Jump to content

Advertisements




Truyện tâm linh - hiendde



831 replies to this topic

#46 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 07/06/2011 - 23:37

10. Tín Ngưỡng Và Sinh Hoạt


Dưới đây là một vài chi tiết về nền văn minh của xứ Tây Tạng nó có thể khêu gợi sự thích thú của quý độc giả. Nền tôn giáo Tây Tạng là một hình thức biến thiên của Phật Giáo, nhưng nó không có một danh hiệu rõ ràng để có thể định nghĩa hoặc dịch ra. Người Tây Tạng gọi nó là quốc giáo của họ. Danh từ chính xác nhất là Lạt Ma Giáo (Lamaisme), mà người Tây phương đã từng biết.

Tín ngưỡng của người Tây Tạng khác biệt với Phật Giáo ở chỗ nó căn cứ trên niềm hy vọng, còn Phật Giáo đối với họ như một tôn giáo yếm thế, và hoàn toàn tiêu cực. Dầu sao đi nữa, có một điều chắc chắn là người Tây Tạng không tin nơi sự hiện diện của một vị Thượng Đế độc tôn, toàn trí và toàn thông, coi sóc và che chở cho toàn thể nhân loại.

Từ bao nhiêu thế kỷ về trước, các dân tộc phương Đông đã biết rõ về các mãnh lực huyền bí và những định luật thiên nhiên. Thay vì phủ nhận sự hiện hữu của những sức mạnh huyền linh ấy, bởi lý do rằng người ta không thể cân lường hay quan sát phản ứng của chúng dưới ảnh hưởng các hóa chất trong phòng thí nghiệm, những bậc danh sư bên phương Đông đã cố gắng tăng gia kiểm soát của họ đối với những mãnh lực thần bí vô hình.

Thí dụ như họ đã chú ý đến những kết quả thu lượm được do bởi năng khiếu Thần Nhãn. Nhiều người cho rằng điều ấy không thể nào có được: Họ chẳng khác nào như những người mù từ thuở lọt lòng mẹ, nói rằng vốn không có thị giác, bởi vì họ không hề có kinh nghiệm về cái giác quan đó! Làm sao họ có thể hiểu được rằng một vật có thể được nhìn thấy ở cách xa trong không gian, trong khi không hề có một sự tiếp xúc nào giữa vật ấy và đôi mắt của con người?

Thể xác con người được bao phủ bằng một lớp vỏ như sương mù muôn màu nghìn sắc: đó là cái hào quang. Những vị có Thần Nhãn nhìn vào hào quang của một người, có thể quan sát các màu sắc đó mà suy ra tình trạng sức khỏe, đức hạnh và trình độ tiến hóa của người ấy.

Cái hào quang ấy là sự phát huy, sự biểu hiện của một luồng khí lực từ bên trong, tức Chân Ngã, hay linh hồn con người. Đầu người ấy cũng được bao trùm bởi một vòng hào quang xuất phát từ cái khí lực đó. Đến lúc chết, thì cái hào quang ấy tắt hẳn: Linh hồn đã rời khỏi thể xác và phiêu diêu trên một cõi giới khác để bước qua một giai đoạn sinh hoạt mới.

Khi đó, nó trở thành một cái "Bóng" phất phơ, có lẽ là bởi vì nó còn hoang mang bởi sự xúc động mạnh khi nó được giải tỏa ra khỏi cái xác thân vật chất. Có thể rằng nó không hoàn toàn ý thức được những gì đã xảy ra. Bởi đó, các vị Lạt Ma có bổn phận giúp đỡ những người hấp hối và giảng giải cho họ nghe những giai đoạn ở bên cửa tử mà họ sẽ trải qua.

Chứ nếu không, thì linh hồn của họ sẽ bám víu lấy cõi trần do bởi những dục vọng của xác thịt còn chưa được thỏa mãn. Vai trò của các vị tăng lữ là cắt đứt những sợi dây trói buộc đó.

Người Tây Tạng thường có những cuộc hành lễ cầu siêu để dìu dắt những vong linh người chết. Sự chết không làm cho người Tây Tạng sợ sệt, họ nghĩ rằng một vài nghi thức cẩn mật có thể giúp đỡ rất nhiều để cho linh hồn bước qua cõi giới bên kia một cách dễ dàng.

Cần phải vạch một lộ trình nhất định và rõ ràng, và điều khiển những tư tưởng của người hấp hối một cách thích nghi. Những cuộc lễ cầu siêu này được cử hành trong một ngôi đền dưới sự hiện diện của chừng độ ba trăm sư sãi. Một nhóm bốn hay năm vị Lạt Ma có thần thông, có thể giao cảm với cõi vô hình, ngồi thành vòng tròn ở chính giữa, và đối diện với nhau.

Trong khi các sư sãi tụng niệm dưới sự điều khiển của một vị Sư Trưởng, các vị Lạt Ma cố gắng tiếp xúc bằng thần giao cách cảm với những vong linh phiêu dạt, vất vưởng trong cõi vô hình. Những lời cầu nguyện bằng tiếng Tây Tạng thật khó mà dịch ra cho đúng nghĩa, nhưng tôi cũng xin được dịch đại khái như sau:

- Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong hồn phất phơ vô định ở cõi bên kia cửa tử. Âm dương cách trở, người sống và người chết đều sống ở những cõi giới cách biệt nhau. Những gương mặt người chết có thể được nhìn thấy ở đâu? Ở đâu người ta có thể nghe được giọng nói của họ.

Cây nhang đầu tiên được đốt lên để kêu gọi những linh hồn lạc lõng và chỉ đường cho họ.

- Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi các vong hồn phất phơ lạc lõng không người dìu dắt. Bầu thế giới này là một ảo ảnh. Cuộc đời chỉ là một giấc mộng. Hữu sinh hữu diệt, vật gì có lúc sinh ra ắt phải có lúc chết. Chỉ có Phật pháp là con đường duy nhất đưa đến đời sống trường tồn vĩnh cửu. Cầu cho vong hồn các người siêu sinh tịnh độ.

Cây nhang thứ nhì được đốt lên để kêu gọi những vong hồn lạc lõng và để chỉ đường cho họ.

- Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những bậc vua chúa oai quyền hống hách của thế gian, các người đã ngự trị trên những dãy giang san của thiên hạ. Triều đại của các người chỉ tồn tại có một thời nhưng những tiếng kêu rên siết của dân tộc các ngươi không bao giờ dứt.

Do lòng tham vọng chinh phục đất đai, các ngươi đã làm cho máu chảy thành sông, và những tiếng thở than của những kẻ bị trị còn làm rung chuyền cây cối, thấu đến trời xanh. Cầu cho vong hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ.

Một cây nhang thứ ba được đốt lên để kêu gọi vong hồn các bậc đế vương, cùng những nhà độc tài của thiên hạ và để chỉ đường cho họ.

Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những kẻ bạc ác bất nhân và những kẻ trộm cướp của thế gian, các ngươi đã gây nên tội ác đối với kẻ đồng loại và ngay trong lòng các người không có sự bằng an. Linh hồn các ngươi vất vưởng không nơi nương tựa và công lý không có ngự trong tâm của các ngươi. Cầu cho linh hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ...

Một cây nhang thứ tư được đốt lên để kêu gọi vong hồn những kẻ tội lỗi đang phất phơ dật dờ trong cô quạnh.

- Hãy nghe tiếng gọi của chúng tôi, hỡi những nàng kỹ nữ các chốn lầu xanh của thế gian, những người buôn hương bán phấn mà tội lỗi của các bọn đàn ông đã làm cho ô uế, nay đang đi lang thang vô định trong cõi u minh tăm tối. Cầu cho vong hồn các ngươi được siêu sinh tịnh độ.

Cây nhang thứ năm được đốt lên để kêu gọi vong hồn các người đàn bà tội lỗi, sa đọa, để dìu dắt và giải thoát cho họ khỏi những sự trói buộc của thế gian...

Trong bóng tối ban đêm tỏa khói hương nghi ngút, những ngọn đèn bơ loe lét làm rung rinh những bóng đen ở phía sau các pho tượng thếp vàng. Sự căng thẳng càng tăng: Các vị Lạt Ma đang tập trung tư tưởng để giao cảm với những vong hồn đã chết nhưng chưa được giải thoát khỏi những sợi dây trói buộc với cõi giới phàm trần.

Những sư sãi mặc áo tràng màu đỏ ngồi sắp từng hàng đối diện với nhau, cất giọng ngân nga tụng niệm những bài sinh cầu siêu cho các vong hồn. Cuộc lễ tiếp diễn với những lời chỉ thị đưa ra cho các vong hồn và nhịp độ của những lời cầu siêu tụng niệm cũng trở nên thưa dần, cho đến khi mọi tiếng động, mọi âm thanh đều dứt hẳn, và tất cả đều đắm chìm trong im lặng.

Trong lúc thức tỉnh, linh hồn con người dính liền với thể xác và không thể tách rời ra ngoài, trừ phi y đã có trải qua một sự tập luyện về vấn đề này. Khi chúng ta ngủ, chỉ có thể xác là cần sự nghỉ ngơi, còn linh hồn thì thoát ra ngoài và bước vào cõi giới tinh thần, cũng như một đứa trẻ trở về nhà vào lúc chiều, sau giờ tan học.

Linh hồn được nối liền với thể xác bằng "sợi dây bạc" nó có thể kéo dài đến vô tận. Sợi dây bạc này vẫn tồn tại luôn luôn khi nào thể xác còn sống; đến lúc chết, nó bị gián đoạn để cho linh hồn bước vào một cuộc đời mới trên cõi giới tinh thần, cũng như đứa hài nhi bị cắt rún để tách rời khỏi mẹ nó. Đối với đứa hài nhi, sự sinh ra đời có nghĩa là chấm dứt sự sống được bảo bọc che trở trong bụng mẹ. Đối với một linh hồn, sự chết có nghĩa là tái sinh trong một cõi tâm linh tự do hơn.

Khi sợi dây bạc chưa bị cắt đứt, linh hồn được tự do châu du khắp nơi trong giấc ngủ của thể xác, hoặc ngay cả trong lúc thức tỉnh nếu người ta đã có trải qua một sự luyện tập đặc biệt. Sự chu du của linh hồn trong giấc ngủ tạo nên những giấc mộng, nó là những ấn tượng được chuyển di do sự trung gian của sợi dây bạc.

Trong cõi giới tâm linh, vốn không có "Thời gian", vì ý niệm về thời gian chỉ có ở cõi phàm trần hạ giới, bởi đó đôi khi những giấc mộng dài và phức tạp dường như chỉ diễn ra trong không đầy một giây đồng hồ. Một kinh nghiệm mà có lẽ ai cũng đã trải qua, là gặp trong giấc mộng một người quen ở cách ta rất xa, có thể ở cách đến muôn dặm trùng dương, ở chỗ tận cùng của thế giới, và nói chuyện với người ấy.

Một thông điệp có thể đã được chuyển giao và khi thức giấc, người ta có cái cảm giác rất rõ rệt là: Có một cái gì mà mình phải nhớ. Đôi khi, người ta nhớ rằng đã gặp trong mộng một người bạn hay một người thân thích trong khi họ ở rất xa, mà người ta không ngạc nhiên mà nhận được tin của họ ít lâu sau đó. Đối với những người không luyện tập, thì trí nhớ của họ thường bị đảo lộn và kết quả là họ chỉ thấy những giấc mộng vô lý hay những cơn ác mộng.

Ở Tây Tạng, người ta thường đi châu du khắp nơi không phải bằng thuật khinh thân, mà bằng cách xuất hồn, một kỹ thuật mà họ đã hoàn toàn nắm vững. Bằng phương pháp xuất hồn, linh hồn rời khỏi thể xác và vẫn dính liền với nó bằng sợi dây bạc, trong khi đó người ta tự do di chuyển khắp nơi tùy ý muốn trong cõi vô hình với tốc lực của tư tưởng.

Khả năng xuất hồn cũng gọi là xuất thần hay xuất vía, để đi châu du nơi cõi Trung giới, là một việc rất thông thường ở xứ Tây Tạng. Những người mới bắt đầu áp dụng thử phương pháp này thường hay bị xúc động mạnh, đó là do sự thiếu tập luyện. Có thể rằng mỗi người đã có lần cảm thấy mình lướt nhẹ trong giấc ngủ để rồi sau đó, không có lý do gì đáng kể, tự nhiên họ giật mình bừng tỉnh dậy một cách đột ngột.

Hiện tượng đó là do bởi sự xuất thần một cách quá mau chóng, sự chia ly quá đột ngột giữa thể xác với thể vía, làm cho sợi dây bạc bị chùn lại và thể vía tái nhập vào thể xác một cách quá mãnh liệt. Sau khi bừng tỉnh dậy, người ta còn có cái cảm giác khó chịu hơn nữa.

Linh hồn phất phơ ở phía trên cái thể xác rất xa, cũng ví như một quả bong bóng được thả lên trên không ở đầu cuối một sợi dây. Thình lình, một nguyên nhân nào đó, chẳng hạn như một tiếng động mạnh, làm cho nó nhập vào thể xác một cách quá mau. Đương sự giật mình tỉnh giấc và có cái cảm giác kinh khủng như từ trên cao té xuống vực thẳm và vừa tỉnh dậy kịp thời.

Sự chu du trên cõi Trung giới một cách hoàn toàn làm chủ tình hình và hoàn toàn ý thức mọi việc xảy ra, là một điều khả năng của hầu hết tất cả mọi người. Người ta chỉ cần có một sự luyện tập thích nghi, nhưng trong những giai đoạn đầu tiên, họ cần phải luyện tập ở một nơi vắng vẻ để không sợ bị ai quấy rầy.

Cần nói rõ là trừ phi có sự chỉ dẫn của một vị đạo sư lão luyện, người ta có thể bị hoang mang, kinh ngạc. Trên thực tế, sự tập luyện này không nguy hiểm, nhưng không phải là không có sự va chạm hay xúc động mạnh, nếu thể vía rời khỏi hay nhập vào thể xác không đúng lúc.

Những người yếu tim không nên tập luyện phương pháp này, bởi vì nếu có người nào đột nhiên bước vào phòng khi họ đang tập, thì thể vía hay sợi dây bạc của họ có thể bị náo động và điều đó thật vô cùng nguy hiểm.

Sự va chạm đó có thể làm cho đương sự chết bất đắc kỳ tử và có những hậu quả rất phiền phức: Linh hồn y sẽ bị bắt buộc đầu thai trở lại ngay để hoàn tất kiếp sống vừa bị gián đoạn ở cõi trần trước khi bước qua giai đoạn tiến hóa kế tiếp...

Người Tây Tạng tin rằng thuở xưa kia, trước thời kỳ sa đọa của con người, nhân loại có thể đi chu du bằng cách xuất hồn, sử dụng Thần Nhãn, thực hành khoa thần giao cách cảm và phép khinh thân.

Sự sa đọa này, theo chúng tôi hiểu, là do con người đã lạm dụng những quyền năng thần bí, những phép thuật thần thông để thực hiện những mục đích ích kỷ thay vì để giúp ích cho sự tiến hóa chung của nhân loại. Vì sự lạm dụng đó, nên ngày nay nhân loại đã bị mất hết tất cả những quyền năng quý báu kể trên.

Người Tây Tạng quả quyết rằng người ta có thể tiên đoán những việc có thể xảy ra trong tương lai. Khoa tiên tri là một khoa học, và một khoa học chính xác. Họ cũng tin ở khoa Chiêm Tinh. Những "ảnh hưởng của tinh tú" chỉ là những vũ trụ tuyến do những bầu tinh tú phản chiếu xuống địa cầu, và chịu sự "tô mầu" hoặc sự thay đổi bởi những bầu tinh tú nầy.

Ai cũng biết rằng với một cái máy ảnh và ánh sáng mặt trời, người ta có thể chụp ảnh. Vài loại kiếng lọc ánh sáng, nếu đặt trước ống kính thu ảnh, có thể giúp cho người ta có được những tấm ảnh với hàng trăm loại màu sắc đặc biệt, cũng y như thế, những vũ trụ tuyến ảnh hưởng đến con người bằng nhiều cách khác nhau đến vô cùng tận tùy theo tác động của những bầu tinh tú khi phản chiếu vũ trụ tuyến xuống quả Địa Cầu.

Kể từ thế kỷ thứ mười một trở về sau, tất cả những vấn đề chính sự quan trọng ở xứ Tây Tạng đều được quyết định bằng khoa Chiêm Tinh. Cuộc xâm lăng của quân đội Anh năm 1904 đã được tiên tri một cách chính xác. Người ta có ghi chép lời tiên tri này bằng chữ Tây Tạng, mà bản dịch như sau:

"Năm Con Rồng bằng Gỗ (Mộc Long). Trong nửa năm đầu Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ được bình yên, sau đó những kẻ xâm lăng hiếu chiến sẽ tiến vào lãnh thổ. Quân địch rất đông, nạn binh đao gây nhiều tai họa và dân chúng sẽ phải lâm chiến. Đến cuối năm, sẽ có sứ giả hòa bình và chiến tranh sẽ chấm dứt."

Lời tiên tri này bắt đầu có trước năm 1850, nói về tình hình năm

1904, tức năm Con Rồng Gỗ. Đại tá Younghusband, tư lịnh quân đội Anh, có xem thấy bản văn lời tiên tri này ở thủ đô Lhassa.

Nói về vấn đề tiên tri, có người đã hỏi tôi: "Tại sao tôi không tránh khỏi cạm bẫy và thử thách gian lao nó chờ đợi tôi, khi mà những điều đó đã được tiết lộ cho tôi biết trước?"

Tôi chỉ có thể trả lời rằng: "Nếu người ta có thể tránh khỏi những tai nạn, đau khổ đã được tiết lộ cho ta biết trước, thì việc ấy chứng tỏ những lời tiên tri đó là sai!"

Những lời tiên tri, đều căn cứ trên sự "có thể xảy ra" của một vài sự việc, chứ không có nghĩa là con người phải chịu một cái định mệnh khắt khe, bất di dịch mà y không có tự do ý chí để sửa đổi. Trái lại, con người có thể sử dụng ý chí của mình một phần nào.

Thí dụ một người kia muốn đi từ Tân Đề Li đến Hoa Thịnh Đốn, lẽ tất nhiên y biết rõ khởi điểm và mục tiêu cuộc hành trình. Nếu y chịu khó thăm dò trên bản đồ, y sẽ biết được những điểm then chốt mà y sẽ đi ngang qua trên một lộ trình ngắn và tiện lợi nhất. Tuy rằng y cũng có thể dùng một lộ trình khác, nhưng điều này không phải là sáng suốt khôn ngoan, vì nó sẽ làm mất nhiều thời giờ và tổn phí tiền bạc.

Cũng y như thế, trong trường hợp một chuyến từ Paris đến Marseille chẳng hạn, một người tài xế khôn ngoan sẽ thăm dò trên bản đồ và noi theo một lộ trình đã vạch sẵn bởi một tổ chức du lịch. Như vậy, y sẽ có thể tránh khỏi những con đường gồ ghề lồi lõm; hoặc nếu y bắt buộc phải theo những con đường này và không thể làm sao hơn, thì y sẽ biết trước để giảm bớt tốc lực và để tránh khỏi tai nạn. Khoa tiên tri cũng có tác dụng giống như vậy.

Tuy nhiên, noi theo những con đường êm ái, dễ dàng, không phải luôn luôn là một điều tốt. Là một Phật tử, tôi tin ở định luật Luân Hồi và tôi tin rằng người ta sinh ra ở cõi trần là để học hỏi, kinh nghiệm. Cuộc đời trần gian có thể là đắng cay, đau khổ, nhưng những bài học mà chúng ta phải học hỏi, kinh nghiệm chỉ có một mục đích duy nhất là trui rèn và thử thách chúng ta để cho ta trở nên tinh luyện, khôn ngoan, và minh triết hơn.

Nhờ những lời tiên tri mà tôi được biết trước cuộc đời tôi, đó đã là nhiều lắm. Nhưng vẫn còn nhiều điều bí hiểm, thí dụ như những lời tiên tri về xứ Tây Tạng: Tại sao xứ ấy lại bị nạn ngoại xâm? Một xứ êm đềm, yên tĩnh, chỉ có sự ước mong duy nhất là phát triển trên địa hạt tâm linh, tại sao lại phải chịu nạn ấy?

Tại sao những nước khác lại thèm muốn chiếm đoạt lãnh thổ đất đai của chúng tôi, và đặt dân tộc xứ này dưới cái ách nô lệ? Ước vọng duy nhất của người Tây Tạng là được sống trong hòa bình và tự do. Tuy vậy, người ta lại trông cậy nơi tôi để đi sang nước Trung Hoa, là một nước sẽ xâm lăng xứ Tây Tạng trong tương lai, để chữa trị và săn sóc thương binh trong một cuộc chiến tranh còn chưa bắt đầu!

Dưới đây là một vài biến cố quan trong trong lịch sử xứ Tây Tạng trong số những biến cố quan trọng khác đã được tiên tri một cách chính xác: Năm 1910, cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa; năm 1911, cuộc Cách Mạnh Trung Hoa và Chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc thành lập.

Cuối năm 1911, quân đội Trung Hoa bị đánh bật ra khỏi Tây Tạng; năm 1914, cuộc Thế Chiến Thứ Nhất; 1933, đức Đạt Lai Lạt Ma từ trần; năm 1935; đức Đạt Lai Lạt Ma tái sinh trở lại; năm 1950; quân Trung Công xâm xứ Tây Tạng. Một nhà ngoại giao Anh là Sir Charless Bell đã thấy tất cả những lời tiên tri này ở Lhassa.

Tất cả nghị lực trẻ trung của tôi đều hướng về một mục tiêu duy nhất: Làm sao thi đậu một cách vẻ vang vào kỳ thi sắp tới. Vì ngày lễ sinh nhật muời hai tuổi của tôi đã sắp đến, nên tôi học bớt lại từ từ. Tôi đã trải qua những năm học ráo riết về các môn Chiêm Tinh, Y Khoa, Giáo Lý, Sinh Ngữ Tây Tạng và TrungHoa, và Toán Pháp.

Ngày thi đã đến. Đúng sáu giờ sáng, tôi đến phòng thi với độ mười lăm thí sinh khác. Mỗi thí sinh được đưa vào một phòng nhỏ hẹp, đặt dưới sự canh gác thường xuyên của các sư sãi "Cảnh binh" đi tuần ở ngoài hành lang. Mỗi ngày chúng tôi phải làm bài luận hoặc giải đáp các câu hỏi về một trong sáu môn học kể trên.

Trong sáu ngày liên tiếp, chúng tôi bắt đầu làm bài từ sáng sớm cho đến chiều, một vị sư sãi đem cho chúng tôi trà pha bơ và tsampa mỗi ngày ba lần. Phần thi các bài viết chấm dứt vào chiều ngày thứ sáu, kế đó chúng tôi được nghỉ vài ngày.

Ba ngày sau, những bài viết đã được chấm xong, mỗi thí sinh phải ra trước hội đồng giám khảo để trả lời những câu về những điểm yếu kém của họ. Phần thi sát hạch chiếm trọn hết một ngày. Ngày hôm sau, tất cả mười sáu thí sinh tề tựu lại vũ đường để biểu diễn môn quyền thuật. Mỗi thí sinh phải đấu võ với ba thí sinh khác.

Những thí sinh yếu kém nhất sẽ bị loại rất mau, rồi đến lượt những thiếu niên khác, và sau cùng chỉ còn lại một mình tôi thủ đài. Sự thành công này là nhờ sự huấn luyện võ nghệ dưới sự chỉ dẫn của võ sư Tzu, mà hồi nhỏ tôi vẫn cho là bất công và bạo tàn. Ít nhất tôi đã được chấm hạng nhất về môn quyền thuật.

Qua ngày hôm sau, chúng tôi được nghỉ để lấy lại sức, và ngày kế đó mới là ngày tuyên bố kết quả. Tôi và bốn thí sinh khác được chấm đậu: Chúng tôi đã trở nên những giáo sĩ kiêm y sĩ. Minh Gia Đại Đức, mà tôi không gặp trong suốt mùa thi cử, cho gọi tôi lại. Người lộ vẻ vui mừng trên nét mặt, và nói với tôi khi tôi đến trình diện trước mặt người:

- Lâm Bá, khá khen cho con vì con đã đậu hạng nhất. Vị Sử Trưởng đã gởi một phúc trình đặc biệt cho đấng Thậm Thâm. Người muốn đề nghị với Ngài phong cho con chức Lạt Ma ngay lập tức, nhưng ta đã chống lại việc ấy.

Thấy tôi hơi có vẻ bất mãn, Sư Phụ tôi nói thêm:

- Tốt hơn con hãy cố gắng học hỏi thêm và đạt tới quả vị ấy bằng khả năng của chính mình. Nếu con lãnh tước vị Lạt Ma ngay bây giờ, con sẽ bỏ lãng sự học và sau này con sẽ thấy rằng sự học của con có một tầm quan trọng rất lớn. Tuy nhiên, ta cho phép con ở căn phòng kế bên, vì con chắc chắn sẽ thi đậu kỳ thi tuyển các vị Lạt Ma khi thời giờ sẽ đến.

Quyết định của Sư Phụ thật rất hữu lý. Dầu sao, tôi chỉ mong mỏi được vâng lời người một cách tuyệt đối. Tôi rất cảm động mà thấy rằng sự thành công của tôi cũng là sự thành công của người và Sư Phụ lấy làm vô cùng hân hạnh mà làm thầy của một đứa trẻ đậu hạng nhất trên các môn khảo thí.

Vài ngày sau đó, một thư tín viên cưỡi ngựa phi nước đại đem cho tôi một thông điệp của đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài gởi lời khen tặng tôi về việc tôi vừa thi đậu và ra chỉ thị rằng kể từ nay tôi được đối xử như một Lạt Ma. Tôi sẽ được mặc áo như các vị Lạt Ma mà thụ hưởng mọi quyền hạn và đặc ân dành cho chức vị ấy.

Ngài cũng đồng ý với Sư Phụ tôi, để cho tôi khảo thí vào năm mười sáu tuổi, vì theo lời Ngài viết trong thơ: "Như vậy con sẽ học hỏi thêm những đề tài mà có lẽ con sẽ bỏ dở nếu con được tấn phong ngay bây giờ, và nhờ đó con sẽ mở mang những kiến thức của con cho thêm sâu rông."

Thế là tôi đã trở nên một vị Lạt Ma. Tôi thuộc về thành phần ưu tú, thành phần của những bậc "Thượng Nhân." Những điều này cũng có những sự bất lợi: Trước kia, tôi phải giữ ba mươi hai giới luật của Dòng Tu Sĩ, điều mà tôi vẫn coi như là một con số đáng e ngại.

Khi đã trở nên một vị Lạt Ma, tôi phát hiện một cách kinh khủng rằng số giới của cấp đẳng nầy lên tới hai trăm năm mươi ba. Và ở tu viện Chakpori, một vị Lạt Ma chân chính phải giữ hết tất cả bấy nhiêu giới luật đó, không bỏ sót một giới luật nào?

Còn sự làm việc? Chúng tôi phải làm việc nhiều nhưng chúng tôi cũng không thiếu những sự vui về tinh thần và những cuộc chơi tiêu khiển. Thật là một niềm hạnh phúc rất lớn mà được sống gần những người như Minh Gia Đại Đức, mà tư tưởng duy nhất trong đời là gieo sự Bằng An và phụng sự nhân loại.

Thật cũng là một phần thưởng tinh thần mà được nhìn thấy trước mắt cái phong cảnh êm đềm, với một thung lũng xanh tươi, cây cối xầm uất; với những con sông rạch màu nước xanh dương uốn khúc quanh co theo những dãy núi đồi ngoạn mục; với những ngọn tháp vàng chiếu lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời, những tu viện cổ kính bám chặt trên các sườn núi cheo leo hiểm trở, và chiêm ngưỡng với một lòng tôn kính những mái bầu bằng vàng của điện Potala ở gần bên và những nóc nhà sặc sỡ dọc theo bờ sông Jo Kang ở xa hơn về phía đông.

Tình đồng môn của các vị Lạt Ma trong tu viện, lòng ưu ái của các sư sãi, mùi hương trầm quen thuộc phưởng phất trong các đền thờ, tất cả những thứ đó là cái bối cảnh hằng ngày của cuộc đời tu sĩ, và đó cũng là một cuộc đời đáng sống.

Còn những khó khăn, chướng ngại thì cũng có rất nhiều, nhưng điều đó không quan trọng lắm. Ở trong mọi tập thể cộng đồng, luôn luôn vẫn có những phần tử không thông cảm, những kẻ đố kỵ ganh ghét. Ở tu viện Chakpori, những kẻ ấy thật tình chỉ là một thiểu số.

Kể từ đó, các vị Lạt Ma và sư sãi trong tu viện đều đối sử với tôi một cách lễ độ, cung kính. "Cung Kính" là bởi vì tôi là học trò của Minh Gia Đại Đức, một nhân vật trọng yếu được toàn thể mọi người đều yêu mến, bởi vì tôi được nhìn nhận như một vị "Hóa Thân."

Đối với quý vị độc giả muốn biết bằng cách nào người Tây Tạng có thể nhận ra một vị Hóa Thân. Tôi xin trình bày vài điểm sơ lược dưới đây:

Cách cư xử khác thường của một đứa trẻ nhỏ có thể làm cho cha mẹ nó nghĩ rằng nó có khả năng cao hơn mức trung bình hay những kỷ niệm đặc biệt nào đó mà người ta không thể giải thích được một cách hợp lý. Trong trường hợp đó, cha mẹ nó đến trình với vị Sư Trưởng của tu viện ở gần nhất, vị này mới chỉ định một ủy ban có nhiệm vụ đến xem xét đứa trẻ.

Trước hết, ủy ban này lấy một lá số Chiêm Tinh hay Tử Vi cho đứa trẻ, sau đó mới xem tướng mạo và tìm ấn chứng trên khắp thân hình nó. Thí dụ như đứa trẻ có những chỉ tay đặt biệt trên hai bàn tay, hoặc những ấn chứng trên chả vai hay chân. Nếu đứa trẻ có những ấn chứng đó, người ta tìm cách truy ra tiền kiếp nó.

Có thể rằng các vị Lạt Ma sẽ nhìn ra được nó, như trong trường hợp của tôi, và khi đó người ta mới đặt nó trong một cuộc thử thách xem nó có nhìn ra được chăng những đồ vật dụng riêng của nó hồi kiếp trước. Cuộc thử thách này được thực hiện khi đứa trẻ mới lên ba tuổi.

Người ta nghĩ rằng với tuổi đó, cón quá non dại để có thể bị ảnh hưởng bởi những gì cha mẹ nó có thể nói cho nó biết. Nếu thử vào lúc nó còn trẻ hơn nữa thì lại càng hay. Cha mẹ đứa trẻ không được dự vào cuộc thử thách, mà nó phải chọn lựa chín món đồ vật trong số ba chục món khác. Chỉ chọn sai hai món cũng bị loại, nếu đứa trẻ chọn đúng không sai món nào, thì nó được nhìn nhận như một vị Hóa Thân, được nuôi dưỡng và giáo dục một cách đặc biệt.

Khi nó lên bảy tuổi, người ta nói cho nó biết những lời tiên tri về cuộc đời tương lai của nó. Người ta cho rằng với tuổi đó, nó hoàn toàn có thể hiểu được ý nghĩa rõ ràng hay ẩn giấu của những lời tiên tri đó. Với kinh nghiệm riêng của tôi, tôi có thể quả quyết đúng y như vậy.

Thanked by 1 Member:

#47 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 07/06/2011 - 23:38

11. Tôi Trở Về Nhà


Nhân dịp ngày lễ Logsar, tức ngày lễ đầu năm của Tây Tạng, nhà nhà đều quét dọn, lau chùi sạch bóng và trang hoàng lịch sự. Ngày rằm tháng riêng, Ðức Đạt Lai Lạt Ma xuất hành đi lễ bái ở ngôi đền Jo Kang.

Khi cuộc lễ chấm dứt, ngài bắt đầu đi diễn hành một vòng lớn trên con đường Barkhor (tức con đường đi vòng quanh ngôi đền Jo Kang và dinh Quốc Hội), đi ngang qua trước chợ và đến khu thương mại. Tại đây là nơi cuộc diễn hành kết thúc, sự trang nghiêm, trịnh trọng sẽ nhường chỗ cho sự vui đùa, hưởng lạc.

Khi tan cuộc lễ bái ở các đền thờ, và mọi người đã thi hành xong bổn phận đối với các đấng Thần Minh, thì giờ phút ăn chơi, tiêu khiển đã diểm. Trên những đài từ mười đến mười lăm thước bề cao, người ta đặt những mô hình nổi khổng lồ đúc bằng bơ có tô màu, để triển lãm những cảnh tượng huyền thoại rút trong các kinh thánh.

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng chân lại để chiêm ngưỡng trước mỗi mỹ phẩm trình bày và ban giải thưởng hàng năm cho những tác phẩm khéo nhất. Những giải thưởng này sẽ được chuyển giao cho các tu viện đã triển lãm những mỹ phẩm ưu tú.

Tại tu viện Chakpori, chúng tôi không thích chơi môn giải trí này, mà chúng tôi cho là ngây ngô và phiền phức, giống như những cuộc đua ngựa không người cưỡi trên vùng đồng bằng Lhassa. Cuộc diễn hành những pho tượng khổng lồ của các nhân vật Thần Thoại làm cho chúng tôi thích thú hơn.

Những pho tượng này gồm một cái sườn gỗ nhẹ bọc vải ở ngoài làm cái thân mình, bên trong ruột trống rỗng, có gắn một cái đầu rất lớn làm theo một kiểu rất tự nhiên. Bên trong đầu pho tượng, ở chỗ ngang cặp mắt, có gắn những ngọc đèn bơ; ánh đèn rung rinh lập lòe làm cho cặp mắt pho tượng dường như đảo liếc và linh động.

Những sư sãi cao lớn lực lưỡng, chân đi trên hai cây cà khêu bề cao ba thước, chui vào bên trong các pho tượng, và bắt đầu cuộc diễn hành như những người khổng lồ. Đôi khi họ là nạn nhân của những thứ tai nạn dị kỳ. Có khi một trong hai cây cà khêu bị sụp ổ gà trên đường lộ, trong khi đó, những kẻ bất hạnh này đành phải đánh đu giữ thăng bằng trên một chân; có khi cả hai cây cà khêu đều trượt tới vì đường trơn trợt.

Nhưng khi những ngọn đèn bơ bị rung chuyển quá mạnh và lật đổ, ngọn lửa bắt cháy thiêu pho tượng, thì đó mới là một thảm kịch thực sự!

Vài năm về sau, trong một cuộc rước lễ đầu năm, tôi được đề cử mang pho tượng đức Phật, bề cao đo tới tám thước tây. Trong khi tôi đi cà khêu bên trong tượng Phật, gió thổi vạt áo dài quyện vào chân tôi, và những con mọt bay vần vũ chung quanh mình tôi vì bộ áo cà sa của tượng Phật vừa mới được lấy từ trong kho ra.

Khi tôi vừa bước đi vài bước khập khễnh trên hai cây cà khêu, bụi trong áo cà sa bay ra làm cho tôi hắt hơi liên hồi không dứt, mà mỗi lần hắt hơi đều hăm dọa sự thăng bằng của tôi một cách rất nguy hiểm. Mỗi lần hắt hơi làm thân hình tôi rung chuyển, lại làm cho tình trạng bất ổn của tôi càng trầm trọng thêm vì những ngọn đèn bơ bị lung lay làm đổ tràn những giọt bơ nóng chảy xuống cái sọ dừa cạo trọc của tôi, và... vì cạo trọc nên nó càng "Nhậy cảm" hơn.

Khi trời nóng bức một cách kinh khủng, tôi lại bị ngộp thở muốn đứng tim vì hít phải hàng mùi lụa cũ, mốc meo của chiếc áo cà sa bị cất giữ trong kho đã lâu ngày. Tôi bị vây khốn bởi những đám mối mọt bay vần vũ như điên chung quanh tôi, tôi bị phỏng rát da đầu vì bơ nóng của các ngọn đèn; tình cảnh của tôi lúc ấy vô cùng bi đát! Cái lỗ nhỏ khoét ở giữa thân mình pho tượng để nhìn ra ngoài lại không ngang với cặp mắt tôi.

Thành thử, tôi chỉ nhìn thấy cái lưng của nhân vật đi phía trước tôi, và xét về cách đi đứng xiêu vẹo và run rẩy của y, thì đủ biết rằng kẻ bất hạnh này cũng không thoải mái sung sướng gì hơn tôi lúc ấy! Nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma đang nhìn chúng tôi, và chúng tôi phải tiếp tục diễn hành trong tìng trạng đó, vừa bị ngộp thở vừa bị bơ đổ nóng đến hết phân nửa cái sọ dừa của tôi! Chắc hẳn là tôi đã sút mất vài ký lô trong ngày hôm đó!

Chiều hôm ấy, một vị quan chức cao cấp khen tặng tôi:

- Lâm Bá, con đã trình diễn rất khéo. Con có thể trở nên một tài tử thiện nghệ!

Tôi phải giữ kín không thố lộ cho ông ta biết rằng những cử chỉ mà tôi đã làm cho ông ta thích thú, thật ra là hoàn toàn ngoài ý muốn của tôi, và kể từ đó, tôi không bao giờ đi diễn hành trong pho tượng nữa!

Khỏng năm sáu tháng sau cuộc "Trình Diễn" đó, một cơn giông bão thình lình nổi dậy, cuốn hết những đám mây bụi cát và đá sỏi. Lúc ấy tôi cùng với một thiếu niên sơ cơ đang ngồi trên nóc tu viện và sắp đặt lại những viên ngói để sửa chữa chỗ bị dột.

Cơn giông làm tôi bị hất rơi xuống một nóc nhà khác độ sáu bảy thước thấp hơn, từ đó cơn gió thổi mạnh, cuốn tôi đi mãi, làm cho tôi lại rơi một lần nữa xuống đất gần đường Lingkhor từ một bề cao độ chừng một trăm thước. Ở phía dưới là một vùng ao đầm, ẩm thấp, tôi rơi xuống một vũng nước sâu, nước cao ngập khỏi đầu.

Tai nạn này làm cho tôi sợ hãi mất bình tĩnh, khi tôi cố gắng ngoi lên khỏi vũng lầy lội, tôi cảm thấy đau nhói ở khuỷu tay và ở chả vai bên trái. Tôi bò trên hai đầu gối, rồi đứng dậy và lết đi một cách khó nhọc trên đường lộ dưới ánh mặt trời nóng gắt. Bị té đau, không đủ sáng suốt để suy nghĩ gì nữa, tôi chỉ có một ý nghĩ: “Trở về tu viện càng sớm càng hay”.

Như một người mù, tôi bước tới một cách chập choạng, mỗi bước đi lại vấp ngã; dọc đường tôi gặp những sư sãi vừa chạy tới để xem kết quả tai nạn đã xảy ra cho tôi và đứa trẻ kia. Nhưng không may đứa trẻ này đã chết vì té xuống những chỗ có tảng đá gồ ghề.

Các sư sãi khiêng tôi vào phòng. Sư phụ tôi khám nghiệm những thương tích trên người tôi rồi nói:

- Ồ, tội nghiệp cho những trẻ nhỏ này! Đáng lẽ người ta không nên để chúng ra ngoài khi thời tiết như vầy!

Kế đó, người nhìn tôi vào tận mắt:

- Lâm Bá, con hỡi! Một cánh tay và một xương đòn gánh bị gẫy... Phải nắn xương lại tức khắc. Con sẽ đau đớn, nhưng thầy sẽ làm cách nào để cho con chỉ đau tối thiểu mà thôi.

Sư phụ vừa nói, và trước khi tôi ý thức được việc gì xảy ra, người đã nắn lại cái xương đòn gánh bị trặt và đặt lại cho đúng khớp. Khi Sư Phụ nắn chỗ khuỷu tay bị gẫy, tôi cảm thấy đau hơn nhưng không lâu, vì người đã mau ráp cái xương bị trặt vào đúng khớp của nó. Ngày đó, tôi nằm yên một chỗ không thể cử động.

Qua ngày hôm sau, Sư Phụ đến gặp tôi và nói:

- Con đã bớt đau và có thể tiếp tục sự học, không nên bê trễ. Chúng ta sẽ làm việc chung với nhau ngay trong phòng này. Cũng như tất cả mọi người, con cảm thấy e dè khi phải học những đề tài mới... Thầy sẽ giúp con bớt e dè bằng phương pháp thôi miên.

Sư Phụ đóng các cửa sổ, và gian phòng đắm chìm trong bóng tối.

Chỉ có những ngọn đèn nhỏ cháy leo lét trên bàn thờ. Sư Phụ bèn đặt tôi vào trạng thái giấc ngủ thôi miên.

Tôi đã ngủ thiếp đi trong nhiều giờ. Khi tôi thức tỉnh, tôi nhìn thấy xuyên qua cánh cửa sổ mở, cảnh vật ban đêm hiện ra chập chờn trong thung lũng. Những ánh lửa của các ngọn đèn bơ chiếu lập lòe ở các cửa sổ trong điện Potala và ở chung quanh các vách tường rào: Người sư sãi có phận sự túc trực ban đêm đang đi canh tuần.

Tôi cũng có thể nhìn thấy ở dưới chân đồi, thành phố Lhassa đang vươn mình trong sự sinh hoạt ban đêm. Khi đó, Sư Phụ tôi bước vào và nói:

- À, con đã tỉnh! Chúng ta nghĩ rằng có lẽ con đã nhận thấy cõi Trung Giới vui đẹp đến nỗi con muốn kéo dài cuộc ngao du trên đó. Thầy nghĩ bây giờ chắc con đã đói, phải chăng?

Đến đây, tôi mới sực nghĩ ra là thật tình tôi đang đói bụng. Người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn, và trong khi tôi ngồi ăn uống lấy sức, Sư Phụ nói với tôi:

- Trong trường hợp thông thường, thì có lẽ con đã chết vì tai nạn vừa qua, nhưng khoa chiêm tinh đã nói rằng cuộc đời con chỉ kết thúc trong nhiều năm sau ở một nơi xa lạ, tận bên xứ của những người mọi da đỏ (Mỹ Quốc). Trong giờ phút này, các sư sãi đang cầu siêu cho linh hồn đứa trẻ thiếu nhi vừa từ giã chúng ta. Nó đã chết ngay trong lúc bị tai nạn.

Những người bước qua cõi giới bên kia cửa tử làm cho tôi mong ước số phận của họ. Kinh nghiệm của tôi đã giúp cho tôi nhận định rằng những cuộc ngao du trên cõi Trung Giới rất là thú vị. Nhưng tôi nhớ lại rằng tuy không ai thích cái trường học ở thế gian, nhưng người ta vẫn phải sống để học hỏi...

Cuộc đời trên thế gian là gì, nếu không phải là một trường học? Và đó là một trường học rất gian khổ! Tôi thầm nghĩ: "Trong trường học này, tôi đã bị gẫy mất hai cái xương, nhưng tôi vẫn phải tiếp tục học nữa!"

Trong hai tuần lễ, sự học của tôi càng được thúc đẩy ráo riết hơn lúc bình thường. Người ta nói rằng đó là để cho tôi quên đi, đừng nghĩ đến cái xương gẫy của tôi. Sau hai tuần lễ đó, những chỗ trặt xương đã được hàn gắn lại như cũ, nhưng tôi cảm thấy khớp xương cứng đơ, và tôi vẫn còn thấy đau. Một buổi sáng, vừa bước vào phòng, tôi thấy Minh Gia Đại Đức đang đọc một bức thơ. Sư Phụ ngước mắt nhìn tôi và nói:

- Lâm Bá, chúng ta có một gói dược thảo để gởi tặng cho thân mẫu của con. Con sẽ cầm về cho thân mẫu vào sáng ngày mai, và con có thể ở lại nhà trọn ngày.

Tôi đáp:

- Con chắc rằng cha con không muốn gặp con, vì ông ấy không nhìn con một hôm nọ, khi người đi ngang qua trước mặt con trên cầu thang của điện Potala.

- Đó là một việc rất thông thường. Cha con biết con vừa có cái hân hạnh được đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp kiến, bởi lẽ đó, người không thể nói chuyện với con trong khi vắng mặt Thầy, vì chính đấng Khôn Lường đã đích thân phú thác gửi gấm con cho Thầy rồi.

Sư Phụ nhìn tôi với cặp mắt tinh anh và vừa cười vừa nói:

- Dù sao, cha con sẽ không có ở nhà vào ngày mai. Người đã đi Gyangtsé trong vài ngày.

Qua ngày hôm sau, Sư Phụ chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân và nói:

- Con có vẻ hơi xanh xao, nhưng con ăn mặc sạch sẽ, chỉnh tề, và điều đó rất quan trọng đối với một người mẹ. Đây là một khăn choàng cổ, con đừng quên rằng con là một vị Lạt Ma, là người phải tôn trọng mọi quy tắc. Trước kia, con đi bộ đến đây. Bây giờ, con hãy cưỡi một trong những con ngựa bạch quý nhất của tu viện để trở về nhà. Con hãy cưỡi con ngựa của thầy, nó đang cần phải vận động.

Sư Phụ đưa cho tôi cái bao da đựng dược thảo, bọc trong một cái khăn choàng bằng lụa theo truyền thống để tỏ lòng cung kính. Tôi nhìn kỹ cái khăn choàng một cách hoài nghi, vì không nên để cho nó bị lấm lem trước khi đưa quà biếu. Sau cùng, tôi quyết định cất nó trong túi áo tràng, và chỉ rút nó ra trước khi tới nhà cha mẹ tôi.

