cho ông biết, một quyền năng cao cả hơn sự ngẫu nhiên tình cờ, trước hết đã ra lệnh, và sau đó sắp đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta.
Tôi lắng nghe, mà trong lòng hồi hộp trông chờ những gì sẽ đến. Những tư tưởng xẹt đảo xáo trộn. Tôi đã phải làm một cố gắng để tự trấn tĩnh và nắm vững tình hình. Tâm hồn tôi lúc ấy thấm nhuần một sự tôn kính tự nhiên đối với một người có một trình độ tâm linh cao cả như thế.
Dị nhân mới nói cho tôi biết bằng cách nào định mệnh con người khiến cho người nọ gặp gỡ người kia trên bước đường đời dưới sự thúc đẩy của những mãnh lực vô hình, bằng cách nào những sự trùng hợp ngẫu nhiên bề ngoài thật ra là kết quả sự diễn biến của một sợi dây nhân duyên nối liền nhiều khoen đã kết hợp nhau từ trước và có tác dụng gây nên vài hậu quả.
Người còn nói với tôi nhiều điều khác nữa, và thản nhiên đề cập đến mình, người tự giới thiệu một cách khách quan và không chút tự hào rằng người là một vị chân sư. Người nói:
- Đó là danh từ mà tôi thích dùng hơn mọi danh từ khác, nó thích hợp với người xưa, kể cả người cổ Ai Cập, nó cũng thích hợp với tôi. Ngày xưa, một chân sư được mọi người biết và quả vị của người được thế gian nhìn nhận. Ngày nay, người ta không biết đến nữa, và sự hiện diện của người là một đề tài gây nên những sự châm biếm mỉa mai.
Nhưng bánh xe tiến hóa vẫn quay luôn, thế kỷ này phải nhìn nhận rằng luật tiến hóa tâm linh vẫn hoạt động không ngừng, và không khỏi tạo nên những người có thể hoạt động tự do trong thể chất tâm linh tuy họ vẫn mang thể xác phàm.
Tôi cảm thấy dị nhân nói có lý. Đúng vậy, đó là một trong những bậc siêu nhân mà truyền thống Đông phương vẫn thường nói đến, một trong những vị chân sư đã từng tham dự trong đại đoàn Chưởng giáo và biết rõ những điều huyền diệu của cõi giới tâm linh mà người trần gian không hề được biết.
Thay vì để cho bị phiền nhiễu bởi thế gian ô trược, các ngài âm thầm hoạt động trong vòng im lặng và bí mật. Khi nào thấy cần tiếp xúc với người đời, các ngài thường dùng các đại tử làm trung gian, những vị này đôi khi cũng phải chịu đựng những sự chỉ trích cùng tiếng thị phi của kẻ phàm phu tục tử.
Vị Chân sư này cho biết rằng người ta có thể trao đổi tư tưởng với những vị Chân sư khác tùy theo ý muốn và dầu ở cách xa bao nhiêu trong không gian.
Người nói thêm rằng một vị Chân sư có thể tạm thời xử dụng thể xác của một người khác, thường là thể xác của một vị đệ tử, bằng một phương pháp gọi là nhập xác, nghĩa là linh hồn vị Chân sư nhập vào thể xác của đệ tử, vị này sẵn sàng hiến dâng thể xác mình một cách thụ động.
Chân sư nói với tôi với một nụ cười nhỏ nhẹ:
- Tôi đến đợi ông ở đây. Ông là văn sĩ, mà tôi thì có một thông điệp để nhắn nhủ với người đời. Ông sẽ ghi chép thông điệp ấy do tôi nói cho ông viết, vì đó là việc quan trọng. Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay chỉ là phần đầu thôi đấy, ông Paul Brunton.
Tôi thụt lùi vì ngạc nhiên. Làm sao ngài biết được tên tôi? Thật đúng là các Chân sư có quyền năng đọc được tư tưởng người khác dầu rằng ở cách rất xa. Tôi mạo muội hỏi ngài:
- Tôi có thể được biết quý danh của ngài chăng?
Chân sư im lặng một lúc và nhìn phong cảnh ở đằng xa. Tôi nhìn gương mặt cao quý của ngài và đợi câu trả lời. Sau cùng ngài nói:
- Được, chỉ để ông biết riêng mà thôi, chứ không phải để ông viết sách. Tôi không muốn tiết lộ tên thật của tôi. Ông hãy gọi tôi là Ramak Hotep. Đó là một tên Ai Cập thời cổ và tôi ngờ rằng các nhà Ai Cập học hiện đại có thể hiểu rõ ý nghĩa của nó.
Theo tôi nó nghĩa là Bằng An. Xứ Ai Cập không phải là quê hương của tôi. Hiện nay, quê hương của tôi là toàn thể thế giới. Tôi đã từng châu du khắp cả năm châu bốn bể. Tôi chỉ có thể xác của người phương Đông, còn về tinh thần thì tôi không tùy thuộc mộ xứ nào nhất định. Tâm hồn tôi chỉ thuộc về bằng an.
Ngài nói khá mau với một giọng hùng hồn mạnh mẽ, nhưng rõ ràng là ngài hoàn toàn tự chủ lấy những xúc cảm của mình. Trong khoảng trên một tiếng đồng hồ, chúng tôi nói chuyện về các vấn đề tâm linh, ngồi trên đỉnh đồi dưới ánh nắng mặt trời nóng gay gắt, nhưng tôi không thấy khó chịu vì chân sư và câu chuyện của ngài chiếm cả tâm hồn tôi.
Ngài nói những vấn đề liên quan đến thế giới bên ngoài và những vấn đề khác chỉ có liên hệ đến một mình tôi. Ngài đưa cho tôi những chỉ thị rõ ràng, và dạy tôi những pháp môn đặc biệt về sự tu luyện cá nhân của tôi để đạt tới một trình độ tâm linh và giác ngộ cao hơn trình độ của tôi hiện giờ.
Ngài nói một cách thành thật, vả thậm chí cũng nghiêm khắc chỉ trích những sự lầm lạc cá nhân đã gây một vài chướng ngại trên bước đường tu luyện của tôi. Sau cùng, ngài hẹn gặp lại tôi vào ngày hôm sau, gần một nơi thánh điện bên bờ sông Nil, trong đền thờ Louqsor.
Kế đó, vẫn không rời khỏi chỗ ngồi trên tảng đá, ngài từ biệt tôi và lấy làm hối tiếc rằng ngài không thể kéo dài cuộc đàm luận với tôi vì ngài đang rất bận rộn và có nhiều việc phải làm trong lúc ấy.
Tôi lấy làm tiếc mà phải đứng dậy ra về và tạm biệt chân sư, vì cuộc đàm đạo với ngài vô cùng thú vị và hấp dẫn, nó có phong vị gây nguồn cảm hứng và nâng cao tâm hồn.
Đường đi xuống chân đồi rất dốc và trơn trợt, tôi phải đi bộ xuyên qua những tảng đá lớn, một tay tôi cầm dây cương dắt con lừa. Xuống đồng bằng, tôi liền cỡi lên lưng lừa và quay lại một lần cuối để nhìn lên đỉnh đồi hùng vĩ.
Chân sư Ramak Hotep vẫn chưa đứng dậy ra về mà vẫn ngồi yên trên đỉnh đồi hoang vắng. Ngài có thể làm gì ở đó, tuy "Rất bận rộn," nhưng vẫn ngồi yên như pho tượng? Ngài sẽ còn ngồi ở đó chăng, khi màng đêm rơi xuống bao phủ lấy trọn dãy đồi Lybie?
TÔI GẶP MỘT VỊ CHÂN SƯ
CHƯƠNG MƯỜI
Cách vài dặm phía tây bờ sông Nil ở Louqsor, một dãy đồi màu nâu sậm tách khỏi nền trời, ngăn cách vùng thung lũng phì nhiêu với vùng sa mạc Lybie. Dãy đồi này che khuất một truông núi khô khan dưới ánh nắng như thiêu đốt của mặt trời, không một ngọn cỏ mọc, toàn là đá tảng và cát nóng, không một sinh vật nào sống tại đó chỉ trừ loài rắn rết và bồ cạp.
Đó là vùng nghĩa địa chôn xác chết của thành Thèbes thuở xưa, ngày nay đã biệt tích. Nhiều xác ướp hãy còn nguyên vẹn đã được bốc ra khỏi những hầm hố tối tăm trưng bày trước mắt công chúng tại những viện bảo tàng lớn ở Âu Mỹ.
Tôi đang sưu tầm khảo cứu về nhiều vấn đề trong những ngôi lăng tẩm và những ngôi đền lộ thiên ở cách thung lũng này chừng vài dặm, và trong những dấu vết còn sót lại của thành Thèbes cổ xưa vừa mới được đào xới lên khỏi mặt đất ở ven miền sa mạc phía Tây.
Để thực hiện chuyến đi thám hiểm đó từ Louqsor, không có phương tiện di chuyển nào tốt hơn là một con lừa, vì giống lừa có một bước đi vững chắc, biết tìm đường vạch lối đi xuyên qua những tảng đá lởm chởm, tránh những đá sỏi bén nhọn và những bờ vực thẳm.
Đó là những cuộc du hành lý thú, do đó tôi có dịp thỏa mãn sự khao khát hiểu biết, tìm tòi những tài liệu cổ về những pháp môn bí truyền và những hoài bảo tâm linh của thành Thébes cổ xưa nay đã bị chôn vùi dưới mặt đất.
Tôi cũng đã ghi nhận những dấu vết huyền linh còn xót lại trong bầu không khí của vài ngôi mộ cổ, hãy còn chưa xóa mờ cái ảnh hưởng của sự suy tàn và kiệt quệ tâm linh đã làm cho giòng dõi của một dân tộc kiêu hùng và cao cả của thời xưa rơi vào bàn tay ô uế của những kẻ thực hành khoa Bàng môn tả đạo.
Trong chuyến du hành thám hiểm đó, tôi đã gặp một bậc dị nhân và có dịp đàm đạo với ngài. Trước hết, tôi đã do dự không muốn tường thuật lại câu chuyện giữa chúng tôi, bởi vì tôi không thể kiểm chứng bằng những cuộc sưu tầm riêng những điều mà ngài đã tuyên bố.
Và bởi vì những điều ấy có thể làm cho cài thế hệ hoài nghi của chúng ta ngạc nhiên, hoặc đem bậc dị nhân ấy làm một đề tài diễu cợt, và tất nhiên là có cả tôi vì tôi đã cho rằng những chuyện hoang đường như thế có thể đem tường thuật lại cho quý độc giả.
Tuy nhiên, tôi đã cân nhắc đắn đo hơn thiệt, và tôi thấy cần phải thuật lại. Hơn nữa, đó là ý muốn của bậc dị nhân ấy, ngài muốn tôi công bố điều mà hình như ngài cho là quan trọng cho thế hệ hiện đại.
Tôi đã sưu tầm trong những ngôi mộ cổ trên thung lũng từ sáng sớm đến quá trưa. Để trở về nhà mau hơn, tôi noi theo con đường tắt vượt qua các ngọn đồi và tránh con đường vòng quanh xa lắc dưới đồi. Lên đến đỉnh đồi, tôi bước xuống đất để cho con lừa nghỉ mệt một lúc vì nó đã thở hổn hển.
Thừa dịp đó, tôi ngắm cảnh hùng vĩ ngoạn mục ở xa xa, dài ra đến tận chân trời. Đỉnh ngọn đồi này cao hơn cả các ngọn đồi khác, và ngự tri khắp vùng đồng bằng ở chung quanh. Màu cát vàng của sa mạc tương phản rõ rệt với nền xanh tươi của đồng ruộng đã được tưới nước.
Một sự yên tĩnh lạ thường bao trùm khắp cả, và thấm nhuần vào người tôi với một cảm hứng tâm linh dồi dào. Người ta có thể cảm thông với thiên nhiên một cách tuyệt diệu không đâu hơn chỗ này. Bốn bề hoàn toàn im lặng, tôi cảm thấy rằng hình như tôi đã cắt đứt mọi sợi dây liên lạc với thế giới bên ngoài.
Tôi vừa quay lại, và đi vài bước thì chính lúc đó, tôi nhìn thấy người lạ mặt. Người ngồi xếp bằng hai chân tréo, trên một tảng đá mà người đả cẩn thận trải lên đó một mảnh vải lót. Đầu bịt khăn trắng, hai bên mép tai để lộ mái tóc huyền có điểm bạc.
Người ngồi yên bất động, và dường như đắm chìm trong sự chiêm ngưỡng cảnh vật thiên nhiên diễn ra dưới tận chân đồi. Tác người hơi nhỏ, với đôi bàn chân nhỏ, người mặc một chiếc áo xám đen rộng, dưới cằm có một chòm râu ngắn.
Người có vẻ trạc độ tứ tuần. Tôi không kịp nhìn thấy mắt người trước khi người day mặt về phía tôi. Khi tầm nhãn quang của người phóng về cặp mắt tôi, tôi cảm thấy một cách khó tả rằng tôi đang đứng trước một người phi thường. Sự gặp gỡ này chắc chắn sẽ in sâu mãi vào ký ức tôi.
Trên gương mặt đặc biệt ấy, trước hết đôi mắt đã làm cho tôi bị lôi cuốn một cách lạ lùng. Đó là một đôi mắt lớn, hình bầu dục cân đối hoàn toàn, đẹp và trong sáng. Tròng trắng tinh anh tương phản rõ rệt với tròng đen như huyền làm cho đôi mắt có một nét thâm trầm thoát tục.
Chúng tôi im lặng nhìn nhau suốt hai phút đồng hồ. Cái phong độ oai nghi và trang trọng trên nét mặt của người này làm cho tôi cảm thấy rằng tôi nên giữ lễ mà không nên mở lời trước. Tiếc thay, tôi không thể nhớ những gì người đã nói trước tiên, vì trí óc của tôi hình như bị bao phủ trong một lớp sương mờ trước khi người bắt đầu cất tiếng.
Một bộ phận nào bí mật thình lình hoạt động trong người tôi, khiến cho tôi nhìn thấy một linh ảnh đặc biệt. Tôi thấy quay tít trước mắt một cái luân xa chiếu ánh sáng rạng ngời, những sự trói buộc của thể xác hình như tách rời khỏi nơi tôi và tôi đã rơi vào một trạng thái tâm thức siêu việt, phi phàm.
Khi cái linh ảnh đó chấm dứt, thì người lạ mặt đang nói chuyện với tôi. Tôi định tĩnh tinh thần, thì mới hiểu rằng lúc ấy tôi vẫn đang đứng đó, trên đỉnh ngọn đồi cao nhất vùng Thèbes và một cảnh tượng hoang vắng cô liêu đang diễn ra trước mắt và ở chung quanh tôi.
Tôi bèn cất tiếng chào dị nhân bằng một tiếng thổ ngữ Ả Rập. Người đáp lại bằng tiếng Anh với một giọng rất đúng. Nếu lúc ấy tôi nhắm mắt lại, có lẽ tôi đã tưởng đó là của một người Anh tốt nghiệp đại học Oxford hay Cambridge, chớ không phải là một người phương Dông mặc áo rộng. Trước khi tôi định nói câu gì để vào đề, thì như bị thúc đẩy bởi một sức mạnh bên trong, tôi cất tiếng nói:
- Thưa ngài, tôi chắc ngài đã biết rằng tôi vừa trải qua một kinh nghiệm khác thường khi tôi vùa đứng đây, ở bên cạnh ngài.
Và tôi bèn diễn tả cái linh ảnh lạ lùng khi nảy. Dị nhân nhìn tôi một cách mơ màng, rồi hơi nghiêng đầu rồi nói một cách thản nhiên:
- Phải tôi hiểu.
Tôi rất thụ cảm đối với những ảnh hưởng huyền linh, tôi nói tiếp, vì điều ấy đến với tôi trong khi tôi được tiếp xúc với ngài, nên nó làm cho tôi tin rằng ngài có những huyền năng lạ lùng.
Đôi mắt của dị nhân lại nhìn tôi một cách chăm chú. Sau một lúc ngài nói:
- Chính tôi đã có ý gây cho ông cái kinh nghiệm đó. Tôi muốn rằng nó đem cho ông một thông điệp không lời. Thật đúng như vậy.
- Ngài muốn nói chi?
- Tôi muốn cho ông nhận ra cái pháp vị của tôi trước đã.
Thật đúng như tôi nghĩ. Tôi đã nhận thấy nơi dị nhân tất cả những ấn chứng rõ rệt về cái quả vị cao cả của một đạo gia siêu thoát. Dầu cho tôi có cái kinh nghiệm lạ lùng vừa rồi, tôi chỉ nhìn vào đôi mắt của người, cũng đủ cho cái cảm tưởng của tôi được xác nhận bằng trực giác.
Đôi mắt huy hoàng cao cả ấy bắt buộc người ta phải chú ý và khâm phục. Đôi mắt lớn, sáng ngời phóng những tia điện lực mạnh mẽ oai hùng, và khi người nhìn tôi, thì đôi mắt ấy đứng yên một chỗ rất lâu.
Khi tôi nói chuyện với người, tôi cảm thấy đôi mắt ấy vừa có cái quyền năng soi thấu mọi sự đều có mảnh lực thôi miên. Đôi mắt ấy thấu suốt và ngự trị linh hồn tôi. Dôi mắt ấy vạch trần những điều bí ẩn trong tâm hồn tôi và làm cho tôi trở nên thụ động trước mảnh lực của chúng. Tôi nói:
- Thật là một diễm phúc bất ngờ cho tôi, người duy nhất mà tôi được gặp ở nơi thanh vắng này lại là một đấng cao cả ở quả vị của ngài.
- Thật vậy sao? Dị nhân đáp. Riêng tôi, tôi không ngạc nhiên. Thời giờ đã điểm cho cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay, giữa ông và tôi. Không phải là do sự tình cờ mà ông vừa nói chuyện với tôi. Tôi nói cho ông biết, một quyền năng cao cả hơn sự ngẫu nhiên tình cờ, trước hết đã ra lệnh, và sau đó sắp đặt cuộc gặp gỡ của chúng ta.
Tôi lắng nghe, mà trong lòng hồi hộp trông chờ những gì sẽ đến. Những tư tưởng xẹt đảo xáo trộn. Tôi đã phải làm một cố gắng để tự trấn tĩnh và nắm vững tình hình. Tâm hồn tôi lúc ấy thấm nhuần một sự tôn kính tự nhiên đối với một người có một trình độ tâm linh cao cả như thế.
Dị nhân mới nói cho tôi biết bằng cách nào định mệnh con người khiến cho người nọ gặp gỡ người kia trên bước đường đời dưới sự thúc đẩy của những mãnh lực vô hình, bằng cách nào những sự trùng hợp ngẫu nhiên bề ngoài thật ra là kết quả sự diễn biến của một sợi dây nhân duyên nối liền nhiều khoen đã kết hợp nhau từ trước và có tác dụng gây nên vài hậu quả.
Người còn nói với tôi nhiều điều khác nữa, và thản nhiên đề cập đến mình, người tự giới thiệu một cách khách quan và không chút tự hào rằng người là một vị chân sư. Người nói:
- Đó là danh từ mà tôi thích dùng hơn mọi danh từ khác, nó thích hợp với người xưa, kể cả người cổ Ai Cập, nó cũng thích hợp với tôi. Ngày xưa, một chân sư được mọi người biết và quả vị của người được thế gian nhìn nhận. Ngày nay, người ta không biết đến nữa, và sự hiện diện của người là một đề tài gây nên những sự châm biếm mỉa mai.
Nhưng bánh xe tiến hóa vẫn quay luôn, thế kỷ này phải nhìn nhận rằng luật tiến hóa tâm linh vẫn hoạt động không ngừng, và không khỏi tạo nên những người có thể hoạt động tự do trong thể chất tâm linh tuy họ vẫn mang thể xác phàm.
Tôi cảm thấy dị nhân nói có lý. Đúng vậy, đó là một trong những bậc siêu nhân mà truyền thống Đông phương vẫn thường nói đến, một trong những vị chân sư đã từng tham dự trong đại đoàn Chưởng giáo và biết rõ những điều huyền diệu của cõi giới tâm linh mà người trần gian không hề được biết.
Thay vì để cho bị phiền nhiễu bởi thế gian ô trược, các ngài âm thầm hoạt động trong vòng im lặng và bí mật. Khi nào thấy cần tiếp xúc với người đời, các ngài thường dùng các đại tử làm trung gian, những vị này đôi khi cũng phải chịu đựng những sự chỉ trích cùng tiếng thị phi của kẻ phàm phu tục tử.
Vị Chân sư này cho biết rằng người ta có thể trao đổi tư tưởng với những vị Chân sư khác tùy theo ý muốn và dầu ở cách xa bao nhiêu trong không gian.
Người nói thêm rằng một vị Chân sư có thể tạm thời xử dụng thể xác của một người khác, thường là thể xác của một vị đệ tử, bằng một phương pháp gọi là nhập xác, nghĩa là linh hồn vị Chân sư nhập vào thể xác của đệ tử, vị này sẵn sàng hiến dâng thể xác mình một cách thụ động.
Chân sư nói với tôi với một nụ cười nhỏ nhẹ:
- Tôi đến đợi ông ở đây. Ông là văn sĩ, mà tôi thì có một thông điệp để nhắn nhủ với người đời. Ông sẽ ghi chép thông điệp ấy do tôi nói cho ông viết, vì đó là việc quan trọng. Cuộc gặp gỡ của chúng ta hôm nay chỉ là phần đầu thôi đấy, ông Paul Brunton.
Tôi thụt lùi vì ngạc nhiên. Làm sao ngài biết được tên tôi? Thật đúng là các Chân sư có quyền năng đọc được tư tưởng người khác dầu rằng ở cách rất xa. Tôi mạo muội hỏi ngài:
- Tôi có thể được biết quý danh của ngài chăng?
Chân sư im lặng một lúc và nhìn phong cảnh ở đằng xa. Tôi nhìn gương mặt cao quý của ngài và đợi câu trả lời. Sau cùng ngài nói:
- Được, chỉ để ông biết riêng mà thôi, chứ không phải để ông viết sách. Tôi không muốn tiết lộ tên thật của tôi. Ông hãy gọi tôi là Ramak Hotep. Đó là một tên Ai Cập thời cổ và tôi ngờ rằng các nhà Ai Cập học hiện đại có thể hiểu rõ ý nghĩa của nó.
Theo tôi nó nghĩa là Bằng An. Xứ Ai Cập không phải là quê hương của tôi. Hiện nay, quê hương của tôi là toàn thể thế giới. Tôi đã từng châu du khắp cả năm châu bốn bể. Tôi chỉ có thể xác của người phương Đông, còn về tinh thần thì tôi không tùy thuộc mộ xứ nào nhất định. Tâm hồn tôi chỉ thuộc về bằng an.
Ngài nói khá mau với một giọng hùng hồn mạnh mẽ, nhưng rõ ràng là ngài hoàn toàn tự chủ lấy những xúc cảm của mình. Trong khoảng trên một tiếng đồng hồ, chúng tôi nói chuyện về các vấn đề tâm linh, ngồi trên đỉnh đồi dưới ánh nắng mặt trời nóng gay gắt, nhưng tôi không thấy khó chịu vì chân sư và câu chuyện của ngài chiếm cả tâm hồn tôi.
Ngài nói những vấn đề liên quan đến thế giới bên ngoài và những vấn đề khác chỉ có liên hệ đến một mình tôi. Ngài đưa cho tôi những chỉ thị rõ ràng, và dạy tôi những pháp môn đặc biệt về sự tu luyện cá nhân của tôi để đạt tới một trình độ tâm linh và giác ngộ cao hơn trình độ của tôi hiện giờ.
Ngài nói một cách thành thật, vả thậm chí cũng nghiêm khắc chỉ trích những sự lầm lạc cá nhân đã gây một vài chướng ngại trên bước đường tu luyện của tôi. Sau cùng, ngài hẹn gặp lại tôi vào ngày hôm sau, gần một nơi thánh điện bên bờ sông Nil, trong đền thờ Louqsor.
Kế đó, vẫn không rời khỏi chỗ ngồi trên tảng đá, ngài từ biệt tôi và lấy làm hối tiếc rằng ngài không thể kéo dài cuộc đàm luận với tôi vì ngài đang rất bận rộn và có nhiều việc phải làm trong lúc ấy.
Tôi lấy làm tiếc mà phải đứng dậy ra về và tạm biệt chân sư, vì cuộc đàm đạo với ngài vô cùng thú vị và hấp dẫn, nó có phong vị gây nguồn cảm hứng và nâng cao tâm hồn.
Đường đi xuống chân đồi rất dốc và trơn trợt, tôi phải đi bộ xuyên qua những tảng đá lớn, một tay tôi cầm dây cương dắt con lừa. Xuống đồng bằng, tôi liền cỡi lên lưng lừa và quay lại một lần cuối để nhìn lên đỉnh đồi hùng vĩ.
Chân sư Ramak Hotep vẫn chưa đứng dậy ra về mà vẫn ngồi yên trên đỉnh đồi hoang vắng. Ngài có thể làm gì ở đó, tuy "Rất bận rộn," nhưng vẫn ngồi yên như pho tượng? Ngài sẽ còn ngồi ở đó chăng, khi màng đêm rơi xuống bao phủ lấy trọn dãy đồi Lybie?
#70
Gửi vào 08/06/2011 - 11:52
AI CẬP HUYỀN BÍ
THÔNG ĐIỆP CỦA CHÂN SƯ
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Như đã hẹn, cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa chúng tôi diễn ra giữa những cảnh hoang tàn của đền Louqsor. Tôi ngồi trên một tảng đá dài có khắc đầy chữ ám tự bên cạnh chân sư, ngài cũng ngồi xếp bằng hai chân và nhìn tôi.
Quyển sổ tay của tôi đã mở sẳn, tôi cầm bút ngồi đợi, sẵn sàng ghi chép thông điệp của chân sư bằng tốc ký. Chân sư Ramak Hotep không phí thời giờ với những lời khách sáo rườm rà, ngài vào đề một cách đột ngột:
- "Những người khai quật các mồ mả của xứ cổ Ai Cập để giải tỏa những sức mạnh nguy hiểm cho thế gian. Những nhà khảo cổ cũng như những kẻ đào mồ để cướp của, đã vô tình khai quật mồ mả của những kẻ ngày xưa thực hành khoa tả đạo bàng môn.
Trong thời kỳ cuối cùng của lịch sử Ai Cập, những người thuộc thành phần trí thức và tăng lữ đã sa đọa rất nhiều, người ta thực hành công khai những tà thuật ma giáo và pháp môn phù thủy.
Khi ánh sáng chân lý, đầu tiên được phổ biến trong nền tôn giáo chân chính cổ Ai Cập, bắt đầu lu mờ, và những tà thuyết dị đoan, duy vật càng ngày càng lộng hành, người ta thấy xuất hiện việc tẩm xác ướp với tất cả nghi lễ phiền phức kèm theo đó.
Tuy nhiên, đàng sau những tà giáo là bày ra sự thực hành việc tẩm xác người với những mục đích ám muội, đen tối và tà vạy, còn có một chi phái chủ trương việc ướp xác để duy trì một sự liên lạc lâu bền với cõi hồng trần.
"Lúc khởi thủy thì khoa ướp xác chỉ áp dụng cho những vị thánh vương cùng hoàng kim thời đại, của thời kỳ tiền sử Ai Cập và cho những vị Đạo Trưởng đã tiến hóa cao về phương diện tâm linh, là những sứ giả chân chính của Thượng Đế, để cho thể xác đã thấm nhuần thần lực thiêng liêng của các ngài vẫn còn tồn tại lâu bền và làm cái trung gian ban rải thần lực cho thế gian.
"Từ đó mới nảy sinh ra sự thờ phượng tổ tiên, những thi hài được tẩm chất thơm chỉ là để theo một nghi lễ chánh thức nhằm mục đích để cho con cháu biết mặt những tổ tiên đã qua đời.
Thật ra đó là cách bắt chước sai lạc cách thực hành khoa ướp xác thời cổ Ai Cập để giữ gìn những di tích thánh thiện của các vị Thánh vương và tăng lữ chân tu.
Vì trong thời gian tàn tạ suy vong trở về sau, khi xứ này mất đi nguồn ánh sáng tâm linh chân chính, và người ta dùng tà thuật để kêu gọi những sức mạnh hắc ám của cõi âm ty, những người trí thức trong giới tăng lữ và giai cấp cầm quyền chỉ định rằng người ta phải ướp xác của họ sau khi chết.
Người ta thực hành việc ướp xác này, hoặc vì mục đích dùng tà thuật hắc ám, hoặc vì sợ mất linh hồn trong cõi địa ngục mà họ sẽ bước vào sau khi chết, hoặc chỉ biết làm theo tập tục của phần đông. Trong hầu hết mọi trường hợp, trước khi chết mỗi người đều lo sắp đặt mọi việc và đã chuẩn bị sẵn ngôi mộ của mình từ khi còn sống.
Khi đã sắp đặt xong thì đương sự hoặc một vị tăng lữ rành về khoa pháp môn mới kêu gọi một âm binh hay quỷ thần, có khi là một vị thần tốt lành nhưng thường thì là thần hung ác, để bảo vệ trông nom cái xác ướp của y và làm thần canh gác giữ mồ.
"Để bảo vệ những xác ướp đó, lúc đầu những ngôi mộ được che dấu mộ cách kỹ lưỡng và sau đó người ta tuyên bố với công chúng rằng người nào động chạm đến các mồ mả sẽ bị các thần linh trừng phạt một cách nặng nề kinh khủng. Dân chúng tin theo lời cảnh cáo đó và những mồ mả được tôn trọng suốt một thời gian rất lâu.
Nhưng vì các tăng lữ và giới cầm quyền càng ngày càng sa đọa nhiều hơn gấp đôi lần nên dân chúng dần dần không còn tin tưởng nữa. Từ đó việc khai quật mồ mả diễn ra một cách công khai để cướp lấy vàng ngọc châu báu được chôn theo những xác ướp của những nhân vật quyền quý thời xưa.
"Trong trường hợp xác ướp là của một người có ít nhiều hiểu biết về khoa pháp môn hoặc đặt dưới sự trông nom của các nhà phù thủy, thì những vị thần linh được kêu gọi để giữ gìn mồ mả và trừng phạt những kẻ đào mồ. Những phù phép bí mật đó thường vô cùng nguy hiểm nhưng rất hiệu nghiệm.
Những mảnh lực thần bí của nó vẫn có trong những ngôi mộ khép chặt và có thể tiếp tục tồn tại ở trong suốt nhiều ngàn năm. Bởi vậy những nhà khảo cổ vô tình khai quật những mồ mả đó sẽ chuốc lấy những điều tai họa hiểm nghèo.
"Nhưng nếu cơ nguy đó chỉ hăm dọa sự an toàn tính mạng của các nhà khảo cổ và gia đình họ mà thôi, thì điều mà tôi muốn nói đây không có quan trọng lắm. Trái lại, vấn đề này có liên hệ đến sự an toàn của toàn thể thế giới.
"Đó là vì trong số những ngôi mộ của các nhân vật quyền quý và tăng lữ mà người ta khai quật lên, có những mồ mả được đặt dưới sự giữ gìn và bảo vệ nói trên. Từ trong các ngôi mộ đó, hằng hà xa số những âm binh ác quỷ bị giam hãm trong ấy từ lâu, bèn kéo ra tràn đầy khắp nơi ở cõi hạ giới.
Mỗi xác ướp được bốc ra và chở vào những viện bảo tàng bên âu Mỹ có mang theo các vị thần linh cùng với cái ảnh hưởng khốc hại của nó. Điều đó chỉ có thể đem đến cho thế giới những hậu quả tai hại, hậu quả với những tính chất khác nhau, thậm chí có thể gây một ảnh hưởng phá hoại đối với các vận mệnh các quốc gia.
Những người Tây phương vì không có phương pháp tự vệ chống lại nên đành chịu bất lực trước những kẻ vô hình đó.
"Khi thế giới chúng ta hiểu rằng có nhiều thần linh hung ác bị nhốt trong những ngôi mộ cổ, thì chừng đó có thể là quá trễ. Vì lúc đó tất cả các mồ mả đều đã bị khai quật và những hung thần ác quỷ thoát ra khỏi mồ. Chúng có thể gây nhiều điều tác hại cho thế gian, và ngoài ra chúng ta còn gây nên những vụ phản bội trên lĩnh vực quốc tế.
Sự mù quáng của con người đối với những luật thiên nhiên không vì thế mà không đem lại sự đau khổ cho những kẻ vi phạm. Không biết gì về những mảnh lực khốc hại của khoa pháp môn phù thủy, không phải là một lý do để tránh cho thế kỷ này tránh khỏi cái hậu quả trừng phạt dành cho những kẻ đột nhập vào những chốn thâm nghiêm, một hành động tò mò không cần thiết chút nào cho họ.
"Những hung thần ác quỷ đó, được tạo nên bằng phương pháp phù thủy, đã được giải tỏa trong thế kỷ hiện tại một số khá đông để gây nên sự khủng hoảng cho thế giới. Chúng hành động từ cõi giới vô hình, nhưng cũng rất gần với cõi hạ giới để ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống trực tiếp của người trần gian.
Chúng tôi là những người chăm lo săn sóc cho sự tiến hóa tâm linh của nhân loại, có thể triệt hạ những mảnh lực hắc ám đó trên địa hạt của chúng, nhưng luật thiên nhiên không cho phép chúng tôi tiêu diệt chúng, cũng như chúng tôi không thể trừ khử những người trong nhân loại mà chúng tôi biết là tối nguy hiểm cho kẻ khác.
Quyền năng của chúng tôi chỉ giới hạn trong việc che chở những người hoặc những cơ quan tốt lành dưới sự bảo vệ đặc biệt của họ.
"Những vật gì mà người ta lấy ra từ trong các ngôi mộ cổ cùng với những xác ướp, vàng ngọc, bùa chú, y phục ... đều có thấm nhuần cái ảnh hưởng thần bí của ngôi mộ. Nếu ảnh hưởng đó không phải do người ta đã dùng phù phép trấn ếm quỷ thần thì việc khai quật mồ mả không có hậu quả gì, còn nếu ngôi mộ có thần linh giữ gìn thì việc đào mồ cướp của sẽ gây nên tai họa hiểm nghèo.
Những nhà khảo cổ và Ai Cập học trái lại, thường không biết rõ điều đó và không biết phân biệt những ngôi mộ nào là có phù phép trấn ếm và ngôi mộ nào là không, nên họ khai quật luôn cả thứ nọ cũng như thứ kia. Dầu người ta có biết hay không, tôi cũng đưa ra cho thế giới cái thông điệp này là "Chớ nên động chạm đến các ngôi mộ cổ mà người ta không hiểu tính chất hiển linh huyền bí của nó.
Người đời phải dừng tay lại không nên khai quật mồ mả, cho đến khi nào họ có được sự hiểu biết đầy đủ để nhận định những hậu quả khốc hại của điều mà họ định làm.
"Phần nhiều các vị vua chúa Ai Cập đều có ít nhiều quyền pháp thần thông, với những ý đồ tốt hoặc xấu, vì họ được các vị tăng lữ pháp sư truyền dạy cho họ.
"Lúc đầu, người ta chỉ dùng một những phép thuật thần thông để tự vệ hoặc để trừ gian và bênh vực kẻ yếu, nhưng khi xứ Ai Cập đã mất đi những lý tưởng cao thượng của nó, thì người ta bắt đầu lạm dụng những pháp thuật này.
Chẳng hạn nhà phù thủy dùng tà thuật để ám hại kẻ thù ở cách xa, hoặc chế ngự, khuất phục người khác để thực hiện những tham vọng cá nhân của mình, hoặc để giúp cho thân chủ của y. Người ta đã dùng những pháp thuật thần thông đó để sai khiến âm binh canh gác và giữ mồ.
"Việc khai quật những ngôi mộ cổ ở Ai Cập có thể đặt kẻ vi phạm dưới những ảnh hưởng khốc hại của những mảnh lực huyền bí vô hình. Dẫu cho đó là ngôi mộ của một vị hiền minh và có pháp thuật thần thông cao cường, thì thế gian cũng có thể bị ảnh hưởng lây và chịu sự trừng phạt đau khổ vì đã làm động mồ mả của một linh hồn tiến hóa.
Tuy nhiên, những đồ bảo vật bị lấy trộm ở ngôi mộ đó sẽ không gây hậu quả tai hại, mà trái lại có một ảnh hưởng tốt lành. Nhưng nếu người sở hữu bảo vật ấy có một tâm địa bất hảo, thì họ sẽ không thừa hưởng được một ân huệ tốt lành nào cả, mà ân huệ này dành cho những người hiền lành và có tâm địa thanh cao.
Đó là do ảnh hưởng tâm linh trường cửu lâu bền của một vị vua đạo đức có một tâm hồn cao quý hồi thuở sinh tiền. Vua Toutankhamon là một trường hợp tiêu biểu cho những vị vua đó. Người có một sự hiểu biết thâm sâu về khoa huyền môn và một tâm hồn đạo đức.
Sự khai quật ngôi mộ của vị vua này đã gây tai họa cho những người đào mồ và bằng một cách khó hiểu, cho cả thế giới bên ngoài. Trong những năm tới đây, thế giới còn phải đau khổ nhiều và phải chịu hậu quả của những sự xúc phạm mồ mả của những bậc tiền nhân thời cổ Ai Cập. Tuy nhiên, những sự khó khăn về vật chất sẽ đưa đến một sự lợi ích về tinh thần.
"Bởi đó, tôi lập lại, những người muốn tìm kho tàng ẩn dấu, hoặc do một sự thúc đẩy của tò mò quá đáng hơn là một tinh thần khảo cứu khoa học thật sự, mà muốn thám hiểm vào tận những nơi cổ kính phù phép trấn ếm linh thiêng, sẽ không tránh khỏi tai họa hiểm nghèo.
Ở bên Tây Tạng là nơi có những ngôi mộ ẩn dấu của những vị Lạt Ma thời xưa, người ta hiểu tại sao dân chúng không chịu để cho người ngoại chủng đột nhập vào xứ của họ. Nhưng ngày nào mà người ta được phép đến gần đế viếng thăm hay để chiêm ngưỡng những ngôi mộ đó, thì những kẻ nào làm kinh động đến mồ mả sẽ mắc phải những tai họa khôn lường.
"Hồi thời thượng cổ, trung tâm chánh yếu của khoa pháp môn phù thủy vẫn là Ai Cập. Xứ ấy vượt hẳn cả Ấn Độ về chánh đạo lẫn bàng môn, nghĩa là những pháp môn chân chánh giúp đời hay những tà thuật hại người.
Ngày nay những sức mạnh thần bí đã được phát động trong quá khứ, hãy còn ảnh hưởng đến dân tộc và xứ sở Ai Cập, và hậu quả có khi lành khi dữ. Hậu quả đó có thể là những bệnh tật, chẳng hạn như bệnh ung nhọt lở loét, một hậu quả của những mảnh lực phù phép tà vạy luôn luôn hành động trong xứ và ảnh hưởng đến những người dân Ai Cập thời bấy giờ.
"Vậy ông hãy ghi chép và truyền bá những lời cảnh cáo này. Bây giờ ông đã hiểu lý do của sự gặp gỡ của chúng ta. Dẫu cho chúng ta có bị sự chống đối, khinh bị do sự dốt nát vô minh của người đời, ta cũng làm xong bổn phận của mình, bổn phận của tôi, và nếu ông muốn, cả bổn phận của ông.
Định luật thiên nhiên vốn không tha thứ sự vô minh, dốt nát, nhưng trong vấn đề này, thậm chí đến cái lý lẽ đó người ta cũng không được viện ra để tự bào chữa cho mình."
Thông điệp của chân sư Ramak Hotep đã chấm dứt. Tôi đã ghi chép lại đúng nguyên văn và trình bày nơi quyển sách này.
Chân sư còn gặp tôi nhiều lần khác, kế đó tôi tiếp tục cuộc hành trình xa hơn về phía Nam. Trong mỗi lần gặp gỡ như thế, Chân sư đều có cho tôi biết thêm những tài liệu liên quan đến cái cơ quan huyền bí mà ngài có dự phần.
Một ngày nọ, tôi có dịp đề cập đến vài kinh nghiệm của tôi ở Ấn Độ mà tôi có dịp nghe một đạo sĩ trẻ nói rằng thầy y đã có hơn bốn trăm tuổi. Chân sư Ramak Hotep trịnh trọng đưa ra một lời quả quyết lạ lùng và khó tin: Vài vị Chân sư đã từng sống từ thời cổ Ai Cập cho đến nay!
Tôi vẫn không quên những tiếng kêu ngạc nhiên mà tôi đã thốt ra khi tôi nghe ngài nói như vậy. Dị nhân quả quyết rằng thể xác của vị Chân sư nói trên nằm yên trong trạng thái xuất thần ở tận dưới đáy các ngôi mộ chưa được khám phá, và khoa khảo cổ của thế gian không bao giờ phát hiện được. Ngài giải thích cho tôi nghe rằng:
- "Những ngôi mộ của đấng Chân sư cao cả được giữ gìn vô cùng bí mật đến nỗi những kẻ đào mồ không bao giờ tìm thấy được. Đó không phải là mồ mả của những người chết mà là của người sống.
Những mồ mả đó không chứa đựng những xác ướp, mà chứa đựng thể xác của các vị Chân sư nằm trong một trạng thái đặc biệt mà danh từ xuất thần cũng chỉ diễn tả một cách gần đúng mà thôi. Ông đã nhận thấy rằng bên Ấn Độ các nhà thuật sĩ fakir tự để cho người ta chôn sống trong một thời gian, trong khi đó thể xác của họ nằm trong trạng thái hôn mê, xuất thần.
"Sự hoạt động của bộ máy hô hấp đã hoàn toàn ngưng hẳn trong khi đem chôn sống. Trạng thái của các vị Chân sư Ai Cập cũng giống như vậy một phần nào, nhưng bản lĩnh của các ngài còn cao xa hơn nhiều, vì các ngài vẫn giữ cho thể xác còn sống trong khi xuất thần, và kéo dài đến nhiều ngàn năm.
"Hơn nữa, giữa các ngài và những nhà thuật sĩ Ấn Độ có một sự khác biệt rất lớn. Những nhà thuật sĩ đó rơi vào một trạng thái hoàn toàn vô ý thức trong khi bị chôn sống, họ không nhớ gì cả cho đến khi thức tỉnh. Trái lại những vị Chân sư Ai Cập vẫn hoàn toàn có ý thức khi ngồi trong ngôi mộ, thể xác của các ngài nằn trong cơn mê thiếp nhưng tinh thần thì vẫn tự do hoạt động.
Ở Ấn Độ, ông đã đến viếng "Người tu sĩ suốt đời không nói" ở gần Madras. Lần đầu tiên, ông thấy y trong cơn đại định xuất thần, thân mình không cử động, xem dường như một xác chết. Nhưng trong khi đó tinh thần y vẫn tỉnh táo vì khi ông đến lần thứ hai, không những y biết rõ những gì xảy ra trong lần viếng thăm đầu tiên, mà còn phản đối việc ông đã định chụp ảnh y.
Trong cơn xuất thần, người tu sĩ ấy vẫn hoạt động trên lĩnh vực tâm linh và ngay trên cả địa hạt hồng trần bằng cách sử dụng một thể tinh anh như chất dĩ thái. Các vị Chân sư Ai Cập được đem chôn sống cũng ở trong một tình trạng tương tự, thể xác của các ngài nằm trong một trạng thái đại định còn thâm sân hơn nhiều.
Trong khi đó, tinh thần các ngài vẫn tự do di chuyển, ngao du các cõi, và tư tưởng, cảm nghĩ một cách hoàn toàn ý thức. Các ngài có cái đặc quyền đi lại và hoạt dộng trong cả hai cõi giới, cõi giới vật chất và cõi giới tâm linh.
"Thể xác của ngài được ẩn dấu trong các ngôi mộ bất khả xâm phạm, trongkhi chờ đợi linh hồn các ngài trở về. Thật vậy một ngày kia, linh hồn các ngài sẽ trở về nhập vào thể xác nằm yên bất động, và sẽ xuất hiện trở lại ở cõi thế gian.
Phương pháp làm cho các ngài hồi sinh trở lại phải được thực hiện bởi những người có đầy đủ bản lĩnh và thấu triệt những pháp môn cần thiết. Một trong những phương pháp đó là đọc những câu chân ngôn bí mật. Có điều lạ là thể xác các ngài chỉ ướp ở bề ngoài cho có lệ mà thôi, sau khi đã được bọc vải trắng và đặt trong hòm đựng xác ướp.
Tuy nhiên, những thể xác đó khác hẳn với những xác ướp khác ở chỗ còn nguyên vẹn và quả tim chưa lấy ra. Tất cả những bộ phận trong ngũ tạng còn y nguyên, chỉ từ cái bao tử đã xẹp xuống, vì các ngài không còn ăn uống gì kể từ lúc xuất thần đại định. Một điểm khác nữa là các vị Chân sư đều có bao phủ gương mặt và toàn thân với một lớp sáp khi cơn đại định bắt đầu.
"Những ngôi mộ của các ngài được giữ kín, che dấu cẩn mật và chỉ có rất ít. Đó là vì những đấng chân sư ở cấp đẳng rất cao mới có thể bước vào trạng thái đó và không phải vị chân sư nào cũng chịu làm như vậy. Trạng thái xuất thần đại định của các ngài khác hẳn với trạng thái của những người đồng tử (medium) và những người chịu phép thôi miên.
Thật ra có những trình độ đại định thâm sâu đến nổi những nhà khảo cứu hiện đại không thể thăm dò đến chỗ rốt ráo cùng tận. Những kết quả mà họ thâu thập được hãy còn rất nông cạn, so với trạng thái xuất thần đại định thâm sâu độc đáo của những vị Chân sư Ai Cập trong khi chôn sống. Những vị Chân sư này trong khi yên nghĩ dưới mồ, thật ra vẫn luôn luôn hoạt động ráo riết không ngừng.
"Một vị Chân Sư đã bị chôn sống từ năm 260 trước Thiên Chúa kỷ nguyên, một vị khác được hạ nguyệt từ trên 3,000 năm trước thiên Chúa kỷ nguyên, một vị khác nữa từ trên 10,000 năm nay! Tất cả những vị này đều vẫn hoạt động rất tích cực và trong vòng bí mật cho sự hạnh phúc và tiến hóa tâm linh của nhân loại.
Các ngài vẫn biết rõ những việc gì xảy ra trên thế giới, tuy rằng thể xác các ngài vẫn nằm yên dưới mồ. Đó là những người Toàn Thiện. Thể xác của các ngài đã trở nên bất khả xâm phạm, không một loài côn trùng sâu bọ nào có thể động đến, do bởi những nguồn thần lực mạnh kinh khủng toát ra từ toàn thân của các ngài.
Ngoài ra các ngài còn luôn luôn tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những vi Chân sư khác đang sống hiện nay, chính những vị này cũng có một phần thể xác sinh hoạt như người thường.
Những kho tàng tâm linh quý báu do các vị Chân sư Ai Cập gìn giữ từ thời cổ xưa sẽ được lưu truyền lại cho hậu thế, khi nào có một vị Chân sư của thời buổi hiện đại biết phép hành lễ để kêu gọi những vị tiền bối thức tĩnh và hồi sinh trở lại, khi ngày giờ đã điểm.
THÔNG ĐIỆP CỦA CHÂN SƯ
CHƯƠNG MƯỜI MỘT
Như đã hẹn, cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa chúng tôi diễn ra giữa những cảnh hoang tàn của đền Louqsor. Tôi ngồi trên một tảng đá dài có khắc đầy chữ ám tự bên cạnh chân sư, ngài cũng ngồi xếp bằng hai chân và nhìn tôi.
Quyển sổ tay của tôi đã mở sẳn, tôi cầm bút ngồi đợi, sẵn sàng ghi chép thông điệp của chân sư bằng tốc ký. Chân sư Ramak Hotep không phí thời giờ với những lời khách sáo rườm rà, ngài vào đề một cách đột ngột:
- "Những người khai quật các mồ mả của xứ cổ Ai Cập để giải tỏa những sức mạnh nguy hiểm cho thế gian. Những nhà khảo cổ cũng như những kẻ đào mồ để cướp của, đã vô tình khai quật mồ mả của những kẻ ngày xưa thực hành khoa tả đạo bàng môn.
Trong thời kỳ cuối cùng của lịch sử Ai Cập, những người thuộc thành phần trí thức và tăng lữ đã sa đọa rất nhiều, người ta thực hành công khai những tà thuật ma giáo và pháp môn phù thủy.
Khi ánh sáng chân lý, đầu tiên được phổ biến trong nền tôn giáo chân chính cổ Ai Cập, bắt đầu lu mờ, và những tà thuyết dị đoan, duy vật càng ngày càng lộng hành, người ta thấy xuất hiện việc tẩm xác ướp với tất cả nghi lễ phiền phức kèm theo đó.
Tuy nhiên, đàng sau những tà giáo là bày ra sự thực hành việc tẩm xác người với những mục đích ám muội, đen tối và tà vạy, còn có một chi phái chủ trương việc ướp xác để duy trì một sự liên lạc lâu bền với cõi hồng trần.
"Lúc khởi thủy thì khoa ướp xác chỉ áp dụng cho những vị thánh vương cùng hoàng kim thời đại, của thời kỳ tiền sử Ai Cập và cho những vị Đạo Trưởng đã tiến hóa cao về phương diện tâm linh, là những sứ giả chân chính của Thượng Đế, để cho thể xác đã thấm nhuần thần lực thiêng liêng của các ngài vẫn còn tồn tại lâu bền và làm cái trung gian ban rải thần lực cho thế gian.
"Từ đó mới nảy sinh ra sự thờ phượng tổ tiên, những thi hài được tẩm chất thơm chỉ là để theo một nghi lễ chánh thức nhằm mục đích để cho con cháu biết mặt những tổ tiên đã qua đời.
Thật ra đó là cách bắt chước sai lạc cách thực hành khoa ướp xác thời cổ Ai Cập để giữ gìn những di tích thánh thiện của các vị Thánh vương và tăng lữ chân tu.
Vì trong thời gian tàn tạ suy vong trở về sau, khi xứ này mất đi nguồn ánh sáng tâm linh chân chính, và người ta dùng tà thuật để kêu gọi những sức mạnh hắc ám của cõi âm ty, những người trí thức trong giới tăng lữ và giai cấp cầm quyền chỉ định rằng người ta phải ướp xác của họ sau khi chết.
Người ta thực hành việc ướp xác này, hoặc vì mục đích dùng tà thuật hắc ám, hoặc vì sợ mất linh hồn trong cõi địa ngục mà họ sẽ bước vào sau khi chết, hoặc chỉ biết làm theo tập tục của phần đông. Trong hầu hết mọi trường hợp, trước khi chết mỗi người đều lo sắp đặt mọi việc và đã chuẩn bị sẵn ngôi mộ của mình từ khi còn sống.
Khi đã sắp đặt xong thì đương sự hoặc một vị tăng lữ rành về khoa pháp môn mới kêu gọi một âm binh hay quỷ thần, có khi là một vị thần tốt lành nhưng thường thì là thần hung ác, để bảo vệ trông nom cái xác ướp của y và làm thần canh gác giữ mồ.
"Để bảo vệ những xác ướp đó, lúc đầu những ngôi mộ được che dấu mộ cách kỹ lưỡng và sau đó người ta tuyên bố với công chúng rằng người nào động chạm đến các mồ mả sẽ bị các thần linh trừng phạt một cách nặng nề kinh khủng. Dân chúng tin theo lời cảnh cáo đó và những mồ mả được tôn trọng suốt một thời gian rất lâu.
Nhưng vì các tăng lữ và giới cầm quyền càng ngày càng sa đọa nhiều hơn gấp đôi lần nên dân chúng dần dần không còn tin tưởng nữa. Từ đó việc khai quật mồ mả diễn ra một cách công khai để cướp lấy vàng ngọc châu báu được chôn theo những xác ướp của những nhân vật quyền quý thời xưa.
"Trong trường hợp xác ướp là của một người có ít nhiều hiểu biết về khoa pháp môn hoặc đặt dưới sự trông nom của các nhà phù thủy, thì những vị thần linh được kêu gọi để giữ gìn mồ mả và trừng phạt những kẻ đào mồ. Những phù phép bí mật đó thường vô cùng nguy hiểm nhưng rất hiệu nghiệm.
Những mảnh lực thần bí của nó vẫn có trong những ngôi mộ khép chặt và có thể tiếp tục tồn tại ở trong suốt nhiều ngàn năm. Bởi vậy những nhà khảo cổ vô tình khai quật những mồ mả đó sẽ chuốc lấy những điều tai họa hiểm nghèo.
"Nhưng nếu cơ nguy đó chỉ hăm dọa sự an toàn tính mạng của các nhà khảo cổ và gia đình họ mà thôi, thì điều mà tôi muốn nói đây không có quan trọng lắm. Trái lại, vấn đề này có liên hệ đến sự an toàn của toàn thể thế giới.
"Đó là vì trong số những ngôi mộ của các nhân vật quyền quý và tăng lữ mà người ta khai quật lên, có những mồ mả được đặt dưới sự giữ gìn và bảo vệ nói trên. Từ trong các ngôi mộ đó, hằng hà xa số những âm binh ác quỷ bị giam hãm trong ấy từ lâu, bèn kéo ra tràn đầy khắp nơi ở cõi hạ giới.