Tôi giục ngựa xuống chân đồi và noi theo con đường Lingkhor như thường lệ. Sau khi đi độ nửa giờ, trải qua nhiều con đường ở ngoại ô thành phố, tôi nhìn thấy ở đằng xa cái cổng lớn của nhà tôi.

Khi các gia nô nhận ra tôi, họ bèn hối hả mở cổng. Tôi cho ngựa đi qua cổng để vào tận sân nhà với một hy vọng thầm kín rằng tôi sẽ không bị té rớt xuống yên ngựa. Rất may mắn thay, một người giữ ngựa chạy đến nắm lấy dây cương trong khi tôi nhảy xuống đất.

Người quản gia chạy ra tiếp đón tôi: Chúng tôi bèn trao đổi khăn choàng một cách lễ nghi trịnh trọng. Y nói: "Thưa ngài Lạt Ma y sĩ và đại gia công tử, xin công tử hãy ban ân huệ cho gia đình và toàn thể nhân viên cư ngụ trong nhà này."

Tôi đáp:

- Cầu xin Phật Tổ Như Lai ban ân huệ và ban cho ông sức khỏe trường cửu.

- Thưa đại gia công tử, lệnh bà có truyền lịnh cho tôi đưa công tử vào.

Trong khi chúng tôi bước vào, người quản gia đi trước dẫn đường (làm như tôi không biết đường đi một mình), tôi rút cái khăn choàng ra và phủ ngoài cái bao da một cách cẩn thận. Chúng tôi bước lên lầu trên để vào phòng khách của mẹ tôi. Tôi thầm nghĩ: "Người ta không bao giờ để cho tôi đến đây khi tôi còn nhỏ." Nhưng ý nghĩ đó liền nhường chỗ cho ý muốn mãnh liệt là chạy vắt giò lên cổ để thoát thân ngay lập tức khi tôi thấy rằng phòng khách của mẹ tôi đầy những khách... đàn bà!

Trong khi tôi còn đang lúng túng, tiến thoái lưỡng nan, thì mẹ tôi đã bước đến gần và tiếp đón tôi trước:

- Đại Ðức Lạt Ma, hỡi con, đấng Khôn Lường đã ban danh dự cho con rất nhiều. Các bà bạn của mẹ hôm nay đến đây để được nghe chính miệng con kể lại cái vinh dự ấy.

Tôi đáp:

- Thưa mẫu thân, những quy luật trong dòng tu ngăn cấm con không được tiết lộ những gì ngài đã nói với con. Minh Gia Đại Đức có truyền đem dâng mẹ bao dược thảo này cùng với một khăn choàng bằng lụa.

- Hỡi con yêu quý, các bà mệnh phụ này đến từ những vùng xa xôi để được nghe chuyện trong cung điện của đấng Thậm Thâm và nghe nói chuyện về ngài. Phải chăng ngài vẫn thường xem những tạp chí Ấn Độ? Và phải chăng ngài thường sử dụng một thứ kiếng có thể xuyên qua vách tường nhà?

Tôi đáp:

- Thưa mẫu thân, con chỉ là một Lạt Ma sĩ nghèo, vừa mới xuống núi, và thật là không xứng đáng để nói chuyện về đức Chưởng Giáo của dòng tu chúng con. Con chỉ là một kẻ chuyển giao thư tín mà thôi.

Lúc ấy, một thiếu phụ bước đến gần tôi và nói:

- Đại Đức Lạt Ma không nhận ra tôi sao? Tôi là Yaso đây!

Quả thật tôi không nhận ra chị tôi, vì chị tôi đã trở nên một thiếu nữ dậy thì, nở nang trọn vẹn và... hấp dẫn. Tôi cảm thấy e dè sợ hãi. Tất cả là tám hay chín vị phụ nữ có mặt tại đó. Thật là quá nhiều đối với tôi. Những người nam phái thì tôi đã biết cách xử thế đối với họ còn nữ giới thì tôi chịu thua! Họ cứ nhìn tôi với những cặp mắt tò mò, dường như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Tôi chỉ còn có một giải pháp là thoát thân. Tôi nói:

- Thưa mẫu thân, con đã chuyển giao thông điệp và quà tặng của Sư Phụ con xong rồi, bây giờ con phải trở về với bổn phận hằng ngày. Tay con vẫn còn đau và con có nhiều việc phải làm.

Nói xong, tôi chào từ giã tất cả các quan khách rồi quay lưng đi mau với một tốc lực tối đa mà sự lễ nghi cho phép. Vì quản gia đã trở lại văn phòng của người, vì vậy một người giữ ngựa dắt ngựa đến cho tôi. Tôi nói:

- Anh hãy cẩn thận khi đỡ tôi lên yên, vì tôi mới bị gãy xương ở tay và vai, và tôi không thể lên yên ngựa một mình.

Người giữ cửa mở cổng đưa tôi đi ra, đúng vào lúc mẹ tôi xuất hiện trên bao lơn và nhìn theo sau lưng tôi.

Khi tôi trở về tu viện, tôi đến gặp Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ nhìn tôi vào tận mắt và hỏi:

- Lâm Bá, con có vẻ ngơ ngác như kẻ mất hồn. Tại sao?

Tôi đáp:

- Bạch Sư Phụ, ở nhà, con gặp một toán phụ nữ muốn nghe chuyện đấng Thậm Thâm và muốn biết những gì ngài đã nói với con. Con đáp rằng trong dòng tu của chúng ta nghiêm cấm con tiết lộ cho họ nghe bất cứ chuyện gì. Và con đã chạy thoát thân... Sư Phụ hãy tưởng tượng xem, tất cả các bà mệnh phụ ấy đều trố mắt nhìn con như cọp rình mồi!

Sư Phụ tôi phát tiếng cười vang; tôi càng ngạc nhiên về sự vui vẻ của Sư Phụ thì người lại càng cười giòn giã hơn nữa. Người nói:

- Đấng Khôn Lường muốn biết con có muốn ở lại tu viện suốt đời hay con còn nghĩ đến việc trở về với gia đình.

Đời sống tu viện đã làm đảo lộn mọi quan niệm của chúng tôi về đời sống xã hội; hồi đó tôi cho rằng phụ nữ là những nhân vật lạ lùng mà cho đến bây giờ tôi vẫn thấy như vậy. Tôi đáp:

- Gia đình con là ở đây. Con khôngmuốn trở về nhà. Tất cả những bà mệnh phụ ấy với những bộ mặt sơn phết và tóc bôi mỡ trơn bóng làm cho con phát ngấy... Họ nhìn con với một vẻ mặt lạ lùng, chẳng khác nào những người đồ tể ở làng Sho trước một con trừu trúng giải nhất trong một cuộc triển lãm nông nghiệp! Họ thốt ra những tiếng kêu chát chúa và những màu sắc trên thể vía của họ thật là... dễ sợ! Bạch Sư Phụ, xin Sư Phụ đừng bảo con trở về nhà nữa!

Nhưng một tuần lễ sau đó, người ta lại nói cho tôi biết rằng đức Đạt Lai Lạt Ma rất chú ý đến tôi, và đã quyết định cho tôi trở về nhà ở một hai ngày mỗi khi mẹ tôi tổ chức những cuộc tiếp tân trong gia đình.

Thanked by 1 Member:

#48 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 07/06/2011 - 23:40

12. Tôi Sử Dụng Thần Nhãn


Một buổi sáng, tôi đang lúc rảnh rang, Minh Gia Đại Đức đến tìm tôi và nói:

- Chúng ta hãy đi chơi một vòng. Thầy có một việc để cho con làm.

Tôi rất vui mừng với ý nghĩ được đi dạo chơi với Sư Phụ. Chúng tôi xuống dưới chân đồi, và sau khi đi vòng quanh nhiều đường phố ở thủ đô Lhassa, chúng tôi đi ngang qua trụ sở của Phái Bộ Ngoại Giao Trung Hoa. Sư Phụ tôi vừa đi vừa nói:

- Một phái đoàn Trung Hoa vừa mới đến, chúng ta hãy nhìn qua mỗi nhân viên phái đoàn để xem họ là người như thế nào.

Ấn tượng của tôi đầu tiên rõ ràng là không thuận lợi. Ở bên trong trụ sở của phái bộ, các nhân viên Trung Hoa đi bách bộ qua lại trong các phòng, vẻ mặt tự đắc, hoặc đang lui cui mở các rương trắp, và các thùng đồ đạc. Tôi nhận thấy họ có một số khí giới khá nhiều, đủ để võ trang một đạo binh nhỏ.

Vóc người nhỏ thó của tôi cho phép tôi mở một cuộc "dò thám" dễ dàng hơn một người lớn. Thật vậy, tôi đã lén bò lại gần một cửa sổ mở, xuyên qua đó tôi có thể rình xem họ cho đến khi một người trong bọn họ ngẩng đầu lên. Khi người ấy nhìn thấy tôi, y nổi giận thốt lên một câu nguyền rủa bằng tiếng Trung Hoa, có tính cách xúc phạm đến tổ tiên của tôi. Y còn nhìn quanh tìm một vật gì để ném tôi, nhưng tôi đã rút lui trước khi y có thể hạ thủ.

Trên đường về, tôi nói với Minh Gia Đại Đức:

- Sư Phụ biết không, họ có những vầng hào quang màu đỏ! Và họ có một lối vung dao găm rất dễ sợ!

Sư Phụ tôi có vẻ trầm tư trên suốt con đường về. Sau buổi ăn chiều, người nói với tôi:

- Thầy đã suy nghĩ nhiều về phái đoàn Trung Hoa, và thầy sẽ đề nghị với đấng Khôn Lường (một trong những danh từ sùng kính để chỉ đức Đạt Lai Lạt Ma) hãy sử dụng năng khiếu Thần Nhãn của con. Trong trường hợp đó, con có thể quan sát họ xuyên qua một bức bình phong được chăng?

Tôi đáp:

- Nếu Sư Phụ nghĩ rằng con có thể, thì chắc chắn con sẽ làm được.

Tôi không gặp Sư Phụ tôi suốt cả ngày hôm sau; qua ngày kế đó, người để tôi làm việc suốt buổi sáng và sau buổi ăn trưa, người nói với tôi:

- Lâm Bá, trưa nay chúng ta sẽ đi chơi một vòng. Đây là một cái khăn choàng tốt hảo hạng. Không phải cần có thần thông mới biết rằng chúng ta sẽ đi đâu. Con có mười phút để chuẩn bị, rồi sau đó hãy đến gặp thầy. Thầy cần phải nói trước với vị Sử Trưởng.

Một lần nữa, chúng tôi lại noi theo con đường cheo leo đi xuống chân núi. Một con đường tắt xuyên qua sườn núi phía tây nam đưa chúng tôi đến vườn Ngọc Uyển gần bên điện Potala rất mau chóng. Đức Đạt Lai Lạt Ma rất thích khu vườn này, tại đây Ngài thường đến thượng ngoạn trong những giờ nhàn rỗi.

Trong vườn Ngọc Uyển có một cái hồ sen nhân tạo rất đẹp, với hai cù lao, trên mỗi cù lao có dựng lên một nơi nhà mát để nghĩ hè. Đức Đạt Lai Lạt Ma thường đến những cù lao trên hồ sen này, tại đây Ngài tham thiền nhiều giờ mỗi ngày. Bên trong vườn Ngọc Uyển, có dinh trại của toán Ngự Lâm Quân gồm độ năm trăm người có phận sự bảo vệ an ninh cho Ngài. Đó là nơi tôi cùng với Sư Phụ tôi đến viếng lần đầu tiên trong ngày hôm đó.

Sau khi đã đi qua những khu vườn sầm uất, chúng tôi bước qua một cánh cửa rất đẹp đưa vào một khoảnh vườn bên trong. Những thứ chim đủ loại lông cánh đủ màu sặc sỡ đang ăn dưới đất. Chúng không màng nhìn thầy trò tôi, nên chúng tôi cũng không muốn làm quấy rầy chúng. Mặt hồ phẳng lặng chiếu sáng như một tấm gương trong.

Con đường lót đá đã được quét vôi trắng và chúng tôi noi theo để đi tới cái cù lao xa nhất, tại đây đấng Khôn Lường đang đắm chìm trong một cơn thiền định thâm sâu. Khi chúng tôi bước đến gần, Ngài ngước mắt lên và mỉm cười với chúng tôi.

Chúng tôi liền quì xuống, đặt cái khăn choàng dưới chân Ngài và Ngài mời chúng tôi ngồi xuống trước mặt. Kế đó Ngài gõ chuông để ra hiệu cho một vị Lạt Ma hầu cận dâng trà, một thủ tục thông thường trước khi bắt đầu mọi câu chuyện. Trong khi chờ đợi, Ngài nói chuyện với tôi về những loài thú cầm của Ngài nuôi trong vườn Ngọc Uyển và hứa sẽ cho tôi xem sau này.

Vị quan hầu cận dâng trà xong, vừa lui ra thì đức Đạt Lai Lạt Ma nhìn tôi và nói:

- Đạo hữu Minh Gia có nói cho biết rằng con không ưa những hào quang của phái đoàn Trung Hoa. Người nói rằng tất cả bọn họ đều có mang đầy đủ khí giới. Trong các cuộc thử thách bí mật hay công khai trước đây, năng khiếu Thần Nhãn của con đã tỏ ra chính xác và không hề lầm lẫn. Vậy con nghĩ sao về những người ấy?

Câu hỏi của Ngài làm cho tôi bối rối. Tôi không thích nói cho ai nghe trừ phi với Sư Phụ tôi những gì tôi nhìn thấy trong hào quang của thiên hạ, và những màu sắc ấy có ý nghĩa gì đối với tôi.

Thật vậy, tôi nghĩ rằng nếu một người không thể nhìn thấy và tự diễn đạt lấy ý nghĩa các hào quang ấy cho riêng mình thì điều đó có nghĩa là người ấy không có cái định mệnh được biết những gì tôi biết. Nhưng làm sao tôi dám nói điều ấy với vị Nguyên Thủ quốc gia? Nhất là một vị Nguyên Thủ không có năng khiếu Thần Nhãn? Tôi bèn đáp:

- Vạn bạch Thái Tuế, con rất vụng về trong việc nhìn xem hào quang của người khác, và bởi đó con không đủ tư các cách xứng đáng để bày tỏ một ý kiến nào hết.

Tôi không tiến thêm được bao nhiêu, vì đấng Thậm Thâm lại nói tiếp:

- Con thuộc về thành phần những người bẩm sinh ra đã có những khả năng thiên phú. Những khả năng đó đã được phát triển nhờ sự luyện tập theo các pháp môn bí truyền. Con có bổn phận phải nói. Con đã được nuôi nấng dạy dỗ chỉ vì mục đích đó mà thôi. Ta nghe đây.

- Vạn bạch Thái Tuế, những nhân viên trong phái đoàn Trung Hoa đều có những ý đồ rất sảo trá quỷ quyệt. Những màu sắc trong hào quang của họ biểu lộ một ý địng lường gạt và phản bội.

Tôi không nói nhiều nữa, nhưng đức Đạt Lai Lạt Ma có vẻ hài lòng. Ngài nói:

- Tốt lắm, con đã lập lại đúng y như những lời con đã nói với đạo hữu Minh Gia. Ngày mai, con sẽ đứng núp phía sau tấm bình phong này và con sẽ quan sát phái đoàn Trung Hoa khi họ đến đây. Chúng ta cần biết rõ ý đồ của họ. Con hãy đi núp ngay bây giờ thử xem có ai nhìn thấy không?

Tôi bèn tuân lịnh đứng núp sau bình phong, các sư sãi nô bộc cũng rời những con sư tử đá chận thêm ở phía ngoài để cho tôi được hoàn kín đáo. Người ta thử tập dượt qua một lần cuộc viếng thăm này, những vị Lạt Ma đóng vai trò của phái đoàn Trung Hoa. Họ cố gắng tìm ra chỗ tôi ẩn núp. Tôi nhìn thấy tư tưởng của một người trong bọn:

- Nếu mình tìm thấy nó, mình sẽ được thăng thưởng.

Nhưng rốt cuộc y cũng chẳng được gì. Sau cùng, đấng Thậm Thâm tỏ ý hài lòng và gọi tôi ra. Sau vài phút nói chuyện, Ngài dặn chúng tôi hãy trở lại vào ngày hôm sau vì phái đoàn Trung Hoa sẽ tìm cách bắt buộc Ngài ký một hiệp ước. Với ý nghĩ đó, chúng tôi từ biệt Ngài và trở về tu viện Chakpori.

Ngày hôm sau vào khoảng mười một giờ, chúng tôi đã có mặt tại vườn Ngọc Uyển. Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp đón tôi với một nụ cười và nói rằng tôi phải ăn uống trước đã (điều này lúc nào tôi cũng sẵn sàng!) trước khi vào núp phía sau tấm bình phong. Theo lịnh Ngài, người ta dọn ra cho tôi một bữa ăn thịnh soạn, với những đồ thực phẩm nhập cảng từ bên Ấn Độ, mà tôi chưa được biết tên gọi là gì.

Điều mà tôi biết, là lần đầu tiên tôi được ăn một bữa ăn lạ miệng và hoàn toàn khác hẳn với các món ăn cũ rích là trà bơ, tsampa và củ cải; sau khi đã ăn uống hả lòng, tôi cảm thấy hăng hái hơn để có thể đương đầu với cái viễn cảnh phải ngồi yên bất dộng trong một thời gian. Sự ngồi yên bất động hoàn toàn, điều kiện tất yếu của môn thiền định, không có gì là khó khăn đối với các vị Lạt Ma.

Từ thưở ấu thơ, nói đúng ra là từ năm tôi lên bẩy, người ta đã tập cho tôi nhồi yên không cử động trong nhiều giờ. Để thực tập, người ta đặt một cái đèn thắp bằng bơ lên đầu tôi và tôi phải ngồi trong tư thế liên hoa cho đến khi chất bơ trong đèn đã cạn, tức là suốt mười hai giờ. Như vậy, ngồi yên không cử động suốt ba hay bốn tiếng đồng hồ không phải là một điều khó.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng ngồi trong tư thế liên hoa đối diện với tôi, trên một chiếc ngai độ hai thước cao hơn mặt đất. Ngài ngồi yên không cử động; tôi cũng vậy. Thình lình, những tiếng kêu và nhiều tiếng chào bằng tiếng Trung Hoa từ đằng xa vọng đến tai chúng tôi, sau đó tôi nghe nói rằng y phục của phái đoàn Trung Hoa có nhiều chỗ độn lên rất khả nghi, và người ta đã phải lục soát trong mình họ để tước khí giới.

Sau đó, dưới sự hướng dẫn của quân ngự lâm, họ được đưa vào nội cung và chừng tôi nhìn thấy họ noi theo con đường lót đá đi đến trước tư dinh. Một vị Lạt Ma cao cấp cất tiếng ngân nga: Om! Mani padme Hum, nhưng phái đoàn Trung Hoa, thay vì phải lập lại câu châm ngôn ấy như nghi lễ bắt buộc, đã đáp lễ bằng tiếng Trung Hoa:

- A Di Đà Phật!

Từ chỗ tôi ẩn núp, tôi nhìn thấy hào quang của họ chiếu sáng. Tôi quan sát những màu sắc xám lợt thỉnh thoảng lại phóng ra những tia màu đỏ bầm, biểu lộ những giòng tư tưởng oán ghét, hận thù. Hào quang của họ có những lằn và những vệt ngang màu rất xấu xa, chớ không có những màu sắc trong sáng và tinh khiết của những tư tưởng thanh cao.

Những hào quang màu sắc đục ngầu và xấu xí của họ biểu lộ những tâm hồn đầy dục vọng vật chất và tội lỗi. Đó chính là những người được diễn tả rất đúng bởi câu sáo ngữ "Khẩu Phật, tâm xà." Tôi nhìn đức Đạt Lai Lạt Ma, hào quang của Ngài biểu lộ sự buồn rầu, vì Ngài đang nhớ lại cái thời kỳ xa xưa khi Ngài lưu vong sang sứ Trung Hoa.

Tác phong của Ngài làm cho tôi rất cảm mến; xứ Tây Tạng chưa hề có một vị Quốc vương xứng đáng hơn Ngài. Ngài có một tính chất cương nghị, thậm chí có khi rất nóng nảy, vì có những tia đỏ xẹt ngang qua hào quang của Ngài, nhưng lịch sự sẽ nhắc nhở rằng Ngài là vị Đạt Lai Lạt Ma cao cả nhất mà Ngài đã từng quên mình trọn vẹn trong công việc phụng sự xứ sở. Tôi có một lòng kính yêu thật sự đối Ngài và trong lòng tôi Ngài chiếm được một ưu thế sau Minh Gia Đại Đức, Sư Phụ tôi.

Cuộc hội kiến kéo dài mà không mang lại một kết quả hữu ích, vì những người ấy đến đây không phải với tư cách là bạn mà là thù. Họ có những ý nghĩ đã định sẵn, cùng những phương pháp để thực hiện những ý đồ của họ.

Họ muốn chiếm thêm đất đai lãnh thổ, điều khiển nền chánh trị của Tây Tạng, và trên hết là... vàng! Vàng đã từng là mục tiêu tham vọng của họ tự muôn đời, vàng có đến hằng bao nhiêu trăm tấn ở Tây Tạng, ở xứ này nó được coi như một loại kim khí linh thiêng. Theo sự tín ngưỡng của dân bản xứ, đào mỏ tìm vàng tức là làm mất đi cái khí thiêng của xứ sở, xúc phạm đến Thần Linh, nên không ai có ý định làm việc ấy. Ở Tây Tạng có những sông rạch ở đó người ta có thể đãi cát lấy vàng do giòng nước cuốn trôi xuống từ trên núi.

Trong vùng Chang Tang, tôi đã thấy vàng đọng lại như cát ở các bờ suối. Thứ vàng này đem nấu tan ra, sẽ dùng làm đồ trang trí các đền thờ, vì loại kim khí linh thiêng này tự nhiên là để dùng vào những mục đích linh thiêng. Những ngọn đèn thắp bằng bơ cũng làm toàn bằng vàng. Nhưng có điều là chất vàng quá mềm nên sau một thời gian các đồ dùng đều méo và mất hình thể.

Diện tích xứ Tây Tạng lớn gấp bảy lần nước Pháp. Nhiều vùng rộng lớn vẫn chưa được thám hiểm, tôi được biết rằng ở đó người ta tìm ra rất nhiều vàng, bạc và uranium. Người Tây Tạng không bao giờ để cho người Tây Phương tìm đến các mỏ khoáng chất trong xứ họ, mặc dầu có những vận động ráo riết của những người này, vì họ có một câu châm ngôn cổ nói rằng: "Ở đâu có người Tây Phương, là ở đó có chiến tranh."

Trong quyển sách này, khi tôi nói đến những cái kèn vàng, đĩa vàng, và "thi hài bọc vàng," xin đọc giả đừng nên quên rằng ở Tây Tạng, vàng không phải là một loại kim khí hiếm có mà là loại kim khí linh thiêng. Xứ Tây Tạng có thể là một kho tài nguyên phong phú vô tận mở rộng cửa cho toàn thể thế giới nếu nhân loại chịu hợp nhất và làm việc trong nền hòa bình, thay vì tự tiêu diệt lấy nhau trong cái ảo vọng tranh giành thế lực.

Một buổi sáng, tôi đang ngồi chép một bản kinh bút tự để đưa cho thợ khắc chữ, thì Minh Gia Đại Đức đến tìm tôi và nói:

- Lâm Bá, con hãy gác lại việc ấy. Đấng Khôn Lường có cho gọi chúng ta đến vườn Ngọc Uyển để quan sát cái hào quang của một người ngoại quốc đến từ thế giới Phương Tây. Con hãy đi mau, vì Ngài muốn nói chuyện riêng với chúng ta trước khi tiếp khách. Không cần đem theo khăn choàng và không cần nghi lễ chi cả. Con chỉ cần sửa soạn đi gấp, thế thôi!

Tôi nhìn Sư Phụ một giây và đáp:

- Bạch Sư Phụ, để con vào thay áo, rồi con sẽ sẵn sàng.

Tôi không mất nhiều thời giờ để sửa soạn y phục chỉnh tề. Chúng tôi bước ra khỏi tu viện và trong giây lát chúng tôi đã có mặt tại vườn Ngọc Uyển. Nhưng quân canh gác vừa xua tay định bảo chúng tôi đi chỗ khác chơi, nhưng khi họ nhìn ra Minh Gia Đại Đức, họ liền thay đổi thái độ ngay tức khắc và mau mắn dẫn đường đưa chúng tôi vào nội cung, tại đây đức Đạt Lai Lạt Ma đã ngồi sẵn chờ đợi chúng tôi.

Không có khăn choàng để làm lễ ra mắt, tôi cảm thấy tôi có vẻ vụng về lúng túng vì tôi không biết dùng hai bàn tay tôi làm gì? Đấng Thậm Thâm vừa mỉm cười nhìn chúng tôi và nói:

- Minh Gia hãy an tọa, và con nữa, Lâm Bá. Quý vị đã không mất nhiều thời giờ.

Chúng tôi ngồi xuống và đợi Ngài mở lời trước. Ngài ngồi tĩnh tọa và định tâm trong một lúc, dường như để sắp đặt những tư tưởng của Ngài cho có trật tự. Kế đó, Ngài nói:

- Trước đây đã lâu, quân mọi lông đỏ (người Anh) đã xâm chiếm xứ sở chúng ta. Khi đó ta đi qua Mông Cổ, giai đoạn đầu của một chuyến viễn du dài hạn. Năm Canh Tuất (1910), quân Trung Hoa lại xâm lăng xứ chúng ta, cuộc xâm lăng này là hậu quả trực tiếp của cuộc tấn công của quân Anh.

Lần này ta lại lên đường qua Ấn Độ và chính trong dịp đó ta đã gặp vị sứ thần Anh Quốc mà ta sẽ tiếp kiến ngày hôm nay. Ta nói những điều đó là để cho con, Lâm Bá, vì Minh Gia đã tháp tùng theo ta trong những dịp xuất ngoại đó. Người Anh đã hứa hẹn với ta nhiều điều mà rốt cuộc họ không giữ lời hứa. Hôm nay, ta muốn biết xem người sứ giả này có thành thật hay không.

Lâm Bá, con sẽ không hiểu những lời nói của ông ta; như vậy, những lời ấy sẽ không ảnh hưởng gì đến con. Con hãy đứng núp sau tấm bình phong này, con có thể quan sát mọi sự mà không ai biết. Con hãy nhìn xem hào quang của ông ta và đưa ra nhận xét của con như Sư Phụ con đã dạy. Bây giờ, Minh Gia đạo hữu hãy chỉ chỗ trú ẩn cho Lâm Bá, vì y đã quen thuộc với sự chỉ dẫn của đạo hữu hơn là của ta, và ta tin chắc rằng y coi đạo hữu còn cao hơn vị Đạt Lai Lạt Ma nữa kìa!

Núp phía sau bình phong, tôi không ngớt nhìn chung quanh, quan sát các loài chim và các nhánh cây đẩy đưa theo chiều gió. Thỉnh thoảng tôi lén nhai vài miếng tsampa mà tôi đã đem theo. Thình lình có tiếng động mạnh của cánh cửa vườn trong:

Những vị Lạt Ma mặc áo vàng trong nhóm các quan hầu cận của đức Đạt Lai Lạt Ma bước vào cùng với một người da trắng ăn mặc một cách thật lố bịch dị kỳ. Tôi phải khó khăn lắm mới giữ được sự yên tĩnh, không thôi tôi sẽ bật cười đến chết mất thôi. Người ấy tác cao lớn và hơi gầy. Ông ta có mái tóc trắng, cặp lông mày thưa, đôi mắt rất sâu, và một đôi môi khép chặt, có vẻ đanh thép.

Nhưng còn bộ y phục của người này! Nó được cắt trong một loại hàng màu xanh đậm, phía trước có một hàng nút bằng đồng bóng loáng. Bộ y phục này chắc hẳn là công trình của một thợ may rất dở, vì cái cổ áo quá lớn đến nỗi người ta phải lật nó ra ngoài, ngoài ra lại còn vài miếng vải vuông vá lên hai bên hông.

Tôi tự hỏi có phải chăng người Tây Phương cũng ăn mặc vá từng miếng như áo cà sa của các sư sãi bên phương Đông theo gương đức Phật ngày xưa? Xin nói thêm rằng hồi đó, tôi chưa biết gì về cái cổ áo lật (rờ ve) và cái túi áo tây!

Ở Tây Tạng, những người nho nhã không phải là dân lao động đều mặc áo rộng, tay rất dài che lấp cả hai bàn tay. Trái lại, tay áo của người sứ giả này rất ngắn và chỉ dài đến cườm tay thôi. Tôi thầm nghĩ:

- Tuy vậy, chắc người này không phải là một bác thợ cầy vì hai bàn tay của ông ta có vẻ rất mềm mại. Có lẽ là ông ta không biết cách ăn mặc, thế thôi...

Cái áo của ông ta chỉ dài đến nửa thân mình. Tôi thầm nghĩ chắc là ông ta nghèo lắm. Quần của ông ta mặc quá chật và rõ ràng là quá dài, vì gấu quần lại vén ngược lên. Tôi tự nghĩ:

- "Trong bộ y phục này, chắc hẳn là ông ta cảm thấy lúng túng trước mặt đấng Thậm Thâm." Tôi lại tự hỏi rằng không biết có người nào cũng vừa tầm thước với ông, có thể cho ông ta mượn đỡ một bộ y phục thích đáng.

Khi đó, tôi nhìn hai bàn chân ông ấy. Thật là một điều rất lạ lùng: Hai bàn chân ông ta bị nhốt trong một vật rất dị kỳ màu đen và bóng loáng dường như là được bao phủ bằng một lớp nước đá! Những vật này thật là khác hẳn với những đôi ủng bằng nỉ của người Tây Tạng chúng tôi thường dùng. Tôi chưa hề thấy bao giờ những vật dị kỳ như thế!

Sau khi, tôi ghi nhận những màu sắc trên hào quang của ông ta, cùng với sự kết luận của tôi. Vị sứ giả đôi khi nói chuyện bằng tiếng Tây Tạng, với một giọng khá đúng đối với một người ngoại quốc, rồi lại thốt ra một tràng âm thanh lạ lùng mà tôi chưa hề nghe bao giờ. Về sau, người ta mới nói cho tôi biết rằng đó là tiếng Anh.

Khi ông ta thò tay vào cái túi vá ở bên hông và lấy ra một mảnh vải trắng nhỏ, tôi lấy làm ngạc nhiên. Dưới đôi mắt kinh ngạc của tôi, ông ta đưa mảnh vải trắng ấy lên trước mũi và miệng phát ra một tiếng động giống như tiếng kèn. Tôi thầm nghĩ:

- "Chắc hẳn đó là một cách chào đấng Khôn Lường!" (Người Tây Tạng không có thói quen dùng khăn tay.) Ông ta "chào" xong, liền cẩn thận đút mảnh vải trắng vào chỗ cũ. Kế đó, ông ta đưa tay vào bâu trong áo rồi lấy ra nhiều tờ giấy thuộc một loại mà tôi chưa hề thấy bao giờ. Thứ giấy bên Tây Tạng hơi dầy, nhám và màu vàng, còn loại giấy này trắng mỏng và láng. Tôi tự hỏi:

- "Làm sao người ta có thể viết trên một tờ giấy như vậy? Không có gì trên đó để giữ lại cây viết chì, vì giấy trơn quá!"

Khi đó, người khách lấy ra một cây viết và viết lên trên giấy những hàng chữ nguệch ngoạc không thể tưởng tượng. Tôi cho rằng ông ta không biết viết, có lẽ ông ta chỉ làm bộ cho có dáng vậy thôi!

Ông ta chắc chắn là có tật nên bắt buộc phải ngồi trên một tấm gỗ đặt trên bốn chân, và để hai chân thòng xuống đất. Xương sống ông ta chắc bị tật nên ông ta phải dựa lưng vào hai mảnh gỗ đóng chặt vào phía sau chỗ ngồi.

Tôi cảm thấy động lòng thương hại ông ta: Không những quần áo ông ta chật hẹp và ngắn cũn cỡn trông thật buồn cười, ông ta không biết viết và thỉnh thoảng lại làm ra vẻ lịch sự bằng cách thổi một tiếng vào một thứ kèn bằng vải, mà ông ta lại còn không thể ngồi vững vàng như mọi người, mà phải dựa lưng cho đỡ mỏi và để hai chân thòng xuống lủng lẳng trong khoảng không!

Ông cử động luôn luôn, ngồi chéo chân rồi lại bỏ chân xuống. Thình lình, tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc mà thấy ông ta đưa chân trái lên, bàn chân chỉa thẳng về phía đức Đạt Lai Lạt Ma, một cử chỉ vô cùng hỗn láo và vô lễ đối với người Tây Tạng.

Nhưng có lẽ ông ta chợt nghĩ ra điều đó, vì ông ta lại đổi qua tư thế khác. Đấng Thậm Thâm dành cho ông ta một sự tiếp đãi trọng hậu bằng cách cũng ngồi trên một cái ghế gỗ, và cũng để hai chân thòng xuống như ông ta. Vị sứ giả này có một cái tên rất lạ Charles A. Bell, có nghĩa là "Cái chuông."

Những màu sắc trên hào quang của ông ta biểu lộ một tìng trạng sức khỏe suy kém: Có lẽ khí hậu của sứ này không hạp với thể chất của ông ta. Ông ta dường như thật tình muốn giúp đỡ, phụng sự, nhưng theo những màu sắc hào quang cho thấy thì ông ta hiển nhiên là không muốn làm một việc mạo hiểm có thể liên lụy đến thanh danh mình, nếu ông ta làm mất lòng chính phủ Anh.

Ông ta muốn áp dụng một chánh sách nào đó, nhưng vì chính phủ Anh không chịu nghe theo, nên ông ta chỉ còn cách là hy vọng rằng tương lai sẽ chứng minh cho sự thiện chí của mình.

Chúng tôi đã có những tài liệu chính xác về vị sứ thần Charles Bell. Chúng tôi đã thu nhập được những dữ kiện cần thiết, ngày sinh tháng đẻ, cùng những điểm quan trọng trong đời ông ta, nói tóm lại là tất cả những gì có thể giúp cho chúng tôi tiên đoán được tương lai của ông ta.

Các nhà Chiêm Tinh đã phát hiện rằng trong một tiền kiếp, ông ta đã sống ở Tây Tạng và trong kiếp đó ông ta đã mong ước được đầu thai qua bên Tây Phương với hy vọng là sẽ góp phần vào công việc tạo nên nhịp cầu thông cảm giữa Đông Phương và Tây Phương.

Gần đây, có người cho tôi hay rằng chính ông ta nói đến vấn đề ấy trong một của những tác phẩm của mình. Chúng tôi tin chắc rằng nếu ông ta có thể ảnh hưởng đến chánh phủ Anh như ý ông ta muốn, thì sau này đã không xảy ra cuộc xâm lăng của quân Trung Hoa. Tuy nhiên, cuộc xâm lăng này đã được tiên tri từ trước, và những lời tiên tri bao giờ cũng được thực hiện.

Chánh phủ Anh có vẻ rất ngờ vực: Họ sợ rằng xứ Tây Tạng sẽ liên minh với Nga Xô, điều này thật không có lợi cho họ chút nào. Anh Quốc từ chối không chịu ký hiệp ước với Tây Tạng và đồng thời cũng không muốn cho xứ này thiết lập những bang giao thân hữu với những nước khác.

Xứ Sikkim, xứ Bhutan, và các nước khác đều có thể ký hiệp ước với Anh Quốc, nhưng Tây Tạng thì không. Bởi đó, người Anh bắt đầu tháo mồ hôi hột lo thảo kế hoạch để xâm chiếm lãnh thổ xứ Tây Tạng. Sứ giả Charles Bell có mặt tại chỗ vẫn biết rằng chánh phủ Tây Tạng không hề muốn liên kết với bất cứ một quốc gia nào.

Họ chỉ muốn sống tự do, độc lập, và tránh mọi tiếp xúc với người ngoại quốc, vì những người này trong quá khứ chỉ có đem lại cho họ những tai họa tàn phá và đau khổ.

Đấng Khôn Lường tỏ vẻ rất hài lòng khi tôi trình bày những điều nhận xét của tôi, sau khi sứ giả Bell đã lui gót, nhưng Ngài lại nghĩ đến việc bắt tôi phải làm việc nhiều hơn. Ngài nói:

- À, phải đấy, chúng ta cần phát triển khả năng của con nhiều hơn nữa. Khả năng đó sẽ giúp ích cho con rất nhiều khi con sống ở các xứ phương xa. Chúng ta sẽ để cho con thụ huấn bằng một phương pháp thôi miên ráo riết hơn, để cho con được thâu nhập một số kiến thức tối đa.

Ngài gõ chuông gọi quan hầu cận và nói:

- Ta muốn gặp Minh Gia Đại Đức. Hãy mời người vào ngay lập tức.

Vài phút sau, Sư Phụ tôi đã khoan thai bước đến. Tôi tự hỏi ai là người có thể hối thúc Sư Phụ tôi đi mau! Nhưng vì đức Đạt Lai Lạt Ma coi Sư Phụ tôi như một bạn hữu, nên Ngài không muốn hối thúc người.

Sư Phụ ngồi gần bên tôi, trước mặt đấng Thậm Thâm. Một người hầu cận mau mắn dâng trà và vài món thực phẩm của Ấn Độ. Khi chúng tôi đã an tọa đức Đạt Lai Lạt Ma cất tiếng nói:

- Hỡi Minh Gia đạo huynh, đạo huynh đã không lầm, vì Lâm Bá rất giỏi. Y có thể tiến bộ hơn nữa, và nhất định phải tiến. Vậy Đạo Huynh hãy lấy mọi quyết định cần thiết để cho y được một sự thụ huấn nhanh chóng và toàn hảo đến mức tối đa.

Đạo Huynh hãy sử dụng mọi tất cả mọi phương tiện có sẵn, vì, như chúng ta thường được cho biết trước, những ngày đen tối và tai họa dồn dập sẽ đến với sứ sở chúng ta, nên chúng ta cần có một người tài giỏi có thể biên soạn những bộ kinh sách Huyền Môn cổ truyền.

Như thế, hằng ngày tôi càng bận rộn hơn với nhiều công việc. Từ đó, tôi thường được gọi gấp vào điện để "nhận xét" những hào quang các vị thượng khách của đức Đạt Lai Lạt Ma.

Tôi đã trở nên một nhân vật quen thuộc của điện Potala và vườn Ngọc Uyển. Ở điện Potala, tôi có thể sử dụng những ống viễn vọng kính mà tôi rất thích. Một trong những ống kính này, một loại kính lớn để xem thiên văn dựng trên một cái giá có ba chân, làm tôi thích thú nhất và tôi đã từng trải qua nhiều giờ để quan sát mặt trăng và các bầu tinh tú cho đến khuya.

Cùng với Minh Gia Đại Đức, tôi thường đến Lhassa để nhìn xem nhân vật của thủ đô. Với những năng khiếu thần thông siêu đẳng và những kinh nghiệm rộng rãi của Sư Phụ về người và vật, và Người có thể kiểm soát được những nhận xét của tôi.

Thanked by 1 Member:

#49 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 07/06/2011 - 23:41

13. Tôi Được Tấn Phong Lạt Ma


Chính trong thời kỳ này tôi được thụ huấn ráo riết về phương pháp xuất hồn hay xuất vía để đi châu du trên cõi trung giới, trong khi đó linh hồn rời khỏi thể xác và chỉ dính liền với nó với sự sống phàm trần bằng một sợi dây bạc. Nhiều người không tin rằng sự xuất hồn như thế có thể thực hiện được, nhưng thật ra thì tất cả mọi người đều xuất hồn để di chuyển trong cõi vô hình bằng cách đó trong giấc ngủ.

Có điều khác là ở Phương Tây, người ta xuất hồn trong giấc ngủ mà không hay biết, còn các nhà đạo sĩ Tây Tạng có thể xuất hồn đi châu du khắp mọi nơi tùy ý muốn, nhờ đó họ có thể nhớ tất cả những gì họ đã thấy và làm, cùng những nơi nào họ đã đến viếng. Bí thuật này đã mất đi ở phương Tây, bởi đó khi họ thức tỉnh, nhiều người cho rằng họ đã trải qua một "giấc mộng."

Tất cả các xứ đều biết về việc đi châu du bằng thể Vía, cũng như ở Anh Quốc, những nhà nữ phù thủy đã từng nổi tiếng là biết "bay". Ở khắp nơi trên thế giới, người ta đã từng biết về những vấn đề này, dẫu rằng sự hiểu biết này đã mai một với thời gian và mất đi trong ký ức loài người. Người ta đã tập luyện cho tôi có thể xuất hồn đi ngao du bằng thể Vía cũng ở trong tầm tay của tất cả mọi người.

Một bí thuật khác có thể học được một cách dễ dàng là khoa thần giao cách cảm, nhưng với điều kiện là không nên biểu diễn nó ở những nơi hí trường hoặc những nơi công cộng. Thật là một điều đáng mừng mà thấy rằng người ta đã bắt đầu nhìn nhận khoa này.

Chúng tôi cũng thực hành cả khoa thôi miên. Tôi đã thực hành nhiều cuộc giải phẫu quan trọng cho những bệnh nhân được đặt trong trường hợp cắt bỏ một chân chẳng hạn. Bệnh nhân không cảm thấy gì, không đau đớn chi hết và khi thức tỉnh, tình trạng chung của họ còn khả quan hơn là nếu họ bị chụp thuốc mê theo phương pháp cổ điển. Hình như bên Anh Quốc hiện nay người ta đã bắt đầu áp dụng khoa thôi miên trong một vài trường hợp giải phẫu.

Thuật tàng hình cũng là một môn bí thuật khác nữa trong chương trình học Đạo của tôi. Cũng may mà bí thuật này chỉ được truyền dạy cho một thiểu số người rất hiếm thuộc về thành phần ưu tú. Nguyên tắc của nó rất giản dị, nhưng sự thực hành thì rất khó.

Ta hãy thử nghĩ đến những gì làm cho ta chú ý: Một âm thanh, một vật gì thình lình cử động, hay một màu sắc lòe loẹt. Những âm thanh và cử động mau lẹ làm khiêu gợi sự chú ý của mọi người, nó làm cho ta phải lưu tâm để nhìn xem đó là vật gì?

Trái lại một người ngồi yên bất động không bị nhìn thấy dễ dàng như vậy, cũng như những người mà ta đã quá quen thuộc. Thí dụ như người đem thơ; thường khi người ta đã nhận được thư tín từ buổi sáng, nhưng lại nói:

- Không có người nào, tuyệt đối không có ai đã đến đây.

Nếu quả đúng như vậy, thì thư tín đã được đem lại bằng cách nào? Phải chăng bởi một người vô hình? Hay bởi một người mà sự có mặt đã quá quen thuộc đối với ta đến nỗi thật sự ta không "nhìn" thấy y, hay không "cảm nhận" được y? (Một cảnh binh luôn luôn dễ bị nhìn thấy vì con người thường có một lương tâm không được yên ổn).

Muốn tàng hình, người ta không nên hành động gì và phải chận đứng mọi luồng sóng tư tưởng xuất phát ra từ bộ óc. Nếu người ta để cho bộ óc hoạt động, nghĩa là nếu người ta suy nghĩ, tư tưởng, thì những người chung quanh ta trở nên ý thức được sự có mặt của ta bằng thần giao cách cảm (tức là nhìn thấy ta) và ta không tàng hình được.

Ở Tây Tạng, có những người có thể tàng hình tùy ý muốn, bởi vì họ có thể che giấu những luồng sóng tư tưởng của họ. Cũng may mà những người ấy chỉ gồm một thiểu số rất ít.

Thuật khinh thân cũng là một bí thuật khác nữa, và đôi khi nó được thực hành như một phép tập luyện kỹ thuật. Đó là phương pháp di chuyển bất tiện vì nó đòi hỏi quá nhiều cố gắng. Người hành giả chọn cách di chuyển bằng thể Vía, cách này nhẹ nhàng ít khó khăn hơn, với điều kiện là phải có thầy giỏi chỉ dẫn.

Đó là trường hợp của tôi: Nhờ vậy nên tôi có thể xuất hồn đi ngao du các cõi tùy ý muốn. Một mặt khác, mặc dầu những cố gắng khổ luyện là công phu ráo riết, tôi cũng không thể tàng hình được. Làm thế nào để biến mất dạng đúng vào lúc người ta muốn bắt buộc tôi làm một việc mà tôi không thích, hẳn là cái đặc ân của thánh thần ban cho:

Nhưng than ôi! Các ngài vẫn từ chối không ban cho tôi cái ân huệ ấy! Tôi cũng không có thiên tư về âm nhạc, như tôi đã nói trước đây. Tôi chỉ vừa mở miệng hát là đủ làm cho vị Nhạc Sư nổi trận lôi đình, quát tháo ầm ĩ, nhưng cơn giận này còn chưa là bao nhiêu so với cơn náo loạn mà tôi gây ra một ngày nọ.

Trong khi tập đánh chụp chõa, một loại nhạc khí mà tôi cho là bất cứ ai cũng có thể chơi được, không biết tôi vụng về ra sao mà vô tình tôi chụp ngay cái đầu trọc của một sư sãi ngồi gần bên! Một cơn xúc động và phản đối ầm ĩ đã diễn ra ngay sau khi đó. Từ đó, người ta yêu cầu tôi một cách thẳng thắn là tôi hãy nên giới hạn những sinh hoạt của tôi trong lãnh vực Thần Nhãn và y khoa mà thôi!

Chúng tôi cũng thực hành rất nhiều về pháp môn Yoga, một khoa học rất quan trọng có thể cải tiến con người đến một mức độ phi thường. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng pháp môn Yoga không phải để dành cho người Tây phương, trừ phi người ta đem vào đó rất nhiều sự thay đổi thích hợp với lối sinh hoạt và tính chất của người phương Tây.