Mỗi xác ướp được bốc ra và chở vào những viện bảo tàng bên âu Mỹ có mang theo các vị thần linh cùng với cái ảnh hưởng khốc hại của nó. Điều đó chỉ có thể đem đến cho thế giới những hậu quả tai hại, hậu quả với những tính chất khác nhau, thậm chí có thể gây một ảnh hưởng phá hoại đối với các vận mệnh các quốc gia.
Những người Tây phương vì không có phương pháp tự vệ chống lại nên đành chịu bất lực trước những kẻ vô hình đó.
"Khi thế giới chúng ta hiểu rằng có nhiều thần linh hung ác bị nhốt trong những ngôi mộ cổ, thì chừng đó có thể là quá trễ. Vì lúc đó tất cả các mồ mả đều đã bị khai quật và những hung thần ác quỷ thoát ra khỏi mồ. Chúng có thể gây nhiều điều tác hại cho thế gian, và ngoài ra chúng ta còn gây nên những vụ phản bội trên lĩnh vực quốc tế.
Sự mù quáng của con người đối với những luật thiên nhiên không vì thế mà không đem lại sự đau khổ cho những kẻ vi phạm. Không biết gì về những mảnh lực khốc hại của khoa pháp môn phù thủy, không phải là một lý do để tránh cho thế kỷ này tránh khỏi cái hậu quả trừng phạt dành cho những kẻ đột nhập vào những chốn thâm nghiêm, một hành động tò mò không cần thiết chút nào cho họ.
"Những hung thần ác quỷ đó, được tạo nên bằng phương pháp phù thủy, đã được giải tỏa trong thế kỷ hiện tại một số khá đông để gây nên sự khủng hoảng cho thế giới. Chúng hành động từ cõi giới vô hình, nhưng cũng rất gần với cõi hạ giới để ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống trực tiếp của người trần gian.
Chúng tôi là những người chăm lo săn sóc cho sự tiến hóa tâm linh của nhân loại, có thể triệt hạ những mảnh lực hắc ám đó trên địa hạt của chúng, nhưng luật thiên nhiên không cho phép chúng tôi tiêu diệt chúng, cũng như chúng tôi không thể trừ khử những người trong nhân loại mà chúng tôi biết là tối nguy hiểm cho kẻ khác.
Quyền năng của chúng tôi chỉ giới hạn trong việc che chở những người hoặc những cơ quan tốt lành dưới sự bảo vệ đặc biệt của họ.
"Những vật gì mà người ta lấy ra từ trong các ngôi mộ cổ cùng với những xác ướp, vàng ngọc, bùa chú, y phục ... đều có thấm nhuần cái ảnh hưởng thần bí của ngôi mộ. Nếu ảnh hưởng đó không phải do người ta đã dùng phù phép trấn ếm quỷ thần thì việc khai quật mồ mả không có hậu quả gì, còn nếu ngôi mộ có thần linh giữ gìn thì việc đào mồ cướp của sẽ gây nên tai họa hiểm nghèo.
Những nhà khảo cổ và Ai Cập học trái lại, thường không biết rõ điều đó và không biết phân biệt những ngôi mộ nào là có phù phép trấn ếm và ngôi mộ nào là không, nên họ khai quật luôn cả thứ nọ cũng như thứ kia. Dầu người ta có biết hay không, tôi cũng đưa ra cho thế giới cái thông điệp này là "Chớ nên động chạm đến các ngôi mộ cổ mà người ta không hiểu tính chất hiển linh huyền bí của nó.
Người đời phải dừng tay lại không nên khai quật mồ mả, cho đến khi nào họ có được sự hiểu biết đầy đủ để nhận định những hậu quả khốc hại của điều mà họ định làm.
"Phần nhiều các vị vua chúa Ai Cập đều có ít nhiều quyền pháp thần thông, với những ý đồ tốt hoặc xấu, vì họ được các vị tăng lữ pháp sư truyền dạy cho họ.
"Lúc đầu, người ta chỉ dùng một những phép thuật thần thông để tự vệ hoặc để trừ gian và bênh vực kẻ yếu, nhưng khi xứ Ai Cập đã mất đi những lý tưởng cao thượng của nó, thì người ta bắt đầu lạm dụng những pháp thuật này.
Chẳng hạn nhà phù thủy dùng tà thuật để ám hại kẻ thù ở cách xa, hoặc chế ngự, khuất phục người khác để thực hiện những tham vọng cá nhân của mình, hoặc để giúp cho thân chủ của y. Người ta đã dùng những pháp thuật thần thông đó để sai khiến âm binh canh gác và giữ mồ.
"Việc khai quật những ngôi mộ cổ ở Ai Cập có thể đặt kẻ vi phạm dưới những ảnh hưởng khốc hại của những mảnh lực huyền bí vô hình. Dẫu cho đó là ngôi mộ của một vị hiền minh và có pháp thuật thần thông cao cường, thì thế gian cũng có thể bị ảnh hưởng lây và chịu sự trừng phạt đau khổ vì đã làm động mồ mả của một linh hồn tiến hóa.
Tuy nhiên, những đồ bảo vật bị lấy trộm ở ngôi mộ đó sẽ không gây hậu quả tai hại, mà trái lại có một ảnh hưởng tốt lành. Nhưng nếu người sở hữu bảo vật ấy có một tâm địa bất hảo, thì họ sẽ không thừa hưởng được một ân huệ tốt lành nào cả, mà ân huệ này dành cho những người hiền lành và có tâm địa thanh cao.
Đó là do ảnh hưởng tâm linh trường cửu lâu bền của một vị vua đạo đức có một tâm hồn cao quý hồi thuở sinh tiền. Vua Toutankhamon là một trường hợp tiêu biểu cho những vị vua đó. Người có một sự hiểu biết thâm sâu về khoa huyền môn và một tâm hồn đạo đức.
Sự khai quật ngôi mộ của vị vua này đã gây tai họa cho những người đào mồ và bằng một cách khó hiểu, cho cả thế giới bên ngoài. Trong những năm tới đây, thế giới còn phải đau khổ nhiều và phải chịu hậu quả của những sự xúc phạm mồ mả của những bậc tiền nhân thời cổ Ai Cập. Tuy nhiên, những sự khó khăn về vật chất sẽ đưa đến một sự lợi ích về tinh thần.
"Bởi đó, tôi lập lại, những người muốn tìm kho tàng ẩn dấu, hoặc do một sự thúc đẩy của tò mò quá đáng hơn là một tinh thần khảo cứu khoa học thật sự, mà muốn thám hiểm vào tận những nơi cổ kính phù phép trấn ếm linh thiêng, sẽ không tránh khỏi tai họa hiểm nghèo.
Ở bên Tây Tạng là nơi có những ngôi mộ ẩn dấu của những vị Lạt Ma thời xưa, người ta hiểu tại sao dân chúng không chịu để cho người ngoại chủng đột nhập vào xứ của họ. Nhưng ngày nào mà người ta được phép đến gần đế viếng thăm hay để chiêm ngưỡng những ngôi mộ đó, thì những kẻ nào làm kinh động đến mồ mả sẽ mắc phải những tai họa khôn lường.
"Hồi thời thượng cổ, trung tâm chánh yếu của khoa pháp môn phù thủy vẫn là Ai Cập. Xứ ấy vượt hẳn cả Ấn Độ về chánh đạo lẫn bàng môn, nghĩa là những pháp môn chân chánh giúp đời hay những tà thuật hại người.
Ngày nay những sức mạnh thần bí đã được phát động trong quá khứ, hãy còn ảnh hưởng đến dân tộc và xứ sở Ai Cập, và hậu quả có khi lành khi dữ. Hậu quả đó có thể là những bệnh tật, chẳng hạn như bệnh ung nhọt lở loét, một hậu quả của những mảnh lực phù phép tà vạy luôn luôn hành động trong xứ và ảnh hưởng đến những người dân Ai Cập thời bấy giờ.
"Vậy ông hãy ghi chép và truyền bá những lời cảnh cáo này. Bây giờ ông đã hiểu lý do của sự gặp gỡ của chúng ta. Dẫu cho chúng ta có bị sự chống đối, khinh bị do sự dốt nát vô minh của người đời, ta cũng làm xong bổn phận của mình, bổn phận của tôi, và nếu ông muốn, cả bổn phận của ông.
Định luật thiên nhiên vốn không tha thứ sự vô minh, dốt nát, nhưng trong vấn đề này, thậm chí đến cái lý lẽ đó người ta cũng không được viện ra để tự bào chữa cho mình."
Thông điệp của chân sư Ramak Hotep đã chấm dứt. Tôi đã ghi chép lại đúng nguyên văn và trình bày nơi quyển sách này.
Chân sư còn gặp tôi nhiều lần khác, kế đó tôi tiếp tục cuộc hành trình xa hơn về phía Nam. Trong mỗi lần gặp gỡ như thế, Chân sư đều có cho tôi biết thêm những tài liệu liên quan đến cái cơ quan huyền bí mà ngài có dự phần.
Một ngày nọ, tôi có dịp đề cập đến vài kinh nghiệm của tôi ở Ấn Độ mà tôi có dịp nghe một đạo sĩ trẻ nói rằng thầy y đã có hơn bốn trăm tuổi. Chân sư Ramak Hotep trịnh trọng đưa ra một lời quả quyết lạ lùng và khó tin: Vài vị Chân sư đã từng sống từ thời cổ Ai Cập cho đến nay!
Tôi vẫn không quên những tiếng kêu ngạc nhiên mà tôi đã thốt ra khi tôi nghe ngài nói như vậy. Dị nhân quả quyết rằng thể xác của vị Chân sư nói trên nằm yên trong trạng thái xuất thần ở tận dưới đáy các ngôi mộ chưa được khám phá, và khoa khảo cổ của thế gian không bao giờ phát hiện được. Ngài giải thích cho tôi nghe rằng:
- "Những ngôi mộ của đấng Chân sư cao cả được giữ gìn vô cùng bí mật đến nỗi những kẻ đào mồ không bao giờ tìm thấy được. Đó không phải là mồ mả của những người chết mà là của người sống.
Những mồ mả đó không chứa đựng những xác ướp, mà chứa đựng thể xác của các vị Chân sư nằm trong một trạng thái đặc biệt mà danh từ xuất thần cũng chỉ diễn tả một cách gần đúng mà thôi. Ông đã nhận thấy rằng bên Ấn Độ các nhà thuật sĩ fakir tự để cho người ta chôn sống trong một thời gian, trong khi đó thể xác của họ nằm trong trạng thái hôn mê, xuất thần.
"Sự hoạt động của bộ máy hô hấp đã hoàn toàn ngưng hẳn trong khi đem chôn sống. Trạng thái của các vị Chân sư Ai Cập cũng giống như vậy một phần nào, nhưng bản lĩnh của các ngài còn cao xa hơn nhiều, vì các ngài vẫn giữ cho thể xác còn sống trong khi xuất thần, và kéo dài đến nhiều ngàn năm.
"Hơn nữa, giữa các ngài và những nhà thuật sĩ Ấn Độ có một sự khác biệt rất lớn. Những nhà thuật sĩ đó rơi vào một trạng thái hoàn toàn vô ý thức trong khi bị chôn sống, họ không nhớ gì cả cho đến khi thức tỉnh. Trái lại những vị Chân sư Ai Cập vẫn hoàn toàn có ý thức khi ngồi trong ngôi mộ, thể xác của các ngài nằn trong cơn mê thiếp nhưng tinh thần thì vẫn tự do hoạt động.
Ở Ấn Độ, ông đã đến viếng "Người tu sĩ suốt đời không nói" ở gần Madras. Lần đầu tiên, ông thấy y trong cơn đại định xuất thần, thân mình không cử động, xem dường như một xác chết. Nhưng trong khi đó tinh thần y vẫn tỉnh táo vì khi ông đến lần thứ hai, không những y biết rõ những gì xảy ra trong lần viếng thăm đầu tiên, mà còn phản đối việc ông đã định chụp ảnh y.
Trong cơn xuất thần, người tu sĩ ấy vẫn hoạt động trên lĩnh vực tâm linh và ngay trên cả địa hạt hồng trần bằng cách sử dụng một thể tinh anh như chất dĩ thái. Các vị Chân sư Ai Cập được đem chôn sống cũng ở trong một tình trạng tương tự, thể xác của các ngài nằm trong một trạng thái đại định còn thâm sân hơn nhiều.
Trong khi đó, tinh thần các ngài vẫn tự do di chuyển, ngao du các cõi, và tư tưởng, cảm nghĩ một cách hoàn toàn ý thức. Các ngài có cái đặc quyền đi lại và hoạt dộng trong cả hai cõi giới, cõi giới vật chất và cõi giới tâm linh.
"Thể xác của ngài được ẩn dấu trong các ngôi mộ bất khả xâm phạm, trongkhi chờ đợi linh hồn các ngài trở về. Thật vậy một ngày kia, linh hồn các ngài sẽ trở về nhập vào thể xác nằm yên bất động, và sẽ xuất hiện trở lại ở cõi thế gian.
Phương pháp làm cho các ngài hồi sinh trở lại phải được thực hiện bởi những người có đầy đủ bản lĩnh và thấu triệt những pháp môn cần thiết. Một trong những phương pháp đó là đọc những câu chân ngôn bí mật. Có điều lạ là thể xác các ngài chỉ ướp ở bề ngoài cho có lệ mà thôi, sau khi đã được bọc vải trắng và đặt trong hòm đựng xác ướp.
Tuy nhiên, những thể xác đó khác hẳn với những xác ướp khác ở chỗ còn nguyên vẹn và quả tim chưa lấy ra. Tất cả những bộ phận trong ngũ tạng còn y nguyên, chỉ từ cái bao tử đã xẹp xuống, vì các ngài không còn ăn uống gì kể từ lúc xuất thần đại định. Một điểm khác nữa là các vị Chân sư đều có bao phủ gương mặt và toàn thân với một lớp sáp khi cơn đại định bắt đầu.
"Những ngôi mộ của các ngài được giữ kín, che dấu cẩn mật và chỉ có rất ít. Đó là vì những đấng chân sư ở cấp đẳng rất cao mới có thể bước vào trạng thái đó và không phải vị chân sư nào cũng chịu làm như vậy. Trạng thái xuất thần đại định của các ngài khác hẳn với trạng thái của những người đồng tử (medium) và những người chịu phép thôi miên.
Thật ra có những trình độ đại định thâm sâu đến nổi những nhà khảo cứu hiện đại không thể thăm dò đến chỗ rốt ráo cùng tận. Những kết quả mà họ thâu thập được hãy còn rất nông cạn, so với trạng thái xuất thần đại định thâm sâu độc đáo của những vị Chân sư Ai Cập trong khi chôn sống. Những vị Chân sư này trong khi yên nghĩ dưới mồ, thật ra vẫn luôn luôn hoạt động ráo riết không ngừng.
"Một vị Chân Sư đã bị chôn sống từ năm 260 trước Thiên Chúa kỷ nguyên, một vị khác được hạ nguyệt từ trên 3,000 năm trước thiên Chúa kỷ nguyên, một vị khác nữa từ trên 10,000 năm nay! Tất cả những vị này đều vẫn hoạt động rất tích cực và trong vòng bí mật cho sự hạnh phúc và tiến hóa tâm linh của nhân loại.
Các ngài vẫn biết rõ những việc gì xảy ra trên thế giới, tuy rằng thể xác các ngài vẫn nằm yên dưới mồ. Đó là những người Toàn Thiện. Thể xác của các ngài đã trở nên bất khả xâm phạm, không một loài côn trùng sâu bọ nào có thể động đến, do bởi những nguồn thần lực mạnh kinh khủng toát ra từ toàn thân của các ngài.
Ngoài ra các ngài còn luôn luôn tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những vi Chân sư khác đang sống hiện nay, chính những vị này cũng có một phần thể xác sinh hoạt như người thường.
Những kho tàng tâm linh quý báu do các vị Chân sư Ai Cập gìn giữ từ thời cổ xưa sẽ được lưu truyền lại cho hậu thế, khi nào có một vị Chân sư của thời buổi hiện đại biết phép hành lễ để kêu gọi những vị tiền bối thức tĩnh và hồi sinh trở lại, khi ngày giờ đã điểm.
Paul Brunton
Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt
#71
Gửi vào 09/06/2011 - 01:21
ĐÔNG PHƯƠNG HUYỀN BÍ
ĐỊNH MỆNH
Ông giáo sư Sử Địa tay cầm cây thước dài, bước tới trước tấm bản đồ lớn treo trên vách, trước một lớp học đang buồn ngủ. Ông ta chỉ lên bản đồ một vật lớn hình tam giác màu đỏ mà mũi nhọn chỉ xuống đến gần đường xích đạo, và để khích thích cái phần nào tinh thần uể oải của đám học trò, ông ta nói với một giọng kéo dài và rõ ràng từng tiếng, dường như sắp sửa tiết lộ một điều chân lý trọng đại: "Người ta thường nói rằng Ấn Độ là viên ngọc quý nhất của Hoàng gia Anh Quốc."
Nghe đến đây, một người học trò với vẻ mặt suy tư đang ngồi mơ mộng, bỗng giật mình và cố gom trí óc vẫn vơ của y quay trở về thực tế giữa bốn vách tường trong lớp học. Hai chữ "Ấn Độ" có một sức hấp dẫn rất mãnh liệt, nó khêu gợi trong trí của y cái hình ảnh xa xăm của một xứ lạ lùng, huyền bí.
Khi ông giáo sư Toán Pháp tưởng rằng người học trò này đang vùi đầu chăm chỉ làm bài toán Đại số, ông ấy có ngờ đâu rằng thằng học trò "Mất dạy" lại dùng bàn viết của y vào những mục đích xa xôi hơn? Núp sau một chồng sách sắp đặt như Bát Trận Đồ, y vẽ những đầu người quấn khăn, những gương mặt đen xạm, và những chiếc tàu buồm chở đầy những hàng hóa và thổ sản đầy hương vị phương Đông!
Thời niên thiếu đã qua, nhưng lòng yêu mến xứ Ấn Độ của y vẫn không thay đổi. Hơn nữa, nó còn nới rộng thêm và bao gồm luôn cả châu Á với một sự ám ảnh nồng nhiệt. Y nuôi những kế hoạch táo bạo. Y muốn vượt biển trên muôn dặm trùng dương: Một khi đã xuống tàu thì viếng xứ Ấn Độ chỉ còn là vấn đề thời gian. Mặc dù đó chỉ là những kế hoạch suông, nhưng y đã thổ lộ những ý tưởng của y cho những bạn học cùng lớp với rất nhiều danh từ thơ mộng, và sau cùng có một đứa trong bọn bị lôi cuốn theo sự hứng khởi nhiệt thành của y.
Cả hai bèn âm thầm bày mưu tính kế và hành động trong vòng bí mật. Chương trình của họ là vượt qua Âu Châu bằng đường bộ, sau đó tiếp tục đi bộ vượt qua xứ Tiểu Á và Ả Rập đến hải cảng Aden. Xin quý vị độc giả đừng cười! Họ tin tưởng một cách ngây thơ và hồn nhiên rằng một viên thuyền trưởng bỏ neo ở bến Aden sẽ chịu để cho họ thuyết phục. Đó chắc sẽ là một người giàu lòng nghĩa hiệp và cởi mở. Y sẽ đưa họ xuống tàu, và một tuần lễ sau họ sẽ bước chân lên xứ Ấn Độ hằng mong ước!
Họ âm thầm chuẩn bị một cuộc phiêu lưu dài hạn. Họ để dành tiền và sắm sửa cụ bị những đồ hành trang. Họ thăm dò những bản đồ và những quyển du lịch chỉ nam, mà những trang màu mè lòe loẹt và những hình ảnh khêu gợi hấp dẫn làm cho dòng máu giang hồ phiêu lưu của họ càng tăng nhiệt độ và sôi lên thành cơn sốt! Sau cùng, họ đã có thể định ngày ra đi và giao phó tất cả cho định mệnh. Có ai biết được sự gì đang chờ họ ở ngã ba đường?
Than ôi! Bao nhiêu nghị lực và lòng sốt sắng nhiệt thành của thời niên thiếu đều lãng phí vô ích! Vị đỡ đầu của người bạn trẻ đã khám phá ra mọi sự và biết rõ mọi chi tiết của vấn đề. Những sấm sét búa rìu đều giáng xuống vào đúng lúc! Tất cả chương trình đều phải bỏ dở dang, nhưng có ai thấu hiểu nỗi khổ của hai người bạn trẻ?
Tuy nhiên, người chủ mưu cuộc hành trình bất hạnh này vẫn giữ nguyên vẹn lòng mong ước viếng xứ Ấn Độ. Nếu sự mong ước đó tạm thời bị dẹp qua một bên, đó là bởi vì tuổi trưởng thành của một đời người thường đem đến bao nhiêu những bổn phận gia đình xã hội cùng bao nhiêu những sợi dây trói buộc nó cầm chân y ở lại.
Thời gian trôi qua. Nhiều trang đã lật qua trên quyển lịch đời, trước khi một cuộc gặp gỡ bất ngờ bỗng đánh thức dậy cái mộng đã tàn của người thanh niên. Đó là sự tiếp xúc với một người ngoại quốc có cái gương mặt rám nắng, nước da sậm, đầu quấn khăn: Khách là một người Ấn Độ từ phương xa đến!
Người khách lạ bước vào cuộc đời tôi một cách đột ngột. Mùa thu đã hầu tàn, sương mù tỏa khắp không gian, tiết trời lạnh buốt thấm vào da thịt. Tôi cảm thấy chán nản, tuyệt vọng. Sự ngã lòng, rủng chí, như một cái bóng ma, đưa đến quả tim héo hắt của tôi một bàn tay giá lạnh!
Để thoát khỏi cơn ám ảnh, tôi bước vào một lữ quán bật đèn sáng trưng, hy vọng rằng nơi đây ít nhất tôi cũng sẽ tìm thấy sự dễ chịu của một gian phòng ấm áp. Những chén trà nóng sốt thường khi vẫn hiệu nghiệm, chiều hôm ấy lại không thể đem đến sự yên tĩnh thư thái cho tâm hồn tôi. Tôi không thể thoát ra khỏi cơn ám ảnh nặng nề nó vẫn dày vò tâm trí tôi. Phải chăng sự lo âu phiền muộn định theo dõi và ám ảnh tôi suốt đời?
Rốt cuộc, trạng thái băn khoăn đó làm cho tôi lại rời khỏi gian phòng ấm cúng mà tôi vừa bước vào. Tôi lại đi lang thang ngoài đường phố, không có mục đích nhất định, nhưng theo thói quen tôi lần mò đến nơi cửa hàng sách của một người bạn làm nghề bán sách cũ. Cửa tiệm của y cũng cũ kỹ như những chồng sách bày bên trong. Chủ tiệm là một nhân vật lạ lùng, một di phẩm còn sót lại của những thời đại đã qua.
Thời đại máy móc cơ khí của chúng ta không hạp với tính chất của y, cũng như y không thể hòa mình để sống một cách hứng thú với thời đại này. Y chỉ bán những loại sách quý và hiếm có, và chỉ chuyên môn về các vấn đề siêu hình và khoa học huyền bí. Y biết khá nhiều, mặc dầu chỉ biết về phần lý thuyết, những vấn đề khúc mắc và khó khăn của khoa Triết lý. Thỉnh thoảng tôi hay ghé lại tiệm sách của y và thảo luận với y về những vấn đề triết học siêu hình.
Chiều hôm ấy, vừa bước vào cửa tiệm, vô tình tôi lật những trang giấy cũ đã trổ màu vàng của một quyển sách đóng bìa da, và tôi cầm quyển sách lên để nhìn kỹ cái tựa ngoài bìa nó làm cho tôi chú ý. Người chủ tiệm nhận thấy sự thích thú của tôi với cái nhìn thoáng qua sau cặp kính trắng của y. Y bèn nêu ra một đề tài thảo luận, đúng theo nội dung của quyển sách tôi đang cầm trên tay, nói về vấn đề Luân hồi.
Lão chủ tiệm, theo cái đà của thói quen, nắm ưu thế trong câu chuyện. Y nói trôi chảy dễ dàng, và dường như y biết tất cả mọi khía cạnh hiểm hóc của vấn đề lạ lùng này còn hơn tác giả quyển sách. Thỉnh thoảng y còn chú thích những tác phẩm khác mà y biết thuộc lòng như đếm trên đầu ngón tay.
Bỗng nhiên tôi nghe phía sau như có tiếng động. Tôi quay lại nhìn thì thấy một người dong dỏng cao xuất hiện từ trong bóng tối của phía sau nhà sách, là nơi chứa những loại sách quý. Người lạ mặt là một người Ấn Độ. Y tiến đến gần chúng tôi với một dáng điệu sang trọng quý phái và nói với người chủ tiệm:
- Xin lỗi ông nếu tôi làm phiền. Câu chuyện của các ông vừa nói làm cho tôi chú ý, vì tôi cũng rất thích về vấn đề này. Ông vừa kể những bậc Triết gia cổ Hy Lạp, Ai Cập và vài vị Cố đạo Gia Tô như là những người đầu tiên chủ trương thuyết Luân Hồi. Tôi cũng tin rằng những triết gia thời cổ đã hiểu rõ vấn đề ấy lắm. Nhưng các ông có biết thuyết Luân Hồi từ đâu mà có và nguồn gốc của nó ở đâu chăng?
Y ngừng một lúc, nhưng không để cho chúng tôi kịp nói gì, y liền tiếp theo với một nụ cười nhã nhặn: "Tôi xin phép nói ngay: Chính xứ Ấn Độ từ nghìn xưa đã phát minh ra thuyết Luân Hồi trước nhất. Những dân tộc bổn xứ chúng tôi đã coi thuyết ấy như một điều Chân Lý căn bản từ những thời đại cổ xưa nhất trong lịch sử." Gương mặt của ngườinày làm tôi chú ý. Đó là một gương mặt khác thường mà người ta có thể nhận ra ngay ở giữa hàng trăm người Ấn Độ khác. Cặp mắt tinh anh, một quai hàm lớn, vầng trán cao phi thường biểu lộ sự thông minh, nước da sậm hơn mức trung bình. Đầu y quấn một chiếc khăn rất đẹp, có nhận một viên ngọc quý chớp sáng loè trong bóng tối. Y mặc một bộ Âu phục cắt khéo đúng thời trang.
Lời nói có vẻ tự phụ của y hình như không làm hài lòng người đối thoại, và người này đứng khuất phía sau quầy hàng, liền mở cuộc tấn công:
- Làm sao có thể như vậy được, vì vùng Cận Đông xưa kia gồm những trung tâm thịnh hành nhất của nền văn minh nhân loại trước Thiên Chúa kỷ nguyên. Những triết gia thông thái nhứt thời cổ phải chăng đã xuất hiện ở những xứ thuộc vùng Cận Đông, từ Athenes đến Alexandrie? Như vậy, hẳn là học thuyết của các bậc Hiền triết đó đã từ phương Tây tiến về phương Đông và sau cùng, được lưu truyền đến Ấn Độ?
Người Ấn Độ mỉm cười một cách khoan dung:
- Không có lẽ nền văn minh tiến bộ của Tây phương lại thọ lãnh những tư tưởng Triết học của một xứ Đông phương còn lạc hậu? Không thể như vậy được, thưa ông!
Người khách lạ đáp:
- Sao lại không thể được? Ông hãy xem lại bộ sách Apuleus thì thấy rằng đức Pythagore đã từng sang Ấn Độ học đạo với các bậc danh sư Bà La Môn, và khi trở về nước, Ngài mới bắt đầu dạy thuyết Luân Hồi. Đó chỉ là một trong nhiều thí dụ khác. Ông nói rằng Đông phương lạc hậu ư? Hàng nghìn năm về trước, những nhà hiền triết Ấn Độ đã từng nghiền ngẫm, suy tư về những vấn đề siêu hình trừu tượng nhất, vào lúc mà người Châu Âu hãy còn chưa biết gì cả về vấn đề ấy.
Người lạ mặt nín lặng một lúc và nhìn chúng tôi một cách chăm chú, có lẽ để dò xem sự phản ứng của chúng tôi. Người chủ tiệm lấy làm lưỡng lự phân vân. Tôi chưa hề thấy y bị cạn lời và bị khuất phục trước một kẻ đối thoại như thế bao giờ.
Về phần tôi, tôi chỉ lẳng lặng nghe và không xen vào câu chuyện giữa hai người. Câu chuyện đến đây thình lình chấm dứt và không ai nói thêm một lời nào để phá tan sự im lặng. Người Ấn Độ liền chọn một quyển sách quý, trả tiền và sửa soạn ra về. Tôi nhìn theo y mà không nói gì. Tới ngưỡng cửa, y bèn dừng chân và quay lại phía tôi. Y mở ví lấy ra một danh thiếp đưa cho tôi và vừa mỉm cười vừa nói:
- Ông có vui lòng tiếp tục câu chuyện này với tôi chăng? Nếu vậy xin mời ông quá bộ lại chơi, chúng ta sẽ nói chuyện.
Tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên và vui lòng nhận. Y liền mời tôi đến nhà dùng cơm ngay chiều hôm nay.
Qua ngày hôm sau, tôi vội vàng tìm đến nhà người khách lạ. Đó không phải là một việc dễ dàng, vì sương mù dày đặc đã xâm chiếm cả thành phố, làm cho đèn đuốc ngoài đường đều gần như tắt hẳn. Một nhà nghệ sĩ có thể nhận thấy vẻ đẹp lãng mạn của thủ đô Anh Quốc vào cuối mùa thu trong cảnh sương mù bao phủ; nhưng riêng tôi thì tâm trí tôi mơ màng vơ vẫn ở đâu đâu, nên tôi không nhìn thấy gì cả và cũng không cảm thấy khó chịu.
Một cánh cửa lớn và nặng từ trong bóng tối thình lình hiện ra trước mắt tôi, làm cho tôi tỉnh giấc mơ và quay về thực tế. Hai ngọn đèn lồng ở hai bên cổng vào do hai cây trụ sắt uốn cong nâng đỡ, giống như hai cánh tay mở rộng để đón tiếp tôi. Qua khỏi cổng, vừa bước vào nhà, tôi lấy làm ngạc nhiên vì người Ấn Độ mới quen không có nói trước cho tôi biết về cảnh nhà sang trọng quý phái của y.
Tôi có cảm giác như bước vào một nơi cung thất của phương Đông, với cách trang trí rất lịch sự. Trên vách có treo những tấm thảm thêu rồng, và những tấm nệm màu mè sặc sỡ thì trải trên sàn gạch, bàn chân bước lên trên nệm đi êm như nhung. Một tấm da cọp rất lớn đặt trên nệm ở phòng khách gần bên lò sưởi.
Trong một góc phòng có một cái bàn nhỏ, trên đó có đặt một cái trang thờ bằng ngà và thếp vàng. Trong trang, tôi thấy một pho tượng nhỏ, chắc hẳn là tượng Phật ngồi kiết dà, gương mặt yên lặng, mí mắt hé mở.
Chủ nhà bước vào phòng và tiếp đón tôi một cách vui vẻ. Y mặc một bộ dạ phục rất đẹp. Tôi nghĩ rằng một người như vậy có thể hòa mình với mọi giới thượng lưu trong xã hội. Vài phút sau, chúng tôi đã ngồi vào bàn ăn. Những món ăn toàn là cao lương mỹ vị: đó là lần đầu tiên mà tôi thưởng thức món cari Ấn Độ, và từ đó về sau tôi vẫn không quên mùi vị đặc biệt của nó. Người bồi bàn dọn ăn cho chúng tôi cũng ăn mặc lịch sự: Y vận một bộ đồng phục trắng, thắt lưng thêu chỉ vàng, và vấn một chiếc khăn trắng tinh.
Trong bữa ăn, câu chuyện không có gì đặc biệt lắm, và chỉ quanh quẩn với những vấn đề thông thường. Tuy nhiên, dầu là nói về vấn đề gì, những lời nói của người Ấn Độ này vẫn luôn luôn đanh thép và xác đáng. Giọng nói của y có vẻ tự tin và dứt khoát.
Đến lúc ăn tráng miệng và dùng cà phê, y mới nói đôi chút về đời tư của y. Y có gia sản lớn, và đã từng đi du lịch nhiều nơi. Y làm cho tôi thích thú nghe những cảm tưởng du hành của y ở Trung Hoa mà y đã từng ở một thời gian trong một tu viện Gia Tô ở xứ Syrie.
Kế đó, y mới trở lại câu chuyện lúc chiều hôm qua ở trong tiệm sách. Nhưng chiều nay, chắc là y đã có những ý nghĩ khác, vì vừa bàn rộng thêm câu chuyện, y bắt đầu nói về nền minh triết cổ truyền của xứ Ấn Độ.
- Những giáo lý của các bậc Hiền Triết Ấn Độ đã được lưu truyền qua tới Tây phương, nhưng trong nhiều trường hợp, chánh giáo đã bị hiểu lầm hoặc có khi bị xuyên tạc. Tuy nhiên, việc ấy không phải nói ra để mà than phiền. Thật thế, xứ Ấn Độ ngày nay đã trở nên như thế nào? Nó không còn là xứ Ấn Độ cao cả thiêng liêng của thời quá khứ. Đó là một việc đáng buồn, rất đáng buồn. Quần chúng Ấn ngày nay vẫn còn bám víu lấy một vài lý tưởng, nhưng lại bị đầu độc bởi nhiều điều mê tín dị đoan.Tôi hỏi:
- Nguyên nhân nào đã gây nên tình trạng suy đồi như thế?
Người chủ nhà im lặng. Một phút trôi qua, đôi mắt lim dim mở, y nói nhỏ bằng một giọng thì thầm dường như không muốn phá tan cái im lặng trong gian phòng:
- Bạn hỡi! Xứ Ấn Độ của tôi xưa kia có rất nhiều bậc Hiền Triết đã từng thấu đạt được mọi lẽ huyền vi bí ẩn của đời người. Các bậc vua chúa cũng như người dân lành đều thỉnh cầu lời dạy bảo của các ngài. Chính nhờ sự dìu dắt của các Ngài mà nền văn minh Ấn Độ đã tiến lên đến cực điểm. Ngày nay các bậc ấy còn lại được bao nhiêu và ở nơi nào? Có lẽ chỉ còn lại độ vài ba người, mà người đời không còn biết đến và không ai nhắc đến nữa, các ngài hiện sống cách biệt với cuộc đời thế gian, khi các bậc Hiền Giả đó, mà chúng tôi gọi là các đấng Rishis (hay Chơn Sư) bắt đầu suy tàn.
Y ngồi dựa lưng trên ghế bành và nghiêng đầu về phía trước ngực, câu nói sau cùng thoát ra với một giọng đau thương. Trong một lúc, y ngồi vắng lặng và quên cả sự có mặt của tôi, cả tâm hồn y đắm chìm trong một cơn trầm tư mặc tưởng, nhớ tiếc một thời đại đã qua. Y có một phong độ đặc biệt và rất hấp dẫn nó khiến cho người đối thoại phải chú ý. Đôi mắt đen láy và sáng ngời biểu lộ một đời sống nội tâm dồi dào phong phú, giọng nói ấm áp của y biểu lộ một tâm hồn rộng rãi khoáng đạt. Tôi cảm thấy chắc chắn rằng tôi sẽ yêu mến một người như thế.
Người bồi bàn rón rén bước vào, tiến đến bàn thờ và đốt một cây nhang. Một luồng khói xanh tỏa ra khắp phòng một mùi hương thơm dịu. Bỗng nhiên người chủ nhà ngước mặt lên và nhìn tôi vào tận mặt:
- Phải chăng tôi đã nói rằng hiện nay chỉ còn độ vài ba người như thế? À, tôi đã nhớ ra. Tôi đã biết được một trong các bậc Hiền Giả đó. Đó là một điều mà tôi ít hay nói với ai. Đối với tôi, Ngài vừa là một người cha, một người Thầy và một người bạn. Sự minh triết của Ngài quả thật là thiêng liêng. Tôi yêu Ngài chẳng khác nào như con thương cha. Trong những lúc sung sướng mà tôi được ở gần bên Ngài, tôi cảm thấy rằng hạnh phúc vốn ở hầu kề một bên. Thật vậy chí đến bầu không khí ở chung quanh Ngài cũng tạo nên sự an lạc mầu nhiệm đó.
Tôi vốn là người có tâm hồn thẩm mỹ, yêu nghệ thuật và mỹ lệ. Nhờ có Ngài, tôi đã tập nhìn thấy cái đẹp ở trong những kẻ phong cùi, tàn tật, khốn khó lầm than, những người mà trước kia tôi ngoảnh mặt đi vì ghê tởm. Ngài sống trong một đạo viện hẻo lánh cách xa thành phố. Tôi tìm thấy đạo viện của Ngài dường như do sự tình cờ. Kể từ đó, tôi trở lại thăm viếng Ngài nhiều lần và ở lại đạo viện với Ngài trong một thời gian. Ngài đã dạy tôi rất nhiều. Một xứ sản xuất được những người như thế nhất định phải là một xứ cao cả và hùng cường.
- Nhưng tại sao Ngài không phục phụ xứ sở bằng cách tham gia vào việc nước? Tôi thành thật hỏi. Người Ấn Độ lắc đầu:
- Những tư tưởng sâu xa của một hạng người đặc biệt như thế không dễ gì thấu hiểu được dẫu cho đối với chúng tôi, huống chi đối với người Âu Tây như các anh. Có lẽ Ngài sẽ trả lời câu hỏi của anh rằng người ta có thể phụng sự thế gian một cách âm thầm lặng lẽ bằng cách phóng tư tưởng lành, mà sức thần giao cách cảm có thể vượt qua không gian, tuy mắt người không nhìn thấy, nhưng không phải là không có hiệu lực. Ngài cũng có thể nói rằng một xã hội suy tàn phải chịu cái số kiếp đau thương của nó cho đến khi ngày giờ phục hưng của nó đã điểm.
Tôi nói với ông bạn mới của tôi rằng quả thật tôi không ngờ tới một câu trả lời như thế. Y đáp:
- Tôi cũng biết rằng ông bạn sẽ nghĩ như thế, ông bạn ơi!
Sau buổi tối gặp gỡ đầu tiên và đáng ghi nhớ đó, tôi đã nhiều lần trở lại nhà người bạn Ấn Độ mới quen. Tôi bị hấp dẫn bởi những kiến thức rộng rãi và cái phong độ hào hoa phong nhã của y. Y đã kích động những hoài bão tiềm tàng của tôi, làm cho tôi muốn tìm hiểu thêm về ý nghĩa thâm trầm của cuộc đời.
Một hôm, câu chuyện của chúng tôi xoay về một chiều hướng nó in sâu vào cuộc đời tôi những dấu vết và ảnh hưởng thâm trầm. Ông bạn mới của tôi nói qua về những phong tục lạ lùng và những tập quán cổ truyền của người Ấn Độ. Y diễn tả một cách linh hoạt vài hạng người của cái xứ lạ lùng huyền bí đó và trong câu chuyện, y có đề cập đến những người đạo sĩ Yogi. Tôi chỉ hiểu một cách mập mờ về ý nghĩa của danh từ đó. Tôi đã từng gặp danh từ ấy nhiều lần trong khi đọc sách, nhưng mỗi lần với những ý nghĩa khác nhau đến nỗi tôi không thể hiểu một cách rõ rệt.
Và khi tôi nghe ông bạn tôi thốt ra danh từ này, tôi liền chận y lại, như một nhà báo lành nghề, để hỏi thêm một vài chi tiết. Y trả lời:
- Người ta không thể tóm tắt trong một câu cái ý nghĩa đầy đủ của danh từ Yogi. Bạn hãy hỏi người Ấn Độ, họ sẽ định nghĩa cho bạn nghe danh từ đó bằng mười cách khác nhau. Thí dụ, có hàng ngàn người hành khất dạo, thường đi ta bà từ làng này qua làng khác và tụ họp đông đảo ở các nơi đền chùa trong những khi có những cuộc lễ lớn, họ cũng tự gọi là những người Yogi. Sự thật, nhiều người trong số đó chỉ là những kẻ vô nghề nghiệp, hoàn toàn thất học, không biết gì cả về lịch sử hay lý thuyết của pháp môn Yoga.
Y ngừng một lúc và nói tiếp:
- Nhưng nếu bạn đi về những nơi như Rishikesh chẳng hạn, mà dãy Hi Mã Lạp Sơn đầy tuyết phủ bao bọc chung quanh như thành quách, bạn sẽ thấy có một hạng người hoàn toàn khác hẳn. Những người này sống trong những túp lều sơ sài hoặc trong động đá, họ ăn rất ít và suốt ngày chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cũng cần thiết như hơi thở, nó ám ảnh họ ngày đêm. Phần nhiều là những người có tâm đạo dành trọn thời giờ để học hỏi các Thánh Kinh và tham thiền, tụng niệm. Những người này cũng được người ta gọi là Yogi mặc dù họ không giống như những người hành khất kể trên. Như thế, bạn thấy rằng danh từ đó rất là co giãn, và ở giữa hai hạng người đó còn có những hạng người khác nữa.
- Tuy vậy, phải chăng người ta thường thán phục những quyền năng bí mật lạ lùng của những người Yogi?
Ông bạn tôi vừa mỉm cười vừa nói:
- À! Tôi còn một định nghĩa khác nữa. Hiện nay người ta vẫn tìm thấy ở những nơi hẻo lánh, ẩn trong rừng thẳm hoặc trong hang núi, những người lạ lùng dành trọn đời để tu luyện theo những phương pháp mà họ tin rằng sẽ đem đến cho họ những quyền năng mầu nhiệm và phép tắc thần thông. Có người khinh bỉ cả tôn giáo hoặc có người lại rất tín ngưỡng, nhưng tất cả đều hợp nhất trong sự chiến đấu để thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục những sức mạnh vô hình bí ẩn của Trời Đất. Bạn hãy nhớ rằng xứ Ấn Độ vẫn luôn luôn tin tưởng nơi các điều huyền bí, nhiệm mầu, và người ta vẫn thường nghe nói về những phép thuật thần thông của các nhà đạo sĩ. Những người này cũng được gọi là Yogi.
- Nhưng bạn có gặp những người ấy chăng? Và bạn có tin nơi những phép thuật cùng những quyền năng nhiệm mầu đó không? Tôi hỏi một cách ngây thơ.
Người bạn tôi im lặng một lúc dường như để suy nghĩ về câu trả lời. Tôi đưa mắt nhìn cái trang nhỏ đặt trên bàn thờ và tưởng chừng như pho tượng Phật ở bên trong cũng nhìn tôi và mỉm cười. Tôi đâm ra vơ vẫn, và nghĩ rằng bầu không khí chung quanh pho tượng hẳn có đượm một vẻ linh thiêng, thần bí. Nhưng đúng vào lúc đó, giọng nói rõ ràng của người Ấn Độ làm gián đoạn sự mơ màng viển vông của tôi:
- Bạn hãy xem đây, y vừa nói vừa lấy tay vạch cho tôi xem một vật mà y đeo ở trong cổ áo. Tôi là người Bà La Môn, và đây là sợi dây Thánh, tiêu biểu cho giai cấp tôi. Một đời sống khắc kỷ, đạm bạc, trải qua hằng bao nhiêu ngàn năm, đã làm cho giai cấp chúng tôi có một vài đặc tính tự nhiên mà sự học vấn theo Âu Tây và sự giao thiệp với người Âu Tây cũng không làm sao xóa bỏ được. Đức tin nơi một quyền năng thiêng liêng, sự tin tưởng nơi những sức mạnh huyền bí và sự tiến bộ tâm linh của nhân loại, những thứ ấy vốn in sâu trong tâm hồn người Bà La Môn chúng tôi. Đức tin đó, tôi không thể nào hủy bỏ được, và khi nào có sự xung đột giữa đức tin và lý trí, thì tự nhiên lý trí phải nhường bước. Bởi đó, mặc dù tôi rất có thiện cảm với những phương pháp khoa học tối tân của các anh, điều mà sau cùng tôi có thể trả lời là: "Tôi tin".
Y im lặng nhìn tôi một lúc và nói tiếp:
- Lẽ tự nhiên là tôi đã gặp những người đó. Vài ba người, có lẽ. Thật không dễ gì gặp họ trên đường đời của mình. Ngày xưa, người ta có thể tìm thấy họ dễ dàng hơn, nhưng ngày nay tôi tin rằng họ hầu như đã hoàn toàn biến mất.
- Nhưng phải chăng bạn nói còn độ vài ba người?
- Rất có thể. Nhưng tìm được họ, lại là một vấn đề khác. Điều đó đòi hỏi một sự tìm kiếm công phu và lâu dài.
- Thầy bạn, phải chăng cũng là một trong số những người đó?
- Không, Ngài thuộc về một hạng cao hơn nữa. Phải chăng tôi đã nói với bạn rằng Ngài là một vị Rishi?
Tôi thú thật rằng tôi không hiểu gì cả, nếu y không giải thích rõ danh từ sau này.
- Những vị Rishi còn cao hơn những người Yogi. Chúng ta hãy đem thuyết Tiến Hóa Luận của Darwin chuyển sang địa hạt tinh thần, và chấp nhận giáo lý của Bà La Môn cho rằng có một sự tiến hóa của linh hồn cùng đi đôi với sự tiến hóa của thể xác. Bạn hãy tưởng tượng những vị Rishi như những người đã đạt tới tột đỉnh của cái thang tiến hóa đó, và chừng đó bạn sẽ có một ý niệm đại khái về sự cao cả huy hoàng của các Ngài.
- Một vị Rishi có thể làm những phép lạ thần thông mà thuật thần thông không có giá trị như nhiều người Yogi lầm tưởng. Đó là một quyền năng do kết quả tự nhiên của sự tập trung tư tưởng và ý chí mà thôi. Đối với Ngài, sự nhiệm mầu hay phép lạ là một phương tiện mà Ngài ít khi dùng đến. Mục đích chính của Ngài là trở nên Toàn Thiện cũng như những đấng Thiêng Liêng Cao cả, chẳng hạn như đức Phật hay đấng Christ.
- Nhưng đấng Chirst cũng đã từng làm phép lạ!
- Dĩ nhiên, nhưng bạn tưởng rằng Ngài làm như thế vì mục đích khoe khoang chăng? Không bao giờ. Đó chỉ là một phương tiện để cảm hóa những người thường dân hiền lành, chất phác và đem cho họ một đức tin.
- Nếu ở Ấn Độ có những người như những vị Rishi thì chắc hẳn quần chúng sẽ quy tụ theo các Ngài?
- Lẽ tự nhiên, nhưng trước hết các Ngài phải nhập thế và tuyên bố cho người đời biết các Ngài là ai. Đằng này, rất ít khi nào các đấng Rishi lại làm như vậy. Các Ngài thích sống cách biệt với thế gian. Những vị nào muốn nhập thế để làm việc giúp đời, thường chỉ xuất hiện trong một thời gian nhất định, rồi lại rút lui vào bóng tối.
Tôi bèn phản đối rằng nếu các vị ấy cứ sống ẩn dật như thế mãi thì phỏng có ích gì cho đời? Người Ấn Độ nở một nụ cười đầy tha thứ:
- Tục ngữ có câu: Không nên tin ở bề ngoài. Vì không biết rõ các đấng Rishi, nên thế gian không thể xét đoán các Ngài một cách đúng đắn. Tôi đã nói rằng các đấng Rishi đôi khi cũng xuất hiện ngoài thế gian và chung đụng với người đời. Thuở xưa kia, khi các Ngài xuất hiện như thế nhiều hơn bây giờ, thì sự minh triết, quyền năng, đức độ của các Ngài nổi bật trước mắt mọi người, và ảnh hưởng của các Ngài được công khai nhìn nhận. Những vì vua chúa cũng phải nghiêng mình thán phục sự minh triết của các Ngài và không ngần ngại thỉnh cầu ý kiến của các Ngài về các vấn đề quốc sự. Nhưng có điều chắc chắn là các đấng Rishi thích hoạt động âm thầm lặng lẽ trong bóng tối hơn là xuất hiện ở ngoài đời.
Tôi bỗng nhiên đâm ra mơ mộng và bất giác thì thầm như nói riêng một mình:
- Tôi muốn được gặp một vị Rishi, hoặc ít nhất là một người Yogi chân chính.
- Bạn hãy tin rằng có ngày bạn sẽ được như ý nguyện.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao bạn biết đặng?
Câu trả lời của y càng làm cho tôi ngạc nhiên hơn nữa:
- Tôi biết như thế từ ngày chúng ta gặp nhau lần đầu. Đó là một thứ trực giác, một thứ linh năng khiến tôi cảm biết được một cách sâu xa nhưng không thể giải thích được. Sư phụ tôi đã dạy tôi tập luyện và sử dụng cái năng khiếu đó. Khi gặp việc, tôi hoàn toàn tin tưởng nơi khiếu linh năng trực giác của tôi.
Tôi hỏi nửa tin nửa ngờ:
- Lời tiên tri của bạn bao giờ mới thực hiện?
Bạn tôi nhún vai và lắc đầu:
- Tôi không phải là một nhà tiên tri. Tôi rất tiếc là không thể nói trước ngày giờ nào bạn sẽ thực hiện điều ấy.
Tôi không hỏi thêm điều gì, tuy tôi ngờ rằng y có thể nói nhiều hơn nếu y muốn. Tôi bèn suy nghĩ và đề nghị:
- Chắc có ngày bạn sẽ trở về xứ. Nếu lúc ấy tôi rảnh việc, chúng ta có thể cùng đi chung những người ấy chăng?
- Không bạn ơi! Bạn phải đi một mình. Tốt hơn là bạn hãy tìm kiếm lấy một mình bạn.
Tôi kêu nài:
- Đó là một điều rất khó đối với một người ngoại quốc như tôi.
- Hẳn là rất khó. Nhưng bạn hãy đi một mình, rồi có ngày bạn sẽ thấy rằng lời nói của tôi thật không sai.
Từ đó trở đi, tôi biết rằng có ngày tôi sẽ thả neo ở một hải cảng phương Đông đầy ánh nắng. Tôi nghĩ rằng nếu trong quá khứ, xứ Ấn Độ đã từng tạo ra những người như các vị Rishi, và nếu một vài vị ấy hiện nay vẫn còn sống như bạn tôi tin tưởng, thì cái công phu khó nhọc đi tìm ra các Ngài sẽ không phải là vô ích. Nó sẽ được đền bù lại gấp bội phần bằng những lời vàng ngọc minh triết mà mình sẽ được nghe tự các Ngài thốt ra. Biết đâu tôi chẳng có cái may mắn là nhờ đó đời sống nội tâm của tôi sẽ trở nên dồi dào phong phú hơn. Và dầu cho tôi bị thất bại, cuộc hành trình của tôi cũng không phải là vô ích.
Vì những người Yogi kích thích sự tò mò của tôi một cách mãnh liệt bởi cách sinh hoạt lạ lùng và những phép tu luyện huyền bí của họ. Sự ham mê của tôi về những điều huyền diệu phi thường đã được kích động đến một mức độ cao tột. Cái viễn ảnh đi thám hiểm những chân trời xa lạ đó làm cho tôi ngây ngất. Tôi tự thả trôi theo cái đà tưởng tượng của mình, định rằng khi gặp cơ hội thuận tiện, tôi sẽ đáp chuyến tàu đầu tiên sang Ấn Độ. Người bạn Ấn Độ của tôi vẫn còn tiếp tôi tại nhà y trong nhiều tháng. Y giúp tôi nhận định đường lối trong cái chương trình tương lai của tôi, nhưng không chịu làm người hướng dẫn tôi trên những bước đường xa lạ mà tôi còn phải vượt qua.
Nhưng biết được vị trí của mình, nhận định được những khả năng tiềm tàng của mình, tự vạch lấy con đường đi rõ ràng nhất định, đó phải chăng là một điều quý báu đối với một người còn đang tuổi thanh xuân? Vậy thì không phải là một điều quá đáng nếu tôi bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với người bạn mới của thuở ban đầu. Nhưng bánh xe định mệnh vẫn tiếp tục xoay vần và cái ngày phân ly giữa chúng tôi đã đến quá mau. Cách sau đó vài năm, tôi được tin y đã qua đời, hình như vì tai nạn.
Cuộc hành trình của tôi vẫn chưa gặp thời giờ và hoàn cảnh thuận tiện. Những sự ước mong và tham vọng ở đời thường tạo ra những trách nhiệm ràng buộc mà người ta không dễ gì thoát khỏi. Tôi đành chịu an phận với cuộc đời hiện tại nó giam hãm tôi trong một khuôn khổ chật hẹp. An phận, nhưng vẫn chờ đợi, vì tôi không hề mất sự tin tưởng nơi lời tiên tri của người Ấn Độ. Một ngày nọ, một việc xảy đến bất ngờ lại càng xác nhận củng cố thêm đức tin của tôi.