Pháp môn này đã quen thuộc với người Tây Tạng từ nhiều thế kỷ; họ đã quen tập luyện những tư thế Yoga kể từ thời thơ ấu. Những thân thể, tứ chi, gân xương, bắp thịt của họ đã được tập luyện thần thục. Trái lại, người Tây phương thử bắt chước tập những tư thế đó, sẽ gặp nhiều sự hiểm nguy nhất là nếu họ đã lớn tuổi. Còn nói phép luyện hơi thở, thì đó cũng là một điều rất nguy hiểm.

Tập thở theo phương pháp nhất định: đó là cái bí quyết của nhiều hiện tượng lạ lùng. Nhưng, cần lập lại một lần nữa rằng phép luyện khí công có thể có hại, nếu không nói là tối nguy hiểm đến tính mạng, trừ phi người hành giả được sự chỉ dẫn của một bậc danh sư có nhiều kinh nghiệm.

Nhiều du khách đến viếng xứ này có viết truyện du ký, nói về những vị Lạt Ma trổ thuật phi hành, họ có thể kiểm soát trọng lượng thân thể họ (đây không phải là thuật khinh thân) và chạy hết tốc lực trong nhiều giờ, hai chân họ ít khi chấm đất.

Thuật phi hành đó đòi hỏi một công phu tập luyện lâu dài, và nhà phi hành phải tự đặt mình trong một trạng thái bán thôi miên. Buổi chiều là giờ tốt nhất để tập luyện vì hành giả có thể nhắm hướng sao mà chạy; mặt đất phải bằng phẳng, không chướng ngại để khỏi làm gián đoạn trạng thái thôi miên. Hành giả chạy như người mộng du (somnamblue).

Y "hình dung" cái mục tiêu hành trình, mà y giữ luôn luôn tỏ rạng trước con Mắt Thần thứ ba của y bằng cách niệm không ngừng một câu thần chú đặc biệt. Y có thể chạy suốt nhiều giờ mà không cảm thấy mệt mỏi.

Phương pháp này chỉ tiện lợi hơn cách xuất vía trên một điểm duy nhất là trong phép xuất vía thì linh hồn đi ngao du các cõi; nó không thể mang theo những đồ vật dụng tùy thân như quần áo, giấy tờ, chẳng hạn; trái lại, nhà phi hành có thể đem theo một số hành lý bình thường, nhưng y lại có những sự bất tiện khác.

Nhờ họ biết cách hô hấp nên các nhà đạo sĩ Tây Tạng có thể ngồi trần truồng trên những vùng núi non đầy băng tuyết ở chiều cao độ năm hay sáu nghàn thước, trong khi đó họ cảm thấy nóng đến nỗi nước đá tan rã và họ tháo mồ hôi ra như tắm.

Bạn có bao giờ thử nhắc lên một vật nặng, sau khi đã thở hết khí trời trong phổi? Bạn hãy thử xem rồi bạn sẽ thấy rằng bạn không thể nào làm được. Nhưng nếu bạn hít vào một hơi rất sâu và giữ lại hơi thở trong phổi bạn có thể nhắc vật nặng ấy lên dễ dàng.

Trong trường hợp bạn cảm thấy sợ sệt hay nóng giận, sau khi hít một hơi thật là dài vào phổi, bạn hãy giữ lại hơi thở trong mười giây đồng hồ. Kế đó, bạn để không khí thoát ra từ từ. Nếu bạn lập lại phép thở này ít nhất là ba lần, quả tim bạn sẽ đập chậm hơn và bạn sẽ cảm thấy bình tĩnh trở lại.

Ai cũng có thể tập phép thở này một cách an toàn, vô hại. Chính nhờ tôi biết kiểm soát hơi thở mà tôi đã có thể chịu đựng những sự tra tấn của người Nhật Bổn và những sự gian khổ trong các trại giam tù binh hồi đệ nhị thế chiến. Tôi có thể nói điều ấy do kinh nghiệm bản thân.

Thời giờ đã đến để cho tôi dự cuộc thi, nó sẽ chánh thức đưa tôi lên chức vị Lạt Ma. Trước khi dự thi tôi phải đến nhận lãnh ân huệ của đức Đạt Lai Lạt Ma. Mỗi năm, đấng Khôn Lường ban ân huệ cho tất cả các sư sãi Tây Tạng, Ngài ban riêng cho từng người chứ không ban chung cho tất cả như đức Giáo Hoàng ở La Mã.

Trong đa số trường hợp, ngài ngồi trên ngôi, tay cầm một cái cần dài như cái đầu cần câu, có buộc một tua vải ở một đầu, và để cái tua ấy chấm lên đầu của các sư sãi và tín đồ hành hương. Ngài đặt một bàn tay lên trán của những người mà Ngài muốn ban danh dự hoặc những vị chức sắc cấp cao. Ban ân huệ với cả hai bàn tay để lên trán người nào là một đặc ân hiếm có: Ngài ban cái ân huệ đó lần đầu tiên trong đời tôi và nói:

Con hỡi, con đã làm việc rất giỏi, con hãy ráng làm giỏi hơn nữa trong kỳ thi này để chứng minh sự tin tưởng mà chúng ta đặt nơi con.

Ba ngày trước ngày sinh nhật năm tôi mười sáu tuổi, tôi dự thi cùng với mười bốn thí sinh khác. Những gian phòng thi cá nhân có vẻ càng nhỏ hơn trước, chắc hẳn là bởi vì tôi đã lớn.

Mỗi buổi sáng, ban khảo thi đưa cho chúng tôi những đầu đề các bài thi để làm trong ngày. Các bài thi sẽ được góp nhặt vào buổi chiều. Chúng tôi chỉ được ăn món Tsampa mỗi ngày một lần, còn trà pha bơ thì uống tự do tùy thích. Tôi phải ở lại tất cả mười ngày trong phòng thi.

Cuộc thi bắt đầu với những bài vở về môn y khoa thường thức, môn tôi phải học mà tôi đã nắm vững các đầu đề và môn thần học. Trong suốt năm ngày kéo dài vô tận, tôi không được một chút nghỉ ngơi. Qua ngày thứ sáu, một trong những thí sinh bị cơn khủng hoảng thần kinh nó làm cho chúng tôi xúc động.

Từ một phòng thi cá nhân ở bên cạnh phòng tôi, phát ra những tiếng thét lớn và rú lên rợn người. Tôi nghe có tiếng chân người dồn dập, những giọng nói và tiếng mở cửa. Có tiếng nói êm dịu, vỗ về, an ủi của một người; kế đó là những tiếng khóc thổn thức nối tiếp theo những tiếng kêu rú.

Thế là, cuộc thi đã chấm dứt đối với người thí sinh ấy. Đối với tôi, phần thứ nhì của cuộc thi mới bắt đầu. Người ta đem đầu đề thi cho tôi trong ngày đó trể mất một giờ. Siêu hình học, Yoga. Tất cả là chín môn phái Yoga. Và tôi được chấm ưu điểm trong tất cả các môn!

Người Tây Phương chỉ biết một cách nông cạn về năm môn phái Yoga: Pháp môn Hatha Yoga để tu luyện xác thân; Kundalimi Yoga để luyện các năng khiếu thần thông, như Thần Nhãn, thần nhỉ, ... Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ sắc bén, Râja Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết và Samadhi Yoga đưa đến trạng thái giác ngộ tối cao, do đó hành giả thấu truyền ý nghĩa và sự thật của những gì chờ đợi y ở bên ngoài cuộc đời.

Chính sự thực hành môn Samadhi Yoga giúp cho hành giả đạt tới chân lý tối thượng vào lúc y từ giã kiếp sống cõi trần; nhờ pháp môn này con người có thể thoát ra vòng luân hồi sinh tử, trừ phi y quyết định trở lại thế gian với một mục đích nhất định, chẳng hạn để giúp đỡ, phụng sự nhân loại.

Trong năm ngày còn lại, tôi rất bận rộn làm những bài thi của tôi. Dầu cho những cuộc thi kéo dài đến mười ngày cùn có lúc chấm dứt, và buổi chiều ngày thứ mười khi vị Lạt Ma phụ trách đến góp bài, y được tiếp đón với những nụ cười sung sướng thoải mái.

Lần đầu tiên, người ta dọn cho chúng tôi ăn rau cùng với món Stampa là món ăn căn bản của chúng tôi trong suốt mười ngày qua. Đêm ấy, tôi ngủ một lúc say sưa ngon lành. Tôi không nghi ngờ về kết quả cuộc thi nhưng chỉ e ngại về cách sắp hạng; vì tôi được lệnh phải có tên trong những người đỗ đầu.

Thi viết xong, chúng tôi được nghỉ ngơi trọn một tuần lễ để lấy lại sức. Kế đó là trọn hai ngày thi về môn quyền thuật võ nghệ. Ngoài ra các cuộc đấu võ, còn có môn "điểm huyệt" là môn bí truyền làm cho người ta trở nên không còn cảm giác và vô tri bất động.

Hai ngày kế đó dành cho phần sát hạch về những điểm yếu kém trong các bài thi viết. Mỗi thí sinh đều bị hạch hỏi, chất vấn trong suốt hai ngày liền. Sau cùng, sau một tuần lễ nghỉ ngơi nữa, kết quả cuộc thi được công bố.

Tôi lấy làm vui mừng vô hạn, một sự vui mừng mà chúng tôi không ngần ngại biểu lộ ra ngoài một cách ầm ĩ, khi tôi được biết tôi đỗ thủ khoa. Kết quả này làm tôi sung sướng vì hai lý do: Trước hết nó chứng minh rằng Minh Gia Đại Đức là vị đạo sư giỏi độc đáo hơn tất cả các vị khác, và kế đó là đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ hài lòng về cả hai thầy trò chúng tôi.

Vài ngày sau tôi đang làm việc trong phòng của sư phụ tôi thì cánh cửa thình lình mở to và một sứ giả mồ hôi nhễ nhại, bụi bậm đầy mình, hộc tốc bước vào vừa le lưỡi thở dốc vừa nói:

- Bạch ngài lạt ma y sĩ Lâm Bá, có thông điệp của đức thậm thâm.

Y lấy trong áo ra và cầm đưa cho tôi một bức thư đọc trong một khăn choàng bằng lụa theo nghi lễ thường thức. Kế đó, y quay gót lui ra.

Tôi đặt cái thơ xuống bàn, nhưng chưa mở ra vội. Thơ ấy gởi cho tôi, nhưng nó có thể nói gì trong đó? Chỉ thị bảo tôi phải học thêm các môn học thuật khác nữa? Hoặc làm việc nhiều hơn nữa chăng?

Sư phụ tôi mỉm cười về sự băn khoăn do dự của tôi; tôi bèn cầm đưa gọn gói cho người, luôn cả thơ và cái khăn choàng. Sư phụ mở bì thư ra có hai mảnh giấy xếp. Người xem và nói:

- Hay lắm, con hãy an tâm. Chúng ta phải đi đến điện Potala ngay bây giờ, không trễ một chút. Ta cũng được mời cùng một thể.

Sư phụ gõ một tiếng còng; một người nô bộc xuất hiện. Sư phụ bèn ra lệnh cho y lập tữ thắng yên hai con ngựa bạch sau khi đã thay áo và chọn hai cái khăn choàng đẹp nhất, chúng tôi đến thông báo cho vị sư trưởng biết rằng đấng Thậm Thâm cho gọi chúng tôi đến điện Potala. Người hỏi:

- Quý vị đi đến điện ngay bây giờ? Lạ thật, mới ngày hôm qua đây, đấng Khôn Lường hãy còn ở vườn Ngọc Uyển. Nhưng nếu quý vị có thơ mời, thì... chắc hẳn đây là một việc rất long trọng.

Những sư sãi giữ ngựa đợi chúng tôi ngoài sân với hai con ngựa trắng. Chúng tôi lên yên và cho ngựa đi xuống dưới chân đồi. Trong chốc lát chúng tôi đã đến điện Potala. Thật ra từ chỗ tu viện của chúng tôi đến điện không xa, lẽ ra tôi không cần phải chịu nhọc để ngồi vững trên yên ngựa với một quãng đường ngắn như thế!

Nhưng có điều tiện lợi duy nhất là chúng tôi có thể cưỡi ngựa đi lên cái cầu thang lớn nó đưa chúng tôi đến tận nơi, gần tới nóc điện Potala. Khi chúng tôi vừa đặt chân xuống đất, những người gia nô đã đợi chúng tôi từ trước, bèn bước đến đỡ lấy cương ngựa dắt đi và chúng tôi được đưa thẳng vào tư thất của đấng Thậm Tthâm. Tôi bước vào một mình, quỳ xuống đặt cái khăn choàng dưới chân Ngài rồi cuối đầu đảnh lễ Ngài như thường lệ. Ngài nói:

- Con hãy an tọa, hỡi Lâm Bá. Ta rất hài lòng về con và Minh Gia Đại Đức, nhờ sư phụ con một phần nào mà con mới được thành công trong kỳ thi vừa qua. Chính ta đã đích thân xem các bài vở của con.

Nghe Ngài nói, tôi cảm thấy một cơn rùng mình chạy dọc theo tủy xương sống. Tinh thần hài hước của tôi có đôi khi đặt sai chổ; đó là một trong những điểm yếu kém của tôi, theo như lời người ta thường nói. Sự hài hước ấy đã biểu lộ trong kỳ thi vừa qua vì trong khi giải đáp các đầu đề, tôi đã có viết nhiều câu hơi có vẻ xúc phạm! Đức Đạt Lai Lạt Ma chắc hẳn đã đọc được tư tưởng của tôi nên Ngài bật cười và nói:

- Phải đó, tinh thần hài hước của con đã biểu lộ không đúng lúc, nhưng... Ngài ngừng lại trong một cơn yên lặng kéo dài, trong khi đó tôi chờ đợi một sự chẳng lành.

- Nhưng tất cả những câu giải đáp của con đều làm cho ta thích thú.

Tôi tiếp chuyện suốt hai giờ đồng hồ với Đức Đạt Lai LaÏt Ma; kế đó ngài cho gọi sư phụ tôi để dặn dò chỉ thị về cách sắp đặt việc học của tôi. Tôi phải chịu một cuộc thử thách về sự Chết Giả để viếng nhiều tu viện khác và thực tập về môn cơ thể học với bọn Âm Công chẻ xác người.

Những người này thuộc về một giai cấp hạ tiện, và công việc của họ có phần đặc biệt đến nổi Đức Đạt Lai Lạt Ma đặc cách cho phép tôi làm việc chung với họ mà vẫn giữ y nguyên chức vị Lạt Ma của tôi.

Ngài ra lệnh cho những Âm Công "Hãy dành cho vị lạt ma Lâm Bá mọi sự giúp đỡ và trợ lực cần thiết; tiết lộ cho vị lạt ma những bí mật trong các cơ thể cho người có thể biết được những nguyên nhân vật chất của những trường hợp chết chóc; và dành cho người bất cứ một tử thi nào mà người cần dùng đến để học hỏi, khám nghiệm."

Trước khi nói đến cách giải quyết việc chôn cất tử thi ở xứ Tây Tạng, thiết tưởng cũng cần nói qua vài chi tiết phụ thuộc về quan niệm của người Tây Tạng đối với sự chết. Thái độ của họ về sự chết hoàn toàn khác hẳn với thái độ của người Tây phương.

Họ quan niệm rằng thể xác con người chỉ là một "lớp vỏ", cái vỏ vật chất bên ngoài bao bọc cái linh hồn bất diệt. Một tử thi còn kém giá trị hơn một miếng vẻ rách. Trong trường hợp chết tự nhiên nghĩa là không phải do tai nạn bất đắc kỳ tử, thì đây là diễn biến của sự chết, theo quan niệm của người Tây Tạng:

Cái thể xác mệt mỏi, già cỏi, đã trở nên bất tiện cho linh hồn đến mức không còn được để giúp cho linh hồn tiến hóa nữa. Đó là lúc cần phải loại bỏ cái lớp vỏ bên ngoài và xuất ra khỏi thể xác vật chất. Cái hình dáng của linh hồn lúc đó giống y như hình thù của thể xác, và những người có Thần Nhãn có thể nhìn thấy được.

Đến lúc chết, thì sợi dây bạc nối liền linh hồn với thể xác trở nên mỏng teo dần và đức đoạn: Linh hồn đã giải thoát và thăng lên cõi khác. Đó tức là sự chết, nhưng cũng là sự sinh ra trong một cuộc đời mới vì sợi dây bạc ấy cũng giống như cái cuống nhau bị cắt đi để cho đứa hài nhi sơ sinh có thể bắt đầu một cuộc sống cá nhân riệng biệt. Cũng chính vào lúc đó, cái Ánh Sáng Sinh Lực thoát ra từ trên đỉnh đầu. Ánh sáng ấy cũng có thể nhìn thấy được bởi những người có nhãn quang siêu đẳng.

Người Tây Tạng tin rằng phải sau một thời gian ba ngày, cái thể xác mới thật sự chết hẳn, nghĩa là mọi hoạt động của cơ thể mới hoàn toàn chấm dứt, và linh hồn mới hoàn toàn rút lui ra khỏi cái lớp vỏ xác thịt vật chất. Lạt Ma Giáo Lamaisme của xứ Tây Tạng cho rằng con người có ba thể căn bản:

Xác thể cấu tạo bằng xương thịt, nhờ đó linh hồn có thể nương theo để học hỏi những bài học đắng cay, đau khổ của cuộc đời; dục thể được cấu tạo bằng những thèm khát, ham muốn, tình cảm, nói chung là những dục vọng của con người; và linh thể, tức là thể tâm linh, hay (linh hồn bất diệt). Người chết phải trải qua ba giai đoạn: Cái xác thể sẽ phải tiêu diệt; dục thể cũng sẽ tan rã và linh thể hay linh hồn đi theo con đường đưa đến cõi tinh thần.

Một hôm vị Lạt Ma phụ trách về nghi lễ cầu siêu cho người chết, cho mời tôi và nói:

- Nay đã đến lúc sư huynh cần học hỏi những phương pháp thực tế về sự giải thoát của linh hồn. Xin mời sư huynh đi theo tôi.

Sau khi đã đi qua những hành lang dài và đi xuống những cầu thang trơn trợt, chúng tôi đến chỗ cư xá của các vị y sĩ. Tại đây, trong một phòng bệnh, một vị sư già đang nằm hấp hối. Một cơn bệnh đã làm cho ông ta yếu đi nhiều, sinh lực của ông ta đã gần cạn và tôi nhận thấy màu sắc trên hào quang của ông ta đã phai mờ. Dẫu sao, ông ta cũng phải gượng sống cho đến khi không còn chút sinh lực nào. Vị lạt ma đi cùng với tôi nhẹ nhàng nắm lấy hai bàn tay ông ta và nói:

- Sư ông đã gần được giải thoát khỏi những dày vò của thể xác. Sư hãy chú ý nghe những lời tôi nói đây, để cho nhẹ bước siêu thăng. Chân sư ông đã lạnh. Cuộc đời sư ông đã tiến gần đến chỗ kết thúc cầu cho linh hồn sư ông được bình an, vì sư ông không có gì phải sợ sệt.

Sinh lực đã rút ra khỏi hai chân sư ông, và đôi mắt sư ông đã mờ. Thân hình sư ông đã lạnh, sự sống đã rút lui dần và sắp tắt hẳn. Sư ông hỡi, cầu cho linh hồn sư ông được bình an, vì sự giải thoát ra khỏi cuộc đời thế tục để bước qua cõi tinh thần vốn không có gì đáng sợ.

Những bóng tối của cõi u minh vô tận đã lởn vởn trước mắt sư ông và hơi thở của sư đã tắt nghẽn trong cuống họng. Nay đã đến lúc mà linh hồn sư sẽ được tự do thụ hưởng những phúc lạc của cõi giới bên kia. Cầu cho sư được bình an. Thời giờ giải thoát của sư đã đến...

Vị Lạt Ma vừa nói luôn miệng không ngớt, vừa lấy bàn tay vuốt nhẹ sau gáy của người hấp hối, từ hai vai lên đến đỉnh đầu, theo một phương pháp đã trắc nghiệm để đưa linh hồn ra khỏi xác một cách êm ái nhẹ nhàng, không đau đớn.

Tất cả những cạm bẫy trên đường đi qua cõi âm được nói cho ông lão biết trước, là làm cách nào để tránh những cạm bẫy đó. Lộ trình đã được vạch sẵn một cách chính xác, do các vị lạt ma có thần thông đã từng bước qua bên kia cửa tử, và nay các vị ấy dùng thần giao cách cảm để tiếp tục nói chuyện từ cõi bên kia với người trần gian chúng ta. Vị Lạt Ma nói tiếp:

- Sư ông không còn nhìn thấy gì nữa, và hơi thở của sư đã ngưng. Toàn thân sư ông đã lạnh và những tiếng động ồn ào của thế gian không còn vọng tới tai sư ông nữa. Sư ông hãy được bình an, vì thần chết nay đã đến rước sư ông. Sư ông hãy noi theo con đường mà chúng tôi đã vạch sẵn, và sư ông sẽ tìm thấy yên tĩnh phúc lạc ở đầu đường bên kia.

Vị lạt ma vẫn tiếp tục vuốt nhẹ cái gáy và hai vai người chết. Vầng hào quang của ông lão trở nên mờ dần và sau cùng thì biến mất dạng. Khi đó, theo một nghi lễ cổ truyền tự muôn đời, vị lạt ma thốt ra một tiếng kêu ngắn và to để cho linh hồn còn đang bám víu lấy thể xác có thể được giải thoát hoàn toàn.

Ở phía trên cái xác thân bất động, nguồn sinh lực tập trung lại thành một khối giống như một đám mây khói vần vũ với muôn nghìn vòng xoáy, trước khi tượng hình giống như cái thể xác mà nó còn dính liền bằng sợi dây bạc trở nên mỏng teo lần lần; sau cùng, cũng như một trẻ sơ sinh bước vào đời khi cái cuống nhau rún bị cắt đứt, ông lão bước vào cuộc sống ở cõi giới bên kia.

Sợi dây bạc vào lúc cuối cùng trở nên mỏng như một sợ tơ đã đứt hẳn và cái thể vô hình từ từ biến mất dạng ví như một đám mây lướt trên không gian hay một đám khói hương tản mát trong đền thờ. Vị lạt ma tiếp tục chỉ thị cho vong hồn ông lão bằng thần giao cách cảm và dìu dắt linh hồn ông trong giai đoạn đầu của cuộc phiêu lưu qua bên kia cửa Tử.

- Sư ông đã chết rồi. Ở đây không còn gì cho ông nữa cả. Những sợi dây trói buộc của xác thịt đã bị cắt đứt. Sư ông hiện đang ở bên cõi Trung Giới. Sư hãy tiếp tục đi theo con đường của sư, còn chúng tôi sẽ ở lại dương trần. Sư hãy noi theo con đường đã vạch. Hãy từ giã cõi đời thế gian mộng ảo này và bước vào cõi giới Tinh Thần. Sư ông đã chết. Hãy tiếp tục tiến bước trên con đường đã vạch.

Những luồng khói hương trầm bốc lên thành những vòng tròn; mùi hương thơm bát ngát đem lại sự yên tĩnh cho bầu không khí rối loạn. Từ đằng xa vọng lại tiếng trống khi mờ khi tỏ. Từ trên nóc tu viện rất cao, một tiếng kèn trầm hùng phát ra một âm thanh vang lừng dội khắp bốn phương.

Do các hành lang vang dội đến tay chúng tôi tất cả những tiếng động ồn ào của cuộc sống hằng ngày, chen lẫn với tiếng giầy ủng của các sư sãi và tiếng kêu của những con yak. Nhưng gian phòng nhỏ của chúng tôi lúc ấy đắm chìm trong im lặng. Một cách yên lặng của nhà mồ. Trong cái bối cảnh im lặng đó, những chỉ thị bằng thần giao cách cảm của vị lạt ma là những tiếng thổn thức phớt qua cái yên tịnh của gian phòng, cũng như ngọn gió nhẹ thoáng qua mằt hồ yên lặng.

Sự chết; lại có thêm một ông lão vừa bước vào cái chu kỳ bất tận của vòng luân hồi sinh tử, có lẽ sau khi đã thu thập những bài học kinh nghiệm của một kiếp người, nhưng còn phải tiếp tục con đường tiến hóa của mình với những công phu cố gắng trường kỳ bất tận cho đến khi đạt tới quả vị Phật.

Sáng ngày thứ tư, một Âm Công đến để lấy xác. Người này thuộc về thành phần của giai cấp Âm Công, họ sống trong một khu biệt lập ở ngã tư đường Lingkhor và Dechhen Dzong, khi y đến nơi, các vị lạt ma ngưng việc dìu dắt linh hồn người chết và y có thể lãnh lấy tử thi. Y bọc tử thi trong một cái bao vải trắng, nhẹ nhàng khiên cái bọc trên hai vai rồi bước ra.

Một con yak đã đợi sẵn ở ngoài. Không chút do dự, y cột cái bọc trên lưng con yak rồi cả hai đều đi đến khu nghĩa địa, tại đây những Âm Công khác đã chực sẵn và chờ y đến. "Nghĩa địa" này chỉ là một khoảnh đất trống ở giữa những núi đồi bao bọc chung quanh, trên đó có sẵn một phiến đá rộng và bằng phẳng khá lớn để có thể đặt nằm trên đó cái xác của một người khổng lồ.

Những cây cọc được cắm trong bốn cái lỗ đào ở bốn gốc. Một phiến đá khác có đục những hang lỗ sâu đến nữa phần bề dày của nó. Khi cái tử thi được đặt trên phiến đá đầu tiên, người ta tháo bỏ cái cọc vải, cột hai bàn chân với hai bàn tay vào bốn cái cọc, và viên Âm Công trưởng mới mổ cái tử thi bằng một con dao lớn.

Y cắt những đường dài trên tử thi để có thể lột da từng miếng cho dễ. Kế đó, y chặt đứt tay chân và cắt thành từng mảnh. Sau cùng, cái đầu được chặt lìa khỏi xác và chẻ ra làm đôi.

Khi vừa nhìn thấy người Âm Công khiên cái tử thi đến nơi, những con kên kên bèn hạ cánh bay thấp xuống và đậu tren những tảng đá lớn, tại đó chúng chờ đợi một cách kiên nhẫn như những khán giả của một sân khấu lộ thiên. Chúng cũng có tôn ti trật tự đàng hoàng và áp dụng một kỹ luật rất nghiêm ngặt giữa bọn chúng với nhau. Nếu một con nào "phạm thượng" muốn bước đến gần tử thi trước những con "chúa đảng" thì lập tức liền xảy ra một cuộc xô xát dữ dội.

Trong khi các con kên kên kiếm chỗ đậu, thì người Âm Công trưởng đã phanh cái xác chết. Y thọc hai bàn tay vào trong lồng ngực tử thi, móc lấy quả tim và đưa ra cho con kên kên chúa, con này liền nhảy xuống đất một cách nặng nề và đủng đỉnh tiến đến gần để nhận lãnh lấy phần ưu tiên của nó. Kế đó con thứ nhì xuất hiện để nhận lấy lá gan rồi lui vào một góc tản đá để ăn riêng một mình.

Hai trái thận và ruột cũng được chia ra cho những con kên kên vào bậc "đàn anh". Những miếng thịt được cắt ra thành từng mảnh và phân phát cho cả đàn. Thỉnh thoảng, có một con đã ăn xong phần thức ăn của mình, lại đủng đỉnh bước tới để kiếm thêm một miếng óc hoặc một con mắt, trong khi một con khác vừa đáp xuống vừa vỗ cánh để kiếm thêm một miếng thịt nữa.

Trong khoảnh khắc, tất cả các bộ phận và da thịt đều trôi vào bụng kên kên, chỉ còn lại có những xương xẩu rãi rác trên phiến đá. Người Âm Công, sau khi đã chặt những khúc xương thành tững mảnh nhỏ liền đem nhét các mảnh vụn ấy vào những lỗ trống trên tấm phiến đá thứ nhì, và dùng búa lớn để nghiề;n nát thành một thứ bột nhuyễn mà loài kên kên rất thích ăn!

Những Âm Công này đều là những tay chuyên môn thiện nghệ về khoa chặt xác người. Họ rất hãnh diện về nghề nghiệp của họ và chính là để thỏa mãn cá tính mà họ xem xét tất cả các bộ phận trong tử thi để xác định nguyên nhân của sự chết. Nhờ có nhiều năm kinh nghiệm nên họ có thể khám nghiệm rất mau chóng.

Lẽ dĩ nhiên không có gì bắt buộc họ phải chú trọng đến những vấn đề này, nhưng truyền thống của nghề nghiệp muốn họ tìm ra cái nguyên nhân đã làm cho "linh hồn một người phải rời khỏi thể xác". Nếu một người chết vì thuốc độc hoặc vì lý do bị ám sát hay do tai nạn, thì sự kiện ấy được phát hiện mau chóng.

Sự khôn ngoan khéo léo của họ đã giúp ích cho tôi rất nhiều trong khi tôi học hỏi với họ. Không bao lâu, tôi đã trở nên rất thành thạo về nghệ thuật mổ xẻ tử thi. Người Âm Công trưởng đứng gần bên tôi và chỉ dẫn cho tôi những điểm lý thú:

- Thưa Đại Đức Lạt Ma, người này chết vì bệnh đứng tim. Đại Đức hãy nhìn xem, chúng ta sẽ cắt cái mạch máu này... đây rồi... Đại Đức có thấy chăng cục huyết đặt đã chặn sự lưu thông trong huyết quản?

Hoặc trong một trường hợp khác:

- Có một cái gì bất thường ở ngoài người đàn bà này, thưa Đại Đức Lạt Ma. Chắc hẳn là một hạch tuyến đã hoạt động sai lạt. Chúng ta hãy thử lấy ra xem thì biết.

Kế đó, sau lột lúc cắt ra một khối thịt khá lớn, y nói:

- Đây là cái hạch tuyến, ta hãy cắt ra xem. À, phần trung tâm của nó rất cứng.

Và sự việc cứ tiếp diễn như thế. Những Âm Công này lấy làm hãnh diện mà chỉ cho tôi xem tất cả mọi sự gì mà họ có thể, vì họ biết rằng tôi học hỏi với họ theo lệnh dạy của đấng Thậm Thâm. Nếu trong khi tôi vắng mặt, có một tử thi đặc biệt lý thú vừa được đem đến, thì họ để dành riêng cho tôi.

Như vậy tôi có thể khám nghiệm hàng trăm xác chết, điều này đã giúp cho tôi trở nên một nhà giải phẫu ưu tú về sau này! Sự huấn luyện này còn vô cùng hữu hiệu hơn là sự học của những sinh viên y khoa, họ phải chia các tử thi với nhau trong những phòng mổ xẻ của các bệnh viện.

Tôi tin chắc rằng về môn cơ thể học, tôi đã học hỏi với các Âm Công nhiều hơn là trong trường y khoa có trang bị đầy đủ y cụ tối tân mà tôi đã theo học trong những năm về sau.

Ở Tây Tạng, người ta không thể chôn xác người chết. Đất núi cằn cõi và lớp đất phủ ở trên quá mỏng làm cho việc đào huyệt rất khó khăn. Việc hỏa táng không thể thực hiện được vì những lý do kinh tế: Cây gỗ rất hiếm và muốn thiêu một xác chết, người ta phải nhập cảng củi từ bên Ấn Độ rồi chuyên chở sang Tây Tạng trên lưng những con yak xuyên qua các đường núi gập ghềnh xa xôi.

Vì đó, giá cả sẽ trở nên đắt kinh khủng. Người ta cũng không thể vứt xác chết xuống sông, vì xác chết sẽ làm nhiễm độc nước sông cần thiết cho người sống. Chỉ còn lại phương pháp đã diễn tả ở trên, tức là cống hiến xác chết cho loài diều hâu và kên kên ăn thịt.

Việc "điểu táng" này chỉ khác biệt sự chôn cất bên tây phương trên hai điểm: Trước hết người tây phương chôn xác người chết của họ bằng cách để cho loài sâu bọ đóng cái vai trò của loài kên kên bên xứ chúng tôi.

Điểm khác biệt thứ hai là khi người Tây phương chôn xác, họ cũng chôn luôn cả mọi khả năng truy ra nguêy nhân của sự chết, thành thử không ai có thể biết chắc rằng cái nguyên nhân ghi trên tờ giấy khai tử có đúng sự thật hay không? Trái lại, những Âm Công bên Tây Tạng luôn luôn xác định cái nguyên nhân thật sự của sự chết, và điều này không bao giờ lọt ra khỏi tầm mắt của họ!

Những cách chôn cất này đều là thủ tục thông thường của tất cả mọi người dân tây tạng trừ ra trường hợp của những vị Lạt Ma trưởng, là những đấng Hóa Thân. Thi hài các vị này được ướp chất hương liệu và đặt trong những cái hòm bằng thủy tinh để trưng bày trong các đền thờ hoặc ướp hương liệu xong rồi đem phết vàng.

Công tác sau này rất lý thú và tôi đã tham dự nhiều lần như vậy. Vài người Mỹ đã đọc những bản thảo của tôi về vấn đề này không tin rằng đều ấy có thể thực hiện được. Họ nói rằng:

- Chính người Mỹ chúng tôi cũng không làm đuợc việc ấy, mặc dù chúng tôi có những kỹ thuật tân tiến hơn.

Sự thật là người Tây Tạng chúng tôi không hề biết kỹ thuật sản xuất đại quy mô, và chúng tôi chỉ là những người thợ khéo. Chúng tôi không có khả năng chế tạo những đồng hồ tay với giá một đô la một chiếc. Nhưng chúng tôi có thể sử dụng chất vàng để ướp xác chết.

Một buổi chiều vị Sư Trưởng gọi tôi lên và nói:

- Một vị hóa thân sắp sửa bỏ xác. Người ở tại tu viện Sera. Ta muốn con đến xem cách họ ướt xác như thế nào.

Như vậy, một lần nữa tôi lại phải chịu đựng một cuộc hành trình khó nhọc trên lưng ngựa để đến tận Sera. Khi tôi đến tu viện, người ta đưa tôi đến tận phòng của vị sư trưởng đã già. Những màu sắc trên hào quang của ông ta đã sắp tắt; một giờ sau ông ta từ giả cõi thế giới vật chất để bước qua cõi tinh thần.

Là một vị sư trưởng và là một nhà khoa học, ông ta không cần có sự giúp đỡ để vượt qua cõi trung giới, cũng không cần chờ đợi ba ngày như thường lệ. Thi hài ông ta để ngồi theo tư thế kiết dà trong một đêm, trong khi các vị Đạt Ma đảm nhiệm việc canh chừng.

Qua ngày hôm sau, vào lúc tảng sáng, một cuộc diễn hành quan trọng đi qua thánh thất của tu viện, đến tận thánh điện và qua những con đường bí mật xuyên qua một cánh cửa ít khi dùng đến. Trước mặt tôi, hai vị Lạt Ma khiên cái tử thi đặt trên một cái cáng.

Tử thi vẫn để ngồi ở tư thế liên hoa. Sau lưng tôi, các sư sãi hát thánh ca với một giọng trầm hùng; xen lẫn với âm thanh trong vắt của một cái chuông bạt. Chúng tôi đeo những mảnh vải yểm tâm vàng bên ngoài những áo tràng màu đỏ. Thân mình chúng tôi phát ra những cái bóng đen lung lay và nhảy múa trên tường, những bóng đen này được phóng đại quá cỡ và lệch méo do bởi những ánh đèn bơ và ánh đuốc lập lòe.

Chuyến đi xuống đường hầm kéo dài rất lâu. Sau cùng, cách chừng hai chục thước bề sâu dưới mặt đất, chúng tôi đến trước một cánh cửa bằng đá đã khóa chặt. Sau khi đã mở khoá, chúng tôi bước vào một văn phòng lạnh như băng. Các sư sãi đặt cái tử thi xuống đất một cách vô cùng cẩn thận rồi rút lui, chỉ còn lại một mình tôi với ba vị Lạt Ma. Hàng trăm ngọn đèn bơ được thấp lên tỏ ra một ánh sáng vàng đục xấu xí.

Tử thi được cởi quần áo ra và tắm rửa sạch sẽ. Do thất khiếu tự nhiên trong thân thể người chết, người ta móc ra những bộ phận, cùng ngũ tạng lục phủ rồi đem đựng trong những cái vạt rồi đóng chặt lại. Kế đó, phía bên trong thân mình được rửa ráy cẩn thận để cho khô ráo rồi đổ vào một thứ nhựa đặc biệt. Thứ nhựa này sẽ đông đặc lại, nhờ đó tử thi mới giữ được cái vẽ tự nhiên như hồi còn sống.

Khi chất nhựa vày trở nên khô và cứng lại, thì người ta mới nhồi phía trong với đồ tơ lụa và luôn luôn canh chừng để giữ cho khỏi mất cái hình dáng tự nhiên. Để cho chất tơ nhồi cứng, và phía trong cho đặc lại, người ta lại đổ thêm chất nhựa. Kế đó, mặt ngoài xác chết được phết một lớp nhựa cũng giống y như thế và để cho khô.

Xong rồi, trước khi dán tử thi thành những băng lụa rất tế nhuyễn, người ta phết lên mặt ngoài một lớp nước đặc biệt để sau này có thể gở các băng lụa ra một cách dễ dàng. Khi xét thấy tử thi đã nhồi đủ cứng người ta đổ thêm chất nhựa nhưng lần này là một loại khác, và tử thi đã sẵn sàng bước qua giai đoạn thứ hai của công tác ướp xác.

Trong một ngày và một đêm, tử thi được để yên tại chổ để cho nó được hoàn toàn khô ráo. Khi người ta trở lại gian phòng, thì nó đã trở nên cứng rắn. Khi đó tử thi mới được chở đi một cách trịnh trọng xuống phòng ướp xác.

Phòng ướp xác này rất nhỏ ở phía dưới phòng thứ nhất, thật ra là một cái hỏa lò được xây cất theo một cách riêng để cho những ngọn lửa và nhiệt độ có thể luân chuyển chung quanh các vách tường và như vậy để giữ cho gian phòng được luôn luôn ở dưới một nhiệt độ cao.

Mặt đất của phòng ướp xác được đắp lên một thứ bột đặt biệt làm thành một lớp bột rất dày. Tử thi được đặt ngồi ở giữa. Ở phía dưới, các sư sãi chuẩn bị việc đốt lửa. Người ta nhồi vào lò một tạp chất gồm có muối (một thứ muối đặc biệt được chế tạo tại một tỉnh ở Tây Tạng), các loại dược thảo và khoáng chất.

Khi gian phòng đã được nhồi đầy thứ tạp chất nói trên từ mặt đất lên đến trần, chúng tôi bước ra ngoài hành lang, cánh cửa được đóng chặt và nêm phong bằng con dấu triện của tu viện. Các sư sãi được lệnh đốt lửa. Trong giây lát, người ta nghe tiếng củi lửa cháy tí tách và khi ngọn lửa đã lên cao có tiếng bơ sôi sục.

Quả thật, các nồi "súp de" được đun bằng phân con yak và bơ phế thải. Suốt một tuần lễ, lửa cháy dữ dội trong lò và những luồng hơi nóng tràn vào trong những khe vách tường trống ruột của phòng ướp xác. Cuối ngày thứ bảy, người ta ngưng đốt thêm lửa và ngọn lửa tàn lụi lần lần. Nhiệt độ xuống thấp làm cho bức tường đá rên rỉ.

Khi hành lang đã nguội lại để có thể đi qua, người ta còn phải đợi thêm ba ngày nữa trước khi nhiệt độ trong phòng trở lại bình thường. Mười một ngày sau khi niêm phong, gian phòng lại được mở khóa và gian phòng lại được mở. Các sư sãi thay phiên nhau để cạo sạch chất bột đã đặt cứng. Họ cạo bằng tay chứ không dùng đồ khí cụ để không làm sứt mẻ các xác ướp.

Trong hai ngày liền, họ đã gở xong những tảng muối và tạp chất đã giòn tan. Sau cùng gian phòng đã trống trơn, chỉ còn lại cái tử thi ngồi lại chính giữa theo thế liên hoa. Người ta cẩn thận nhắc cái xác lên và chở lên gian phòng thứ nhất, tại đây nó được quan sát dễ dàng hơn dưới ánh sáng của các ngọn đèn bơ.

Những băng lụa được tháo gở ra từng băng một, cho đến khi cái xác hoàn toàn trơ trọi. Việc ướp xác đã thành công hoàn toàn. Trừ ra cái màu sắc trở nên sậm hơn nhiều, tử thi có cái hình dáng tự nhiên như người sống, dường như nó có thể sống dậy bất cứ lúc nào.

Một lần nữa nó được phết thêm một lớp nhựa và các sư sãi kim hoàng chuyên môn mới bắt đầu hàng động. Thật là một kỹ thuật xảo điệu vô cùng! Và có ai khéo léo như các sư sãi kim hoàng này, họ có thể đắp một lớp vàng lên trên xác chết! Họ làm việc từ từ, phết lên tử thi một lớp vàng tinh lọc nhất và mịn màng tinh tế nhất.

Bất cứ ở đâu, vàng này cũng đáng giá một gia tài. Đối với chúng tôi, nó chỉ có một tầm mức quan trọng của một loại kim khí thiêng liêng, một tinh khí mà tính chất bất hư hoại tượng trưng cho cái định mệnh tâm linh của con người.

Những sư sãi kim hoàn làm việc với một kỹ thuật rất tinh vi, và săn sóc từng chi tiết nhỏ nhặt. Khi hoàn thành công tác, họ để lại cho chúng tôi một hình tượng mạ vàng coi tự nhiên như người sống, không thiếu một nét hay một vết nhăn; điều này lại chứng minh cái xảo thuật tân kỳ của họ.

Thân hình nặng trĩu và với cái số lượng vàng đắp lên được chở đến phòng các đấng hóa thân và đặt lên ngồi trên một ngai vàng cũng như những xác ướp được đặt tại đây từ trước. Trong số đó, có vài xác ướp đã có từ lúc bắt đầu lịch sử thần thoại. Những xác ướp này được ngồi sắp hàng ví như những vị thẩm phán nghiêm minh, quan sát xuyên qua những kẻ mắt hé mở, những tội lỗi sa đọa của thời hiện kim.

Chúng tôi chỉ nói chuyện thì thầm, và đi nhón gót chân, dường như không muốn quấy rầy những người chết đang ngồi đó. Tôi cảm thấy một sức hấp dẫn mãnh liệt của một trong các pho tượng vàng, nó gây cho tôi một sự ám ảnh lạnh lùng.

Tôi có cảm giác như pho tượng ấy vừa nhìn tôi vừa mỉm cười dường như nó biết rõ tất cả. Bỗng nhiên có người sờ nhẹ vào vai tôi làm tôi giật mình gần muốn té xỉu vì sợ hãi. Tôi quay đầu lại thì ra đó là... Sư phụ tôi. Người nói:

- Đây là xác ướp của con hồi kiếp trước. Chúng ta vẫn biết rằng con sẽ tự nhìn cái xác của mình!

Sư phụ dắt tôi đến một vị Hóa Thân ngồi bên cạnh cái xác ướp của tôi và nói:

- Còn đây chính là... ta.

Chúng tôi đều xúc động y như nhau, và từ từ lùi bước ra khỏi phòng, cánh cửa lại được khóa chặt và niêm phong cẩn thận.

Sau đó, tôi thường có dịp trở lại phòng Hóa Thân để nghiên cứu những xác ướp mạ vàng. Đôi khi tôi đến ngồi thuyền định suy tư một mình bên cạnh các vị Hóa Thân. Mỗi vị đều được có một tiểu sử được ghi chép cẩn thận, và tôi đã được dịp xem qua tiểu sử một cách vô cùng thích thú.

Chính tại văn phòng này mà tôi được xem tiểu sử tiền kiếp của sư phụ tôi, Lạt Ma Minh Gia Đại Đức, do đó tôi biết những công trình, những đức hạnh và tài năng của người trong kiếp trước, những danh vọng và chức vị mà người đã có, và người đã qua dời trong trường hợp nào. Cũng ở tại đây, tôi đã đọc được tiểu sử tiền kiếp của tôi, mà tôi nghiên cứu một cách say mê thích thú.

Có tất cả chín mươi tám xác ướp mạ vàng nằm trong gian phòng này, một gian phòng bí mật đào sâu trong núi đá tận dưới lòng đất. Tôi đứng trước một pho lịch sử của xứ Tây Tạng. Ít nhất tôi tin như vậy vì hồi đó tôi chưa biết rằng những thời kỳ sơ khai nhất của lịch sử Tây Tạng và sau này mới được tiết lộ cho tôi biết.

#50 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 07/06/2011 - 23:41

14. Một Cuộc Điểm Đạo Huyền Môn


Sau khi tôi đã dự kiến độ nửa chục cuộc xác ướp trong các tu viện khác nhau, ngày nọ vị sử trưởng tu viện Chakpori cho mời tôi đến và nói:

- Này đạo hữu Lâm Bá, theo lịch dạy của đấng Thậm Thâm, đạo hữu sẽ được điểm đạo vào hàng Sư Trưởng. Thể theo ý muốn của đạo hữu, đạo hữu sẽ có thể tiếp tục mang danh hiệu Lạt Ma như Minh Gia Đại Đức vậy. Tôi chỉ biết truyền đạt cho đạo hữu bức thông điệp của đấng Khôn Lường.

Như vậy, với tư cách một vị Hóa Thân được mọi người nhìn nhận, tôi đã đảm nhiệm trở lại cái danh vị cũ của tôi hồi tiền kiếp, cách đây độ chừng sáu thế kỷ về trước. Bánh xe luân hồi đã quay giáp trọn một vòng.

Ít lâu sau đó, một vị Lạt Ma cao niên đến thăm tôi tại phòng riêng và cho tôi biết rằng tôi phải trải qua một cuộc lễ "chết giả", vị Lạt Ma ấy nói:

- Con hỡi, khi mà con chưa bước qua bên kia cửa tử và trở về dương thế, thì con sẽ không bao giờ biết rằng vốn không có sự chết. Sự học về các cõi giới vô hình đã đưa con đi xa. Cuộc lễ này sẽ còn đưa con đi xa hơn nữa; con sẽ vượt qua cõi sống và cõi chết và con sẽ đi ngược dòng thời gian để truy nguyên đến tận cái dĩ vãng vô cùng màu nhiệm của xứ sở chúng ta.

Sự chuẩn bị cho cuộc lễ này thật lâu dài và gian lao. Trong ba tháng trường, tôi phải tuân theo một phép ăn uống rất khắc khổ. Bất hạnh thay, tôi lại còn phải dùng thêm những món cỏ thuốc mùi rất nồng nặc ngoài những bữa ăn thường ngày.

Người ta khuyên tôi chỉ nên nghĩ đến những gì "trong sạch và thánh thiện" mà thôi (làm như là người ta có thể nghĩ khác hơn trong một tu viện!) thậm chí các món tsampa và trà cũng bị hạn chế. Nói tóm lại, tôi phải trải qua một nếp sống khắc khổ tối đa, chịu một kỷ luật nghiêm khắc và trải qua những giờ công phu thiền định lâu dài.

Sau cùng, ba tháng đã trôi qua, các nhà chiêm tinh tuyên bố rằng thời gian đã điểm, và những ảnh hưởng tinh tú đều thuận lợi. Trong hai mươi bốn giờ đồng hồ, tôi nhịn đói cho đến khi tôi nhận thấy bụng tôi thật trống rỗng.

Sau đó, người ta đưa tôi xuống những nấc thang bí mật ở dưới hầm điện Potala. Chúng tôi đi xuống rất lâu; những người đồng hành với tôi đều cầm đuốc soi đường, còn tôi thì không. Chúng tôi đi qua những dãy hành lang mà tôi đã biết trong cuộc thám hiểm trước đây. Sau cùng, chúng tôi đến chỗ đầu cuối một đường hầm có tảng đá khép chặt.

Một cánh cửa bí mật bằng đá lớn xoay vòng trước mặt tôi và đưa chúng tôi đến một đường hầm khác rất hẹp và tối tăm, nơi đó xông lên một mùi mốc meo lẫn lộn với mùi gia vị và mùi hương trầm. Đi xa hơn độ vài thước, chúng tôi bị ngăn chặn bởi một cánh cửa thếp vàng rất dày và chắc; cánh cửa này mở ra từ từ với những tiếng khua rít vang vội ra tận đằng xa.

Những ngọn đuốc được dập tắt và thay thế bằng những ngọn đèn bơ. Chúng tôi bước vào một ngôi đền ở dưới hầm, được đục khoét trong núi đá từ nhiều thế kỷ trước bởi những cuộc địa chấn do hỏa diệm sơn gây ra. Ngày xưa những dòng phún thạch từ trong lòng đất đã trải qua những dãy hành lang này trước khi đến miệng núi lửa.

Tôi thầm nghĩ: "Bây giờ thì là những người yếu hèn tội lỗi đi ngang qua con đường này, và họ tự nghĩ rằng mình là thần thánh. Nhưng trong giờ phút này, tôi cần phải tập trung tư tưởng đến cuộc lễ, nhiều người trong chúng tôi đã đến ngôi đền Minh Triết Huyền Bí".

Ba vị Sư Trưởng dẫn đường cho tôi; kỳ lạ những người đi theo hộ tống đã mất dạng trong bóng tối, giống như ảo ảnh của một giấc mơ. Chỉ còn một mình tôi ở lại với ba vị hiền giả lão thành, thân hình già nua với năm tàn tháng lụn và bình tĩnh đợi ngày khuất núi để được gọi lên cõi trời, ba ông lão này có lẽ là ba vị sư cao cả nhất trong thế giới, sẽ đặt tôi dưới một cơn thử thách cuối cùng trong cuộc lễ điểm đạo.

Mỗi vị đều cầm nơi tay mặt một ngọn đèn bơ, và tay trái cầm một cây nhang to lớn cháy nghi ngút. Tiết trời rất lạnh lẽo, một cơn lạnh lẽo rất lạ lùng, không hề có trên mặt đất. Cơn im lặng rất thâm trầm, và những tiếng động rất hiếm đến từ bên ngoài càng làm cho sự im lặng ấy trở nên lạ lùng hơn nữa. Những đôi giày ủng lót bằng nỉ của chúng tôi không thấy một tiếng động nào; chúng tôi lướt đi qua những cái bóng.

Tôi nghe tiếng suỵt soạt êm dịu từ những vạt áo tràng bằng nhung màu vàng nghệ của các Sư Trưởng. Tôi lấy làm vô cùng kinh ngạc mà cảm thấy trên da thịt một luồng điện chạy lăn tăn như kiến bò, và có hiện tượng phóng điện toát ra từ cái thân hình tôi. Hai bàn tay tôi chiếu sáng dường như phóng hào quang.

Tôi nhận thấy các vị Sư Trưởng cũng có hai bàn tay chiếu sáng giống y như tôi. Khí trời khô ráo và sự cọ sát bởi những áo tràng của chúng tôi đã gây nên một sự tích tụ của tĩnh điện. Một trong các vị Sư Trưởng bèn đưa cho tôi một chiếc đũa vàng và nói nhỏ thì thầm:

- Con hãy cầm chiếc đũa vàng này nơi bàn tay trái và vừa chống lên vách tường vừa đi. Như vậy, những cảm giác khó chịu sẽ biến mất.

Tôi làm y theo lời. Sau một phát phóng điện mãnh liệt nó làm cho tôi giật mình nhảy nhỏm thì mọi việc đều êm đẹp.

Những ngọn đèn bơ lần lượt được thắp sáng bởi những bàn tay vô hình. Khi tôi nhìn rõ hơn dưới ngọn đèn bơ loe lét, tôi thấy những pho tượng khổng lồ mạ vàng, trong đó có vài pho tượng chôn ngập đến nửa thân mình dưới một đống ngọc quý và châu báu.

Một tượng Phật xuất hiện từ trong bóng tối; tượng ấy to lớn đến nỗi ánh sáng không vượt lên khỏi dây lưng. Những hình tượng khác cũng ẩn hiện chập chờn trong bóng tối; đó là các vị thần, biểu tượng của những dục vọng và thử thách mà con người phải vượt qua trước khi thực hiện Chân Ngã.

Chúng tôi đến gần một vách tường, trên đó có vẽ hình một Bánh Xe Luân Hồi Sinh Tử đường kính dài năm thước; dưới ánh sáng lập lòe nó dường như xoay tít đến nỗi làm tôi cảm thấy chóng mặt. Chúng tôi vẫn tiến bước; tôi có cảm giác là sắp bị ngăn chặn bởi một vách đá.

Nhưng vị Sư Trưởng đi trước tôi đã biến mất dạng sau khi đi lọt qua một cánh cửa bí mật ẩn dấu rất khéo léo không ai có thể biết được. Cánh cửa này đưa vào một đường hầm đi xuống dốc, đường này rất hẹp và quanh co, tại đây ánh sáng mập mờ của những ngọn đèn bơ làm cho bóng tối càng thêm âm u huyền bí.

Chúng tôi đi với những bước đi ngập ngừng do dự, thỉnh thoảng lại xẩy chân và trợt ngã. Bầu không khí thật nặng nề khó thở dường như toàn khối Địa Cầu đè nặng lên vai chúng tôi. Tôi có cảm giác như đi lọt vào tận trong ruột của trái đất.

Cuốicùng, sau một khúc quanh, một động đá mở rộng trước mặt chúng tôi, một động đá chiếu sáng ngời những ánh vàng; có những mạch vàng xen kẽ với những lớp đá tảng trên vách. Trên vòm đá cao vút trên đỉnh đầu chúng tôi, những mạch vàng này phản ảnh ánh sáng lập lòe của những ngọn đèn bơ, chiếu lóng lánh như ánh sao chiếu trên nền trời trong một đêm không trăng.

Ở chính giữa động đá, có một ngôi nhà màu đen và sáng ngời, dường như làm bằng gỗ mun. Trên tường có những hình biểu tượng và sơ đồ lạ lùng giống như những hình vẽ mà tôi đã thấy trên những vách đá dưới hầm khi tôi thám hiểm cái hồ nước dưới lòng đất trước đây. Chúng tôi bước vào nhà do một cửa lớn và cao.

Bên trong tôi thấy ba cỗ quan tài lớn bằng đá đen có chạm hình và khắc những dòng chữ lạ kỳ. Ba cỗ quan tài đều không có đậy nắp. Nhìn vào bên trong tôi bèn muốn đứt hơi thở và thình lình tôi cảm thấy rất yếu. Vị Tiên Chỉ, cao niên nhất trong ba vị Sư Trưởng mới nói với tôi:

- Con hỡi, con hãy nhìn xem. Các vị này đã từng sống như những đấng Thần Minh ở xứ ta và một thời kỳ mà xứ này còn là một đồng bằng, chưa có núi non gì cả.

Các vị ấy đã từng dong dũi trên đất liền, trong khi những vùng biển cả còn đập sóng ở ngoài khơi của xứ Tây Tạng, và khi những bầu tinh tú khác còn chiếu sáng trên nền trời của chúng ta. Con hãy nhìn xem cho kỹ, vì chỉ có những bậc đạo đồ (inities: Những vị chân tu đã được điểm đạo trong giới huyền môn) mới được thấy mà thôi.

Tôi làm y theo lời: Tôi vừa thích thú vừa kinh ngạc. Ba thể xác to lớn, toàn thân đều mạ vàng nằm dài trong ba cỗ quan tài trước mắt tôi. Hai người nam và một người nữ. Mỗi nét trên thân hình của họ đều được giữ nguyên vẹn dưới lớp vàng bên ngoài.

Nhưng họ là những người khổng lồ! Người nữ đo trên ba thước tây và người lớn nhất trong hai người nam đo không dưới năm thước. Đầu của họ rất lớn, hơi nhọn trên đỉnh đầu, quai hàm hẹp, miệng hơi nhỏ và cặp môi mỏng. Sống mũi dài và thâm, đôi mắt ngay thẳng và thụt vô sâu.

Gương mặt họ tươi như hồi còn sống, họ có vẻ như nằm ngủ. Chúng tôi đi nhón gót vì sợ làm cho họ thức giấc. Tôi nhìn xem cái nắp của một cỗ quan tài: Trên đó có khắc một bản đồ thiên tượng với những tinh tú rất lạ lùng. Nhờ có học về khoa chiêm tinh, tôi đã từng quen thuộc với vị trí các bầu tinh tú, nhưng bản đồ thiên tượng này là hoàn toàn khác hẳn.

Vị Tiên Chỉ quay lại phía chúng tôi và nói:

- Con sẽ trở nên một bậc đạo đồ. Con sẽ nhìn thấy dĩ vãng và con cũng sẽ biết cả tương lai. Cuộc thử thách sẽ rất cam go gian khổ. Nhiều người không còn sống sót sau cơn thử thách và nhiều người đã thất bại nhưng không ai rời khỏi chốn này một cách an toàn, trừ phi đã vượt qua cơn thử thách. Con đã chuẩn bị sẵn sàng chưa và con có bằng lòng chịu đặt dưới cuộc thử thách ấy không?

Tôi đáp rằng tôi sẵn sàng và ba vị Sư Trưởng liền đưa tôi đến một phiến đá đặt ở giữa hai cỗ quan tài. Theo chỉ thị của hai vị Sư Trưởng, tôi ngồi lên phiến đá trong tư thế liên hoa hai chân xếp bằng, lòng bàn tay lật ngửa.

Một cây nhang to lớn cháy nghi ngút được cắm lên mỗi quan tài ở hai bên và trên phiến đá chỗ tôi ngồi. Các vị Sư Trưởng lần lượt rút lui và biến mất dạng, mỗi vị cầm một ngọn đèn bơ soi đường. Họ đóng cánh cửa lớn: Chỉ còn lại một mình tôi với những cái xác ướp của những vị tiền bối của một thế hệ đã qua.

Thời gian trôi đi, tôi định tâm ngồi thiền. Ngọn đèn của tôi đem theo đã cạn bơ và vụt tắt. Trong một lúc, tôi nhìn thấy cái bấc đèn còn ngúm đóm lửa tàn, và ngửi thấy một mùi bốc cháy, rồi kế đó mọi sự đều biến mất và không còn gì nữa.

Tôi nằm dài trên phiến đá và bắt đầu hô hấp theo một phép khí công đặc biệt mà tôi đã thụ huấn trong nhiều năm. Bầu không khí im lặng và bóng tối dầy đặc chung quanh đè nặng lên tôi. Quả thật đó là cái im lặng của nhà mồ.

Thình lình thân hình tôi cứng đơ và trở nên bất động như một xác chết. Tay chân tôi đã tê liệt và lạnh dần. Tôi có cảm giác như đang bước vào cõi chết, chết trong cái ngôi mộ cổ này, ở một bề sâu trên một trăm thước dưới lòng đất. Một cơn rung chuyển mạnh diễn ra bên trong thân thể tôi làm cho toàn thân tôi rũ liệt.

Một ánh sáng màu xanh lợt từ từ xuất hiện trong ngôi mộ như một ánh chớp mới mọc trên một truông núi. Tôi cảm thấy tôi hơi cử động, thân tôi nhẹ bổng bay lên rồi rơi xuống; trong một lúc tôi tưởng rằng tôi đang ngồi trên một con diều gỗ lượn trên không gian.

Sự thật hiện ra trong trí tôi: Tôi đang bay phất phơ trên cái thể xác bằng xương thịt của tôi. Tuy không có gió, nhưng tôi bị lôi cuốn bởi một đám khói. Ở phía trên đầu, tôi thấy một vừng ánh sáng giống như một cái hoa màu vàng. Từ chính giữa thân mình tôi, tỏa ra một sợi dây màu vàng bạc, chiếu lóng lánh và tràn đầy nhựa sống.

Tôi nhìn xem cái thể xác vô tri bất động của tôi, nó chỉ là một cái xác chết như mọi tử thi khác... lần lần, tôi phân biệt những điển dị đồng nhỏ giữa cái xác của tôi với cái xác của những người khổng lồ nằm gần bên đó là một điều rất lý thú.

Tôi nghĩ đến những sự tự hào lố bịch của nhân loại đương thời: Làm sau những người chủ nghĩa duy vật có thể giải thích sự hiện diện của những cái xác ướp khổng lồ này? Tôi đang còn suy nghĩ... thì thình lình tôi trở nên ý thức được một cái gì nó làm đảo lộn dòng tư tuởng của tôi.

Dường như lúc ấy tôi không còn cô độc một mình. Những mẫu chuyện dụng vặt vọng đến tai tôi, những tư tưởng đứt đoạn không thốt ra lời. Những hình ảnh tân loạn xuất hiện chập chờn xuyên qua tầm nhãn quan siêu linh của tôi. Tôi có cảm giác rằng từ xa xa ngân lên một tiếng chuông lớn với một giọng trầm.

Tiếng chuông ấy đến gần rất mau cho đến khi nó dường như nổ ra trong đầu tôi: Những giọt ánh sáng muôn màu nhỏ li ti và những tia chớp với những màu sắc lạ lùng chưa từng thấy hiện ra trước mắt tôi. Thể vía của tôi phất phơ và đưa đẩy như một chiếc lá rụng bị cuốn đi trong giông bão. Tâm thức tôi bị dày vò, cấu xé một cách đau đớn phủ phàng bởi một con trốt xoay tít với muôn nghìn đám lửa.

Tôi cảm thấy bị bỏ rơi, cô đơn độc chiếc, như một mảnh bèo trôi dạt giữa một vũ trụ bấp bênh vô định. Một đám sương mù đen kịt bao phủ lấy tôi và đem đến cho tôi một niềm yên tĩnh lạ lùng, nó không phải là của trần gian.

Những bóng tối dày đặt bao phủ lấy tôi đã dần dần tiêu tan. Tôi nghe tiếng gầm thét của biển cả và tiếng rít lên của những viên đá sạn bị sóng nhồi trên bãi cát. Tôi thở một bầu không khí đầy hơi muối và tôi ngửi thấy mùi rong biển. Cảnh vật rất quen thuộc đối với tôi:

Tôi nằm dài một cách uể oải trên bãi cát được sưởi nóng bởi ánh sáng mặt trời, và ngắm nhìn những tàn cây thốt nốt. Nhưng có một phần trong người tôi đã phản đối: Tôi chưa hề nhìn thấy biển cả bao giờ, và không biết có loại cây thốt nốt! Một chàng trai dài những giọng nói và tiếng cười vang vọng ra từ một lùm cây.

Những giọng nói càng đến gần thì tôi xuất hiện một đám người da sậm như đồng cỏ và nô đùa vui vẻ. Những người khổng lồ! Tất cả đều cùng lứa như nhau! Tôi nhìn lại thân mình: Tôi cũng vậy, tôi cũng là một người khổng lồ. Những ấn tượng tiếp diễn theo nhau trong trí tôi: Ngày xưa, hàng bao nhiêu nghìn muôn năm trở về trước, quả địa cầu ở gần mặt trời hơn bây giờ, những sự luân chuyển của nó lại đi theo một hướng ngược chiều.

Ngày lại ngắn hơn và nóng hơn bây giờ. Những nền văn minh vĩ đại đã được xây dựng nên và nhân loại thời ấy thông thái hơn người đời nay. Từ chốn không gian bên ngoài bỗng nhiên trở thành một bầu hành tinh di động xẹt ra và chạm cào trái đất.

Làm cho trái đất bị dội ngược lại, bật ra khỏi vĩ đạo của nó và xoay ngược chiều thành những cơn giông bão, làm chấn động biển cả và nước biển trào lên các lục địa, nước biển tràn ngập khắp nơi, quả địa cầu lại rung chuyển bởi những cơn động đất dữ dội. Nhiều vùng lục địa bị sụp lở và chìm xuống nước, những vùng khác lại trồi lên mặt biển.

Xứ Tây Tạng, được đội lên trên bốn ngàn thước cao hơn mặt biển, không còn là một xứ nhiệt đới có bờ biển và là một nơi nghĩ mát có thời tiết ôn hòa dễ chịu nữa. Những dãy núi cao vút, những quả diệm sơn phun lửa và phun thạch bao vây chung quanh, chặt chịa như vách thành.

Trên vùng thượng du, đất đai bị nứt nẻ ra thành những vực thẳm, tại đó loài cầm thú và thảo mộc của những thời đại đã qua vẫn tiếp tục sinh trưởng. Nhưng có rất nhiều điều mà tôi không tiện nói ra, và một phần cuộc lễ điểm đạo của tôi thật quá thiêng liêng và có tính cách quá riêng tư để có thể công bố trong một quyển sách dành cho đại chúng.

Sau một thời gian, những linh ảnh đã lu mờ dần và biến mất. Lần lần tôi đã mất cả ý thức về cõi siêu linh và cả ý thức về cõi phàm trần. Sau đó, tôi có cái cảm giác khó chịu là bị lạnh lẽo kinh khủng vì nằm dài quá lâu trên một phiến đá trong bầu không khí lạnh buốt của ngôi mộ cỗ. Những tư tưởng lạ từ bên ngoài đến "thăm dò" khối óc của tôi như những ngón tay sờ mó.

- A, y đã trở lại với chúng ta. Chúng ta đã đến kịp giờ.

Nhiều phút trôi qua một ánh sáng lu mờ từ từ tiến đến gần tôi. Những ngọn đèn bơ và ba vị Sư Trưởng.

- Con hỡi, con đã vượt qua cuộc thử thách con đã nằm trên phiến đá này suốt ba ngày ba đêm. Bây giờ, con đã nhìn thấy, con đã trải qua sự chết và con đã sống lại.

Khi ngồi dậy, tay chân cứng đơ, tôi lảo đảo vì yếu sức và vì đã lâu không cữ động.

Khi tôi bước ra khỏi ngôi mộ cỗ mà tôi không bao giờ quên suốt đời tôi, tôi đã thở bầu không khí lạnh như băng trong các đuờng hầm bí mật. Cơn đói khát làm cho tôi muốn xỉu và tôi bị hoang mang xúc động bởi tất cả những gì tôi nhìn thấy, bởi tất cả những gì mà cái kinh nghiệm vừa qua đã cho tôi biết.

Về đến đạo viện, tôi ăn uống đến thỏa lòng; đêm đó khi tôi đi ngủ, tôi hiểu rằng những lời tiên tri sẽ được thực hiện và không bao lâu tôi phải rời khỏi xứ Tây Tạng để đi đến những xứ xa lạ. Bây giờ, khi tôi đã biết những xứ ấy rồi, tôi có thể nói rằng đối với tôi những xứ ấy có vẻ kỳ dị hơn là tôi tưởng tượng!

Vài ngày sau đó, tôi cùng với sư phụ đang ngồi trên bờ sông hạnh phúc thì một người kỵ mã phi nước đại chạy ngang. Khi y nhìn ra Minh Gia Đại Đức, y đột ngột dừng ngựa đến nỗi vó ngựa hất văng những đám mây bụi xoay tít trong cơn gió lốc. Y xuống ngựa và nói:

- Tôi có mang thông điệp của đấng thậm thâm gửi cho vị Lạt Ma Lâm Bá.

Y rút trong túi áo một bức thơ bao bọc ở trong một khăn choàng theo nghi lễ truyền thống, và sau khi chuyển giao bức thư cho tôi với ba lần váy chào y bèn lui gót thót lên lưng ngựa và phóng nước lớn đi ngay.

Lúc ấy tôi không còn e dè sợ sệt gì nữa; kinh nghiệm vừa rồi của tôi ở dưới hầm điện Potala đã đem cho tôi sự tự tin. Tôi bèn mở bao thơ và đọc bức thông điệp trước khi chuyển giao cho Minh Gia Đại Đức, sư phụ tôi. Tôi nói:

- Sáng ngày mai, con phải đến vườn Ngọc Uyển để bái yết đấng Thậm Thâm. Ngài cũng có mời sư phụ cùng đến.

Sư phụ tôi đáp:

- Lâm Bá, tuy thầy không có thói quen thăm dò những ý định thầm kín của đức Thái Tế, nhưng thầy cảm thấy rằng không bao lâu con sẽ lên đường sang Trung Hoa. Còn thầy, thì... như thầy đã nói với con, không lâu nữa thầy sẽ từ giã cõi trần để quay về thượng giới. Chúng ta hãy vui với ngày hôm nay và tận dụng thời giờ ít oi còn lại.

Qua ngày hôm sau, một lần nữa tôi theo con đường quen thuộc đến vườn Ngọc Uyển; sau khi xuống chân đồi tôi đi trên đường Lingkhor và đến trước cổng vườn. Minh Gia Đại Đức cùng đi với tôi.

Hai thầy trò chúng tôi cùng có một tư tưởng giống nhau: Có lẽ chúng tôi đang cùng đi chung một lần cuối cùng để viếng thăm đấng Thậm Thâm. Những cảm nghĩ đó chắc hẳn đã hiện rỏ trên nét mặt của tôi vì khi tôi ngồi một mình với Đức Đạt Lai Lạt Ma, ngài nói:

- Giờ phút chia ly, để mỗi người đi một đường bao giờ cũng đầy sự sầu thảm bi ai. Ở đây, trong ngôi nhà mát này, ta đã suy gẫm nhiều giời về vấn đề tối hậu nầy, là nên ở lại hay nên đi khi xứ sở ta bị nạn ngoại xâm? Dầu cho ta quyết định như thế nào cũng có người phải chịu khổ sở.

Lâm Bá con hỡi, con đường của con đã được vạch sẵn và tất cả con đường đều khó nhọc gian nan. Gia đình, tổ quốc, bạn bè... con phải bỏ hết tất cả. Con sẽ gặp, trên bước đường đời của con như con đã biết trước, sự hiểu lầm, sự nghi nan, đố kỵ cùng sự ngược đãi tra tấn và tất cả những gì đau khổ đắng cay.

Cách xử thế của những người ngoại quốc rất kỳ dị và không thể giải thích. Như ta đã nói với con, họ chỉ tin nơi những gì họ có thể làm, những gì họ có thể phân chất trong các phòng thí nghiệm khoa học. Còn cái khoa học quan trọng nhất là khoa học về chân ngã thì họ không quan tâm. Đó là con đường của con, con đường mà con đã chọn trước khi sinh ra ở kiếp này. Ta đã quyết định biệt phái con sang Trung Hoa năm ngày nữa.

Năm ngày! Chỉ còn năm ngày thôi trong khi tôi hy vọng sẽ dài đến năm tuần lễ.

Trên đường về tu viện Chakpori, sư phụ và tôi không trao đổi với nhau một lời nào. Khi về đến tu viện người mới nói.

- Lâm Bá, con phải về thăm cha mẹ, thầy sẽ cho người đi báo tin cho cha mẹ con hay trước.

Cha mẹ tôi? Thầy tôi đã đối xử với tôi còn hơn cả bậc phụ mẫu. Và không bao lâu người sẽ từ giã cuộc đời: Người sẽ từ trần trước khi tôi quay trở về Tây Tạng trong vài năm sau. Di tích của người để lại cho tôi là cái xác ướp mạ vàng đặt tại phòng các vị hóa thân, cái thể xác vô tri mà người vứt bỏ như một cái áo cũ đã trở nên vô dụng.

Qua ngày thứ ba, tôi trở về nhà cũ của tôi. Tôi đi một mình và đi bộ như cái ngày mà tôi rời khỏi nhà để đi vào tu viện. Nhưng trong thời gian qua tôi đã trở nên một vị Lạt Ma và một vị Sư Trưởng. Cha mẹ tôi đợi tôi ở nhà và đón tiếp như một vị thượng khách.

Tối hôm ấy tôi lại đến văn phòng của cha tôi để ký tên vào quyển gia phả và ghi vào đó những tước vị của tôi. Sau đó, tôi lại đi bộ trở về tu viện, nó đã trở nên nhà của tôi từ bấy lâu nay.

Hai ngày cuối cùng cũng trôi qua rất mau. Trước ngày lên đường tôi đến bái yết Đức Đạt Lai Lạt Ma một lần cuối cùng. Tôi nói vài lời từ giã và ngài ban ân huệ cho tôi. Lòng tôi se thắt khi tôi từ biệt ngài. Cả ngài và tôi đều biết rằng chúng tôi sẽ gặp trở lại ngày mà tôi từ trần sang cõi giới bên kia.

Qua ngày hôm sau tôi lên đường vào lúc bình minh, bước đi chậm chạp và lòng không hứng khởi. Lại một lần nữa tôi bước chân trên con đường thiên lý không một mái nhà riêng, hướng về những chân trời xa lạ. Tôi phải bắt đầu lại tất cả. Đi đến điểm cao tột của của truông núi, tôi quay đầu nhìn lại rất lâu, và đó cũng là cái nhìn cuối cùng của tôi xuống thành phố thánh địa Lhassa.

Một con diều đơn chiếc đang bay lượn trên điện Potala.




Nguyễn Hữu Kiệt

Thanked by 1 Member:

#51 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/06/2011 - 06:05

Á CHÂU HUYỀN BÍ



Chương Một


1. Cuộc Gặp Gỡ Đầu Tiên Với Các Vị Chân Sư


Trên thế giới ngày nay, những sách vở nói về các vấn đề huyền linh có rất nhiều, sau khi sưu tầm sự thật về những bậc làm cho tôi cảm thấy khích lệ tinh thần để trình bày kinh nghiệm riêng của tôi về những đấng Chân Sư của Phương Đông.

Trong những chương sách này, tôi không có ý diễn tả một tín ngưỡng hay một tôn giáo nào. Tôi chỉ đưa ra một tóm lược những kinh nghiệm cá nhân của mình về các đấng Chân Sư, để trình bày những chân lý căn bản trọng đại trong giáo lý của ngài.

Để kiểm điểm tập du ký này, tôi đã dùng mất nhiều thời giờ cũng dài bằng cái thời gian dành cho cuộc khảo cứu. Thật vậy, các Chân Sư nằm rải rác trên vùng lục địa rộng lớn, và những cuộc sưu tầm về đạo lý của chúng tôi diễn ra trên một phần lớn các xứ Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư.

Phái bộ sưu tập của chúng tôi gồm mười một nhà khoa học nỗi lạc, đã từng dành một phần lớn cuộc đời mình cho những công trình sưu khảo. Chúng tôi đã tập thói quen không chấp nhận bất cứ chuyện gì mà không có sự phối kiểm chặt chẽ trước khi nhìn nhận việc ấy là đúng với sự thật. Khi đến tận nơi, chúng tôi hoàn toàn là những kẻ hoài nghi.

Nhưng bận về, chúng tôi hoàn toàn bị thuyết phục và tin tưởng đến nỗi ba người trong nhóm chúng tôi đã trở lại chỗ cũ, quyết định ở lại cho đến khi họ có thể sống cuộc đời của các Chân Sư và thực hiện những công trình giống như của các ngài.

Những vị cao cả đã đem đến một sự giúp đỡ lớn lao trong công việc sưu tầm của chúng tôi, luôn luôn yêu cầu chúng tôi chỉ nhắc đến các ngài bằng những tên giả tạm, trong trường hợp chúng tôi viết hồi ký. Tôi sẵn lòng tuân theo ý muốn của ngài.

Tôi chỉ tường thuật lại những việc đã phối kiểm, và dùng những danh từ hay những thành ngữ của chính những nhân vật mà chúng tôi đã gặp gỡ và sống chung hằng ngày trong cuộc hành trình này.

Trong số những điều kiện tiên quyết được đặt ra cho sự hợp tác giữa chúng tôi với các ngài, có điều này bắt buộc chúng tôi phải tuân theo: Chúng tôi phải chấp nhận như một sự thật mọi việc gì xảy ra mà chúng tôi đã chứng kiến tận mắt. Chúng tôi không được đòi hỏi một sự giải thích nào trước khi đã đi sâu vào bên trong của một vấn đề, đã nhận được những lời chỉ giáo của các ngài, đã sống quan sát cuộc đời hàng ngày của các ngài.

Chúng tôi phải đi theo các Chân sư, sống với các ngài, và tự mình quan sát mọi sự. Chúng tôi có quyền ở lại với các ngài bao lâu tùy ý, hỏi bất cứ điều gì, và đi sâu vào mọi vấn đề tùy ý muốn, rồi tự mình rút lấy những kết quả đã thu lượm được. Sau đó, chúng tôi được tự do quyết định rằng những điều chúng tôi đã nhìn thấy là sự thật hay ảo ảnh.

Các ngài không bao giờ tìm cách ảnh hưởng đến sự xét đoán của chúng tôi bất cứ về vấn đề gì. Các ngài luôn luôn nghĩ rằng nếu chúng tôi quan sát chưa đúng mức để có được sự tin tưởng hoàn toàn, thì các ngài không mong ước chúng tôi phải tin. Tôi cũng hành động y như vật đối với quý vị độc giả, và để cho độc giả có quyền tự do hay không tin những chuyện kể lại sau đây, tùy sở thích của mỗi người.

Chúng tôi đã sang Ấn Độ được chừng hai năm, và hằng ngày theo dõi những công việc sưu tầm, thì một ngày nọ tôi gặp vị Chân sư mà tôi xin mệnh danh là "Tuệ Minh". Ngày ấy tôi đang đi dạo chơi đi qua các đường trong thành phố, thì thấy có một đám đông làm cho tôi chú ý.

Một đám quần chúng đang vây chung quanh một người thuật sĩ, thuộc loại các nhà đạo sĩ đi ra bày trò ảo thuật mà bên xứ này có rất nhiều. Tôi bước đến gần nhà và ngay lúc đó tôi nhận thấy ở bên tôi một người đã trọng tuổi, với một phong độ khác thường, hẳn là không giống những người khác trong đám đông.

Người ấy nhìn tôi và hỏi và tôi sang Ấn Độ đã được bao lâu. Tôi đáp:

- Độ chừng hai năm.

Người ấy hỏi tiếp:

- Ông ấy là người Anh?

Tôi đáp:

- Không, tôi là người Mỹ.

Ngạc nhiên và thích thú mà gặp một người nói được tiếng mẹ đẻ của mình, tôi mới hỏi người nghĩ sao về cuộc biễu diễn của người thuật sĩ. Người ấy đáp:

- À! Ở xứ này thường vẫn có những cuộc biểu diễn như thế. Người ta gọi họ là thuật sĩ, đạo sĩ hay pháp sư, cái đó tùy. Nhưng ở đằng sau những trò ảo thuật đó, có ẩn dấu một thiểu số người biết được mà thôi. Có ngày người ta sẽ nhận thấy cái hay của các trò ảo thuật đó.

Nhưng điều mà ông nhìn thấy chỉ là cái ảo ảnh của sự thật nguyên thủy. Việc đó đã từng gây lên nhiều tranh luận, nhưng các nhà tranh luận dường như chưa bao giờ nắm vững sự thật. Tuy nhiên, hẳn là phải có một sự thật ở đằng sau những cuộc biểu diễn đó.

Đến đây, chúng tôi chia tay từ biệt nhau và thỉnh thoảng mới gặp nhau trở lại trong bốn tháng sau đó. Kế đó, nhóm khoa học gia chúng tôi gặp phải một vấn đề khó khăn nó gây cho chúng ta nhiều nỗi lo âu quan trọng. Vài ngày sau đó, tôi gặp lại Tuệ Minh. Người hỏi lý do những sự lo âu của tôi và nói với tôi về cái vấn đề khó khăn mà chúng tôi đang gặp phải.

Tôi lấy làm ngạc nhiên, vì tôi chắc rằng không ai có thể biết gì ngoài vấn đề này ngoài ra nhóm thiểu số chúng tôi. Người có vẻ thông thạo về tình hình của chúng tôi đến nỗi tôi có cảm rằng người biết rõ tất cả vấn đề.

Vì lẽ vấn đề ấy đã không còn là một điều bí mật nữa, nên tôi thấy không có hại gì mà nói ra một cách tự nhiên, và đó là điều mà tôi đã làm. Khi đó, Tuệ Minh mới nói với tôi rằng người cũng biết ít nhiều về việc ấy và cố gắng giúp đỡ chúng tôi.

Một hai ngày sau đó, mọi việc đều được giải quyềt thỏa đáng, và mọi sự lo âu cũng đã tiêu tan. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên, nhưng không bao lâu việc ấy đã lui dần vào trong quên lãng và chúng tôi không còn nghĩ đến nữa.

Những vấn đề khó khăn khác lại xuất hiện, và tôi thường có thói quen đem ra bàn luật một cách thân mật với Tuệ Minh. Dường như mọi nỗi khó khăn của chúng tôi liền biến mất khi tôi vừa đem ra giải quyết với người khách lạ.

Tôi bèn giới thiệu các bạn tôi cho Tuệ Minh, nhưng tôi không hề nói gì với họ về nhân vật lạ lùng này. Vào thời kỳ đó, tôi đã đọc nhiều sách do ngài chọn, lựa, nói về những truyền thống của nền văn minh Ấn Độ, và tôi đã hoàn toàn tin tưởng rằng một vị Chân sư. Sự tò mò của tôi đã bị kích thích, và sự thích thú của tôi ngày càng tăng thêm.

Một buổi trưa chúa nhật, tôi cùng đi dạo với đức Tuệ Minh trên một cánh đồng, thình lình ngài chỉ cho thấy một con bồ câu đang bay lượn trên đầu chúng tôi. Tuệ Minh nói rằng con bồ câu đang tìm kiếm ngài. Ngài bèn đứng yên một chỗ không cử động, và con bồ câu liền đáp xuống đậu trên một cánh tay của ngài đưa ra.

Đức Tuệ Minh nói rằng con chim này đem đến cho ngài một thông điệp của người em trai hiện đang sống ở miền bắc Ấn. Người này cũng là một vị cao sĩ cùng phái, nhưng chưa đạt tới trình độc tâm thức siêu đẳng để có thể tiếp xúc với ngài bằng thần giao cách cảm. Bởi vậy, người mới phải dùng đến phương tiện giao thông này.

Về sau, chúng tôi mới biết rằng các các đấng Chân Sư có quyền năng thần giao cách cảm trực tiếp với nhau cấp thời bằng phương pháp di chuyển tư tưởng; các ngài còn cho biết rằng phương pháp này sử dụng một năng lực còn tế nhị tinh anh hơn là điện khí hay vô tuyến điện.

Tôi bắt đầu đưa ra những câu hỏi. Đức Tuệ Minh chứng minh cho tôi thấy rằng ngái có thể kêu giọi loài chim đến với ngài và điều khiển hướng bay của chúng, rằng các loại bông hoa, thảo mộc nghiên về phía ngài khi ngài đi qua, và các loài thú dữ đến gần ngài mà không sợ sệt.

Có lần ngày phân rẽ hai con sơn cẩu đang tranh mồi và cấu xé lẫn nhau. Khi ngài bước đến gần, chúng nó bèn thôi không cắn nhau nữa, nằm đặt xuống cái đầu chúng một cách đầy tin tưởng trên hai bàn tay ngài đưa ra, rồi mỗi con lại tiếp tục ăn phần thịt của mình một cách ôn hòa. Ngài lại còn bắt lấy một con đưa cho tôi cầm trên hai tay.

Sau đó ngài nói:

- Cái Phàm Ngã hữu hình hữu loại không thể làm được những việc này, mà đó là cái Chân Ngã thâm diệu hơn, cái mà anh gọi là Thượng Đế. Đó chính là Thượng Đế toàn năng ngự trong tôi, và trong tất cả muôn loài, chính ngài biểu hiện xuyên qua tôi để làm những việc ấy. Do tôi, do cái Phàm Ngã hữu loại của tôi, tôi không thể làm gì được.

Tôi phải hoàn toàn gạt vỏ cái phàm ngã bên ngoài, để cho cái Chân Ngã bên rong tự biểu lộ vàhành động. Bằng cách phát biểu toàn vẹn tình Bác Ái của thượng Đế, tơi có thể làm những điều mà anh ta đã thấy. Bằng cách để cho tình Bác Ái biểu lộ xuyên qua mình và ban rãi cho tất cả chúng sinh muôn loài, ta sẽ cảm hoá được thú dữ và không một tai họa nào có thể đến với ta nữa.

Vào thời kỳ đó, tôi thụ huấn hằng ngày về đạo lý với đức Tuệ Minh. Có khi ngài thình lình xuất hiện trong phòng tôi, dẫu rằng tôi đã khoá cửa lại cẩn thận. Lúc đầu, việc này làm cho tôi hoang mang bỡ ngỡ, nhưng không bao lâu tôi thấy rằng ngài coi sự thông cảm của tôi về đó như là một chuyện đương nhiên.

Tôi đã quen với những cách xử sự của ngài với tôi mở cửa cho ngài ra vào tự do. Sự tin cậy của tôi có thể làm cho ngài hài lòng. Tôi không thể hiểu tất cả những lời dạy của ngài và cũng không thể hoàn toàn chấp nhận những lời dạy đó, dẫu rằng tôi đã chứng kiến nhiều sự việc lạ lùng ở phương Đông, tôi cũng không bao giờ có thể chấp nhận mọi việc ngay lập tức. Tôi phải trải qua nhiều năm suy tư thiền định để nhận thức được ý nghĩa tâm linh sâu xa về cuộc đời của các đấng Chân Sư.

Các Chân Sư thực hiện những kỳ công của các ngài mà không chút tự hào, với một thái độ giản dị hồn nhiên hoàn toàn như trẻ con. Các ngài biết rằng năng lực của tình thương che chở các ngài. Các ngài nuôi dưỡng tình Bác Ái đến mức độ làm cho muôn loài trong cõi thiên nhiên đều cảm mến và trở nên thân thiện với các ngài.

Loài rắn và thú dữ cắn chết hàng ngàn người mỗi năm ở Ấn Độ. Nhưng các Chân Sư biểu lộ tình Bác Ái bao la từ trong nội tâm các ngài đến mức nào làm cho loài rắn và thú dữ đều trở lên vô hại.

Đôi khi các ngài sống trong những vùng rừng thiêng nước độc, hoang vu hẻo lánh nhất. Đôi khi các ngài cũng nằm phơi mình trước cổng một làng để che chở làng ấy khỏi những tàn phá của thú dữ. Sau đó các ngài đứng dậy đi an toàn và làng ấy được bình yên vô sự.

Trong trường hợp cần thiết, các ngài đi trên mặt nước, đi trên lửa đỏ, đi ngao du trong cõi vô hình, và làm nhiều việc lạ lùng khác mà chúng ta cho là nhiệm mầu, và chỉ có những người có quyền phép thần thông mới có thể làm được.

Có một sự giống nhau lạ lùng giữa cuộc đời và giáo lý của đức Jesus với cuộc đời và giáo lý mà đấng Chân Sư từng nêu gương cho chúng ta hằng ngày. Người ta cho rằng con người không thể nào lấy bánh mì trực tiếp từ kho Tiên Thiên Khí tự nhiên của Trời Đất, thắng đoạt Tử Thần, và làm những phép lạ như Đức Jesus đã làm trong kiếp hóa thân của ngài.

Các đấng Chân Sư vẫn thường làm những việc ấy. Tất cả các ngài cần dùng hàng ngày, như đồ thực vật, áo quần và tiền bạc, các ngài đều rút lấy từ trong khoTiên Thiên Khí tự nhiên. Các ngài đã thắng đoạt sự chết và có nhiều vị trong các ngài sống đã trên năm trăm năm. Chúng tôi có đủ bằng chứng quyết định do những tài liệu riêng của các ngài cung cấp.

Vài môn phái ở Ấn Độ dường như xuất xứ từ giáo lý Huyền Môn của các ngài. Các Chân Sư chỉ gồm có một thiểu số rất ít ở Ấn Độ. Bởi đó, số đệ tử của các ngài lẽ ra là tất nhiên rất có giới hạn. Nhưng các ngài có thể tiếp xúc với một số rất nhiều đệ tử trong cõi vô hình. Dường như phần lớn công việc của các ngài là hoạt động trong cõi vô hình để giúp đỡ các linh hồn thụ cảm đối với giáo lý Huyền Môn.

Giáo lý của Chân Sư Tuệ Minh là nền tảng của công việc mà chúng tôi sẽ thực hiện nhiều năm về sau, trong cuộc hành trình lần thứ ba của chúng tôi sang các xứ ấy. Cuộc hành trình này kéo dài đến ba năm rưỡi, trong thời gian đó chúng tôi luôn luôn sống chung với các đấng Chân Sư, cùng di chuyển khắ nơi với các ngài, cùng quan sát cuộc đời và công việc hằng ngày của các ngài ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa và Ba Tư.



2. Ý Nghĩa Ngày Lễ Giáng Sinh



Cuộc hành trình lần thứ ba của chúng tôi có mục đích sưu tầm về đạo lý. Trước ngày lên đường, các đoàn viên chúng tôi họp tại Potal, một làng nhỏ Ấn Độ ở một nơi hẻo lánh. Tôi đã viết thư báo tin trước cho đức Tuệ Minh rằng chúng tôi sắp đến, nhưng không nói gì về mục đích cuộc hành trình có bao nhiêu người đi.

Khi đến nơi chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy đức Tuệ Minh và các cộng sự viên đã chuẩn bị sẵn cho toàn bộ phái đoàn và biết rõ các kế hoạch của chúng tôi từng chi tiết. Đức Tuệ Minh đã từng giúp đỡ chúng tôi rất nhiều ở miền Nam Ấn, nhưng từ giờ phút này trở đi thì sự trợ giúp của ngài không sao kể hết. Tất cả sự thành công của cuộc hành trình đều mà do nơi ngài mà có, và cũng nhờ các linh hồn cao quý mà chúng tôi gặp gỡ giữa đường.

Chúng tôi đến Potal, khởi điểm của cuộc hành trình, chiều ngày Hai mươi hai tháng Mười hai năm 1894. Ngày lên đường, cũng là ngày đáng ghi nhớ nhất trong đời chúng tôi, là sáng ngày lễ Giáng Sinh.

Tôi không bao giờ mà quên lời mà đức Tuệ Minh nói với chúng tôi sáng ngày hôm ấy. Tuy rằng ngài không tự hào có một nền học vấn của người Anh và không hề rời khỏi phương Đông, ngài vẫn còn nói trôi chảy tiếng Anh. Ngài nói:

- Hôm nay là ngày lễ Giáng Sinh. Ngày này nhắc nhở với các bạn sự Giáng Sinh của đức Jesus ở Nazareth, tức đấng Christ. Chắc hẳn các bạn nghĩ rằng ngài giáng thế để chuộc tội cho nhân loại và ngài là vị Trung Gian cao cả giữa các bạn và Chúa Trời.

Các bạn cầu nguyện đức Jesus như một vị cứu rỗi để xin tội giùm với một đấng Chúa Trời nghiêm khắc, đôi khi thịnh nộ, ngồi chễm chệ ở một nơi nào đó trên cõi trời. Tôi không biết cõi trời đó ở nơi nào, nếu không phải là ở trong lương tri của các bạn.

Dường như các bạn chỉ có thể đạt tới Chúa Trời do sự trung gian của đức Con ngài, một vị ít nghiêm khắc và dễ cảm mến hơn, đấng Cao Cả mà tất cả chúng ta gọi là đấng Trọn Lành, mà ngày hôm nay là ngày kỷ niệm Giáng Sinh của ngài xuống thế gian.

Đối với chúng ta, ngày này còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Nó không chỉ nhắc nhở ngày giáng trần của đức Jesus, mà còn tượng trưng sự xuất hiện của đấng Christ trong lương tri của mỗi người. Ngày lễ Giáng Sinh có nghĩa là ngày nhập thế của đức Chưởng Giáo đã giải thoát nhân loại khỏi mọi sự hệ luỵ và giới hạn của vật chất.