Những hoạt động nghề nghiệp của tôi đưa đến cho tôi một dịp tiếp xúc trong nhiều tháng với một người mà tôi lấy làm quý trọng và giao du với một tình thân hữu đặc biệt. Y có một trí óc thông minh, vô cùng linh hoạt và biết rõ nhân tình thế thái. Y đã từng làm giáo sư dạy khoa Tâm Lý ở một trường Đại Học, nhưng cuộc đời giáo sư mô phạm không thích hợp với y. Y bèn từ chức để bước qua một ngành hoạt động khác mà y có thể sử dụng số vốn kiến thức rộng rãi của mình. Trong một thời gian, y làm cố vấn cho nhiều nhà kinh doanh trong giới thương trường, và đã từng thụ hưởng những số tiền thù lao khổng lồ của những vị chủ nhân các xí nghiệp lớn.
Y có cái thiên tư đặc biệt là giúp nguồn cảm hứng và khích lệ cho những kẻ khác thành công trên đường đời. Dầu là kẻ bần cùng hay triệu phú, ai đã đến tiếp xúc với y đều được sự giúp đỡ ý kiến hoặc sự nâng đỡ về tinh thần, làm cho họ tăng lòng hứng khởi, và những lời khuyên bảo của y đều có giá trị như vàng ngọc. Tôi vẫn thường nghe theo những lời khuyên của y, vì sự tiên kiến và linh giác của y thường được chứng minh một cách hùng biện trong các vấn đề kinh doanh cũng như các vấn đề cá nhân.
Điều mà tôi thán phục nhất là y đã dung hòa được trong tâm tính của y những khía cạnh hoàn toàn trái ngược nhau. Y có thể bàn luận đến những vấn đề triết lý khó khăn nhất, ngay sau khi vừa bàn tính xong một công việc kinh doanh thương mại! Vì thế người ta không hề thấy y có vẻ buồn bực, ưu sầu, mà luôn luôn vui vẻ trào phúng và hồn nhiên cởi mở.
Y đã cùng tôi trải qua những giờ thú vị trong khi làm việc chung, hoặc trong những khi rảnh rang, nhàn hạ. Tôi lấy làm thích thú mà nghe y nói chuyện, những kiến thức rộng rãi của y làm tôi ngạc nhiên. Tôi thường tự hỏi làm sao khối óc con người có thể chở nỗi một kho tàng hiểu biết rộng rãi như thế!
Một buổi chiều, chúng tôi cùng nhau dùng cơm tối ở một quán nhỏ có vẻ ấm cúng. Khi ăn xong bước ra về, bầu trời quang đãng dưới ánh trăng rằm làm cho chúng tôi thấy cảm hứng dồi dào chúng tôi bèn rủ nhau đi bách bộ thưởng trăng. Câu chuyện lúc ban chiều chỉ quanh quẩn với các vấn đề tầm thường, không có gì đặc biệt, nhưng một đêm trăng tịch mịch như đêm nay tự nhiên khêu gợi đến những chuyện triết lý. Cuộc đi chơi bách bộ dưới ánh trăng đưa đến những câu chuyện triết lý trừu tượng đến nỗi những danh từ của chúng tôi thốt ra có thể làm cho những vị thân chủ của ông bạn tôi rùng mình! Về đến trước cửa nhà, khi chúng tôi bắt tay từ giã, giọng nói của y bỗng trở nên nghiêm nghị, và y nói một cách chậm rãi:
- Thiết tưởng anh đừng bao giờ nên làm cái nghề này. Anh thật là một triết gia, mà anh lại mắc kẹt trong một cái nghề bị lệ thuộc cho vấn đề thời sự hàng ngày. Sao anh không làm giáo sư Đại Học, và dùng thời giờ vào công việc khảo cứu, sưu tầm? Anh có tâm hồn triết lý và có những hoài bão về đường tâm linh. Tôi chắc chắn rằng có ngày anh sẽ đi tìm những nhà đạo sĩ Yogi Ấn Độ, những vị Lạt Ma Tây Tạng, hoặc những vị cao tăng phái Thiền Tông bên Nhật Bổn. Và chừng đó anh sẽ cho chúng tôi đọc những thiên phóng sự lạ lùng nhé? Thôi trong khi chờ đợi, hãy chúc anh một đêm ngon giấc.
Tôi bèn chận lại:
- Những đạo sĩ Yogi? Anh nghĩ sao về những người ấy?
Ông bạn tôi bèn bước đến gần tôi và kề tai nói nhỏ:
- Đó là những người hiểu biết rất nhiều, bạn ơi! Họ biết rất nhiều!
Tôi bước chân ra về, trong lòng vô cùng xao xuyến.
Cuộc hành trình sang phương Đông vẫn chưa thể thực hiện được. Càng ngày tôi càng đi sâu vào những trách nhiệm nặng nề và phức tạp mà tôi không thấy có cách nào thoát khỏi. Tôi có những lúc ngã lòng. Hay là tôi bị một cái định mệnh khắc khe nó trói buộc tôi với những tham vọng thường tình và những cạm bẫy của cuộc đời trần thế!
Nhưng không, tôi đã lầm! Định mệnh con người luôn luôn phán ra những lịnh mới của nó hàng ngày, và mặc dù chúng ta không có đủ linh năng để nhìn thấy rõ, nhưng chúng ta vẫn vô tình tiến đến cái mục đích mà nó đã vạch sẵn. Không đầy một năm sau, tôi đã bước chân lên hải cảng Bombay, trố mắt nhìn cảnh vật tưng bừng rực rỡ của một thành phố phương Đông, và lắng tai nghe đủ thứ thổ ngữ lạ lùng của những dân tộc bổn xứ qua lại nơi này!
#72
Gửi vào 09/06/2011 - 01:24
MỘT NHÀ PHÙ THỦY XỨ AI CẬP
Phần Hai
Thật là một chuyện lạ lùng và có ẩn dấu một ý nghĩa gì đây chăng? Tôi chưa kịp thử thời vận thì tự nhiên dịp may ở đâu tự nó lù lù xuất hiện. Tôi cũng chưa kịp sử dụng thời giờ nhàn rỗi của một người du khách để đi ngoạn cảnh và viếng thăm thành phố Bombay. Những hoạt động của tôi trong lúc hiện tại là thử làm quen với cảnh vật chung quanh ở khách sạn Majestic mà tôi được biết do sự giới thiệu của một người mới quen trên tàu. Và chính nhờ đó mà tôi khám phá được một chuyện lạ.
Trong số những lữ khách ở trọ, có một vị pháp sư phép thuật cao cường, đáng liệt vào hàng những nhà Phù Thủy hồi thời Trung cổ. Ông ta tiếp xúc hàng ngày với những vong linh bí mật, người thường không nhìn thấy, nhưng ông ta nhìn thấy rõ, hoặc ít nhất đó cũng là do lời thiên hạ đồn. Nhân viên khách sạn rất kiêng nể y, và chỉ nói đến y bằng một giọng thì thầm sợ hãi. Chỗ nào y đi ngang qua thì mọi câu chuyện đều ngưng bặt, mọi người đều nhìn trộm y với một vẻ băn khoăn và không ai dám nhìn ngay mặt. Về phần y, y ít khi ra mặt nói chuyện hoặc tiếp xúc với ai, và chỉ dùng cơm một mình trong phòng riêng.
Điều làm cho người ta càng tò mò hơn nữa là y không phải là người Ấn Độ hay người Âu, mà là một người ngoại quốc xuất xứ từ trên bờ sông Nil, một nhà Phù Thủy xứ Ai Cập! Hình dáng bề ngoài của y không có những quyền năng bí mật lạ lùng. Mới nghe tiếng đồn về y, người ta tưởng tượng đó là một người có vẻ mặt rùng rợn khắc khổ; nhưng trái lại, y có một gương mặt tròn trĩnh, tươi tắn và hồng hào, một khổ người đầy đặn phương phi, vai rộng, và dáng đi nhanh nhẹn của một người hoạt động.
Người ta tưởng tượng y mặc áo rộng trắng, đầu quấn khăn như mọi người thuật sĩ phương Đông, nhưng đằng này y mặc một bộ Âu phục cắt khéo, đúng thời trang và có vẻ giống như một người Pháp thượng lưu lịch sự mà người ta thường gặp ở những nhà hàng lớn ở Ba Lê.
Tôi ngẫm nghĩ về vấn đề này suốt ngày hôm đó. Sáng hôm sau, tôi thức dậy với một quyết định rõ rệt. Tôi phải phỏng vấn nhà Phù Thủy Mahmoud Bey, nói theo danh từ báo giới mà các bạn đồng nghiệp của tôi vẫn thường dùng.
Tôi viết ít hàng chữ trên một tấm danh thiếp để bày tỏ ý muốn của tôi; trên một góc phía tay mặt, tôi vẽ một hình biểu tượng nhỏ dùng làm mật hiệu để ám chỉ rằng tôi cũng không phải là hoàn toàn xa lạ với khoa pháp môn phù thủy, và tôi hy vọng rằng điều này có thể giúp cho tôi được y tiếp kiến. Tôi đưa tấm danh thiếp cho một người bồn bàn, và không quên kèm theo một đồng rupee tiền pour boire, để nhờ y đem vào phòng của nhà phù thủy.
Năm phút sau đó, người bồi trở lại với câu trả lời:
- Thưa ông, ông Mahmoud Bey sẵn lòng tiếp ông ngay bây giờ. Ông ấy sắp sửa dùng điểm tâm, và mời ông cùng vào.
Y mặc một bộ áo choàng rộng màu xám. Y mở đầu câu chuyện bằng một nụ cười vui vẻ và mời tôi:
- Ông dùng điểm tâm với tôi nhé!
Tôi cám ơn. Giữa hai hớp trà nóng, tôi thuật lại cho y nghe những tiếng đồn rùng rợn mà người ta gán cho y ở tại khách sạn, nó làm cho tôi đã do dự rất lâu trước khi có đủ sự bạo gan để đến nói chuyện với y. Y bèn phát tiếng cười lớn một cách giòn giã thật tình, và đưa một tay ra dấu, như muốn nói rằng y không thể làm thế nào được.
Sau một phút im lặng, y hỏi tôi:
- Ông là phóng viên cho một tờ báo?
Tôi đáp:
- Không, tôi đến Ấn Độ vì một mục đích riêng, để khảo cứu một vài khía cạnh về đời sống tâm linh của xứ này, và thu thập tài liệu để viết một quyển sách về vấn đề ấy.
- Ông sẽ ở đây bao lâu?
- Việc đó còn tùy. Tôi chưa nhất định là sẽ ở bao lâu. Tôi đáp với cái cảm giác lạ lùng rằng người đi phỏng vấn lại bị kẻ khác phỏng vấn mình!
Nhưng câu nói kế đó của y làm tôi yên tâm:
- Tôi đến đây trong một cuộc viếng thăm dài hạn. Tôi sẽ ở Ấn Độ một năm hoặc hai năm. Sau đó tôi sẽ đi qua Viễn Đông, và đi vòng quanh thế giới trước khi trở về Ai Cập, nếu Allah cho phép.
Chúng tôi đã ăn xong. Người bồi bàn bước vào và dọn bàn. Không để lỡ dịp tôi đi ngay vào đề:
- Tôi nghe người ta nói rằng ông có phép thần thông, có quả thật vậy không?
Vị pháp sư bình tĩnh đáp như một người tự tin nơi mình:
- Vâng! Nhờ trời cho nên tôi đã có được những quyền năng đó.
Một lúc sau y nhìn thẳng vào mắt tôi và nói tiếp:
- Có lẽ ông muốn tôi thí nghiệm vài điều cho ông xem chơi?
Y đã đi trước ý muốn của tôi. Tôi gật đầu bằng lòng. Y bảo tôi đem giấy và một cây viết chì và nói:
- Ông hãy tự viết lấy trên tờ giấy một câu hỏi, bất cứ về chuyện gì.
Nói xong, y dang ra và ngồi lại một chiếc bàn nhỏ gần cửa sổ.
Y day lưng lại tôi và nhìn ra đường. Như thế chúng tôi ngồi cách nhau một khoảng độ vài thước. Tôi viết trên mảnh giấy câu hỏi như sau: "Cách đây bốn năm tôi ở đâu?"
Vị phù thủy bảo tôi: Bây giờ ông hãy xếp mảnh giấy lại làm nhiều lần, thu lại càng nhỏ càng hay.
Tôi làm y theo lời. Y xích lại gần tôi và nói: Bây giờ ông hãy nắm chặt mảnh giấy và cây viết chì trong bàn tay mặt.
Tôi nghe theo lời. Nhà phù thủy bèn nhắm mắt trong một lúc, có vẻ như chìm đắm trong một cơn thiền định. Tôi chắc y đã xuất thần và đã đi xa lắm. Bỗng nhiên hai mí mắt y dương lên, cặp mắt xám đục của y nhìn ngay mắt tôi, y chậm rãi nói:
- Câu hỏi phải chăng là như thế này: "Cách đây bốn năm, tôi ở đâu?"
- Đúng vậy, tôi ngạc nhiên đáp. Nếu đây là việc đọc tư tưởng của người khác thì quả thật là một việc phi thường!
- Ông hãy mở tờ giấy ra.
Tôi làm theo lời và ngạc nhiên hơn nữa. Một bàn tay vô hình đã viết bằng viết chì cái tên Oxford, tức là thành phố mà tôi ở cách đây bốn năm, ngay phía dưới câu hỏi tôi đã viết. Ngài phù thủy Mahmoud Bey cười một cách hài lòng và nói:Câu trả lời có đúng không?
Tôi lặng thinh vì ngạc nhiên. Việc này ngoài sức tưởng tượng của tôi, làm cho tôi phải yêu cầu y thử lại một lần nữa. Y bằng lòng và trở lại phía cửa sổ, trong khi tôi viết câu hỏi thứ nhì.
Với khoảng trống ngăn cách chúng tôi, tôi không thể nghi ngờ rằng y đọc được chữ tôi viết. Tôi vừa viết vừa nhìn y không chớp mắt, và thấy y chăm chú nhìn xe cộ qua lại ngoài đường. Viết xong tôi xếp mảnh giấy lại và nắm chặt giấy cùng cây viết chì trong bàn tay mặt. Lúc đó nhà phù thủy mới trở lại bàn, ngồi xuống và nhắm mắt định thần.
Sau một lúc, y nói với tôi: Câu hỏi thứ nhì là "Tôi làm chủ bút tờ báo nào cách đây hai năm?"
Lần này y cũng nói đúng như lần trước. Một lần nữa tôi mở tờ giấy ra trên bàn và nhận thấy nét viết chì viết rõ ràng tên tờ báo của tôi cách đây hai năm.
Điều này phải khác hơn là việc đọc tư tưởng. Thôi miên chăng? Cũng không phải, vì tôi hoàn toàn thức tỉnh. Chính tôi lấy giấy và viết chì từ trong túi của tôi ra, chính tôi chọn những câu hỏi và Mahmoud Bey đứng cách xa tôi vài thước trong khi tôi viết. Trong phòng chỉ có hai người, và mọi việc xảy ra giữa lúc thanh thiên bạch nhật.
Tôi không thể hiểu được gì cả. Tôi bèn yêu cầu người phù thủy thử lại một lần thứ ba. Lần này y cũng bằng lòng và cũng thành công y như trước. Sự việc diễn ra trước mắt tôi, không thể chối cãi được. Ít nhất y đã đọc được tư tưởng của tôi, và tôi không tìm ra sự giải thích nào khác hơn. Bằng một phép thuật nào đó, y đã viết trên mảnh giấy mà tôi nắm chặt trong lòng bàn tay, những chữ trả lời đúng đắn các câu hỏi của tôi. Càng ngẫm nghĩ, tôi càng nghiệm thấy sự hiện diện của những sức mạnh vô hình, huyền bí. Đối với một người thường, việc này thật không thể tưởng tượng, nó thách thức lý trí con người và sau cùng tôi đành chịu, không sao hiểu nổi.
Nhà phù thủy lúc đó mới hỏi tôi: Ông có biết có người nào bên Anh Quốc có thể làm được như vậy không?
Tôi phải nhìn nhận là không.
- Ông có vui lòng giải thích những pháp thuật của ông cho tôi nghe được chăng? Tôi nói với cái giọng của một người biết rằng hỏi như vậy, chẳng khác nào muốn ôm lấy mặt trăng.
Vị pháp sư trả lời:
- Có người đã đề nghị trả cho tôi những số tiền khổng lồ nếu tôi chịu nói ra những bí mật của tôi, nhưng hiện giờ tôi chưa có ý định làm như vậy.
Tôi rán vớt vát:
- Ông đã biết rằng tôi không phải là hoàn toàn dốt về những vấn đề thần bí siêu hình?
- Dĩ nhiên rồi. Nếu tôi có dịp sang Âu Châu, ông có thể giúp tôi được nhiều việc. Chừng đó tôi hứa sẽ chỉ cho ông biết những phương pháp của tôi, để ông có thể làm được như tôi vậy, nếu ông muốn.
- Phương pháp đó, học phải mất đến bao lâu?
- Việc ấy tùy từng người. Nếu ông chuyên cần tập luyện và để hết thời giờ vào đó, thì ba tháng cũng đủ để hiểu biết về phần lý thuyết. Nhưng sau đó, ông còn cần phải thực hành trong nhiều năm.
- Ông có thể cho biết nguyên tắc đại cương của phép thuật này về phần lý thuyết, mà không cần giải thích những bí mật của ông chăng?
Mahmoud Bey ngẫm nghĩ trong một lúc về câu hỏi của tôi và trả lời:
- Được, tôi sẵn lòng làm như vậy đối với ông.
Tôi liền móc túi lấy tập vở chép tốc ký với cây viết chì và sẵn sàng ghi chép tài liệu. Nhưng y vừa mỉm cười vừa nói:
- Không, sáng nay tôi mắc bận. Xin ông thứ lỗi cho và mời ông hãy đến sáng mai lúc mười một giờ, chúng ta sẽ tiếp tục.
Ngày hôm sau đúng giờ hẹn, tôi đã có mặt tại phòng của Mahmoud Bey. Y vừa cầm đưa cho tôi một hộp thuốc lá Ai Cập vừa bật lửa mời tôi hút thuốc và nói:
- Thuốc lá này là thổ sản của xứ Ai Cập. Hút rất ngon.Chúng tôi ngồi ngả lưng trên ghế bành và thở vài ngụm khói đầu tiên. Khói mùi thơm dịu, quả thật thuốc lá Ai Cập ngon có tiếng.
- Vậy là bây giờ tôi phải nói về phần lý thuyết, như người Anh các ông vẫn thường nói. Nhưng đối với tôi nó là sự thật. Mahmoud Bey vừa mở lời vừa cười một cách thật tình và cởi mở. Có lẽ ông sẽ lấy làm ngạc nhiên mà nghe nói rằng tôi là một chuyên viên về ngành Nông Nghiệp và có cả bằng cấp kỹ sư canh nông?
Tôi bắt đầu ghi chép bằng tốc ký. Y nói tiếp:
- Điều đó dường như không có đi đôi chút nào với khoa phù thủy, phải chăng?
Tôi ngước mặt nhìn lên và thoáng thấy một nụ cười còn sót lại trên vành môi của y. Y cũng nhìn lại tôi. Tôi nghĩ rằng đây sẽ là một chuyện phóng sự rất lý thú. Y hỏi tôi:
- Nhưng ông là một ký giả, phải chăng ông muốn biết do nhân duyên gì mà tôi trở nên một nhà phù thủy?
Tôi gật đầu tỏ ý biểu đồng tình.
Mahmoud Bey nói:
- Tôi vốn sinh trưởng ở thành phố Le Caire, bên Ai Cập. Thuở nhỏ, tôi là một đứa học trò cũng như mọi đứa trẻ khác, không có gì đặc biệt hay xuất chúng. Nhưng tôi có khiếu về canh nông, và tôi ráng chuyên cần về môn này khi tôi vào trường Đại Học. Một ngày kia, có một ông già dọn đến ở gần nhà tôi. Đó là một ông lão người Do Thái, có cặp chân mày thật rậm, chòm râu dài, vẻ mặt luôn luôn đăm chiêu và ít nói. Ông ta rất dè dặt trong cử chỉ, khiến cho những người láng giềng đều xa lánh và không dám làm quen.
Đối với tôi, điều đó lại làm cho tôi tọc mạch, muốn tìm hiểu về ông ta hơn. Hồi đó tôi còn trẻ và bạo dạn, không nhút nhát. Tôi tìm cơ hội làm quen với ông ta. Lúc đầu còn dè dặt, nhưng lần lần ông trở nên dễ dãi hơn và sau cùng ông mở cửa, để cho tôi bước vào cuộc đời ông. Nhờ đó tôi được biết rằng ông là một người chuyên khảo cứu về khoa Pháp Môn Huyền Bí, và dành trọn thời giờ để học hỏi về các hiện tượng siêu linh, cùng thực hành những pháp thuật lạ lùng.
Ông hãy tưởng tượng xem cuộc đời tôi trước khi đó chỉ là đời của một sinh viên, ngoài giờ học, tôi chỉ biết chơi thể thao, cùng các môn giải trí lành mạnh. Bỗng nhiên từ nay tôi đã gặp một cái gì hoàn toàn khác hẳn, nhưng nó hấp dẫn một cách lạ lùng! Sự huyền bí không làm cho tôi sợ hãi như đối với phần đông các bạn của tôi. Trái lại, nó cho tôi cái thích thú của sự tìm tòi, để khám phá những điều bí hiểm. Tôi yêu cầu ông lão Do Thái hãy dạy tôi học khoa Pháp Môn của ông. Ông ta bằng lòng. Từ khi đó, tôi được quen với một giới người theo đuổi những môn học kỳ lạ. Ông lão Do Thái dắt tôi đến một hội ở Le Caire, chuyên khảo cứu và thực hành các môn Thần Linh Học, Huyền Môn Học và Thông Thiên Học. Nhóm này gồm có các nhà bác học, công chức hoặc trí thức, đến nghe ông lão giảng dạy về các môn học kể trên. Lúc ấy tôi hãy còn là thanh niên mới trưởng thành, nhưng tôi cũng được phép dự các buổi nhóm.
Tôi nghe giảng với tất cả tâm hồn, nghe một cách say sưa như uống cạn những lời giảng của thầy. Những cuộc thí nghiệm lạ lùng làm tôi nhìn xem mê man và vô cùng thích thú. Lẽ tự nhiên, sự học của tôi ở trường Canh Nông bị giảm sút, nhưng vì tôi có khiếu nên tôi vẫn thi đậu.
Tôi chăm chú học một cách say đắm những quyển sách cổ xưa, đầy bụi mốc, của ông lão Do Thái cho mượn, và tập thực hành khoa Pháp Môn. Tôi tiến bộ rất mau về khoa này đến nỗi tôi khám phá được những điều mà chính thầy tôi chưa biết. Không bao lâu tôi được nhìn nhận là một chuyên viên ưu tú về khoa Pháp Môn. Đến lượt tôi làm giảng sư thuyết trình về Pháp Môn Huyền Bí tại Hội Quán và được bầu làm Chủ Tịch Hội này trong mười hai năm. Về sau, tôi xin từ chức để đi du lịch ở một vài xứ và cũng để gầy dựng một sự nghiệp tương lai.
Nói đến đây, Mahmoud Bey ngừng một lát để gạt tàn thuốc. Tôi nhận thấy y có một bàn tay đẹp, một bộ móng tay rất chải chuốt và xén rất kỹ. Tôi nói:
- Đó hẳn là một công trình khó nhọc!
Y mỉm cười nói:
- Đối với tôi, việc ấy rất dễ. Tôi chỉ cần tìm vài vị thân chủ trong số những tay đại phú có việc cần dùng đến những phép thuật của tôi. Trong giới phú hào ở Ấn Độ, có một vài người đã biết tôi. Họ đến đây để hỏi ý kiến tôi về những vấn đề khó khăn thắc mắc của họ; họ muốn khám phá những chuyện mà họ chưa được biết hoặc muốn biết những điều bí hiểm chỉ có thể tìm ra được bằng những phương tiện thần thông. Lẽ dĩ nhiên là tôi tính tiền thù lao rất nặng, mỗi vụ ít nhất là một trăm rupee. Nói thật tình, tôi muốn kiếm rất nhiều tiền, sau đó tôi sẽ giải nghệ và lui về ở dưỡng nhàn nơi một tỉnh nhỏ ở Ai Cập. Tôi sẽ mua một đồn điền lớn để trồng một vườn cam và tiếp tục trở lại nghề canh nông của tôi.
- Ông từ Ai Cập thẳng đường sang đây?
- Không, tôi có ở một thời gian bên xứ Syrie và Palestine sau khi tôi từ giã thủ đô Ai Cập. Những chức viên cảnh sát xứ Syrie có nghe nói về những quyền năng của tôi và thỉnh thoảng có nhờ tôi giúp đỡ họ. Trong nhiều trường hợp, tôi đã giúp họ tìm ra được thủ phạm.
- Ông tìm ra thủ phạm bằng cách nào?
- Tôi tìm ra manh mối nhờ sự giúp đỡ của những tay bộ hạ vô hình, chúng nó diễn lại trong tâm giới của tôi, cho tôi thấy rõ ràng cảnh tượng của vụ án mạng.
Mahmoud Bey lại ngừng một lúc, như để hồi tưởng lại những sự việc đã qua. Tôi kiên nhẫn chờ cho y nói tiếp:
- Chắc ông sẽ cho tôi là một nhà Thần Linh Học, vì tôi kêu gọi sự giúp đỡ của những vong linh? Nhưng tôi cũng là một pháp sư phù thủy, theo ý nghĩa đúng đắn của danh từ này, chứ không phải là một nhà làm trò ảo thuật. Tôi không đòi hỏi gì hơn có bấy nhiêu đó.
Những lời giải thích của y cũng đủ làm cho người ta giật mình, khỏi cần phải hỏi thêm điều gì nữa!- Xin ông cho tôi biết vài điều về những tay bộ hạ vô hình đó.
- À! Những âm binh của tôi! Tôi đã mất ba năm công phu khó nhọc mới làm chủ được chúng nó. Trong cõi vô hình ngoài vòng nhận xét của giác quan chúng ta, có những loại vong linh tốt cũng như xấu. Vài loại vong linh đó là người đã qua bên kia cửa Tử, còn phần nhiều những âm binh của tôi thuộc về loại Djinns nghĩa là những vong linh chính hiệu xuất xứ tự cõi vô hình và không hề có chuyển kiếp làm người. Có những thứ vong linh mà trình độ tiến hóa không cao hơn loài thú, có những loại khác khôn ngoan như loài người. Cũng có những vong linh hung ác, được những bọn phù thủy hạ cấp sử dụng, nhất là những thầy phù thủy chữa bệnh ở Phi Châu. Tự nhiên là tôi không chơi với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, có thể quay ngược lại để giết những người đã sử dụng và sai khiến chúng nó.
- Còn những vong linh người chết mà ông dùng, đó là ai?
- Một trong những vong linh đó là em ruột của tôi, đã chết từ vài năm nay. Nhưng ông nên nhớ rằng tôi không phải là một đồng tử (médium), và không có một vong linh nào nhập xác tôi, hoặc được phép chế ngự tôi bằng bất cứ cách nào. Vong linh em tôi tiếp xúc với tôi bằng cách in vào trong trí tôi những tư tưởng của nó, hoặc gieo vào trong tâm giới của tôi một hình ảnh tương tự. Chính nhờ bằng cách đó mà tôi đọc được những câu hỏi của ông đã viết hôm qua.
- Còn những âm binh Djinns?
- Tôi có tới ba chục đứa để sử dụng và sai khiến. Sau khi đã làm chủ được chúng nó, tôi phải tập cho chúng biết vâng lời tôi, cũng ví như người ta tập cho một đứa trẻ nhỏ biết múa hát chẳng hạn. Tôi cũng còn phải biết tên từ đứa để kêu gọi và sai khiến chúng làm việc. Tôi biết tên chúng nó nhờ học những quyển sách cổ của Thầy tôi truyền lại.
Đến đây, Mahmoud Bey lại đưa hộp thuốc lá cho tôi và nó tiếp:
- Mỗi vong linh đều có một vai trò của nó và không thể đóng vai trò khác. Chẳng hạn, những âm binh đã viết câu trả lời của tôi bằng viết chì trên mảnh giấy trắng không thể giúp tôi đọc được những câu hỏi của ông.
Ông tiếp xúc với chúng bằng cách nào?
- Bằng cách tập trung tư tưởng của tôi đến âm binh nào mà tôi muốn kêu gọi. Nhưng trên thực tế, tôi thường viết tên âm binh đó bằng chữ Ả Rập lên một tờ giấy thì nó liền xuất hiện lập tức.
Đến đây, nhà phù thủy xem đồng hồ tay và đứng dậy kiếu từ:
- Bây giờ, thưa ông, tôi rất tiếc không thể nói nhiều hơn. Ông hiểu vì sao tôi phải giữ kín những phép thuật của tôi. Chúng ta sẽ gặp nhau một ngày khác, nếu Allah muốn!
Nói xong, y vừa mỉm cười để lộ hàm răng trắng như ngà, vừa cúi đầu chào từ biệt. Cuộc phỏng vấn của tôi với nhà phù thủy đã chấm dứt.
Đêm ở Bombay. Tôi đi ngủ trễ, nhưng vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Không khí nặng nề làm tôi khó thở, nó dường như không có dưỡng khí, và nóng nực không thể chịu nổi. Cái quạt máy trên trần chạy hết tốc lực cũng không đủ mát để cho cặp mắt tôi nhắm lại. Sự hô hấp là cả một công việc khó nhọc. Không khí nóng bức đến nỗi mỗi hơi thở hít vào làm cho buồng phổi thiếu kinh nghiệm của tôi dường như bị thương! Bộ quần áo ngủ của tôi thấm mồ hôi ướt sũng, dường như toàn thân tôi đều chảy ra nước! Tệ hơn nữa là bộ óc bị dồn ép của tôi cũng không được chút nghỉ ngơi. Con ma mất ngủ đã bước vào cuộc đời tôi từ đêm nay và sẽ ám ảnh tôi luôn cho đến ngày tôi dẫm chân trên đất Ấn Độ lần cuối cùng. Tôi phải tập quen với khí hậu, phong thổ vùng nhiệt đới, và tôi đã bắt đầu trả bằng một giá rất đắt!
Ánh trăng xuyên qua cửa sổ rọi vào phòng tôi làm cho cảnh vật chung quanh đắm chìm trong một thứ ánh sáng nhạt mờ huyền ảo.
Nằm thao thức trên giường, tôi ngẫm nghĩ về câu chuyện lúc ban ngày với nhà phù thủy Mahmoud Bey, và hiện tượng lạ lùng mà y đã làm cho tôi xem ngày hôm trước. Tôi thử tìm kiếm một sự giải thích nào khác hơn nhưng không có kết quả. Nếu những tay bộ hạ bí mật và vô hình của y quả là có thật, thì việc này làm cho chúng ta nhớ lại thời Trung Cổ, những nhà phù thủy đã từng làm ăn phát đạt ở những thành phố bên Âu Châu, mặc dầu họ thường bị khủng bố bởi Hội Thánh và chánh quyền.
Càng cố tìm ra một sự giải thích, tôi càng đành chịu thất bại, không hiểu ra sao cả. Tại sao Mahmoud Bey lại biểu tôi nắm chặt trong lòng bàn tay, cây viết chì cùng một lượt với tờ giấy? Phải chăng những âm binh của y đã dùng những nguyên tử của chất chì để viết thành câu trả lời?
Tôi ráng nhớ lại những sự việc tương tự đã từng xảy ra trong quá khứ. Phải chăng Marco Polo, nhà thám hiểm trứ danh của thành Venise, đã tường thuật lại trong bộ sách Du Ký của ông, rằng ông đã từng gặp những vị pháp sư Trung Hoa, Mông Cổ và Tây Tạng, có thể viết chữ bằng nét viết chì mà không cầm đến cây viết? Và phải chăng chính những vị pháp sư ấy đã nói cho ông biết rằng pháp thuật lạ lùng này đã từng được biết và thực hành ở các xứ ấy từ bao nhiêu thế kỷ về trước?
Tôi cũng nhớ rằng bà Helena Bloavatsky, nhà sáng lập ra Hội Thông Thiên Học, đã từng làm những hiện tượng giống như thế cách năm mươi năm về trước. Hồi thời kỳ đó, có vài người hội viên ưu tú trong hội ấy đã nhận được những bản thông điệp rất dài của các vị chơn sư do nơi bà làm trung gian. Những người ấy viết trên giấy những tờ giấy có viết những câu hỏi đó. Một điều lạ, là bà Bloavatsky cho biết bà có đi du lịch bên xứ Mông Cổ và Tây Tạng, là những nơi mà nhà thám hiểm Marco Polo đã từng chứng kiến những hiện tượng tương tự như thế. Tuy nhiên, bà Bloavatsky không tuyên bố rằng bà có những quyền năng sai khiến các âm binh như nhà phù thủy Mahmoud Bey. Bà chỉ cho biết rằng những câu trả lời bí mật đó là do những vị Chơn Sư của bà ở bên Tây Tạng, những người có xác phàm như chúng ta, và là những nhà sáng lập thật sự và ẩn tàng của Hội Thông Thiên Học. Những vị này dường như còn cao tay ấn hơn nhà phù thủy Ai Cập về hiện tượng nói trên, vì các Ngài đã phóng ra những hàng chữ viết như thế từ bên xứ Tây Tạng, cách xa nơi nhận đến hàng ngàn dặm đường. Hồi đó người ta đã từng nghị luận sôi nổi về tính cách chân thật của hiện tượng này, và về sự hiện diện thật sự của các đấng Chơn Sư.
Tôi không có ý định nêu ra vấn đề này, vì đó không phải là việc của tôi, hơn nữa người đàn bà kỳ diệu đó đã bước qua thế giới khác mà có lẽ bà ta thấy sung sướng dễ chịu hơn là ở cõi hạ giới này. Nhưng tôi không thể nào phủ nhận những gì tôi đã thấy trước mắt, hoặc nghi ngờ về tính cách chân thật của sự việc đã xảy ra, mặc dù tôi không thể giải thích nổi.
Không còn nghi ngờ gì nữa, Mahmoud Bey quả thật là một nhà phù thủy còn sót lại ở thế kỷ hai mươi này. Gặp gỡ được y khi mới vừa đến đất Ấn Độ, đối với tôi nó dường như là một điềm lành, và hứa hẹn với tôi nhiều sự khám phá lạ lùng hơn nữa về sau này. Dầu sao tôi cũng đã trải qua một bước kinh nghiệm lý thú đầu tiên, và ghi nhận những tài liệu quý báu trên những trang giấy hãy còn mới của tập nhật ký của tôi.
Phần Hai
Thật là một chuyện lạ lùng và có ẩn dấu một ý nghĩa gì đây chăng? Tôi chưa kịp thử thời vận thì tự nhiên dịp may ở đâu tự nó lù lù xuất hiện. Tôi cũng chưa kịp sử dụng thời giờ nhàn rỗi của một người du khách để đi ngoạn cảnh và viếng thăm thành phố Bombay. Những hoạt động của tôi trong lúc hiện tại là thử làm quen với cảnh vật chung quanh ở khách sạn Majestic mà tôi được biết do sự giới thiệu của một người mới quen trên tàu. Và chính nhờ đó mà tôi khám phá được một chuyện lạ.
Trong số những lữ khách ở trọ, có một vị pháp sư phép thuật cao cường, đáng liệt vào hàng những nhà Phù Thủy hồi thời Trung cổ. Ông ta tiếp xúc hàng ngày với những vong linh bí mật, người thường không nhìn thấy, nhưng ông ta nhìn thấy rõ, hoặc ít nhất đó cũng là do lời thiên hạ đồn. Nhân viên khách sạn rất kiêng nể y, và chỉ nói đến y bằng một giọng thì thầm sợ hãi. Chỗ nào y đi ngang qua thì mọi câu chuyện đều ngưng bặt, mọi người đều nhìn trộm y với một vẻ băn khoăn và không ai dám nhìn ngay mặt. Về phần y, y ít khi ra mặt nói chuyện hoặc tiếp xúc với ai, và chỉ dùng cơm một mình trong phòng riêng.
Điều làm cho người ta càng tò mò hơn nữa là y không phải là người Ấn Độ hay người Âu, mà là một người ngoại quốc xuất xứ từ trên bờ sông Nil, một nhà Phù Thủy xứ Ai Cập! Hình dáng bề ngoài của y không có những quyền năng bí mật lạ lùng. Mới nghe tiếng đồn về y, người ta tưởng tượng đó là một người có vẻ mặt rùng rợn khắc khổ; nhưng trái lại, y có một gương mặt tròn trĩnh, tươi tắn và hồng hào, một khổ người đầy đặn phương phi, vai rộng, và dáng đi nhanh nhẹn của một người hoạt động.
Người ta tưởng tượng y mặc áo rộng trắng, đầu quấn khăn như mọi người thuật sĩ phương Đông, nhưng đằng này y mặc một bộ Âu phục cắt khéo, đúng thời trang và có vẻ giống như một người Pháp thượng lưu lịch sự mà người ta thường gặp ở những nhà hàng lớn ở Ba Lê.
Tôi ngẫm nghĩ về vấn đề này suốt ngày hôm đó. Sáng hôm sau, tôi thức dậy với một quyết định rõ rệt. Tôi phải phỏng vấn nhà Phù Thủy Mahmoud Bey, nói theo danh từ báo giới mà các bạn đồng nghiệp của tôi vẫn thường dùng.
Tôi viết ít hàng chữ trên một tấm danh thiếp để bày tỏ ý muốn của tôi; trên một góc phía tay mặt, tôi vẽ một hình biểu tượng nhỏ dùng làm mật hiệu để ám chỉ rằng tôi cũng không phải là hoàn toàn xa lạ với khoa pháp môn phù thủy, và tôi hy vọng rằng điều này có thể giúp cho tôi được y tiếp kiến. Tôi đưa tấm danh thiếp cho một người bồn bàn, và không quên kèm theo một đồng rupee tiền pour boire, để nhờ y đem vào phòng của nhà phù thủy.
Năm phút sau đó, người bồi trở lại với câu trả lời:
- Thưa ông, ông Mahmoud Bey sẵn lòng tiếp ông ngay bây giờ. Ông ấy sắp sửa dùng điểm tâm, và mời ông cùng vào.
Y mặc một bộ áo choàng rộng màu xám. Y mở đầu câu chuyện bằng một nụ cười vui vẻ và mời tôi:
- Ông dùng điểm tâm với tôi nhé!
Tôi cám ơn. Giữa hai hớp trà nóng, tôi thuật lại cho y nghe những tiếng đồn rùng rợn mà người ta gán cho y ở tại khách sạn, nó làm cho tôi đã do dự rất lâu trước khi có đủ sự bạo gan để đến nói chuyện với y. Y bèn phát tiếng cười lớn một cách giòn giã thật tình, và đưa một tay ra dấu, như muốn nói rằng y không thể làm thế nào được.
Sau một phút im lặng, y hỏi tôi:
- Ông là phóng viên cho một tờ báo?
Tôi đáp:
- Không, tôi đến Ấn Độ vì một mục đích riêng, để khảo cứu một vài khía cạnh về đời sống tâm linh của xứ này, và thu thập tài liệu để viết một quyển sách về vấn đề ấy.
- Ông sẽ ở đây bao lâu?
- Việc đó còn tùy. Tôi chưa nhất định là sẽ ở bao lâu. Tôi đáp với cái cảm giác lạ lùng rằng người đi phỏng vấn lại bị kẻ khác phỏng vấn mình!
Nhưng câu nói kế đó của y làm tôi yên tâm:
- Tôi đến đây trong một cuộc viếng thăm dài hạn. Tôi sẽ ở Ấn Độ một năm hoặc hai năm. Sau đó tôi sẽ đi qua Viễn Đông, và đi vòng quanh thế giới trước khi trở về Ai Cập, nếu Allah cho phép.
Chúng tôi đã ăn xong. Người bồi bàn bước vào và dọn bàn. Không để lỡ dịp tôi đi ngay vào đề:
- Tôi nghe người ta nói rằng ông có phép thần thông, có quả thật vậy không?
Vị pháp sư bình tĩnh đáp như một người tự tin nơi mình:
- Vâng! Nhờ trời cho nên tôi đã có được những quyền năng đó.
Một lúc sau y nhìn thẳng vào mắt tôi và nói tiếp:
- Có lẽ ông muốn tôi thí nghiệm vài điều cho ông xem chơi?
Y đã đi trước ý muốn của tôi. Tôi gật đầu bằng lòng. Y bảo tôi đem giấy và một cây viết chì và nói:
- Ông hãy tự viết lấy trên tờ giấy một câu hỏi, bất cứ về chuyện gì.
Nói xong, y dang ra và ngồi lại một chiếc bàn nhỏ gần cửa sổ.
Y day lưng lại tôi và nhìn ra đường. Như thế chúng tôi ngồi cách nhau một khoảng độ vài thước. Tôi viết trên mảnh giấy câu hỏi như sau: "Cách đây bốn năm tôi ở đâu?"
Vị phù thủy bảo tôi: Bây giờ ông hãy xếp mảnh giấy lại làm nhiều lần, thu lại càng nhỏ càng hay.
Tôi làm y theo lời. Y xích lại gần tôi và nói: Bây giờ ông hãy nắm chặt mảnh giấy và cây viết chì trong bàn tay mặt.
Tôi nghe theo lời. Nhà phù thủy bèn nhắm mắt trong một lúc, có vẻ như chìm đắm trong một cơn thiền định. Tôi chắc y đã xuất thần và đã đi xa lắm. Bỗng nhiên hai mí mắt y dương lên, cặp mắt xám đục của y nhìn ngay mắt tôi, y chậm rãi nói:
- Câu hỏi phải chăng là như thế này: "Cách đây bốn năm, tôi ở đâu?"
- Đúng vậy, tôi ngạc nhiên đáp. Nếu đây là việc đọc tư tưởng của người khác thì quả thật là một việc phi thường!
- Ông hãy mở tờ giấy ra.
Tôi làm theo lời và ngạc nhiên hơn nữa. Một bàn tay vô hình đã viết bằng viết chì cái tên Oxford, tức là thành phố mà tôi ở cách đây bốn năm, ngay phía dưới câu hỏi tôi đã viết. Ngài phù thủy Mahmoud Bey cười một cách hài lòng và nói:Câu trả lời có đúng không?
Tôi lặng thinh vì ngạc nhiên. Việc này ngoài sức tưởng tượng của tôi, làm cho tôi phải yêu cầu y thử lại một lần nữa. Y bằng lòng và trở lại phía cửa sổ, trong khi tôi viết câu hỏi thứ nhì.
Với khoảng trống ngăn cách chúng tôi, tôi không thể nghi ngờ rằng y đọc được chữ tôi viết. Tôi vừa viết vừa nhìn y không chớp mắt, và thấy y chăm chú nhìn xe cộ qua lại ngoài đường. Viết xong tôi xếp mảnh giấy lại và nắm chặt giấy cùng cây viết chì trong bàn tay mặt. Lúc đó nhà phù thủy mới trở lại bàn, ngồi xuống và nhắm mắt định thần.
Sau một lúc, y nói với tôi: Câu hỏi thứ nhì là "Tôi làm chủ bút tờ báo nào cách đây hai năm?"
Lần này y cũng nói đúng như lần trước. Một lần nữa tôi mở tờ giấy ra trên bàn và nhận thấy nét viết chì viết rõ ràng tên tờ báo của tôi cách đây hai năm.
Điều này phải khác hơn là việc đọc tư tưởng. Thôi miên chăng? Cũng không phải, vì tôi hoàn toàn thức tỉnh. Chính tôi lấy giấy và viết chì từ trong túi của tôi ra, chính tôi chọn những câu hỏi và Mahmoud Bey đứng cách xa tôi vài thước trong khi tôi viết. Trong phòng chỉ có hai người, và mọi việc xảy ra giữa lúc thanh thiên bạch nhật.
Tôi không thể hiểu được gì cả. Tôi bèn yêu cầu người phù thủy thử lại một lần thứ ba. Lần này y cũng bằng lòng và cũng thành công y như trước. Sự việc diễn ra trước mắt tôi, không thể chối cãi được. Ít nhất y đã đọc được tư tưởng của tôi, và tôi không tìm ra sự giải thích nào khác hơn. Bằng một phép thuật nào đó, y đã viết trên mảnh giấy mà tôi nắm chặt trong lòng bàn tay, những chữ trả lời đúng đắn các câu hỏi của tôi. Càng ngẫm nghĩ, tôi càng nghiệm thấy sự hiện diện của những sức mạnh vô hình, huyền bí. Đối với một người thường, việc này thật không thể tưởng tượng, nó thách thức lý trí con người và sau cùng tôi đành chịu, không sao hiểu nổi.
Nhà phù thủy lúc đó mới hỏi tôi: Ông có biết có người nào bên Anh Quốc có thể làm được như vậy không?
Tôi phải nhìn nhận là không.
- Ông có vui lòng giải thích những pháp thuật của ông cho tôi nghe được chăng? Tôi nói với cái giọng của một người biết rằng hỏi như vậy, chẳng khác nào muốn ôm lấy mặt trăng.
Vị pháp sư trả lời:
- Có người đã đề nghị trả cho tôi những số tiền khổng lồ nếu tôi chịu nói ra những bí mật của tôi, nhưng hiện giờ tôi chưa có ý định làm như vậy.
Tôi rán vớt vát:
- Ông đã biết rằng tôi không phải là hoàn toàn dốt về những vấn đề thần bí siêu hình?
- Dĩ nhiên rồi. Nếu tôi có dịp sang Âu Châu, ông có thể giúp tôi được nhiều việc. Chừng đó tôi hứa sẽ chỉ cho ông biết những phương pháp của tôi, để ông có thể làm được như tôi vậy, nếu ông muốn.
- Phương pháp đó, học phải mất đến bao lâu?
- Việc ấy tùy từng người. Nếu ông chuyên cần tập luyện và để hết thời giờ vào đó, thì ba tháng cũng đủ để hiểu biết về phần lý thuyết. Nhưng sau đó, ông còn cần phải thực hành trong nhiều năm.
- Ông có thể cho biết nguyên tắc đại cương của phép thuật này về phần lý thuyết, mà không cần giải thích những bí mật của ông chăng?
Mahmoud Bey ngẫm nghĩ trong một lúc về câu hỏi của tôi và trả lời:
- Được, tôi sẵn lòng làm như vậy đối với ông.
Tôi liền móc túi lấy tập vở chép tốc ký với cây viết chì và sẵn sàng ghi chép tài liệu. Nhưng y vừa mỉm cười vừa nói:
- Không, sáng nay tôi mắc bận. Xin ông thứ lỗi cho và mời ông hãy đến sáng mai lúc mười một giờ, chúng ta sẽ tiếp tục.
Ngày hôm sau đúng giờ hẹn, tôi đã có mặt tại phòng của Mahmoud Bey. Y vừa cầm đưa cho tôi một hộp thuốc lá Ai Cập vừa bật lửa mời tôi hút thuốc và nói:
- Thuốc lá này là thổ sản của xứ Ai Cập. Hút rất ngon.Chúng tôi ngồi ngả lưng trên ghế bành và thở vài ngụm khói đầu tiên. Khói mùi thơm dịu, quả thật thuốc lá Ai Cập ngon có tiếng.
- Vậy là bây giờ tôi phải nói về phần lý thuyết, như người Anh các ông vẫn thường nói. Nhưng đối với tôi nó là sự thật. Mahmoud Bey vừa mở lời vừa cười một cách thật tình và cởi mở. Có lẽ ông sẽ lấy làm ngạc nhiên mà nghe nói rằng tôi là một chuyên viên về ngành Nông Nghiệp và có cả bằng cấp kỹ sư canh nông?
Tôi bắt đầu ghi chép bằng tốc ký. Y nói tiếp:
- Điều đó dường như không có đi đôi chút nào với khoa phù thủy, phải chăng?
Tôi ngước mặt nhìn lên và thoáng thấy một nụ cười còn sót lại trên vành môi của y. Y cũng nhìn lại tôi. Tôi nghĩ rằng đây sẽ là một chuyện phóng sự rất lý thú. Y hỏi tôi:
- Nhưng ông là một ký giả, phải chăng ông muốn biết do nhân duyên gì mà tôi trở nên một nhà phù thủy?
Tôi gật đầu tỏ ý biểu đồng tình.
Mahmoud Bey nói:
- Tôi vốn sinh trưởng ở thành phố Le Caire, bên Ai Cập. Thuở nhỏ, tôi là một đứa học trò cũng như mọi đứa trẻ khác, không có gì đặc biệt hay xuất chúng. Nhưng tôi có khiếu về canh nông, và tôi ráng chuyên cần về môn này khi tôi vào trường Đại Học. Một ngày kia, có một ông già dọn đến ở gần nhà tôi. Đó là một ông lão người Do Thái, có cặp chân mày thật rậm, chòm râu dài, vẻ mặt luôn luôn đăm chiêu và ít nói. Ông ta rất dè dặt trong cử chỉ, khiến cho những người láng giềng đều xa lánh và không dám làm quen.
Đối với tôi, điều đó lại làm cho tôi tọc mạch, muốn tìm hiểu về ông ta hơn. Hồi đó tôi còn trẻ và bạo dạn, không nhút nhát. Tôi tìm cơ hội làm quen với ông ta. Lúc đầu còn dè dặt, nhưng lần lần ông trở nên dễ dãi hơn và sau cùng ông mở cửa, để cho tôi bước vào cuộc đời ông. Nhờ đó tôi được biết rằng ông là một người chuyên khảo cứu về khoa Pháp Môn Huyền Bí, và dành trọn thời giờ để học hỏi về các hiện tượng siêu linh, cùng thực hành những pháp thuật lạ lùng.
Ông hãy tưởng tượng xem cuộc đời tôi trước khi đó chỉ là đời của một sinh viên, ngoài giờ học, tôi chỉ biết chơi thể thao, cùng các môn giải trí lành mạnh. Bỗng nhiên từ nay tôi đã gặp một cái gì hoàn toàn khác hẳn, nhưng nó hấp dẫn một cách lạ lùng! Sự huyền bí không làm cho tôi sợ hãi như đối với phần đông các bạn của tôi. Trái lại, nó cho tôi cái thích thú của sự tìm tòi, để khám phá những điều bí hiểm. Tôi yêu cầu ông lão Do Thái hãy dạy tôi học khoa Pháp Môn của ông. Ông ta bằng lòng. Từ khi đó, tôi được quen với một giới người theo đuổi những môn học kỳ lạ. Ông lão Do Thái dắt tôi đến một hội ở Le Caire, chuyên khảo cứu và thực hành các môn Thần Linh Học, Huyền Môn Học và Thông Thiên Học. Nhóm này gồm có các nhà bác học, công chức hoặc trí thức, đến nghe ông lão giảng dạy về các môn học kể trên. Lúc ấy tôi hãy còn là thanh niên mới trưởng thành, nhưng tôi cũng được phép dự các buổi nhóm.
Tôi nghe giảng với tất cả tâm hồn, nghe một cách say sưa như uống cạn những lời giảng của thầy. Những cuộc thí nghiệm lạ lùng làm tôi nhìn xem mê man và vô cùng thích thú. Lẽ tự nhiên, sự học của tôi ở trường Canh Nông bị giảm sút, nhưng vì tôi có khiếu nên tôi vẫn thi đậu.
Tôi chăm chú học một cách say đắm những quyển sách cổ xưa, đầy bụi mốc, của ông lão Do Thái cho mượn, và tập thực hành khoa Pháp Môn. Tôi tiến bộ rất mau về khoa này đến nỗi tôi khám phá được những điều mà chính thầy tôi chưa biết. Không bao lâu tôi được nhìn nhận là một chuyên viên ưu tú về khoa Pháp Môn. Đến lượt tôi làm giảng sư thuyết trình về Pháp Môn Huyền Bí tại Hội Quán và được bầu làm Chủ Tịch Hội này trong mười hai năm. Về sau, tôi xin từ chức để đi du lịch ở một vài xứ và cũng để gầy dựng một sự nghiệp tương lai.
Nói đến đây, Mahmoud Bey ngừng một lát để gạt tàn thuốc. Tôi nhận thấy y có một bàn tay đẹp, một bộ móng tay rất chải chuốt và xén rất kỹ. Tôi nói:
- Đó hẳn là một công trình khó nhọc!
Y mỉm cười nói:
- Đối với tôi, việc ấy rất dễ. Tôi chỉ cần tìm vài vị thân chủ trong số những tay đại phú có việc cần dùng đến những phép thuật của tôi. Trong giới phú hào ở Ấn Độ, có một vài người đã biết tôi. Họ đến đây để hỏi ý kiến tôi về những vấn đề khó khăn thắc mắc của họ; họ muốn khám phá những chuyện mà họ chưa được biết hoặc muốn biết những điều bí hiểm chỉ có thể tìm ra được bằng những phương tiện thần thông. Lẽ dĩ nhiên là tôi tính tiền thù lao rất nặng, mỗi vụ ít nhất là một trăm rupee. Nói thật tình, tôi muốn kiếm rất nhiều tiền, sau đó tôi sẽ giải nghệ và lui về ở dưỡng nhàn nơi một tỉnh nhỏ ở Ai Cập. Tôi sẽ mua một đồn điền lớn để trồng một vườn cam và tiếp tục trở lại nghề canh nông của tôi.
- Ông từ Ai Cập thẳng đường sang đây?
- Không, tôi có ở một thời gian bên xứ Syrie và Palestine sau khi tôi từ giã thủ đô Ai Cập. Những chức viên cảnh sát xứ Syrie có nghe nói về những quyền năng của tôi và thỉnh thoảng có nhờ tôi giúp đỡ họ. Trong nhiều trường hợp, tôi đã giúp họ tìm ra được thủ phạm.
- Ông tìm ra thủ phạm bằng cách nào?
- Tôi tìm ra manh mối nhờ sự giúp đỡ của những tay bộ hạ vô hình, chúng nó diễn lại trong tâm giới của tôi, cho tôi thấy rõ ràng cảnh tượng của vụ án mạng.
Mahmoud Bey lại ngừng một lúc, như để hồi tưởng lại những sự việc đã qua. Tôi kiên nhẫn chờ cho y nói tiếp:
- Chắc ông sẽ cho tôi là một nhà Thần Linh Học, vì tôi kêu gọi sự giúp đỡ của những vong linh? Nhưng tôi cũng là một pháp sư phù thủy, theo ý nghĩa đúng đắn của danh từ này, chứ không phải là một nhà làm trò ảo thuật. Tôi không đòi hỏi gì hơn có bấy nhiêu đó.
Những lời giải thích của y cũng đủ làm cho người ta giật mình, khỏi cần phải hỏi thêm điều gì nữa!- Xin ông cho tôi biết vài điều về những tay bộ hạ vô hình đó.
- À! Những âm binh của tôi! Tôi đã mất ba năm công phu khó nhọc mới làm chủ được chúng nó. Trong cõi vô hình ngoài vòng nhận xét của giác quan chúng ta, có những loại vong linh tốt cũng như xấu. Vài loại vong linh đó là người đã qua bên kia cửa Tử, còn phần nhiều những âm binh của tôi thuộc về loại Djinns nghĩa là những vong linh chính hiệu xuất xứ tự cõi vô hình và không hề có chuyển kiếp làm người. Có những thứ vong linh mà trình độ tiến hóa không cao hơn loài thú, có những loại khác khôn ngoan như loài người. Cũng có những vong linh hung ác, được những bọn phù thủy hạ cấp sử dụng, nhất là những thầy phù thủy chữa bệnh ở Phi Châu. Tự nhiên là tôi không chơi với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, có thể quay ngược lại để giết những người đã sử dụng và sai khiến chúng nó.
- Còn những vong linh người chết mà ông dùng, đó là ai?
- Một trong những vong linh đó là em ruột của tôi, đã chết từ vài năm nay. Nhưng ông nên nhớ rằng tôi không phải là một đồng tử (médium), và không có một vong linh nào nhập xác tôi, hoặc được phép chế ngự tôi bằng bất cứ cách nào. Vong linh em tôi tiếp xúc với tôi bằng cách in vào trong trí tôi những tư tưởng của nó, hoặc gieo vào trong tâm giới của tôi một hình ảnh tương tự. Chính nhờ bằng cách đó mà tôi đọc được những câu hỏi của ông đã viết hôm qua.
- Còn những âm binh Djinns?
- Tôi có tới ba chục đứa để sử dụng và sai khiến. Sau khi đã làm chủ được chúng nó, tôi phải tập cho chúng biết vâng lời tôi, cũng ví như người ta tập cho một đứa trẻ nhỏ biết múa hát chẳng hạn. Tôi cũng còn phải biết tên từ đứa để kêu gọi và sai khiến chúng làm việc. Tôi biết tên chúng nó nhờ học những quyển sách cổ của Thầy tôi truyền lại.
Đến đây, Mahmoud Bey lại đưa hộp thuốc lá cho tôi và nó tiếp:
- Mỗi vong linh đều có một vai trò của nó và không thể đóng vai trò khác. Chẳng hạn, những âm binh đã viết câu trả lời của tôi bằng viết chì trên mảnh giấy trắng không thể giúp tôi đọc được những câu hỏi của ông.
Ông tiếp xúc với chúng bằng cách nào?
- Bằng cách tập trung tư tưởng của tôi đến âm binh nào mà tôi muốn kêu gọi. Nhưng trên thực tế, tôi thường viết tên âm binh đó bằng chữ Ả Rập lên một tờ giấy thì nó liền xuất hiện lập tức.
Đến đây, nhà phù thủy xem đồng hồ tay và đứng dậy kiếu từ:
- Bây giờ, thưa ông, tôi rất tiếc không thể nói nhiều hơn. Ông hiểu vì sao tôi phải giữ kín những phép thuật của tôi. Chúng ta sẽ gặp nhau một ngày khác, nếu Allah muốn!
Nói xong, y vừa mỉm cười để lộ hàm răng trắng như ngà, vừa cúi đầu chào từ biệt. Cuộc phỏng vấn của tôi với nhà phù thủy đã chấm dứt.
Đêm ở Bombay. Tôi đi ngủ trễ, nhưng vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Không khí nặng nề làm tôi khó thở, nó dường như không có dưỡng khí, và nóng nực không thể chịu nổi. Cái quạt máy trên trần chạy hết tốc lực cũng không đủ mát để cho cặp mắt tôi nhắm lại. Sự hô hấp là cả một công việc khó nhọc. Không khí nóng bức đến nỗi mỗi hơi thở hít vào làm cho buồng phổi thiếu kinh nghiệm của tôi dường như bị thương! Bộ quần áo ngủ của tôi thấm mồ hôi ướt sũng, dường như toàn thân tôi đều chảy ra nước! Tệ hơn nữa là bộ óc bị dồn ép của tôi cũng không được chút nghỉ ngơi. Con ma mất ngủ đã bước vào cuộc đời tôi từ đêm nay và sẽ ám ảnh tôi luôn cho đến ngày tôi dẫm chân trên đất Ấn Độ lần cuối cùng. Tôi phải tập quen với khí hậu, phong thổ vùng nhiệt đới, và tôi đã bắt đầu trả bằng một giá rất đắt!
Ánh trăng xuyên qua cửa sổ rọi vào phòng tôi làm cho cảnh vật chung quanh đắm chìm trong một thứ ánh sáng nhạt mờ huyền ảo.
Nằm thao thức trên giường, tôi ngẫm nghĩ về câu chuyện lúc ban ngày với nhà phù thủy Mahmoud Bey, và hiện tượng lạ lùng mà y đã làm cho tôi xem ngày hôm trước. Tôi thử tìm kiếm một sự giải thích nào khác hơn nhưng không có kết quả. Nếu những tay bộ hạ bí mật và vô hình của y quả là có thật, thì việc này làm cho chúng ta nhớ lại thời Trung Cổ, những nhà phù thủy đã từng làm ăn phát đạt ở những thành phố bên Âu Châu, mặc dầu họ thường bị khủng bố bởi Hội Thánh và chánh quyền.
Càng cố tìm ra một sự giải thích, tôi càng đành chịu thất bại, không hiểu ra sao cả. Tại sao Mahmoud Bey lại biểu tôi nắm chặt trong lòng bàn tay, cây viết chì cùng một lượt với tờ giấy? Phải chăng những âm binh của y đã dùng những nguyên tử của chất chì để viết thành câu trả lời?
Tôi ráng nhớ lại những sự việc tương tự đã từng xảy ra trong quá khứ. Phải chăng Marco Polo, nhà thám hiểm trứ danh của thành Venise, đã tường thuật lại trong bộ sách Du Ký của ông, rằng ông đã từng gặp những vị pháp sư Trung Hoa, Mông Cổ và Tây Tạng, có thể viết chữ bằng nét viết chì mà không cầm đến cây viết? Và phải chăng chính những vị pháp sư ấy đã nói cho ông biết rằng pháp thuật lạ lùng này đã từng được biết và thực hành ở các xứ ấy từ bao nhiêu thế kỷ về trước?
Tôi cũng nhớ rằng bà Helena Bloavatsky, nhà sáng lập ra Hội Thông Thiên Học, đã từng làm những hiện tượng giống như thế cách năm mươi năm về trước. Hồi thời kỳ đó, có vài người hội viên ưu tú trong hội ấy đã nhận được những bản thông điệp rất dài của các vị chơn sư do nơi bà làm trung gian. Những người ấy viết trên giấy những tờ giấy có viết những câu hỏi đó. Một điều lạ, là bà Bloavatsky cho biết bà có đi du lịch bên xứ Mông Cổ và Tây Tạng, là những nơi mà nhà thám hiểm Marco Polo đã từng chứng kiến những hiện tượng tương tự như thế. Tuy nhiên, bà Bloavatsky không tuyên bố rằng bà có những quyền năng sai khiến các âm binh như nhà phù thủy Mahmoud Bey. Bà chỉ cho biết rằng những câu trả lời bí mật đó là do những vị Chơn Sư của bà ở bên Tây Tạng, những người có xác phàm như chúng ta, và là những nhà sáng lập thật sự và ẩn tàng của Hội Thông Thiên Học. Những vị này dường như còn cao tay ấn hơn nhà phù thủy Ai Cập về hiện tượng nói trên, vì các Ngài đã phóng ra những hàng chữ viết như thế từ bên xứ Tây Tạng, cách xa nơi nhận đến hàng ngàn dặm đường. Hồi đó người ta đã từng nghị luận sôi nổi về tính cách chân thật của hiện tượng này, và về sự hiện diện thật sự của các đấng Chơn Sư.
Tôi không có ý định nêu ra vấn đề này, vì đó không phải là việc của tôi, hơn nữa người đàn bà kỳ diệu đó đã bước qua thế giới khác mà có lẽ bà ta thấy sung sướng dễ chịu hơn là ở cõi hạ giới này. Nhưng tôi không thể nào phủ nhận những gì tôi đã thấy trước mắt, hoặc nghi ngờ về tính cách chân thật của sự việc đã xảy ra, mặc dù tôi không thể giải thích nổi.
Không còn nghi ngờ gì nữa, Mahmoud Bey quả thật là một nhà phù thủy còn sót lại ở thế kỷ hai mươi này. Gặp gỡ được y khi mới vừa đến đất Ấn Độ, đối với tôi nó dường như là một điềm lành, và hứa hẹn với tôi nhiều sự khám phá lạ lùng hơn nữa về sau này. Dầu sao tôi cũng đã trải qua một bước kinh nghiệm lý thú đầu tiên, và ghi nhận những tài liệu quý báu trên những trang giấy hãy còn mới của tập nhật ký của tôi.
#73
Gửi vào 09/06/2011 - 01:32
NGƯỜI ĐẠO SĨ TRÊN BỜ SÔNG ADYAR
Phần Ba
Những tuần lễ sau đó, tôi vượt qua vùng cao nguyên Décan để di xuống miền Nam. Tôi viếng nhiều nơi danh lam thắng cảnh, nhưng không gặp một nhân vật nào đáng kể. Tuy nhiên, một mãnh lực huyền bí mà tôi nhắm mắt tuân theo không suy nghĩ, thúc giục tôi tiến bước. Ngày nọ, tôi ngồi trên chuyến xe lửa đêm đi xuống Madras, và không tìm thấy giấc ngủ, tôi bèn ngồi dậy để thử kiểm điểm lại những kết quả đã thu lượm được. Tôi phải nhìn nhận rằng kết quả rất mỏng manh, và tôi chưa có dịp gặp gỡ một người đạo sĩ nào. Còn nói về hy vọng gặp một vị Chơn Sư, thì tôi đành tạm thời gác lại một bên.
Trái lại tôi đã gặp phải bao nhiêu những sự dị đoan mê tín và những tập quán cổ xưa lỗi thời. Bây giờ tôi mới hiểu những nụ cười nghi hoặc và những lời cảnh cáo của các bạn tôi ở Bombay. Lần đầu tiên tôi đã nhận thức được sự khó khăn của vấn đề tôi đang theo đuổi.
Nói về những tu sĩ sùng tín và đạo hạnh, thì ở xứ này không thiếu gì; họ gồm một thành phần đông đảo không thể tưởng tượng. Nhưng họ có đáng để cho mình tốn công nhọc sức đi tìm hay chăng thì đó lại là một việc khác. Bạn đi ngang qua một ngôi đền cổ kính thâm nghiêm, bề ngoài có vẻ rất hấp dẫn và đầy hứa hẹn, bạn bước vào trong với một tấm lòng sùng kính thiêng liêng và tiến đến gần nơi Thánh điện. Bạn nhìn vào trong và bạn thấy những gì? Những người hành lễ ngây ngô vừa cầu nguyện vừa rung một cái chuông nhỏ để làm cho những lời cầu xin của họ được thấu đến tai của những vị Thần trong đền!
Thành phố Madras với những phong cảnh tưng bừng nhộn nhịp và màu sắc địa phương rực rỡ lạ mắt làm cho tôi rất thích thú. Tôi tạm trú ở một vùng ngoại ô cách thành phố hai dặm, nơi đây tôi sẽ được gần gũi với người bổn xứ hơn là ở khu sang trọng của người Âu.
Tôi đi theo con đường cát, nhà cửa hai bên đường đều quét vôi trắng, trước mỗi nhà đều có hàng ba để trống cho mát. Chung quanh vùng có cây cối sầm uất, cảnh vật có vẻ ưa nhìn. Cách đó chừng nửa dặm, con sông Adyar uốn quanh, dòng nước chảy chậm chạp lờ đờ. Hai bên bờ sông có những vườn dừa che bóng mát rượi. Tôi định lúc rảnh rang, sẽ đi bách bộ dạo chơi dưới bóng những hàng dừa, hoặc ngồi ngắm cảnh trên bờ sông. Con sông Adyar chảy về ngoại ô phía nam thành phố Madras, trước khi đổ ra vịnh Coromandel.
Một buổi sớm mai, tôi đi dạo trên bờ sông với một người thanh niên Ấn mà tôi mới làm quen và tôi đã có dịp thổ lộ với y về mục đích cuộc sưu tầm của tôi. Thình lình y nắm lấy tay tôi và nói:
- Kìa! Ông hãy nhìn xem: Người đằng kia đang đi về phía chúng mình, là một người Yogi. Có lẽ ông sẽ muốn biết về người ấy, nhưng có điều rất tiếc là khó mà làm quen với y.
- Tại sao vậy?
- Tôi biết chỗ y ở, nhưng tôi chưa từng thấy ai dè dặt và kín đáo như người này.
Người lạ mặt đã tiến đến gần chúng tôi. Y có cái vóc vạc cao lớn lực lưỡng, và trạc độ ba mươi lăm tuổi. Gương mặt y có điều làm cho tôi chú ý nhất, là những nét đặc biệt của giống dân da đen: Nước da rất sậm, mũi tệ, cặp môi dầy, vai rộng. Tóc y dài và cột lại thành một búi tóc nhỏ trên đỉnh đầu. Y đeo hai cái khoen lớn khác thường dưới hai trái tai. Y vận một cái chăn quấn chung quanh thân mình, một đầu thì vắt lên vai trái, hai vai để trần và đi chân không. Y đi ngang qua chúng tôi với những bước đi chậm rãi, mắt nhìn xuống đất như tìm một vật gì, và dường như không nhìn thấy chúng tôi. Đằng sau đôi mắt đó, hẳn là có một tâm hồn sáng suốt linh hoạt, và tôi tự hỏi rằng trong cơn suy tư trầm lặng và đơn chiếc của y lúc ấy, không biết y đang suy nghĩ về vấn đề gì?
Tôi bỗng có ý muốn phá tan bức rào ngăn cách giữa tôi và con người bí hiểm đó. Lúc ấy y đã đi qua khỏi chỗ chúng tôi đứng. Tôi bèn đề nghị:
- Tôi muốn nói chuyện với y. Chúng ta hãy quay trở lại.
Người thanh niên bèn ngăn tôi:
- Ông sẽ mất thời giờ vô ích.
- Hãy thử xem, biết đâu.
Người bạn đi đường với tôi lại can ngăn tôi lần nữa:
- Người này sống ẩn dật và cách biệt đến nỗi không ai biết gì cả về cuộc đời của y. Y tránh xa tất cả mọi người, thậm chí đến cả những người láng giềng. Tốt hơn, chúng ta đừng nên làm phiền rộn y.
Nhưng tôi đã quay trở lại, và người bạn trẻ của tôi đành phải đi theo tôi. Không bao lâu, chúng tôi đã theo gần kịp người lạ mặt. Y vẫn tiến bước mà không tỏ vẻ gì biết rằng có chúng tôi đi theo; chúng tôi bèn cố gắng vượt lên. Tôi bảo người thanh niên:
- Anh hãy nói là tôi muốn nói chuyện với y.
Người bạn trẻ của tôi do dự và lắc đầu từ chối:
- Tôi không dám.
Không muốn bỏ qua một cơ hội tốt, tôi bèn đánh bạo làm quen. Tôi không còn cách nào khác, thôi đành bất chấp những luật lệ xã giao thông thường. Tôi bèn đứng chận đường người Yogi và thốt ra một câu ngắn ngủi rút trong số vốn sinh ngữ Ấn Độ nghèo nàn của tôi. Người lạ mặt ngước mắt nhìn lên, miệng hơi nở một nụ cười, nhưng lại lắc đầu tỏ vẻ không muốn bị phiền nhiễu. Người bạn trẻ của tôi thấy rằng đã đến lúc y phải can thiệp.
Bằng một giọng do dự, y nói vài lời xin lỗi bằng tiếng Tamoul. Người Yogi không đáp lại, nét mặt y trở nên cứng rắn, cặp mắt lạnh lùng cách biệt. Người thanh niên luống cuống nhìn tôi, sự im lặng càng trở nên nặng nề và khó chịu. Làm sao thoát ra khỏi tình trạng đó? Trong cơn bối rối, tôi mới biết rằng thật không phải dễ gì mà làm cho một người ẩn sĩ mở miệng để nói chuyện với mình. Những người ấy hẳn là không thích bị ai phỏng vấn, đừng nói chi là tiếp đón một người ngoại chủng tọc mạch muốn biết đời sống nội tâm của mình. Điều mà họ càng không thích hơn nữa, là phải nói chuyện với một người Anh, tức là hạng người mà họ đinh ninh rằng không hề có một chút thiện cảm hoặc hiểu biết gì về những điều huyền vi và tế nhị của pháp môn Yoga.
Nhưng ý nghĩa đó bị xô đuổi bởi một ý nghĩa khác. Tôi cảm thấy rõ rệt rằng mình đang là cái đích đặt dưới sự dò xét tỉ mỉ và sâu sắc của người Yogi. Tôi chắc chắn rằng bên trong cái vẻ mặt thờ ơ lãnh đạm của y, y đang để ý thăm dò những ý nghĩ thầm kín nhất của tôi. Hay là tôi nghĩ lầm? Nhưng tôi không thể gạt bỏ cái cảm giác khó chịu đó: Tôi đang là một vật khám nghiệm dưới một ống kính hiển vi! Người thanh niên lấy làm bực mình và ngầm lấy cùi chỏ thúc vào hông tôi, như muốn nói rằng ta hãy nên lui bước. Y làm tôi khó chịu, và chỉ độ một phút nữa là tôi cũng đành nhượng bộ rút lui và nhìn nhận sự thất bại của mình.Ngay khi đó, người Yogi cử động; y đưa tay chỉ một gốc dừa gần bên và ra hiệu bảo chúng tôi cùng ngồi dưới bóng cây. Y ngồi sau hết và nói vài lời bằng tiếng Tamoul với người thanh niên. Tôi nhận xét giọng nói của y trong và ấm gần như tiếng nhạc.
Người bạn trẻ của tôi dịch lại:
- Đạo sĩ nói rằng người sẵn lòng tiếp chuyện với ông.
Tôi mới hỏi quý danh đạo sĩ và được biết y có một cái tên rất dài. Tôi bèn gọi y là Brama cho tiện và dễ nhớ. Tôi nói với người thanh niên:
- Anh hãy nói dùm là tôi rất chú trọng đến khoa pháp môn Yoga và tôi muốn được hiểu biết ít nhiều về khoa ấy.
Người Yogi gật đầu mỉm cười:
- À! Tôi cũng đoán như vậy. Vậy ông muốn biết điều chi, xin ông cứ hỏi.
- Đạo sĩ tu luyện theo pháp môn nào?
- Tôi tu theo pháp môn Hatha Yoga, tức là phép chủ trị xác thân. Đó là pháp môn khó nhất. Thể xác con người và nhất là bộ máy hô hấp phải được tập luyện và kiểm chế như những giống lừa! Sau đó, sự chủ trị thần kinh và cân não sẽ dễ dàng như trò chơi trẻ con.
- Tu theo pháp môn này đem đến những ích lợi gì?
Cặp mắt mơ màng nhìn về cõi xa xăm, Brama đáp:
- Sức khỏe, ý chí và sống lâu, đó là mới kể sơ vài điều. Người Yogi tu luyện đúng phép sẽ làm chủ được xác thân và làm cho nó trở nên cứng rắn như sắt. Sự đau đớn không còn phạm đến nó được nữa. Tôi biết một người Yogi chịu đựng một cuộc giải phẫu mà không dùng đến thuốc mê: Y chịu mổ tới cùng mà không rên một tiếng. Người Yogi cũng có thể phơi mình trần dưới một tiết trời lạnh lẽo nhất mà không sao cả.
Tôi lấy sổ ra ghi chép, và câu chuyện bắt đầu bước qua một giai đoạn thú vị. Chữ tốc ký của tôi làm Brama mỉm cười, nhưng y không ngăn cản việc ấy.
- Đạo sĩ có thể cho biết thêm vài chi tiết?
- Được, nếu ông muốn. Thầy tôi đã từng sống ở chỗ lộ thiên trên dãy Hy Mã Lạp Sơn đầy tuyết phủ mà không có mặc gì khác hơn một manh áo mỏng. Người có thể nằm suốt nhiều giờ liên tiếp ở một nơi mà nước đông đặc lại trong tức khắc, nhưng vẫn không hề chi cả. Đó là cái mãnh lực nhiệm mầu của pháp môn Yoga.
- Và đạo sĩ là đệ tử của Ngài?
- Phải, nhưng tôi cũng chưa đạt tới mức cao tột, mặc dù tôi đã công phu cố gắng luyện tập không ngừng trong suốt mười hai năm.
- Nhưng chắc đạo sĩ cũng đã đạt tới một trình độ nào rồi, và có được những quyền năng mà người ta gọi là phi thường?
Brama gật đầu nhưng không nói gì. Y làm cho tôi còn tò mò hơn nữa, tôi bèn hỏi:
- Xin ông có thể cho biết trong trường hợp nào ông đã trở nên một người Yogi?
Im lặng. Cả ba người chúng tôi đều ngồi dưới bóng cây dựa bờ sông. Trên lùm cây bên kia sông, tiếng bầy quạ kêu vang pha lẫn với tiếng kêu chí chóe của vài con khỉ nhảy nhót trên cành.
Bỗng nhiên, Brama nói "Xin vâng." Tôi đoán chắc y hiểu rằng những câu hỏi của tôi có một lý do sâu xa hơn là một sự tò mò của nhà học giả. Y choàng lại cái khăn vắt trên vai, đôi mắt mơ màng nhìn về phía bên kia sông và bắt đầu nói:
- Thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ ít nói và thích sống cô đơn. Tôi không thấy gì là vui thú trong những trò chơi của các bạn tôi, vì thế tôi luôn luôn tránh họ và thích đi dạo một mình ở những nơi vườn cây hay ngoài đồng vắng. Ít người biết được những gì đang diễn ra trong tâm hồn kín đáo của một đứa trẻ, tôi sống cách biệt với mọi người và tôi cảm thấy rằng đời không có gì vui. Vào năm tôi mười hai tuổi, tình cờ tôi nghe lóm được một câu chuyện giữa những người lớn, họ nói về vấn đề Yoga. Đó là lần đầu tiên tôi nghe nói đến danh từ đó, và những gì tôi nghe trong câu chuyện cũng đủ làm cho tôi tò mò muốn biết thêm. Tôi chất vấn nhiều người và góp nhặt được vài quyển sách nói về vấn đề Yoga, trong đó tôi đọc được nhiều điều thú vị về các nhà đạo sĩ Yoga. Cũng như con ngựa rong ruỗi trên sa mạc mong mỏi tìm đến ngọn suối mát ở tận chân trời, trí óc tôi khao khát sự hiểu biết, nhưng tôi chỉ có một mình và không làm sao tiến hơn được nữa. Một hôm, tình cờ tôi lật một quyển sách và thấy trong đó có câu: "Muốn tiến bộ trên đường tu luyệt pháp môn Yoga, phải nhờ có sự chỉ dẫn của một bậc danh sư." Những lời này làm cho tâm hồn tôi thắc mắc băn khoăn.
"Một danh sư! Tôi hiểu ngay rằng muốn tìm được Thầy, không có cách nào khác hơn là bỏ nhà ra đi ngao du thiên hạ. Tự nhiên là tôi không thể trông cậy nơi sự cho phép của cha mẹ tôi. Không biết phải làm thế nào, tôi bèn lén lút luyện thử một vài phép hô hấp mà tôi đã góp nhặt được những tài liệu trong các sách. Phép luyện này, thay vì có ích, lại làm hại cho tôi. Tôi không biết rằng phép khí công rất nguy hiểm nếu nó không có sự dìu dắt của một bậc danh sư. Nhưng vì tôi quá nóng ruột nên không thể chờ đợi mãi được.
--------------------------------------------------------------------------------
"Sau vài năm tập luyện lén lút một mình, cái hậu quả bất ngờ đưa đến là tôi bị đứt một gân máu trên đỉnh đầu, dường như đó là chỗ chịu đựng yếu nhất. Tôi cảm thấy toàn thân tôi giá lạnh và sức yếu dần, máu chảy lênh láng ở chỗ vết thương. Tôi tưởng rằng tôi sắp chết. Hai giờ sau đó, tôi nhìn thấy một linh ảnh lạ lùng, hình như tôi thấy gương mặt đạo mạo của một vị đạo sĩ già hiện ra và nói với tôi:
- Con thấy chăng, phép luyện ngăn cấm đối với kẻ phàm tục, có thể đưa con đến một tình trạng nguy hiểm là dường nào! Con hãy nhớ lấy bài học này.
"Cái hình ảnh biến mất, nhưng lạ thay, từ đó trở đi tôi cảm thấy khá hơn và không bao lâu sức khỏe của tôi hoàn toàn bình phục trở lại. Nhưng này ông hãy xem, cái thẹo hãy còn đây.
Brama cúi đầu đưa cho chúng tôi xem một cái thẹo nhỏ hiện ra rõ ràng trên đỉnh đầu. Y nói tiếp:
"Sau khi tai nạn đó xảy ra, tôi bèn ngưng việc luyện hơi thở và chờ đợi để cho thời gian làm giảm bớt những sự ràng buộc gia đình. Khi tôi được tự do, tôi liền từ giã gia đình và đi châu du khắp nơi để tìm Thầy. Tôi biết rằng phương pháp hay nhất để thử người Thầy mình chọn, là hãy sống chung với người ấy trong vài tháng. Tôi đã chọn hết vài người, và khi thì ở chung với họ, khi thì nhà, nhưng tôi luôn luôn bị thất vọng. Những vị ấy đều là những vị sư trưởng, cầm đầu các tu viện hoặc đạo viện, nhưng không có vị nào làm cho tôi thỏa mãn. Về phần lý thuyết thì có rất nhiều, nhưng còn về kinh nghiệm riêng của họ thì chẳng có gì cả. Phần nhiều chỉ lặp lại những điều đã có trong sách, còn về việc dìu dắt tôi trên phương diện thực hành, thì họ không làm được. Tôi đã biết tất cả mười người Thầy, nhưng không thối chí, sự sốt sắng của tuổi trẻ lại càng bồng bột thêm, và những sự thất vọng liên tiếp đó càng nung nấu thêm lòng cương quyết của tôi.
"Tôi đã đến tuổi trưởng thành. Tôi bèn quyết định ly khai nhà cửa gia đình, dứt bỏ cuộc đời thế gian và đi lưu lạc giang hồ để tìm Thầy. Tôi bước chân ra đi, phiêu lưu. Một ngày kia, tôi đến một làng nọ thuộc tỉnh Tanjore. Tôi bước xuống sông để tắm gội, xong rồi tôi mới đi dạo chơi trên bờ sông. Tôi thấy một ngôi đền nhỏ xây bằng đá màu đỏ. Hiếu kỳ, tôi nhìn vào trong và lấy làm ngạc nhiên mà thấy có một số người ngồi vây quanh một người khác mình trần. Họ nhìn người này với một sự kính mến vô cùng: Quả thật, trên gương mặt người này có một cái gì vừa huyền bí vừa tôn nghiêm. Tôi đứng ở trên thềm và nhìn xem với một sự say sưa, chăm chú. Tôi nhận thấy rằng cả bọn đang thụ giáo người này về một môn học nào đó, và tôi có cái linh cảm rằng người này là một vị đạo sĩ chân chính, một bậc danh sư mà tôi vẫn tìm kiếm chớ không phải là một học giả nhồi sọ đầy những lý thuyết.
"Bỗng nhiên, bốn mắt chúng tôi gặp nhau. Tuân theo một sự thúc giục thầm kín bên trong, tôi bước vào trong đền. Vị tôn sư tiếp đón tôi một cách niềm nở, mời tôi ngồi và nói:
- Con đây rồi! Đã sáu tháng nay, ta được lịnh thâu nhận con làm đệ tử.
"Thật là vừa đúng sáu tháng kể từ ngày tôi bước chân ra đi. Và tôi đã gặp Thầy tôi trong trường hợp đó.
"Từ đó trở đi, tôi theo Thầy tôi khắp mọi nơi. Có đôi khi, người xuống tỉnh thành, còn lúc thường thì Người ở tận trong rừng thẳm. Tôi bắt đầu thu hoạch được những kết quả tiến bộ mau chóng về khoa Yoga. Thầy tôi là một vị Yogi thượng thẳng về pháp môn Hatha Yoga, tức là pháp môn tinh luyện và chủ trị thân xác. Khoa Yoga có nhiều môn phái khác nhau về phương pháp thực hành. Môn phái của tôi chuyên lo tinh luyện xác thân trước nhất, rồi sau mới tinh luyện về tinh thần. Phép luyện khí công, tức luyện hơi thở, cũng thuộc về pháp môn này. Có một lần, tôi phải nhịn đói suốt bốn mươi ngày liên tiếp để chuẩn bị một giai đoạn công phu đặc biệt và nhận lãnh một vài quyền năng của pháp môn Yoga.
"Một hôm Thầy tôi gọi tôi lại gần và nói:
- Một cuộc đời xuất gia và hoàn toàn thoát tục chưa phải là của con. Con hãy trở lại thế gian và sống một cuộc đời bình thường. Con sẽ lập gia thất và sinh một đứa con. Đến năm con ba mươi chín tuổi, con sẽ được thấy nhiều ấn chứng và khi đó sẽ được tự do rút lui ra ngoài vùng thế tục. Chừng đó con sẽ trở lại nơi rừng thẳm để tu luyện cho đến khi công phu viên mãn. Thầy sẽ chờ đợi, con có thể trở lại với Thầy.
Tôi vâng lời Thầy dạy và trở về quê hương. Tôi cưới một người vợ hiền và có một đứa con đúng như lời Thầy tôi đã nói trước. Sau đó ít lâu, vợ tôi qua đời, cha mẹ tôi cũng đã khuất núi, và tôi lại từ giã quê hương một lần nữa để đến ở nơi đây, tại nhà một bà lão góa bụa, người đồng hương với tôi và đã từng biết tôi từ khi tôi còn nhỏ. Bà lão này coi sóc nhà cửa bếp núc cho tôi, và vì tuổi già làm cho bà trở nên ít oi và kín đáo, nên bà để cho tôi bình yên sống cuộc đời ẩn dật mà môn phái của tôi đã chỉ định."
Brama nói dứt lời, tôi cũng không hỏi thêm gì nữa. Sau vài phút im lặng, y đứng dậy và bước chậm rãi trở về nhà. Tôi và người bạn trẻ cùng đi theo sau. Chúng tôi đi qua một đám rừng dừa và những chòm cây cối sầm uất. Nước sông Adyar phản chiếu ánh nắng sáng ngời. Một hay hai giờ trôi qua trong khi chúng tôi đi dạo một cách thú vị theo bờ sông. Không bao lâu, chúng tôi đã về đến làng. Một ngọn gió nhẹ từ bờ biển thổi vào mát rượi. Đến một bên đường, một bầy lợn đi ngang qua, một bà lão chăn lợn cầm cái gậy phát những ngọn roi tre vào những con đi lạc bầy.
Brama quay lại để từ giã chúng tôi. Tôi tỏ ý muốn gặp y lại lần nữa. Y gật đầu bằng lòng. Tôi bèn mời y lại nhà tôi chơi. Người bạn trẻ của tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy người đạo sĩ hẹn đến chơi nhà tôi ngay chiều hôm đó.
Chiều đến, tôi ngồi đợi Brama và sắp đặt sẵn trong trí những câu hỏi mà tôi sẽ đưa cho y. Những điều y thuật lại về cuộc đời của y làm tôi thích thú và muốn tìm hiểu thêm về con người bí mật đó. Vừa nghe nói có y đến, tôi liền bước ra hàng ba và chắp tay chào theo kiểu Ấn Độ để tỏ thiện chí của tôi đối với y và cũng bởi vì tôi muốn tôn trọng những phong tục bổn xứ mỗi khi tôi có thể.
Brama đi theo tôi vào phòng khách và ngồi bệt xuống sàn gạch, hai chân xếp bằng. Tôi mời y ngồi trên divan, nhưng y từ chối và thích ngồi dưới sàn gạch hơn. Tôi tỏ lời cám ơn y về cuộc thăm viếng và mời y dùng một ít bánh trái. Y lẳng lặng ngồi ăn. Khi y đã dùng xong trà bánh, tôi thấy có bổn phận nói qua đôi chút về phần tôi, để cho y biết lý do vì sao tôi đột ngột bước vào cuộc đời của y. Trong vài câu vắn tắt, tôi thổ lộ với y về những hoàn cảnh và những sức mạnh huyền bí đã dẫn dắt tôi đến xứ Ấn Độ. Brama im lặng ngồi nghe tôi nói đến khi dứt câu chuyện, y mới bước đến gần và thân mật đặt một bàn tay trên vai tôi. Y nói:
- Tôi rất thích thú được biết rằng ở Tây phương có những người như bạn. Bạn sẽ không mất thời giờ và sẽ học hỏi được nhiều. Ngày đầu tiên tôi được quen biết bạn, ấy là ngày sung sướng nhất của tôi. Bạn cứ hỏi điều gì bạn muốn biết, tôi sẽ vui lòng giải đáp nếu tôi có thể.
Những lời này có vẻ rất hứa hẹn. Tôi bèn hỏi y về lịch sử cùng tính cách và mục đích của pháp môn Hatha Yoga. Y đáp:
- Có ai biết được pháp môn này bắt nguồn từ bao giờ trong lịch sử? Những kinh sách Ấn Độ nói rằng pháp môn này trước hết do thần Shiva truyền dạy cho nhà Hiền Triết Gheranda. Vị này mới truyền lại cho nhà Hiền Triết Marteyanda. Đến lượt vị sau này truyền dạy lại cho các đệ tử và từ đó nó được lưu truyền cho hậu thế trải qua hằng bao nhiêu ngàn năm. Nó có mấy ngàn năm lịch sử, chúng tôi không được biết rõ và cũng không cần biết chi điều đó, mặc dầu chúng tôi nghĩ rằng trong tất cả các môn Yoga, thì môn này là mới nhất. Thật vậy, vào thời kỳ cổ xưa đó, nhân loại cũng đã rơi vào một tình trạng sa đọa đến nỗi các đấng Thần Minh phải đưa ra cho họ một phương pháp giải thoát tâm linh mà sự thực hành lại áp dụng trước hết cho thể xác. Pháp môn này chỉ được một số ít môn đồ hiểu rõ và thực hành đúng đắn, còn phần đông người phàm tục thì hiểu sai lầm. Và vì những môn đồ chân chính càng ngày càng hiếm, nên những sự tập luyện trái phép, những lối tu khổ hạnh điên rồ, lố bịch, thường bị gán một cách sai lầm cho pháp môn Hatha Yoga mà không ai đưa ra lời đính chánh nào. Bạn hãy đi lên tận Bénarès, bạn sẽ thấy có người nằm suốt ngày đêm trên bàn chông sắt nhọn, hoặc có người đưa một cánh tay lên trời suốt nhiều năm cho đến khi cánh tay chết mất một nửa và móng tay mọc dài đến năm mươi phân tây. Người ta nói rằng những người này thực hành pháp môn Hatha Yoga, nhưng sự thật không phải vậy. Trái lại họ còn làm hoen ố danh dự của pháp môn ấy. Mục đích của pháp môn này không phải là hủy hoại xác thân để làm những trò lạ mắt cho người đời khâm phục và ngạc nhiên. Những người khổ hạnh kể trên chỉ là những kẻ ngu dốt không biết gì về mục đích của pháp môn Yoga. Họ chỉ là những kẻ bày trò lạ mắt ở giữa chợ để kiếm ăn, chỉ có thế thôi.
- Ta có nên trách họ chăng? Nếu những nhà đạo sĩ chân tu càng ngày càng hiếm và dấu kín những bí pháp chân truyền của họ thì những sự lạm dụng kể trên làm sao tránh khỏi?
Brama nhún vai đáp:
- Một ông vua có khi nào phơi bày những ngọc ngà châu báu trước mắt mọi người? Không, người ta đem cất những của quý ấy trong kho tàng và dấu kín trong chốn thâm cung. Còn pháp môn Yoga thì có kho tàng nào quý cho bằng? Chúng tôi có nên đem ra phơi bày ở giữa chợ hay chăng? Vậy kẻ nào muốn biết hãy tự ra công tìm lấy. Đó là phương tiện duy nhất. Những kinh sách Ấn Độ luôn luôn dặn dò chân truyền bí pháp cho những đệ tử thâm niên đã từng chịu nhiều thử thách. Khoa Yoga của môn phái chúng tôi là môn bí mật nhất, bởi vì nó đầy sự nguy hiểm không những đối với môn đồ, mà còn đối với kẻ phàm tục. Vậy bạn tưởng rằng tôi được phép tiết lộ cho bạn những điều khác hơn là những nguyên tắc sơ đẳng hay chăng, và dẫu cho những điều sơ đẳng này, nói ra mà không đắn đo cẩn thận hay sao?
- Tôi hiểu.
- Tuy nhiên, có một phần của khoá pháp môn Yoga mà tôi có thể nói cho bạn nghe. Đó là phương pháp luyện ý chí trở nên mạnh mẽ và thân thể được cường tráng để có thể bước qua những giai đoạn khó khăn trên đường Đạo.
- À! Đó là điều mà bên Âu Tây có nhiều người muốn biết.
- Môn phái chúng tôi có gần hai mươi phép tập gọi là tư thế, tiếng Phạn gọi là Asama, để tăng cường những bộ phận và cơ quan trong thân thể, và để chữa hay ngăn ngừa một vài chứng bịnh. Một tư thế đó ảnh hưởng đến những bí huyệt trong bộ Thần Kinh Hệ, những bí huyệt này lại vang dội đến những bộ phận hay cơ quan suy yếu và giúp cho nó được hoạt động mạnh mẽ trở lại.
- Môn phái ấy có dùng thuốc men để chữa bệnh chăng?
- Nếu cần, chúng tôi cũng dùng một vài loại cỏ thuốc, và hái những loại cỏ ấy vào tuần trăng lên. Chúng tôi có bốn phương pháp để giữ cho thân thể được luôn luôn khỏe mạnh cường tráng. Trước hết, là phép nghỉ ngơi để làm xoa dịu bộ thần kinh và cân não. Kế đó là phép tĩnh tọa. Thứ ba là phép tẩy uế thân thể bằng những phương pháp mà có lẽ các anh cho là kỳ dị, nhưng nó có hiệu lực rất hay. Sau cùng là phép khí công, tức là phép luyện và kiểm soát hơi thở.
Tôi yêu cầu y biểu diễn cho xem một vài phép tập luyện, Brama mỉm cười và nói:
- Những điều tôi sẽ chỉ cho anh đây không có gì là bí mật. Chúng ta hãy bắt đầu bằng phép nghỉ ngơi. Điều này, chúng ta có thể học của con mèo. Thầy tôi để con mèo ngồi giữa các đệ tử và chỉ cho họ thấy thế ngồi ưu tú của nó khi nó ngồi yên không chút cử động. Người dạy họ hãy quan sát một cách tỉ mỉ khi nó ngồi ngủ trưa hoặc ngồi rình một bên lỗ chuột. Người chỉ cho họ thấy rằng con mèo biết cách dưỡng sức, nó biết bảo tồn sinh lực, không để tiêu hao, phí phạm một chút sinh lực nào. Anh tưởng rằng anh biết cách nghỉ ngơi, nhưng sự thật anh không biết. Anh ngồi trên ghế một lát, rồi anh ngả về bên nọ, day qua bên kia, hoặc tréo chân chữ ngũ, rồi lại duỗi thẳng hai chân ra. Mặc dầu anh vẫn ngồi trên ghế, và bề ngoài trông anh có vẻ thoải mái, nghỉ ngơi, nhưng thật ra, trí óc anh nghĩ ngợi được không? Phải chăng đó chỉ là một hình thức hoạt động âm thầm?
- Đó là một điều mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến.
- Loài vật biết phép nghỉ ngơi dưỡng sức, nhưng ít người biết được phép này. Đó là bởi vì loài vật do bản năng dìu dắt, mà bản năng chính là tiếng nói của Tự Nhiên, còn con người thì được hướng dẫn bằng lý trí. Nhưng vì con người phần nhiều không kiểm soát được bộ óc của họ, nên hậu quả là bộ thần kinh và cơ thể đều bị ảnh hưởng, và bởi đó họ không hề biết nghỉ ngơi một cách thật sự.
- Bây giờ phải làm sao?
Việc trước tiên mà anh phải tập, không khác gì hơn là ngồi xếp bằng theo kiểu Đông phương. Ghế bành tuy rất hữu ích cho khí hậu lạnh lẽo ở các xứ miền Bắc, nhưng anh phải tập ngồi không có ghế trong thời gian luyện tập để chuẩn bị nhập môn vào khoa Yoga. Phép ngồi của chúng tôi thật ra là thoải mái nhất. Sau khi làm việc hay đi bộ, nó đem lại sự nghỉ ngơi, yên ổn cho cả toàn thân. Phương pháp dễ nhất để tập ngồi là trải chiếu dưới đất rồi ngồi lên, xếp hai chân vào và tréo hai bàn chân. Không nên có cảm giác quá gò bó hay căng thẳng, và anh đừng co bắp thịt lại.
Như vậy, phép tập trước tiên là hãy ngồi như thế và giữ cho toàn thân yên lặng trừ ra hơi thở nhẹ và đều. Và khi đã giữ được thế ngồi đó, anh hãy để cho trong lòng yên tĩnh, vắng lặng, không bận rộn nghĩ ngợi gì đến những việc trần gian, phàm tục. Hãy gom tư tưởng của anh vào một vật gì đẹp đẽ mỹ lệ, như một bức tranh đẹp hay một cái hoa.
Tôi bỏ ghế bành và ngồi xuống đất, đối diện với Brama, theo như phép ngồi mà y vừa miêu tả.
- À! Đúng đấy, anh ngồi được dễ dàng, Brama nói, nhưng có nhiều người Âu không ngồi được vì họ chưa quen. Anh có một điểm phải sửa lại: Hãy giữ cho xương sống thẳng, đừng cong. Bây giờ để tôi chỉ cho anh xem một thế ngồi khác.
Brama bèn đưa hai đầu gối lên tới tận cằm, nhưng vẫn giữ hai bàn chân tréo. Thế ngồi này làm cho hai bàn chân y tách rời khỏi thân mình. Y dùng hai bàn tay ôm chặt quanh hai đầu gối. Y nói:
- Thế ngồi này có vẻ giản dị quá nhỉ?
- Trong phép nghỉ ngơi, chúng tôi không cần đến những gì khó khăn phiền phức. Thật vậy, những thế dễ dàng nhất lại đem đến những kết quả rất tốt. Anh hãy nằm ngửa trên lưng, hai chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai bàn tay mở ra và đặt ở hai bên thân mình. Buông xuôi cả các bắp thịt, nhắm mắt lại và để cho sức mạnh của toàn thân đè lên sàn gạch. Anh không thể tập kiểu nằm này trên giường một cách đúng phép, vì cần phải giữ cho xương sống hoàn toàn ngay thẳng. Hãy dùng một cái chăn trải trên sàn gạch. Trong phép nằm nghỉ này, những mãnh lực hàn gắn của thiên nhiên sẽ giúp cho anh tu bổ sinh lực. Chúng tôi gọi nó là thế nằm của xác chết. Khi đã quen thực hành, anh có thể tập nghỉ ngơi trong những tư thế này suốt hàng giờ nếu anh muốn. Những tư thế đó làm cho các thớ thịt khỏi bị căng thẳng và xoa dịu bộ dây thần kinh. Sự nghỉ ngơi của bắp thịt phải đi trước sự nghỉ ngơi của trí não.
- Thật vậy, những phép tập của bạn dường như không có gì khác hơn là ngồi yên lặng bằng cách này hay cách khác!
- Anh tưởng tượng như thế là vô ích sao? Những người Âu Tây chỉ biết có hoạt động, nhưng phải chăng vì lẽ đó mà khinh thường sự nghỉ ngơi? Sự tịnh dưỡng của Bộ Thần Kinh Hệ, anh tưởng rằng không có ích sao? Sự nghỉ ngơi, dưỡng sức là nền tảng của pháp môn Yoga, nhưng không phải chỉ có chúng tôi mới cần dùng đến nó, mà thế giới Tây phương của các anh lại còn cần dùng đến nó nhiều hơn.
Về điểm này, những lời nói của Brama không phải là vô căn cứ. Y nói thêm:
- Bài học chiều nay như vậy đã đủ. Bây giờ, tôi phải đi. Tôi cám ơn y về bài học vừa qua và yêu cầu y chỉ dạy cho tôi thêm. Y đáp:
- Sáng mai, anh hãy gặp tôi trên bờ sông.
Y choàng lại cái khăn trên vai, và chắp hai bàn tay chào từ giã.
Tôi đã gặp người đạo sĩ trở lại nhiều lần. Theo ý muốn của y, tôi đến tìm y trong những lúc y đi dạo mỗi buổi sớm mai trên bờ sông, nhưng khi tôi mời y về nhà thì y đến chơi với tôi vào những buổi chiều tối. Những đêm đó đã giúp ích cho tôi rất nhiều vì người đạo sĩ hình như sẵn sàng chia sẻ những sự hiểu biết cổ kính thâm sâu của y dưới ánh trăng khuya hơn là dưới ánh mặt trời nóng gắt.
Một ngày nọ, tôi hỏi y về một điểm nó làm cho tôi thắc mắc. Tôi vẫn tưởng rằng người Ấn Độ là một giống dân màu da nâu hay đồng bạch, nhưng trái lại, Brama có một màu da sậm gần như người da đen. Y cho biết rằng y thuộc về một thổ dân bổn xứ mà chính gốc ở tại Ấn Độ, và đã từng ở xứ này từ lúc ban đầu. Khi giống dân Aryen từ trung tâm Á Châu vượt qua miền núi non phía tây bắc tràn xuống những vùng đồng bằng Ấn Độ để xâm chiếm xứ này, thì họ gặp những dân tộc bổn xứ thuộc chủng tộc Dravidien, và đẩy lui những dân tộc này xuống tận miền Nam. Người dân Dravidien này cho đến nay vẫn là một dân tộc riêng biệt, trừ phi họ hấp thụ tôn giáo của giống dân Aryen đã chinh phục họ. Mặt trời nóng gắt vùng nhiệt đới đã làm cho màu da họ trở thành sậm gần như đen, và điều này, tổng hợp với những bằng chứng khác, đã làm cho vài nhà nhân chủng học nghĩ rằng họ xuất xứ từ những chủng tộc ở Phi Châu. Cũng như ngày xưa, khi họ còn làm bá chủ xứ Ấn Độ, người dân Dravidien vẫn còn để tóc dài và cột lại thành một búi nhỏ ở phía sau gáy, và họ vẫn còn nói những thổ ngữ địa phương, mà tiếng sinh ngữ quan trọng nhất là tiếng Tamoul.
Brama quả quyết rằng những dân chinh phục thuộc chủng tộc Aryen màu da đồng bạch đã hấp thụ được đạo pháp Yoga của giống dân Dravidien truyền lại, cũng như nhiều ngành văn hóa khác nữa. Nhưng tôi đã hỏi vài nhà trí thức Ấn Độ về vấn đề này thì họ đều cho là không phải. Tôi xin nhường lại cho các nhà học giả giải quyết lấy vấn đề này.
Không có ý định viết một đề luận về phương pháp thể dục của khoa Yoga Ấn Độ, tôi chỉ nói sơ qua về những nguyên tắc đại cương của khoa Pháp Môn này. Những tư thế (Asana) mà Brama biểu diễn cho tôi xem, hoặc dưới bóng mát của hàng dừa bên bờ sông, hoặc ở tại nhà tôi, gồm những phép tập luyện rất lạ kỳ và rất khó khăn đến nỗi theo sự nhận xét của người Âu Tây thì nó dường như là lố bịch và không thể làm được. Một vài tư thế đó gồm có những phép tập công phu như sau đây: Chống hai tay xuống đất, nép hai khủyu tay vào hai bên hông và nâng đỡ hết sức nặng của toàn thân trên các đầu ngón tay; tư thế này gọi là Mayurasana. Hoặc ngồi xếp bằng, tréo hai tay ra sau lưng và tìm cách đưa hai bàn tay ra đằng trước để nắm lấy hai ngón chân cái (Padmasana). Hoặc cả hai tay hai chân đều tréo lại với nhau, làm thành một cái gút rất là phức tạp. Hoặc vắt hai chân lên cổ hay lên vai hoặc những thế ngồi vặn vẹo thân mình một cách kỳ dị không thể tưởng tượng. Nhìn xem Brama biểu diễn những cách tập luyện đó, tôi bắt đầu nhận thấy sự khó khăn của pháp môn Hatha Yoga. Tôi hỏi:
- Tất cả có bao nhiêu tư thế?
- Pháp môn Hatha Yoga gồm có tất cả tám mươi bốn tư thế, nhưng tôi chỉ mới biết có sáu mươi bốn tư thế mà thôi.
Y vừa nói vừa biểu diễn một tư thế mới và giữ vững thế ngồi đó một cách tự nhiên dễ dàng như tôi ngồi trên ghế bành. Hình như đó là thế ngồi quen thuộc của y. Tôi thấy tư thế này không phải là khó làm, nhưng chắc chắn không phải dễ chịu. Chân trái xếp cong lại, bàn chân đụng vào hông bên mặt đặt dưới thân mình, chân mặt xếp lại chịu hết sức nặng của toàn thân. Tôi hỏi:
- Tư thế này có ích lợi gì?
- Kèm với một phép thở đặc biệt, người Yogi sẽ cảm thấy khỏe khoắn và trẻ lại như hồi niên thiếu.
- Còn phép thở đó như thế nào?
- Tôi không được phép tiết lộ điều đó.
- Nhưng làm như vậy có mục đích gì?
- Vấn đề ngồi hay đứng trong một tư thế nào và trong một thời gian bao lâu, điều đó không phải là quan trọng. Nhưng sự tập trung ý chí cần thiết để thi hành những tư tưởng đó một cách đúng phép, làm thúc động những mãnh lực tiềm tàng trong người chúng ta. Những mãnh lực đó là những bí mật của thiên nhiên, nó chỉ hoàn toàn phát triển khi nào có kèm theo những phép luyện hơi thở, vì hơi thở có những quyền năng rất nhiệm mầu.
Sự kích động những mãnh lực tiềm tàng đó là mục đích chính của pháp môn Hatha Yoga. Có những tư thế khác giúp cho chúng ta chủ trị giác quan và luyện tinh thần, vì ai cũng biết rằng xác thể con người có thể ảnh hưởng đến thể xác. Trong những giai đoạn cao siêu của pháp môn Yoga, khi người hành giả phải tham thiền và nhập định trong nhiều giờ, thì thế ngồi của xác thể là một điều rất quan trọng, vì nó giúp cho sự tập trung tư tưởng được dễ dàng, giúp thêm sức tinh tấn cho người hành giả và tăng cường rất nhiều quyền năng của ý chí. Như thế bạn thấy pháp môn Hatha Yoga có ích lợi là dường nào.
- Còn những thế ngồi vặn vẹo thân mình như thế là để làm gì?
- Bạn đã biết rằng những trung tâm bí yếu của thần kinh hệ ở rải rác nhiều chỗ trong thân thể. Mỗi tư thế đều có công dụng ảnh hưởng đến một trung tâm nhất định. Nhờ kích động các bí huyệt đó, mà ta có thể ảnh hưởng đến sự vận động của các bộ phận trong cơ thể, cũng như đến sự hoạt động của trí não. Những thế ngồi vặn vẹo đó là để kích động đến những bí huyệt của Thần Kinh Hệ mà ngoài ra, người ta không thể dùng cách nào khác.