Đấng Cao Cả ấy giáng trần để chỉ cho chúng ta con đường đưa đến Thượng đế toàn năng, toàn thông và toàn trí... Khi một người đã tiếp xúc được với nguồn cảm hứng thiêng liêng ấy bằng lời nói, phải chăng những người khác cũng có thể tiếp xúc với cái nguồn cảm hứng đó, nó vẫn hằng có trong Vũ trụ càn khôn?

Khi một người đã nhận được sự cảm hứng thiêng liêng, nó không phải là vật sở hữu riêng của y. Nếu y bắt được cái nguồn ân huệ đó rồi giữ lấy cho riêng mình, y đâu còn chỗ trống để tiếp nhận thêm những ân huệ khác nữa? Muốn thọ lãnh thêm nhiều hơn nữa, ta phải cho đi những gì mình đã nhận được. Nếu ta giữ lấy để làm của riêng, thì sẽ có sự bế tắc, ứ đọng ngay.

Điều này giống như cái bánh xe vận chuyển bằng sức nước trong một nhà máy thủy điện. Nếu thình lình cái bánh xe giữ lại cái dòng nước đã làm cho nó vận chuyển và xoay vòng, thì nó sẽ bị ngưng trệ ngay lập tức. Nó phải để cho nước chảy lưu thông tự do thì mới có trở lên hữu dụng và tạo nên điện lực.

Con người cũng vậy. Thượng đế ban cho, y phải phổ biến những tư tưởng tốt lành ấy mới có thể hưởng thụ được điều lợi ích của nó. Y phải để cho mỗi người có dịp hưởng thụ và phổ biến những tư tưởng thiêng liêng để tiến triển tâm linh cũng như vậy.

Theo ý tôi, tất cả những gì đến với đức Jesus đều là một sự ban ân trực tiếp của Thượng đế, cũng như đó là trường hợp của tất cả các bậc đại giáo chủ. Thật ra, phải chăng tất cả mọi sự đều xuất xứ từ Thượng Đế, và điều gì mà một người đã làm thì những người khác cũng có thể làm được? Các bạn hãy tin rằng Thượng Đế luôn luôn muốn tự biểu lộ và sẵn sàng làm như vậy, như ngài đã làm đối với đức Jesus và những vị khác.

Chúng ta chỉ cần có sự mong muốn để cho ngài hành động. Thật ra, chúng ta tin rằng tất cả đều bình đẳng. Tất cả mọi người đều là một. Mỗi người đều có thể thực hiện những công trình giống như của đức Jesus và sẽ thực hiện những công trình ấy khi thời giờ đã điểm. Không có gì là bí mật hay huyền diệu trong những công trình đó. Sự bí mật chỉ có trong cái ý niệm vật chất mà loài người đã gán cho các sự việc ấy.

Các bạn đến với chúng tôi với ít nhiều sự hoài nghi. Chúng tôi tin rằng các bạn sẽ ở lại đây để nhìn xem tận mắt chúng tôi làm như thế nào. Còn những công việc làm của chúng tôi và kết quả của những việc ấy ra sao, thì các bạn có trọn quyền tự do chấp nhận hay bác bỏ tùy ý...



3. Người Có Quyền Năng Xuất Quỷ Nhập Thần



Chúng tôi giã từ Potal đi Asmah, một làng nhỏ hơn ở cách độ Một trăm năm mươi cây số. Đức Tuệ Minh chỉ định hai người thanh niên để dẫn đường cho chúng tôi. Cả hai nguời này đều là người Ấn Độ tốt tướng và khỏe mạnh. Họ đảm trách việc hướng dẫn cuộc hành trình mộc cách thông thạo và hoàn toàn chu đáo mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ.

Để tiện việc, tôi xin gọi họ bằng những tên tạm là Dật Sĩ và Nê Bưu. Chân Sư Tuệ Minh cao tuổi hơn họ rất nhiều. Dật Sĩ là người đứng ra chỉ huy cuộc hành trình, còn Nê Bưu, phụ tá của y, coi sóc việc thừa hành mọi mệnh lệnh. Đức Tuệ Minh kiếu từ chúng tôi và nói:

- Các bạn hãy đi trước, đã có Dật Sĩ và Nê Bưu dẫn đường. Tôi sẽ ở lại đây thêm vài ngày, vì với phương tiện di chuyển hiện tại, các bạn phải mất ít nhất là năm ngày mới đến trạm sắp tới cách ở đây một trăm năm mươi cây số. Tôi không cần mất nhiều thời giờ như vậy để vượt qua chặng đường ấy, nhưng tôi sẽ có mặt ở đó để đón các bạn.

Các bạn hãy để lại đây một người đoàn viên để quan sát và kiểm điểm mọi việc có thể xảy ra. Các bạn sẽ có rộng thời giờ, và người đoàn viên ở lại sẽ theo kịp các bạn trong mười ngày là cùng. Chúng tôi chỉ yêu cầu y quan sát mà thôi, và tường thuất lại cho các bạn những gì y đã thấy.

Chúng tôi bèn lên đường. Dật Sĩ và Nê Bưu lãnh trách nhiệm điều khiển mọi việc một cách hoàn toàn chu đáo. Mọi việc đều được giải quyết êm đẹp vào đúng lúc với một tiết điệu và một sự đúng đắn toàn hảo. Tình trạng đó vẫn tiếp tục trong ba năm rưỡi suốt thời gian của cuộc hành trình.

Dật Sĩ có một bản tính thanh cao thiên phú, dễ thương, làm việc hữu hiệu, không khoe khoang, khoác lác. Y ra tất cả mọi chỉ thị với một giọng hòa nhã, và được tuân theo một cách đúng đắn và kịp thời nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên. Từ lúc đầu, chúng tôi đã nhận thấy tính hạnh tốt đẹp của y và chúng tôi vẫn thường khen ngợi.

Nê Bưu cũng có một đức hạnh tốt đẹp không kém, và dường như còn có khả năng hiện diện ở khắp nơi. Luôn luôn bình tĩnh, y có một năng suất lạ lùng, với một khả năng suy gẫm và hành động rất vững vàng, chắc chắn. Mỗi người đều đã nhận thấy khả năng đó của y, và chúng tôi vẫn luôn luôn nhắc nhở đến.

Qua ngày thứ năm của chuyến đi này, vào độ bốn giờ chiều, chúng tôi đến làng Asmah. Như đã hẹn trước, đức Tuệ Minh đã có mặt tại đó để đón chúng tôi. Quý vị độc giả có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào. Chúng tôi đến đây do một con đường duy nhất có thể đi được và bằng những phương tiện di chuyển mau chóng nhất.

Chỉ có những bưu tín viên thiện nghệ người bản xứ, đi luân phiên nhau từng chặng đường và đi suốt ngày đêm mới có thể đi mau hơn. Còn đây là một người mà chúng tôi cho là đã có tuổi và tuyệt đối không thể nào đi mau hơn chúng tôi trên một quãng đường dài một trăm năm chục cây số, nhưng lạ thay, người ấy lại đến trước chúng tôi và có mặt tại chỗ. Trong cơn thắc mắc, lẽ tự nhiên chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rất nhiều điều, và ngài trả lời như sau:

- Khi các bạn sắp sửa lên đường, tôi có nói rằng tôi sẽ có mặt tại đây để đón các bạn, và tôi đã đến đây. Tôi xin đặc biệt lưu ý các bạn về điểm này là con người vốn toàn năng khi y tiến hóa trong cái chân lãnh vực của mình. Y không còn bị giới bạn trong thời gian và không gian. Khi y tự biết mình, không cần phải lê gót chân chậm chạp dọc theo đường trong năm ngày để vượt qua một trăm năm chục cấy số.

Trong cái địa hạt chân thật của y, trong khoảng khắc con người có thể vượt qua mọi quãng đường dầu xa bao nhiêu. Chỉ mới lúc nãy đây, tôi còn ở làng Potal mà các bạn đã từ giã ra đi cách đây năm ngày. Thể xác tôi vẫn còn nằm yên tại đó. Người đoàn viên mà các bạn đã để lại Potal sẽ nói cho các bạn biết rằng tôi đã nói chuyện với y cho đến gần bốn giờ chiều, khi ấy tôi nói rằng tôi đi đón các bạn, vì chắc các bạn đã gần đến nơi.

Người đoàn viên ấy hãy còn thấy thể xác bất động của tôi ở đó. Tôi chỉ làm như vậy để cho các bạn thấy rằng chúng tôi có thể dời thể xác để gặp lại các bạn bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Dật sĩ và Nê Bưu cũng có thể di chuyển bằng cách đó như tôi. Nhưng nhờ vậy các bạn sẽ hiểu rõ hơn rằng chúng tôi cũng vẫn là những người thường, cũng xuất thân từ một nguồn gốc như các bạn. Không có gì bí mật cả.

Chúng tôi chỉ phát triển những năng lực mà Thượng Đế toàn năng đã ban cho tất cả chúng ta. Thể xác tôi nằm tại chỗ cũ cho đến chiều tối. Kế đó, tôi sẽ đem nó về đây, và người đoàn viên nọ cũng sẽ ra đi cùng một con đường của các bạn. Y sẽ đến đây vào đúng lúc. Chúng ta sẽ chỉ có một ngày, rồi đi đến một làng nhỏ cách đây chừng một ngày đường.

Chúng ta sẽ trở lại đây để đón người đoàn viên nọ và để nghe y tường thuật lại mọi việc. Chúng ta sẽ tụ họp lúc chiều nay tại nhà trọ tạm thời chúng ta hãy chia tay.

Chiều đến, chúng tôi tề tựu đông đủ tại nhà trọ. Vì thời tiết lạnh trên miền núi nên chúng tôi để cửa phòng khép kín. Thình lình đức Tuệ Minh xuất hiện trong phòng mà không cần mở cửa, và nói:

- Các bạn vừa thất tôi xuất hiện trong gian phòng này bằng một cách mà người ta gọi là nhiệm mầu. Nhưng sự thật, không có gì là mầu nhiệm cả. Để tôi làm một cuộc thí nghiệm nhỏ mà các bạn sẽ tin bởi vì các bạn có thể nhìn thấy tận mắt.

Mời các bạn hãy bước lại gần. Đây là một cái ly nhỏ đựng nước mà các bạn vừa múc ở suối lên. Một cục nước đá nhỏ li ti đang tượng hình ở giữa ly nước. Các bạn hãy nhìn xem nó càng lớn dần do sự kết nạp thêm nhiều cục nước đá khác. Và bây giờ thì tất cả ly nước đều đông đặc. Tại sao vậy? Đó là vì tôi duy trì trong chất Tiên Thiên Khí những phân tử trung ương của chất nước cho đến khi chúng đông đặc lại.

Nói một cách khác, tôi đã hạ thấp những rung động của chúng đến mức làm cho chúng trở thành nước đá, và những phân tử chung quanh cũng đều đông đặc lại cho đến khi tất cả đều trở thành một khối nước đá. Nguyên tắc ấy cũng áp dụng cho một ly nước uống, một bồn nước tắm, một cái ao, hồ, biển và toàn thể các đại dương trên quả địa cầu.

Nhưng việc gì sẽ xảy ra? Phải chăng tất cả sẽ đông đặc lại, nhưng vì mục đích gì? Không vì mục đích gì cả. Bởi nguyên động lực nào? Đó là sự vận chuyển một định luật thiên nhiên, nhưng nhằm sự lợi ích gì? Không có lợi ích gì cả.

Nếu tôi vẫn cứ tiếp tục cho đến cùng, việc gì sẽ xảy đến? Sự phản ứng. Phản ứng vào ai? Vào tôi. Tôi biết rõ luật trời. Điều mà tôi gây ra sẽ dội ngược trở lại vào tôi cũng chắc chắn như là khi tôi gây nó ra vậy. Bởi đó, tôi chỉ gây những điều lành, và điều lành sẽ trở lại với tôi.

Các bạn thấy rằng nếu tôi cứ tiếp tục gây sự giá lạnh xung quanh tôi, sự đông giá sẽ phản ánh vào mình tôi trước khi tôi kết thúc, và tôi sẽ bị chết cóng, đó là kết quả mà tôi gặt hái được do việc làm của mình. Trái lại nếu tôi chỉ làm việc lành, tôi sẽ gặt hái kết quả của việc lành ấy một cách trường cửu.

Sự xuất hiện của tôi chiều nay trong gian phòng này có thể giải thích một cách tương tự. Trong gian phòng nhỏ của tôi ở, tôi đã nâng cao những rung động của thể xác tôi cho đến khi nó trở về chất Tiên Thiên Khí và tôi giữ nó ở đó.

Đó tức là tôi trả cái thể xác tôi lại cho thiên nhiên, là cái kho chứa đựng mọi tinh lực vật chất. Kế đó, do bởi ý chí thiêng liêng (Atma) tôi giữ cái thể xác tôi trong tư tưởng cho đến khi tôi hạ thấp những rung động của nó và để cho nó tượng hình trở lại ngay trong gian phòng này mà bây giờ các bạn có thể nhìn thấy.

Có gì là bí mật đâu? Phải chăng tôi đã sử dụng cái quyền năng, hay cái định luật mà Thượng Đế đã ban cho tôi xuyên qua cái Chân Ngã linh diệu? Cái Chân Ngã đó phải chăng là anh, là tôi, là tất cả nhân loại? Có sự mầu nhiệm nào đâu? Quả thật là không có.

Các bạn vừa thấy những gì đã được thực hiện ở đây, và các bạn còn đang ngờ vực chính đôi mắt của mình, tôi không trách các bạn điều đó. Tôi nhìn thấy trong tư tưởng các bạn có vài người đang nghĩ rằng đây chắc là một cuộc thôi miên.

Như vậy là trong số các bạn có người không tin rằng họ có thể sử dụng tất cả những khả năng thiên phú của Thượng Đế ban cho mà họ vừa thấy biểu lộ lúc chiều nay. Phải chăng họ tin rằng tôi đã chế ngự tư tưởng hay thị giác của họ? Phải chăng các bạn tin rằng tôi đã làm một cuộc thôi miên tập thể vì tất cả các bạn đều thấy những gì xảy ra?

Các bạn có nhớ chăng trong Kinh Thánh có thuật lại rằng Đức Jesus đã từng xuất hiện trong một gian phòng mà các cửa đều đóng kín? Tôi đã làm y như ngài. Các bạn có thể nghĩ rằng Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, lại cần phải dùng đến phép thôi miên hay sao? Ngài đã dùng những quyền năng mà Thượng Đế ban cho ngài, như tôi đã làm chiều nay. Tôi không có làm gì mà mỗi người trong các bạn đều không thể làm được.

Và không phải chỉ có các bạn mà thôi đâu. Mỗi người sinh ra trên thế gian này đều có những quyền năng tương tự. Tôi ước mong sao tất cả đều rõ ràng minh bạch trong tư tưởng của các bạn. Các bạn là những nhân vật có cá tính, chứ không phải là những người thụ động, vô tri giác. Các bạn có quyền tự do ý chí của mình.

Đức Jesus không cần phải thôi miên ai cả và chúng tôi cũng thế. Các bạn hãy cứ nghi ngờ chúng tôi bao nhiêu tùy ý, cho đến khi nào các bạn đã dứt khoát tư tưởng. Nhưng bây giờ, thì các bạn hãy gạt bỏ cái ý nghĩ về sự thôi miên, hoặc ít nhất hãy để yên nó một chỗ cho đến khi các bạn đã đi sâu vào vấn đề. Chúng tôi chỉ yêu cầu các bạn hãy giữ một tinh thần cởi mở...



4. Thuật Phân Thân



Cuộc di chuyển sắp tới của chúng tôi là một chuyến khứ hồi theo chiều ngang (chúng tôi còn trở về chỗ cũ trước khi tiến xa hơn nữa). Bởi đó chúng tôi để lại tại chỗ các đồ hành lý và sáng ngày hôm sau chúng tôi lên đường đi đến một làng nhỏ ở cách đó chừng ba mươi lăm cây số. Chỉ có Dật Sĩ đi theo chúng tôi.

Con đường mòn rất quanh co, khúc khuỷu, và đôi khi rất khó theo dõi xuyên qua rừng rậm. Vùng này là một vùng núi non cheo leo hiểm trở, và con đường mòn này dường như không có người đi.

Đôi khi chúng tôi phải mở đường đi xuyên qua những đám nho rừng. Mỗi lần chậm trễ, Dật Sĩ tỏ vẻ bực bội. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên vì điều đó vì y thường là người rất bình tĩnh trong mọi việc. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần chót trong khoảng thời gian ba năm rưỡi sống chung giữa chúng tôi, mà y đã mất sự bình tĩnh. Về sau chúng tôi mới hiểu lý do.

Chúng tôi đi đến mục tiêu ngay chiều hôm ấy, vừa mệt vừa đói, vì chúng tôi đã đi suốt ngày, chỉ nghỉ có một lúc ngắn để ăn buổi trưa.

Nửa giờ trước khi mặt trời lặn, chúng tôi bước vào làng nhỏ, làng này có độ hai trăm dân cư. Khi họ nghe nói có Dật Sĩ đi theo trong đoàn du khách, tất cả dân làng già trẻ bé lớn, đem theo cả thú vật nhà, đều ra tiếp đón chúng tôi.

Tuy rằng chúng tôi là mục tiêu sự tò mò của dân làng, nhưng sau đó chúng tôi nhận thấy rằng sự chú ý của họ tập trung vài Dật Sĩ. Mỗi dân làng đều chào Dật Sĩ một cách tôn kính. Sau khi y đã nói vài lời, phần nhiều dân làng đều trở về với công việc hằng ngày của họ.

Dật Sĩ hỏi xem chúng tôi có muốn đi theo y chăng, trong khi người ta dựng lều cắm trại để nghỉ ban đêm. Năm người trong chúng tôi trả lời rằng họ muốn ở lại để nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc. Những người khác và vài dân làng đi theo Dật Sĩ đến tận ven rừng ở chung quanh làng.

Chúng tôi đi sâu vào rừng, và không bao lâu, chúng tôi thấy có một người nằm sóng sượt dưới đất. Thoạt tiên chúng tôi tưởng rằng đó là một xác chết, nhưng nhìn kỹ chúng tôi mới nhận thấy đó là tư thế nằm của một người đang ngủ chứ không phải là một tử thi. Gương mặt người ấy lại là Dật Sĩ, điều này làm cho chúng tôi lặng người vì kinh hoàng!

Thình lình trong khi Dật Sĩ bước đến gần, thì thể xác ấy cử động và đứng dậy. Thể xác ấy và Dật Sĩ đứng đối diện với nhau trong một lúc. Không thể nào có sự lầm lẫn được nữa: Cả hai người đều là Dật Sĩ! Rồi bỗng nhiên, chàng Dật Sĩ đi theo chúng tôi biến mất, và chỉ còn có một người đứng trước mặt chúng tôi. Sự việc ấy diễn ra rất mau chóng, và điều lạ lùng là không ai hỏi điều gì cả.

Lúc ấy, năm người còn lại ở lại sau cũng vừa chạy đến nơi, mà không ai kêu họ đến. Về sau, chúng tôi hỏi tại sao họ đến nơi, thì họ trả lời:

- Chúng tôi không biết. Chúng tôi chỉ nhớ lại rằng chúng tôi đang chạy đến đây với các anh. Chúng tôi không nhớ rằng có ai kêu chúng tôi đến. Chúng tôi chỉ thấy rằng mình đang chạy, và chúng tôi chạy đã xa trước khi biết rằng mình đang làm gì.

Một người trong chúng tôi kêu lên:

- Đôi mắt mở lớn đến nỗi tôi nhìn thấy cõi giới bên kia cửa Tử. Biết bao nhiêu điều mầu nhiệm lạ lùng được tiết lộ cho tôi, làm cho tôi không kịp suy nghĩ gì cả.

Một người khác nói:

- Tôi thấy toàn thể thế giới đã thắng đoạt được Tử Thần. Khi đó một câu trong sách hiện ra trong trí tôi một cách rõ ràng và sáng chói: Kẻ thù cuối cùng của loài người, Sự Chết, sẽ bị loại trừ. Phải chăng những lời này đã được thực hiện?

Chúng ta có một trí khôn rất tầm thường nhỏ nhen so với cái quan niệm lớn lao vĩ đại đó, tuy vậy nó thật là giản dị biết bao. Và chúng ta đã dám tự cho mình là những khối óc thông minh tuyệt vời. Chúng ta chỉ là những phường trẻ con. Tôi bắt đầu hiểu những lời này: "Các ngươi phải tái sinh trở lại." Những lời này thiệt là chí lý xiết bao!

Độc giả có thể tưởng tượng sự ngạc nhiên và ngơ ngác của chúng tôi. Đây là một người đã cùng đi với chúng tôi và giúp đỡ chúng tôi hằng ngày, người ấy lại có thể nằm phơi mình trên mặt đất để bảo vệ cho một thôn ấp và đồng thời tiếp tục công việc phụng sự một cách chu đáo và toàn hảo ở một nơi khác.

Chúng tôi bị bắt buộc nhớ lại câu nói trong Thánh Kinh: "Người cao cả nhất trong các ngươi, là người nào dốc lòng phụng sự kẻ khác." Kể từ khi đó, tất cả chúng tôi không ai còn sợ chết nữa.

Dân bổn xứ có thói quen đặt một xác người nằm trong rừng rậm trước một thôn ấp, khi mà trong vùng có nạn xâm lăng quấy nhiễu bởi những phần tử bất hảo đi hai chân hoặc bốn chân. Nhờ đó làng mạc khỏi bị trộm cướp hay thú dữ quấy phá, và được an toàn như ở giữa đô thị. Thể xác của Dật Sĩ hiển nhiên là đã nằm tại đó trong một thời gian rất lâu.

Đầu tóc của y đã mọc loạn xạ và có chứa những ổ chim, đó là một loại chim nhỏ đặc biệt của vùng này. Giống chim này đã làm tổ trên đầu y, nuôi những chim non cho đến khi chúng lớn lên và bay mất đi; đó là cái bằng chứng tuyệt đối về thời gian mà xác thân của Dật Sĩ đã nằm yên bất động tại đó.

Giống chim này rất nhát gan, mỗi cử động nhẹ cũng làm cho chúng dợ sệt và dọn ổ đi nơi khác. Điều này chứng tỏ rằng chúng đã đặt sự mến yêu và tin cậy vào nơi chúng đã làm tổ.

Giống cọp núi ăn thịt người gieo tại họa khủng khiếp trong đám dân làng đến nỗi đôi khi họ bỏ hết mọi sự chống cự và tin rằng định mệnh của họ là bị cọp ăn. Giống cọp này đột nhập vào làng xóm và chọn mồi để ăn thịt.

Chính ở trước một thôn ấp này, ở giữa chốn rừng sâu hoang vắng, mà chúng tôi nhìn thấy thể xác của một người khác cũng nằm dưới đất vì mục đích bảo vệ xóm làng. Dân làng này đã bị cọp ăn thịt mất gần hai trăm người. Chúng tôi thấy một trong những con cọp này bước đi một cách vô cùng thận trọng ngang qua chân của thể xác nằm dưới đất.

Hai người trong chúng tôi quan sát cái thể xác này trong gần ba tháng. Khi họ rời khỏi làng, thể xác ấy vẫn còn nằm yên tại chỗ và không có một tai nạn gì xảy đến cho dân làng. Chính người này về sau đã tháp tùng với phái đoàn chúng tôi trong chuyến hành trình sang Tây Tạng.

Đêm đó, trong trại chúng tôi có một sự xúc động mãnh liệt đến nỗi không ai nhắm mắt ngủ được, trừ ra Dật Sĩ. Y ngủ thẳng giấc như một đứa trẻ nhỏ. Thỉnh thoảng, một người trong chúng tôi ngồi dậy nhìn xem y ngủ, rồi lại nằm xuống và nói với người nằm bên cạnh:

- Anh hãy véo tôi một cái để xem có phải thật là tôi đang tỉnh giấc hay không!



5. Ngôi Đền Im Lặng



Vì chúng tôi có rất nhiều công việc phải hoàn thành trước khi vượt qua dãy Tuyết Sơn, nên làng Asmah là nơi căn cứ tốt nhất của chúng tôi. Người bạn mà chúng tôi đã để lại ở Potal để quan sát đức Tuệ Minh cũng đã về đến nơi. Y thuật lại rằng y đã nói chuyện với đức Tuệ Minh cho đến gần bốn giờ chiều ngày mà ngài hẹn có mặt tại chỗ đến tiếp đón chúng tôi ở Asmah.

Vào lúc đó đức Tuệ Minh nói rằng ngài phải đi ngay đến chỗ hẹn. Thể xác ngài bèn trở nên cứng đơ, nằm yên như người ngủ trên nệm. Ngài nằm trong tư thế đó độ chừng ba tiếng đồng hồ, cái thể xác trở lên lu mờ dần và biến mất. Đó là giờ phút mà đức Tuệ Minh tiếp đón chúng tôi vào buổi chiều tại quán trọ làng Asmah.

Mùa này chưa thuận tiện để cho chúng tôi vượt qua các truông núi. Ba người bạn cao cả của chúng tôi có thể vượt qua các đoạn đường núi một cách dễ dàng và mau chóng hơn chúng tôi nhiều, nhưng không có vị nào phàn nàn về sự chậm trễ này. Tôi gọi các vị ấy là cao cả, bởi vì họ thất sự xứng đáng với danh từ ấy do đức hạnh của họ.

Tại Asmah, chúng tôi đã xuất hành nhiều lần đi ra các vùng chung quanh, có khi thì đi với Dật Sĩ, có khi thì đi với Nê Bưu. Mỗi lần như vậy, họ đều chứng tỏ được những đức tính quý báu. Một trong những chuyến ngao du này nhằm mục đích viếng thăm một làng trong đó có một ngôi đền gọi là đền Im Lặng.

Làng này gồm có ngôi đền và nhà cửa của những người giúp việc công quả trong đền. Trước kia, vùng này là nơi tọa lạc của một làng khác đã hầu như hoàn toàn bị tàn phá bởi các bệnh truyền nhiễm và loài thú dữ. Đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, Nê Bưu cùng đi với chúng tôi và nói cho chúng tôi biết rằng thuở xưa kia khi các Chân Sư đến viếng thăm nơi này, các ngài chỉ thấy có một thiễu số lưa thưa những người còn sống sót trong số ba ngàn dân cư trong làng.

Các ngài săn sóc họ, và sau đó những thú dữ và bệnh tật đều biến mất. Những kẻ sống sót mới cầu nguyện rằng trong trường hợp họ được bình yên, họ sẽ xin lập công quả suốt đời và phụng sự trong bất cứ công việc nào do Thượng Đến sắp đặt. Các Chân Sư bèn ra đi, và về sau khi các ngài trở lại, các ngài thấy ngôi đền này dựng lên và những dân làng sống sót trước kia chăm lo việc công quả thờ phụng trong đền.

Đó là một ngôi đền rất đẹp, xây trên một ngọn đồi cao, ngự trị khắp vùng xung quanh. Đền xây bằng đá trắng và đã có từ sáu ngàn năm nay. Nó không bao giờ cần có một sự tu bổ nào.

Đức Tuệ Minh nói:

- Đây là ngôi đền Im Lặng, tức là nơi chỗ của Quyền Năng. Vì im lặng là đồng nghĩa với quyền năng, khi chúng ta đạt tới chỗ im lặng trong tư tưởng, chúng ta đến tại chỗ của quyền năng, nơi đó tất cả đều là sự hợp nhất, một quyền năng duy nhất, tức là Thượng Đế vậy.

Quyền năng hao tán là động, quyền năng tập trung là tĩnh. Khi ta tập trung mọi sức mạnh vào một trung tâm tinh lực duy nhất, chúng ta tiếp xúc với Thượng Đế trong im lặng. Chúng ta hợp nhất với Ngài và do đó hơp nhất với mọi quyền năng. Đó là cái gia tài thừa kế của mỗi con người: "Thượng Đế và tôi chỉ là một."

Phương pháp duy nhất để hợp nhất với quyền năng của Thượng Đế là tiếp xúc một cách ý thức với Thượng Đế. Điều này không thể thực hiện được từ bên ngoài, vì Thượng Đế xuất phát từ bên trong nội tâm.

Chúng ta hãy từ bỏ ngoại cảnh để quay về sự yên tĩnh của nội tâm. Nếu không như vậy, chúng ta không thể hy vọng hợp nhất một cách ý thức với Thượng Đế. Chúng ta sẽ hiểu rằng quyền năng của Ngài cũng trong tầm tay chúng ta, và chúng ta sẽ luôn luôn sử dụng quyền năng ấy.

Chừng đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta hợp nhất với quyền năng của ngài và chúng ta sẽ cảm thông với nhân loại. Con người sẽ từ bỏ những ảo giác của lòng tự ái, sẽ nhận thức được sự vô minh và hèn kém của mình, và sau cùng sẽ sẵn sàng chịu học hỏi.

Y sẽ thấy rằng người ta không thể truyền dạy điều gì cho những kẻ kiêu căng tự phụ, và chỉ có những người có lòng khiêm tốn nhỏ nhoi mới có thể hiểu được Chân Lý. Hai chân y sẽ đứng vững trên một nền tảng cứng rắn, y sẽ không còn hoang mang bấp bênh nữa, y sẽ có ý thức về sự quân bình và lòng cương nghị...

Thượng Đế không nghe những lời cầu xin tuôn tràn như suối của chúng ta, cũng không nghe những lời kêu gọi thiết tha ầm ĩ lập đi lập lại nhiều lần một cách vô ích. Chúng ta phải tìm kiếm Ngài bằng cái Chân Ngã trong nội tâm, đó là sự liên lạc vô hình giữa ta với Ngài mà ta vốn có sẵn ở tự nơi mình.

Ngài nghe lời kêu gọi của linh hồn chân thành cởi mở để tiếp đón ngài, nếu người cầu xin biết sùng kính ngài bằng tâm hồn và trong im lặng. Người nào tiếp xúc với Thượng Đế trong âm thầm sẽ nhận biết được quyền năng của Ngài do sự thực hiện được tất cả những điều mong ước của họ. Vì Thượng Đế công khai ban thưởng cho kẻ nào tìm kiếm Ngài trong chỗ thâm sâu kín của tâm hồn.

Trong một cơn linh ảnh hiện ra trước mắt đức Jesus trong bãi sa mạc, ngài thấy "Các cõi Trời rộng mở" và thấu hiểu cái định luật "Biểu lộ" theo đó những ý niệm có sẵn trong Tư Tưởng Thiêng Liêng sẽ xuất hiện ra để biểu lộ trong những hình thể sắc tướng.

Luật này được tiết lộ cho ngài một cách hoàn toàn, đến nỗi ngài thấy rằng ngài có thể biến đổi tất cả mọi hình thể bằng cách điều chỉnh những trạng thài tâm thức của mình đối với chúng.

Trước hết ngài có ý muốn biến đổi những hòn đá tảng thành bánh mì để ăn để dịu bớt cơn đói lòng. Nhưng trong khi đó, ngài cũng tiếp nhận được sự diễn đạt đúng đắn về "Luật biểu lộ." Các viên đá tảng, cũng như tất cả mọi vật hữu hình, đều xuất xứ từ cái Chất Liệu của Tư Tưởng Thiêng Liêng, tức là Thượng Đế.

Chúng nó là những biểu lộ thật sự của Tư Tưởng của Ngài. Mọi vật mà ta mong muốn, nhưng chưa hình thành, vẫn có sẵn trong chất Tiên Thiên Khí, nó sẵn sàng cung cấp vật liệu cho cơ Sáng Tạo, sẵn sàng tự biểu hiện ra ngoài để thỏa mãn mấy điều ước vọng của con người.

Sự cần dùng bánh mì dùng để chứng minh rằng cái chất liệu dùn để làm bánh mì vốn ở trong tầm tay của ta và có sẵn với những số lượng vô biên bất tận. Cái chất liệu đó, nó vốn là tinh hoa của mọi vật, có thể tự biến đổi thành đá tảng hay thành bánh mì.

Khi con người mong ước điều lành, sự mong ước của y cùng với một sự mong ước của Thượng Đế. Cho Chất Liệu Thiên Nhiên, hay Tiên Thiên Khí bao bọc chung quanh chúng ta, có chứa đựng một nguồn tài nguyên vô tận để làm thỏa mãn tất cả mọi sự mong ước tốt lành.

Chúng ta chỉ cần tập sử dụng lấy những gì mà Thượng Đế đã sáng tạo ra trước cho chúng ta. Ngài muốn rằng chúng ta hãy sử dụng cái kho thiên nhiên đó để vượt qua mọi giới hạn vật chất của mình và trở nên "Tự do trong sự sung mãn..."

#52 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/06/2011 - 06:07

Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG HAI


1. Quyền Năng Sáng Tạo Và Tâm Thức Bồ Đề


Bận về, chúng tôi thấy có một số đông nhưng người lạ tề tựu ở làng Asmah. Họ đến từ những vùng chung quanh. Một số các vị Chân Sư đã tựu họp lại để sắp sửa đi hành hương đến một vùng hẻo lánh cách đó gần bốn trăm cây số.

Điều này làm chúng tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi đã đi xuất hành một chuyến về hướng ấy và nhận thấy rằng cách đấy một trăm hai mươi cây số, con đường mòn đi ngay vào một bãi sa mạc hoang vu.

Bãi sa mạc này thật ra là một vùng cao nguyên bao phủ bởi những đồn cát di động luôn luôn dưới những cơn gió lớn, và ở đó cỏ cây rất thưa thớt. Bên kia đồng cát, con đường mòn vượt lên những dãy núi nhỏ trong dãy Tuyết Sơn.

Chiều hôm đó, chúng tôi được mời cùng đi trong chuyến hành hương, và sẽ lên đường vào ngày thứ hai kế đó. Chúng tôi được cho hay trước rằng không cần đem theo những đồ hành lý nặng vì chúng tôi sẽ còn trở về Asmah trước khi vượt qua dãy Tuyết Sơn.

Dật Sĩ và Nê Bưu dĩ nhiên là đã chuẩn bị tất cả mọi việc, và ngày thứ hai lúc trời còn chưa sáng, chúng tôi đã nhập bọn với ba trăm đoàn viên của nhóm người hành hương.

Phần nhiều những người này bị đau vì những bệnh tật mà họ hy vọng sẽ được chữa khỏi trong chuyến đi này. Mọi việc đều trôi chảy êm đẹp cho đến ngày thứ bảy, trời thình lình nổi lên một cơn giông bão dữ dội nhất mà chúng tôi chưa từng thấy bao giờ.

Trong ba ngày và ba đêm, những cơn mưa lũ rơi xuống không dứt, báo hiệu sắp đến mùa hè. Chúng tôi cắm trại ở một nơi cao ráo sạch sẽ, và cơn giông không gây cho chúng tôi một sự trở ngại nào. Chúng tôi lo ngại nhất là vấn đề tiếp liệu, vì chúng tôi biết rằng một sự trì hoãn kéo dài sẽ rất bất tiện cho tất cả mọi người.

Thật vậy, những người này chỉ đem theo một số lương thực tối thiểu, vừa đủ dùng cho chuyến hành hương, và không có phòng bị những trường hợp trì hoãn có thể xảy đến. Sự trì hoãn này lại càng nghiêm trọng gấp đôi, vì chúng tôi không thấy có giải pháp nào khác hơn là quay trở về Asmah để tiếp tế lương thực.

Trong trường hợp này, chúng tôi phải vượt qua hai trăm cây số đường trường, mà phần lớn đi xuyên qua bãi sa mạc như đã nói ở trên.

Sáng ngày thứ năm, mặt trời chói rạng trên bầu trời quang đãng, và chúng tôi quyết định lên đường. Nhưng người ta cho hay cho hay là tốt hơn chúng tôi nên đợi cho đường khô ráo và mực nước sông giựt xuống thấp, để chuyến đi được dễ dàng hơn.

Một người trong chúng tôi bày tỏ nỗi lo ngại chung của tất cả mọi người là lương thực sẽ cạn. Đức Tuệ Minh là vị đảm trách việc tiếp liệu, bèn nói với chúng tôi:

- Không cần phải lo ngại chi cả. Thượng Đế há chẳng săn sóc tất cả chúng sinh, lớn cũng như bé, và chúng ta há chẳng phải là chúng sinh của ngài hay sao? Các bạn hãy nhìn xem những hột giống lúa mì này. Tôi trồng nó xuống đất. Cử chỉ đó xác nhận rằng tôi cần dùng lúa mì, tôi đã tạo lúa mì trong trí tôi.

Tôi đã làm đúng theo luật tự nhiên và lúa mì sẽ mọc đúng theo thời kỳ của nó. Phương pháp trồng lúa mì theo luật tự nhiên rất lâu dài và khó nhọc. Chúng ta cần phải chịu khó chờ đợi lâu lắc như vậy chăng?

Tại sao không kêu gọi đến một định luật cao siêu và toàn vẹn hơn để làm cho lúa mì mọc lên mau lẹ? Người ta chỉ cần định thần một lát trong sự yên tĩnh, quan niệm rõ lúa mì trong tư tưởng, và đây là những hột lúa mì sẵn sàng để đem xay giã. Nếu các bạn nghi ngờ, các bạn hãy lượng lấy nó, trước măt chúng ta có lúa mì đã đập xong, chúng ta chỉ cần đem xay ra bột và làm bánh mì.

Đức Tuệ Minh nói tiếp:

- Các bạn đã thấy và tin. Nhưng tai sao chúng ta không kêu gọi đến một định luật còn toàn vẹn hơn nữa và sản xuất một vật còn toàn vẹn hơn, nghĩa là đúng cái món ăn mà ta cần dùng, tức là bánh mì! Các bạn sẽ thấy rằng các định luật còn toàn vẹn hơn, tế nhị hơn ấy, sẽ giúp cho tôi làm đúng cái món ăn mà tôi cần: đó là bánh mì.

Trong khi chúng tôi ngồi nghe một cách thích thú, thì một ổ bánh mì mới xuất hiện trên tay đức Tuệ Minh, rồi nhiều ổ nữa mà ngài đặt lên bàn cho đến khi chúng tôi đếm tất cả bốn chục ổ. Đức Tuệ Minh nói:

- Các bạn thất rằng có đủ bánh mì cho tất cả mọi người. Nếu ăn không đủ, thì sẽ có các ổi khác nữa cho đến khi chúng ta ăn còn dư thừa.

Tất cả chúng tôi đều ăn bánh mì đó và cảm thấy rất ngon. Đức Tuệ Minh lại nói tiếp:

- Khi đức Jesus hỏi thánh Philips ở thành Galilée: "Chúng ta sẽ mua bánh mì ở đâu?" Thì đó là để thử thách vị môn đồ. Đức Jesus biết rõ rằng bánh mì mà đám quần chúng đang cần dùng không phải mua ở ngoài chợ hay ở các thị trường thương mại. Ngày mượn dịp đó để chỉ các môn đồ thấy rằng người ta có thể tạo ra bánh mì bằng sức mạnh của Tinh Thần.

Người đời thường thường có quan niệm vật chất như Phips! Vị môn đồ này cũng tính như mọi người: "Ta có bấy nhiêu bánh mì, bấy nhiêu lương thực hay bấy nhiêu tiền bạc..."Đức Jesus biết rằng khi người ta sống ở tâm thức Bồ Đề hay sống với tâm thức Chân Ngã, thì người ta không còn bị thiếu thốn hay gò bó gì trong sự giới hạn nào cả.

Ngài nhìn về Thượng Đế là Nguồn Gốc của đấng Sáng Tạo ra muôn loài và tạ ơn ngài đã luôn luôn đặt trong tầm tay của loài người và chất liệu cần thiết để thỏa mãn tất cả các nhu cầu của họ. Ngài bèn bẻ bánh mì và bảo các môn đồ hãy phân phát cho tất cả mọi người. Khi tất cả mọi người đều ăn đã no, thì hãy còn thừa tới mười hai rổ bánh.

Đức Jesus dạy rằng trong Tiên Thiên Khí có chứa đựng chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể tìm ra lương thực của mình từ trong đó. Chúng ta rút cái chất liệu ấy ra để tạo lên mọi thứ cần dùng.

Cũng bằng cách đó Elisée làm cho người quả phụ thành Jéruasalem có giàu để ăn thừa thãi không bao giờ hết. Ngài không hỏi đến kẻ có thừa dầu ăn trong nhà, vì như thế số dầu chỉ có giới hạn.

Ngài tiếp xúc với cõi Thiên Nhiên, và số dầu tạo ra không có giới hạn nào khác hơn là dung lương của những bình chứa. Nếu người ta có đủ số lu, bình, vại để chứa, thì có lẽ đến bây giờ, dầu ấy vẫn chảy chưa hết!

Đức Tuệ Minh nói tiếp:

- Đây không phải là một cuộc thôi miên. Không có người nào trong các bạn đã có cảm giác rằng mình bị thôi miên. Nhưng các bạn đã tự mình thôi miên lấy mình từ lúc đầu bằng cách tin tưởng rằng người ta không thể nào thực hiện công việc toàn vẹn của Thượng Đế, hay tạo nên những đồ vật mà mình mong ước.

Sự nhu cầu phải chăng cũng là ý muốn sáng tạo? Thay vì vươn mình lên để sáng tạo theo như ý muốn của Thượng Đế, người ta tự thu mình trong một cái vòng chật hẹp và nói "Tôi không thể". Do sự tự kỷ ám thị đó, rốt cuộc người ta tin rằng mình là một thực thể cách biệt với Thượng Đế.

Họ đã đi lệch ra ngoài con đường toàn vẹn, họ đã bỏ lỡ mất cái mục đích sáng tạo. Họ không để cho Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua họ như Ngài muốn.

Đức Jesus, bậc đại giáo chủ, há chẳng nói rằng:

"Những việc gì mà ta đã làm, các ngươi sẽ cũng làm được, và các ngươi còn sẽ làm được những việc lớn lao hơn nữa."

Con người trong cương vị chân thật của họ, là con của Thượng Đế, sứ mạng của đức Jesus trên thế gian phải chi là để chứng tỏ rằng trong cương vị đó, con người cũng có thể sáng tạo một cách hoàn hảo và tốt đẹp như Thượng Đế?

Khi đức Jesus ra lệnh cho người mù mà hãy đứng dẩy rửa mắt y trong nước ao Siloè, phải chăng là để cho đám quân chúng thấy rằng ngài được Chúa Trời gửi xuống thế gian để sáng tạo cũng như Chúa Trời vậy? Đức Jesus muốn rằng mỗi người trong chúng ta cũng làm y như vậy bằng cánh thực hiện Chân Ngã nơi mình và nơi kẻ khác.

Tôi có thể tiến thêm một bước xa hơn nữa. Cái ổ bánh mì mà tôi nhận được và cầm trên tày đã tiêu hủy dường như bị lửa đốt cháy. Tại sao? Tôi đã lạm dụng cái định luật huyền bí mà nó đã giúp Philips tôi thể hiện ý muốn. Tôi đã đốt cháy món đồ vật mà tôi vừa sáng tạo nên.

Làm như vậy, tôi đã lạm dụng cái định luật toàn vẹn đó, định luật cũng đúng đắn như những luật của âm nhạc chẳng hạn. Nếu tôi cứ tiếp tục lạm dụng hoài, thì không những luật ấy sẽ đốt cháy những vật tôi đã tạo nên, mà còn đốt cháy thiêu luôn cả người sáng tạo, là chính tôi nữa.

Mới đây, các bạn đã thấy một cục nước đá tượng hình trong ly nước mà không có nguyên nhân rõ rệt. Tuy vậy, vẫn có một nguyên nhân, và đó cũng là cái nguyên nhân đã tạo nên ổ bánh mì.

Tôi có thể sử dụng cái định luật huyền bí đó khi mà tôi dùng ổ bánh mì hay khối nước đá để làm việc lợi ích cho nhân loại, hay là tôi hành động với tình thương, phù hợp với luật ấy, hoặc là khi mà tôi biểu lộ sự hành động của tôi theo ý muốn của Thượng Đế.

Làm ra ổ bánh mì, nước đá hay một vật mà mình mong ước, là điều tốt. Mỗi người nên đi mau đến nơi chỗ mà người ta có thể làm những vật ấy. Các bạn có thấy là các bạn nên sử dụng cái định luật cao cả nhất, tức là luật tuyệt đối của Thượng Đế chăng? Các bạn sẽ tạo nên những gì mà các bạn cần dùng và thực hiện được những gì mà các bạn đã quan niệm sẵn trong trí như là cái lý tưởng cao đẹp nhất của mình.

Các bạn sẽ được đẹp lòng Thượng Đế bằng cách tự biểu lộ và toàn vẹn hơn, với điều kiện là phải biết, cũng như đức Jesus, rằng mình là những người con hoàn hảo của Thượng Đế.



2. Thuật Đi Trên Mặt Nước



Sau tám ngày dừng chân một chỗ, một buổi sáng chúng tôi dỡ trại và tiếp tục lộ trình. Vào lúc xế trưa ngày thứ ba, chúng tôi đến bờ một con sông lớn chừng sáu hay bảy trăm thước bề rộng, nước chảy tràn bờ với một tốc lực rất mau chóng.

Chúng tôi được biết rằng người ta có thể đi qua một chiếc cầu ở phía thượng lưu giòng nước để vượt qua sông, nhưng phải đi vòng quanh mất bốn ngày trên những con đường mòn rất cheo leo hiểm trở. Chúng tôi nghĩ rằng nếu phải chờ nước giựt xuống, thì tốt hơn nên đợi vài ngày ở tại chỗ.