Tôi mới bắt đầu nhận định một cách rõ ràng hơn về những nguyên tắc căn bản của môn thể dục Hatha Yoga. Môn thể dục này so với những phương pháp thể dục Âu Mỹ khác nhau thế nào, đó là một điều lý thú mà chúng ta nên biết. Tôi bèn hỏi Brama, y nói:
- Tôi không được biết rõ các phương pháp Âu Mỹ, nhưng tôi thấy những lýnh tập người Anh tập luyện ở một quân trại gần Madras. Nhìn xem họ luyện tập, tôi mới hiểu mục đích của các huấn luyện viên. Dường như mục đích chính của họ là tăng cường các bắp thịt, vì người Tây phương các anh luôn luôn hoạt động bằng thể xác. Bởi đó họ vận động tay chân một cách hăng hái mạnh bạo. Họ tiêu phí sinh lực một cách dồi dào, để làm nở nang các bắp thịt và để đổi lại với một sức mạnh dồi dào hơn nhờ sự tập luyện ấy. Điều này lẽ dĩ nhiên là thích hợp với khí hậu lạnh lẽo ở các xứ miền Bắc.
- Theo chỗ bạn thấy, thì hai phương pháp thể dục Đông và Tây khác nhau thế nào?
- Những cách tập theo pháp môn Yoga thật ra chỉ là những tư thế, và không cần vận động tay chân một khi đã giữ vững được một thế ngồi hay đứng nhất định. Thay vì làm nở nang các bắp thịt để kiếm thêm một sức mạnh phụ trội và tăng cường thể xác, chúng tôi nhắm mục đích tăng gia sức chịu đựng dẻo dai bền bĩ của cơ thể. Chúng tôi cho rằng làm nở nang bắp thịt tuy là hữu ích, nhưng chính cái sức mạnh điều khiển và vận động các bắp thịt mới thật là có giá trị nhiều hơn. Nếu tôi chỉ cho anh một tư thế đặc biệt nào đó, một người Âu như các anh có lẽ sẽ làm nó trong một lúc một cách vội vàng, nóng nảy. Như thế, anh sẽ không thu hoạch được những sự ích lợi bằng cách biết thực hành đúng phép như một người Yogi.
- Làm thế nào mới gọi là đúng phép?
- Người Yogi làm một tư thế một cách chậm rãi, có ý thức và giữ vững tư thế ấy trong vài phút. Để tôi chỉ cho anh xem một tư thế vận dụng cả toàn thân.
Brama nằm ngửa xuống đất, duỗi thẳng hai chân và hai tay dọc theo thân mình. Y đưa hai chân lên, giữ hai đầu gối thẳng, cho đến khi hai chân gần làm thành một góc đứng với sàn gạch. Y dùng hai tay đỡ lấy lưng, hai cùi chỏ chống trên sàn gạch. Y dùng hai tay đỡ lấy thân mình. Sức nặng của toàn thân được chống đỡ bằng hai vai, gáy và đầu. Sau khi giữ vững tư thế lộn ngược đầu này độ chừng năm phút, người Yogi bèn từ từ hạ hai chân xuống, ngồi dậy và giải thích sự lợi ích của nó:
- Tư thế này dồn máu xuốngbộ óc do trọng lượng của nó trong vài phút. Lúc bình thường, máu được đưa lên đầu do nơi sức vận động của quả tim. Sự khác biệt giữa hai trường hợp là trong tư thế này, máu dồn xuống óc gây một ảnh hưởng xoa dịu đối với bộ óc và cân não. Đối với những người làm việc bằng trí, như các nhà bác học, học giả, sinh viên, việc thực hành tư thế này sẽ đem lại sự khỏe khoắn cho bộ óc và trí não, khi họ cảm thấy mỏi mệt. Nó còn tăng cường bộ phận sinh dục. Nhưng người ta chỉ thu thập những lợi ích đó bằng cách thực hành theo phương pháp của chúng tôi, chứ không phải làm một cách hấp tấp vội vàng như người Âu Tây các anh.
- Nếu tôi không lầm, thì bạn muốn nói rằng phương pháp Yoga giữ thân thể trong một trạng thái yên tĩnh và thăng bằng, còn phép luyện tập xốc vác ồ ạt của Tây phương làm cho nó bị náo động?
- Đúng như vậy. Brama đồng ý.
Brama còn biểu diễn cho tôi xem vài tư thế khác nữa và giải thích những sự ích lợi của mỗi phép tập luyện. Tôi được biết một tư thế có công dụng tăng cường bộ tủy xương sống, chữa các chứng bệnh thần kinh suy yếu, và giúp cho máu huyết được lưu thông điều hòa. Trong một tư thế khác, những bí huyệt thần kinh ở cổ, ở vai và ở chân được kích động một cách mạnh mẽ, và bộ ngực chịu ảnh hưởng rất tốt.
Một người Âu trung bình thường coi người Ấn Độ như là một dân tộc chậm tiến, di sản của một khí hậu nóng bức và sự thiếu ăn. Chắc họ phải lấy làm ngạc nhiên mà được biết rằng xứ Ấn Độ đã từng có từ thời thượng cổ một phương pháp thể dục tinh vi và huyền diệu như thế. Chúng ta biết rằng những phương pháp thể dục Âu Tây cũng có giá trị rất lớn, nhưng có ai dám kết luận rằng nó đã được hoàn toàn? Ai dám nói rằng nó không còn gì phải cải tiến thêm nữa về các phương diện phát triển cơ năng, bảo tồn sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật? Biết đâu rằng nếu Tây phương đem áp dụng phương pháp khoa học để khảo cứu về môn Hatha Yoga một vài phép dưỡng sinh mầu nhiệm để giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về khoa sinh lý học được hoàn bị hơn, và đưa chúng ta tiến thêm một bước trên con đường đi tìm một đời sống lành mạnh?
Tuy nhiên, người ta phải nhìn nhận rằng chỉ có độ chừng trên một chục tư thế Yoga là để tập luyện và thực hành. Còn lại chừng trên bảy mươi tư thế khác, cái nọ lại càng kỳ dị hơn cái kia, chỉ có thể hấp dẫn những thanh thiếu niên hăng hái, hãy còn trẻ trung và mềm dẻo. Brama cũng nhìn nhận như vậy:
- Tôi đã từng khổ công tập luyện mỗi ngày suốt mười hai năm mới có thể kiềm chế được tất cả sáu mươi bốn tư thế mà tôi biết. Và tôi cũng có cái may mắn là bắt đầu tập khi còn trẻ, vì một người đã lớn tuổi mới bắt đầu tập có thể bị hiểm nguy. Những bắp thịt, gân xương của họ đã cứng và không quen vận động nên dễ bị đau đớn. Tuy thế, với sự kiên tâm bền chí, người ta cũng có thể thu hoạch được những kết quả rất mỹ mãn.
Brama ngừng một lúc rồi nói tiếp:
- Người phương Đông chúng tôi có cái thói quen tập ngồi kiết dà từ thuở nhỏ. Đó là thế ngồi căn bản, làm nền tảng cho tất cả những tư thế khác, và có một ảnh hưởng rất tốt.
Nói xong, y bèn ngồi kiết dà hai chân xếp bằng giống như thế ngồi của các tượng Phật mà tôi đã thấy quen mắt. Y giải thích:
- Thế ngồi này gọi là Liên Hoa Tọa Bộ. Nó rất quan trọng vì nó là thế ngồi của nhà đạo sĩ lúc tham thiền. Nó giúp cho thân thể được vững vàng, nhờ đó người hành giả khỏi bị té ngã nếu y thình lình xuất thần trong cơn nhập định. Điều này rất có thể xảy ra, tuy rằng nói chung thì những nhà đạo sĩ có thể xuất thần và nhập định tùy theo ý muốn.
Bạn hãy nhìn xem, trong thế Liên Hoa, hai chân xếp bằng tròn đem đến cho thân mình một nền tảng vững chắc. Nếu thân mình không được vững thì tâm thần bất định và lo ra, còn trong tư thế này thì người hành giả cảm thấy trong lòng yên ổn và tự tin. Nó giúp cho ta dễ tập trung tư tưởng, đó là điều rất quý đối với chúng ta. Chúng tôi cũng thường dùng thế ngồi này để luyện hơi thở, vì sự phối hợp của hai điều này làm thức động luồng hỏa hầu tiềm tàng trong cơ thể và giúp cho người hành giả khai mở một vài quyền năng.
Câu chuyện của chúng tôi đến đây đã chấm dứt.
Brama đã biểu diễn cho tôi xem đủ một loạt các tư thế khó khăn, những thế ngồi vặn vẹo lạ lùng, và tôi không còn nghi ngờ gì nữa rằng quả thật y đã hoàn toàn làm chủ được thể xác.
Có một người Âu nào có đủ sức kiên tâm bền chí để thực hành những phép tập luyện khó khăn và phức tạp như thế? Có người Âu nào có thời giờ để tập luyện về khoa pháp môn này?
Phần Ba
Những tuần lễ sau đó, tôi vượt qua vùng cao nguyên Décan để di xuống miền Nam. Tôi viếng nhiều nơi danh lam thắng cảnh, nhưng không gặp một nhân vật nào đáng kể. Tuy nhiên, một mãnh lực huyền bí mà tôi nhắm mắt tuân theo không suy nghĩ, thúc giục tôi tiến bước. Ngày nọ, tôi ngồi trên chuyến xe lửa đêm đi xuống Madras, và không tìm thấy giấc ngủ, tôi bèn ngồi dậy để thử kiểm điểm lại những kết quả đã thu lượm được. Tôi phải nhìn nhận rằng kết quả rất mỏng manh, và tôi chưa có dịp gặp gỡ một người đạo sĩ nào. Còn nói về hy vọng gặp một vị Chơn Sư, thì tôi đành tạm thời gác lại một bên.
Trái lại tôi đã gặp phải bao nhiêu những sự dị đoan mê tín và những tập quán cổ xưa lỗi thời. Bây giờ tôi mới hiểu những nụ cười nghi hoặc và những lời cảnh cáo của các bạn tôi ở Bombay. Lần đầu tiên tôi đã nhận thức được sự khó khăn của vấn đề tôi đang theo đuổi.
Nói về những tu sĩ sùng tín và đạo hạnh, thì ở xứ này không thiếu gì; họ gồm một thành phần đông đảo không thể tưởng tượng. Nhưng họ có đáng để cho mình tốn công nhọc sức đi tìm hay chăng thì đó lại là một việc khác. Bạn đi ngang qua một ngôi đền cổ kính thâm nghiêm, bề ngoài có vẻ rất hấp dẫn và đầy hứa hẹn, bạn bước vào trong với một tấm lòng sùng kính thiêng liêng và tiến đến gần nơi Thánh điện. Bạn nhìn vào trong và bạn thấy những gì? Những người hành lễ ngây ngô vừa cầu nguyện vừa rung một cái chuông nhỏ để làm cho những lời cầu xin của họ được thấu đến tai của những vị Thần trong đền!
Thành phố Madras với những phong cảnh tưng bừng nhộn nhịp và màu sắc địa phương rực rỡ lạ mắt làm cho tôi rất thích thú. Tôi tạm trú ở một vùng ngoại ô cách thành phố hai dặm, nơi đây tôi sẽ được gần gũi với người bổn xứ hơn là ở khu sang trọng của người Âu.
Tôi đi theo con đường cát, nhà cửa hai bên đường đều quét vôi trắng, trước mỗi nhà đều có hàng ba để trống cho mát. Chung quanh vùng có cây cối sầm uất, cảnh vật có vẻ ưa nhìn. Cách đó chừng nửa dặm, con sông Adyar uốn quanh, dòng nước chảy chậm chạp lờ đờ. Hai bên bờ sông có những vườn dừa che bóng mát rượi. Tôi định lúc rảnh rang, sẽ đi bách bộ dạo chơi dưới bóng những hàng dừa, hoặc ngồi ngắm cảnh trên bờ sông. Con sông Adyar chảy về ngoại ô phía nam thành phố Madras, trước khi đổ ra vịnh Coromandel.
Một buổi sớm mai, tôi đi dạo trên bờ sông với một người thanh niên Ấn mà tôi mới làm quen và tôi đã có dịp thổ lộ với y về mục đích cuộc sưu tầm của tôi. Thình lình y nắm lấy tay tôi và nói:
- Kìa! Ông hãy nhìn xem: Người đằng kia đang đi về phía chúng mình, là một người Yogi. Có lẽ ông sẽ muốn biết về người ấy, nhưng có điều rất tiếc là khó mà làm quen với y.
- Tại sao vậy?
- Tôi biết chỗ y ở, nhưng tôi chưa từng thấy ai dè dặt và kín đáo như người này.
Người lạ mặt đã tiến đến gần chúng tôi. Y có cái vóc vạc cao lớn lực lưỡng, và trạc độ ba mươi lăm tuổi. Gương mặt y có điều làm cho tôi chú ý nhất, là những nét đặc biệt của giống dân da đen: Nước da rất sậm, mũi tệ, cặp môi dầy, vai rộng. Tóc y dài và cột lại thành một búi tóc nhỏ trên đỉnh đầu. Y đeo hai cái khoen lớn khác thường dưới hai trái tai. Y vận một cái chăn quấn chung quanh thân mình, một đầu thì vắt lên vai trái, hai vai để trần và đi chân không. Y đi ngang qua chúng tôi với những bước đi chậm rãi, mắt nhìn xuống đất như tìm một vật gì, và dường như không nhìn thấy chúng tôi. Đằng sau đôi mắt đó, hẳn là có một tâm hồn sáng suốt linh hoạt, và tôi tự hỏi rằng trong cơn suy tư trầm lặng và đơn chiếc của y lúc ấy, không biết y đang suy nghĩ về vấn đề gì?
Tôi bỗng có ý muốn phá tan bức rào ngăn cách giữa tôi và con người bí hiểm đó. Lúc ấy y đã đi qua khỏi chỗ chúng tôi đứng. Tôi bèn đề nghị:
- Tôi muốn nói chuyện với y. Chúng ta hãy quay trở lại.
Người thanh niên bèn ngăn tôi:
- Ông sẽ mất thời giờ vô ích.
- Hãy thử xem, biết đâu.
Người bạn đi đường với tôi lại can ngăn tôi lần nữa:
- Người này sống ẩn dật và cách biệt đến nỗi không ai biết gì cả về cuộc đời của y. Y tránh xa tất cả mọi người, thậm chí đến cả những người láng giềng. Tốt hơn, chúng ta đừng nên làm phiền rộn y.
Nhưng tôi đã quay trở lại, và người bạn trẻ của tôi đành phải đi theo tôi. Không bao lâu, chúng tôi đã theo gần kịp người lạ mặt. Y vẫn tiến bước mà không tỏ vẻ gì biết rằng có chúng tôi đi theo; chúng tôi bèn cố gắng vượt lên. Tôi bảo người thanh niên:
- Anh hãy nói là tôi muốn nói chuyện với y.
Người bạn trẻ của tôi do dự và lắc đầu từ chối:
- Tôi không dám.
Không muốn bỏ qua một cơ hội tốt, tôi bèn đánh bạo làm quen. Tôi không còn cách nào khác, thôi đành bất chấp những luật lệ xã giao thông thường. Tôi bèn đứng chận đường người Yogi và thốt ra một câu ngắn ngủi rút trong số vốn sinh ngữ Ấn Độ nghèo nàn của tôi. Người lạ mặt ngước mắt nhìn lên, miệng hơi nở một nụ cười, nhưng lại lắc đầu tỏ vẻ không muốn bị phiền nhiễu. Người bạn trẻ của tôi thấy rằng đã đến lúc y phải can thiệp.
Bằng một giọng do dự, y nói vài lời xin lỗi bằng tiếng Tamoul. Người Yogi không đáp lại, nét mặt y trở nên cứng rắn, cặp mắt lạnh lùng cách biệt. Người thanh niên luống cuống nhìn tôi, sự im lặng càng trở nên nặng nề và khó chịu. Làm sao thoát ra khỏi tình trạng đó? Trong cơn bối rối, tôi mới biết rằng thật không phải dễ gì mà làm cho một người ẩn sĩ mở miệng để nói chuyện với mình. Những người ấy hẳn là không thích bị ai phỏng vấn, đừng nói chi là tiếp đón một người ngoại chủng tọc mạch muốn biết đời sống nội tâm của mình. Điều mà họ càng không thích hơn nữa, là phải nói chuyện với một người Anh, tức là hạng người mà họ đinh ninh rằng không hề có một chút thiện cảm hoặc hiểu biết gì về những điều huyền vi và tế nhị của pháp môn Yoga.
Nhưng ý nghĩa đó bị xô đuổi bởi một ý nghĩa khác. Tôi cảm thấy rõ rệt rằng mình đang là cái đích đặt dưới sự dò xét tỉ mỉ và sâu sắc của người Yogi. Tôi chắc chắn rằng bên trong cái vẻ mặt thờ ơ lãnh đạm của y, y đang để ý thăm dò những ý nghĩ thầm kín nhất của tôi. Hay là tôi nghĩ lầm? Nhưng tôi không thể gạt bỏ cái cảm giác khó chịu đó: Tôi đang là một vật khám nghiệm dưới một ống kính hiển vi! Người thanh niên lấy làm bực mình và ngầm lấy cùi chỏ thúc vào hông tôi, như muốn nói rằng ta hãy nên lui bước. Y làm tôi khó chịu, và chỉ độ một phút nữa là tôi cũng đành nhượng bộ rút lui và nhìn nhận sự thất bại của mình.Ngay khi đó, người Yogi cử động; y đưa tay chỉ một gốc dừa gần bên và ra hiệu bảo chúng tôi cùng ngồi dưới bóng cây. Y ngồi sau hết và nói vài lời bằng tiếng Tamoul với người thanh niên. Tôi nhận xét giọng nói của y trong và ấm gần như tiếng nhạc.
Người bạn trẻ của tôi dịch lại:
- Đạo sĩ nói rằng người sẵn lòng tiếp chuyện với ông.
Tôi mới hỏi quý danh đạo sĩ và được biết y có một cái tên rất dài. Tôi bèn gọi y là Brama cho tiện và dễ nhớ. Tôi nói với người thanh niên:
- Anh hãy nói dùm là tôi rất chú trọng đến khoa pháp môn Yoga và tôi muốn được hiểu biết ít nhiều về khoa ấy.
Người Yogi gật đầu mỉm cười:
- À! Tôi cũng đoán như vậy. Vậy ông muốn biết điều chi, xin ông cứ hỏi.
- Đạo sĩ tu luyện theo pháp môn nào?
- Tôi tu theo pháp môn Hatha Yoga, tức là phép chủ trị xác thân. Đó là pháp môn khó nhất. Thể xác con người và nhất là bộ máy hô hấp phải được tập luyện và kiểm chế như những giống lừa! Sau đó, sự chủ trị thần kinh và cân não sẽ dễ dàng như trò chơi trẻ con.
- Tu theo pháp môn này đem đến những ích lợi gì?
Cặp mắt mơ màng nhìn về cõi xa xăm, Brama đáp:
- Sức khỏe, ý chí và sống lâu, đó là mới kể sơ vài điều. Người Yogi tu luyện đúng phép sẽ làm chủ được xác thân và làm cho nó trở nên cứng rắn như sắt. Sự đau đớn không còn phạm đến nó được nữa. Tôi biết một người Yogi chịu đựng một cuộc giải phẫu mà không dùng đến thuốc mê: Y chịu mổ tới cùng mà không rên một tiếng. Người Yogi cũng có thể phơi mình trần dưới một tiết trời lạnh lẽo nhất mà không sao cả.
Tôi lấy sổ ra ghi chép, và câu chuyện bắt đầu bước qua một giai đoạn thú vị. Chữ tốc ký của tôi làm Brama mỉm cười, nhưng y không ngăn cản việc ấy.
- Đạo sĩ có thể cho biết thêm vài chi tiết?
- Được, nếu ông muốn. Thầy tôi đã từng sống ở chỗ lộ thiên trên dãy Hy Mã Lạp Sơn đầy tuyết phủ mà không có mặc gì khác hơn một manh áo mỏng. Người có thể nằm suốt nhiều giờ liên tiếp ở một nơi mà nước đông đặc lại trong tức khắc, nhưng vẫn không hề chi cả. Đó là cái mãnh lực nhiệm mầu của pháp môn Yoga.
- Và đạo sĩ là đệ tử của Ngài?
- Phải, nhưng tôi cũng chưa đạt tới mức cao tột, mặc dù tôi đã công phu cố gắng luyện tập không ngừng trong suốt mười hai năm.
- Nhưng chắc đạo sĩ cũng đã đạt tới một trình độ nào rồi, và có được những quyền năng mà người ta gọi là phi thường?
Brama gật đầu nhưng không nói gì. Y làm cho tôi còn tò mò hơn nữa, tôi bèn hỏi:
- Xin ông có thể cho biết trong trường hợp nào ông đã trở nên một người Yogi?
Im lặng. Cả ba người chúng tôi đều ngồi dưới bóng cây dựa bờ sông. Trên lùm cây bên kia sông, tiếng bầy quạ kêu vang pha lẫn với tiếng kêu chí chóe của vài con khỉ nhảy nhót trên cành.
Bỗng nhiên, Brama nói "Xin vâng." Tôi đoán chắc y hiểu rằng những câu hỏi của tôi có một lý do sâu xa hơn là một sự tò mò của nhà học giả. Y choàng lại cái khăn vắt trên vai, đôi mắt mơ màng nhìn về phía bên kia sông và bắt đầu nói:
- Thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ ít nói và thích sống cô đơn. Tôi không thấy gì là vui thú trong những trò chơi của các bạn tôi, vì thế tôi luôn luôn tránh họ và thích đi dạo một mình ở những nơi vườn cây hay ngoài đồng vắng. Ít người biết được những gì đang diễn ra trong tâm hồn kín đáo của một đứa trẻ, tôi sống cách biệt với mọi người và tôi cảm thấy rằng đời không có gì vui. Vào năm tôi mười hai tuổi, tình cờ tôi nghe lóm được một câu chuyện giữa những người lớn, họ nói về vấn đề Yoga. Đó là lần đầu tiên tôi nghe nói đến danh từ đó, và những gì tôi nghe trong câu chuyện cũng đủ làm cho tôi tò mò muốn biết thêm. Tôi chất vấn nhiều người và góp nhặt được vài quyển sách nói về vấn đề Yoga, trong đó tôi đọc được nhiều điều thú vị về các nhà đạo sĩ Yoga. Cũng như con ngựa rong ruỗi trên sa mạc mong mỏi tìm đến ngọn suối mát ở tận chân trời, trí óc tôi khao khát sự hiểu biết, nhưng tôi chỉ có một mình và không làm sao tiến hơn được nữa. Một hôm, tình cờ tôi lật một quyển sách và thấy trong đó có câu: "Muốn tiến bộ trên đường tu luyệt pháp môn Yoga, phải nhờ có sự chỉ dẫn của một bậc danh sư." Những lời này làm cho tâm hồn tôi thắc mắc băn khoăn.
"Một danh sư! Tôi hiểu ngay rằng muốn tìm được Thầy, không có cách nào khác hơn là bỏ nhà ra đi ngao du thiên hạ. Tự nhiên là tôi không thể trông cậy nơi sự cho phép của cha mẹ tôi. Không biết phải làm thế nào, tôi bèn lén lút luyện thử một vài phép hô hấp mà tôi đã góp nhặt được những tài liệu trong các sách. Phép luyện này, thay vì có ích, lại làm hại cho tôi. Tôi không biết rằng phép khí công rất nguy hiểm nếu nó không có sự dìu dắt của một bậc danh sư. Nhưng vì tôi quá nóng ruột nên không thể chờ đợi mãi được.
--------------------------------------------------------------------------------
"Sau vài năm tập luyện lén lút một mình, cái hậu quả bất ngờ đưa đến là tôi bị đứt một gân máu trên đỉnh đầu, dường như đó là chỗ chịu đựng yếu nhất. Tôi cảm thấy toàn thân tôi giá lạnh và sức yếu dần, máu chảy lênh láng ở chỗ vết thương. Tôi tưởng rằng tôi sắp chết. Hai giờ sau đó, tôi nhìn thấy một linh ảnh lạ lùng, hình như tôi thấy gương mặt đạo mạo của một vị đạo sĩ già hiện ra và nói với tôi:
- Con thấy chăng, phép luyện ngăn cấm đối với kẻ phàm tục, có thể đưa con đến một tình trạng nguy hiểm là dường nào! Con hãy nhớ lấy bài học này.
"Cái hình ảnh biến mất, nhưng lạ thay, từ đó trở đi tôi cảm thấy khá hơn và không bao lâu sức khỏe của tôi hoàn toàn bình phục trở lại. Nhưng này ông hãy xem, cái thẹo hãy còn đây.
Brama cúi đầu đưa cho chúng tôi xem một cái thẹo nhỏ hiện ra rõ ràng trên đỉnh đầu. Y nói tiếp:
"Sau khi tai nạn đó xảy ra, tôi bèn ngưng việc luyện hơi thở và chờ đợi để cho thời gian làm giảm bớt những sự ràng buộc gia đình. Khi tôi được tự do, tôi liền từ giã gia đình và đi châu du khắp nơi để tìm Thầy. Tôi biết rằng phương pháp hay nhất để thử người Thầy mình chọn, là hãy sống chung với người ấy trong vài tháng. Tôi đã chọn hết vài người, và khi thì ở chung với họ, khi thì nhà, nhưng tôi luôn luôn bị thất vọng. Những vị ấy đều là những vị sư trưởng, cầm đầu các tu viện hoặc đạo viện, nhưng không có vị nào làm cho tôi thỏa mãn. Về phần lý thuyết thì có rất nhiều, nhưng còn về kinh nghiệm riêng của họ thì chẳng có gì cả. Phần nhiều chỉ lặp lại những điều đã có trong sách, còn về việc dìu dắt tôi trên phương diện thực hành, thì họ không làm được. Tôi đã biết tất cả mười người Thầy, nhưng không thối chí, sự sốt sắng của tuổi trẻ lại càng bồng bột thêm, và những sự thất vọng liên tiếp đó càng nung nấu thêm lòng cương quyết của tôi.
"Tôi đã đến tuổi trưởng thành. Tôi bèn quyết định ly khai nhà cửa gia đình, dứt bỏ cuộc đời thế gian và đi lưu lạc giang hồ để tìm Thầy. Tôi bước chân ra đi, phiêu lưu. Một ngày kia, tôi đến một làng nọ thuộc tỉnh Tanjore. Tôi bước xuống sông để tắm gội, xong rồi tôi mới đi dạo chơi trên bờ sông. Tôi thấy một ngôi đền nhỏ xây bằng đá màu đỏ. Hiếu kỳ, tôi nhìn vào trong và lấy làm ngạc nhiên mà thấy có một số người ngồi vây quanh một người khác mình trần. Họ nhìn người này với một sự kính mến vô cùng: Quả thật, trên gương mặt người này có một cái gì vừa huyền bí vừa tôn nghiêm. Tôi đứng ở trên thềm và nhìn xem với một sự say sưa, chăm chú. Tôi nhận thấy rằng cả bọn đang thụ giáo người này về một môn học nào đó, và tôi có cái linh cảm rằng người này là một vị đạo sĩ chân chính, một bậc danh sư mà tôi vẫn tìm kiếm chớ không phải là một học giả nhồi sọ đầy những lý thuyết.
"Bỗng nhiên, bốn mắt chúng tôi gặp nhau. Tuân theo một sự thúc giục thầm kín bên trong, tôi bước vào trong đền. Vị tôn sư tiếp đón tôi một cách niềm nở, mời tôi ngồi và nói:
- Con đây rồi! Đã sáu tháng nay, ta được lịnh thâu nhận con làm đệ tử.
"Thật là vừa đúng sáu tháng kể từ ngày tôi bước chân ra đi. Và tôi đã gặp Thầy tôi trong trường hợp đó.
"Từ đó trở đi, tôi theo Thầy tôi khắp mọi nơi. Có đôi khi, người xuống tỉnh thành, còn lúc thường thì Người ở tận trong rừng thẳm. Tôi bắt đầu thu hoạch được những kết quả tiến bộ mau chóng về khoa Yoga. Thầy tôi là một vị Yogi thượng thẳng về pháp môn Hatha Yoga, tức là pháp môn tinh luyện và chủ trị thân xác. Khoa Yoga có nhiều môn phái khác nhau về phương pháp thực hành. Môn phái của tôi chuyên lo tinh luyện xác thân trước nhất, rồi sau mới tinh luyện về tinh thần. Phép luyện khí công, tức luyện hơi thở, cũng thuộc về pháp môn này. Có một lần, tôi phải nhịn đói suốt bốn mươi ngày liên tiếp để chuẩn bị một giai đoạn công phu đặc biệt và nhận lãnh một vài quyền năng của pháp môn Yoga.
"Một hôm Thầy tôi gọi tôi lại gần và nói:
- Một cuộc đời xuất gia và hoàn toàn thoát tục chưa phải là của con. Con hãy trở lại thế gian và sống một cuộc đời bình thường. Con sẽ lập gia thất và sinh một đứa con. Đến năm con ba mươi chín tuổi, con sẽ được thấy nhiều ấn chứng và khi đó sẽ được tự do rút lui ra ngoài vùng thế tục. Chừng đó con sẽ trở lại nơi rừng thẳm để tu luyện cho đến khi công phu viên mãn. Thầy sẽ chờ đợi, con có thể trở lại với Thầy.
Tôi vâng lời Thầy dạy và trở về quê hương. Tôi cưới một người vợ hiền và có một đứa con đúng như lời Thầy tôi đã nói trước. Sau đó ít lâu, vợ tôi qua đời, cha mẹ tôi cũng đã khuất núi, và tôi lại từ giã quê hương một lần nữa để đến ở nơi đây, tại nhà một bà lão góa bụa, người đồng hương với tôi và đã từng biết tôi từ khi tôi còn nhỏ. Bà lão này coi sóc nhà cửa bếp núc cho tôi, và vì tuổi già làm cho bà trở nên ít oi và kín đáo, nên bà để cho tôi bình yên sống cuộc đời ẩn dật mà môn phái của tôi đã chỉ định."
Brama nói dứt lời, tôi cũng không hỏi thêm gì nữa. Sau vài phút im lặng, y đứng dậy và bước chậm rãi trở về nhà. Tôi và người bạn trẻ cùng đi theo sau. Chúng tôi đi qua một đám rừng dừa và những chòm cây cối sầm uất. Nước sông Adyar phản chiếu ánh nắng sáng ngời. Một hay hai giờ trôi qua trong khi chúng tôi đi dạo một cách thú vị theo bờ sông. Không bao lâu, chúng tôi đã về đến làng. Một ngọn gió nhẹ từ bờ biển thổi vào mát rượi. Đến một bên đường, một bầy lợn đi ngang qua, một bà lão chăn lợn cầm cái gậy phát những ngọn roi tre vào những con đi lạc bầy.
Brama quay lại để từ giã chúng tôi. Tôi tỏ ý muốn gặp y lại lần nữa. Y gật đầu bằng lòng. Tôi bèn mời y lại nhà tôi chơi. Người bạn trẻ của tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy người đạo sĩ hẹn đến chơi nhà tôi ngay chiều hôm đó.
Chiều đến, tôi ngồi đợi Brama và sắp đặt sẵn trong trí những câu hỏi mà tôi sẽ đưa cho y. Những điều y thuật lại về cuộc đời của y làm tôi thích thú và muốn tìm hiểu thêm về con người bí mật đó. Vừa nghe nói có y đến, tôi liền bước ra hàng ba và chắp tay chào theo kiểu Ấn Độ để tỏ thiện chí của tôi đối với y và cũng bởi vì tôi muốn tôn trọng những phong tục bổn xứ mỗi khi tôi có thể.
Brama đi theo tôi vào phòng khách và ngồi bệt xuống sàn gạch, hai chân xếp bằng. Tôi mời y ngồi trên divan, nhưng y từ chối và thích ngồi dưới sàn gạch hơn. Tôi tỏ lời cám ơn y về cuộc thăm viếng và mời y dùng một ít bánh trái. Y lẳng lặng ngồi ăn. Khi y đã dùng xong trà bánh, tôi thấy có bổn phận nói qua đôi chút về phần tôi, để cho y biết lý do vì sao tôi đột ngột bước vào cuộc đời của y. Trong vài câu vắn tắt, tôi thổ lộ với y về những hoàn cảnh và những sức mạnh huyền bí đã dẫn dắt tôi đến xứ Ấn Độ. Brama im lặng ngồi nghe tôi nói đến khi dứt câu chuyện, y mới bước đến gần và thân mật đặt một bàn tay trên vai tôi. Y nói:
- Tôi rất thích thú được biết rằng ở Tây phương có những người như bạn. Bạn sẽ không mất thời giờ và sẽ học hỏi được nhiều. Ngày đầu tiên tôi được quen biết bạn, ấy là ngày sung sướng nhất của tôi. Bạn cứ hỏi điều gì bạn muốn biết, tôi sẽ vui lòng giải đáp nếu tôi có thể.
Những lời này có vẻ rất hứa hẹn. Tôi bèn hỏi y về lịch sử cùng tính cách và mục đích của pháp môn Hatha Yoga. Y đáp:
- Có ai biết được pháp môn này bắt nguồn từ bao giờ trong lịch sử? Những kinh sách Ấn Độ nói rằng pháp môn này trước hết do thần Shiva truyền dạy cho nhà Hiền Triết Gheranda. Vị này mới truyền lại cho nhà Hiền Triết Marteyanda. Đến lượt vị sau này truyền dạy lại cho các đệ tử và từ đó nó được lưu truyền cho hậu thế trải qua hằng bao nhiêu ngàn năm. Nó có mấy ngàn năm lịch sử, chúng tôi không được biết rõ và cũng không cần biết chi điều đó, mặc dầu chúng tôi nghĩ rằng trong tất cả các môn Yoga, thì môn này là mới nhất. Thật vậy, vào thời kỳ cổ xưa đó, nhân loại cũng đã rơi vào một tình trạng sa đọa đến nỗi các đấng Thần Minh phải đưa ra cho họ một phương pháp giải thoát tâm linh mà sự thực hành lại áp dụng trước hết cho thể xác. Pháp môn này chỉ được một số ít môn đồ hiểu rõ và thực hành đúng đắn, còn phần đông người phàm tục thì hiểu sai lầm. Và vì những môn đồ chân chính càng ngày càng hiếm, nên những sự tập luyện trái phép, những lối tu khổ hạnh điên rồ, lố bịch, thường bị gán một cách sai lầm cho pháp môn Hatha Yoga mà không ai đưa ra lời đính chánh nào. Bạn hãy đi lên tận Bénarès, bạn sẽ thấy có người nằm suốt ngày đêm trên bàn chông sắt nhọn, hoặc có người đưa một cánh tay lên trời suốt nhiều năm cho đến khi cánh tay chết mất một nửa và móng tay mọc dài đến năm mươi phân tây. Người ta nói rằng những người này thực hành pháp môn Hatha Yoga, nhưng sự thật không phải vậy. Trái lại họ còn làm hoen ố danh dự của pháp môn ấy. Mục đích của pháp môn này không phải là hủy hoại xác thân để làm những trò lạ mắt cho người đời khâm phục và ngạc nhiên. Những người khổ hạnh kể trên chỉ là những kẻ ngu dốt không biết gì về mục đích của pháp môn Yoga. Họ chỉ là những kẻ bày trò lạ mắt ở giữa chợ để kiếm ăn, chỉ có thế thôi.
- Ta có nên trách họ chăng? Nếu những nhà đạo sĩ chân tu càng ngày càng hiếm và dấu kín những bí pháp chân truyền của họ thì những sự lạm dụng kể trên làm sao tránh khỏi?
Brama nhún vai đáp:
- Một ông vua có khi nào phơi bày những ngọc ngà châu báu trước mắt mọi người? Không, người ta đem cất những của quý ấy trong kho tàng và dấu kín trong chốn thâm cung. Còn pháp môn Yoga thì có kho tàng nào quý cho bằng? Chúng tôi có nên đem ra phơi bày ở giữa chợ hay chăng? Vậy kẻ nào muốn biết hãy tự ra công tìm lấy. Đó là phương tiện duy nhất. Những kinh sách Ấn Độ luôn luôn dặn dò chân truyền bí pháp cho những đệ tử thâm niên đã từng chịu nhiều thử thách. Khoa Yoga của môn phái chúng tôi là môn bí mật nhất, bởi vì nó đầy sự nguy hiểm không những đối với môn đồ, mà còn đối với kẻ phàm tục. Vậy bạn tưởng rằng tôi được phép tiết lộ cho bạn những điều khác hơn là những nguyên tắc sơ đẳng hay chăng, và dẫu cho những điều sơ đẳng này, nói ra mà không đắn đo cẩn thận hay sao?
- Tôi hiểu.
- Tuy nhiên, có một phần của khoá pháp môn Yoga mà tôi có thể nói cho bạn nghe. Đó là phương pháp luyện ý chí trở nên mạnh mẽ và thân thể được cường tráng để có thể bước qua những giai đoạn khó khăn trên đường Đạo.
- À! Đó là điều mà bên Âu Tây có nhiều người muốn biết.
- Môn phái chúng tôi có gần hai mươi phép tập gọi là tư thế, tiếng Phạn gọi là Asama, để tăng cường những bộ phận và cơ quan trong thân thể, và để chữa hay ngăn ngừa một vài chứng bịnh. Một tư thế đó ảnh hưởng đến những bí huyệt trong bộ Thần Kinh Hệ, những bí huyệt này lại vang dội đến những bộ phận hay cơ quan suy yếu và giúp cho nó được hoạt động mạnh mẽ trở lại.
- Môn phái ấy có dùng thuốc men để chữa bệnh chăng?
- Nếu cần, chúng tôi cũng dùng một vài loại cỏ thuốc, và hái những loại cỏ ấy vào tuần trăng lên. Chúng tôi có bốn phương pháp để giữ cho thân thể được luôn luôn khỏe mạnh cường tráng. Trước hết, là phép nghỉ ngơi để làm xoa dịu bộ thần kinh và cân não. Kế đó là phép tĩnh tọa. Thứ ba là phép tẩy uế thân thể bằng những phương pháp mà có lẽ các anh cho là kỳ dị, nhưng nó có hiệu lực rất hay. Sau cùng là phép khí công, tức là phép luyện và kiểm soát hơi thở.
Tôi yêu cầu y biểu diễn cho xem một vài phép tập luyện, Brama mỉm cười và nói:
- Những điều tôi sẽ chỉ cho anh đây không có gì là bí mật. Chúng ta hãy bắt đầu bằng phép nghỉ ngơi. Điều này, chúng ta có thể học của con mèo. Thầy tôi để con mèo ngồi giữa các đệ tử và chỉ cho họ thấy thế ngồi ưu tú của nó khi nó ngồi yên không chút cử động. Người dạy họ hãy quan sát một cách tỉ mỉ khi nó ngồi ngủ trưa hoặc ngồi rình một bên lỗ chuột. Người chỉ cho họ thấy rằng con mèo biết cách dưỡng sức, nó biết bảo tồn sinh lực, không để tiêu hao, phí phạm một chút sinh lực nào. Anh tưởng rằng anh biết cách nghỉ ngơi, nhưng sự thật anh không biết. Anh ngồi trên ghế một lát, rồi anh ngả về bên nọ, day qua bên kia, hoặc tréo chân chữ ngũ, rồi lại duỗi thẳng hai chân ra. Mặc dầu anh vẫn ngồi trên ghế, và bề ngoài trông anh có vẻ thoải mái, nghỉ ngơi, nhưng thật ra, trí óc anh nghĩ ngợi được không? Phải chăng đó chỉ là một hình thức hoạt động âm thầm?
- Đó là một điều mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến.
- Loài vật biết phép nghỉ ngơi dưỡng sức, nhưng ít người biết được phép này. Đó là bởi vì loài vật do bản năng dìu dắt, mà bản năng chính là tiếng nói của Tự Nhiên, còn con người thì được hướng dẫn bằng lý trí. Nhưng vì con người phần nhiều không kiểm soát được bộ óc của họ, nên hậu quả là bộ thần kinh và cơ thể đều bị ảnh hưởng, và bởi đó họ không hề biết nghỉ ngơi một cách thật sự.
- Bây giờ phải làm sao?
Việc trước tiên mà anh phải tập, không khác gì hơn là ngồi xếp bằng theo kiểu Đông phương. Ghế bành tuy rất hữu ích cho khí hậu lạnh lẽo ở các xứ miền Bắc, nhưng anh phải tập ngồi không có ghế trong thời gian luyện tập để chuẩn bị nhập môn vào khoa Yoga. Phép ngồi của chúng tôi thật ra là thoải mái nhất. Sau khi làm việc hay đi bộ, nó đem lại sự nghỉ ngơi, yên ổn cho cả toàn thân. Phương pháp dễ nhất để tập ngồi là trải chiếu dưới đất rồi ngồi lên, xếp hai chân vào và tréo hai bàn chân. Không nên có cảm giác quá gò bó hay căng thẳng, và anh đừng co bắp thịt lại.
Như vậy, phép tập trước tiên là hãy ngồi như thế và giữ cho toàn thân yên lặng trừ ra hơi thở nhẹ và đều. Và khi đã giữ được thế ngồi đó, anh hãy để cho trong lòng yên tĩnh, vắng lặng, không bận rộn nghĩ ngợi gì đến những việc trần gian, phàm tục. Hãy gom tư tưởng của anh vào một vật gì đẹp đẽ mỹ lệ, như một bức tranh đẹp hay một cái hoa.
Tôi bỏ ghế bành và ngồi xuống đất, đối diện với Brama, theo như phép ngồi mà y vừa miêu tả.
- À! Đúng đấy, anh ngồi được dễ dàng, Brama nói, nhưng có nhiều người Âu không ngồi được vì họ chưa quen. Anh có một điểm phải sửa lại: Hãy giữ cho xương sống thẳng, đừng cong. Bây giờ để tôi chỉ cho anh xem một thế ngồi khác.
Brama bèn đưa hai đầu gối lên tới tận cằm, nhưng vẫn giữ hai bàn chân tréo. Thế ngồi này làm cho hai bàn chân y tách rời khỏi thân mình. Y dùng hai bàn tay ôm chặt quanh hai đầu gối. Y nói:
- Thế ngồi này có vẻ giản dị quá nhỉ?
- Trong phép nghỉ ngơi, chúng tôi không cần đến những gì khó khăn phiền phức. Thật vậy, những thế dễ dàng nhất lại đem đến những kết quả rất tốt. Anh hãy nằm ngửa trên lưng, hai chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai bàn tay mở ra và đặt ở hai bên thân mình. Buông xuôi cả các bắp thịt, nhắm mắt lại và để cho sức mạnh của toàn thân đè lên sàn gạch. Anh không thể tập kiểu nằm này trên giường một cách đúng phép, vì cần phải giữ cho xương sống hoàn toàn ngay thẳng. Hãy dùng một cái chăn trải trên sàn gạch. Trong phép nằm nghỉ này, những mãnh lực hàn gắn của thiên nhiên sẽ giúp cho anh tu bổ sinh lực. Chúng tôi gọi nó là thế nằm của xác chết. Khi đã quen thực hành, anh có thể tập nghỉ ngơi trong những tư thế này suốt hàng giờ nếu anh muốn. Những tư thế đó làm cho các thớ thịt khỏi bị căng thẳng và xoa dịu bộ dây thần kinh. Sự nghỉ ngơi của bắp thịt phải đi trước sự nghỉ ngơi của trí não.
- Thật vậy, những phép tập của bạn dường như không có gì khác hơn là ngồi yên lặng bằng cách này hay cách khác!
- Anh tưởng tượng như thế là vô ích sao? Những người Âu Tây chỉ biết có hoạt động, nhưng phải chăng vì lẽ đó mà khinh thường sự nghỉ ngơi? Sự tịnh dưỡng của Bộ Thần Kinh Hệ, anh tưởng rằng không có ích sao? Sự nghỉ ngơi, dưỡng sức là nền tảng của pháp môn Yoga, nhưng không phải chỉ có chúng tôi mới cần dùng đến nó, mà thế giới Tây phương của các anh lại còn cần dùng đến nó nhiều hơn.
Về điểm này, những lời nói của Brama không phải là vô căn cứ. Y nói thêm:
- Bài học chiều nay như vậy đã đủ. Bây giờ, tôi phải đi. Tôi cám ơn y về bài học vừa qua và yêu cầu y chỉ dạy cho tôi thêm. Y đáp:
- Sáng mai, anh hãy gặp tôi trên bờ sông.
Y choàng lại cái khăn trên vai, và chắp hai bàn tay chào từ giã.
Tôi đã gặp người đạo sĩ trở lại nhiều lần. Theo ý muốn của y, tôi đến tìm y trong những lúc y đi dạo mỗi buổi sớm mai trên bờ sông, nhưng khi tôi mời y về nhà thì y đến chơi với tôi vào những buổi chiều tối. Những đêm đó đã giúp ích cho tôi rất nhiều vì người đạo sĩ hình như sẵn sàng chia sẻ những sự hiểu biết cổ kính thâm sâu của y dưới ánh trăng khuya hơn là dưới ánh mặt trời nóng gắt.
Một ngày nọ, tôi hỏi y về một điểm nó làm cho tôi thắc mắc. Tôi vẫn tưởng rằng người Ấn Độ là một giống dân màu da nâu hay đồng bạch, nhưng trái lại, Brama có một màu da sậm gần như người da đen. Y cho biết rằng y thuộc về một thổ dân bổn xứ mà chính gốc ở tại Ấn Độ, và đã từng ở xứ này từ lúc ban đầu. Khi giống dân Aryen từ trung tâm Á Châu vượt qua miền núi non phía tây bắc tràn xuống những vùng đồng bằng Ấn Độ để xâm chiếm xứ này, thì họ gặp những dân tộc bổn xứ thuộc chủng tộc Dravidien, và đẩy lui những dân tộc này xuống tận miền Nam. Người dân Dravidien này cho đến nay vẫn là một dân tộc riêng biệt, trừ phi họ hấp thụ tôn giáo của giống dân Aryen đã chinh phục họ. Mặt trời nóng gắt vùng nhiệt đới đã làm cho màu da họ trở thành sậm gần như đen, và điều này, tổng hợp với những bằng chứng khác, đã làm cho vài nhà nhân chủng học nghĩ rằng họ xuất xứ từ những chủng tộc ở Phi Châu. Cũng như ngày xưa, khi họ còn làm bá chủ xứ Ấn Độ, người dân Dravidien vẫn còn để tóc dài và cột lại thành một búi nhỏ ở phía sau gáy, và họ vẫn còn nói những thổ ngữ địa phương, mà tiếng sinh ngữ quan trọng nhất là tiếng Tamoul.
Brama quả quyết rằng những dân chinh phục thuộc chủng tộc Aryen màu da đồng bạch đã hấp thụ được đạo pháp Yoga của giống dân Dravidien truyền lại, cũng như nhiều ngành văn hóa khác nữa. Nhưng tôi đã hỏi vài nhà trí thức Ấn Độ về vấn đề này thì họ đều cho là không phải. Tôi xin nhường lại cho các nhà học giả giải quyết lấy vấn đề này.
Không có ý định viết một đề luận về phương pháp thể dục của khoa Yoga Ấn Độ, tôi chỉ nói sơ qua về những nguyên tắc đại cương của khoa Pháp Môn này. Những tư thế (Asana) mà Brama biểu diễn cho tôi xem, hoặc dưới bóng mát của hàng dừa bên bờ sông, hoặc ở tại nhà tôi, gồm những phép tập luyện rất lạ kỳ và rất khó khăn đến nỗi theo sự nhận xét của người Âu Tây thì nó dường như là lố bịch và không thể làm được. Một vài tư thế đó gồm có những phép tập công phu như sau đây: Chống hai tay xuống đất, nép hai khủyu tay vào hai bên hông và nâng đỡ hết sức nặng của toàn thân trên các đầu ngón tay; tư thế này gọi là Mayurasana. Hoặc ngồi xếp bằng, tréo hai tay ra sau lưng và tìm cách đưa hai bàn tay ra đằng trước để nắm lấy hai ngón chân cái (Padmasana). Hoặc cả hai tay hai chân đều tréo lại với nhau, làm thành một cái gút rất là phức tạp. Hoặc vắt hai chân lên cổ hay lên vai hoặc những thế ngồi vặn vẹo thân mình một cách kỳ dị không thể tưởng tượng. Nhìn xem Brama biểu diễn những cách tập luyện đó, tôi bắt đầu nhận thấy sự khó khăn của pháp môn Hatha Yoga. Tôi hỏi:
- Tất cả có bao nhiêu tư thế?
- Pháp môn Hatha Yoga gồm có tất cả tám mươi bốn tư thế, nhưng tôi chỉ mới biết có sáu mươi bốn tư thế mà thôi.
Y vừa nói vừa biểu diễn một tư thế mới và giữ vững thế ngồi đó một cách tự nhiên dễ dàng như tôi ngồi trên ghế bành. Hình như đó là thế ngồi quen thuộc của y. Tôi thấy tư thế này không phải là khó làm, nhưng chắc chắn không phải dễ chịu. Chân trái xếp cong lại, bàn chân đụng vào hông bên mặt đặt dưới thân mình, chân mặt xếp lại chịu hết sức nặng của toàn thân. Tôi hỏi:
- Tư thế này có ích lợi gì?
- Kèm với một phép thở đặc biệt, người Yogi sẽ cảm thấy khỏe khoắn và trẻ lại như hồi niên thiếu.
- Còn phép thở đó như thế nào?
- Tôi không được phép tiết lộ điều đó.
- Nhưng làm như vậy có mục đích gì?
- Vấn đề ngồi hay đứng trong một tư thế nào và trong một thời gian bao lâu, điều đó không phải là quan trọng. Nhưng sự tập trung ý chí cần thiết để thi hành những tư tưởng đó một cách đúng phép, làm thúc động những mãnh lực tiềm tàng trong người chúng ta. Những mãnh lực đó là những bí mật của thiên nhiên, nó chỉ hoàn toàn phát triển khi nào có kèm theo những phép luyện hơi thở, vì hơi thở có những quyền năng rất nhiệm mầu.
Sự kích động những mãnh lực tiềm tàng đó là mục đích chính của pháp môn Hatha Yoga. Có những tư thế khác giúp cho chúng ta chủ trị giác quan và luyện tinh thần, vì ai cũng biết rằng xác thể con người có thể ảnh hưởng đến thể xác. Trong những giai đoạn cao siêu của pháp môn Yoga, khi người hành giả phải tham thiền và nhập định trong nhiều giờ, thì thế ngồi của xác thể là một điều rất quan trọng, vì nó giúp cho sự tập trung tư tưởng được dễ dàng, giúp thêm sức tinh tấn cho người hành giả và tăng cường rất nhiều quyền năng của ý chí. Như thế bạn thấy pháp môn Hatha Yoga có ích lợi là dường nào.
- Còn những thế ngồi vặn vẹo thân mình như thế là để làm gì?
- Bạn đã biết rằng những trung tâm bí yếu của thần kinh hệ ở rải rác nhiều chỗ trong thân thể. Mỗi tư thế đều có công dụng ảnh hưởng đến một trung tâm nhất định. Nhờ kích động các bí huyệt đó, mà ta có thể ảnh hưởng đến sự vận động của các bộ phận trong cơ thể, cũng như đến sự hoạt động của trí não. Những thế ngồi vặn vẹo đó là để kích động đến những bí huyệt của Thần Kinh Hệ mà ngoài ra, người ta không thể dùng cách nào khác.
Tôi mới bắt đầu nhận định một cách rõ ràng hơn về những nguyên tắc căn bản của môn thể dục Hatha Yoga. Môn thể dục này so với những phương pháp thể dục Âu Mỹ khác nhau thế nào, đó là một điều lý thú mà chúng ta nên biết. Tôi bèn hỏi Brama, y nói:
- Tôi không được biết rõ các phương pháp Âu Mỹ, nhưng tôi thấy những lýnh tập người Anh tập luyện ở một quân trại gần Madras. Nhìn xem họ luyện tập, tôi mới hiểu mục đích của các huấn luyện viên. Dường như mục đích chính của họ là tăng cường các bắp thịt, vì người Tây phương các anh luôn luôn hoạt động bằng thể xác. Bởi đó họ vận động tay chân một cách hăng hái mạnh bạo. Họ tiêu phí sinh lực một cách dồi dào, để làm nở nang các bắp thịt và để đổi lại với một sức mạnh dồi dào hơn nhờ sự tập luyện ấy. Điều này lẽ dĩ nhiên là thích hợp với khí hậu lạnh lẽo ở các xứ miền Bắc.
- Theo chỗ bạn thấy, thì hai phương pháp thể dục Đông và Tây khác nhau thế nào?
- Những cách tập theo pháp môn Yoga thật ra chỉ là những tư thế, và không cần vận động tay chân một khi đã giữ vững được một thế ngồi hay đứng nhất định. Thay vì làm nở nang các bắp thịt để kiếm thêm một sức mạnh phụ trội và tăng cường thể xác, chúng tôi nhắm mục đích tăng gia sức chịu đựng dẻo dai bền bĩ của cơ thể. Chúng tôi cho rằng làm nở nang bắp thịt tuy là hữu ích, nhưng chính cái sức mạnh điều khiển và vận động các bắp thịt mới thật là có giá trị nhiều hơn. Nếu tôi chỉ cho anh một tư thế đặc biệt nào đó, một người Âu như các anh có lẽ sẽ làm nó trong một lúc một cách vội vàng, nóng nảy. Như thế, anh sẽ không thu hoạch được những sự ích lợi bằng cách biết thực hành đúng phép như một người Yogi.
- Làm thế nào mới gọi là đúng phép?
- Người Yogi làm một tư thế một cách chậm rãi, có ý thức và giữ vững tư thế ấy trong vài phút. Để tôi chỉ cho anh xem một tư thế vận dụng cả toàn thân.
Brama nằm ngửa xuống đất, duỗi thẳng hai chân và hai tay dọc theo thân mình. Y đưa hai chân lên, giữ hai đầu gối thẳng, cho đến khi hai chân gần làm thành một góc đứng với sàn gạch. Y dùng hai tay đỡ lấy lưng, hai cùi chỏ chống trên sàn gạch. Y dùng hai tay đỡ lấy thân mình. Sức nặng của toàn thân được chống đỡ bằng hai vai, gáy và đầu. Sau khi giữ vững tư thế lộn ngược đầu này độ chừng năm phút, người Yogi bèn từ từ hạ hai chân xuống, ngồi dậy và giải thích sự lợi ích của nó:
- Tư thế này dồn máu xuốngbộ óc do trọng lượng của nó trong vài phút. Lúc bình thường, máu được đưa lên đầu do nơi sức vận động của quả tim. Sự khác biệt giữa hai trường hợp là trong tư thế này, máu dồn xuống óc gây một ảnh hưởng xoa dịu đối với bộ óc và cân não. Đối với những người làm việc bằng trí, như các nhà bác học, học giả, sinh viên, việc thực hành tư thế này sẽ đem lại sự khỏe khoắn cho bộ óc và trí não, khi họ cảm thấy mỏi mệt. Nó còn tăng cường bộ phận sinh dục. Nhưng người ta chỉ thu thập những lợi ích đó bằng cách thực hành theo phương pháp của chúng tôi, chứ không phải làm một cách hấp tấp vội vàng như người Âu Tây các anh.
- Nếu tôi không lầm, thì bạn muốn nói rằng phương pháp Yoga giữ thân thể trong một trạng thái yên tĩnh và thăng bằng, còn phép luyện tập xốc vác ồ ạt của Tây phương làm cho nó bị náo động?
- Đúng như vậy. Brama đồng ý.
Brama còn biểu diễn cho tôi xem vài tư thế khác nữa và giải thích những sự ích lợi của mỗi phép tập luyện. Tôi được biết một tư thế có công dụng tăng cường bộ tủy xương sống, chữa các chứng bệnh thần kinh suy yếu, và giúp cho máu huyết được lưu thông điều hòa. Trong một tư thế khác, những bí huyệt thần kinh ở cổ, ở vai và ở chân được kích động một cách mạnh mẽ, và bộ ngực chịu ảnh hưởng rất tốt.
Một người Âu trung bình thường coi người Ấn Độ như là một dân tộc chậm tiến, di sản của một khí hậu nóng bức và sự thiếu ăn. Chắc họ phải lấy làm ngạc nhiên mà được biết rằng xứ Ấn Độ đã từng có từ thời thượng cổ một phương pháp thể dục tinh vi và huyền diệu như thế. Chúng ta biết rằng những phương pháp thể dục Âu Tây cũng có giá trị rất lớn, nhưng có ai dám kết luận rằng nó đã được hoàn toàn? Ai dám nói rằng nó không còn gì phải cải tiến thêm nữa về các phương diện phát triển cơ năng, bảo tồn sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật? Biết đâu rằng nếu Tây phương đem áp dụng phương pháp khoa học để khảo cứu về môn Hatha Yoga một vài phép dưỡng sinh mầu nhiệm để giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về khoa sinh lý học được hoàn bị hơn, và đưa chúng ta tiến thêm một bước trên con đường đi tìm một đời sống lành mạnh?
Tuy nhiên, người ta phải nhìn nhận rằng chỉ có độ chừng trên một chục tư thế Yoga là để tập luyện và thực hành. Còn lại chừng trên bảy mươi tư thế khác, cái nọ lại càng kỳ dị hơn cái kia, chỉ có thể hấp dẫn những thanh thiếu niên hăng hái, hãy còn trẻ trung và mềm dẻo. Brama cũng nhìn nhận như vậy:
- Tôi đã từng khổ công tập luyện mỗi ngày suốt mười hai năm mới có thể kiềm chế được tất cả sáu mươi bốn tư thế mà tôi biết. Và tôi cũng có cái may mắn là bắt đầu tập khi còn trẻ, vì một người đã lớn tuổi mới bắt đầu tập có thể bị hiểm nguy. Những bắp thịt, gân xương của họ đã cứng và không quen vận động nên dễ bị đau đớn. Tuy thế, với sự kiên tâm bền chí, người ta cũng có thể thu hoạch được những kết quả rất mỹ mãn.
Brama ngừng một lúc rồi nói tiếp:
- Người phương Đông chúng tôi có cái thói quen tập ngồi kiết dà từ thuở nhỏ. Đó là thế ngồi căn bản, làm nền tảng cho tất cả những tư thế khác, và có một ảnh hưởng rất tốt.
Nói xong, y bèn ngồi kiết dà hai chân xếp bằng giống như thế ngồi của các tượng Phật mà tôi đã thấy quen mắt. Y giải thích:
- Thế ngồi này gọi là Liên Hoa Tọa Bộ. Nó rất quan trọng vì nó là thế ngồi của nhà đạo sĩ lúc tham thiền. Nó giúp cho thân thể được vững vàng, nhờ đó người hành giả khỏi bị té ngã nếu y thình lình xuất thần trong cơn nhập định. Điều này rất có thể xảy ra, tuy rằng nói chung thì những nhà đạo sĩ có thể xuất thần và nhập định tùy theo ý muốn.
Bạn hãy nhìn xem, trong thế Liên Hoa, hai chân xếp bằng tròn đem đến cho thân mình một nền tảng vững chắc. Nếu thân mình không được vững thì tâm thần bất định và lo ra, còn trong tư thế này thì người hành giả cảm thấy trong lòng yên ổn và tự tin. Nó giúp cho ta dễ tập trung tư tưởng, đó là điều rất quý đối với chúng ta. Chúng tôi cũng thường dùng thế ngồi này để luyện hơi thở, vì sự phối hợp của hai điều này làm thức động luồng hỏa hầu tiềm tàng trong cơ thể và giúp cho người hành giả khai mở một vài quyền năng.
Câu chuyện của chúng tôi đến đây đã chấm dứt.
Brama đã biểu diễn cho tôi xem đủ một loạt các tư thế khó khăn, những thế ngồi vặn vẹo lạ lùng, và tôi không còn nghi ngờ gì nữa rằng quả thật y đã hoàn toàn làm chủ được thể xác.
Có một người Âu nào có đủ sức kiên tâm bền chí để thực hành những phép tập luyện khó khăn và phức tạp như thế? Có người Âu nào có thời giờ để tập luyện về khoa pháp môn này?
#74
Gửi vào 09/06/2011 - 01:33
KHOA YOGA THẮNG ĐOẠT TỬ THẦN
Phần Bốn
Brama mời tôi lại nhà y chơi. Y ở riêng một cái chòi tranh mà y tự cất lấy ở một góc cuối vườn nhà của bà lão già để được tự do hơn. Tôi đến chơi vào một buổi chiều. Nhà này ở chỗ tận cùng của một con đường đầy bụi bặm và có vẻ nghèo nàn. Tôi ngừng một lúc trước cửa, tường nhà cũ kỹ quét vôi trắng, với một cái gác bằng cây có cửa sổ. Tôi đẩy cánh cửa lớn, tiếng động làm vang khắp nhà. Một bà già vẻ mặt hiền lành vui vẻ bước ra và nghiêng đầu chào tôi nhiều lần. Bà ấy dắt tôi đi qua một hành lang tối tăm đưa đến nhà bếp, thông ra sau vườn.
Trong vườn có một cây cổ thụ cành lá xum xuê, che dưới bóng mát của nó một cái giếng cũ. Phía bên kia giếng có một chòi tranh, một phần ẩn khuất dưới bóng cây mát rượi. Chòi này làm bằng vật liệu nhẹ, cột tre, lợp tranh.
Bà lão chủ nhà da mặt cũng sậm đen như màu da của Brama, có vẻ bận rộn nói một tràng dài tiếng Tamoul với người trong chòi. Một tiếng nói thanh như chuông mà tôi đã quen tai từ bên trong vọng ra, cánh cửa chòi từ từ hé mở, người đạo sĩ hiện ra trước cửa và vui vẻ mời tôi bước vào. Y vẫn để cửa mở, bà già đứng trước cửa độ vài phút, mắt nhìn tôi một cách chăm chú và nét mặt lộ vẻ hân hoan sung sướng.
Trong chòi không có bàn ghế chi cả, ngoại trừ một chiếc giường thấp không có nệm, đặt sát vào vách phía trong, và một tấm gỗ lớn đặt trong góc, trên đó có bày sách vở và giấy tờ. Một bình đựng nước bằng đồng treo bằng một sợi dây từ trên trần nhà thòng xuống, và một chiếc chiếu lớn trải dưới đất.
Brama chỉ chiếc chiếu mời tôi ngồi, và xin lỗi vì nhà không có ghế. Chúng tôi cả ba người đều ngồi xếp bằng, Brama, tôi và một thanh niên Ấn đi theo tôi để làm thông ngôn. Trong vài phút, bà lão bước ra ngoài và trở lại với một bình trà nóng mà bà ấy đặt trên một tấm khăn trắng trải trên chiếc chiếu, cùng với bánh ngọt, cam, chuối đựng trên những chiếc mâm nhỏ bằng đồng. Trước khi mời tôi dùng trà, người đạo sĩ hai tay cầm một tràng hoa kết thành vòng đặt lên cổ tôi. Tôi tỏ ý khiêm nhường, tôi biết rằng phong tục Ấn Độ dành cái danh dự này cho những vị quý khách, mà tôi thì không dám tự liệt mình vào hạng khách đặc biệt đó. Brama mỉm cười và nói:
- Bạn ơi! Bạn là người Âu đầu tiên đến nhà tôi và cũng là người Ân đầu tiên làm bạn với tôi. Bà dì tôi với tôi cùng lấy làm vui mừng mà đón tiếp cái danh dự này.
Tôi đành phải nhận lấy vòng hoa trên cổ. Cũng may mà các bạn tôi ở Âu Châu không nhìn thấy tôi ăn vận lố lăng như hôm ấy.
Chúng tôi vừa uống trà, ăn bánh trái và vừa nói chuyện. Brama cho biết rằng chòi tranh và đồ vật dụng bằng gỗ trong nhà đều do tự tay y cất lên và đóng lấy.
Những giấy tờ để trên chiếc ghế dài bằng gỗ khêu gợi sự tò mò của tôi. Đó là những tờ giấy màu hường, trên đó có viết chữ bằng mực xanh. Brama đưa cho tôi xem vài tờ và giải thích rằng đó là thứ chữ Tamoul cổ xưa, thông dụng trong văn chương cách đây đã nhiều thế kỷ nhưng ngày nay ít có người hiểu, trừ ra một vài người học giả lỗi lạc. Brama nói thêm:
- Tôi viết cái này đêm hôm qua. Đó là những câu tóm tắt những kinh nghiệm của tôi về pháp môn Yoga, hoặc những bài thơ của tôi làm trong những lúc cảm hứng tâm linh. Một vài thanh niên trẻ tuổi tự cho là những đệ tử của tôi, thường đến đây để xem những bài thi đó.
Nói xong, Brama lấy một bản văn kiện tô điểm một cách ngây thơ, gồm có vài tờ giấy màu hường, viết chữ bằng mực đỏ và xanh, và cột chung lại bằng một sợi chỉ màu xanh. Y vừa mỉm cười vừa đưa cho tôi và nói:
- Tôi viết cái này để tặng riêng cho bạn.
Người thông ngôn cho biết rằng đó là một bài thi trường thiên dài tám mươi bốn câu, nhưng vì viết bằng chữ cổ tự nên y không thể dịch được. Dầu sao, món quà này cũng làm tôi vui lòng, vì nó tiêu biểu cho cái cảm tình đặc biệt của một người Yogi chân chính đối với tôi.
Sau những câu chào hỏi đầu tiên, bà lão lui ra ngoài và chúng tôi mới bước qua những câu chuyện sâu xa hơn. Tôi trở lại vấn đề luyện phép khí công, tức phép luyện hơi thở, mà những nhà đạo sĩ coi như là một điều rất quan trọng và giữ gìn rất bí mật. Brama liền chận tôi lại và nói rằng y không được phép tiết lộ cho tôi biết nhiều hơn những điều y đã nói, nhưng y có thể nói vài chi tiết về phần lý thuyết của pháp môn Yoga về điểm này.
- Luật tự nhiên đã định cho con người thở với một số nhịp độ là 21, 600 lần trong một ngày và đêm. Một sự hô hấp quá mau và hấp tấp làm tăng cái nhịp độ nói trên và thâu ngắn sự sống. Một sự hô hấp chậm rãi, dài và đều đặn làm tiết kiệm số nhịp độ đó và kéo dài sự sống. Mỗi hơi thở tiết kiệm được sẽ tích tụ lại thành một số dự trữ để giúp cho con người có thể kéo dài sự sống thêm nhiều năm. Bởi đó, người Yogi thở chậm hơn người thường và vẫn khỏe mạnh. Nhưng tôi không thể nói nhiều hơn, vì tôi đã có lời thệ nguyện.
Sự dè dặt này làm tôi thất vọng. Một khoa pháp môn mà người ta giữ bí mật một cách chặt chẽ như vậy hẳn là phải có một giá trị rất lớn. Và người ta sẽ hiểu rằng tại sao những nhà đạo sĩ gìn giữ cái kho tàng quý báu đó mà không chịu tiết lộ cho những kẻ phàm tục tò mò, và những người không xứng đáng, hoặc chưa chuẩn bị sẵn sàng. Nhưng nếu tôi cũng bị liệt vào hạng người này thì, thôi hỏi nữa làm gì tốn công vô ích?
Brama nói tiếp:
- Những bậc danh sư của chúng tôi nắm được cái chìa khóa của phép hô hấp này. Họ biết rằng hai bộ máy hô hấp và tuần hoàn đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Họ cũng biết rằng tinh thần có liên hệ trực tiếp đến hai bộ máy nói trên, và nắm được cái bí quyết làm kích động ý thức tâm linh bằng cách kiểm soát hơi thở. Ta nên biết rằng hơi thở chỉ là sự biểu lộ trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn, sức mạnh này mới là cái trụ cột sinh hoạt của xác thể: Chính cái sức mạnh đó ẩn tàng, vô hình, vô ảnh, trong tất cả những bộ phận cơ thể của chúng ta. Khi nó rời khỏi xác thân, thì hơi thở sẽ ngưng lại, và đó là điều mà ta gọi là sự chết. Sự kiểm soát hơi thở sẽ giúp cho ta làm chủ được phần nào cái luồng sinh lực đó. Và khi mà sự chủ trị xác thân được thực hiện đến mức triệt để, để có thể kiểm soát được cả sự vận động của quả tim, thì bạn đừng tưởng rằng những nhà hiền triết thời cổ của chúng tôi chỉ nghĩ đến phần hình hài thể xác mà thôi khi các Ngài bắt đầu truyền thụ pháp môn Hatha Yoga này!
Các nhà Hiền Triết thời xưa có muốn gì thì muốn, trong lúc hiện tại, tôi chỉ nghĩ đến câu y vừa nói; tôi liền hỏi:
- Phải chăng bạn vừa nói rằng người ta có thể làm chủ được sự vận động của quả tim?
- Thật vậy, những bộ phận chánh, tức ngũ tạng trong châu thân là tim, gan, bao tử, phổi, thận, chúng tôi đều có thể chế ngự được một phần nào tùy theo ý muốn.
- Bằng cách nào?
- Bằng sức mạnh của ý chí phối hợp với những phép luyện thích nghi. Phép luyện này tự nhiên là thuộc về trình độ cao đẳng của pháp môn Yoga. Phép ấy rất khó và ít người hành giả có thể luyện đúng phép. Nhờ nó mà tôi có thể chủ trị được phần nào những thớ thịt của quả tim, và nhờ sai khiến được quả tim nên tôi có thể chế ngự được những bộ phận khác.
- Điều ấy thật lạ lùng.
- Vậy sao? Đây này, bạn hãy để bàn tay trên ngực tôi, ở ngay chỗ quả tim.
Brama vừa nói vừa giữ một thế ngồi lạ lùng và nhắm mắt lại. Tôi làm theo và đợi thử vài phút, trong khi đó tôi không thấy có điều gì lạ. Lần lần, tôi nhận thấy quả tim đập chậm lại. Những tiếng đập mỗi lúc càng đập chậm thêm, chậm thêm nữa, và tôi bỗng rùng mình kinh ngạc khi tôi nhận thấy tiếng đập của quả tim ngưng lại. Tôi đếm: Hiện tượng đó kéo dài trên bảy giây đồng hồ. Phải chăng đây là một ảo tưởng? Nhưng không, tôi thử sờ mó, bóp nắn da thịt tôi, tôi vẫn tỉnh táo chứ không mê sảng. Tôi cảm thấy đỡ lo khi quả tim y bắt đầu đập trở lại, dường như nó đã sống lại, đập mau hơn và trở lại bình thường. Vài phút sau, người Yogi mới tỉnh lại và mở mắt ra. Y hỏi:
- Bạn có nhận thấy gì không? .
- Có, tôi nhận thấy rõ lắm.
Y lại sắp phát minh thêm điều gì lạ nữa chăng? Dường như y đọc được tư tưởng tôi, và y lại nói tiếp:
- Đó là chưa thấm vào đâu so với những điều mà thầy tôi làm. Người có thể cô lập một huyết quản, và điều hành hoặc ngăn chận sự lưu thông máy huyết trong đó. Tôi cũng làm như vậy được một phần nào, nhưng không bằng Thầy tôi.
- Bạn làm thử tôi xem.
Brama đưa cườm tay cho tôi và bảo tôi bắt mạch. Tôi nhận thấy mạch máu đập chậm lại rõ rệt, rồi ngưng hẳn. Tôi băn khoăn ngồi đợi. Một phút, hai phút ... Trôi qua trong khi đó tôi đếm được từng giây đồng hồ. Ba phút ... đến ba phút rưỡi, tôi thấy mạch máu lại bắt đầu chuyển động, lúc đầu còn hơi chậm, kế đó nó đập lại như thường. Tôi bất giác nói:
- Thật lạ quá!
- Ấy là chưa có gì! Y đáp một cách tự nhiên.
- Bạn muốn cho tôi xem điều gì nữa chăng?
Lần này, Brama hơi do dự:
- Được, nhưng đây là lần cuối cùng, và bạn hãy bằng lòng với bấy nhiêu đó. Bây giờ tôi sẽ ngưng hơi thở.
- Nhưng bạn có thể chết! Tôi nói một cách băn khoăn lo lắng, nhưng câu nói của tôi không làm cho y nản lòng. Y bèn bảo tôi:
- Bạn hãy để bàn tay dưới hai lỗ mũi của tôi thử xem.
Tôi làm y theo lời. Tôi cảm thấy rõ rệt trên bàn tay hơi thở ấm của y. Brama nhắm mắt lại và ngồi yên không cử động như một pho tượng đá. Y sắp nhập định chăng? Tôi không dám nhúc nhích bàn tay, lần lần hơi thở của y chậm lại rồi ngưng hẳn. Tôi nhìn kỹ hai lỗ mũi, cặp môi, hai vai, bộ ngực của y, nhưng không có gì cử động, không có dấu hiệu gì chỉ rằng có hơi thở. Nhưng đó không phải là những bằng chứng tuyệt đối, tôi cũng biết như vậy, nên tôi tìm những bằng chứng khác. Trong nhà không có một mảnh gương nào, nhưng tôi thấy một bên có một cái dĩa đựng tro thuốc lá bằng đồng đánh bóng. Tôi bèn dừng thử, và đặt nó dưới hai lỗ mũi và trước miệng của người Yogi. Không có một hơi thở nào làm mờ cái mặt dĩa bằng đồng bóng loáng. Thật là kỳ lạ! Trong cái chòi tranh này, hiện giờ tôi đang chứng kiến một sự kiện lạ lùng, một hiện tượng mà ngày kia các nhà bác học Âu Tây phải tìm tòi khảo cứu! Sự thật rõ ràng ngay trước mắt tôi, với một bằng chứng hiển nhiên: Pháp môn Yoga không phải là điều mộng ảo!
Khi Brama tỉnh dậy và trở lại trạng thái bình thường, y có vẻ mệt mỏi. Y hỏi, nhưng lần này với một nụ cười hơi mệt nhọc:
- Bạn có hài lòng chăng?
- Rất hài lòng, nhưng tôi chẳng hiểu chi cả.
- Tôi không có quyền giải thích cho bạn nghe. Phép ngưng thở này chỉ dành cho những bậc hành giả đã tiến nhiều trên đường tu luyện về pháp môn Yoga. Đối với một người Âu, nó có thể là một sự điên rồ, nhưng đối với người phương Đông chúng tôi, nó có một tầm quan trọng rất lớn.
- Tuy thế, khi chúng ta học ở trường thì vẫn nghe thấy dạy rằng người ta không thể sống được nếu không có sự hô hấp. Điều đó không phải là điên rồ, phải chăng?
- Không, nhưng nói như thế không đúng. Tôi có thể ngưng hơi thở suốt hai giờ đồng hồ nếu tôi muốn. Tôi vẫn thường làm như thế, nhưng tôi vẫn chưa chết, như bạn đã thấy. Y vừa nói vừa mỉm cười.
- Tôi không muốn hỏi nhiều vì bạn phải giữ bí mật, nhưng bạn có thể nói cho biết sơ qua vài điều về phần lý thuyết chứ?
- Điều đó thì được. Chúng ta có thể lấy vài thí dụ trong loài cầm thú. Đó là một phương pháp giảng dạy đặc biệt của thầy tôi, con voi thở chậm hơn con khỉ rất nhiều, bởi đó nó cũng sống lâu hơn. Một thí dụ khác là vài loại bò sát như con trăn chẳng hạn so với con chó. Bạn sẽ thấy cách thở của hai giống này mau chậm khác nhau rất xa, và tự nhiên là con trăn sống lâu hơn. Như vậy, chúng ta thấy hình như có một sự tương quan giữa sự hô hấp và sự sống lâu.
Bây giờ, chúng ta hãy đi xa hơn. Người ta thấy trên núi Hi Mã Lạp Sơn có những con dơi nằm ngủ suốt mùa đông. Những con dơi đó tự treo cẳng suốt nhiều tháng trên vách những hang núi và ngưng thở hoàn toàn cho đến khi chúng tỉnh giấc vào mùa xuân. Loài gấu trên dãy Hi Mã Lạp Sơn có đôi khi nằm cứng đơ cả thân mình trọn suốt mùa đông giá lạnh, coi dường như không còn sinh hoạt gì nữa. Cũng trên dãy Hi Mã Lạp Sơn là nơi khó tìm ra vật thực vào những tháng mùa Đông đầy tuyết phủ, người ta thấy trong những hang hố dưới đất có những con nhím ngủ một giấc dài nhiều tháng, và mọi sự hô hấp đều ngưng bặt. Như vậy, tại sao con người lại không thể làm được điều mà loài vật vẫn thường làm một cách tự nhiên?
Những điều kể trên cũng thật là lạ lùng, nhưng ít làm cho tôi tin tưởng bằng những sự biễu diễn của y hồi lúc nãy. Chúng ta vẫn quen cho rằng hơi thở là cần thiết cho sự sống, đến nỗi không dễ gì mà bỏ hẳn cái quan niệm đó. Tôi nói:
- Người Âu chúng tôi chắc không bao giờ nhìn nhận rằng sự sống có thể tiếp tục nếu người ta ngừng thở.
- Nhưng sự sống vẫn tiếp tục luôn luôn. Sự chết chẳng qua chỉ là một hình thức sinh hoạt khác thường mà thôi.
- Bạn có cho rằng người Yogi tu luyện theo pháp môn này hẳn có thể thắng được Tử Thần hay chăng?
- Hẳn là như vậy rồi.
Brama nhìn tôi một cách lạ lùng và nói tiếp theo:
- Tôi thấy bạn có nhiều triển vọng, vì thế nên tôi chịu tiết lộ cho bạn một điều bí mật, nhưng với điều kiện là ...
- Bạn hãy nói luôn.
- Bạn hứa sẽ không tập luyện những gì khác hơn là những điều tôi có thể nói bạn biết.
- Tôi xin hứa.
- Phải chăng từ trước đến giờ, bạn vẫn tưởng rằng nếu ta cầm lại hơi thở trong mình, thì ta cũng bảo tồn được sự sống trong cơ thể?
- Dường như thế.
- Chúng tôi cũng không nói gì khác hơn. Chúng tôi chỉ nói rằng người hành giả nào có thể cầm lại hơi thở trong mình tùy theo ý muốn, sẽ nhờ đó mà giữ lại nguồn sinh lực trong cơ thể y. Bạn hiểu rõ chăng?
- Tôi cũng ráng hiểu.
- Bạn hãy tưởng tượng rằng người Yogi có thể cầm lại hơi thở không những chỉ trong vài phút, mà trong nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm. Vì bạn đã nhìn nhận rằng hơi thở ở đâu tức là sự sống ở đó, thì phải chăng đây là triển vọng để con người có thể kéo dài sự sống tùy theo ý muốn?
Tôi không còn biết nói sao. Làm sao có thể bảo rằng điều đó là vô lý? Nhưng làm sao tôi có thể chấp nhận điều ấy mà không có sự kiểm điểm lại một cách chặt chẽ? Những nhà thuật sĩ của phái Luyện Kim (Alchimistes) hồi thời Trung cổ cũng đã từng nuôi cái mộng trường sinh bất tử, nhưng dưới ngọn lưỡi hái của Thần Chết, họ vẫn ngã quỵ hết người nọ đến người kia ngay bên cạnh những lò luyện Kim Đơn để tìm ra thuốc phản lão hoàn đồng! Có lẽ Brama tự dối lấy mình, nhưng có điều chắc chắn là y không có ý định lừa dối tôi. Y không hề có ý đến tìm kiếm tôi hay tìm kiếm một người đệ tử nào cả. Y điên chăng? Không phải vì y lý luận mọi sự một cách hoàn toàn sáng suốt. Hay là y chỉ tự dối lấy mình? Một cái gì bảo cho tôi biết là không. Tôi không biết nghĩ sao.
- Bạn không tin à? Bạn có nghe nói về một người thuật sĩ chịu để cho vua Ranjit Singh chôn sống trong một huyệt xây bằng đá ở Lonhorw chăng? Khi đem chôn sống có cả sự hiện diện của những viên sĩ quan Anh và nhà vua Singh. Ngôi mộ được giao cho quân sĩ canh gác suốt ngày đêm trong sáu tuần lễ, đúng ngày, người ta mới cậy nắp quan tài thì người thuật sĩ Ấn Độ ở trong chui ra vẫn còn sống nhăn, không sao cả! Bạn hãy điều tra lại xem, tôi nghe nói rằng việc này đã được phúc trình cẩn thận và tờ biên bản vẫn còn được lưu trữ trong văn khố của chánh phủ Anh.
Như vậy, người thuật sĩ đã hoàn toàn chủ trị được phép hô hấp và có thể ngưng thở tùy ý muốn mà không sợ chết. Tuy thế, y cũng chưa phải là một môn đồ chân chính của pháp môn Yoga, vì tôi có nghe nói rằng đời tư của y chẳng có gì đáng ca tụng. Y tên là Haridas và sống ở miền Bắc Ấn. Nếu người ấy có thể ngừng thở mà vẫn sống trong một thời gian lâu như thế ở một chỗ bít bùng không có không khí, thì thử hỏi: Các bậc danh sư của môn phái chúng tôi, là những người không thích quảng cáo và không hề vụ lợi, còn có thể làm được tới những điều gì nữa?
Sau một lúc im lặng, Brama tiếp:
- Pháp môn Yoga còn đem lại cho ta nhiều quyền năng khác nữa. Nhưng trong thời buổi suy đồi hiện nay, có mấy ai là người chịu công phu cố gắng tu luyện?
- Làm sao bây giờ, khi người ta còn phải lăn lộn trong đời sống hàng ngày, thì không còn thời giờ để nghĩ đến những hoạt động cho một lý tưởng nữa.
- Đúng vậy, những phép tu luyện này chỉ để dành cho một số ít người. Như thế, bạn sẽ hiểu tại sao nó được các bậc danh sư giữ gìn trong im lặng và bí mật hoàn toàn. Những bậc danh sư ấy không bao giờ đi tìm đệ tử, mà chính các đệ tử phải đi tìm các Ngài.
Lần sau, Brama đến dùng cơm tại nhà tôi. Cơm nước xong chúng tôi ra ngồi ngoài hàng ba dưới ánh trăng sáng. Tôi ngồi trên ghế còn Brama thích ngồi trên chiếu trải sàn gạch. Chúng tôi ngồi im lặng trong vài phút để thưởng thức cái đẹp của đêm trăng. Nhưng nhớ lại câu chuyện lần trước, tôi vẫn còn tò mò muốn biết thêm về vấn đề kỳ quái là có những người có thể lường gạt được Tử Thần!
Brama nói:
- Một trong những vị danh sư của môn phái chúng tôi sống trong vùng hẻo lánh trên dãy núi Nilgiri, và không hề bước ra khỏi am. Một vị khác sống trong động đá trên dãy Hi Mã Lạp Sơn. Những người ấy bạn không bao giờ gặp được vì họ lánh xa cõi thế tục. Tuy thế, theo truyền thuyết của người trong xứ thì các vị ấy đã từng sống đến vài trăm năm nay.
- Bạn có tin như vậy chăng?
- Lẽ dĩ nhiên, vì chính Thầy tôi cũng là một người trong số đó.
Thầy của y! Vì bây giờ chúng tôi đã quen nhau như thế này và giữa chúng tôi không còn sự lạnh lùng cách biệt nữa, nên tôi đánh liều hỏi một câu:
- Brama, Thầy của anh là ai?
Y còn do dự trong một lúc, nhưng liền nói với một giọng trang nghiêm:
- Thầy tôi danh hiệu là Yetrumbu Swami. Ở dưới miền Nam, đệ tử của Người cũng đông, nhưng Người thường đi lên miền Bắc và ở trên dãy Hi Mã Lạp Sơn.
- Tôn Sư đã đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga chưa?
- Điều đó hẳn là dĩ nhiên rồi.
- Và bạn tin rằng lệnh Tôn Sư đã sống đến ...
- Trên bốn trăm năm
Brama nói câu đó với một giọng vô cùng tự nhiên, và y nhìn thấy sự ngạc nhiên trong cặp mắt của tôi. Y nói tiếp:
- Tôn Sư thường kể cho tôi nghe nhiều chuyện mà người đã từng chứng kiến và đã xảy ra dưới triều đại các vua Hồi. Người cũng thuật cho tôi nghe những chuyện xảy ra từ hồi Công Ty Ấn Độ của người Anh mới bắt đầu thành lập tại Madras.
Điều này thật khó mà tin được, đối với một kẻ đa nghi như tôi. Tôi nói:
- Nhưng bất cứ một đứa học trò nào đã học lịch sử cũng nói được những điều đó.
Brama làm như không nghe và nói tiếp:
- Thầy tôi còn nhớ rõ trận Panipat và có nói với tôi rằng Người không bao giờ quên những ngày kỷ niệm đầu tiên của trận Plassey. Tôi còn nhớ có lần nghe người nói chuyện về một đệ tử tên là Beahudananda, như là nói một đứa trẻ con. Người đệ tử này hồi đó đã được tám mươi tuổi.
Dưới ánh trăng, tôi nhìn thấy rõ vẻ mặt bình thản tự nhiên của người Yogi khi y nói những chuyện lạ lùng trên đây. Một người Âu đã từng quen suy luận với những phương pháp sưu tầm của khoa học tiên tiến, làm sao có thể chấp nhận những điều này mà không có sự điều tra chắc chắn? Dầu sao, Brama là người Ấn Độ, chắc y cũng vẫn còn cái thói quen hay tin tưởng những chuyện hoang đường. Tôi vẫn lẳng lặng ngồi nghe, để cho y nói:
- Tôn Sư đã từng làm cố vấn cho một vị Quốc Vương xứ Nepal trên mười một năm. Dân chúng xứ này quý mến người như Thần Thánh. Người cũng đối với họ như cha đối với con. Người gạt bỏ mọi sự thành kiến về giai cấp và coi mọi người cùng bình đẳng như nhau.
- Nhưng làm sao một người có thể sống lâu như thế?
Brama mơ màng nhìn về cõi xa xăm, dường như quên cả sự có mặt của tôi; y đáp:
- Có ba phương pháp để kéo dài sự sống. Phương pháp thứ nhất là tập hết tất cả những tư thế (Asana), và tất cả các phép luyện khí công, gồm cả những phép luyện bí mật của pháp môn Hatha Yoga. Những phép tập luyện này lẽ tự nhiên là phải được thực hành cho đến mức toàn hảo, điều này chỉ có thể thực hiện được dưới sự dìu dắt của một bậc danh sư đã có nhiều kinh nghiệm.
Phương pháp thứ hai là thường dùng một vài loại cỏ thuốc rất quý và rất hiếm, mà chỉ có một vài vị danh sư của môn phái chúng tôi biết được. Những vị ấy đi tìm những loại cỏ này trong vòng bí mật và dấu trong mình mỗi khi đi đâu xa. Khi đến lúc một vị phải từ giã cõi đời, thì người chọn trong số các đệ tử một người xứng đáng nhất và tiết lộ cho y biết sự bí mật về loại cỏ quý đó. Người này từ nay sẽ là người duy nhất được biết sự bí mật ấy mà thôi. Còn phương pháp thứ ba thì hơi khó nói một chút.
- Bạn cứ nói luôn.
- Tôi nói ra chắc là bạn sẽ bật cười!
Tôi cam đoan với y rằng trái lại, tôi rất quý trọng những điều tiết lộ của y. Y nói:
- Vậy thì đây: Trong bộ óc con người có một lỗ trống nhỏ, là chỗ của linh hồn, nó có một thứ nắp che đậy phía ngoài. Nơi dưới đốt tận cùng của xương sống, là chỗ xuất phát luồng sinh lực mà chúng ta đã có dịp nói đến. Sự tiêu hao luồng sinh lực đó gây nên sự già nua, trái lại, kiểm soát được nó sẽ giúp cho ta được sống lâu.
Khi một người đã hoàn toàn làm chủ được thể xác, y có thể bắt đầu tập kiểm soát luồng sinh lực này bằng những phép luyện bí mật mà chỉ có những người Yogi thượng đẳng của môn phái chúng tôi mới biết được mà thôi. Nếu y làm cho luồng sinh lực vô hình đó đi ngược lên đến tận phần trên của tủy xương sống, y sẽ cố gắng gom nó lại trong chỗ lỗ trống trong bộ óc mà tôi vừa nói ở trên. Nhưng phải có một vị danh sư giúp y mở cái nắp che đậy ở phía ngoài. Nếu y tìm được một người Thầy bằng lòng giúp y việc đó, thì luồng sinh lực nói trên sẽ lọt vào chỗ lỗ trống và sẽ có cái tác dụng của một thứ nước Cam lồ trường sinh như chúng ta thường nghe nói.
Đó không phải là chuyện dễ làm. Kẻ táo bạo dám luyện thử một mình chắc chắn sẽ chết toi mạng! Trái lại người luyện được thành công có thể đánh lừa được Thần Chết. Người Yogi nào thực hành đủ ba phương pháp nói trên có thể sống đến vài trăm năm, nếu y muốn. Y có thể chọn ngày giờ chết của mình, và chừng đó sự khám nghiệm tử thi sẽ kết luận rằng y chết một cách tự nhiên. Khi y chết, loài sâu bọ sẽ không phạm đến thể xác của y, xác y sẽ tươi như hồi sống và sẽ không hề hư hại trải qua nhiều thế kỷ.
Tôi tỏ lời cám ơn Brama, và mặc dù tôi rất thích thú, nhưng tôi cũng vẫn chưa chịu tin. Khoa Sinh Lý Học không hề biết đến luồng sinh lực đó, và tôi e rằng những chuyện lạ kỳ trên đây chỉ có trong óc của những người chất phác và hồn nhiên ở xứ này. Tuy nhiên, sự kiểm soát hơi thở và mạch máu mà tôi đã chứng kiến, cũng đủ chứng minh rằng quyền năng của các nhà đạo sĩ không phải là những điều viễn vông, và những quyền năng đó có thể làm nhiều việc phi thường. Theo ý tôi, thì đó là tất cả những gì mà người ta có thể nói về vấn đề này. Tôi vẫn giữ im lặng và không muốn thổ lộ những ý tưởng riêng của mình. Brama lại nói tiếp:
- Tất cả mọi người ai cũng muốn thắng sự chết, nhưng bạn đừng quên rằng áp dụng phương pháp này rất nguy hiểm. Bởi đó, không ai ngạc nhiên mà thấy rằng những vị danh sư của chúng tôi giữ gìn những phép luyện đó trong vòng bí mật, chẳng khác nào người ta giữ vật báu.
- Bạn có thể cho tôi biết phương pháp đó được chăng?
- Người ta phải tập đi cho vững trước khi tập chạy mau.
Tôi xin hỏi bạn một câu cuối cùng:
- Thầy bạn hiện nay ở đâu?
- Người ở ẩn trong một ngôi đền hẻo lánh ở vùng núi non xứ Nepal.
- Bạn có nghĩ rằng một ngày kia, Tôn Sư sẽ trở xuống đồng bằng hay chăng?
- Làm sao tôi biết được ý nghĩ của Tôn Sư? Người có thể ở lại xứ Nepal thêm nhiều năm nữa trước khi xuống núi để đi ta bà khắp nơi. Người thích ở Nepal hơn ở Ấn Độ bởi vì ở xứ đó, môn phái của chúng tôi thịnh hành hơn. Pháp môn Hatha Yoga có những cách dạy khác nhau tùy theo môn phái, và môn phái của chúng tôi gọi là Tantra, được người Nepal thông hiểu dễ dàng hơn là người Ấn.
Brama trở lại với sự im lặng. Chắc y để tư tưởng đi xa lắm và nhớ đến hình ảnh của vị Tôn Sư quý mến. Ôi! Nếu những điều tôi vừa nghe không phải là một ảo tưởng, thì thật là một triển vọng đáng mừng cho những ai là người nuôi cái mộng trường sinh bất tử.
Đêm Ấn Độ đến rất mau chóng, chứ không có một hoàng hôn kéo dài như ở trời Âu. Khi bóng tối bao phủ cái chòi tranh của y, Brama thắp một ngọn đèn dầu treo lủng lẳng trên xà nhà bằng một sợi dây, và chúng tôi ngồi dưới ánh đèn dầu leo lét. Bà lão bước ra ngoài một cách kín đáo để cho chúng tôi tự do nói chuyện, với một người thông ngôn trẻ tuổi của tôi đem theo. Khói nhang tỏa khắp gian phòng một mùi hương huyền bí. Ý nghĩ về sự chia ly sắp đến làm cho tôi buồn man mác, tôi cố gắng vượt qua cơn buồn ám ảnh, nhưng vô hiệu.
Vấn đề bất đồng ngôn ngữ, và phải nói chuyện qua một người thứ ba là một sự chướng ngại, vì tôi không thể bày tỏ tâm sự đang tràn ngập cõi lòng tôi theo như ý tôi muốn. Trong giờ phút này, những lý thuyết lạ lùng kia có thật hay không, điều đó không quan hệ lắm. Điều đáng kể, là người đạo sĩ đã vui vẻ sốt sắng để cho tôi bước vào cuộc đời cô độc đơn chiếc của y. Tôi đã nhận thấy có sự thông cảm giữa hai tâm hồn chúng tôi, và bây giờ tôi đã hiểu rằng đối với một người như vậy, thật là một sự hy sinh lớn lao mà dẹp bỏ sự dè dặt kín đáo của mình để thổ lộ tâm sự với một người lạ mặt. Nhưng lúc này lòng mong muốn hiểu biết thêm của tôi lại thắng thế. Tôi viện cớ sắp từ biệt y trong nay mai để cố gắng thuyết phục y tiết lộ cho tôi một vài điều bí mật cuối cùng. Nhưng y đã giữ thế thủ:
- Anh có sẵn sàng từ bỏ chốn phồn hoa náo nhiệt của thị thành và ẩn mình nơi thanh vắng của chốn núi rừng tịch mịch chăng?
- Điều đó cần phải được suy nghĩ kỹ, Brama.
- Anh có sẵn sàng từ bỏ mọi hoạt động, mọi công việc làm ăn, mọi thú vui trần tục, và để trọn thời giờ thực hành pháp môn Yoga, không phải chỉ trong một lúc, mà trong nhiều năm liên tiếp chăng?
- Chắc là không, tôi chưa đủ chuẩn bị sẵn sàng. Một ngày kia, có lẽ ...
- Nếu vậy, tôi không thể nào dìu dắt bạn đi xa hơn. Pháp môn Yoga không phải là một môn tiêu khiển trong những giờ nhàn rỗi.
Thế là tôi sẽ không bao giờ trở nên Đạo sĩ! Phải thành thực mà nhìn nhận như vậy. Một môn tu luyện khó khăn như thế, với một kỷ luật gắt gao khổ hạnh, không phải để dành cho một kẻ hoài nghi như tôi! Tuy nhiên, có một cái gì nó hấp dẫn tôi hơn là những quyền năng của xác thể. Tôi bèn bày tỏ tâm sự với người đạo sĩ:
- Brama, những quyền năng đó hẳn là một điều huyền diệu và hấp dẫn vô cùng. Tôi mong ước có ngày tôi sẽ được thụ giáo theo pháp môn Yoga của bạn. Nhưng rốt cuộc, nó có thể đem đến cho ta một sự hạnh phúc lâu bền nào chăng? Trong khoa Yoga, còn có một mục đích nào cao hơn nữa chăng? Tôi không biết bạn có hiểu ý tôi không?
Brama mỉm cười và nói:
- Tôi hiểu. Những Thánh Kinh của Ấn Độ nói rằng pháp môn Hatha Yoga (luyện xác thân) phải đi đôi với pháp môn Raja Yoga (luyện tinh thần). Sự thật, pháp môn trên chỉ là dọn đường cho pháp môn Hatha Yoga, các Ngài biết rằng đó không phải chỉ ngắm vào mục đích tinh luyện cái thể xác vật chất mà thôi ... Các Ngài hiểu rằng sự chinh phục thể xác chỉ là một bước đầu tiên đưa đến sự rèn luyện tinh thần, và điều sau này cũng chỉ là một giai đoạn đưa con người đến một mục đích Toàn Thiện.
- Như thế, chắc là còn có một pháp môn chuyên về việc rèn luyện tinh thần?
- Đúng vậy, và mục đích của pháp môn đó là dùng lý trí con người như một ngọn đèn pha để chiếu thẳng vào địa hạt tâm linh thuần túy.
- Muốn bắt đầu học pháp môn này, phải làm sao?
- Tự nhiên là phải có Thầy.
- Phải có Thầy, nhưng tìm Thầy ở đâu ra?
Brama hơi nhún vai:
- Bạn ơi! Kẻ đói bụng thì đi tìm món ăn, nhưng còn người sắp chết đói thì quên hết tất cả mọi sự để kiếm cho được đồ ăn mà thôi. Nếu bạn ước vọng tìm Thầy cũng như người chết đói ước được món ăn thì bạn sẽ tìm thấy. Bạn hãy tìm Thầy với một đức tin, rồi định mệnh sẽ dìu dắt bạn đến với Người vào đúng ngày giờ mà Người chọn lựa.
- Bạn tin rằng định mệnh cũng có dính dáng đến việc này à?
- Ấy là bạn nói như thế.
- Tôi thấy trong sách có nói ...
- Không có Thầy, thì sách vở chỉ là nắm giấy lộn. Danh từ Guru của chúng tôi có nghĩa là Người dẹp tan sự tối tăm u ám. Người nào nhờ sự gắng công tìm tòi và nhờ sự dìu dắt của định mệnh mà tìm ra được một vị danh sư, sẽ đi thẳng đường đến sự giác ngộ vì người đệ tử cùng chia sớt những khả năng huyền dịu của người Tôn Sư.
Nói đến đây, Brama tiến gần đến chiếc ghế dài đựng giấy tờ và cầm đưa cho tôi một đạo linh phù đầy những dấu hiệu thần bí, những hình biểu tượng và chữ Tamoul vẽ bằng mực đỏ, xanh và đen. Trên hết có vẽ một hình tròn khu ốc, hẳn là biểu tượng của ngôi Mặt Trời, hình mặt trăng và một con mắt, còn khoảng giữa thì để trống. Y nói:
- Tôi vẽ lá bùa này cho bạn trong đêm qua. Khi bạn ra đi, bạn hãy dán một tấm ảnh của tôi ở khoảng trống ngay chính giữa.
Brama cho biết rằng tôi chỉ cần tập trung tư tưởng trong năm phút vào lá bùa lạ lùng này trước khi đi ngủ, thì tôi sẽ nằm mộng thấy y một cách hoàn toàn rõ rệt. Y nói:
- Dầu cho chúng ta có cách xa nhau hàng ngàn dặm, chúng ta sẽ gặp nhau bằng linh hồn nếu bạn tập trung tư tưởng vào lá bùa này. Những cuộc gặp gỡ trong giấc mộng sẽ có thật cũng như những cuộc thăm viếng mà chúng ta đã trao đổi lẫn nhau.
Câu nói đó làm cho tôi nghĩ rằng ngày từ biệt của chúng tôi đã sắp đến và tôi tỏ ý băn khoăn không biết ngày nào chúng tôi mới gặp nhau trở lại. Brama bèn an ủi tôi:
- Chúng ta hãy phó mặc cho định mệnh, nó không bao giờ lỗi hẹn. Còn về phần tôi, tôi cũng sẽ ra đi vào mùa xuân đến địa phận tỉnh Tanjore, tại đây có hai người đệ tử đang chờ đợi tôi. Còn tương lai về sau ra thế nào, tôi không thể nói trước, vì như bạn đã biết, tôi vẫn luôn luôn chờ đợi lời kêu gọi của Tôn Sư.
Brama im lặng một lúc, và nói tiếp bằng một giọng rất thấp mà tôi nghe như tiếng thì thầm. Tôi đoán chừng hay là y lại tiết lộ thêm điều gì bí mật nữa chăng? Tôi quay lại người thông ngôn thì nghe nói rằng:
- Tôn Sư đã hiện ra với tôi trong đêm vừa qua. Người có nói chuyện về anh. Người nói với tôi rằng "Vị Shahib bạn con đang khao khát sự hiểu biết. Y vốn là người đồng môn với chúng ta trong một kiếp trước. Y đã tu luyện theo phép môn Yoga, nhưng thuộc về một môn phái khác. Ngày nay, y đã trở lại Ấn Độ trong bộ da của một người Anh. Y đã quên những gì y đã học với chúng ta, nhưng sẽ không lâu. Ngày nào mà y chưa gặp được Thầy để ban ân huệ cho y, thì y vẫn sẽ không phục hồi lại được trí nhớ của dĩ vãng. Tuy nhiên, cái ký ức vẫn còn tiềm tàng, Thầy y chỉ cần khơi động một chút cũng đủ làm cho nó bừng tỉnh dậy. Vị Tôn Sư đó, con hãy cho y biết, y sẽ gặp Người. Điều đó sẽ đến chắc chắn, y hãy đừng băn khoăn gì nữa. Y sẽ được như ý nguyện trước khi rời khỏi xứ này, vì định mệnh đã đặt để rằng y sẽ không trở về tay không."
Nghe đến đây, sự ngạc nhiên của tôi quả là vô hạn. Dưới ánh đèn dầu leo lét, gương mặt của người bạn tôi dường như biến đổi một cách khác thường.
- Phải chăng bạn đã nói lệnh Tôn Sư đang ở xa lắm, tận trên xứ Nepal? Tôi hỏi y với một giọng mà tôi lấy làm hối tiếc là đã lộ vẻ nghi ngờ.
Phải, Tôn Sư vẫn ở trên đó.
- Tức là cách đây 1, 200 dặm, làm sao Tôn Sư có thể nói chuyện với bạn trên một quãng đường dài như vậy?
- Tôn Sư luôn luôn có mặt khi tôi kêu gọi đến Người, dầu cho chúng tôi ở cách xa nhau muôn dặm. Tôi không cần đến thơ từ chi cả để nhận được thông điệp của Tôn Sư. Tư tưởng của Người đến với tôi xuyên qua không gian và biểu hiện rõ ràng trước mắt tôi.
- Phải chăng đó là thần giao cách cảm?
- Đúng như vậy.
Tôi đứng dậy, vì đã đến lúc kiếu từ. Chúng tôi còn đi dạo một lần cuối cùng dưới ánh trăng khuya, dọc theo những vách tường cũ của ngôi đền bên cạnh nhà của Brama. Chúng tôi dừng bước dưới một hàng dừa mà cành lá xum xuê để cho ánh sáng rọi xuyên qua in bóng dưới đất. Trước khi từ giã, Brama thì thầm:
- Bạn thấy rằng tôi không gì nhiều. Đây là một vật quý nhất của tôi, bạn hãy cầm lấy.
Nói xong, y rút chiếc nhẫn mà y đeo ở ngón áp út bên trái và đặt vào lòng bàn tay lật ngửa của y. Dưới ánh trăng, tôi thấy chiếu sáng ngời một viên ngọc bích màu xanh có gân màu nâu sậm, lồng trong khung nhẫn bằng vàng. Brama đeo chiếc nhẫn vào ngón tay tôi và siết bàn tay tôi để từ giã. Tôi vừa tỏ ý không dám nhận món quà tặng quý giá này thì Brama đã ngăn chận lời từ chối của tôi bằng cách siết bàn tay chật hơn nữa. Y nói:
- Tôi thọ lãnh chiếc nhẫn này của một người hiền giả có tiếng. Người đã tặng cho tôi khi tôi bắt đầu bước chân lên đường Đạo. Bây giờ, đến lượt bạn hãy đeo nó.
- Không hẳn như vậy, nhưng viên ngọc thạch này là một linh vật rất hiệu nghiệm. Nó sẽ giúp cho bạn có duyên may hội ngộ với các bậc Hiền Giả, nó sẽ kích động những tư tưởng kỳ lạ xâm chiếm lấy khối óc huyên náo của bạn.
Lời nhắn nhủ lạ lùng của vị Tôn Sư ở cách xa ngàn dặm, điều đó vốn thật lạ quá đối với tôi, nên xin miễn luận bàn. Một cơn chiến đấu mãnh liệt đang diễn ra trong tâm hồn tôi giữa sự ngờ vực và đức tin. Còn chiếc nhẫn này? Làm sao mà tin được rằng một chiếc nhẫn lại có thể xui khiến được định mệnh, và gây cho tôi một ảnh hưởng bí mật về phương diện tâm linh? Phải chăng đó là một điều dị đoan? Nhưng Brama tin tưởng ở điều đó. Tôi phải tự nhủ rằng việc gì cũng có thể được cả ở cái xứ lạ lùng huyền bí này.
Tôi vẫn vơ suy nghĩ và lo ra đến nỗi tôi quên đường và đụng đầu vào một gốc dừa. Dưới nhành lá dịu dàng phất phơ của nó, chiếu những điểm ánh sáng do những con đom đóm bay lượn thành những vòng tròn. Nền trời trong vắt một màu xanh thẳm. Sao Kim Tinh chói rạng tỏa ra một ánh sáng rực rỡ coi dường như rất gần. Cảnh vật thiên nhiên đắm chìm trong bầu không khí hoàn toàn yên lặng. Không ai nghe tiếng động của những con dơi lớn bay ngang trên đỉnh đầu chúng tôi. Tôi tự thả trôi một lúc theo cái thú vị triền miên của giờ phút thần tiên này.
Về đến nhà, tôi trằn trọc suốt đêm không tìm thấy giấc ngủ. Mãi đến gần sáng, giấc ngủ mới đến và làm lắng dịu những ý nghĩ vẫn vơ trong đầu óc của tôi.
Phần Bốn
Brama mời tôi lại nhà y chơi. Y ở riêng một cái chòi tranh mà y tự cất lấy ở một góc cuối vườn nhà của bà lão già để được tự do hơn. Tôi đến chơi vào một buổi chiều. Nhà này ở chỗ tận cùng của một con đường đầy bụi bặm và có vẻ nghèo nàn. Tôi ngừng một lúc trước cửa, tường nhà cũ kỹ quét vôi trắng, với một cái gác bằng cây có cửa sổ. Tôi đẩy cánh cửa lớn, tiếng động làm vang khắp nhà. Một bà già vẻ mặt hiền lành vui vẻ bước ra và nghiêng đầu chào tôi nhiều lần. Bà ấy dắt tôi đi qua một hành lang tối tăm đưa đến nhà bếp, thông ra sau vườn.
Trong vườn có một cây cổ thụ cành lá xum xuê, che dưới bóng mát của nó một cái giếng cũ. Phía bên kia giếng có một chòi tranh, một phần ẩn khuất dưới bóng cây mát rượi. Chòi này làm bằng vật liệu nhẹ, cột tre, lợp tranh.