Như đã được đức Tuệ Minh chứng tỏ cho thấy, chúng tôi không cần phải lo ngại về vấn đề tiếp tế. Thật vậy, từ ngày chúng tôi bị cạn lương thực cho đến ngày trở về căn cứ điểm ở Asmah, tức là trong sáu mươi bốn ngày, tất cả đoàn gồm trên ba trăm người hành hương đều được tiếp tế đầy đủ với những đồ vật thực xuất xứ từ "Cõi vô hình."

Cho đến khi đó, không một ai trong nhóm chúng tôi đã hiểu ý nghĩa thật sự của những sự việc đã xảy ra. Chúng tôi không thể hiểu rằng tất cả đã được thực hiện do bởi một định luật huyền bí mà mỗi người đều có thể sử dụng.

Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có năm người lạ ở trong trại chúng tôi. Họ được giới thiệu với chúng tôi như là thuộc về một nhóm người cắm trại ở bờ bên kia sông và vừa về đến nơi từ một làng mà chúng tôi định sẽ đến viếng.

Chúng tôi không để ý gì đến chi tiết này, vì lẽ tự nhiên chúng tôi nghĩ rằng chắc là họ đã tìm thấy một chiếc đò để vượt qua sông. Khi đó một người trong bọn chúng tôi muốn nói:

- Nếu những người này có đò qua sông, thì tại sao chúng ta không mượn dùng tạm để qua sông như họ vậy?

Chúng tôi tưởng là có lối thoát cho vấn đề khó khăn này, nhưng người ta nói cho chúng tôi biết rằng không có đò vì chỗ này ít có hành khách qua sông nên không ai nghĩ đến việc đưa đò.

Sau bữa ăn điểm tâm, tất cả chúng tôi đều tựu họp trên bờ sông. Chúng tôi nhận thấy rằng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, Nê Bưu và bốn người trong nhóm chúng tôi đang nói chuyện với năm người khách lạ.

Dật Sĩ bước đến gần chúng tôi và nói rằng tất cả bọn họ đều muốn qua sông cùng với năm người khách lạ để ở lại chơi giây lát trong trại ở bên kia sông. Họ còn nhiều thời giờ vì họ đã quyết định ở lại đến ngày hôm sau để đợi cho mực nước sông hạ xuống thấp. Lẽ tự nhiên, sự tò mò của chúng tôi bị kích thích.

Chúng tôi cho rằng thật là một việc táo bạo mà muốn lội qua sông giữa giòng nước cuốn mau như vậy chỉ vì mục đích thăm viếng xã giao một trại láng giềng! Chúng tôi không nghĩ rằng chuyến đi qua sông lại có thể thực hiện một cách khác hẳn.

Khi Dật Sĩ đã trở lại nhóm bạn của y, mười hai người trong nhóm có mặc áo quần đầy đủ, liền đi ngay xuống sông, và bước chân lên trên mặt nước (tôi không nói xuống nước). Tôi không bao giờ quên những cảm giác của tôi khi tôi thấy mười hai người ấy nối tiếp nhau đi hàng một từ đất liền xuống sông và đi trên mặt nước một cách tự nhiên!

Tôi nín hơi thở, vì tôi lo ngại rằng họ sẽ chìm đắm và bị giòng nước cuốn trôi đi mất. Về sau tôi được biết rằng tất cả các bạn tôi cũng đều cảm nghĩ giống như tôi lúc ấy. Nhưng khi đó, mỗi người trong chúng tôi đều lặng người nín thở cho đến khi tất cả mười hai người kia đã đi qua khỏi giữa sông, vì chúng tôi ngạc nhiên xiết bao mà thấy họ đi bình yên trên mặt nước, không hề sợ sệt, vì nước không ngập quá gót giầy của họ.

Khi họ đã qua sông và lên đến bờ bên kia, tôi có cảm giác như trút được một gánh nặng nghìn cân. Tôi tin rằng các bạn gái của tôi cũng có những cảm giác như vậy, cứ xét về nụ cười thoải mái của họ khi tất cả mười hai người kia đều đã qua sông. Đó hẳn là một kinh nghiệm chưa từng có đối với chúng tôi.

Bảy người trong nhóm của chúng tôi đã vượt qua sông trở lại để dùng bữa ăn trưa. Tuy rằng bận về của họ ra đi lần đầu tiên, mỗi người chúng tôi đều thở dài nhẹ nhõm khi tất cả đều đã bước lên chân bờ. Không có người nào trong nhóm chúng tôi đã rời khỏi bờ sông ngày hôm đó. Chúng tôi không bình phẩm gì về sự việc nói trên vì chúng tôi đã quá đắm chìm trong những cơn suy tư trầm lặng.

Đến xế trưa, vì thấy mực nước sông không giựt xuống nên chúng tôi đành phải đi thêm đường rừng. Chúng tôi thức dậy sớm vào sáng ngày hôm sau và chuẩn bị lên đường. Trước khi chúng tôi ra đi, năm mươi hai người trong trại chúng tôi lẳng lặng tiến về phía bờ sông và đi trên mặt nước để vượt qua sông như mười hai người ngày hôm trước.

Người ta nói cho chúng tôi biết rằng chúng tôi có thể cùng đi qua sông với họ, nhưng không một ngày nào trong nhóm chúng tôi có đủ đức tin để làm thử. Dật Sĩ va Nê Bưu đòi đi vòng lớn theo đường rừng cùng chúng tôi. Chúng tôi cố gắng thuyết phục họ đừng làm vậy, viện lẽ rằng chúng tôi có thể tìm đường đi, để tránh cho hai vị khỏi tốn công nhọc sức. Hai vị không nghe, nhất định cùng đi cùng với chúng tôi, và nói rằng điều ấy không có gì là khó nhọc đối với họ cả.

Trong bốn ngày đi bộ vòng quanh đường núi cheo leo để theo kịp những người đã qua sông bằng cách đi trên mặt nước, chúng tôi không có đề tài nói chuyên hay suy ngẫm nào khác hơn là những diễn biến ly kỳ mà chúng tôi đã chứng kiến trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng tôi đã trải qua cùng với những nhân vật lạ lùng này.

Qua ngày thứ nhì, chúng tôi đang vất vả khó nhọc để trèo lên một con đường dốc đứng, dưới ánh mặt trời nóng gắt, thì vị trưởng nhón của chúng tôi, vẫn im lặng từ suốt hai ngày qua không nói một câu nào, thình lình nói lớn:

- Này các bạn, tại sao con người lại bị bắt buộc phải bò lết trên mặt đất?

Chúng tôi đồng thanh đáp lại rằng ông ta đã nói lên đúng cái ý nghĩ của chúng tôi lúc ấy. Vị trưởng nhóm nói tiếp:

- Nếu có những người mà có thể làm được những gì mà chúng ta vừa thấy, thì tại sao tất cả lại không thể làm được như vậy? Tại sao con người lại bằng lòng chịu bò lết trên đất, và không những bằng lòng thôi, mà bị bắt buộc phải bò và lết?

Nếu con người có cái quyền năng chế ngự như mọi loài, thì chắc hẳn là y phải có thể bay cao hơn loài chim. Nếu như vậy, tại sao y không chứng tỏ quyền năng của mình từ lâu? Đó chắc hẳn là do tư tưởng của con người.

Tất cả đều do cái quan niệm duy vật của con người về bản chất của mình. Trong tư tưởng của y, con người chỉ có nghĩ rằng y đang bò lết trên mặt đất thôi. Bởi đó nên y chỉ có thể bò và lết!

Dật Sĩ liền chụp ngay lấy cơ hội nói:

- Ông bạn hoàn toàn có lý, tất cả đều do tâm trạng của con người. Tùy theo sự cảm nghĩ của con người, mà y bị giới hạn hay toàn năng, tự do hay nô lệ. Các bạn tưởng rằng những người mà ngày hôm qua các bạn đã thấy đi trên mặt nước để vượt qua sông để tránh khỏi con đường đi vòng quanh vất vả này, là những người đặc biệt và có ân huệ thiêng liêng chăng?

Không, họ không khác gì các bạn cả. Họ không có được mảy may quyền năng nào hơn các bạn. Họ chỉ có phát chuyển quyền năng thiêng liêng của họ bằng cách sử dụng đúng đắn cái sức mạnh của tư tưởng. Những gì các bạn đã thấy chúng tôi làm, các bạn cũng có thể làm được một cách tự do và hoàn hảo như vậy, bởi vì tất cả những hành động của chúng tôi đều hòa hợp với một với một định luật thiên nhiên mà mỗi người đều có thể sử dụng tùy theo ý muốn.

Tới đây câu chuyện chấm dứt. Chúng tôi gặp lại năm mươi hai người đã vượt qua sông, và cùng nhau đi đến nơi thôn ấp, mục tiêu của chuyến hành hương.



3. Ngôi Đền Chữa Bịnh



Ngôi Đền Chữa Bịnh nằm ở trong thôn ấp nói trên. Tục truyền rằng từ ngày dựng lên ngôi đền này, tại đó người ta chỉ có thốt ra những lời nói biểu lộ lòng hiếu sinh, tình bác ái, và sự bình an. Những làn âm ba rung động tại đây có một mãnh lực phi thường làm cho phần nhiều khách hành hương được khỏi bịnh ngay trong khoảnh khắc.

Người ta cũng đồn rằng nững lời nó biểu lộ đức hiếu sinh, bác ái và bình an tại đây được lập đi lập lại nhiều lần và toát ra từ ngôi đền này từ lâu đến nỗi những âm ba rung động có đủ mãnh lực để phá tan ảnh hưởng của mọi lời nói xung khắc và bất hảo mà người ta thốt ra tại đây.

Điều này cũng tiêu biểu cho sự tác động trong con người. Nếu người ta tập được thói quen chỉ thốt ra những lời nói có tính cách hiếu sinh, bác ái, điều hòa và chí thiện, thì không bao lâu người ta sẽ không còn có thể thốt ra một lời nói chướng tai nghịch nhĩ nào nữa. Chúng tôi đã thử dùng những danh từ xấu xa và mỗi lần như vậy đều nhận thấy rằng chúng tôi không thể nào thốt ra nên lời.

Ngôi đền này là mục tiêu hành hương của những người muốn được chữa khỏi các chứng bệnh tật. Các vị Chân Sư ở vùng kế cận thường có những cuộc tựu họp định kỳ tại làng này để tiếp với họ và những người muốn thừa cơ hội để học Đạo.

Ngôi đền được hoàn toàn cống hiến cho việc chữa bịnh và luôn luôn mở cửa cho công chúng. Vì công chúng không phải lúc nào cũng được gặp các Chân Sư nên các ngài khuyên họ hãy lại ngôi đền này mỗi khi có dịp thuận tiện vì mục đích chữa bịnh.

Bởi đó, các Chân Sư không có chữa bịnh cho những người hành hương này từ lúc đầu. Các ngài đã cùng đi một lượt với họ để chỉ cho họ thấy rằng cái ngài không khác biệt chi với họ cả, và mỗi người có tự nơi mình những quyền năng thiên phú mà Thượng Đế đã ban cho.

Khi các ngài nêu gương vượt qua sông bằng cách đi trên mặt nước, tôi nghĩ rằng các ngài muốn chứng minh cho những người hành hương và chúng tôi thấy khả năng thắng đoạt mọi chướng ngại khó khăn của các ngài và khuyến khích chúng tôi hãy bắt chước làm theo các ngài.

Ở những nơi cheo leo cách trở mà từ đó người ta không thể nào đi tới ngôi đền này, người nào đến cầu xin sự cứu giúp của các Chân Sư đều được những kết quả tốt lành. Luôn luôn cũng có những kẻ tò mò và những kẻ vô ngưỡng, nhưng dường như họ không nhận được một sự giúp đỡ nào rõ rệt.

Chúng tôi tham dự nhiều cuộc hội họp từ hai trăm đến hai nghìn người, trong đó tất cả những người có bịnh tật nan y đều được khỏi bịnh chỉ bằng cách âm thầm bày tỏ ý muốn được chữa khỏi. Chúng tôi có dịp quan sát một số rất lớn những người được chữa khỏi bịnh như vậy trải qua nhiều giai đoạn khác nhau.

Trong chín mươi phần trăm các trường hợp, sự khỏi bịnh được lâu bền, và đối với những người được chữa khỏi bịnh trong ngôi đền thì tỷ lệ đó lên đếm một trăm phầm trăm. Ngôi đền này luôn luôn mở rộng cửa cho những ai muốn tìm đến. Người ta có thể đến đó bao nhiêu lần và ở lại đó bao nhiêu tùy ý. Một lý tưởng được hình thành bằng cách tư tưởng của những khách đến viếng và in sâu trong trí họ.

Đức Tuệ Minh nói:

- Chính ở đây là nơi xuất phát cái mầm móng tư tưởng đưa đến việc tôn sùng thần tượng của thời quá khứ. Con người tìm cách tạc trong gỗ, đá, vàng, bạc hay đồng, hình ảnh cái lý tưởng của họ. Khi cái hình tượng vừa thành hình xong, thì cái lý tưởng đã vượt lên cao hơn cái hình tượng ấy rồi.

Bởi vậy, người ta phải nhìn thấy cái diện ảnh, yêu và lý tưởng hóa những gì đến với ta từ chỗ kín đáo trong linh hồn chứ không phải đưa ra một vật thể làm thần tượng để tiêu biểu cho cái lý tưởng mà chúng ta muốn nêu cao. Một trạng thái gần đây hơn của sự mê tín là suy tôn như một thần tượng người nào phát biểu cái lý tưởng của mình. Trái lại, người ta chỉ nên sùng kính cái lý tưởng được nêu lên, chứ không phải là cái cá nhân đã biểu lộ cái lý tưởng đó.

Đức Jesus quyết định bỏ ra đi vì ngài thấy rằng dân chúng bắt đầu suy tôn cái cá nhân ngài, thay vì yêu cái lý tưởng mà ngài là tiêu biểu. Người ta muốn tôn ngài lên làm vua. Dân chúng chỉ nhìn thấy một điều, họ chỉ thất đức Jesus là người cung cấp đầy đủ mọi thứ để thỏa mãn nhu cầu vật chất của họ.

Không ai là người nhìn nhận rằng họ vốn có tự nơi mình cái khả năng thỏa mãn lấy mọi thứ nhu cầu của chính mình. Không ai nhận thấy rằng họ phải sử dụng cái quyền năng đó như đức Jesus vậy. Vì lẽ đó, ngài nói:

- Tốt hơn là ta phải ra đi, vì nếu ta không bỏ đi, thì đấng hằng An Ủi sẽ không bao giờ đến với các ngươi.

Nói cách khác, khi mà người ta ỷ lại vào cá nhân đức Jesus, người ta sẽ không nhận thức được cái quyền năng mà họ vốn có từ nơi mình. Người ta phải tuyệt đối tin tưởng ở nơi mình. Nếu người ta trông cậy nơi kẻ khác, họ suy tôn kẻ khác ấy làm thần tượng thay vì tự mình biểu lộ cái lý tưởng của mình.

Chúng tôi đã chứng kiến tận mắt những trường hợp khỏi bịnh thật lạ lùng. Vài người bịnh chỉ cần đi ngang qua đền cũng được chữa khỏi. Những người khác phải ở lại đó trong một thời gian rất lâu. Không bao giờ có ai đứng ra làm bất cứ một cuộc hành lễ nào.

Dường như không cần phải hành lễ bởi vì những âm ba rung động toát ra từ trong đền có hiệu lực đến nỗi bất cứ người nào bước vào trong vòng ảnh hưởng của nó cũng đều cảm nhận được những ảnh hưởng tốt lành. Chúng tôi thấy người ta chở đến một người bị bịnh cứng khớp xương. Những khớp xương đã cứng đơ của y được hoàn toàn chữa khỏi trong vòng một tiếng đồng hồ và y đã có thể đi đứng lại được.

Sau đó y đã làm công tác trong bốn tháng để giúp đỡ trong cuộc hành trình của chúng tôi. Một người khác bị cụt mất hết năm ngón tay và được thấy cả năm ngón tay đều mọc lại. Một đứa trẻ nhỏ bị tàn phế và tứ chi liệt bại được chữa khỏi ngay tức khắc và chạy ra khỏi đền. Những người bị các chứng phong cùi, đui mù, câm điếc, và nhiều chứng bịnh nan y khác cũng được chữa khỏi ngay lập tức.

Sự thật, tất cả những người đến hành hương tại đây đều được chữa khỏi bịnh. Chúng tôi có dịp quan sát một số lớn những người được khỏi bịnh hay hai ba năm về sau bịnh tật đã khỏi hẳn không còn tái phát. Người ta nói rằng những trường hợp bịnh tái phát trở lại là bởi vì người bịnh thiếu đức tin và không có nhãn quang tâm linh thật sự.



4. Phép Chuyển Di Tư Tưởng



Khi chúng tôi về cứ điểm ở làng Asmah, thì mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng để vượt qua truông núi. Sau một ngày nghỉ ngơi, chúng tôi thay đổi toán phu khuân vác và lừa ngựa, và khởi đầu giai đoạn thứ nhì của cuộc hành trình, tức là vượt qua dãy núi Tuyết Sơn.

Trong hai mươi ngày kế đó, sự việc diễn biến một cách bình thường, không có gì đáng kể. Đức Tuệ Minh nói với chúng tôi về tâm thức Bồ Đề. Ngài nói:

- Chính do bởi sự tác động quyền năng của tư tưởng mà chúng ta có thể biểu lộ tâm thức Bồ Đề hay tâm thức của đấng Christ. Bằng quyền năng của tư tưởng, chúng ta có thể phát triển thể xác của chúng ta đến mức độ làm cho nó trở thành bất tử, ở mức độ mà chúng ta không còn chịu sự biến đổi gọi là sự chết.

Do sự tác động của tư tưởng, do sự tác động của tâm thức Bồ Đề, chúng tôi có thể hoán cải những người chung quanh và thay đổi hoàn cảnh sinh hoạt của mình. Tất cả những điều đều do cái quyền năng mà Thượng Đế ban cho con người để quan niệm một lý tưởng và thực hiện một mục đích.

Trước hết, phải biết cảm nhận và tin tưởng bằng đức tin rằng đấng Christ, tức Bồ Đề tâm, vốn ngự trị bên trong chúng ta. Kế đó, phải hiểu ý nghĩa thật sự của giáo lý Jesus, hợp nhất cái linh thể của mình với Thượng Đế, cái linh thể đó vốn được tạo nên hình ảnh của Ngài và giống như Ngài.

Phải chan hòa, hỗn hợp nó với linh thể toàn vẹn của Thượng Đế, vì chính trong trạng thái chan hòa, hỗn hợp đó mà Thượng Đế nhìn thấy chúng ta...

Nói đến đây, đức Tuệ Minh ngừng lại và cho biết rằng Ngài sẽ giã từ chúng tôi trong vài ngày để đến gặp vài người bạn đang hội họp trong một làng cách đó độ bốn trăm cây số, trong một làng nhỏ ở biên giới mà chúng tôi sẽ đi đến trong bốn ngày. Kế đó ngài biến mất và vài ngày sau ngài đã đến chỗ hẹn vào đúng lúc, cùng với bốn người bạn.

Khi chúng tôi đến làng biên giới nói trên, trời mưa tầm tã không ngớt và tất cả chúng tôi đều bị ướt loi ngoi. Người ta dành cho chúng tôi một quán trọ đầy đủ tiện nghi, gồm có một gian phòng lớn có đủ bàn ghế, có sưởi ấm và trang hoàng lịch sự, dùng làm phòng khách và phòng ăn.

Một người trong chúng tôi hỏi nhiệt lực làm sưởi ấm gian phòng này do đâu mà có? Quan sát kỹ, chúng tôi không thấy có lò sưởi hay củi lửa gì cả. Chúng tôi hơi ngạc nhiên, nhưng không bình phẩm gì vì chúng tôi đã bắt đầu quen những sự việc lạ lùng và chúng tôi chắc rằng sau này mọi người sẽ được giải thích rõ.

Chúng tôi vừa ngồi vào bàn ăn để dùng cơm tối thì đức Tuệ Minh và bốn người bạn của Ngài bước vào phòng mà chúng tôi không biết các ngài vào bằng cách nào. Tất cả năm vị đều xuất hiện ở một góc phòng, mà gần đó không có cửa nẻo chi cả.

Việc ấy xảy ra một cách giản dị, âm thầm và không một tiếng động. Đức Tuệ Minh giới thiệu với chúng tôi bốn người khách lạ, và các ngài ngồi vào bàn ăn với chúng tôi một cách tự nhiên như ở nhà. Chúng tôi chưa kịp để ý nhìn thấy gì, thì bàn ăn có đầy đủ những thức ăn ngon lành, nhưng không có thịt, vì các vị toàn dùng chay.

Sau bữa ăn, một người trong chúng tôi hỏi gian phòng được sưởi ấm bằng cách nào. Đức Tuệ Minh nói:

- Hơi ấm mà các bạn cảm thấy trong gian phòng này là do một sức mạnh cụ thể mà mỗi người đều có thể sử dụng. Người ta có thể tiếp xúc với mãnh lực ấy, và sử dụng nó dưới hình thức ánh sáng, nhiệt điện hay tinh lực để vận chuyển máy móc, cơ khí.

Đó là điều mà chúng ta gọi là vũ trụ lực, một mãnh lực thiên nhiên mà Thượng Đế ban cho loài người. Sức mạnh ấy có thể vận chuyển mọi loại cơ khí, thực hiện những cuộc chuyên chở mà không tốn nhiên liệu, và cung cấp ánh sáng và nhiệt lực. Mãnh lực ấy có ở khắp nơi để cho con người sử dụng, không bao giờ cạn và không cần phải mua.

Một người trong chúng tôi hỏi phải chăng các món ăn vừa rồi là xuất xứ từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ và đến một cách trực tiếp dưới hình thức các món vật thực mà chúng tôi đã ăn, cũng như bánh mì và các món vật phẩm khác vẫn được cung cấp cho chúng tôi từ trước.

Đức Tuệ Minh mời chúng tôi đi theo ngài đến nhà của một trong bốn người bạn, ở cách đó độ ba trăm năm chục cây số. Chúng tôi cũng gặp thân mẫu ngài tại đó. Ngài nói:

- Thân mẫu tôi là một trong những người đã tinh luyện thể xác đến mức độ có thể phân thân đi khắp mọi nơi và để học đạo trên những cõi cao. Bởi đó, bà sống thường xuyên trong cõi vô hình. Điều này là một việc tình nguyện, vì nhờ học Đạo thượng đẳng, bà có thể giúp đỡ chúng tôi rất nhiều.

Nói rõ hơn cho các bạn dễ hiểu, bà đã tiến hóa đến mức đạt tới cõi Trời là nơi hiện diện của đức Jesus, tức là nơi mà đôi khi người ta gọi là cảnh giới thứ bảy của cõi Thiên Đường. Đối với các bạn, cảnh giới đó sẽ là điều bí mật lớn nhất trong mọi điều bí mật, nhưng thật ra không có gì bí mật cả.

Đó là một trạng thái tâm thức mà tất cả mọi điều huyền bí đều được tiết lộ. Người hành giả đạt tới đó rồi, thì sẽ trở lên vô hình vô ảnh đối với kẻ thế nhân phàm tục, nhưng họ có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người thụ cảm và có căn duyên. Họ trở lại trong thể xác của họ, vì thể xác ấy đã được tinh luyện đến mức toàn hảo để có thể được di chuyển khắp mọi nơi tùy ý.

Những vị đạo đồ ở cấp đẳng có thể trở lại thế gian mà không cần phải đầu thai chuyển kiếp. Những người nào đã bước qua cửa Tử bị bắt buộc phải đầu thai trở lại để khoác lấy một thể xác mới.

Còn thể xác của chúng tôi là những thể xác tâm linh toàn hảo và có thể được giữ gìn rất lâu. Người nào đã từ bỏ thể xác để thăng lên các cõi giới tinh thần sẽ nhận thấy rằng họ phải tái sinh trong một thể xác mới để tiếp tục tiến hóa nữa...

Tối hôm đó, trước khi rời khỏi bàn ăn, chúng tôi quyết định chia cuộc hành trình ra làm năm toán, mỗi toán đặt dưới sự trông nom của một trong những người khách lạ đã thình lình xuất hiện trong phòng để dùng bữa với chúng tôi.

Cách sắp đặt này sẽ giúp chúng tôi có thể thám hiểm nhiều vùng rỗng lớn. Nó sẽ làm cho công việc của chúng tôi được dễ dàng và giúp chúng tôi có thể kiểm chứng những hiện tượng huyền linh như là đi ngao du trong cõi vô hình và giao thông với nhau bằng phép di chuyển, tư tưởng.

Mỗi toán sẽ gồm ít nhất hai đoàn viên và do một trong năm vị Chân Sư lãnh đạo. Mỗi toán sẽ ở cách biệt rất xa với những toán khác, nhưng sự liên lạc sẽ được thực hiện bởi các vị Chân Sư, các ngài đã tỏ ra rất nhiều cảm tình ưu ái đối với chúng tôi, và không bỏ qua một dịp nào để cho chúng tôi kiểm chứng lại công việc của các ngài.



5. Những Sơn Nhân



Qua ngày hôm sau, tất cả mọi việc đều được chuẩn bị sẵn sàng từng chi tiết. Toán của tôi gồm có tôi và hai đoàn viên, đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi dẫn đường. Sáng ngày kế đó, mỗi toán đều sẵn sàng ra đi theo những chiều hướng khác nhau. Chúng tôi đồng ỳ rằng mỗi toán sẽ quan sát cẩn thận những gì xảy ra đến ghi chép làm tài liệu.

Chúng tôi hẹn sẽ gặp nhau trở lại trong hai tháng ở quê hương của đức Tuệ Minh, một làng nhỏ cách đó ba trăm năm chục cây số. Sự liên lạc giữa các toán khác nhau sẽ do các vị Chân Sư đảm nhiệm việc đó mỗi buổi chiều, nói chuyện với nhau bằng tư tưởng và di chuyển từ toán nọ đến toán kia.

Khi chúng tôi muốn tiếp xúc với vị trưởng toán hay với một đoàn viên, chúng tôi chỉ cần giao bức thông điệp của mình cho các Chân Sư. Sự trả lời đến với chúng tôi trong một thời gian rất ngắn không thể tưởng tượng. Khi chúng tôi đưa những bản thảo thông điệp như thế, chúng tôi viết tay và có ghi ngáy giờ cẩn thận.

Chúng tôi cũng ghi chép trong bức thơ trả lời ngày giờ chúng tôi nhận được. Khi chúng tôi tựu họp với nhau trở lại, chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu đã ghi chép và nhận thấy mọi việc đều ăn khớp với nhau một cách hoàn toàn. Ngoài ra, các Chân Sư di chuyển từ trại này sang trại khác và nói chuyện với các đoàn viên của mỗi toán khác nhau.

Chúng tôi ghi chép cẩn thận những địa điểm và ngày giờ khi các ngài xuất hiện và biến mất, cùng những đề tài đã đề cập tới. Về sau, khi chúng tôi đem đối chiếu những tài liệu ghi nhận, thì mọi sự cũng đều hoàn toàn ăn khớp với nhau.

Cuộc thăm viếng hiện thời cũng để đáp ứng một lời kêu gọi tương tự và cũng nhằm mục đích cứu giúp những người bịnh không thể di tản ra khỏi làng. Dường như những "Người tuyết" này là những kẻ ngoài vòng luật pháp đã từng ở những vùng sơn cước đầy tuyết lạnh trong nhiều thế hệ, và sau cùng đã thành lập nên những bộ lạc du mục có thể sống tự túc trong những vùng núi non hoang vắng, hoàn toàn cách biệt cách biệt với thế giới văn minh của loài người.

Tuy dân số của chúng không bao nhiêu, chúng rất hung dữ và hiếu chiến. Đôi khi chúng bắt cóc những người nào không may lọt vào tay chúng và hành hạ những người ấy. Vì có bốn người dân làng đã bị bắt đi trong hoàn cảnh đó những người khác không biết phải làm sao, mới gửi một người đi cầu cứu với Dật Sĩ. Dật Sĩ bèn ra đi với đức Tuệ Minh và đem cả chúng tôi theo.

Lẽ tự nhiên là chúng tôi rất mong mỏi được thấy những người sơn nhân đó, mà chúng tôi có nghe nói đến nhưng vẫn chưa tin. Lúc đầu, chúng tôi nghĩ rằng người ta nên thành lập một đoàn nghĩa binh cấp cứu mà chúng tôi có thể gia nhập. Nhưng hy vọng đó đã tiêu tan khi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chúng tôi biết rằng hai vị sẽ đi một mình và cùng đi ngay tức khắc.

Trong chốc lát, hai vị đã biến mất dạng và trở về vào lúc chiều ngày hôm sau, cùng với bốn người dân làng vừa được giải thoát. Những người này thuật lại nhiều câu chuyện quái đản về cuộc phưu lưu của mình và về những người sơn nhân đã bắt cóc họ.

Dường như những "Người tuyết" lạ lùng này sống hoàn toàn khỏa thân. Chúng mọc lông khắp mình như những loài thú và chịu đựng nổi thời tiết lạnh kinh khủng trên miền sơn cước. Chúng di chuyển rất mau lẹ. Người ta còn nói rằng chúng có thể rượt bắt những loài thú rừng ở vùng của chúng ở.

Chúng gọi các Chân Sư là những "Người của Mặt Trời," và khi các ngài đến giải thoát cho những kẻ bị bắt, thì chúng không chúng cự.

Chúng tôi được biết rằng các Chân Sư đã nhiều lần thử mở một cuộc tiếp xúc với những "Người tuyết", thì chúng bỏ ăn, bỏ ngủ và chạy trốn trong những chỗ núi rừng hoang vu vì quá sợ sệt.

Chúng đã mất mọi sự liên lạc với đời sống văn minh và thậm chí cũng quên rằng trước kia chúng đã có mối tương quan với những chủng tộc loài người và tổ tiên của chúng đã xuất phát từ đó mà ra. Quả thật là chúng đã hoàn toàn biệt lập với xã hội loài người.

Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ không muốn nói nhiều với chúng tôi về những "Người tuyết." Chúng tôi cũng không thể xin hai vị cho chúng tôi đi theo tận nơi để nhìn xem chúng Đáp lại những câu hỏi của chúng tôi, hai vị chỉ nói như sau:

- Chúng cũng là con của Thượng Đế như chúng ta nhưng từ lâu chúng đã nuôi lòng sợ hãi và thù ghét kẻ đồng loại, và những tật đố này ngày càng tăng trưởng. Như vậy, chúng đã tự ly khai với xã hội loài người đến mức quên mất đi sự liên hệ của mình trong đại gia đình nhân loại và tưởng rằng chúng là những loại thú rừng.

Đi lần đến chỗ cực đoan, thậm chí chúng cũng mất cả bản năng của loài thú rừng, vì loài thú rừng do bản năng dìu dắt còn nhận biết được những người thương yêu chúng và đáp lại cái tình thương đó. Khi con người tự ly khai với Thượng Đế và với nhân loại đến mức đó, y có thể rớt xuống thấp hơn loài vật.

Không có ích gì mà đưa các bạn đến gặp những "Người tuyết", vả lại điều ấy còn làm hại cho chúng.Chúng tôi hy vọng rằng một đứa trong chúng nó có ngày sẽ trở nên thụ cảm đối với sự dạy dỗ của chúng tôi, và do người tuyết ấy làm trung gian, chúng tôi sẽ độ cho tất cả chúng nó...

Chúng tôi được cho biết rằng chúng tôi được tự do tìm cách nào tùy sáng kiến riêng của mình để nhìn thấy những "Người tuyết" lạ lùng đó; các Chân sư chắc chắn sẽ che chở chúng tôi khỏi mọi tai nạn và có thể ra tay giải cứu nếu chúng tôi bị bắt.

Theo chương trình được thiết lập cho ngày hôm sau, chúng tôi phải đi viếng một ngôi đền rất cổ xưa, ở cách làng này độ sáu chục cây số. Hai người đoàn viên trong toán của tôi quyết định không tham dự cuộc viếng thăm này để đi thu thập tài liệu về những "Người tuyết".

Họ khẩn khoản yêu cầu hai người dân làng cùng đi theo họ, nhưng hai người này quyết liệt từ chối. Không một người nào chịu rời khỏi làng, khi mà có nguy cơ gặp phải "Người tuyết" ở vùng chung quanh. Hai đoàn viên này bèn ra đi một mình.

Họ được đức Tuệ Minh và Dật Sĩ cho chỉ thị về lộ trình và những gì phải làm. Họ giắt súng ngắn vào lưng và chuẩn bị lên đường. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đã bắt họ phải hứa rằng chỉ bắn chết người trong trường hợp chẳng đặng đừng.

Họ có thể bắn súng trơn, không lắp đạn, hay bắn chỉ thiên tùy ý muốn để thị oai với bọn sơn nhân, nhưng họ phải hứa trên danh dự rằng họ chỉ bắn chết trong trường hợp không thể nào làm khác hơn.

Tôi ngạc nhiên mà thấy có một khẩu súng ngắn trong hành lý của chúng tôi, vì chúng tôi không bao giờ cần phải sử dụng khí giới. Tôi đã bỏ những khẩu súng của tôi từ lâu, thậm trí cũng không nhớ rõ là bỏ ở đâu. Nhưng sau mới biết là một trong những người lao công giúp chúng tôi sửa soạnhành lý, đã xếp vào đó hai khẩu súng ngắn mà không ai hay biết.

#53 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/06/2011 - 06:10

Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG BA


1. Một Ngôi Đền Cổ Một Trăm Hai Mươi Thế Kỷ

Trưa hôm đó, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và tôi cùng đi đến ngôi đền, và đến nơi vào lúc năm giờ chiều ngày hôm sau. Tại đây, chúng tôi được hai người coi đền tiếp rước và dọn chỗ cho chúng tôi nghỉ lại ban đêm. Đền này được xây cất bằng đá trên một ngọn núi cao, tục truyền rằng đã có từ mười hai ngàn năm.

Đền này vẫn còn trong trạng thái nguyên vẹn, toàn hảo. Có lẽ đó là một trong những ngôi đền đầu tiên được dựng lên bởi các vị Đạo Sư của môn phái tu luyện trường sinh hồi thời cổ. Các vị xây đền này với mục đích tạo nên một nơi tu tịnh hoàn toàn yên tĩnh, và có lẽ không có một cuộc đất nào khéo chọn hơn là chỗ này.

Đó là một đỉnh núi cao nhất trong vùng, chiều cao ba ngàn năm trăm thước. Con đường núi đưa lên đây hầu như dốc đứng trong đoạn cuối cùng dài mười hai cây số. Có chỗ nó vượt qua những chiếc cầu treo bằng dây thừng.

Một đầu những dây thừng này buộc chặt với những tảng đá lớn tận trên cao, và đầu kia buông thòng xuống trong khoảng không, cột những thân cây ghép lại làm cầu treo lủng lẳng ở một chiều cao hai trăm thước. Ở những chỗ khác, chúng tôi bắt buộc phải trèo lên những nấc thang buộc vào những sợi dây thừng từ trên cao thòng xuống.

Đoạn đường dài một trăm thước cuối cùng là một đoạn hoàn toàn dốc đứng. Chúng tôi trèo lên con đường này toàn là bằng những cái thang dây thuộc loại kể trên. Khi đến nơi, tôi có cảm giác như ở trên tột đỉnh của thế giới.

Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy vào lúc mặt trời mọc. Sau một đêm ngủ ngon giấc, tôi hoàn toàn quên mất sự leo núi vất vả nhọc mệt của ngày hôm trước. Từ trên đỉnh núi nhìn xuống dưới, người ta không nhìn thấy gì trong khoảng một ngàn thước, thành thử nơi này có vẻ như treo lủng lẳng trên không trung.

Thật là khó mà xoá bỏ cái cảm giác đó. Ba ngọn núi khác nhô lên ở tận đằng xa. Người ta nói rằng trên đỉnh mỗi ngọn núi ấy đều có một ngôi đền giống như ngôi đền này, nhưng các ngọn núi ấy ở cách xa đến nỗi tôi nhìn qua ống dòm cũng không nhìn thấy gì.

Đức Tuệ Minh cho tôi biết rằng nhóm đoàn viên của Tô Mặc, vị trưởng nhóm của chúng tôi, có lẽ đã đến ngôi đền ở trên đỉnh ngọn núi xa nhất cùng một lượt với chúng tôi tại đây. Ngài nói rằng nếu tôi muốn tiếp xúc với Tô Mặc, tôi có thể nói chuyện được, vì y cùng với các đoàn viên cũng đang đứng trên nóc đền như chúng tôi vậy.

Tôi lấy bút ra viết một bức thông điệp gởi cho Tô Mặc: "Tôi đang ở trên nóc đền, ba ngàn năm trăm thước cao hơn mặt biển. Đền cho tôi cái cảm giác bị treo lủng lẳng trên không gian. Đồng hồ tôi chỉ đúng Bốn giờ năm mươi lăm phút sáng ngày thứ Bảy mồng Hai tháng Tám."

Đức Tuệ Minh đọc bức thông điệp và đắm chìm một lúc trong im lặng. Kế đó, tôi được sự trả lời của Tô Mặc: "Đồng hồ tôi chỉ Năm giờ một phút sáng ngày thứ bảy mồng hai tháng tám. Chỗ này hai ngàn tám trăm thước cao hơn mặt biển. Cảnh rất đẹp, vị trí này thật là độc đáo."

Đức Tuệ Minh nói: Nếu các bạn muốn nói gì thêm, tôi sẽ đem đi bức thông điệp và đem về câu trả lời. Nếu các bạn không thấy gì trở ngại, tôi sẽ đi nói chuyện với những người ở ngôi đền đằng ấy.

Tôi bèn đưa thông điệp cho ngài và ngài liền biến mất. Một giờ ba khắc sau đó, ngài trở vê với một thông điệp của Tô Mặc nói rằng đức Tuệ Minh đã đến năm giờ mười sáu phút và nhóm của y đang sung sướng nghĩ đến những gì sắp thực hiện trong cuộc hành trình của chúng tôi. Sự sai biệt về giờ khắc trên đồng hồ của chúng tôi là do sự khác biệt của kinh tuyến trên trái đất.

Chúng tôi ở lại đền này trong ba ngày, trong khi đó đức Tuệ Minh đi viếng thăm tất cả những toán đoàn viên trong cuộc hành trình, có đem đi thông điệp của tôi và đem về những thông điệp của toán khác. Sáng ngày thứtư, chúng tôi sửa soạn trỡ về làng, nơi mà chúng tôi đã để lại những người bạn đã đi tìm những "người tuyết."

Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ còn muốn đến một làng nhỏ ở trong thung lũng, cách chổ lộ tẻ trên con đường mòn của chúng tôi độ năm chục cây số. Tôi tán đồng việc đó và đề nghị để cho tôi đi theo hai vị.

đêm đó chúng tôi nghiû trong một túp lều tranh của bọn mục đồng, và ra đi từ lúc sáng sớm để kịp đến nơi vào sáng ngày hôm sau, vì chúng tôi đi bộ. Vì không thể đi đến ngôi đền bằng ngựa, nên chúng tôi đã để ngựa ở lại với các bạn tôi trong làng nhỏ nói trên.

Sáng ngày hôm đó, khoảng mười giờ, đột nhiên có một cơn giông bảo dữ dội sấm chớp không ngừng, hăm dọa sẽ có cơn mưa lũ tầm tả đêm ngày. Nhưng trời vẫn tạnh ráo không rơi một giọt mưa. Chúng tôi đi qua một khu rừng cây rất rậm rạp. Mặt đất bao phủ cằng một loại cỏ rất khô và cứng. Trọn vùng chung quanh dường như khí hậu khô ráo một cách đặt biệt khác thường.

Sét đánh làm cho cỏ khô bắt lửa cháy lan tràn ở nhiều nơi, và trước khi chúng tôi nhận biết được việc gì xảy ra, chúng tôi đã bị vây phủ chung quanh bởi một đám cháy rừng. Không bao lâu, cơn hỏa hoạn đã bọc phát dữ dội và đồng loạt tiến đến gần chúng tôi từ ba phía với một tốc lực nhanh chóng kinh khủng.

Khói bốc lên từng đám dày đặt làm cho tôi hoang mang lo sợ. Đức Tuệ Minh và Dật Sĩ có vẽ bình tĩnh ung dung, điều cũng làm cho tôi trấn tĩnh được ít nhiều. Hai vị nói:

- Có hai cách đi thoát khỏi nơi đây. Cách thứ nhất là đi đến một dòng suối chảy dưới đáy một vực sâu ở gần đây. Muốn vậy, chúng ta phải vượt qua tám cây số đường rừng. Đến đó chúng ta có thể trú ẩn an toàn cho đến khi đám cháy tự nó tàn rụi dần vì không có chỗ bốc cháy thêm được nữa. Cách thứ nhì là vượt qua đám cháy, nhưng bạn phải tin tưởng nơi khả năng của chúng tôi là có thể độ cho bạn đi an toàn qua vùng khói lửa.

Tôi nhận thấy rằng các vị luôn luôn tỏ ra có đủ bản lĩnh tháo vát trong tất cả mọi trường hợp, và tôi liền hết sợ ngay lập tức. Tôi bèn đặt cả thể xác lẫn linh hồn tôi dưới sự che chở của hai vị, tôi đi giữa, hai vị quàng vai tôi đi kèm hai bên.

Chúng tôi thẳng tiến về hướng mà đám cháy đang hoành hành với một cường độ mãnh liệt nhất. Ngay lúc đó dường như có một cái vòm mở rộng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi đi xuyên qua đám cháy mà không một mảy may bị khó chịu vì khói, hơi nóng hay những đống lửa cháy đỏ rực trên đường đi của chúng tôi.

Chúng tôi đi như vậy trên mười cây số một cách yên ổn và an toàn dường như không có hỏa hoạn ở chung quanh. Sau cùng chúng tôi vượt qua một con rạch nhỏ, và sau đó chúng tôi đã ta khỏi vùng hỏa hoạn. Bận về, tôi đã có thời giờ để quan sát con đường mà chúng tôi đi qua trong lúc đó. Trong khi chúng tôi vượt qua khỏi đám cháy, đức Tuệ Minh nói với tôi:

- Bạn có thấy chăng, trong trường hợp tuyệt đối khẩn cấp, thật rất dễ mà kêu gọi đến những định luật thượng đẳng huyền bí của Trời để thay thế vào những định luật hạ đẳng của trần gian? Vừa rồi, chúng tôi đã nâng nâng những rung động của thể xác chúng tôi lên một nhịp độ cao hơn nhịp độ của lửa, và bởi đó, lửa không còn làm hại chúng tôi được nữa.

Nếu một người thường có thể nhìn thấy chúng tôi lúc đó, họ sẽ tưởng rằng chúng tôi biến mất, nhưng thật sự chúng tôi vẫn có mặt tại chỗ. Thật ra chúng tôi không thấy có sự khác biệt. Trong trạng thái đó, chúng tôi không còn ý thức về những giác quan của thể xác. Một người thường có lẽ cho rằng chúng tôi đã dùng thuật thăng thiên, và điều đó có lẽ cũng đúng như vậy.

Chúng tôi đã vượt lên một trình độ tâm thức siêu đẳng mà người thường không thể với lên tới được. Mỗi người có thể bắt chước chúng tôi. Chúng tôi đã sử dụng một định luật mà Thượng Đế ban cho để cho chúng ta sử dụng. Chúng tôi có thể sử dụng định luật ấy để di chuyển thể xác của mình đến tận bất cứ nơi nào dù xa đến đâu trong không gian.

Chính đó là cái định luật mà chúng tôi đã sử dụng để xuất hiện và biến mất trước mặt người đời, để thắng đoạt không gian, như người ta thường nói. Chúng tôi chỉ thắng đoạt mọi khó khăn chướng ngại bằng cách nâng cao tâm thức của mình cho nó vượt lên trên những khó khăn đó. Điều đó giúp chúng tôi thắng đoạt tất cả những giới hạn mà con người thường tự đặt ra cho mình trong cái tâm thức phàm trần của họ...

Tôi có cảm giác dường như chúng tôi chỉ đi lướt trên mặt đất. Khi chúng tôi ra khỏi vùng hỏa hoạn và được an toàn ở bên kia bờ rạch, trước hết tôi có cảm giác như vừa thức dậy sau một cơn ngủ mê và đó chỉ là một giấc mộng.

Nhưng sự hiểu biết những gì đã xảy ra lần lần tăng trưởng ở nơi tôi, và ý nghĩa thật sự của những diễn biến đó bắt đầu hiện rõ từ từ và soi sáng tâm hồn tôi. Chúng tôi tìm một nơi có bóng mát trên bờ rạch, và ăn một bữa lót dạ, kế đó chúng tôi nghỉ ngơi trong một giờ đồng hồ và trở về làng.



2. Vượt Qua Khu Rừng Cháy



Làng này tỏ ra là một nơi đầy thú vị, vì tại đây có những tài liệu lịch sử được giữ gìn rất kỹ lưỡng. Những tài liệu khi này được phiên dịch ra, đã đem đến một bằng chứng không thể chối cãi rằng Thánh Jean Baptiste đã từng sống ở tại đây năm năm. Sau đó, chúng tôi đã có dịp xem và dịch những tài liệu khác nữa chứng tỏ rằng ngài đã ở lại trong vùng này độ mười hai năm.

Mãi về sau, người ta đưa cho chúng tôi xem những tài liệu dường như chứng tỏ rằng ngài đã cùng với người địa phương đi du lịch trong hai mươi năm xuyên qua các sứ Tây Tạng, Trung Hoa, Ba Tư và Ấn Độ. Chúng tôi có cảm tưởng rằng có thể theo dõi bước chân của ngài trên lộ trình mà các tài liệu đã ghi rõ.

Những văn kiện này làm chúng tôi thích thú đến nỗi chúng tôi đã trở lại một vài làng để sưu tầm sâu rộng thêm. Bằng cách soạn lại những dự kiện thâu thập được, chúng tôi có thể vẽ ra một bản đồ ghi rõ lộ trình và những sự di chuyển của Thánh Jean Baptiste.