Bà lão chủ nhà da mặt cũng sậm đen như màu da của Brama, có vẻ bận rộn nói một tràng dài tiếng Tamoul với người trong chòi. Một tiếng nói thanh như chuông mà tôi đã quen tai từ bên trong vọng ra, cánh cửa chòi từ từ hé mở, người đạo sĩ hiện ra trước cửa và vui vẻ mời tôi bước vào. Y vẫn để cửa mở, bà già đứng trước cửa độ vài phút, mắt nhìn tôi một cách chăm chú và nét mặt lộ vẻ hân hoan sung sướng.
Trong chòi không có bàn ghế chi cả, ngoại trừ một chiếc giường thấp không có nệm, đặt sát vào vách phía trong, và một tấm gỗ lớn đặt trong góc, trên đó có bày sách vở và giấy tờ. Một bình đựng nước bằng đồng treo bằng một sợi dây từ trên trần nhà thòng xuống, và một chiếc chiếu lớn trải dưới đất.
Brama chỉ chiếc chiếu mời tôi ngồi, và xin lỗi vì nhà không có ghế. Chúng tôi cả ba người đều ngồi xếp bằng, Brama, tôi và một thanh niên Ấn đi theo tôi để làm thông ngôn. Trong vài phút, bà lão bước ra ngoài và trở lại với một bình trà nóng mà bà ấy đặt trên một tấm khăn trắng trải trên chiếc chiếu, cùng với bánh ngọt, cam, chuối đựng trên những chiếc mâm nhỏ bằng đồng. Trước khi mời tôi dùng trà, người đạo sĩ hai tay cầm một tràng hoa kết thành vòng đặt lên cổ tôi. Tôi tỏ ý khiêm nhường, tôi biết rằng phong tục Ấn Độ dành cái danh dự này cho những vị quý khách, mà tôi thì không dám tự liệt mình vào hạng khách đặc biệt đó. Brama mỉm cười và nói:
- Bạn ơi! Bạn là người Âu đầu tiên đến nhà tôi và cũng là người Ân đầu tiên làm bạn với tôi. Bà dì tôi với tôi cùng lấy làm vui mừng mà đón tiếp cái danh dự này.
Tôi đành phải nhận lấy vòng hoa trên cổ. Cũng may mà các bạn tôi ở Âu Châu không nhìn thấy tôi ăn vận lố lăng như hôm ấy.
Chúng tôi vừa uống trà, ăn bánh trái và vừa nói chuyện. Brama cho biết rằng chòi tranh và đồ vật dụng bằng gỗ trong nhà đều do tự tay y cất lên và đóng lấy.
Những giấy tờ để trên chiếc ghế dài bằng gỗ khêu gợi sự tò mò của tôi. Đó là những tờ giấy màu hường, trên đó có viết chữ bằng mực xanh. Brama đưa cho tôi xem vài tờ và giải thích rằng đó là thứ chữ Tamoul cổ xưa, thông dụng trong văn chương cách đây đã nhiều thế kỷ nhưng ngày nay ít có người hiểu, trừ ra một vài người học giả lỗi lạc. Brama nói thêm:
- Tôi viết cái này đêm hôm qua. Đó là những câu tóm tắt những kinh nghiệm của tôi về pháp môn Yoga, hoặc những bài thơ của tôi làm trong những lúc cảm hứng tâm linh. Một vài thanh niên trẻ tuổi tự cho là những đệ tử của tôi, thường đến đây để xem những bài thi đó.
Nói xong, Brama lấy một bản văn kiện tô điểm một cách ngây thơ, gồm có vài tờ giấy màu hường, viết chữ bằng mực đỏ và xanh, và cột chung lại bằng một sợi chỉ màu xanh. Y vừa mỉm cười vừa đưa cho tôi và nói:
- Tôi viết cái này để tặng riêng cho bạn.
Người thông ngôn cho biết rằng đó là một bài thi trường thiên dài tám mươi bốn câu, nhưng vì viết bằng chữ cổ tự nên y không thể dịch được. Dầu sao, món quà này cũng làm tôi vui lòng, vì nó tiêu biểu cho cái cảm tình đặc biệt của một người Yogi chân chính đối với tôi.
Sau những câu chào hỏi đầu tiên, bà lão lui ra ngoài và chúng tôi mới bước qua những câu chuyện sâu xa hơn. Tôi trở lại vấn đề luyện phép khí công, tức phép luyện hơi thở, mà những nhà đạo sĩ coi như là một điều rất quan trọng và giữ gìn rất bí mật. Brama liền chận tôi lại và nói rằng y không được phép tiết lộ cho tôi biết nhiều hơn những điều y đã nói, nhưng y có thể nói vài chi tiết về phần lý thuyết của pháp môn Yoga về điểm này.
- Luật tự nhiên đã định cho con người thở với một số nhịp độ là 21, 600 lần trong một ngày và đêm. Một sự hô hấp quá mau và hấp tấp làm tăng cái nhịp độ nói trên và thâu ngắn sự sống. Một sự hô hấp chậm rãi, dài và đều đặn làm tiết kiệm số nhịp độ đó và kéo dài sự sống. Mỗi hơi thở tiết kiệm được sẽ tích tụ lại thành một số dự trữ để giúp cho con người có thể kéo dài sự sống thêm nhiều năm. Bởi đó, người Yogi thở chậm hơn người thường và vẫn khỏe mạnh. Nhưng tôi không thể nói nhiều hơn, vì tôi đã có lời thệ nguyện.
Sự dè dặt này làm tôi thất vọng. Một khoa pháp môn mà người ta giữ bí mật một cách chặt chẽ như vậy hẳn là phải có một giá trị rất lớn. Và người ta sẽ hiểu rằng tại sao những nhà đạo sĩ gìn giữ cái kho tàng quý báu đó mà không chịu tiết lộ cho những kẻ phàm tục tò mò, và những người không xứng đáng, hoặc chưa chuẩn bị sẵn sàng. Nhưng nếu tôi cũng bị liệt vào hạng người này thì, thôi hỏi nữa làm gì tốn công vô ích?
Brama nói tiếp:
- Những bậc danh sư của chúng tôi nắm được cái chìa khóa của phép hô hấp này. Họ biết rằng hai bộ máy hô hấp và tuần hoàn đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Họ cũng biết rằng tinh thần có liên hệ trực tiếp đến hai bộ máy nói trên, và nắm được cái bí quyết làm kích động ý thức tâm linh bằng cách kiểm soát hơi thở. Ta nên biết rằng hơi thở chỉ là sự biểu lộ trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn, sức mạnh này mới là cái trụ cột sinh hoạt của xác thể: Chính cái sức mạnh đó ẩn tàng, vô hình, vô ảnh, trong tất cả những bộ phận cơ thể của chúng ta. Khi nó rời khỏi xác thân, thì hơi thở sẽ ngưng lại, và đó là điều mà ta gọi là sự chết. Sự kiểm soát hơi thở sẽ giúp cho ta làm chủ được phần nào cái luồng sinh lực đó. Và khi mà sự chủ trị xác thân được thực hiện đến mức triệt để, để có thể kiểm soát được cả sự vận động của quả tim, thì bạn đừng tưởng rằng những nhà hiền triết thời cổ của chúng tôi chỉ nghĩ đến phần hình hài thể xác mà thôi khi các Ngài bắt đầu truyền thụ pháp môn Hatha Yoga này!
Các nhà Hiền Triết thời xưa có muốn gì thì muốn, trong lúc hiện tại, tôi chỉ nghĩ đến câu y vừa nói; tôi liền hỏi:
- Phải chăng bạn vừa nói rằng người ta có thể làm chủ được sự vận động của quả tim?
- Thật vậy, những bộ phận chánh, tức ngũ tạng trong châu thân là tim, gan, bao tử, phổi, thận, chúng tôi đều có thể chế ngự được một phần nào tùy theo ý muốn.
- Bằng cách nào?
- Bằng sức mạnh của ý chí phối hợp với những phép luyện thích nghi. Phép luyện này tự nhiên là thuộc về trình độ cao đẳng của pháp môn Yoga. Phép ấy rất khó và ít người hành giả có thể luyện đúng phép. Nhờ nó mà tôi có thể chủ trị được phần nào những thớ thịt của quả tim, và nhờ sai khiến được quả tim nên tôi có thể chế ngự được những bộ phận khác.
- Điều ấy thật lạ lùng.
- Vậy sao? Đây này, bạn hãy để bàn tay trên ngực tôi, ở ngay chỗ quả tim.
Brama vừa nói vừa giữ một thế ngồi lạ lùng và nhắm mắt lại. Tôi làm theo và đợi thử vài phút, trong khi đó tôi không thấy có điều gì lạ. Lần lần, tôi nhận thấy quả tim đập chậm lại. Những tiếng đập mỗi lúc càng đập chậm thêm, chậm thêm nữa, và tôi bỗng rùng mình kinh ngạc khi tôi nhận thấy tiếng đập của quả tim ngưng lại. Tôi đếm: Hiện tượng đó kéo dài trên bảy giây đồng hồ. Phải chăng đây là một ảo tưởng? Nhưng không, tôi thử sờ mó, bóp nắn da thịt tôi, tôi vẫn tỉnh táo chứ không mê sảng. Tôi cảm thấy đỡ lo khi quả tim y bắt đầu đập trở lại, dường như nó đã sống lại, đập mau hơn và trở lại bình thường. Vài phút sau, người Yogi mới tỉnh lại và mở mắt ra. Y hỏi:
- Bạn có nhận thấy gì không? .
- Có, tôi nhận thấy rõ lắm.
Y lại sắp phát minh thêm điều gì lạ nữa chăng? Dường như y đọc được tư tưởng tôi, và y lại nói tiếp:
- Đó là chưa thấm vào đâu so với những điều mà thầy tôi làm. Người có thể cô lập một huyết quản, và điều hành hoặc ngăn chận sự lưu thông máy huyết trong đó. Tôi cũng làm như vậy được một phần nào, nhưng không bằng Thầy tôi.
- Bạn làm thử tôi xem.
Brama đưa cườm tay cho tôi và bảo tôi bắt mạch. Tôi nhận thấy mạch máu đập chậm lại rõ rệt, rồi ngưng hẳn. Tôi băn khoăn ngồi đợi. Một phút, hai phút ... Trôi qua trong khi đó tôi đếm được từng giây đồng hồ. Ba phút ... đến ba phút rưỡi, tôi thấy mạch máu lại bắt đầu chuyển động, lúc đầu còn hơi chậm, kế đó nó đập lại như thường. Tôi bất giác nói:
- Thật lạ quá!
- Ấy là chưa có gì! Y đáp một cách tự nhiên.
- Bạn muốn cho tôi xem điều gì nữa chăng?
Lần này, Brama hơi do dự:
- Được, nhưng đây là lần cuối cùng, và bạn hãy bằng lòng với bấy nhiêu đó. Bây giờ tôi sẽ ngưng hơi thở.
- Nhưng bạn có thể chết! Tôi nói một cách băn khoăn lo lắng, nhưng câu nói của tôi không làm cho y nản lòng. Y bèn bảo tôi:
- Bạn hãy để bàn tay dưới hai lỗ mũi của tôi thử xem.
Tôi làm y theo lời. Tôi cảm thấy rõ rệt trên bàn tay hơi thở ấm của y. Brama nhắm mắt lại và ngồi yên không cử động như một pho tượng đá. Y sắp nhập định chăng? Tôi không dám nhúc nhích bàn tay, lần lần hơi thở của y chậm lại rồi ngưng hẳn. Tôi nhìn kỹ hai lỗ mũi, cặp môi, hai vai, bộ ngực của y, nhưng không có gì cử động, không có dấu hiệu gì chỉ rằng có hơi thở. Nhưng đó không phải là những bằng chứng tuyệt đối, tôi cũng biết như vậy, nên tôi tìm những bằng chứng khác. Trong nhà không có một mảnh gương nào, nhưng tôi thấy một bên có một cái dĩa đựng tro thuốc lá bằng đồng đánh bóng. Tôi bèn dừng thử, và đặt nó dưới hai lỗ mũi và trước miệng của người Yogi. Không có một hơi thở nào làm mờ cái mặt dĩa bằng đồng bóng loáng. Thật là kỳ lạ! Trong cái chòi tranh này, hiện giờ tôi đang chứng kiến một sự kiện lạ lùng, một hiện tượng mà ngày kia các nhà bác học Âu Tây phải tìm tòi khảo cứu! Sự thật rõ ràng ngay trước mắt tôi, với một bằng chứng hiển nhiên: Pháp môn Yoga không phải là điều mộng ảo!
Khi Brama tỉnh dậy và trở lại trạng thái bình thường, y có vẻ mệt mỏi. Y hỏi, nhưng lần này với một nụ cười hơi mệt nhọc:
- Bạn có hài lòng chăng?
- Rất hài lòng, nhưng tôi chẳng hiểu chi cả.
- Tôi không có quyền giải thích cho bạn nghe. Phép ngưng thở này chỉ dành cho những bậc hành giả đã tiến nhiều trên đường tu luyện về pháp môn Yoga. Đối với một người Âu, nó có thể là một sự điên rồ, nhưng đối với người phương Đông chúng tôi, nó có một tầm quan trọng rất lớn.
- Tuy thế, khi chúng ta học ở trường thì vẫn nghe thấy dạy rằng người ta không thể sống được nếu không có sự hô hấp. Điều đó không phải là điên rồ, phải chăng?
- Không, nhưng nói như thế không đúng. Tôi có thể ngưng hơi thở suốt hai giờ đồng hồ nếu tôi muốn. Tôi vẫn thường làm như thế, nhưng tôi vẫn chưa chết, như bạn đã thấy. Y vừa nói vừa mỉm cười.
- Tôi không muốn hỏi nhiều vì bạn phải giữ bí mật, nhưng bạn có thể nói cho biết sơ qua vài điều về phần lý thuyết chứ?
- Điều đó thì được. Chúng ta có thể lấy vài thí dụ trong loài cầm thú. Đó là một phương pháp giảng dạy đặc biệt của thầy tôi, con voi thở chậm hơn con khỉ rất nhiều, bởi đó nó cũng sống lâu hơn. Một thí dụ khác là vài loại bò sát như con trăn chẳng hạn so với con chó. Bạn sẽ thấy cách thở của hai giống này mau chậm khác nhau rất xa, và tự nhiên là con trăn sống lâu hơn. Như vậy, chúng ta thấy hình như có một sự tương quan giữa sự hô hấp và sự sống lâu.
Bây giờ, chúng ta hãy đi xa hơn. Người ta thấy trên núi Hi Mã Lạp Sơn có những con dơi nằm ngủ suốt mùa đông. Những con dơi đó tự treo cẳng suốt nhiều tháng trên vách những hang núi và ngưng thở hoàn toàn cho đến khi chúng tỉnh giấc vào mùa xuân. Loài gấu trên dãy Hi Mã Lạp Sơn có đôi khi nằm cứng đơ cả thân mình trọn suốt mùa đông giá lạnh, coi dường như không còn sinh hoạt gì nữa. Cũng trên dãy Hi Mã Lạp Sơn là nơi khó tìm ra vật thực vào những tháng mùa Đông đầy tuyết phủ, người ta thấy trong những hang hố dưới đất có những con nhím ngủ một giấc dài nhiều tháng, và mọi sự hô hấp đều ngưng bặt. Như vậy, tại sao con người lại không thể làm được điều mà loài vật vẫn thường làm một cách tự nhiên?
Những điều kể trên cũng thật là lạ lùng, nhưng ít làm cho tôi tin tưởng bằng những sự biễu diễn của y hồi lúc nãy. Chúng ta vẫn quen cho rằng hơi thở là cần thiết cho sự sống, đến nỗi không dễ gì mà bỏ hẳn cái quan niệm đó. Tôi nói:
- Người Âu chúng tôi chắc không bao giờ nhìn nhận rằng sự sống có thể tiếp tục nếu người ta ngừng thở.
- Nhưng sự sống vẫn tiếp tục luôn luôn. Sự chết chẳng qua chỉ là một hình thức sinh hoạt khác thường mà thôi.
- Bạn có cho rằng người Yogi tu luyện theo pháp môn này hẳn có thể thắng được Tử Thần hay chăng?
- Hẳn là như vậy rồi.
Brama nhìn tôi một cách lạ lùng và nói tiếp theo:
- Tôi thấy bạn có nhiều triển vọng, vì thế nên tôi chịu tiết lộ cho bạn một điều bí mật, nhưng với điều kiện là ...
- Bạn hãy nói luôn.
- Bạn hứa sẽ không tập luyện những gì khác hơn là những điều tôi có thể nói bạn biết.
- Tôi xin hứa.
- Phải chăng từ trước đến giờ, bạn vẫn tưởng rằng nếu ta cầm lại hơi thở trong mình, thì ta cũng bảo tồn được sự sống trong cơ thể?
- Dường như thế.
- Chúng tôi cũng không nói gì khác hơn. Chúng tôi chỉ nói rằng người hành giả nào có thể cầm lại hơi thở trong mình tùy theo ý muốn, sẽ nhờ đó mà giữ lại nguồn sinh lực trong cơ thể y. Bạn hiểu rõ chăng?
- Tôi cũng ráng hiểu.
- Bạn hãy tưởng tượng rằng người Yogi có thể cầm lại hơi thở không những chỉ trong vài phút, mà trong nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm. Vì bạn đã nhìn nhận rằng hơi thở ở đâu tức là sự sống ở đó, thì phải chăng đây là triển vọng để con người có thể kéo dài sự sống tùy theo ý muốn?
Tôi không còn biết nói sao. Làm sao có thể bảo rằng điều đó là vô lý? Nhưng làm sao tôi có thể chấp nhận điều ấy mà không có sự kiểm điểm lại một cách chặt chẽ? Những nhà thuật sĩ của phái Luyện Kim (Alchimistes) hồi thời Trung cổ cũng đã từng nuôi cái mộng trường sinh bất tử, nhưng dưới ngọn lưỡi hái của Thần Chết, họ vẫn ngã quỵ hết người nọ đến người kia ngay bên cạnh những lò luyện Kim Đơn để tìm ra thuốc phản lão hoàn đồng! Có lẽ Brama tự dối lấy mình, nhưng có điều chắc chắn là y không có ý định lừa dối tôi. Y không hề có ý đến tìm kiếm tôi hay tìm kiếm một người đệ tử nào cả. Y điên chăng? Không phải vì y lý luận mọi sự một cách hoàn toàn sáng suốt. Hay là y chỉ tự dối lấy mình? Một cái gì bảo cho tôi biết là không. Tôi không biết nghĩ sao.
- Bạn không tin à? Bạn có nghe nói về một người thuật sĩ chịu để cho vua Ranjit Singh chôn sống trong một huyệt xây bằng đá ở Lonhorw chăng? Khi đem chôn sống có cả sự hiện diện của những viên sĩ quan Anh và nhà vua Singh. Ngôi mộ được giao cho quân sĩ canh gác suốt ngày đêm trong sáu tuần lễ, đúng ngày, người ta mới cậy nắp quan tài thì người thuật sĩ Ấn Độ ở trong chui ra vẫn còn sống nhăn, không sao cả! Bạn hãy điều tra lại xem, tôi nghe nói rằng việc này đã được phúc trình cẩn thận và tờ biên bản vẫn còn được lưu trữ trong văn khố của chánh phủ Anh.
Như vậy, người thuật sĩ đã hoàn toàn chủ trị được phép hô hấp và có thể ngưng thở tùy ý muốn mà không sợ chết. Tuy thế, y cũng chưa phải là một môn đồ chân chính của pháp môn Yoga, vì tôi có nghe nói rằng đời tư của y chẳng có gì đáng ca tụng. Y tên là Haridas và sống ở miền Bắc Ấn. Nếu người ấy có thể ngừng thở mà vẫn sống trong một thời gian lâu như thế ở một chỗ bít bùng không có không khí, thì thử hỏi: Các bậc danh sư của môn phái chúng tôi, là những người không thích quảng cáo và không hề vụ lợi, còn có thể làm được tới những điều gì nữa?
Sau một lúc im lặng, Brama tiếp:
- Pháp môn Yoga còn đem lại cho ta nhiều quyền năng khác nữa. Nhưng trong thời buổi suy đồi hiện nay, có mấy ai là người chịu công phu cố gắng tu luyện?
- Làm sao bây giờ, khi người ta còn phải lăn lộn trong đời sống hàng ngày, thì không còn thời giờ để nghĩ đến những hoạt động cho một lý tưởng nữa.
- Đúng vậy, những phép tu luyện này chỉ để dành cho một số ít người. Như thế, bạn sẽ hiểu tại sao nó được các bậc danh sư giữ gìn trong im lặng và bí mật hoàn toàn. Những bậc danh sư ấy không bao giờ đi tìm đệ tử, mà chính các đệ tử phải đi tìm các Ngài.
Lần sau, Brama đến dùng cơm tại nhà tôi. Cơm nước xong chúng tôi ra ngồi ngoài hàng ba dưới ánh trăng sáng. Tôi ngồi trên ghế còn Brama thích ngồi trên chiếu trải sàn gạch. Chúng tôi ngồi im lặng trong vài phút để thưởng thức cái đẹp của đêm trăng. Nhưng nhớ lại câu chuyện lần trước, tôi vẫn còn tò mò muốn biết thêm về vấn đề kỳ quái là có những người có thể lường gạt được Tử Thần!
Brama nói:
- Một trong những vị danh sư của môn phái chúng tôi sống trong vùng hẻo lánh trên dãy núi Nilgiri, và không hề bước ra khỏi am. Một vị khác sống trong động đá trên dãy Hi Mã Lạp Sơn. Những người ấy bạn không bao giờ gặp được vì họ lánh xa cõi thế tục. Tuy thế, theo truyền thuyết của người trong xứ thì các vị ấy đã từng sống đến vài trăm năm nay.
- Bạn có tin như vậy chăng?
- Lẽ dĩ nhiên, vì chính Thầy tôi cũng là một người trong số đó.
Thầy của y! Vì bây giờ chúng tôi đã quen nhau như thế này và giữa chúng tôi không còn sự lạnh lùng cách biệt nữa, nên tôi đánh liều hỏi một câu:
- Brama, Thầy của anh là ai?
Y còn do dự trong một lúc, nhưng liền nói với một giọng trang nghiêm:
- Thầy tôi danh hiệu là Yetrumbu Swami. Ở dưới miền Nam, đệ tử của Người cũng đông, nhưng Người thường đi lên miền Bắc và ở trên dãy Hi Mã Lạp Sơn.
- Tôn Sư đã đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga chưa?
- Điều đó hẳn là dĩ nhiên rồi.
- Và bạn tin rằng lệnh Tôn Sư đã sống đến ...
- Trên bốn trăm năm
Brama nói câu đó với một giọng vô cùng tự nhiên, và y nhìn thấy sự ngạc nhiên trong cặp mắt của tôi. Y nói tiếp:
- Tôn Sư thường kể cho tôi nghe nhiều chuyện mà người đã từng chứng kiến và đã xảy ra dưới triều đại các vua Hồi. Người cũng thuật cho tôi nghe những chuyện xảy ra từ hồi Công Ty Ấn Độ của người Anh mới bắt đầu thành lập tại Madras.
Điều này thật khó mà tin được, đối với một kẻ đa nghi như tôi. Tôi nói:
- Nhưng bất cứ một đứa học trò nào đã học lịch sử cũng nói được những điều đó.
Brama làm như không nghe và nói tiếp:
- Thầy tôi còn nhớ rõ trận Panipat và có nói với tôi rằng Người không bao giờ quên những ngày kỷ niệm đầu tiên của trận Plassey. Tôi còn nhớ có lần nghe người nói chuyện về một đệ tử tên là Beahudananda, như là nói một đứa trẻ con. Người đệ tử này hồi đó đã được tám mươi tuổi.
Dưới ánh trăng, tôi nhìn thấy rõ vẻ mặt bình thản tự nhiên của người Yogi khi y nói những chuyện lạ lùng trên đây. Một người Âu đã từng quen suy luận với những phương pháp sưu tầm của khoa học tiên tiến, làm sao có thể chấp nhận những điều này mà không có sự điều tra chắc chắn? Dầu sao, Brama là người Ấn Độ, chắc y cũng vẫn còn cái thói quen hay tin tưởng những chuyện hoang đường. Tôi vẫn lẳng lặng ngồi nghe, để cho y nói:
- Tôn Sư đã từng làm cố vấn cho một vị Quốc Vương xứ Nepal trên mười một năm. Dân chúng xứ này quý mến người như Thần Thánh. Người cũng đối với họ như cha đối với con. Người gạt bỏ mọi sự thành kiến về giai cấp và coi mọi người cùng bình đẳng như nhau.
- Nhưng làm sao một người có thể sống lâu như thế?
Brama mơ màng nhìn về cõi xa xăm, dường như quên cả sự có mặt của tôi; y đáp:
- Có ba phương pháp để kéo dài sự sống. Phương pháp thứ nhất là tập hết tất cả những tư thế (Asana), và tất cả các phép luyện khí công, gồm cả những phép luyện bí mật của pháp môn Hatha Yoga. Những phép tập luyện này lẽ tự nhiên là phải được thực hành cho đến mức toàn hảo, điều này chỉ có thể thực hiện được dưới sự dìu dắt của một bậc danh sư đã có nhiều kinh nghiệm.
Phương pháp thứ hai là thường dùng một vài loại cỏ thuốc rất quý và rất hiếm, mà chỉ có một vài vị danh sư của môn phái chúng tôi biết được. Những vị ấy đi tìm những loại cỏ này trong vòng bí mật và dấu trong mình mỗi khi đi đâu xa. Khi đến lúc một vị phải từ giã cõi đời, thì người chọn trong số các đệ tử một người xứng đáng nhất và tiết lộ cho y biết sự bí mật về loại cỏ quý đó. Người này từ nay sẽ là người duy nhất được biết sự bí mật ấy mà thôi. Còn phương pháp thứ ba thì hơi khó nói một chút.
- Bạn cứ nói luôn.
- Tôi nói ra chắc là bạn sẽ bật cười!
Tôi cam đoan với y rằng trái lại, tôi rất quý trọng những điều tiết lộ của y. Y nói:
- Vậy thì đây: Trong bộ óc con người có một lỗ trống nhỏ, là chỗ của linh hồn, nó có một thứ nắp che đậy phía ngoài. Nơi dưới đốt tận cùng của xương sống, là chỗ xuất phát luồng sinh lực mà chúng ta đã có dịp nói đến. Sự tiêu hao luồng sinh lực đó gây nên sự già nua, trái lại, kiểm soát được nó sẽ giúp cho ta được sống lâu.
Khi một người đã hoàn toàn làm chủ được thể xác, y có thể bắt đầu tập kiểm soát luồng sinh lực này bằng những phép luyện bí mật mà chỉ có những người Yogi thượng đẳng của môn phái chúng tôi mới biết được mà thôi. Nếu y làm cho luồng sinh lực vô hình đó đi ngược lên đến tận phần trên của tủy xương sống, y sẽ cố gắng gom nó lại trong chỗ lỗ trống trong bộ óc mà tôi vừa nói ở trên. Nhưng phải có một vị danh sư giúp y mở cái nắp che đậy ở phía ngoài. Nếu y tìm được một người Thầy bằng lòng giúp y việc đó, thì luồng sinh lực nói trên sẽ lọt vào chỗ lỗ trống và sẽ có cái tác dụng của một thứ nước Cam lồ trường sinh như chúng ta thường nghe nói.
Đó không phải là chuyện dễ làm. Kẻ táo bạo dám luyện thử một mình chắc chắn sẽ chết toi mạng! Trái lại người luyện được thành công có thể đánh lừa được Thần Chết. Người Yogi nào thực hành đủ ba phương pháp nói trên có thể sống đến vài trăm năm, nếu y muốn. Y có thể chọn ngày giờ chết của mình, và chừng đó sự khám nghiệm tử thi sẽ kết luận rằng y chết một cách tự nhiên. Khi y chết, loài sâu bọ sẽ không phạm đến thể xác của y, xác y sẽ tươi như hồi sống và sẽ không hề hư hại trải qua nhiều thế kỷ.
Tôi tỏ lời cám ơn Brama, và mặc dù tôi rất thích thú, nhưng tôi cũng vẫn chưa chịu tin. Khoa Sinh Lý Học không hề biết đến luồng sinh lực đó, và tôi e rằng những chuyện lạ kỳ trên đây chỉ có trong óc của những người chất phác và hồn nhiên ở xứ này. Tuy nhiên, sự kiểm soát hơi thở và mạch máu mà tôi đã chứng kiến, cũng đủ chứng minh rằng quyền năng của các nhà đạo sĩ không phải là những điều viễn vông, và những quyền năng đó có thể làm nhiều việc phi thường. Theo ý tôi, thì đó là tất cả những gì mà người ta có thể nói về vấn đề này. Tôi vẫn giữ im lặng và không muốn thổ lộ những ý tưởng riêng của mình. Brama lại nói tiếp:
- Tất cả mọi người ai cũng muốn thắng sự chết, nhưng bạn đừng quên rằng áp dụng phương pháp này rất nguy hiểm. Bởi đó, không ai ngạc nhiên mà thấy rằng những vị danh sư của chúng tôi giữ gìn những phép luyện đó trong vòng bí mật, chẳng khác nào người ta giữ vật báu.
- Bạn có thể cho tôi biết phương pháp đó được chăng?
- Người ta phải tập đi cho vững trước khi tập chạy mau.
Tôi xin hỏi bạn một câu cuối cùng:
- Thầy bạn hiện nay ở đâu?
- Người ở ẩn trong một ngôi đền hẻo lánh ở vùng núi non xứ Nepal.
- Bạn có nghĩ rằng một ngày kia, Tôn Sư sẽ trở xuống đồng bằng hay chăng?
- Làm sao tôi biết được ý nghĩ của Tôn Sư? Người có thể ở lại xứ Nepal thêm nhiều năm nữa trước khi xuống núi để đi ta bà khắp nơi. Người thích ở Nepal hơn ở Ấn Độ bởi vì ở xứ đó, môn phái của chúng tôi thịnh hành hơn. Pháp môn Hatha Yoga có những cách dạy khác nhau tùy theo môn phái, và môn phái của chúng tôi gọi là Tantra, được người Nepal thông hiểu dễ dàng hơn là người Ấn.
Brama trở lại với sự im lặng. Chắc y để tư tưởng đi xa lắm và nhớ đến hình ảnh của vị Tôn Sư quý mến. Ôi! Nếu những điều tôi vừa nghe không phải là một ảo tưởng, thì thật là một triển vọng đáng mừng cho những ai là người nuôi cái mộng trường sinh bất tử.
Đêm Ấn Độ đến rất mau chóng, chứ không có một hoàng hôn kéo dài như ở trời Âu. Khi bóng tối bao phủ cái chòi tranh của y, Brama thắp một ngọn đèn dầu treo lủng lẳng trên xà nhà bằng một sợi dây, và chúng tôi ngồi dưới ánh đèn dầu leo lét. Bà lão bước ra ngoài một cách kín đáo để cho chúng tôi tự do nói chuyện, với một người thông ngôn trẻ tuổi của tôi đem theo. Khói nhang tỏa khắp gian phòng một mùi hương huyền bí. Ý nghĩ về sự chia ly sắp đến làm cho tôi buồn man mác, tôi cố gắng vượt qua cơn buồn ám ảnh, nhưng vô hiệu.
Vấn đề bất đồng ngôn ngữ, và phải nói chuyện qua một người thứ ba là một sự chướng ngại, vì tôi không thể bày tỏ tâm sự đang tràn ngập cõi lòng tôi theo như ý tôi muốn. Trong giờ phút này, những lý thuyết lạ lùng kia có thật hay không, điều đó không quan hệ lắm. Điều đáng kể, là người đạo sĩ đã vui vẻ sốt sắng để cho tôi bước vào cuộc đời cô độc đơn chiếc của y. Tôi đã nhận thấy có sự thông cảm giữa hai tâm hồn chúng tôi, và bây giờ tôi đã hiểu rằng đối với một người như vậy, thật là một sự hy sinh lớn lao mà dẹp bỏ sự dè dặt kín đáo của mình để thổ lộ tâm sự với một người lạ mặt. Nhưng lúc này lòng mong muốn hiểu biết thêm của tôi lại thắng thế. Tôi viện cớ sắp từ biệt y trong nay mai để cố gắng thuyết phục y tiết lộ cho tôi một vài điều bí mật cuối cùng. Nhưng y đã giữ thế thủ:
- Anh có sẵn sàng từ bỏ chốn phồn hoa náo nhiệt của thị thành và ẩn mình nơi thanh vắng của chốn núi rừng tịch mịch chăng?
- Điều đó cần phải được suy nghĩ kỹ, Brama.
- Anh có sẵn sàng từ bỏ mọi hoạt động, mọi công việc làm ăn, mọi thú vui trần tục, và để trọn thời giờ thực hành pháp môn Yoga, không phải chỉ trong một lúc, mà trong nhiều năm liên tiếp chăng?
- Chắc là không, tôi chưa đủ chuẩn bị sẵn sàng. Một ngày kia, có lẽ ...
- Nếu vậy, tôi không thể nào dìu dắt bạn đi xa hơn. Pháp môn Yoga không phải là một môn tiêu khiển trong những giờ nhàn rỗi.
Thế là tôi sẽ không bao giờ trở nên Đạo sĩ! Phải thành thực mà nhìn nhận như vậy. Một môn tu luyện khó khăn như thế, với một kỷ luật gắt gao khổ hạnh, không phải để dành cho một kẻ hoài nghi như tôi! Tuy nhiên, có một cái gì nó hấp dẫn tôi hơn là những quyền năng của xác thể. Tôi bèn bày tỏ tâm sự với người đạo sĩ:
- Brama, những quyền năng đó hẳn là một điều huyền diệu và hấp dẫn vô cùng. Tôi mong ước có ngày tôi sẽ được thụ giáo theo pháp môn Yoga của bạn. Nhưng rốt cuộc, nó có thể đem đến cho ta một sự hạnh phúc lâu bền nào chăng? Trong khoa Yoga, còn có một mục đích nào cao hơn nữa chăng? Tôi không biết bạn có hiểu ý tôi không?
Brama mỉm cười và nói:
- Tôi hiểu. Những Thánh Kinh của Ấn Độ nói rằng pháp môn Hatha Yoga (luyện xác thân) phải đi đôi với pháp môn Raja Yoga (luyện tinh thần). Sự thật, pháp môn trên chỉ là dọn đường cho pháp môn Hatha Yoga, các Ngài biết rằng đó không phải chỉ ngắm vào mục đích tinh luyện cái thể xác vật chất mà thôi ... Các Ngài hiểu rằng sự chinh phục thể xác chỉ là một bước đầu tiên đưa đến sự rèn luyện tinh thần, và điều sau này cũng chỉ là một giai đoạn đưa con người đến một mục đích Toàn Thiện.
- Như thế, chắc là còn có một pháp môn chuyên về việc rèn luyện tinh thần?
- Đúng vậy, và mục đích của pháp môn đó là dùng lý trí con người như một ngọn đèn pha để chiếu thẳng vào địa hạt tâm linh thuần túy.
- Muốn bắt đầu học pháp môn này, phải làm sao?
- Tự nhiên là phải có Thầy.
- Phải có Thầy, nhưng tìm Thầy ở đâu ra?
Brama hơi nhún vai:
- Bạn ơi! Kẻ đói bụng thì đi tìm món ăn, nhưng còn người sắp chết đói thì quên hết tất cả mọi sự để kiếm cho được đồ ăn mà thôi. Nếu bạn ước vọng tìm Thầy cũng như người chết đói ước được món ăn thì bạn sẽ tìm thấy. Bạn hãy tìm Thầy với một đức tin, rồi định mệnh sẽ dìu dắt bạn đến với Người vào đúng ngày giờ mà Người chọn lựa.
- Bạn tin rằng định mệnh cũng có dính dáng đến việc này à?
- Ấy là bạn nói như thế.
- Tôi thấy trong sách có nói ...
- Không có Thầy, thì sách vở chỉ là nắm giấy lộn. Danh từ Guru của chúng tôi có nghĩa là Người dẹp tan sự tối tăm u ám. Người nào nhờ sự gắng công tìm tòi và nhờ sự dìu dắt của định mệnh mà tìm ra được một vị danh sư, sẽ đi thẳng đường đến sự giác ngộ vì người đệ tử cùng chia sớt những khả năng huyền dịu của người Tôn Sư.
Nói đến đây, Brama tiến gần đến chiếc ghế dài đựng giấy tờ và cầm đưa cho tôi một đạo linh phù đầy những dấu hiệu thần bí, những hình biểu tượng và chữ Tamoul vẽ bằng mực đỏ, xanh và đen. Trên hết có vẽ một hình tròn khu ốc, hẳn là biểu tượng của ngôi Mặt Trời, hình mặt trăng và một con mắt, còn khoảng giữa thì để trống. Y nói:
- Tôi vẽ lá bùa này cho bạn trong đêm qua. Khi bạn ra đi, bạn hãy dán một tấm ảnh của tôi ở khoảng trống ngay chính giữa.
Brama cho biết rằng tôi chỉ cần tập trung tư tưởng trong năm phút vào lá bùa lạ lùng này trước khi đi ngủ, thì tôi sẽ nằm mộng thấy y một cách hoàn toàn rõ rệt. Y nói:
- Dầu cho chúng ta có cách xa nhau hàng ngàn dặm, chúng ta sẽ gặp nhau bằng linh hồn nếu bạn tập trung tư tưởng vào lá bùa này. Những cuộc gặp gỡ trong giấc mộng sẽ có thật cũng như những cuộc thăm viếng mà chúng ta đã trao đổi lẫn nhau.
Câu nói đó làm cho tôi nghĩ rằng ngày từ biệt của chúng tôi đã sắp đến và tôi tỏ ý băn khoăn không biết ngày nào chúng tôi mới gặp nhau trở lại. Brama bèn an ủi tôi:
- Chúng ta hãy phó mặc cho định mệnh, nó không bao giờ lỗi hẹn. Còn về phần tôi, tôi cũng sẽ ra đi vào mùa xuân đến địa phận tỉnh Tanjore, tại đây có hai người đệ tử đang chờ đợi tôi. Còn tương lai về sau ra thế nào, tôi không thể nói trước, vì như bạn đã biết, tôi vẫn luôn luôn chờ đợi lời kêu gọi của Tôn Sư.
Brama im lặng một lúc, và nói tiếp bằng một giọng rất thấp mà tôi nghe như tiếng thì thầm. Tôi đoán chừng hay là y lại tiết lộ thêm điều gì bí mật nữa chăng? Tôi quay lại người thông ngôn thì nghe nói rằng:
- Tôn Sư đã hiện ra với tôi trong đêm vừa qua. Người có nói chuyện về anh. Người nói với tôi rằng "Vị Shahib bạn con đang khao khát sự hiểu biết. Y vốn là người đồng môn với chúng ta trong một kiếp trước. Y đã tu luyện theo phép môn Yoga, nhưng thuộc về một môn phái khác. Ngày nay, y đã trở lại Ấn Độ trong bộ da của một người Anh. Y đã quên những gì y đã học với chúng ta, nhưng sẽ không lâu. Ngày nào mà y chưa gặp được Thầy để ban ân huệ cho y, thì y vẫn sẽ không phục hồi lại được trí nhớ của dĩ vãng. Tuy nhiên, cái ký ức vẫn còn tiềm tàng, Thầy y chỉ cần khơi động một chút cũng đủ làm cho nó bừng tỉnh dậy. Vị Tôn Sư đó, con hãy cho y biết, y sẽ gặp Người. Điều đó sẽ đến chắc chắn, y hãy đừng băn khoăn gì nữa. Y sẽ được như ý nguyện trước khi rời khỏi xứ này, vì định mệnh đã đặt để rằng y sẽ không trở về tay không."
Nghe đến đây, sự ngạc nhiên của tôi quả là vô hạn. Dưới ánh đèn dầu leo lét, gương mặt của người bạn tôi dường như biến đổi một cách khác thường.
- Phải chăng bạn đã nói lệnh Tôn Sư đang ở xa lắm, tận trên xứ Nepal? Tôi hỏi y với một giọng mà tôi lấy làm hối tiếc là đã lộ vẻ nghi ngờ.
Phải, Tôn Sư vẫn ở trên đó.
- Tức là cách đây 1, 200 dặm, làm sao Tôn Sư có thể nói chuyện với bạn trên một quãng đường dài như vậy?
- Tôn Sư luôn luôn có mặt khi tôi kêu gọi đến Người, dầu cho chúng tôi ở cách xa nhau muôn dặm. Tôi không cần đến thơ từ chi cả để nhận được thông điệp của Tôn Sư. Tư tưởng của Người đến với tôi xuyên qua không gian và biểu hiện rõ ràng trước mắt tôi.
- Phải chăng đó là thần giao cách cảm?
- Đúng như vậy.
Tôi đứng dậy, vì đã đến lúc kiếu từ. Chúng tôi còn đi dạo một lần cuối cùng dưới ánh trăng khuya, dọc theo những vách tường cũ của ngôi đền bên cạnh nhà của Brama. Chúng tôi dừng bước dưới một hàng dừa mà cành lá xum xuê để cho ánh sáng rọi xuyên qua in bóng dưới đất. Trước khi từ giã, Brama thì thầm:
- Bạn thấy rằng tôi không gì nhiều. Đây là một vật quý nhất của tôi, bạn hãy cầm lấy.
Nói xong, y rút chiếc nhẫn mà y đeo ở ngón áp út bên trái và đặt vào lòng bàn tay lật ngửa của y. Dưới ánh trăng, tôi thấy chiếu sáng ngời một viên ngọc bích màu xanh có gân màu nâu sậm, lồng trong khung nhẫn bằng vàng. Brama đeo chiếc nhẫn vào ngón tay tôi và siết bàn tay tôi để từ giã. Tôi vừa tỏ ý không dám nhận món quà tặng quý giá này thì Brama đã ngăn chận lời từ chối của tôi bằng cách siết bàn tay chật hơn nữa. Y nói:
- Tôi thọ lãnh chiếc nhẫn này của một người hiền giả có tiếng. Người đã tặng cho tôi khi tôi bắt đầu bước chân lên đường Đạo. Bây giờ, đến lượt bạn hãy đeo nó.
- Không hẳn như vậy, nhưng viên ngọc thạch này là một linh vật rất hiệu nghiệm. Nó sẽ giúp cho bạn có duyên may hội ngộ với các bậc Hiền Giả, nó sẽ kích động những tư tưởng kỳ lạ xâm chiếm lấy khối óc huyên náo của bạn.
Lời nhắn nhủ lạ lùng của vị Tôn Sư ở cách xa ngàn dặm, điều đó vốn thật lạ quá đối với tôi, nên xin miễn luận bàn. Một cơn chiến đấu mãnh liệt đang diễn ra trong tâm hồn tôi giữa sự ngờ vực và đức tin. Còn chiếc nhẫn này? Làm sao mà tin được rằng một chiếc nhẫn lại có thể xui khiến được định mệnh, và gây cho tôi một ảnh hưởng bí mật về phương diện tâm linh? Phải chăng đó là một điều dị đoan? Nhưng Brama tin tưởng ở điều đó. Tôi phải tự nhủ rằng việc gì cũng có thể được cả ở cái xứ lạ lùng huyền bí này.
Tôi vẫn vơ suy nghĩ và lo ra đến nỗi tôi quên đường và đụng đầu vào một gốc dừa. Dưới nhành lá dịu dàng phất phơ của nó, chiếu những điểm ánh sáng do những con đom đóm bay lượn thành những vòng tròn. Nền trời trong vắt một màu xanh thẳm. Sao Kim Tinh chói rạng tỏa ra một ánh sáng rực rỡ coi dường như rất gần. Cảnh vật thiên nhiên đắm chìm trong bầu không khí hoàn toàn yên lặng. Không ai nghe tiếng động của những con dơi lớn bay ngang trên đỉnh đầu chúng tôi. Tôi tự thả trôi một lúc theo cái thú vị triền miên của giờ phút thần tiên này.
Về đến nhà, tôi trằn trọc suốt đêm không tìm thấy giấc ngủ. Mãi đến gần sáng, giấc ngủ mới đến và làm lắng dịu những ý nghĩ vẫn vơ trong đầu óc của tôi.
#75
Gửi vào 09/06/2011 - 01:34
NGƯỜI TU SĨ SUỐT ĐỜI KHÔNG NÓI
Phần Năm
Một hôm, tôi nghe nói có một người tu sĩ nổi tiếng đang ở vùng ngoại ô, cách thành phố Madras chừng nửa dặm. Người này thích ẩn dật, tránh tất cả mọi người và ít người được biết. Điều này khêu gợi sự tò mò của tôi, tôi bèn quyết định xin vào yết kiến.
Nhà của người tu sĩ ẩn khuất sau một hàng rào tre dựng lên thành hình vuông ở chính giữa một khoảng đồng. Người dẫn đường cho tôi chỉ vào một cái hàng rào và nói:
- Tôi nghe nói rằng người Yogi nhập định suốt ngày. Dầu cho chúng ta có la làng và đập cửa hàng rào, y cũng không nghe; và nếu y nghe được thì y sẽ cho chúng ta là những kẻ mất dạy.
Một cánh cửa thô sơ khép chặt hàng rào và được khóa lại rất chắc. Ở phía trong không ai nghe một tiếng động. Chúng tôi đi vòng chung quanh hàng rào và gặp một đứa trẻ nhỏ nói rằng nó biết nhà người giữ cửa và sẵn lòng đưa chúng tôi đến nhà người ấy.
Người giữ cửa là một nô bộc của người Yogi, vợ y và một bầy con quấn quýt theo chân y. Chúng tôi tỏ ý muốn nhờ y mở cửa, nhưng y liền từ chối. Y nói rằng nhà tu sĩ tịnh khẩu không tiếp khách qua đường và chỉ muốn ở yên một mình. Người nhập định hình như suốt ngày, và sẽ lấy làm bực mình nếu có kẻ nào vô phước muốn đột nhập vào tịnh xá.
Tôi yêu cầu người nô bộc hãy đặc cách dành cho tôi một sự dễ dàng ngoại lệ, nhưng y vẫn cương quyết từ chối. Người bạn tôi bèn dùng thử những phương pháp mạnh bạo: Anh ta hăm dọa người giữ cửa bằng sự trừng phạt của chánh quyền địa phương, nếu y không làm chúng tôi được thỏa mãn. Tự nhiên, đó chỉ là một sự dọa nạt.
Chúng tôi trở lại cửa hàng rào và mở một ống khóa lớn bằng sắt. Người nô bộc cho biết rằng người tu sĩ không có tài sản gì nhiều, và không có đến một cái chìa khóa. Cửa hàng rào được khóa trái lại ở phía ngoài, và y không thể bước ra khỏi nhà nếu người nô bộc không đến mỗi ngày hai lần để mở cửa.
Chúng tôi còn nghe nói rằng người tu sĩ mắc nhập định suốt ngày, nhưng đến chiều y dùng một ít vật thực như bánh trái và một chén sữa. Có những buổi chiều, đồ vật thực để trước mặt y vẫn còn y nguyên. Đôi khi, trời tối đến, y bước chân ra khỏi nhà và thỉnh thoảng đi dạo chơi ngoài đồng.
Chúng tôi qua khỏi sân và đến trước một ngôi nhà xây bằng đá, kiểu tân thời. Người nô bộc lấy chìa khóa mở một cánh cửa nặng và rất chắc. Tôi lấy làm lạ về sự bế môn chặt chẽ như vậy đối với một người có tiếng là không sở hữu của cải hay tài sản. Người nô bộc bèn giải thích lý do:
- Cách đây mấy năm, người tu sĩ ở trong hàng rào tre, không có khóa trong khóa ngoài gì cả. Một hôm, một người say rượu đột nhập vào trong thấy người tu sĩ có một mình và không có tự vệ, bèn ra tay hành hung. Hắn nắm chòm râu người tu sĩ và đánh y bằng gậy với những lời chửi rủa. Cũng may trong lúc đó có vài người thanh niên đang đá banh trên miếng đất trống ở gần bên. Nghe tiếng động, họ bèn chạy vào nhà và giải cứu người tu sĩ thoát khỏi tay tên bợm rượu, khi đó một người trong bọn chạy đi báo động với hàng xóm. Người làng tựu đến nơi và định cho tên du côn kia một bài học, y suýt nữa bị ăn đòn một trận nhừ tử nếu không có sự can thiệp của người tu sĩ, người này vẻ mặt vẫn bình thản tự nhiên ngay từ khi bị hành hung. Người tu sĩ viết trên một mảnh giấy: "Nếu các anh đánh đập người này thì cũng như các anh đánh đập tôi. Hãy cho y ra về, vì tôi đã tha thứ cho y." Vì lời nói của người tu sĩ luôn luôn được tôn trọng, nên người say rượu được thả về, tuy rằng một cách tiếc rẻ.
Người nô bộc liếc nhìn vào trong nhà và yêu cầu chúng tôi đừng cử động vì người tu sĩ đang thiền định. Tôi cởi giày và để ngoài hàng ba theo phong tục bổn xứ. Lúc quay vào, tôi nhìn thấy trên vách tường có một tấm bia đá đề chữ Tamoul, người bạn tôi đọc: "Đây là am thất của nhà tu sĩ tịnh khẩu."
Gian phòng rộng rãi cao ráo và rất sạch sẽ. Ở chính giữa có một cái bục bằng cẩm thạch bề cao độ ba tấc, lót một tấm thảm bằng gấm Ba Tư, trên đó nhà tu sĩ ngồi im lặng, hoàn toàn bất động như một pho tượng đá.
Người có một thân mình dài và ngay ngắn, màu da nâu sậm. Người ngồi bán dà, bàn chân bên mặt đặt lên đùi bên trái, đầu, gáy và lưng thẳng. Tóc dài và đen bỏ xõa xuống tận vai, một bộ râu rậm và đen phủ đầy cằm; hai bàn tay đặt lên hai đầu gối. Vì người chỉ mặc có một cái chăn vấn ngang lưng, mình để trần, tôi nhận thấy thân mình đầy bắp thịt rắn chắc, biểu lộ một sức khỏe lành mạnh.
Gương mặt người lộ vẻ ung dung tự tại, đôi môi hình như sẵn sàng nở một nụ cười. Người này hẳn là đã giải thoát khỏi gánh nặng của cuộc đời thế gian mà chúng ta là những kẻ phàm tục bị bắt buộc phải mang lấy trên vai, mặc dù chúng ta nhận biết được sự phù du giả tạm của nó.
Mũi ngắn và thẳng, hai mắt mở lớn nhìn thẳng về phía trước, mí mắt không chớp. Toàn thân đều yên lặng, tuyệt nhiên không cử động.
Người dẫn đường của tôi cho biết nhà tu sĩ đang nhập định, tức là đắm chìm trong cái trạng thái hợp nhất với Đại Thể của Vũ Trụ. Trong trạng thái đó, người hành giả hòa hợp tâm thức mình với tâm thức của vạn vật, và tạm thời không còn ý thức được việc gì xảy ra ở chung quanh mình.
Tôi để ý nhìn kỹ người Yogi: Cơn thoát trần đại định đó quả có thật, không còn nghi ngờ gì nữa. Điều lạ lùng nhất là đôi mí mắt không chớp, mở suốt nhiều giờ mà không thấy mỏi. Cặp mắt mở lớn nhưng không nhìn vật gì; nếu tinh thần còn tỉnh táo thì chắc nó đã đi xa lắm, cách xa cõi trần gian tục lụy. Những hoạt động của cơ thể cũng tạm thời ngưng hẳn, trừ ra thỉnh thoảng có một giọt nước mắt chạy quanh theo gò má, mà nguyên nhân chắc hẳn là vì hai mí mắt không chớp đã lâu.
Một con thằn lằn từ trên trần nhà bò xuống, chạy lên tấm thảm gấm và từ từ bò lên bàn chân ngồi bán dà của người tu sĩ, nhưng tuyệt nhiên không có một cử động, chẳng khác nào như người bằng đá. Vài con ruồi đáp xuống và bò lên mặt người, nhưng hình như không còn cảm giác, chẳng khác như gương mặt bằng đồng. Hơi thở dịu dàng và đều, nhưng thoảng nhẹ, dường như không thể nhận ra được nữa. Tuy thế, đó là cái dấu hiệu duy nhất chứng tỏ rằng người còn sống.
Để tạm quên thời gian chờ đợi, tôi lấy máy ảnh đem theo chụp lấy vài tấm, nhưng trong gian phòng thiếu ánh sáng, tôi đành phải thôi.
Tôi nhìn đồng hồ: Hai giờ đã trôi qua từ khi chúng tôi bước vào. Toàn thân người tu sĩ vẫn trơ trơ, không có chút cử động. Tôi sẽ ở lại đây suốt ngày nếu cần, để đạt mục đích của tôi, là được yết kiến người tu sĩ lạ lùng này. Nhưng người nô bộc cho chúng tôi biết là chờ đợi vô ích, và nếu chúng tôi trở lại trong một hai ngày, có lẽ chúng tôi đành chịu thất vọng ra về, nhưng điều ấy càng làm tăng thêm sự tò mò của tôi.