Vài sự việc được diễn tả cho chúng tôi trong những câu chuyện tường thuật hấp dẫn và linh động đến nỗi chúng tôi tưởng tượng rằng mình đang đi cùng một con đường với Thánh Jean Baptiste và theo những đường mòn mà ngài đã đi qua trong quá khứ xa xăm đó.

Chúng tôi ở lại làng này trong ba ngày, sau đó chúng tôi sẵn sàng trở về làng mà nơi đó chúng tôi đã bỏ lại vài người bạn. Sứ mạng của đức Tuệ Minh và Dật Sĩ ở làng này chỉ là để chữa bịnh cho những người đau yếu. Hai vị có thể trở về làng trong một thời gian ngắn hơn tôi rất nhiều, nhưng vì tôi không thể đi nhau như hai vị, nên hai vị đã dùng cách di chuyển của tôi.

Các bạn tôi chúng tôi tại làng. Họ đã hoàn toàn thất bại đi tìm những "Người tuyết." Sau năm ngày đi tìm, họ đã mệt mỏi và bỏ cuộc. Trên đường về, họ chú ý cái bóng đen của một người in rõ trên nền trời xanh trên một đỉnh núi cáchh đó gần hai chục thước. Trước khi họ có thể sử dụng ống dòm, thì người ấy đã biến mất.

Họ chỉ nhình thấy cái bóng ấy trong thời gian rất ngắn, và chỉ có ấn tượng rằng người ấy có hình thù giống như khỉ có lông dài. Họ hối hả đi đến nơi mà cái bóng đen đã xuất hiện, nhưng không thấy dấu vết gì cả. Họ dùng thời gian còn lại trong ngày để thám hiểm vùng chung quanh những không kết quả. Và sau cùng đành phải bỏ qua việc ấy.

Sau khi nghe lời tường thuật của tôi, các bạn tôi muốn trở lại viếng ngôi đền, nhưng đức Tuệ Minh cho họ biết rằng chúng tôi sắp viếng ngôi đền tương tự nên họ bèn bỏ ý định trên. Một số lớn các dân vùng lân cận đã tựu họp tại làng để xin chữa bịnh, vì những người biết chuyện đã đồn đại tin tức khắp nơi, và thuật chuyện bốn dân làng bị bọn "Người tuyết" bắt đi đã được cứu thoát.

Ngày hôm sau, chúng tôi tham dự các cuộc hội họp và đã chứng kiến vài trường hợp chữa bịnh thật lạ kỳ. Một thiểu phụ độ chừng hai mươi tuổi bị cóng lạnh và tê liệt hai bàn chân trong mùa đông năm trước, nay đã bình phục. Chúng tôi được nhìn thấy chỗ thịt hư nát nay đã liền lại trước mắt chúng tôi cho đến khi hai bàn chân trở lại bình thường và cô ấy có thể đi đứng một cách hoàn toàn tự nhiên.

Hai người mù đã thấy lại được ánh sáng trong số đó hình như có một người bị mù từ thủa mới sinh ra. Nhiều chứng bịnh khác cũng được chữa khỏi. Tất cả những người bịnh đều có vẻ rất xúc động bởi những lời nói của các Chân Sư.

Sau buổi họp, chúng tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng việc chữa khỏi bịnh này có lôi cuốn được nhiều người hay chăng? Ngài đáp:

- Nhiều người thật sự đã được giúp đỡ nên điều ấy đã khêu gợi sự chú ý của họ. Vài người bắt đầu làm việc công quả trong một thời gian. Nhưng phần nhiều thì không bao lâu sẽ quay về đường cũ với những thói quen cố hữu của họ. Họ đo lường sự cố gắng mà họ phải làm, và thấy nó quá lớn. Hầu hết đều sống một cuộc đời dễ dãi và không lo lắng.

Trong số những người tự cho mình có đức tin, chỉ có độ một phần trăm là bắt tay vào việc một cách nghiêm chỉnh. Kỳ dư đều hoàn toàn sở cậy nơi kẻ khác để được giúp đỡ khi họ gặp khó khăn. Đó là cái nguyên nhân chính của những phiền lụy của họ, Họ quả quyết có thể giúp đỡ bất cứ ai họ muốn giúp đỡ nhưng tỏ ra bất lực không giúp đỡ được ai.

Họ có thể nói về cái kho ân huệ thiêng liêng mà họ sử dụng để giúp đỡ những người bịnh của họ. Nhưng muốn thật sự tắm gội trong cái kho ân huệ đó, người ta phải chấp nhận và chứng minh sự hiện hữu của nó bằng cách thật sự lập công bồi đức và làm những công quả của một đời sống thánh thiện.



3. Những Di Tích Của Thánh Jean Baptiste



Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng cùng với hai người dân làng dường như đã có làm việc công quả tâm linh. Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một làng ở cách làng của Thánh Jean Baptiste hai mươi cây số. Tôi rất mong ước các bạn tôi có thể được xem những tài liệu mà tôi đã thấy.

Chúng tôi bèn quyết định ở làng thứ hai này và Dật Sĩ cùng đi với chúng tôi. Những bản văn kiện làm cho các bạn tôi vô cùng thích thú và giúp tôi vẽ bản đồ với những lộ trình di chuyển của Thánh Jean Baptiste.

Chiều hôm đó, vị Chân Sư cùng đi với toán thứ tư đến và nghỉ lại ban đêm với chúng tôi. Ngài đem đến cho chúng tôi những thông điệp của toán thứ nhất và toán thứ ba. Ngài sinh ra ở làng và đã sống ở đó từ nhỏ tới lớn. Chính những vị tổ tiên của ngài đã soạn thảo những văn kiện này và những tài liệu đã được gia tộc luôn luôn giữ gìn cẩn thận.

Ngài thuộc giòng dõi nhiều đời của của vị tác giả trên, và không có người nào trong gia tộc đã từng kinh nghiệm về sự chết. Các vị nhân viên trong gia tộc đều có khả năng di chuyển thể xác đi ngao du trong cõi vô hình và trở về tùy ý muốn.

Chúng tôi hỏi rằng có điều chi trở ngại chăng, nếu chúng tôi mời vị tác giả các văn kiện vui lòng đến nói chuyện với chúng tôi. Vị Chân Sư đáp rằng không có gì trở ngại và định rằng cuộc gặp gỡ sẽ diễn ta vào ngay tối hôm đó.

Chúng tôi đang ngồi đợi trong ít lâu, thì một người trạc độ ba mươi lăm tuổi thình lình xuất hiện trong gian phòng. Người ấy được giới thiệu cho chúng tôi, và chúng tôi bắt tay nhau. Diện mạo người ấy làm cho chúng tôi ngạc nhiên đến mức câm lặng, vì chúng tôi tưởng rằng sẽ gặp một vị rất cao tuổi.

Người ấy có vóc dạc trung bình với những nét vạm vỡ, nhưng gương mặt đượm một vẻ hiền lành nhân hậu rõ rệt mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Mỗi cử chỉ người biểu lộ một tâm hồn cương nghị và dũng mãnh. Một vầng hào quang lạ lùng toát ra từ toàn thân người.

Trước khi an tọa, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ, vị Chân Sư, và người khách lạ cùng nắm tay nhau một lúc trong một cơn im lặng hoàn toàn. Kế đó, tất cả chúng tôi đều ngồi xuống, và người lạ mặt vừa xuất hiện trong gian phòng bèn cất tiếng nói:

- Các bạn yêu cầu Trời cầu sự gặp gỡ tối nay để hiểu rõ hơn những bản văn kiện đã được đọc và diễn đạt cho các bạn. Chính tôi là người đã soạn thảo và giữ gìn những văn kiện đó. Những tài liệu nói về Thánh Jean Baptiste và đã làm cho các bạn ngạc nhiên, tường thuật những sự việc có thật về thời gian lưu trú của ngài ở tại đây với chúng tôi.

Như người ta được biết, ngài là một người có kiến thức sâu rộng, và một trí óc tuyệt vời. Ngài nhận thức cái chân lý của giáo phái chúng tôi, nhưng dường như ngài không bao giờ có thể đồng hóa một cách trọn vẹn, vì nếu như vậy thì ngài đã không bao giờ chết. Tôi vẫn thường hay ngồi trong gian phòng này, và nghe Thánh Jean cùng chúng tôi đàm luận.

Chính tại đây mà Thánh Jean đã được thụ huấn của cha tôi truyền lại. Chính là tại đây mà cha tôi qua đời và đem cả thể xác của người đi luôn, điều này Thánh Jean đã chứng kiến tận mắt. Tất cả những người trong gia đình bên nội cũng như bên ngoại tôi đều đã đem thể xác đi luôn khi họ qua đời.

Sự qua đời đó, tức là một giai đoạn chuyển tiếp, có nghĩa là thể xác của họlà một vật hoàn hảo về mặt tâm linh. Người ta trở lên ý thức được cái ý nghĩa tâm linh của cuộc đời, ý nghĩa của Thượng Đế, đến mức độ nhìn cuộc đời bằng cái tầm nhãn quang của Thượng Đế. Khi đó, người ta thụ hưởng cái đặc ân tiếp nhận đuợc những giáo lý cao siêu nhất và người ta có thể giúp đỡ tất cả mọi người.

Chúng tôi không bao giờ đi xuống từ trạng thái tâm thức đó, vì những người nào đã đạt tới đó không có ý muốn rớt xuống thấp hơn. Họ biết rằng đời người là một sự tiến hóa không ngừng. Không có thoái bộ hay thoái hóa, và không ai muốn đi thụt lùi trở lại.

Tất cả đều đưa tay ra để giúp đỡ những người đi tìm ánh sáng. Họ gửi thường xuyên những thông điệp trong vũ trụ càn khôn. Trong tất cả các vùng trên thế giới ngày nay đều có những thụ cảm đã diễn đạt những thông điệp đó. Chính là để làm cái việc phóng sự đó mà chúng tôi muốn đạt tới cái cõi giới, hay cái trạng thái tâm thức kể trên.

Tất cả chúng ta đều có thể và đều muốn giúp đỡ, phụng sự bằng cách này hay cách khác. Chúng tôi có thể nói chuyện với những tâm hồn thụ cảm, giáo dục họ, và nâng cao tâm thức họ hoặc trực tiếp, hoặc do một người trung gian. Chúng tôi làm tất cả những công việc đó.

Nhưng một người trung gian không thể làm công việc giùm cho kẻ khác hoặc huấn luyện họ mãi mãi. Người ta phải quyết định tự mình làm công việc đó và bắt tay vào việc. Chừng đó người ta được tự do và chỉ trông cậy vào sức mình.

Đức Jesus ý thức được rằng thể xác là một vật tâm linh và bất diệt. Khi tất cả mọi người đều đạt tới trạng thái tâm thức đó, chúng ta có thể cảm thông với tất cả và phổ biến trong quần chúng cái giáo lý mà chúng ta đã nhận được. Chúng tôi thụ hưởng cái đặc ân được biết rằng mỗi người đều có thể thực hiện những công trình giống như của chúng tôi và giải quyết tất cả mọi vấn đề khó khăn của cuộc đời.

Tất cả những khó khăn và phiền toái sẽ trở nên giản dị. Dung mạo bề ngoài của tôi không khác gì các bạn hay những người các bạn hay gặp thường ngày. Và tôi không thấy một sự khác biệt nào giữa các bạn với tôi.
Chúng tôi nói rằng chúng tôi nhận thấy nơi một người một cái gì tốt đẹp hơn chúng tôi vô cùng. Người đáp:

- Đó chỉ là sự so sánh giữa cái hữu diệt và cái bất tử. Các bạn hãy nhìn thấy tính chất thiêng liêng của mỗi người mà không cần phải so sánh người ấy với những người khác, rồi các bạn sẽ thấy họ cũng giống như tôi. Các bạn hãy tìm kiếm Phật tánh trên gương mặt mỗi người rồi các bạn sẽ thấy ngay Phật tánh sẽ hiện trên mặt họ.

Chúng tôi tránh mọi sự so sánh. Chúng tôi chỉ nhìn thấy Phật tánh ở tất cả mọi người và bất cứ lúc nào. Làm như thế, chúng tôi trở lên vô hình vô ảnh đối với các bạn. Nhờ có tầm nhãn quang toàn vẹn, bao quát nên chúng tôi nhìn thấy sự toàn thiện toàn mỹ, trái lại, với một nhãn quang thiếu sót, các bạn chỉ nhìn thấy có sự bất toàn.

Các bạn có thể cho rằng giáo lý của chúng tôi xuất xứ từ nguồn cảm hứng thiêng liêng cho đến khi mà các bạn thụ huấn với một vị Chân Sư và có thể nâng cao tâm thức của mình đến mức nhìn thấy và nói chuyện với chúng tôi như bây giờ. Không có sự cảm hứng nào trong việc nói chuyện hay thử nói chuyện với một người.

Giáo lý của chúng tôi đưa người hành giả đến mức độ mà họ có thể nhận được nguồn cảm hứng thiêng liêng thật sự. Nhưng nguồn cảm hứng đó chỉ có thể đến trực tiếp từ Thượng Đế mà thôi. Bằng cách để cho Thượng Đế tự biểu lộ xuyên qua các bạn, các bạn sẽ sống với chúng tôi...



4. Những Cuộc Chữa Bịnh Nhiệm Mầu



Sáng ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sẵn sàng dùng điểm tâm vào lúc sáu giờ rưỡi. Khi chúng tôi đi từ quán trọ ngang qua đường lộ để đến tiệm ăn, chúng tôi gặp các Chân Sư cùng đi một đường.

Các ngài vừa đi vừa nói chuyện với nhau như mọi người thường. Các ngài lên tiếng chào chúng tôi và bày tỏ sự ngạc nhiên mà thấy các ngài sống bình dị như vậy. Các ngài đáp:

- Chúng tôi cũng chỉ là người như các bạn vậy. Tại sao các bạn lại cứ một mực coi chúng tôi là khác thường? Chúng tôi không khác các bạn ở một điểm nào cả. Chúng tôi chỉ có phát triển nhiều hơn những quyền năng mà Thượng Đế ban cho tất cả chúng ta.

Chúng tôi bèn hỏi:

- Vậy tại sao chúng tôi không thể thực hiện những công trình giống như của các ngài?

- Tất cả những người mà chúng tôi tiếp xúc, tại sao họ không theo chúng tôi và không bắt ta vào việc làm của chúng tôi? Chúng tôi không thể và cũng không muốn bắt buộc ai theo chúng tôi.

Mỗi người có quyền tự do sinh hoạt và đi theo con đuờng mà họ chọn lựa tùy sở thích. Chúng tôi chỉ muốn vạch cho họ thấy con đường dễ dàng và giản đơn mà chúng tôi đã đi thử và nhận thấy là rất mỹ mãn.

Chúng tôi ngồi vào bàn ăn và câu chuyện xoay về những diễn biến của đời sống hằng ngày. Tôi lấy làm say mê thích thú và vô cùng thán phục. Bốn vị siêu nhân ngồi trước mặt chúng tôi.

Một vị đã hoàn thành từ hai nghìn năm nay phép tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển thể xác đi bất cứ nơi nào tùy ý muốn. Ngài đã sống một nghìn năm trên địa cầu và vẫn duy trì sự hoạt động trẻ trung của một người ba mươi lăm tuổi.

Ngồi kế bên ngài là một người trong thân quyến, nhưng trẻ hơn đến năm thế hệ. Vị này tuy đã sống trên bảy trăm năm trên Trái Đất, nhưng bề ngoài xem có vẻ chưa đến bốn mươi tuổi. Ngài và vị tổ tiên năm đời của ngài có thể nói chuyện với nhau một cách rất tự nhiên như hai người thường.

Kế đó là đức Tuệ Minh, ngài đã sống trên năm trăm năm và bề ngoài xem như một người mười sáu tuổi. Sau cùng là Dật Sĩ, bốn mươi tuổi và có cái dung mạo tương đương với người ở tuổi ấy. Bốn vị nó chuyện với nhau như anh em, không một mảy may lộ vẻ tự tôn.

Tuy câu chuyện thật giản dị khả ái, mỗi lời nói của các ngài đều biểu lộ một sự hợp lý hoàn toàn và chỉ rằng các ngài biết rõ tận tường đề tài thảo luận. Các ngài không lộ vẻ gì là huyền thoại hay bí mật. Các ngài sự sự như những người thường trong công việc hằng ngày. Tuy vậy, đôi khi tôi vẫn cảm thấy khó tin rằng đó không phải là chuyện xảy ra trong giấc mơ.

Sau bữa ăn sáng, một trong những người bạn tôi đứng dậy để trả tiền. Đức Tuệ Minh nói:

- Ở đây các bạn là khách của tôi.

Nói xong, ngài đưa tay về phía bà chủ quán, mà chúng tôi còn tưởng rằng đó là một bàn tay không. Chừng xem lại, chúng tôi thấy bàn tay ngài cầm đúng số tiền ghi trên tờ hóa đơn tính tiền bữa ăn.

Các vị Chân Sư không đem tiền bạc theo trong mình và không cần ai cung cấp tiền bạc. Khi cần dùng, tiền bạc luôn luôn có sẵn trong tầm tay, mà các ngài lấy trực tiếp từ chất Tiên Thiên Khí trong vũ trụ.

Khi bước chân ra khỏi quán, vị Chân Sư đi cùng với toán thứ tư bắt tay chúng tôi và nói rằng ngài phải trở về toán của ngài, rồi biến mất dạng. Chúng tôi ghi nhận giờ phút mà ngài biến mất và về sau chúng tôi có kiểm điểm lại thì thấy ngài đã trở về toán của ngài không đầy mười phút sau khi giã từ chúng tôi.

Suốt ngày hôm đó, chúng tôi cùng đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện, đi dạo chơi trong làng và các vùng phụ cận. Vị Sư Tổ thuật lại cho chúng tôi nghe với rất nhiều chi tiết, và sự việc xảy ra trong khoảng mười hai năm mà Thánh Jean Baptiste đã lưu trú trong làng này.

Những chuyện đó được kể lại một thời dĩ vãng xa xăm bên cạnh Thánh Jean. Từ trước đến giờ, chúng tôi vẫn coi ngài như một nhân vật huyền thoại do thiên hạ bày đặt ra để lòe đời. Kể từ ngày đó, đối với tôi ngài đã trở nên một nhân vật lịch sử có thật.

Tôi tưởng tượng lúc đương thời ngài cũng đã từng đi dạo như chúng tôi trong làng này và các vùng chung quanh, và được các Chân Sư cao cả truyền dạy những pháp môn mà ngài không hoàn toàn hấp thụ được những chân lý căn bản.

Trong ngày hôm đó, chúng tôi đi đó đi đây, vừa nghe kể lại những câu chuyện lịch sử thú vị, vừa nghe giảng dạy và phiên dịch những sự kiện lịch sử ở ngay tại chỗ mà những câu chuyện tường thuật ấy đã xảy ra hằng bao nhiêu ngàn năm trở về trước. Kế đó, chúng tôi trở về làng trước khi trời tối, ai nấy đều mệt mỏi.

Ba vị siêu nhân cũng đi bộ như chúng tôi, nhưng không lộ vẻ mệt mỏi chút nào. Trong khi chúng tôi mình mẩy lấm bùn lầy, cát bụi và mồ hôi, thì các ngài đều có vẻ tươi tỉnh, thư thái và y phục của các ngài mặc đều trắng tinh như lúc mới bắt đầu ra đi.

Chúng tôi đã nhận thấy, trong những chuyến xuất hành đi qua, rằng y phục của các Chân Sư không hề bị hoen ố, và chúng tôi vẫn thường nói lên sự nhận xét đó, nhưng không được trả lời.

Chiều hôm đó, chúng tôi lại nêu câu hỏi về vấn đề ấy thì vị Sư Tổ đáp:

- Điều ấy làm các bạn ngạc nhiên hơn nhiều mà thấy rằng một mảy bụi bặm vật chất của Thượng Đế tạo ra lại có thể dính vào một nhân vật cũng do Thượng Đế sáng tạo mà nó không tùy thuộc quyền sở hữu, ở một nơi mà người ta không muốn cho nó dính vào.

Với một quan niệm đúng đắn, điều ấy sẽ không thể xảy ra, vì không một mảy bụi bặm vật chất nào của Thượng Đế có thể được đặt vào một chỗ mà người ta không muốn.

Một lát sau đó, chúng tôi nhận thấy rằng y phục và thân thể của chúng tôi cũng sạch sẽ và trơn tru như các Chân Sư, sự biến đổi này diễn ra trong nháy mắt trên thân mình tôi và các bạn của tôi.

Mọi dấu vết của sự mệt nhọc đều đã biến mất và chúng tôi cảm thấy khỏe khoắn nhẹ nhàng cũng như mình vừa mới ngủ thức dậy và đã tắm rửa xong. Đó là cách trả lời cho những sự thắc mắc của chúng tôi. Đêm ấy, chúng tôi đi ngủ với một niềm yên tĩnh thâm trầm sâu xa nhất trong tâm hồn mà chúng tôi chưa hề cảm thấy bao giờ kể từ khi chúng tôi bắt đầu sống chung với các vị Chân Sư.

Sự kính sợ của chúng tôi đã nhanh chóng thành một tình thương sâu xa đối với những tấm lòng cao quý hồn nhiên của các ngài, là những đấng Cao Cả đã làm biết bao việc tốt lành cho nhân loại.

Các ngài gọi tất cả mọi người là bằng hữu, anh em, và chúng tôi cũng bắt đầu coi các ngài như những bậc Anh Cả. Các ngài không tự gán cho mình một giá trị nào cả, và luôn luôn nói rằng chính Thượng Đế đã biểu lộ xuyên qua các ngài. Các ngài nói:

- Riêng tôi, tôi không thể làm gì được. Chính Thượng Đế ngự nơi tôi, ngài đã làm tất cả mọi việc.

Sáng ngày hôm sau, lúc ăn điểm tâm, có người báo tin cho biết rằng ngày ấy chúng tôi sẽ đi đến một làng ở tận trên cao trong vùng núi. Từ đó chúng tôi sẽ đi viếng ngôi đền trên đỉnh của một ngọn núi mà tôi đã nhìn thấy ở đằng xa từ trên một đỉnh núi cao hơn mà tôi diễn tả trước đây.

Vì đường núi cheo leo, chúng tôi không thể đi ngựa trên một quãng đường dài hơn hai mươi lăm cây số. Chúng tôi đem hai người dân làng đi theo trên hai quãng đường này, rồi giao ngựa cho họ dắt đi đến một thôn nhỏ ở gần bên và giữ ngựa ở tại đó để chờ chúng tôi đi bận về. Mọi việc xảy ra như đã dự định.

Chúng tôi giao ngựa cho hai người dân làng và bắt đầu đi theo con đường núi nhỏ hẹp đưa đến làng trên núi. Vài đoạn đường núi này là những nấc thang tam cấp đục trong vách đá.

Chúng tôi đến nơi vào lúc bốn giờ chiều. Ngôi đền dựng trên một đỉnh núi nhìn thẳng xuống xóm làng. Vách núi dốc đứng cheo leo đến nỗi muốn lên tới đỉnh, người ta phải thòng xuống một cái thúng đương bằng mây để du khách ngồi vào đó và dùng dây kéo lên. Cái thúng dùng để đưa khách lên tới đỉnh núi và cũng dùng để đưa khách từ trên đỉnh đi xuống phía dưới.

Khi chúng tôi đã sẵn sàng, người ta thòng cái thúng xuống và chúng tôi được kéo lên từng người một cho đến nơi có một mõm đá nhô ra ngoài, chỗ này bề cao đến một trăm ba chục thước khỏi mặt đất. Đến đây, chúng tôi bước ra khỏi thúng và theo đường nhỏ lên tận ngôi đền ở trên đỉnh núi cách đó một trăm bảy mươi lăm thước bề cao, vách của ngôi đền liền với vách của núi đá.

Chúng tôi được cho biết rằng còn phải lên một chuyến thứ nhì cũng giống y chuyến thứ nhất. Thật vậy, chúng tôi thấy từ ngôi đền nhô ra một cây đà bằng gỗ rất lớn giống như cây đà gie ra từ mõm đá lúc nãy. Từ cái trục ở phía trên người ta thòng xuống một sợi dây cói để cột vào một cái thúng bằng mây lúc nãy, và chúng tôi lại được kéo lên từng người một đến tận nóc bằng của ngôi đền.

Lại một lần nữa, tôi có cảm tưởng như đang ở trên nóc tột đỉnh của thế giới. Đỉnh núi này nhô lên ba trăm thước cao hơn các ngọn núi ở vùng chung quanh. Làng mà từ đó chúng tôi bắt đầu ra đi, còn ở trên cao hơn nữa, trên đỉnh một truông núi mà người ta dùng để vượt qua dãy Hi Mã Lạp Sơn.

Đền này còn ở ba trăm năm chục thước thấp hơn ngôi đền mà trước đây chúng tôi đã viếng chung với đức Tuệ Minh và Dật Sĩ, nhưng ở đây tầm nhãn quang có thể nhìn bao quát hơn nhiều. Dường như chúng tôi có thể nhìn vào chỗ không gian vô tận.

Người ta dọn cho chúng tôi một chỗ nghỉ đêm thật thoải mái tiện nghi. Ba vị siêu nhân cho chúng tôi biết rằng các vị sắp đi viếng vài nhóm đoàn viên ở rải rác khắp nơi và các vị sẵn lóng chuyển thông điệp của chúng tôi cho họ. Chúng tôi bèn viết thơ cho các bạn hữu và có ghi cẩn thận ngày giờ và địa điểm.

Chúng tôi giữ lại một bản sao của các thông điệp, về sau chúng tôi kiểm điểm lại thì được biết rằng tất cả các thông điệp đều được giao tận nơi không đầy hai mươi phút sau khi gửi đi. Khi chúng tôi đưa những thông điệp cho các vị siêu nhân, các vị bắt tay từ giã chúng tôi và hẹn gặp nhau lại vào sáng ngày hôm sau, rồi các vị biến mất.

Sau bữa ăn chiều ngon lành do những người coi đền dọn ra, chúng tôi lui về phòng yên nghỉ nhưng không ngủ được, vì những kinh nghiệm vừa qua bắt đầu gây cho chúng tôi những ấn tượng sâu xa.

Chúng tôi đang ở trên một chiều cao ba ngàn thước khỏi mặt đất, không một người nào ờ kế cận trừ ra những người coi đền, và không một tiếng động nào khác hơn là giọng nói của chúng tôi. Bầu không khí chung quanh thật hoàn toàn yên lặng.

Chúng tôi có dặn một người coi đền hãy đánh thức chúng tôi khi trời vừa dạng sáng. Y gõ cửa trong khi tôi vừa chợp mắt ngủ chưa được bao lâu. Chúng tôi sửa soạn mặc quần áo xong, hối hả chạy mau ra sân thượng để ngắm nhìn mặt trời mọc ở vùng núi.

Trong cơn vội vàng chúng tôi gây nhiều tiếng động ầm ĩ đến nỗi những người gác đền hoảng kinh chạy ra xem có phải chúng tôi đã loạn trí chăng! Tôi nghĩ rằng chắc là không bao giờ ngôi đền này đã trải qua cơn náo động như thế từ ngày nó được dựng lên, nghĩa là từ trên mười nghìn năm nay. Thật vậy, ngôi đền này cổ xưa đến nỗi nó đồng hóa làm một với cái đỉnh núi.

Khi ra đến sân thượng, không ai cần bảo ai nên giữ im lặng nữa, vì mọi sự dặn dò đều là thừa. Vừa nhìn ra ngoài, hai bạn tôi đã đứng lặng người, miệng há hốc, hai mắt dương lên thật lớn. Tôi tưởng chừng chắc là tôi cũng đã làm như vậy. Tôi còn đợi xem họ nói gì, thì họ đã đồng thanh la lớn:

- Chúng ta hẳn là bị treo lơ lửng trong không gian!

Sự xúc động và ngạc nhiên của họ thật giống y như của tôi khi tôi vừa lên tới nóc đền ở đỉnh núi bên kia trước đây không lâu. Họ đã quên trong một lúc rằng hai chân họ vẫn chấm đất và họ có cảm giác như đứng phất phơ trong không gian. Một bạn tôi nói:

- Tôi không ngạc nhiên nếu các vị Chân Sư có thể bay nhẹ trên không gian sau khi đã có cái cảm giác như chúng ta vừa rồi.

Một chuỗi cười ngắn kéo chúng tôi trở về thực tế. Chúng tôi quay lại nhìn thấy ngay sau lưng chúng tôi có đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện. Một bạn tôi cao hứng muốn chạy lại bắt tay hết thảy các vị cùng một lúc, và nói:

- Thật là kỳ diệu. Không ai lấy làm ngạc nhiên nếu các vị có thể bay bổng trên không, sau khi đã lưu trú tại đây.

Các vị mỉm cười, và một vị nói:

- Các bạn cũng có thể bay bổng như chúng tôi. Các bạn chỉ cần biết từ nội tâm rằntg các bạn có cái quyền năng đó rồi các bạn hãy sử dụng nó.

Chúng tôi ngắm nhìn phong cảnh. Sương mù đã hạ thấp xuống và bay từng đợt phất phơ theo chiều gió, nhưng cũng hãy còn khá cao nên người ta không thể nhìn thấy dưới đất. Những đợt sương mù di chuyển làm cho chúng tôi có cái cảm giác như được chở đi trên đôi cánh im lặng của một con chim khổng lồ.

Nhìn về phía xa, người ta mất cả ý thức về trọng lượng của mình, và thật là khó mà tưởng tượng rằng mình đang bay lướt trong không gian. Riêng phần tôi, tôi đã thấy mất ý thức về trọng lượng của mình đến nỗi tôi đã nhẹ mình bay lơ lửng trên nóc đền. Thình lình một tiếng động làm cho tôi té nặng đến nỗi tôi cảm thấy một sự xúc động mà hậu quả hãy còn tồn tại nhiều ngày mới hết.

Sáng hôm ấy, chúng tôi quyết định ở lại ngôi đền này trong ba ngày, vì chỉ có một nơi thú vị để đi thăm viếng trước khi gặo lại các toán khác. Đức Tuệ Minh đã đem tới những thông điệp. Một thông điệp cho biết rằng toán của vị trưởng nhóm chúng tôi đã đến viếng ngôi đền này chỉ mới cách đây ba ngày.

Sau bữa ăn điểm tâm, chúng tôi bước ra ngoài chúng tôi bước ra ngoài để nhìn xem sương mù tan dần. Chúng tôi ngắm nhìn cho đến khi sương mù tan đi mất và mặt trời ló dạng. Người ta nhìn thấy thôn ấp nhỏ ẩn dưới triền núi và thung lũng diễn ra tận đằng xa. Vì các vị siêu nhân đã quyết định đến viếng thôn ấp này, nên chúng tôi xin phép đi theo các vị.

Các vị vừa nhận lời vừa cười, và khuyến khích chúng tôi nên sử dụng cái thúng bằng mây để thòng xuống đất. Các vị nói rằng đi bằng cách đó thì khi đến nơi, chúng tôi sẽ có cái hình dáng bề ngoài dễ coi hơn là nếu chúng tôi sử dụng phương pháp di chuyển của các vị.

Người ta bèn dùng cái thúng thòng chúng tôi từng người một xuống tận chỗ mõm đá nhô ra ở giữa chừng, và từ đó, xuống vùng cao nguyên nhìn xuống dưới làng. Khi tất cả chúng tôi vừa bước ra khỏi cái thúng, thì lạ thay, các vị siêu nhân đã có mặt tại đó. Chúng tôi cùng nhau đi xuống làng, và ở lại đây suốt ngày hôm đó.

Đó là một làng cổ có những nét dị kỳ, đặc biệt của vùng sơn cước này. Nó gồm có độ hai mươi nhà đục trong triền núi, và cửa nẻo đều đóng kín bằng những phiến đá lớn. Người ta xây cất nhàkiểu này để tránh cho nhà khỏi bị đè bẹp dưới trọng lượng của tuyết mùa đông.

Chúng tôi được cho biết rằng Thánh Jean Baptiste đã từng sống tại làng này và được thụ huấn và Đạo lý trong đền. Đền này vẫn còn nguyên vẹn như hồi xưa. Làng và ngôi đền đã được lập nên ít nhất sáu nghìn năm trước khi Thánh Jean đến viếng nơi này.

Vào lúc năm giờ chiều, vị Sư Tổ, tác giả các văn kiện, bắt tay từ giã chúng tôi và nói ngài phải vắng mặt nhưng sẽ trở lại trong giây lát. Kế đó ngài biến mất dạng.

Chiều hôm đó, từ trên nóc đền chúng tôi ngắm nhìn cảnh mặt trời lặn lạ lùng nhất chưa từng thấy, tuy rằng tôi đã có dịp may nhìn thấy cảnh trời chiều ở hầu hết khắp nơi trên thế giới.

Chúng tôi ngồi trên sân thượng đến nửa đêm, vừa nói chuyện vừa hỏi đức Tuệ Minh và Dật Sĩ về nhiều vấn đề, nhất là về địa hình, địa vật và lịch sử của vùng này. Đức Tuệ Minh đưa ra nhiều chú thích trong các văn kiện mà các Chân Sư từng biết rõ. Những văn kiện ấy chứng tỏ rằng xứ này đã từng có người ở từ nhiều ngàn năm trước thời kỳ có lịch sử của thế giới.

Chúng tôi đang ngắm vầng trăng rằm trong sáng xuất hiện trên dảy núi đằng xa ở tận chân trời. Thình lình, chúng tôi nghe có tiếng động ở phía sau lưng. Chúng tôi quay lại nhìn thấy một bà mệnh phụ trạc độ ngũ tuần đang đứng đó và mỉm cười vừa hỏi rằng sự xuất hiện thình lình của bà có làm cho chúng tôi sợ hãi không?

Trước hết chúng tôi có cảm tưởng rằng bà ấy đã nhảy từ trên bờ tường xuống sân thượng, nhưng sự thật thì bà ấy chỉ có dậm chân để làm cho chúng tôi chú ý, và sự im lặng thâm trầm của miền núi lúc ban đêm đã làm vang dội âm thanh ấy lên gấp bội phần. Đức Tuệ Minh mau bước tới chào mệnh phụ và giới thiệu chị ngài với chúng tôi. Bà mỉm cười và hỏi bà có làm rộn chúng tôi không?

Chúng tôi an tọa, và câu chuyện xoay chung quanh những kỷ niệm cùng những kinh nghiệm về công việc phụng sự trong cuộc đời tu hành của bà. Bà có ba người con trai và một người con gái, tất cả đều được giáo dục trong cùng một tinh thần như của bà. Chúng tôi hỏi có các con bà cùng đi không?

Bà đáp rằng hai người con nhỏ nhất không bao giờ rời bà. Chúng tôi yêu cầu được gặp các con bà. Bà đáp rằng họ cũng đang rảnh việc, và ngay lúc đó xuất hiện hai người, một người nam và một người nữ. Hai người này chào cậu và mẹ, rồi tiến tới để được giới thiệu với tôi và hai bạn tôi. Người con trai cao lớn vạm vỡ, có dáng hào hùng, đầy nam tính, trạc độ chừng ba mươi tuổi.

Người con gái vóc dáng hơi nhỏ, dáng điệu thanh tân, với những nét diễm kiều. Đó là một thiếu nữ đẹp và trạc độ hai mươi tuổi. Về sau chúng tôi được biết rằng người nam có đến một trăm mười lăm tuổi và người nữ đã một trăm hai mươi tám tuổi. Chúng tôi còn ngồi đàm đạo đến quá nửa đêm mới chia tay nhau.

Qua ngày hôm sau, các vị siêu nhân tỏ ý muốn từ giã chúng tôi để ra đi. Chỉ còn có Dật Sĩ ở lại với chúng tôi, và ngày kế đó đến lượt chúng tôi cũng sửa soạn lên đường. Mặc dầu trời hãy còn chưa sáng, hầu hết tất cả dân làng đều thức dậy rất sớm để tiễn đưa chúng tôi.

#54 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/06/2011 - 06:12

Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG BỐN


1. Vị Mẫu Thân Của Chân Sư Tuệ Minh

Trong năm ngày kế đó, con đường của chúng tôi đi xuyên qua vùng mà ngày xưa Thánh Jean đã từng đi qua. Qua ngày thứ năm, chúng tôi đến nơi thôn ấp mà những người giữ ngựa đã ở lại để chờ đợi chúng tôi. Đức Tuệ Minh đã có mặt tại đây và kể từ lúc đó, cuộc hành trình được tương đối dễ dàng cho đến khi chúng tôi đến nơi làng của ngài sinh trưởng.

Khi gần đến làng, chúng tôi nhận thấy vùng này có khá đông dân cư, những đường lộ và đường mòn đều tốt hơn những đường mà chúng tôi đã đi qua từ trước đến giờ. Nhưng trong những giờ kế đó, chúng tôi đi qua một vùng cao nguyên lồi lõm với một địa thế vô cùng cheo leo hiểm trở. Làng có tường đá bọc chung quanh như thành quách để làm hệ thống phòng thủ.

Người ta nói rằng vùng này trước kia là nơi cư trú của một bộ lạc thổ dân sống biệt lập với thế giới bên ngoài; về sau họ đã lần lần biệt tích và không còn để lại dấu vết. Một thiểu số còn lại đã xáp nhập với những bộ lạc khác ở quanh vùng.

Đó là nơi quê hương của đức Tuệ Minh và là nơi mà các đoàn viên của phái bộ chúng tôi hẹn gặp nhau trở lại. Những đoàn viên này đã chia ra từng toán nhỏ để thi hành công tác trên một vùng lãnh thổ rộng lớn.

Khi hỏi lại thì được biết rằng chúng tôi là toán đến đây trước tiên, và những toán khác cũng sẽ đến nơi nội trong ngày hôm sau. Chúng tôi được chỉ định nơi trú ngụ trong một ngôi nhà ba tầng lầu dựa vách tường làng. Người ta dọn cho chúng tôi một nơi tạm nghỉ khá tiện nghi và cho biết rằng bữa cơm chiều sẽ được dọn ra ở từng dưới.

Khi chúng tôi bước xuống từng dưới thì thấy ngồi quanh bàn ăn có bà chị của đức Tuệ Minh, chồng bà, và hai người con mà chúng tôi đã gặp gỡ tại ngôi đền, cùng với đức Tuệ Minh cũng hiện diện tại đó.

Chúng tôi vừa dùng cơm chiều xong, thì nghe có tiếng động trước sân nhà. Một dân làng đến cho hay rằng một trong các toán đoàn viên vừa mới đến. Đó là toán của vị trưởng nhóm Tô Mặc.

Người ta dọn bữa ăn chiều cho họ và xếp đặt cho họ nghỉ lại ban đêm cùng với chúng tôi, kế đó tất cả chúng tôi đều bước lên trên nóc bằng của ngôi nhà. Tuy mặt trời đã lặn, nhưng bóng hoàng hôn hãy còn phảng phất, và trời chưa tối hẳn.

Trong khi chúng tôi đang bình luận về giá trị phòng thủ của bức tường rào chung quanh làng, thì bà chị và cô cháu gái của đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Một lát sau đó, người anh rể và người cháu trai của ngài cũng đến. Chúng tôi nhận thấy các vị tỏ dấu băn khoăn mong đợi một sự gì, và bà chị của đức Tuệ Minh bèn nói cho chúng tôi biết rằng chiều nay bà trông đợi cuộc viếng thăm của thân mẫu bà. Bà nói:

- Chúng tôi sung sướng đến nỗi cầm lòng không đậu, vì lòng yêu mến của chúng tôi đối với mẫu thân đậm đà dường nào. Chúng tôi yêu mến tất cả những người sống tâm linh cao cả, vì tất cả các vị ấy đều có tâm hồn cao quý và thiêng liêng.

Nhưng mẫu thân chúng tôi còn có lòng từ bi, nhân hậu, vị tha, cứu đời đến nỗi chúng tôi không thể nào không yêu mến bà gấp ngàn lần. Vả lại, chúng tôi đối với bà còn có tình mẫu tử, cốt nhục. Chúng tôi biết rằng các ông cũng sẽ yêu mến bà như vậy.

Chúng tôi hỏi đức bà có thường đến đây không, thì được đáp:

Có chứ! Mẫu thân thường đến luôn luôn khi nào chúng tôi cần đến bà. Nhưng bà mắc bận rộn công việc trong lãnh vực hoạt động của bà nên bà chỉ đến đây một năm có hai lần, và ngày hôm nay chính là ngày thăm viếng định kỳ của bà. Lần này bà sẽ ở lại với chúng tôi một tuần. Chúng tôi sung sướng đến nỗi không còn biết làm gì trong khi chờ đợi.

Câu chuyện xoay qua những kinh nghiệm của chúng tôi kể từ khi chúng tôi chia nhau đi riêng từng toán, và cuộc thảo luận đang đến hồi sôi nổi hào hứng thì thình lình một cơn im lặng xâm chiếm lấy chúng tôi. Trước khi nhận biết điều đó, tất cả chúng tôi đều ngồi im không ai nói gì và cũng không ai nghĩ ngợi điều gì.

Bóng tối của ban đêm đã bao trùm khắp nơi, và dãy núi tuyết ở xa xa coi giồng như một con quái vật khổng lồ. Kế đó chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ, giống như tiếng con chim sẽ đậu dưới đất. Một đám sương mù dường như đông dặc lại từ từ ở hướng đông của vách tường rào, rồi thình lình tượng hình một cách rõ rệt.

Trước mặt chúng tôi lúc đó là một người đàn bà nhan sắc diễm kiều bao phủ bởi một vầng hào quang sáng chói đến nổi chúng tôi không thể nhìn thấy rõ tận mắt.

Cả gia quyến đều đổ xô về phía người đàn bà đó, hai tay đưa thẳng ra phía trước và đồng thanh kêu to:

Mẫu thân!

Bà Mã Ly nhẹ nhàng từ bờ tường bước xuống sân thượng và ôm hôn mỗi người thân quyến như mọi người hiền mẫu trong dịp tái ngộ với con cái. Kế đó, chúng tôi được giới thiệu với bà. Bà nói:

- À! Các ông là những huynh đệ từ Mỹ quốc xa xôi đến đây để thăm viếng chúng tôi? Tơi rất sung sướng chúc mừng các ông. Chúng tôi ban rải tình thương cho tất cả, và nếu những người đàn ông sẵng lòng để cho chúng tôi tự nhiên, thì chắc hẳn là chúng tôi cũng ôm lấy họ trong vòng tay như tôi vừa đón mừng những người mà tôi gọi là thân bằng quyến thuộc của tôi.

Vì thật ra chúng ta chỉ là thành phần của một đại gia đình, tức là gia đình những người con của Thượng Đế. Vậy tại sao chúng ta không thể sum họp tất cả với nhau như anh em một nhà?

Chúng tôi vừa nhận thấy rằng thời tiết miền núi về đêm cũng khá lạnh. Nhưng khi đức bà Mỹ Ly xuất hiện, thì sự hiện diện của bà tỏa ra một mãnh lực nó biến đổi bầu không khí nơi đây trở thành bầu không khí của một đêm mùa hè.

Khí trời dường như đượm mùi hương của bông hoa. Một ánh sáng dịu giống như ánh trăng rằm thấm nhuần mọi vật, và làm cho cảnh vật chung quanh được bao phủ trong một sự ấm cúng lạ lùng khó tả. Tuy nhiên, các Chân Sư không biểu lộ một cử chỉ nào gọi là kiểu cách. Các ngài có một lối xử thật khả ái hồn nhiên và vô cùng giản dị.

Có một người đề nghị đi xuống nhà dưới. Đức bà Mỹ Ly và các bà phu nhân dẫn đường đi trước. Chúng tôi nối gót đi theo sau, và những người gia nhân đi sau cùng. Trong khi chúng tôi đi xuống cầu thang như thường lệ, chúng tôi nhận thấy rằng bước chân chúng tôi không gây một tiếng động nào.

Tuy nhiên, chúng tôi không hề cố gắng giữ im lặng. Một người trong chúng tôi còn thú thật là y đã thử đi nặng bước nhưng cũng không gây tiếng vang. Dường như bàn chân chúng tôi đi không chấm đất trên sân thượng hay trên những nấc cầu thang.

Trên tầng lầu các buồng ngủ, chúng tôi bước vào một gian phòng trang hoàng rất đẹp và ngồi an tọa. Chúng tôi liền nhận thấy mỗt sự ấm áp dễ chịu, và một ánh sáng dịu tỏa khắp phòng, mà chúng tôi không hiểu từ đâu đến.

Gian phòng đắm chìm một lúc trong cơn im lặng thâm trầm, kế đó đức bà hỏi thăm chúng tôi có chỗ nghỉ đàng hoàng tươm tất không, có được săn sóc tử tế không, và cuộc hành trình có làm chúng tôi được thỏa mãn không?

Chúng tôi nói chuyện thường về cuộc đời hằng ngày, mà bà có vẻ rất thành thạo. Kế đó câu chuyện xoay về vấn đề đời sống của chúng tôi trong gia đình. Đức bà kể tên họ của cha mẹ, và anh chị em trong gia đình chúng tôi, và làm chúng tôi ngạc nhiên bằng cách diễn tả cuộc đời chúng tôi từng chi tiết mà không hỏi chúng tôi một câu nào.

Đức bà kể những xứ mà chúng tôi đã viếng thăm, những công trình mà chúng tôi đã thực hiện, và những lỗi lầm mà chúng tôi đã mắc phải. Đức bà không nói một cách mơ hồ nó bắt buộc chúng tôi phải rán nhớ lại những kỷ niệm cũ, mà trái lại mỗi chi tiết đều rõ ràng dường như chúng tôi sống lại những giai đoạn đã qua.

Khi các vị quý khách kiếu từ để lui về phòng riêng, chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà nghĩ rằng không có ai trong các vị đã sống ít hơn một trăm tuổi, và đức bà đã có bảy trăm tuổi, trong số đó bà đã trải qua sáu trăm năm trên địa cầu và sống trong thể xác vật chất.

Tuy vậy, tất cả các vị đếu đầy nhiệt tính và vui tươi như tuổi hai mươi, điều đó thật là tự nhiên và không kiểu cách hay gượng ép chút nào. Mọi việc đã xảy ra dường như chúng tôi sống chung với những giới người trẻ.

Trước khi lui gót để về phòng riêng, các vị đã cho chúng tôi biết trước rằng sẽ có đông quan khách đến dự bữa ăn tại quán trọ chiều ngày hôm sau, và chúng tôi cũng được mời tham dự.



2. Một Buổi Dạ Tiệc Với Các Chân Sư



Trưa hôm sau, tất cả các toán trong cuộc hành trình của chúng tôi về đến nơi. Chúng tọi trải qua suốt buổi chiều hôm đó để đối chiếu những bản ghi nhận của chúng tôi và thấy mọi sự đều ăn khớp nhau một cách đúng đắn.

Khi mọi việc đã xong xuôi, chúng tôi được mời đi thẳng đến quán trọ để dùng cơn chiều, khi đến quán trọ, chúng tôi thấy có độ ba trăm người chung quanh những bàn tiệc dài. Người ta dành cho chúng tôi những chỗ ngồi ở một đầu của gian phòng.

Tất cả những bàn ăn đều có trải khăn bằng vải trắng mịn rất đẹp, trên có bày chén dĩa bằng bạc và bằng sứ như một bữa dạ tiệc long trọng, tuy nhiên chỉ có một cái đèn nhỏ duy nhất để thắp sáng khắp gian phòng.

Sau khi chúng tôi đã ngồi an tọa được chừng hai mươi phút và tất cả các chỗ ngồi đều đầy đủ những quan khách trừ ra một vài chỗ còn trống ở rải rác đó đây, một cơn im lặng thâm trầm ngự khắp phòng và trong khoảnh khắc một ánh sáng mờ nhạt đã tỏa khắp chốn.

Ánh sáng ấy mỗi lúc càng tỏ rạng thêm dường như hằng nghìn bóng đèn diện ẩn dấu một cách khéo léo ở đâu đây đã từ từ được thắp lên. Gian phòng trong giây lát đã trở lên sáng rực, và tất cả các đồ vật đều chiếu rạng ngời. Về sau chúng tôi được biết rằng làng này không hề có hệ thống cung cấp điện lực.

Sau đó, cơn im lặng kéo dài độ một khắc đồng hồ; hình như có một đám sương mù từ từ đông đặc lại, chúng tôi nghe một tiếng động nhẹ giống như ngày hôm trước, rồi thình lình xuất hiện bà Mã Ly, thân mẫu của đức Tuệ Minh. Đám sương mù tan dần, và chúng tôi thấy cùng đứng rải rác trong gian phòng, bà Mã Ly và một người khác, gồm có chín người nam và hai người nữ.

Tôi không biết dùng danh từ nào để diễn tả cái đẹp của cảnh tượng ấy. Thật không phải là quá đáng nếu tôi nói rằng những nhân vật ấy đã xuất hiện như một đoàn thiên thần, nhưng không có cánh. Các vị đứng yên một lúc, đầu hơi nghiêng về phía trước, trong một cử chỉ chờ đợi.

Kế đó, vang lên những âm thanh của một ban hợp ca vô hình kèm theo một điệu nhạc thanh tao huyền diệu nhất mà người ta có thể tưởng tượng. Tôi đã từng nghe nói về những nhạc điệu thần tiên, nhưng chưa hề được nghe bao giờ; cho đến ngày hôm ấy, tôi mới biết thế nào là những âm thanh của cõi Trời. Có thể nói rằng chúng tôi nghe nhạc điệu ấy mà có cảm giác như cất nhẹ mình lên khỏi mặt ghế.

Sau bản hợp ca, mươi hai vị bèn bước đến chỗ ngồi của mình, Chúng tôi lại có dịp nhận thấy rằng các vị bước đi êm như ra không gây tiếng động, tuy rằng các vị không làm một cố gắng đặc biệt nào để giữ im lặng.

Khi các vị đã an tọa, một đám sương mù giống như lúc nãy lại xuất hiện, và lại tan dần, rồi mười hai vị khác nữa xuất hiện, gồm có một người nữ và mười một ngườ nam, trong số đó có vị tổ sư, tác giả văn kiện. Các vị đứng yên một lúc, và giọng hợp ca vô hình lại trổi lên lần thứ nhì. Sau bài hát, mười hai vị bước đến chỗ ngồi vàcũng không gây lên một tiếng động.

Khi các vị vừa an tọa, đám sương mù lại xuất hiện lần thứ ba, và khi nó vừa tan thì mười vị khác đứng xếp thành hàng, sáu người nam và bảy người nữ, xuất hiện ở đầu kia gian phòng.

Ở chính giữa là một thiếu phụ trẻ dưới hai mươi tuổi với ba người nam và ba người nữ đứng ở hai bên. Tất cả những người nữ đã xuất hiện cho đến khi đó đều rất đẹp, những người thiếu phụ này lại còn đẹp hơn tất cả các vị khác.

Mười ba vị đến sau cũng đứng yên một lúc, đầu hơi nghiêng và nhạc điệu lại trổi lên lần nữa. Sau vài điệp khúc, tiếng hợp ca lại hòa điệu với âm nhạc. Chúng tôi đứng dậy, và trong khi nhạc khúc vẫn tiếp diễn, dường như chúng tôi thấy hằng ngàn hình bóng thần tiên vừa múa lượn chung quanh vừa hát theo một lượt.

Không có giọng hát nào buồn cũng không có âm điệu bi thương. Nhạc điệu trổi lên với những âm thanh vui tươi nhẹ nhàng, xuất phát tự tâm hồn và truyền cảm đến người nghe, làm cho tâm hồn chúng tôi được nâng cao lần lần cho đến khi chúng tôi có cảm giác lâng lâng thoát tục.

Sau điệu hợp ca, mười ba vị mới đến sau bước tới chỗ ngồi và an tọa, nhưng nhãn quan chúng tôi không thể tách rời khỏi nhân vật chính giữa, người thiếu phụ đẹp tuyệt trần này tiến đến bàn của chúng tôi cùng với hai người nữ khác đi kèm ở hai bên. Thiếu phụ ngồi an tọa cùng với hai người vị đi kèm ở đầu bàn chúng tôi.

Người ta mau đặt một chồng dĩa ở bên tay trái của thiếu phụ. Ánh sáng trong phòng lu mờ trong một lúc, chúng tôi nhận thấy chung quanh mỗi người trong ba mươi sáu vị đã xuất hiện, đều có một vầng sáng nó làm cho chúng tôi ngạc nhiên, và một vầng hào quang đẹp lộng lẫy chói sáng trên đầu của vị nữ quý khách danh dự. Trong cử tọa, chúng tôi là những người duy nhất bị xúc động sâu xa bởi cảnh tượng này, còn những vị khác thì không thấy gì khác thường.

Khi tất cả mọi người đều an tọa, cơn im lặng kéo dài một lúc trong gian phòng, kế đó phần động những người có mặt đều cất tiếng hợp ca một khúc nhạc vui tươi dưới sự điều khiển của ba mươi sáu vị đã xuất hiện.

Khi bài hợp ca chấm dứt, vị nữ quý khách danh dự đứng dậy đưa hai bàn tay ra, thì thấy xuất hiện trên tay một ổ bánh mì nhỏ dài độ ba tấc rưỡi, đường kính năm phân tây. Mỗi người trong ba mươi sáu vị đứng dậy bước đến gần bà, và nhận được một ổ bánh mì tương tự.

Kế đó, các vị đi vòng quanh tất cả các bàn để phân phát cho tất cả mỗi người một mẫu bánh mì. Người thiếu phụ cũng làm như y vậy ở tại bàn chúng tôi.

Vừa phân phát bánh mì cho chúng tôi, bà nói:

- Các bạn có biết chăng đấng Christ ngự trong các bạn cũng như trong mỗi người? Các bạn có biế chăng thân thể các bạn vốn trong sạch, hoàn hảo, trẻ trung, luôn luôn tốt đẹp và thiêng liêng?

Các bạn biết chăng Chúa Trời đã tạo ra các bạn đúng theo hình ảnh của Ngài và giống y như Ngài, và đã ban cho các bạn quyền năng đối với mọi vật? Trong bản chất, các bạn luôn luôn là một đấng Christ,

Con của Chúa Trời. Các bạn vốn tinh khiết, toàn hảo, thánh thiện, thiêng liêng, hợp nhất với Chúa Trời là đấng Trọn Lành. Và mỗi người Con của Ngài đều có quyền tuyên bố sự hợp nhất và thiêng liêng đó.

Sau khi đã ban cho chúng tôi mỗi người môt mẫu bánh mì, thiếu phụ bèn an tọa. Ổ bánh mì nhỏ của bà vẫn còn nguyên vẹn như trước khi chia cho chúng tôi. Khi cuộc lễ khai mạc chấm dứt, thì thức ăn bắt đầu được đem tới. Thức ăn đến với mọi người trong những cái tộ lớn có đậy nắp, những tộ này xuất hiện trước mặt các vị nữ khách dường như được đặt bởi những bàn tay vô hình.

Người thiếu phụ mở các nắp tộ để qua một bên, và bắt đầu múc thức ăn ra dĩa. Mỗi khi múc đầy một dĩa, bà đưa luân phiên qua hai vị nữ khách ngồi hai bên, hai vị này chuyền dĩa khắp các bàn, và tất cả các quan khách đều được cung cấp thức ăn đầy đủ. Khi đó các quan khách bắt đầu ăn và nhận thấy thức ăn rất là ngon.

Khi bữa ăn vừa bắt đầu, Tô Mặc hỏi người thiếu phụ rằng theo bà thì đức tính nào của Thượng Đế là cao quý nhất. Không chút do dự, bà đáp:

- Tình thương. Kế đó bà nói tiếp Cái "Cây Sinh Hoạt" vốn ở giữa cõi Thiên đàng của Chúa Trời, ở tận nơi thâm sâu nhất trong tâm hồn con người. Trái cây phong phú và tốt lành nó mọc và trở nên chín mùi một cách toàn vẹn nhất, trái cây ngon lành và bổ dưỡng nhất, chính là Tình Thương.

Những người nhận thức được chân tính của nó, đã định nghĩa nó như vật cao cả nhất trên thế gian. Tôi xin nói thêm rằng đó là cái mãnh lực hàn gắn cứu chữa lớn nhất trên đời. Tình thương không bao giờ làm ngơ trước sự đòi hỏi của lòng người.

Người ta có thể sử dụng nguyên tắc thiêng liêng của Tình Thương để ứng đáp tất cả những nhu cầu của nhân loại và loại trừ mọi sự buồn thảm, tật ách, và những sự lầm than thống khổ của người đời.

Nhờ hiểu biết và sử dụng tình thương đúng chỗ, nhờ ảnh hưởng tế nhị và vô biên của Tình Thương, tất cả những vết thương của thế gian có thể được chữa khỏi. Tình bác ái thiêng liêng có thể sửa chữa, hàn gắn tất cả mọi sự bất hòa, vô minh và tội lỗi của nhân loại.

Khi Tình Thương chan hòa khắp chốn, nó thức rộng đến những nơi khô khan tẻ lạnh của lòng người và những nơi khốn khổ của cuộc đời. Tình Thương có thể cứu chuộc được nhân loại và biến cái thế gian như một phép mầu. Tình Thương là Thượng Đế, nó vốn trường cửu, vô biên, bất biến rộng rãi và bao la ngoài sự tưởng tượng.

Bạn bị đè bẹp dưới áp lực nặng nề của cuộc đời hằng ngày chăng? Bạn cần có lòng can đảm và sức mạnh tinh thần để đối phó với những khó khăn trắc trở của mình chăng? Bạn bị đau ốm, sợ hãi chăng? Nếu vậy bạn hãy nâng cao tâm hồn và cầu nguyện đấng Tối Cao chỉ đường cho bạn.

Tình Thương bất diệt của Thượng Đế che chở cho bạn, bạn không cần phải sợ sệt gì cả. Đức Chưởng Giáo há chẳng nói rằng: "Trước khi người khấn nguyện, Ta đã đáp ứng, trước khi người nói dứt lời, Ta đã nghe."

Bạn hãy can đảm tiến đến gần ngài, bạn hãy từ bỏ thái độ cầu khẩn van xin của mình, hãy cầu nguyện với một đức tin minh mẫn, và biết rằng sự giúp đỡ mà bạn cần, đã được ban bố cho bạn. Bạn đừng bao giờ nghĩ nản. Bạn hãy cố làm hơn thế nữa, hãy đòi hỏi.

Bạn hãy tuyên bố như đức Jesus cái quyền được sinh trưởng làm Con của Chúa Trời. Hãy biết rằng có một khí Hạo Nhiên vô hình bao trùm khắp vũ trụ, trong đó chúng ta đang sống và tiến hóa. Trong chất Tiên Thiên Khí đó, có tất cả những vật tốt lành và toàn hảo mà con người có thể mong muốn. Những vật tốt lành đó chỉ đợi đến khi nào con người biểu lộ đức tin của y, để xuất hiện dưới hình thức rõ ràng và cụ thể.

Bạn hãy nhớ chuyện vua Salomon trong đêm kinh nghiệm huyền linh của ngài, khi ngài nâng cao tâm hồn lên tận cõi tâm thức vũ trụ, khi đó ngài cầu xin cho cuộc đời ngài tránh khỏi thói ích kỷ và dành cho công việc phụng sự nhân loại. Việc ấy đã đem đến cho ngài những kho tàng của cải vô tận, không kể những danh vọng mà ngài không bao giờ dám nghĩ tới.

Ngài đã nhìn nhận sự minh triết của Tình Thương, và Tình Thương đã ban rải cho ngài những của cải kho tàng phong phú vô tận. "Tiền bạc không có giá trị gì dưới thời đại của vua Salomon." Thậm trí, đồ chén dĩa của vị vua đầy lòng bác ái đó cũng được đức bằng vàng khối. Bạn rải Tình Thương, tức là mở rộng cửa kho vô tận chứa đầy những kho tàng vàng bạc của Thượng Đế. Người nào đã biết thương yêu đồng loại, không thể không cho ra. Nhưng cho tức là được.

Đó là cái tác động của luật Bác Ái. Khi ta đem cho họ, chúng ta vận chuyển cái định luật bất di bất dịch này là "Cho bao nhiêu, được bấy nhiêu." Khi người ta cho ra là không có hậu ý muốn thu nhận, người ta không khỏi được nhận lãnh, vì những gì ta đem cho sẽ được hoàn trả lại cho ta một cách dồi dào do sự tác động của luật Nhân Quả. "Bạn hãy cho, rồi bạn sẽ nhận được với một dung lượng đầy tràn, dồi dào, phong phú gấp bội..."

Nếu chúng ta hành động với tinh thần Bác Ái, ta phải làm sao cho Thượng Đế hiện diện trong lương tri của chúng ta. Đồng hóa với Sự Sống, Tình Thương và Minh Minh Triết, tức là tiếp xúc một cách có ý thức với Thượng Đế, tức là nhận được một cách sung mãn, dồi dào giống như những thức ăn dồi dào mà chúng ta đã thọ lãnh hồi chiều nay. Các bạn thấy rằng sự sung túc được dành cho tất cả mọi người và không ai là người bị thiếu thốn.

Luật trời luôn luôn tác động một cách trường cửu, nó luôn luôn vẫn y như thế, bây giờ cũng như bao giờ. Luôn luôn bất biến không hề dời đổi, Luật Trời bao giờ cũng tốt lành. Nếu chúng ta sống thuận theo Thiên Ý, thì Luật Trời sẽ trở nên những nền tảng vững chắc để chúng ta xây dựng sức khỏe, hạnh phúc, sự bằng an, sự quân bình và sự thành công.

Nếu chúng ta hoàn toàn sống thuận theo Luật Trời thì không một tai họa đau khổ nào có thể xảy đến trong đời chúng ta. Chúng ta không cần được cứu chữa khỏi bệnh tật nào cả, vì chúng ta vốn lành mạnh từ sợi tóc chí đến đầu móng chân.Chúng ta hiểu rõ niềm khát vọng sâu xa, nó ray rứt trong tâm hồn của nhân loại!

Không gì có thể chữa khỏi sự nhớ nhung ray rứt đó, trừ ra một sự thông hiểu rõ ràng, một ý thức rõ rệt về đấng Cha Lành của chúng ta, là Chúa Trời vậy. Không có một sự mong mỏi khát khao nào sống động trong linh hồn con người cho bằng sự khát khao mong mỏi được biết Thượng Đế. "Và biết được Thượng Đế, tức là đạt tới sự sống trường cửu."

Chúng ta thấy rằng những người luôn luôn lao chao, bôn tẩu, để hy vọng tìm thấy sự yên tĩnh trong tâm hồn bằng cách thực hiện một vài công trình nào đó, hay tìm sự yên vui trong việc chiếm hữu một tài sản vật chất nào đó, mà tài sản ấy hiển nhiên là một vật hữu hình hữu hoại. Chúng ta thấy họ theo đuổi và cũng đạt được những mục đích đó, nhưng rốt cuộc họ vẫn không được thỏa mãn.

Có người tưởng tượng rằng họ cần có nhà cửa, đất ruộng; có người nghĩ rằng họ cần có một gia tài lớn; những người khác cho rằng họ cần có sự hiểu biết và kiến thức dồi dào. Chúng ta có cái vinh dự được biết rằng con người vốn sợ hữu tất cả những thứ ấy ở tự nơi mình...

Thiếu phụ im lặng một lúc, kế đó một người trong chúng tôi đứng dậy đưa câu hỏi về luật tương đối và được thiếu phụ giải đáp thỏa đáng.

Câu chuyện chấm dứt tại đó. Bữa ăn chiều đã xong, người ta dọn bàn ghế ra khỏi phòng. Khi bắt đầu một giai đoạn giải trí, có vũ và nhạc. Âm nhạc do khúc hợp ca vô hình trổi lên, và tất cã chúng tôi đều cùng nhau trải qua một giờ vui vẻ trước khi chia tay.

Chúng tôi ở lại làng này hết ba ngày, trong khi đó chúng tôi đã thấy lại một số lớn những vị quý khách đã xuất hiện đến với chúng tôi trong đêm trước. Chiều ngày thứ ba, các vị xin cáo biệt và hứa sẽ gặp lại nhau tại căn cứ điểm mùa đông của chúng tôi, kế đó các vị biến mất dạng.



3. Người Thiếu Phụ Đẹp Tuyệt Trần



Sáng ngày hôm sau, chúng tôi rời khỏi làng và đi trong ba ngày trên con đường mòn xuyên qua một vùng núi non gồ ghề hiểm trở, dân cư thưa thớt đến nỗi chúng toi phải cắm lều để ngủ lại ban đêm.

Chúng tôi không có đem lương thực, nhưng mỗi khi cần ăn uống, thì luôn luôn có sẵn đồ vật thực trong tầm tay. Khi chúng tôi vừa sửa soạn ngồi ăn, thì những thức ăn liền xuất hiện một cách đầy đủ. Không bao giờ chúng tôi thiếu ăn, và luôn luôn ăn uống thừa thãi.

Chiều ngày thứ ba, chúng tôi đến một vùng cao nguyên rộng lớn mà chúng tôi phải đi xuống lần lần để đến nơi thôn ấp mà chúng tôi muốn đến viếng. Kể từ khi đó, con đường của chúng tôi vượt qua một vùng phì nhiêu và đông dân cư.

Chúng tôi chọn thôn ấp này làm căn cứ mùa đông vì nó ở ngay trung tâm của vùng mà chúng tôi đến viếng. Chúng tôi hy vọng rằng điều ấy sẽ đem cho chúng tôi cái cơ hội hằng mong ước là có dịp kéo dài hơn sự tiếp xúc hằng ngày với các vị Chân Sư.

Một số lớn những vị siêu nhân mà chúng tôi đã gặp ở rải rác nhiều nơi, hiện đang sống tại làng này và tất cả các vị đều khẩn khoản mời chúng tôi đến viếng các Ngài. Chúng tôi có cảm giác rằng trong khi lưu trú tại làng này vào mùa đông, chúng tôi sẽ có nhiều cơ hội tốt để quan sát cuộc đời hằng ngày của các Ngài một cách gần gũi hơn.

Chúng tôi đến làng này ngày hai mươi tháng mười một, và từ căn cứ đó chúng tôi mở một loạt các cuộc xuất hành quanh vùng cho đến khi tuyết rơi làm cho mọi sự di chuyển trở nên khó khăn.

Chúng tôi được dọn chỗ ở tiện nghi, dân làng niềm nở tiếp đón, và chúng tôi chuẩn bị hòa mình với cuộc sống của dân làng. Tất cả các nhà đều mở rộng cửa đón chúng tôi, chúng tôi được cho biết rằng ở đây nhà nhà đều không đóng cửa, vì dân làng coi tất cả mọi người như anh em.

Kế đó chúng tôi được mời đến ở tại nhà của một bà thiếu phụ có tiếng tăm trong làng này, mà chúng tôi đã gặo ở vùng ven biên giới. Vì chúng tôi đã yên nơi yên chỗ, chúng tôi không thấy cần thiết phải làm quấy rầy bà, nhưng bà khẩn khoản mời mọc và nói rằng chúng tôi không có quấy rầy gì bà hết cả. Bởi đó chúng tôi dọn đồ hành lý sang ở nhà bà và ở luôn tại đó cho đến mãn cuộc hành trình.

Tôi không hề quên cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi với bà trong một tỉnh thành nhỏ ở ven biên giới. Khi bà được giới thiệu với chúng tôi, chúng tôi nghĩ rằng bà trạc độ bốn mươi tám tuổi, và nhận thấy bà rất đẹp.

Độc giả sẽ tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi như thế nào khi chúng tôi biết được rằng thiếu phụ đã có trên bốn trăm tuổi và là một trong những nhà giáo mô phạm được mến chuộng nhất vùng ấy. Bà đã dành trọn cuộc đời vào việc phụng sự kẻ khác. Khi chúng tôi ở nhà bà và sống cạnh bà hằng ngày, chúng tôi đã hiểu tại sao bà được mến chuộng dường ấy.

Trong lần gặp gỡ đầu tiên, chúng tôi thấy bà trong hai tuần liên tiếp nhưng cá tính của bà chỉ biểu lộ thật sự khi chúng tôi sống tại nhà bà. Người ta không thể nào làm khác hơn là yêu mến và kính trọng bà. Vả lại, chúng tôi càng biết rõ các vị Chân Sư, thì chúng tôi lại càng yêu mến và kính trọng các ngài.

Chúng tôi đã có dịp đối chiếu những lời xác định về tuổi tác của các ngài với những tài liệu xác thật cũng như tập du ký này. Chúng tôi ở tại nà thiếu phụ và dùng cơm chung một bàn với bà hằng ngày kể từ đầu tháng Mười Hai năm 1895 đến tháng tư năm 1896.

Chúng tôi đã có dịp quan sát tỉ mỉ đời sống của bà và cuộc đời của nhiều vị Chân Sư khác cư ngụ tại làng này. Chúng tôi nhận thấy tất cả đều là những cuộc đời lý tưởng.



4. Tình Bác Ái Thiêng Liêng



Thời gian trôi qua mau đến cuối tháng chạp. Năm đã hầu tàn. Chúng tôi nhận thấy một số đông người kéo đến làng vì một cuộc lễ mà trên thực tế chỉ có các Chân Sư mới tham dự.

Ngày nào người ta cũng giới thiệu với chúng tôi những người lạ mặt. Tất cả đều nói tiếng Anh, và chúng tôi có cảm giác như mình đồng hóa với sự sinh hoạt của làng.

Một ngày nọ, chúng tôi được cho hay rằng cuộc lễ của làng diễn ra trong đêm Giáng Sinh và chúng tôi được mời đến dự. Người ta nói thêm rằng cuộc lễ không dành cho người ngoại quốc. Tuy nhiên, cuộc hội họp không phải riêng tư. Vả lại, không có một cuộc họp nào của các Chân Sư là riêng tư. Cuộc họp nhằm mục đích quy tựu những người bắt tay vào công việc tâm linh, những người đã đặt cho công việc ấy một tầm quan trọng, nghiêm chỉnh, và đã tiến bộ khả quan để xác nhận sự mong ước của họ là sống cuộc đời thánh thiện.

Họ đến một nơi mà họ đã chấp nhận một tâm thức cao cả hơn, và hiểu rõ cái vị trí mà nó phải có trong cuộc đời của họ. Một cuộc hội họp quần chúng như thường diễn ra vào mùa này trong năm ở một nơi đã định sẵn từ trước, để cho họ tham dự cuộc lễ. Năm ấy, địa điểm hành lễ được chọn lựa lại là nơi thôn ấy mà chúng tôi đang trú ngụ.

Sáng ngày được ấn định cho cuộc hội họp, ánh bình minh thật là trong sáng, và hàn thử biểu chỉ trên hai mươi độ dưới số không. Tất cả chúng toi đều bồn chồn, với cảm giác rằng đêm ấy sẽ đem lại một kinh nghiệm mới nữa thêm vào những sự lý thú đã xảy ra trong chuyến du hành của chúng tôi.

Chúng tôi đến nơi hội họp vào lúc tám giờ tối và thấy có độ hai trăm người tề tựu tại đó. Gian phòng được trang trí tốt đẹp và được thắo sáng bằng phương pháp huyền diệu như đã diễn tả trước đây.

Chúng tôi biết rằng bà chủ nhà của chúng tôi sẽ chủ tọa cuộc hội họp. Bà đến sau chúng tôi ít lâu, và khi bà bước vào gian phòng, tất cả chúng tôi đều khen thầm sự trẻ trung và kiều diễm của bà.

Bà mặc một chiếc áo dài trắng rất đẹp, nhưng không lúc nào sé sua để làm cho người khác chú ý đến mình. Bà lẳng lặng bước lên một cái sàn gỗ và bắt đầu thuyết pháp. Bà nói:

- Chúng ta hội họp chiều nay với một mong ước được hiểu rõ ý nghĩa của sự chuyển tiếp từ một trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái siêu việt hơn. Chúng tôi xin chúc mừng những người nào trong quý vị đã được chuẩn bị cho sự chuyển tiếp đó.

Trước tiên, quý vị đã theo chúng tôi do bởi sự ưa thích công việc mà chúng tôi làm. Trước hết quý vị đã theo dõi những công việc đó một cách ngạc nhiên và sợ hãi vì quý vị cho rằng đó là những việc nhiệm mầu. Bây giờ quý vị coi đó là những điều tự nhiên của một cuộc đời gương mẫu, như Thượng Đế vẫn mong ước chúng ta phải sống.

Vào giờ phút này, quý vị đã biết chắc rằng chúng tôi không có thực hiện một phép lạ nào cả. Quý vị đã hiểu cái ý nghĩa tâm linh thực sự của những gì mà quý vị đang làm.

Chuyển tiếp từ trạng thái tâm thức thấp kém lên một trạng thái cao hơn có nghĩa là gạt bỏ cái thế giới vật chất dẫy đầy những sung đột và va chạm để chấp nhận cái Tâm Thức Bồ Đề hay tâm thức của đấng Christ. Khi đó, thì tất cả đều là mỹ lệ, điều hòa, và toàn thiện.

Đó tức là phép sinh hoạt tự nhiên, đó là phép sống mà Thượng Đế đã chọn lựa cho chúng ta, và đức Jesus đã nêu một gương sáng huyền diệu thay trên thế gian. Cách sống ích kỷ là phản tự nhiên. Đó là con đường chông gai, trắc trở. Con đường của đấng Christ thật là dễ dàng và tự nhiên nếu chúng ta hiểu rõ được nó! Người nào theo con đường đó tức là sống trong Tâm Thức của đấng Christ hay Tâm Thức Bồ Đề.

Chúng ta đang ngồi chung quanh những bàn đã bày sẵn thức ăn. Đây là cơ hội duy nhất mà chúng ta tựu họp trong một bữa tiệc như những kẻ thế nhân phàm tục vẫn thường quan niệm. Nó là một bữa tiệc thông đạt và thực hiện, biểu tượng cuộc Lễ Chuyển Tiếp như hồi thời đại của đức Jesus, cuộc Lễ Phục Sinh (Pâque), tức sự chuyển tiếp (thường không được hiểu rõ vào thời đại này) của tâm thức phàm tục lên tâm thức Bồ Đề.

Chúng tôi tin rằng một ngày kia tất cả những người con của Thượng Đế sẽ hội họp quanh một bữa tiệc tương tự và hiểu rõ cái ý nghĩa thật sự của nó.

Chiều hôm nay, trong số những vị thực khách ngồi quây quần nơi đây, có vài vị đã hoàn toàn tinh luyện xác thân đến mức có thể di chuyển bằng thể xác lên tận những cảnh giới cao siêu nhất của cõi Thượng Thiên để học Đạo thượng đẳng.

Tất cả những vị ấy đã từng sống một thời gian trong thể xác hữu hình trên địa cầu, và khi viên tịch, các ngài đã đem thể xác theo đến một nơi địa hạt tâm thức làm cho các ngài trở nên vô hình đối với người trần gian. Chúng ta phải nâng cao tâm thức lên đến mức độ Tâm Thức Bồ Đề để có thể tiếp xúc với các vị ấy. Nhưng các ngài có thể trở lại với chúng ta và ra đi tùy ý muốn.

Các ngài có thể trở lại thế gian để dạy Đạo cho những người nào thụ cảm đối với giáo lý của ngài, và xuất hiện hay biến mất tùy ý muốn. Chính các ngài đến dạy Đạo cho chúng ta khi chúng ta sẵn sàng thụ huấn các ngài, hoặc bằng trực giác, hoặc bằng cách gián tiếp xúc tự bản thân. Nam vị trong các ngài sẽ đến dùng bữa chung với chúng ta chiều nay.

Trong số đó có một vị nữ thánh mà chúng tôi đặc biệt yêu mến, vì bà là mẹ của một vị trong chúng tôi, và trước kia đã từng sống chung với chúng tôi, và trước kia đã từng sống chung với chúng tôi. (Đó là thân mẫu của đức Tuệ Minh.) Bây giờ chúng ta hãy ngồi vào bàn ăn...

Ánh sáng trong gian phòng hạ thấp xuống trong một lúc, và tất cả các quan khách đều ngồi trong cơn im lặng hoàn toàn, đầu hơi ngiêng về phía trước. Kế đó, ánh sáng lại tỏ rạng. Năm vị chân sư đã xuất hiện trong gian phòng, ba vị nam và hai vị nữ, tất cả đều mặc y phục trắng tinh, tất cả đều có một vẻ đẹp lộng lẫy và bao phủ bởi một vầng hào quang sáng dịu.

Các ngài âm thầm tiến bước, và mỗi vị đều an tọa nơi chỗ ngồi còn để trống của mình ở đầu một bàn trong năm bàn dài. Đức bà Mã Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, ngồi nơi chỗ danh dự ở tại bàn của chúng tôi cùng với vị Trưởng nhóm chúng tôi ngồi bên tay mặt và đức Tuệ Minh ngồi bên tay trái bà.

Khi các ngài đã an tọa, thì những thức ăn bắt đầu xuất hiện, Bữa ăn rất giản dị, nhưng rất ngon lành, gồm có bánh mì, rau đậu và trái cây.

Những câu chuyện kế tiếp là những huấn thị dành cho những người tới dự cuộc lễ. Đó là những huấn thị bằng tiến bổn xứ, và Dật Sĩ dịch lại cho chúng tôi nghe. Đức bà Mã Ly nói sau cùng. Bà nói tiếng Anh hoàn hảo, bằng một giọng trong suốt và rõ ràng. Dưới đây là những lời của bà:

- Hằng ngày chúng tôi thường sử dụng những mãnh lực mà người đời chế diễu và nhạo báng. Có đặc ân được tiếp nhận và sử dụng những mãnh lực ấy, chúng tôi cố gắng tận tình để chỉ dẫn cho người đời được biết. Bằng những tư tưởng của họ, người thế gian gạt bỏ ngoài đời những sự việc toàn hảo vốn nằm trong tần tay họ và chỉ đợi họ ra tay để nắm lấy.

Khi nào người ta thu đạt được những mãnh lực ấy, thì chúng nó sẽ trở nên vô cùng chân xác và sống động hơn là những của cải vật chất mà họ bám víu lấy một cách tuyệt vọng thay, bởi vì họ có thể nhìn thấy, và cảm xúc được những thứ này bằng những giác quan vật chất hữu hạn của họ.

Các bạn sẽ nhận thấy rằng tất cả những tiện nghi trong gian phòng này và những phòng của các bạn cư ngụ, như ánh sáng, nhiệt lực, và thậm chí những thức ăn mà các bạn dùng, đều do sự tác động của mãnh lực ấy mà có. Các bạn gọi nó là tia sáng hay là gì, tùy ý.

Chúng tôi tiếp nhận nó như một quyền năng lớn của vũ trụ. Khi người ta tiếp xúc với mãnh lực ấy, thì nó tác động một cách vô cùng hữu hiệu cho họ hơn là nhiệt lực, điện khí, dầu hỏa hay than đá. Tuy nhiên, chúng tôi coi nó như là một trong những nguồn lực thấp kém nhất trong những nguồn tinh lực thiên nhiên.

Mãnh lực ấy không những chỉ cung cấp tất cả mọi vận động lực hữu ích cho con người. Nó còn cung cấp nhiệt lực cần thiết cho mọi nhu cầu của họ, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, mà không tiêu thụ một mảy may nhiên liệu. Nó vốn hoàn toàn im lặng, và khi người ta sử dụng nó, nó loại trừ một phần lớn những tiếng ồn ào và sự loạn động mà hiện nay dường như không thể tránh khỏi.

Nó ở trong tầm tay bạn, ở chung quanh bạn; và chỉ đợi chờ bạn sử dụng. Khi bạn dùng nó, bạn sẽ thấy nó vô cùng giản dị hơn hơi nước hay điện lực rất nhiều.

Khi người đời đạt tới mức đó, họ sẽ thấy rằng tất cả những máy móc và phương thức vận chuyển mà họ đã phát minh chỉ là những sản phẩm của những quan niệm vật chất của họ. Họ tưởng rằng chính họ sản xuất ra những máy móc ấy và bởi vậy họ chỉ có thể tạo nên những đồ vật hữu hình hữu loại và bất toàn.

Nếu họ hiểu rằng tất cả đều phát xuất từ Thượng Đế, và ngài tự biểu lộ qua con người, thì họ chỉ có sản xuất nên những đồ vật toàn hảo. Tuy nhiên trong việc sử dụng tự do ý chí, họ đã chọn lựa con đường chông gai trắc trở thay vì hiểu rõ sự liên hệ của mình với Thượng Đế và sử dụng tất cả những khả năng thiên phú của Ngài ban cho.

Họ sẽ tiếp tục con đường ấy cho đến khi họ nhận thức rằng phải có một con đường khác tốt đẹp hơn, và con đường này quả thật là có. Sau cùng họ sẽ biết rằng con đường của Thượng Đế là con đường tốt lành duy nhất. Chừng đó con người sẽ biểu lộ đức toàn mỹ toàn thiện mà Thượng Đế muốn thấy y biểu lộ ngay từ bây giờ.

"Các bạn có thấy chăng là các bạn phải tập trung vào đấng Thượng Đế vốn có ở tự nơi mình, thu nhập từ nơi Ngài những gì là tốt lành, và do Chân Ngã thiêng liêng, vận chuyển tất cả những mãnh lực tự nhiên của mình."

Đến đây, một người trong chúng tôi hỏi rằng những tư tưởng và lời nói có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đời của chúng ta. Đức bà Mã Ly đưa tay ra, và lúc sau đó một vật nhỏ xuất hiện trên tay bà. Bà nói:

- Tôi bỏ một viên đá sỏi trong cái chén nước lạnh này. Viên sỏi rơi xuống nước tạo thành một trung điểm từ đó phát ra những làn sóng gợn đồng tâm. Những sóng gợn này càng lớn dần cho đến khi chúng đụng vào vành chén là cái giới hạn bên ngoài của chén nước. Theo con mắt phàm nhìn thấy, thì những gợn sóng này gần như mất trớn và ngừng lại.

Thật ra khi những gợn sóng đụng vào vành chén thì nó dội ngược lại trở về điểm mà viên sỏi nhỏ rơi xuống nước ở giữa chén và chúng không hề ngừng nghỉ trước khi đạt tới điểm đó. Đó là cái hình ảnh đúng đắn của tất cả những tư tưởng và lời nói mà chúng thốt ra.

Tư tưởng và lời nói làm vận chuyển vài loại âm ba phóng ra xa theo từng vòng tròn mỗi lúc càng lớn dần cho đến khi chúng bao trùm khắp vũ trụ. Kế đó chúng dội trở lại người nào đã phát ra chúng. Tất cả những tư tưởng và lời nói của chúng ta, dù tốt hay xấu, sẽ dội ngược trở lại chúng ta một cách chắc chắn những tư tưởng hay lời nói ấy...

Chúng tôi là những người đã tinh luyện thể xác đến mức có thể di chuyển đến nơi nào tùy ý, có cái đặc ân nhìn thấy cõi Thiên Giới và ở lại đó. Nhiều người được biết cõi ấy dưới danh từ "Cõi Trời thứ bảy," và coi nó như điều bí mật nhất trong các điều bí mật.

Ở đây cũng vậy, người đời đã lầm, Không là điều bí mật cả. Chúng tôi chỉ có đạt tới một cõi giới tâm thức nhờ đó chúng tôi trở nên thụ cảm đối với những giáo lý cao siêu nhất. Chính tại đó mà ngày nay đức Jesus đang ở.

"Đó là một cõi tâm thức tại đó chúng tôi biết rằng khi ta gạt bỏ sự chết, chúng ta có thể trở nên bất tử. Tại cõi ấy, con người vốn bất tử, trong sạch không tội lỗi, trường cửu, bất biến, giống như Thượng Đế. Đó là những nơi mà chúng ta biết ý nghĩa thật sự của sự Biến Hình (Transfiguration), mà chúng ta có thể cảm thông với Thượng Đế và nhìn thấy Thượng Đế diện đối diện.

Mỗi người có thể đến đó và trở nên giống như chúng tôi. Không bao lâu, trạng thái tâm thức sẽ vượt lên tới một cõi giới tại đây chúng tôi có thể nói chuyện một cách bình đẳng với nhân loại và nhìn họ ngay vào tận mắt. Sự vô hình của chúng tôi chỉ là sự nâng cao tâm thức chúng tôi vượt lên trên bình diện của thế tục. Chúng tôi chỉ vô hình vô ảnh đối với những người trần gian mà thôi..."

Đức bà Mã Ly nói vừa dứt lời, thì khúc hợp ca vô hình lại bắt đầu trổi lên. Lúc ấy là đúng nửa đêm cuối tháng mười hai và một năm mới đã bắt đầu. Như thế chấm dứt năm đầu tiên trong thời gian mà chúng tôi có hân hạnh được tiếp xúc với các bậc Chân Sư huyền diệu.

#55 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/06/2011 - 06:16

Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG NĂM


1. Một Ngôi Đền Đục Trong Hang Núi

Sáng ngày đầu năm dương lịch, chúng tôi thức dậy sớm, tinh thần khoan khoái, dễ chịu. Mỗi người trong chúng tôi đều có cảm giác một sự gì sẽ đến, làm cho chúng tôi nghĩ rằng những kinh nghiệm đã qua của mình chỉ là những bước đầu trên con đường mình sẽ đi qua.

Trong khi chúng tôi ngồi tựu họp chung quanh bàn ăn điểm tâm, chúng tôi thấy xuất hiện một người lạ mặt mà chúng tôi đã gặp một lần trong một làng nhỏ trên đường đi đến đây. Sau khi chào hỏi xã giao thường lệ, người ấy nói:

- Các bạn đã đến với chúng tôi trên một năm nay. Các bạn đã cùng đi ngao du và sống chung với chúng tôi. Chúa Trời các bạn ở lại với chúng tôi đến tháng tư hay tháng năm, tôi đến để mời các bạn đi viếng một ngôi đền đục trong núi đá ở phía ngoài làng này.

Chúng tôi được cho biết rằng người ta phải dùng lối kiến trúc đặc biệt đó để bảo vệ cho ngôi đền khỏi bị quấy nhiễu bởi những toán cường đạo thường hay cướp phá vùng ấy để "Ăn hàng". Làng này cũng bị hủy diệt nhiều lần, nhưng dân làng đã tránh khỏi tai họa nhờ họ có thể trú ẩn trong ngôi đền.

Các vị Chân Sư đã sở hữu ngôi đền này cho do dân làng chuyển nhượng lại để gìn giữ nhiều tài liệu văn kiện mà các ngài coi như quý vô giá. Từ khi có sự chuyển nhượng này, những vụ cướp bóc đã chấm dứt, dân làng không còn bị tấn công bất ngờ, và mọi người đều sống bình yên. Người ta nói rằng vài pho tài liệu kể trên quả địa cầu. Đó có lẽ là những tài liệu cổ của giống người Naacals, cũng gọi là các "Huynh đệ Thánh Thiện", đã xuất hiện ở Miến Điện để dạy dỗ dìu dắt những bộ lạc thổ dân Nagas ở đó.

Những tài liệu đó dường như chứng minh rằng tổ tiên của giống người này là tác giả của bộ sách Surya Siddhanta và các Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ. Sách Surya Siddhanta là tác phẩm cổ xưa nhất mà người ta được biết về khoa thiên văn. Những văn kiện cổ xưa cho rằng sách ấy đã có từ ba muơi lăm ngàn năm về trước.

Những Thánh Kinh Phệ Đà thời thái cổ đã có từ bốn mươi lăm ngàn năm. Không phải tất cả những tài liệu văn kiện của ngôi đền là những bản chánh, vì nhiều tài liệu đã được chép lại do cùng một nguyên bản với những tài liệu cổ của xứ Babylone và được di chuyển đến đây để được giữ gìn an toàn. Còn những bản chính từ cổ xưa là những nguyên bản đã có từ thời đại của Osiris và của châu Atlantide.

Những khách viếng thăm ngôi đền này chỉ là một thiểu số rất ít, ngoài ra những vị Chân Sư đã có hiểu biết ít nhiều về sự giác ngộ tâm linh thật sự.

Người khách lạ nói tiếp:

- Ngày hôm nay đối với các bạn là ngày bắt đầu một năm mới. Theo quan điểm thông thường, năm cũ vừa qua đã thuộc về dĩ vãng, không còn trở lại cuộc đời chúng ta nữa, trừ phi là trong tư tưởng, do những công trình đã thực hiện. Một trang trong quyển lịnh đời của chúng ta đã được xé bỏ.

Trái lại, quan điểm của chúng tôi khác hẳn. Chúng tôi coi năm vừa qua như một giai đoạn tiến bộ thêm vào những thành quả đã thực hiện được. Nó là cái gạch nối đưa chúng tôi đến những công trình thực hiện và một sự phát triển tốt đẹp hơn, đến một thời kỳ giác ngộ và hứa hẹn lớn lao hơn, một thời kỳ mà mỗi kinh nghiệm kế tiếp làm cho chúng tôi trở lên trẻ trung hơn, khỏe mạnh hơn và bác ái hơn.

Các bạn nghĩ rằng: "Làm sao được như vậy?" Chúng tôi đáp: "Các bạn hãy tự tìm ra những kết luận của mình, các bạn hãy chọn lựa cách sống riêng của mình."

Vị trưởng nhóm của chúng tôi nói:

- Chúng tôi ước mong được thấy và biết.

Người lạ mặt nói tiếp:

- Kể từ bây giờ, có những bài học đúng đắn cho những kẻ không nhìn thấy, không biết, không hiểu ý nghĩa về mục đích cuộc sống chân chính. Đó không phải là một cuộc đời khổ hạnh, khắc khổ, cô lập hay buồn thảm, mà là một cuộc đời hoạt động trong sự vui tươi, một cuộc đời mà mọi sự buồn rầu, đau khổ đều bị vĩnh viễn loại trừ.

Kế đóm người lại nói với một giọng ít nghiêm cẩn hơn:

- Các bạn đã bày tỏ ý muốn được thấy và được biết. Nhìn các bạn tựu họp như vầy, tôi chợt nghĩ đến câu nói trong Kinh Thánh: "Khi nào hai hay ba người trong các ngươi nhân danh Ta mà hội họp, thì Ta luôn luôn có mặt bên họ."

Cuộc đời tu hành khổ hạnh, xuất gia lánh đời, để ẩn mình trong những tu viện Cơ Đốc hay Phật Giáo, không phải là điều cần thiết. Một cuộc đời như thế không giúp cho hành giả đạt tới sự giác ngộ tâm linh thật sự và thực hiện sự minh triết chân chính.

Những pháp môn tu luyện đó đã từng có bao nhiêu ngàn năm về trước. Tuy nhiên, những giáo lý của đức Jesus, trong khoảng vài năm mà ngài xuất hiện ở thế gian, đã đóng góp một phần vô cùng lớn lao hơn nhiều trong việc giáo dục tâm linh cho dân chúng.

Người ta biết rằng đức Jesus đã từng thấu triệt mọi giáo lý, đã vượt qua nhiều cấp bậc Điểm Đạo, nghiên cứu những cấp đẳng Huyền Môn bí truyền, cùng những nghi thức lễ bái, và sau cùng đã đạt tới giáo lý của Osris. Những giáo lý này được chỉ dẫn cho ngài bởi một vị tư tế đã thoát ly ra khỏi tất cả mọi nghi thức lễ bái