Những ngày sau đó, tôi cố gắng dọ hỏi và thu thập tài liệu về người tu sĩ này. Những cuộc điều tra của tôi đòi hỏi sự nhẫn nại và óc phân biện sáng suốt của một thẩm sát viên. Cuộc điều tra bắt đầu bằng một buổi nói chuyện dài với người nô bộc, và kết thúc bằng việc phỏng vấn một viên thanh tra cảnh sát. Nhờ đó, tôi có thể chắp nối từng giai đoạn và ghi chép lại được ít nhất một phần nào tiểu sử của người tu sĩ.
Y đến ở trong vùng này đã được tám năm nay. Không ai biết y là ai, và từ đâu đến. Y đóng căn cứ trên khoảng đất trống gần bên miếng đất của nhà y ở bây giờ. Những kẻ tò mò đến gần định hỏi chuyện y nhưng đều ra về tay không.
Y không nói chuyện với ai, cũng không muốn nghe ai nói; không ai có thể cậy miệng y và bắt y khai khẩu. Thỉnh thoảng, y chỉ đưa ra một cái gáo dừa để xin cơm ăn. Y vẫn ngồi luôn ngày đêm trên khoảnh đất này, không có một mái che, không quản mưa nắng dãi dầu, gió sương, cát bụi, và côn trùng sâu bọ. Y dường như hoàn toàn rút lui ý thức ra khỏi ngoại cảnh, chỉ vận có một cái chăn, và luôn luôn giữ có một thế ngồi.
Tuy nhiên, vùng ngoại ô của một thành phố lớn như Madras không phải là nơi thuận tiện cho sự thiền định của một người tu sĩ ẩn độn và lánh đời. Một chỗ như thế có lẽ tạm được ở một nước Ấn Độ thời cổ, chứ còn người Yogi ở thời đại này thì phải ẩn mình trong rừng sâu núi thẳm, hay ít nhất cũng phải ở trong một gian phòng vắng vẻ tĩnh mịch.
Tại sao người ẩn sĩ lạ lùng này lại chọn một nơi tối kỵ cho sự tu hành như thế? Người ta đã tìm được lý do sau một chuyện không hay đã xảy đến cho y. Một hôm, một đám du côn nhìn thấy người tu sĩ này và liền dùng y làm cái đích cho sự nghịch ngợm của chúng. Mỗi ngày, chúng đến ném đá và rác rến vào người tu sĩ và buông lời chửi rủa. Người tu sĩ vẫn thản nhiên, mặc dầu y có thể sửa cho chúng một trận đích đáng. Nhưng y cũng không quở mắng chúng một lời, vì y đã có lập nguyện giữ tịnh khẩu. Việc ấy có thể kéo dài,nếu không có một người qua đường nhìn thấy bọn du đãng kia đang làm trò mất dạy. Người này thấy vậy lấy làm bất bình, bèn đi báo sở cảnh sát Madras, họ bèn giải tám đám tiểu quỷ sau khi đã quở mắng chúng một trận nặng nề.
Sau khi việc ấy xảy ra, một viên thanh tra cảnh sát bèn quyết định tìm ra lý lịch của người ẩn sĩ. Nhưng vì không tìm được người nào biết rõ lý lịch của y, nên viên cảnh sát không còn cách nào khác hơn là sử dụng công quyền để chất vấn chính người tu sĩ vậy. Sau rất nhiều do dự, người này mới viết những lời sau đây trên một tấm bảng đá: "Tôi là một đệ tử của Marakayar. Thầy tôi đã dạy tôi hãy đi xuyên qua các vùng đồng bằng và hãy đến tỉnh Madras. Chính Thầy tôi đã chỉ cho tôi tìm ra khoảnh đất này. Người bảo tôi hãy ở lại đây và tiếp tục thực hành pháp môn Yoga cho đến khi thành Đạo. Tôi đã từ bỏ cuộc đời thế gian và chỉ yêu cầu có một điều, là người ta hãy để tôi yên. Tôi không tìm một lợi lộc gì ở Madras, mà chỉ muốn theo con đường tu hành."
Viên thanh tra cảnh sát hài lòng về câu trả lời trên đây và nhận ra người này là một đạo sĩ thượng hạng, bèn hứa sẽ dành cho người mọi sự che chở. Y biết Marakayar là một vị đạo sĩ Hồi giáo nổi tiếng, vừa mới qua đời cách đây không bao lâu.
Tục ngữ có câu: Trong cái học, ắt có ẩn cái phước. Vụ rắc rối kể trên thấu đến tai một người mộ đạo ở Madras, người này bèn hiến cho người tu sĩ không muốn làm trái lời Thầy dặn. Sau cùng, người mộ đạo kia mới tìm ra một giải pháp bằng cách xây một nhà tịnh thất trên miếng đất gần bên chỗ ở của người Yogi. Người này bằng lòng qua ở bên tịnh thất và từ đó mới có chỗ ẩn trú và nương dựa để dễ bề hành đạo.Cũng chính người hảo tâm ấy đã chỉ định một người nô bộc theo săn sóc người Yogi để cho y khỏi phải đi khuất thực. Không biết vị Tôn Sư Marakayar có tiên liệu trước rằng cơn thử thách dành cho người đệ tử này rốt cuộc sẽ kết thúc một cách tốt đẹp êm thắm như thế chăng?
Tôi cũng được biết rằng người tu sĩ không có đệ tử. Y không tìm kiếm cũng không thâu nhận một đệ tử nào cả. Y định tiến mau đến đích giải thoát bằng cách tu hành ẩn độn trong sự hoàn toàn cô đơn. Thái độ đó, theo quan niệm của người Âu, thì dường như ích kỷ. Tuy nhiên, thật cũng khó mà cho là ích kỷ, một người đã có lòng từ bi hỉ xả đối với một kẻ say rượu hành hung mình và không thèm trả thù đám tiểu quỷ đến hành hạ y.
Tôi đến lần thứ nhì để định phỏng vấn người tu sĩ tịnh khẩu, nhưng lần này có hai người cùng đi với tôi, một là người thông ngôn đã quen biết và người kia là Brama, người đạo sĩ bên bờ sông Adyar đã từng dạy cho tôi biết nhiều điều quý báu. Brama không thích tới lui chỗ thành thị, nhưng khi nghe tôi bày tỏ mục đích cuộc thăm viếng của tôi, liền bằng lòng đi theo tôi không chút do dự.
Gần đến hàng rào, chúng tôi gặp một người khách lạ cũng vừa xuống xe ngừng giữa đường, và đi bộ qua cánh đồng. Người này cũng muốn được vào yết kiến nhà tu sĩ. Y cho chúng tôi biết rằng y là em của bà Vương hậu xứ Gadwal, một tiểu quốc dưới sự bảo hộ của Quốc Vương xứ Hadetabad. Người này cũng cho biết y là một ân nhân che chở của người tu sĩ tịnh khẩu, và có góp phần trong việc trùng tu am thất của người Yogi. Y đến Madras có việc trong vài ngày, và trước khi ra về, y muốn đến viếng thăm nhà tu sĩ và xin người ban ân huệ. Còn cái ân huệ này có giá trị bao nhiêu, thì tôi được biết qua câu chuyện sau đây do người khách lạ thuật lại.
Một bà lớn trong triều xứ Gadwal có một đứa con bị một chứng bệnh hiểm nghèo. Bà ấy nghe tiếng đồn về nhà tu sĩ tịnh khẩu. Bà không do dự, liền đi tới Madras để thỉnh cầu người tu sĩ ban ân huệ, và cứu giùm đứa con bà. Người Yogi bằng lòng và đứa nhỏ khỏi bệnh một cách mầu nhiệm. Việc này đồn thấu đến tai bà Vương hậu, bà liền đến tận nơi để cám ơn người tu sĩ. Bà Hoàng biếu cho y một túi bạc đựng sáu trăm rupee, nhưng y từ chối không nhận. Bà Hoàng khẩn khoản mời y nhận dùm, thì y yêu cầu rằng số bạc đó đem dùng để xây một cái hàng rào chung quanh tịnh thất để cho y khỏi bị quấy rầy trong lúc tham thiền. Bà Hoàng liền làm đúng theo lời.
Người nô bộc đưa chúng tôi vào cùng một lượt, nhưng chúng tôi lại thấy người tu sĩ ngồi nhập định cũng như lần trước. Chúng tôi lẳng lặng ngồi theo vòng bán nguyệt chung quanh người tu sĩ, trông chẳng khác nào như một pho tượng oai nghi hùng dũng đặt trên một phiến đá bằng cẩm thạch. Độ một tiếng rưỡi đồng hồ sau, chúng tôi nhìn thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh. Hơi thở của người trở nên dài hơn và dễ nhận thấy hơn, hai mí mắt đã thấy chớp, tròngcon mắt trở lại bình thường. Những bắp thịt đã co giãn trở lại, thân mình cũng trở lại dáng điệu tự nhiên.
Trong năm phút sau, sắc diện biểu lộ trong cặp mắt chỉ rằng người tu sĩ đã trở về với cõi tục và đã ý thức được mọi sự vật ở chung quanh. Y chăm chú nhìn người thông ngôn của tôi, day đầu nhìn về phía Brama và người khách lạ, sau cùng mới day về phía tôi. Tôi liền nắm ngay lấy cơ hội, và đặt dưới chân y một cây viết và một tờ giấy. Sau một lúc do dự, y cầm lấy những vật này và viết bằng một tuồng chữ Tamoul rất đẹp: "Hôm nọ có ai đến đây và định chụp ảnh?"
Tôi đành phải thú thật. Thật ra những bức ảnh hôm đó tôi chụp đều hư hết cả, vì thiếu ánh sáng. Người tu sĩ lại viết: "Lần sau, khi ông đến viếng các đạo sĩ đang xuất thần, xin đừng bao giờ làm phiền rộn họ như thế, vì ông có thể làm gián đoạn cơn thiền định của họ một cách phũ phàng. Đối với tôi, điều đó không quan trọng, tôi chỉ dặn ông như thế để lần sau ông có thể đến viếng những nhà đạo sĩ khác. Một sự gián đoạn như thế có thể rất hiểm nghèo đối với họ và ông sẽ bị nguyền rủa."
Quả thật tôi đã vi phạm vào một điều thiêng liêng bằng cách đột nhập vào nơi ẩn trú của người tu sĩ, và tôi bày tỏ sự hối tiếc
Vị điện hạ của triều vua Gadwal lên tiếng kính chào và bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với người tu sĩ. Khi y đã xong, mới đến lượt tôi tiến lên và tự giới thiệu như một người ngoại quốc hâm mộ về nền Minh triết cổ truyền của Ấn Độ. Tôi nghe nói rằng xứ Ấn Độ ngày nay vẫn còn những bậc Hiền Triết đã đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga và tôi đang đi tìm các bậc ấy. Tu Sĩ có thể giúp đỡ tôi phần nào trong việc sưu tầm này chăng?
Người Yogi vẫn ngồi yên như pho tượng, vẻ mặt thản nhiên không chút cử động. Mười phút trôi qua, tôi tự hỏi không biết y có nghe tôi hỏi chăng? Hay là tôi lại sắp bị thất vọng? Có lẽ đối với y, một người Âu chỉ là một kẻ quá thiên về vật chất, không có gì phải nói nhiều. Hay là y cũng còn hận tôi về cái tật ham chụp ảnh? Và phải chăng tôi đã đòi hỏi quá nhiều khi làm cho một người tu sĩ lánh đời như thế phải ngưng cơn thiền định để thỏa mãn tánh hiếu kỳ của một kẻ vô tín ngưỡng và nặng lòng trần tục? Dầu sao, đây cũng là một sự thất vọng chua cay.
Nhưng không, đó là tôi quá tưởng tượng. Người tu sĩ cầm cây viết chì và viết vài chữ trên tờ giấy. Tôi ngã tới trước để nhận lấy trên tay y và đưa cho người thông ngôn. Người này nói:
- Tôi không hiểu, vì chữ viết rất khó đọc.
- Vũ trụ thật là đầy những sự huyền bí.
Tôi nói đỡ lời cho y đừng băn khoăn nhưng tôi thấy những lời này làm nở một nụ cười hơi chua chát trên môi người tu sĩ. Y nói:
- Nếu ông không tự biết mình, làm sao ông có thể biết được Vũ trụ?
Bây giờ, y nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi cảm thấy đằng sau cái nhìn đó có cả một thế giới tư tưởng thầm kín, đầy những bí mật được giữ gìn một cách chặt chẽ.
- Tôi cũng vẫn còn hoang mang, và lời nói của tu sĩ cũng chưa giải đáp được sự thắc mắc của tôi, đó là tất cả những gì tôi có thể nói trong lúc đó.
- Như vậy, tại sao ông cứ đi tìm quanh quẩn như con ong đi kiếm từng giọt mật, trong khi cả một khối mật ngọt vốn luôn luôn có sẵn hầu kề một bên?
Tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên. Một câu trả lời như thế có lẽ là đầy đủ đối với một người Á Đông, và ý nghĩa bóng gió của nó có một thi vị đáng yêu, nhưng tôi không được thỏa mãn khi tôi muốn hỏi y về sự giải đáp cho những vấn đề thắc mắc của tôi.
- Nhưng tìm ở đâu, và phải đi đến đâu bây giờ?
- Hãy tìm ở tự nơi mình. Chân Lý vốn ở tự nơi ta chứ không ở đâu xa.
- Tôi tìm ở nơi tôi và chỉ thấy có sự vô minh.
- Sự vô minh chỉ có trong tư tưởng của ông mà thôi.
- Xin lỗi Thầy, những câu trả lời của Thầy chỉ làm tăng thêm sự hoang mang của tôi mà thôi.
Người tu sĩ bật cười một cách tự nhiên về sự thành thật của tôi. Y do dự một lúc và viết trên tập giấy: "Tư tưởng của ông đã đưa ông đến sự vô minh hiện tại. Bây giờ ông hãy quay trở về sự minh triết, tức là hãy tự biết mình. Tư tưởng con người cũng ví như một chiếc xe bò đưa người vào trong hang tối. Ông hãy quay ngược trở ra thì sẽ thấy lại ánh sáng."
Người tu sĩ thấy tôi bối rối thêm, bèn ra dấu đòi lại tập giấy, và sau khi ngừng một lúc, y viết:
- Việc gom tư tưởng đi ngược trở về nguyên bổn, đó là bí quyết của pháp môn Yoga. Bây giờ ông đã hiểu chưa?
Tôi thấy hơi rõ hơn một chút, nhưng vẫn chưa thấy một người khách vừa mới bước vào. Người này ngồi khít đằng sau lưng tôi, và tôi chỉ nhận biết được sự có mặt của y khi y nói nhỏ vào tai tôi những lời lạ lùng. Tôi đang ngẫm nghĩ về câu nói của người tu sĩ và hơi thất vọng về tính cách mập mờ khó hiểu của nó, thì tôi nghe sau lưng tôi có người nói nhỏ thì thầm một câu bí mật bằng một thứ tiếng Anh rất thạo:
- Thầy tôi sẽ nói cho ông nghe câu trả lời mà ông mong đợi.
Tôi quay đầu nhìn lại. Người mới đến là một người trạc độ bốn mươi tuổi, khoác áo màu vàng của người tu sĩ hành khất, nước da sậm như màu đồng đỏ, tác người cao lớn và vai rộng. Y có một cái mũi dài và lộ như mũi chim ưng, đôi mắt rất nhỏ dường như lúc nào cũng nhíu lên một cái cười dài bất tận. Y có vẻ như cười cợt và làm tôi khó chịu. Hơn nữa, thật là bất lịch sự mà nói chuyện riêng với người khác ở trước mặt nhà tu sĩ, nên tôi không nói chuyện với y và day mặt trở lại về phía người Yogi.
Một câu hỏi khác vừa hiện ra trong trí tôi, nhưng phải chăng nó quá táo bạo và dường như hỗn hào:
- Bạch Thầy, thế gian đau khổ đang kêu cứu. Những bậc Hiền giả như Thầy tại sao lại ẩn mình ở một nơi vắng vẻ và đành chịu mai một với đời?
Một nét chua chát hơi thoáng qua trên gương mặt thản nhiên của người tu sĩ:
- Nếu ông không tự biết mình, làm sao ông có thể tự hào biết được tôi? Thảo luận về những vấn đề tâm linh không có ích lợi bao nhiêu. Ông hãy tập luyện một cách kiên tâm bền chí, rồi ông sẽ tìm thấy sự giải đáp cho mọi vấn đề.
Tôi hỏi thêm một câu cuối cùng:
- Nhân loại đang khát khao tìm ánh sáng. Tôi cũng đang đi tìm để hy vọng chia sớt phần nào cho kẻ khác được nhờ. Vậy tôi phải làm sao?
- Khi ông thấy được Chân Lý, ông sẽ biết rằng ông sẽ làm gì để phụng sự nhân loại và chừng đó ông sẽ có không thiếu gì phương tiện. Nếu một cái hoa có chứa mật, tự nhiên con ong sẽ phân biệt được nó trong tất cả những cái hoa khác. Khi một người đã đạt được sự Minh triết và có sức mạnh tâm linh, y không cần đi tìm ai cả, những người khác sẽ tự họ đến tìm y. Ông hãy lo trau dồi Chân Ngã, đó là điều duy nhất cần phải làm, và không cần theo một giáo lý nào khác.
Nói đến đây, người tu sĩ ra hiệu cho biết rằng y muốn ngưng cuộc nói chuyện để trở lại cơn tham thiền. Tôi yêu cầu y ban cho tôi một ân huệ cuối cùng. Cặp mắt y dường như đắm chìm một lúc trong một cơn trầm tư mặc tưởng. Kế đó, y cầm viết chì viết trên tập giấy và trao cho tôi, trong đó y viết như sau: "Tôi rất vui lòng vì ông đã đến đây. Ông hãy nhận lấy món quà này của tôi để kỷ niệm ngày hội ngộ hôm nay."
Tôi chưa kịp hiểu ý nghĩa câu này, thì thình lình tôi cảm thấy một mãnh lực lạ lùng xâm chiếm lấy tôi. Cái mãnh lực ấy đi xuyên qua tủy xương sống, duỗi thẳng cái gáy và làm tôi ngẩng đầu lên. Nó làm tăng sức mạnh ý chí của tôi lên gấp trăm ngàn lần. Tôi cảm thấy một sự thúc giục bên trong nó bắt buộc tôi phải tự chinh phục lấy mình, và bắt thể xác tuân theo mệnh lệnh của ý chí để thực hiện những lý tưởng cao cả nhất. Tôi có linh cảm rằng những lý tưởng đó chỉ là những tiếng nói của Chân Ngã, và chân hạnh phúc không còn ở đâu nữa, nếu không phải là ở đó. Tôi có cảm giác một luồng từ điển vô hình từ người tu sĩ tỏa ra và được truyền thẳng vào người tôi do một phương pháp thần giao cách cảm bí mật nào đó. Phải chăng y đã dùng cách đó để cho tôi thấy một bằng chứng về cái quyền năng kỳ diệu của y?
Đôi mắt của người Yogi lại đứng tròng, và cái nhìn của đôi mắt đó lại mất hút trong cõi xa xăm nào. Toàn thân y lại cứng đờ như pho tượng sau khi y giữ lại cái thế ngồi quen thuộc như mọi khi. Y đã thả tâm hồn đi xa lắc, ngoài vòng hoạt động của tư tưởng đến tận những cõi giới thâm u huyền diệu của nội tâm, mà y yêu thích hơn là cõi thế gian này. Phải chăng đây là một người Yogi chân chính? Phải chăng y đang bước vào những cuộc thám hiểm huyền bí của nội tâm, khả dĩ đem lại một vài tia sáng cho nhân loại? Biết đâu?
Khi chúng tôi bước ra ngoài, Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar, quay lại tôi và nói với một giọng bình thản:
- Người Yogi này đã đạt tới một trình độ rất cao, tuy rằng y chưa đạt đến mức tột đỉnh. Y có những quyền năng thần bí, nhưng y cònđang gắng công tu luyện để tiến đến trình độ tâm linh siêu đẳng. Y có một thể xác kiện toàn, mà tôi cho là nhờ tập luyện môn Hatha Yoga đã lâu năm, nhưng y cũng đã tiến xa trên con đường luyện tinh thần theo pháp môn Raji Yoga. Tôi biết y trước đây đã lâu.
- Từ bao giờ?
- Tôi đã thấy y nhiều năm về trước ở giữa một cánh đồng, không có mái che. Tôi liền nhận ra ngay rằng y là một bạn đồng môn. Y cho tôi biết, bằng cách viết trên giấy, rằng hồi còn trẻ y có nhập ngũ trong quân đội. Sau khi giải ngũ, y cảm thấy chán nản cuộc đời và lui về ở ẩn nơi thanh vắng. Chính trong lúc đó, y gặp nhà đạo sĩ trứ danh Marakayar và trở nên đệ tử của vị này.
Bận về, chúng tôi đi ngang qua cánh đồng rồi mới trở ra đường cái. Tôi không thổ lộ với ai về cái kinh nghiệm bất ngờ và khó hiểu đã xảy đến với tôi trong tịnh thất khi nãy. Tôi cần phải suy nghĩ lại về vấn đề này trong khi cái âm hưởng của nó hãy còn vang dội chưa dứt trong tâm hồn tôi.
Tôi không còn gặp lại người tu sĩ một lần nào nữa. Y không muốn cho ai đột nhập vào cuộc đời vắng lặng của y, và tôi phải tôn trọng sự mong ước đó. Tôi để cho y tiếp tục những cơn thiền định cô đơn của y, hoàn toàn cách biệt với cuộc đời trần gian tục lụy. Y không hề có ý muốn lập môn phái, hay quy tụ một nhóm môn đồ, và dường như không có tham vọng gì khác hơn là sống một cuộc đời hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Y không có gì để nói thêm vào những gì y đã nói với tôi, và khinh thường sự nói năng hoạt bát hùng biện, mà chúng ta vẫn đề cao như một nghệ thuật và coi như một điều quan trọng thay.
Phần Năm
Một hôm, tôi nghe nói có một người tu sĩ nổi tiếng đang ở vùng ngoại ô, cách thành phố Madras chừng nửa dặm. Người này thích ẩn dật, tránh tất cả mọi người và ít người được biết. Điều này khêu gợi sự tò mò của tôi, tôi bèn quyết định xin vào yết kiến.
Nhà của người tu sĩ ẩn khuất sau một hàng rào tre dựng lên thành hình vuông ở chính giữa một khoảng đồng. Người dẫn đường cho tôi chỉ vào một cái hàng rào và nói:
- Tôi nghe nói rằng người Yogi nhập định suốt ngày. Dầu cho chúng ta có la làng và đập cửa hàng rào, y cũng không nghe; và nếu y nghe được thì y sẽ cho chúng ta là những kẻ mất dạy.
Một cánh cửa thô sơ khép chặt hàng rào và được khóa lại rất chắc. Ở phía trong không ai nghe một tiếng động. Chúng tôi đi vòng chung quanh hàng rào và gặp một đứa trẻ nhỏ nói rằng nó biết nhà người giữ cửa và sẵn lòng đưa chúng tôi đến nhà người ấy.
Người giữ cửa là một nô bộc của người Yogi, vợ y và một bầy con quấn quýt theo chân y. Chúng tôi tỏ ý muốn nhờ y mở cửa, nhưng y liền từ chối. Y nói rằng nhà tu sĩ tịnh khẩu không tiếp khách qua đường và chỉ muốn ở yên một mình. Người nhập định hình như suốt ngày, và sẽ lấy làm bực mình nếu có kẻ nào vô phước muốn đột nhập vào tịnh xá.
Tôi yêu cầu người nô bộc hãy đặc cách dành cho tôi một sự dễ dàng ngoại lệ, nhưng y vẫn cương quyết từ chối. Người bạn tôi bèn dùng thử những phương pháp mạnh bạo: Anh ta hăm dọa người giữ cửa bằng sự trừng phạt của chánh quyền địa phương, nếu y không làm chúng tôi được thỏa mãn. Tự nhiên, đó chỉ là một sự dọa nạt.
Chúng tôi trở lại cửa hàng rào và mở một ống khóa lớn bằng sắt. Người nô bộc cho biết rằng người tu sĩ không có tài sản gì nhiều, và không có đến một cái chìa khóa. Cửa hàng rào được khóa trái lại ở phía ngoài, và y không thể bước ra khỏi nhà nếu người nô bộc không đến mỗi ngày hai lần để mở cửa.
Chúng tôi còn nghe nói rằng người tu sĩ mắc nhập định suốt ngày, nhưng đến chiều y dùng một ít vật thực như bánh trái và một chén sữa. Có những buổi chiều, đồ vật thực để trước mặt y vẫn còn y nguyên. Đôi khi, trời tối đến, y bước chân ra khỏi nhà và thỉnh thoảng đi dạo chơi ngoài đồng.
Chúng tôi qua khỏi sân và đến trước một ngôi nhà xây bằng đá, kiểu tân thời. Người nô bộc lấy chìa khóa mở một cánh cửa nặng và rất chắc. Tôi lấy làm lạ về sự bế môn chặt chẽ như vậy đối với một người có tiếng là không sở hữu của cải hay tài sản. Người nô bộc bèn giải thích lý do:
- Cách đây mấy năm, người tu sĩ ở trong hàng rào tre, không có khóa trong khóa ngoài gì cả. Một hôm, một người say rượu đột nhập vào trong thấy người tu sĩ có một mình và không có tự vệ, bèn ra tay hành hung. Hắn nắm chòm râu người tu sĩ và đánh y bằng gậy với những lời chửi rủa. Cũng may trong lúc đó có vài người thanh niên đang đá banh trên miếng đất trống ở gần bên. Nghe tiếng động, họ bèn chạy vào nhà và giải cứu người tu sĩ thoát khỏi tay tên bợm rượu, khi đó một người trong bọn chạy đi báo động với hàng xóm. Người làng tựu đến nơi và định cho tên du côn kia một bài học, y suýt nữa bị ăn đòn một trận nhừ tử nếu không có sự can thiệp của người tu sĩ, người này vẻ mặt vẫn bình thản tự nhiên ngay từ khi bị hành hung. Người tu sĩ viết trên một mảnh giấy: "Nếu các anh đánh đập người này thì cũng như các anh đánh đập tôi. Hãy cho y ra về, vì tôi đã tha thứ cho y." Vì lời nói của người tu sĩ luôn luôn được tôn trọng, nên người say rượu được thả về, tuy rằng một cách tiếc rẻ.
Người nô bộc liếc nhìn vào trong nhà và yêu cầu chúng tôi đừng cử động vì người tu sĩ đang thiền định. Tôi cởi giày và để ngoài hàng ba theo phong tục bổn xứ. Lúc quay vào, tôi nhìn thấy trên vách tường có một tấm bia đá đề chữ Tamoul, người bạn tôi đọc: "Đây là am thất của nhà tu sĩ tịnh khẩu."
Gian phòng rộng rãi cao ráo và rất sạch sẽ. Ở chính giữa có một cái bục bằng cẩm thạch bề cao độ ba tấc, lót một tấm thảm bằng gấm Ba Tư, trên đó nhà tu sĩ ngồi im lặng, hoàn toàn bất động như một pho tượng đá.
Người có một thân mình dài và ngay ngắn, màu da nâu sậm. Người ngồi bán dà, bàn chân bên mặt đặt lên đùi bên trái, đầu, gáy và lưng thẳng. Tóc dài và đen bỏ xõa xuống tận vai, một bộ râu rậm và đen phủ đầy cằm; hai bàn tay đặt lên hai đầu gối. Vì người chỉ mặc có một cái chăn vấn ngang lưng, mình để trần, tôi nhận thấy thân mình đầy bắp thịt rắn chắc, biểu lộ một sức khỏe lành mạnh.
Gương mặt người lộ vẻ ung dung tự tại, đôi môi hình như sẵn sàng nở một nụ cười. Người này hẳn là đã giải thoát khỏi gánh nặng của cuộc đời thế gian mà chúng ta là những kẻ phàm tục bị bắt buộc phải mang lấy trên vai, mặc dù chúng ta nhận biết được sự phù du giả tạm của nó.
Mũi ngắn và thẳng, hai mắt mở lớn nhìn thẳng về phía trước, mí mắt không chớp. Toàn thân đều yên lặng, tuyệt nhiên không cử động.
Người dẫn đường của tôi cho biết nhà tu sĩ đang nhập định, tức là đắm chìm trong cái trạng thái hợp nhất với Đại Thể của Vũ Trụ. Trong trạng thái đó, người hành giả hòa hợp tâm thức mình với tâm thức của vạn vật, và tạm thời không còn ý thức được việc gì xảy ra ở chung quanh mình.
Tôi để ý nhìn kỹ người Yogi: Cơn thoát trần đại định đó quả có thật, không còn nghi ngờ gì nữa. Điều lạ lùng nhất là đôi mí mắt không chớp, mở suốt nhiều giờ mà không thấy mỏi. Cặp mắt mở lớn nhưng không nhìn vật gì; nếu tinh thần còn tỉnh táo thì chắc nó đã đi xa lắm, cách xa cõi trần gian tục lụy. Những hoạt động của cơ thể cũng tạm thời ngưng hẳn, trừ ra thỉnh thoảng có một giọt nước mắt chạy quanh theo gò má, mà nguyên nhân chắc hẳn là vì hai mí mắt không chớp đã lâu.
Một con thằn lằn từ trên trần nhà bò xuống, chạy lên tấm thảm gấm và từ từ bò lên bàn chân ngồi bán dà của người tu sĩ, nhưng tuyệt nhiên không có một cử động, chẳng khác nào như người bằng đá. Vài con ruồi đáp xuống và bò lên mặt người, nhưng hình như không còn cảm giác, chẳng khác như gương mặt bằng đồng. Hơi thở dịu dàng và đều, nhưng thoảng nhẹ, dường như không thể nhận ra được nữa. Tuy thế, đó là cái dấu hiệu duy nhất chứng tỏ rằng người còn sống.
Để tạm quên thời gian chờ đợi, tôi lấy máy ảnh đem theo chụp lấy vài tấm, nhưng trong gian phòng thiếu ánh sáng, tôi đành phải thôi.
Tôi nhìn đồng hồ: Hai giờ đã trôi qua từ khi chúng tôi bước vào. Toàn thân người tu sĩ vẫn trơ trơ, không có chút cử động. Tôi sẽ ở lại đây suốt ngày nếu cần, để đạt mục đích của tôi, là được yết kiến người tu sĩ lạ lùng này. Nhưng người nô bộc cho chúng tôi biết là chờ đợi vô ích, và nếu chúng tôi trở lại trong một hai ngày, có lẽ chúng tôi đành chịu thất vọng ra về, nhưng điều ấy càng làm tăng thêm sự tò mò của tôi.
Những ngày sau đó, tôi cố gắng dọ hỏi và thu thập tài liệu về người tu sĩ này. Những cuộc điều tra của tôi đòi hỏi sự nhẫn nại và óc phân biện sáng suốt của một thẩm sát viên. Cuộc điều tra bắt đầu bằng một buổi nói chuyện dài với người nô bộc, và kết thúc bằng việc phỏng vấn một viên thanh tra cảnh sát. Nhờ đó, tôi có thể chắp nối từng giai đoạn và ghi chép lại được ít nhất một phần nào tiểu sử của người tu sĩ.
Y đến ở trong vùng này đã được tám năm nay. Không ai biết y là ai, và từ đâu đến. Y đóng căn cứ trên khoảng đất trống gần bên miếng đất của nhà y ở bây giờ. Những kẻ tò mò đến gần định hỏi chuyện y nhưng đều ra về tay không.
Y không nói chuyện với ai, cũng không muốn nghe ai nói; không ai có thể cậy miệng y và bắt y khai khẩu. Thỉnh thoảng, y chỉ đưa ra một cái gáo dừa để xin cơm ăn. Y vẫn ngồi luôn ngày đêm trên khoảnh đất này, không có một mái che, không quản mưa nắng dãi dầu, gió sương, cát bụi, và côn trùng sâu bọ. Y dường như hoàn toàn rút lui ý thức ra khỏi ngoại cảnh, chỉ vận có một cái chăn, và luôn luôn giữ có một thế ngồi.
Tuy nhiên, vùng ngoại ô của một thành phố lớn như Madras không phải là nơi thuận tiện cho sự thiền định của một người tu sĩ ẩn độn và lánh đời. Một chỗ như thế có lẽ tạm được ở một nước Ấn Độ thời cổ, chứ còn người Yogi ở thời đại này thì phải ẩn mình trong rừng sâu núi thẳm, hay ít nhất cũng phải ở trong một gian phòng vắng vẻ tĩnh mịch.
Tại sao người ẩn sĩ lạ lùng này lại chọn một nơi tối kỵ cho sự tu hành như thế? Người ta đã tìm được lý do sau một chuyện không hay đã xảy đến cho y. Một hôm, một đám du côn nhìn thấy người tu sĩ này và liền dùng y làm cái đích cho sự nghịch ngợm của chúng. Mỗi ngày, chúng đến ném đá và rác rến vào người tu sĩ và buông lời chửi rủa. Người tu sĩ vẫn thản nhiên, mặc dầu y có thể sửa cho chúng một trận đích đáng. Nhưng y cũng không quở mắng chúng một lời, vì y đã có lập nguyện giữ tịnh khẩu. Việc ấy có thể kéo dài,nếu không có một người qua đường nhìn thấy bọn du đãng kia đang làm trò mất dạy. Người này thấy vậy lấy làm bất bình, bèn đi báo sở cảnh sát Madras, họ bèn giải tám đám tiểu quỷ sau khi đã quở mắng chúng một trận nặng nề.
Sau khi việc ấy xảy ra, một viên thanh tra cảnh sát bèn quyết định tìm ra lý lịch của người ẩn sĩ. Nhưng vì không tìm được người nào biết rõ lý lịch của y, nên viên cảnh sát không còn cách nào khác hơn là sử dụng công quyền để chất vấn chính người tu sĩ vậy. Sau rất nhiều do dự, người này mới viết những lời sau đây trên một tấm bảng đá: "Tôi là một đệ tử của Marakayar. Thầy tôi đã dạy tôi hãy đi xuyên qua các vùng đồng bằng và hãy đến tỉnh Madras. Chính Thầy tôi đã chỉ cho tôi tìm ra khoảnh đất này. Người bảo tôi hãy ở lại đây và tiếp tục thực hành pháp môn Yoga cho đến khi thành Đạo. Tôi đã từ bỏ cuộc đời thế gian và chỉ yêu cầu có một điều, là người ta hãy để tôi yên. Tôi không tìm một lợi lộc gì ở Madras, mà chỉ muốn theo con đường tu hành."
Viên thanh tra cảnh sát hài lòng về câu trả lời trên đây và nhận ra người này là một đạo sĩ thượng hạng, bèn hứa sẽ dành cho người mọi sự che chở. Y biết Marakayar là một vị đạo sĩ Hồi giáo nổi tiếng, vừa mới qua đời cách đây không bao lâu.
Tục ngữ có câu: Trong cái học, ắt có ẩn cái phước. Vụ rắc rối kể trên thấu đến tai một người mộ đạo ở Madras, người này bèn hiến cho người tu sĩ không muốn làm trái lời Thầy dặn. Sau cùng, người mộ đạo kia mới tìm ra một giải pháp bằng cách xây một nhà tịnh thất trên miếng đất gần bên chỗ ở của người Yogi. Người này bằng lòng qua ở bên tịnh thất và từ đó mới có chỗ ẩn trú và nương dựa để dễ bề hành đạo.Cũng chính người hảo tâm ấy đã chỉ định một người nô bộc theo săn sóc người Yogi để cho y khỏi phải đi khuất thực. Không biết vị Tôn Sư Marakayar có tiên liệu trước rằng cơn thử thách dành cho người đệ tử này rốt cuộc sẽ kết thúc một cách tốt đẹp êm thắm như thế chăng?
Tôi cũng được biết rằng người tu sĩ không có đệ tử. Y không tìm kiếm cũng không thâu nhận một đệ tử nào cả. Y định tiến mau đến đích giải thoát bằng cách tu hành ẩn độn trong sự hoàn toàn cô đơn. Thái độ đó, theo quan niệm của người Âu, thì dường như ích kỷ. Tuy nhiên, thật cũng khó mà cho là ích kỷ, một người đã có lòng từ bi hỉ xả đối với một kẻ say rượu hành hung mình và không thèm trả thù đám tiểu quỷ đến hành hạ y.
Tôi đến lần thứ nhì để định phỏng vấn người tu sĩ tịnh khẩu, nhưng lần này có hai người cùng đi với tôi, một là người thông ngôn đã quen biết và người kia là Brama, người đạo sĩ bên bờ sông Adyar đã từng dạy cho tôi biết nhiều điều quý báu. Brama không thích tới lui chỗ thành thị, nhưng khi nghe tôi bày tỏ mục đích cuộc thăm viếng của tôi, liền bằng lòng đi theo tôi không chút do dự.
Gần đến hàng rào, chúng tôi gặp một người khách lạ cũng vừa xuống xe ngừng giữa đường, và đi bộ qua cánh đồng. Người này cũng muốn được vào yết kiến nhà tu sĩ. Y cho chúng tôi biết rằng y là em của bà Vương hậu xứ Gadwal, một tiểu quốc dưới sự bảo hộ của Quốc Vương xứ Hadetabad. Người này cũng cho biết y là một ân nhân che chở của người tu sĩ tịnh khẩu, và có góp phần trong việc trùng tu am thất của người Yogi. Y đến Madras có việc trong vài ngày, và trước khi ra về, y muốn đến viếng thăm nhà tu sĩ và xin người ban ân huệ. Còn cái ân huệ này có giá trị bao nhiêu, thì tôi được biết qua câu chuyện sau đây do người khách lạ thuật lại.
Một bà lớn trong triều xứ Gadwal có một đứa con bị một chứng bệnh hiểm nghèo. Bà ấy nghe tiếng đồn về nhà tu sĩ tịnh khẩu. Bà không do dự, liền đi tới Madras để thỉnh cầu người tu sĩ ban ân huệ, và cứu giùm đứa con bà. Người Yogi bằng lòng và đứa nhỏ khỏi bệnh một cách mầu nhiệm. Việc này đồn thấu đến tai bà Vương hậu, bà liền đến tận nơi để cám ơn người tu sĩ. Bà Hoàng biếu cho y một túi bạc đựng sáu trăm rupee, nhưng y từ chối không nhận. Bà Hoàng khẩn khoản mời y nhận dùm, thì y yêu cầu rằng số bạc đó đem dùng để xây một cái hàng rào chung quanh tịnh thất để cho y khỏi bị quấy rầy trong lúc tham thiền. Bà Hoàng liền làm đúng theo lời.
Người nô bộc đưa chúng tôi vào cùng một lượt, nhưng chúng tôi lại thấy người tu sĩ ngồi nhập định cũng như lần trước. Chúng tôi lẳng lặng ngồi theo vòng bán nguyệt chung quanh người tu sĩ, trông chẳng khác nào như một pho tượng oai nghi hùng dũng đặt trên một phiến đá bằng cẩm thạch. Độ một tiếng rưỡi đồng hồ sau, chúng tôi nhìn thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh. Hơi thở của người trở nên dài hơn và dễ nhận thấy hơn, hai mí mắt đã thấy chớp, tròngcon mắt trở lại bình thường. Những bắp thịt đã co giãn trở lại, thân mình cũng trở lại dáng điệu tự nhiên.
Trong năm phút sau, sắc diện biểu lộ trong cặp mắt chỉ rằng người tu sĩ đã trở về với cõi tục và đã ý thức được mọi sự vật ở chung quanh. Y chăm chú nhìn người thông ngôn của tôi, day đầu nhìn về phía Brama và người khách lạ, sau cùng mới day về phía tôi. Tôi liền nắm ngay lấy cơ hội, và đặt dưới chân y một cây viết và một tờ giấy. Sau một lúc do dự, y cầm lấy những vật này và viết bằng một tuồng chữ Tamoul rất đẹp: "Hôm nọ có ai đến đây và định chụp ảnh?"
Tôi đành phải thú thật. Thật ra những bức ảnh hôm đó tôi chụp đều hư hết cả, vì thiếu ánh sáng. Người tu sĩ lại viết: "Lần sau, khi ông đến viếng các đạo sĩ đang xuất thần, xin đừng bao giờ làm phiền rộn họ như thế, vì ông có thể làm gián đoạn cơn thiền định của họ một cách phũ phàng. Đối với tôi, điều đó không quan trọng, tôi chỉ dặn ông như thế để lần sau ông có thể đến viếng những nhà đạo sĩ khác. Một sự gián đoạn như thế có thể rất hiểm nghèo đối với họ và ông sẽ bị nguyền rủa."
Quả thật tôi đã vi phạm vào một điều thiêng liêng bằng cách đột nhập vào nơi ẩn trú của người tu sĩ, và tôi bày tỏ sự hối tiếc
Vị điện hạ của triều vua Gadwal lên tiếng kính chào và bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với người tu sĩ. Khi y đã xong, mới đến lượt tôi tiến lên và tự giới thiệu như một người ngoại quốc hâm mộ về nền Minh triết cổ truyền của Ấn Độ. Tôi nghe nói rằng xứ Ấn Độ ngày nay vẫn còn những bậc Hiền Triết đã đạt tới mức tối thượng của pháp môn Yoga và tôi đang đi tìm các bậc ấy. Tu Sĩ có thể giúp đỡ tôi phần nào trong việc sưu tầm này chăng?
Người Yogi vẫn ngồi yên như pho tượng, vẻ mặt thản nhiên không chút cử động. Mười phút trôi qua, tôi tự hỏi không biết y có nghe tôi hỏi chăng? Hay là tôi lại sắp bị thất vọng? Có lẽ đối với y, một người Âu chỉ là một kẻ quá thiên về vật chất, không có gì phải nói nhiều. Hay là y cũng còn hận tôi về cái tật ham chụp ảnh? Và phải chăng tôi đã đòi hỏi quá nhiều khi làm cho một người tu sĩ lánh đời như thế phải ngưng cơn thiền định để thỏa mãn tánh hiếu kỳ của một kẻ vô tín ngưỡng và nặng lòng trần tục? Dầu sao, đây cũng là một sự thất vọng chua cay.
Nhưng không, đó là tôi quá tưởng tượng. Người tu sĩ cầm cây viết chì và viết vài chữ trên tờ giấy. Tôi ngã tới trước để nhận lấy trên tay y và đưa cho người thông ngôn. Người này nói:
- Tôi không hiểu, vì chữ viết rất khó đọc.
- Vũ trụ thật là đầy những sự huyền bí.
Tôi nói đỡ lời cho y đừng băn khoăn nhưng tôi thấy những lời này làm nở một nụ cười hơi chua chát trên môi người tu sĩ. Y nói:
- Nếu ông không tự biết mình, làm sao ông có thể biết được Vũ trụ?
Bây giờ, y nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi cảm thấy đằng sau cái nhìn đó có cả một thế giới tư tưởng thầm kín, đầy những bí mật được giữ gìn một cách chặt chẽ.
- Tôi cũng vẫn còn hoang mang, và lời nói của tu sĩ cũng chưa giải đáp được sự thắc mắc của tôi, đó là tất cả những gì tôi có thể nói trong lúc đó.
- Như vậy, tại sao ông cứ đi tìm quanh quẩn như con ong đi kiếm từng giọt mật, trong khi cả một khối mật ngọt vốn luôn luôn có sẵn hầu kề một bên?
Tôi lấy làm vô cùng ngạc nhiên. Một câu trả lời như thế có lẽ là đầy đủ đối với một người Á Đông, và ý nghĩa bóng gió của nó có một thi vị đáng yêu, nhưng tôi không được thỏa mãn khi tôi muốn hỏi y về sự giải đáp cho những vấn đề thắc mắc của tôi.
- Nhưng tìm ở đâu, và phải đi đến đâu bây giờ?
- Hãy tìm ở tự nơi mình. Chân Lý vốn ở tự nơi ta chứ không ở đâu xa.
- Tôi tìm ở nơi tôi và chỉ thấy có sự vô minh.
- Sự vô minh chỉ có trong tư tưởng của ông mà thôi.
- Xin lỗi Thầy, những câu trả lời của Thầy chỉ làm tăng thêm sự hoang mang của tôi mà thôi.
Người tu sĩ bật cười một cách tự nhiên về sự thành thật của tôi. Y do dự một lúc và viết trên tập giấy: "Tư tưởng của ông đã đưa ông đến sự vô minh hiện tại. Bây giờ ông hãy quay trở về sự minh triết, tức là hãy tự biết mình. Tư tưởng con người cũng ví như một chiếc xe bò đưa người vào trong hang tối. Ông hãy quay ngược trở ra thì sẽ thấy lại ánh sáng."
Người tu sĩ thấy tôi bối rối thêm, bèn ra dấu đòi lại tập giấy, và sau khi ngừng một lúc, y viết:
- Việc gom tư tưởng đi ngược trở về nguyên bổn, đó là bí quyết của pháp môn Yoga. Bây giờ ông đã hiểu chưa?
Tôi thấy hơi rõ hơn một chút, nhưng vẫn chưa thấy một người khách vừa mới bước vào. Người này ngồi khít đằng sau lưng tôi, và tôi chỉ nhận biết được sự có mặt của y khi y nói nhỏ vào tai tôi những lời lạ lùng. Tôi đang ngẫm nghĩ về câu nói của người tu sĩ và hơi thất vọng về tính cách mập mờ khó hiểu của nó, thì tôi nghe sau lưng tôi có người nói nhỏ thì thầm một câu bí mật bằng một thứ tiếng Anh rất thạo:
- Thầy tôi sẽ nói cho ông nghe câu trả lời mà ông mong đợi.
Tôi quay đầu nhìn lại. Người mới đến là một người trạc độ bốn mươi tuổi, khoác áo màu vàng của người tu sĩ hành khất, nước da sậm như màu đồng đỏ, tác người cao lớn và vai rộng. Y có một cái mũi dài và lộ như mũi chim ưng, đôi mắt rất nhỏ dường như lúc nào cũng nhíu lên một cái cười dài bất tận. Y có vẻ như cười cợt và làm tôi khó chịu. Hơn nữa, thật là bất lịch sự mà nói chuyện riêng với người khác ở trước mặt nhà tu sĩ, nên tôi không nói chuyện với y và day mặt trở lại về phía người Yogi.
Một câu hỏi khác vừa hiện ra trong trí tôi, nhưng phải chăng nó quá táo bạo và dường như hỗn hào:
- Bạch Thầy, thế gian đau khổ đang kêu cứu. Những bậc Hiền giả như Thầy tại sao lại ẩn mình ở một nơi vắng vẻ và đành chịu mai một với đời?
Một nét chua chát hơi thoáng qua trên gương mặt thản nhiên của người tu sĩ:
- Nếu ông không tự biết mình, làm sao ông có thể tự hào biết được tôi? Thảo luận về những vấn đề tâm linh không có ích lợi bao nhiêu. Ông hãy tập luyện một cách kiên tâm bền chí, rồi ông sẽ tìm thấy sự giải đáp cho mọi vấn đề.
Tôi hỏi thêm một câu cuối cùng:
- Nhân loại đang khát khao tìm ánh sáng. Tôi cũng đang đi tìm để hy vọng chia sớt phần nào cho kẻ khác được nhờ. Vậy tôi phải làm sao?
- Khi ông thấy được Chân Lý, ông sẽ biết rằng ông sẽ làm gì để phụng sự nhân loại và chừng đó ông sẽ có không thiếu gì phương tiện. Nếu một cái hoa có chứa mật, tự nhiên con ong sẽ phân biệt được nó trong tất cả những cái hoa khác. Khi một người đã đạt được sự Minh triết và có sức mạnh tâm linh, y không cần đi tìm ai cả, những người khác sẽ tự họ đến tìm y. Ông hãy lo trau dồi Chân Ngã, đó là điều duy nhất cần phải làm, và không cần theo một giáo lý nào khác.
Nói đến đây, người tu sĩ ra hiệu cho biết rằng y muốn ngưng cuộc nói chuyện để trở lại cơn tham thiền. Tôi yêu cầu y ban cho tôi một ân huệ cuối cùng. Cặp mắt y dường như đắm chìm một lúc trong một cơn trầm tư mặc tưởng. Kế đó, y cầm viết chì viết trên tập giấy và trao cho tôi, trong đó y viết như sau: "Tôi rất vui lòng vì ông đã đến đây. Ông hãy nhận lấy món quà này của tôi để kỷ niệm ngày hội ngộ hôm nay."
Tôi chưa kịp hiểu ý nghĩa câu này, thì thình lình tôi cảm thấy một mãnh lực lạ lùng xâm chiếm lấy tôi. Cái mãnh lực ấy đi xuyên qua tủy xương sống, duỗi thẳng cái gáy và làm tôi ngẩng đầu lên. Nó làm tăng sức mạnh ý chí của tôi lên gấp trăm ngàn lần. Tôi cảm thấy một sự thúc giục bên trong nó bắt buộc tôi phải tự chinh phục lấy mình, và bắt thể xác tuân theo mệnh lệnh của ý chí để thực hiện những lý tưởng cao cả nhất. Tôi có linh cảm rằng những lý tưởng đó chỉ là những tiếng nói của Chân Ngã, và chân hạnh phúc không còn ở đâu nữa, nếu không phải là ở đó. Tôi có cảm giác một luồng từ điển vô hình từ người tu sĩ tỏa ra và được truyền thẳng vào người tôi do một phương pháp thần giao cách cảm bí mật nào đó. Phải chăng y đã dùng cách đó để cho tôi thấy một bằng chứng về cái quyền năng kỳ diệu của y?
Đôi mắt của người Yogi lại đứng tròng, và cái nhìn của đôi mắt đó lại mất hút trong cõi xa xăm nào. Toàn thân y lại cứng đờ như pho tượng sau khi y giữ lại cái thế ngồi quen thuộc như mọi khi. Y đã thả tâm hồn đi xa lắc, ngoài vòng hoạt động của tư tưởng đến tận những cõi giới thâm u huyền diệu của nội tâm, mà y yêu thích hơn là cõi thế gian này. Phải chăng đây là một người Yogi chân chính? Phải chăng y đang bước vào những cuộc thám hiểm huyền bí của nội tâm, khả dĩ đem lại một vài tia sáng cho nhân loại? Biết đâu?
Khi chúng tôi bước ra ngoài, Brama, người đạo sĩ trên bờ sông Adyar, quay lại tôi và nói với một giọng bình thản:
- Người Yogi này đã đạt tới một trình độ rất cao, tuy rằng y chưa đạt đến mức tột đỉnh. Y có những quyền năng thần bí, nhưng y cònđang gắng công tu luyện để tiến đến trình độ tâm linh siêu đẳng. Y có một thể xác kiện toàn, mà tôi cho là nhờ tập luyện môn Hatha Yoga đã lâu năm, nhưng y cũng đã tiến xa trên con đường luyện tinh thần theo pháp môn Raji Yoga. Tôi biết y trước đây đã lâu.
- Từ bao giờ?
- Tôi đã thấy y nhiều năm về trước ở giữa một cánh đồng, không có mái che. Tôi liền nhận ra ngay rằng y là một bạn đồng môn. Y cho tôi biết, bằng cách viết trên giấy, rằng hồi còn trẻ y có nhập ngũ trong quân đội. Sau khi giải ngũ, y cảm thấy chán nản cuộc đời và lui về ở ẩn nơi thanh vắng. Chính trong lúc đó, y gặp nhà đạo sĩ trứ danh Marakayar và trở nên đệ tử của vị này.
Bận về, chúng tôi đi ngang qua cánh đồng rồi mới trở ra đường cái. Tôi không thổ lộ với ai về cái kinh nghiệm bất ngờ và khó hiểu đã xảy đến với tôi trong tịnh thất khi nãy. Tôi cần phải suy nghĩ lại về vấn đề này trong khi cái âm hưởng của nó hãy còn vang dội chưa dứt trong tâm hồn tôi.
Tôi không còn gặp lại người tu sĩ một lần nào nữa. Y không muốn cho ai đột nhập vào cuộc đời vắng lặng của y, và tôi phải tôn trọng sự mong ước đó. Tôi để cho y tiếp tục những cơn thiền định cô đơn của y, hoàn toàn cách biệt với cuộc đời trần gian tục lụy. Y không hề có ý muốn lập môn phái, hay quy tụ một nhóm môn đồ, và dường như không có tham vọng gì khác hơn là sống một cuộc đời hoàn toàn âm thầm lặng lẽ. Y không có gì để nói thêm vào những gì y đã nói với tôi, và khinh thường sự nói năng hoạt bát hùng biện, mà chúng ta vẫn đề cao như một nghệ thuật và coi như một điều quan trọng thay.
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
Túc Kê Linh Quái (Phương pháp coi giò gà bí truyền) - Hồ Quang |
Tủ Sách | administrator |
|
||
Michelle Obama BẢO VỆ Gus Walz sau Khoảnh khắc DNC lan truyền với Bố Tim Walz |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
||
Tử vi Nam Phái chân truyền tiếng Trung quốc, bên trung quốc truyền, rất hiếm |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Elohim |
|
||
Dòng Họ (dòng di truyền) |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Elohim |
|
|
|
Tả Ao chân truyền địa lý - 左.眞傳地理 - 0442 |
Sách Phong Thuỷ | administrator |
|
2 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |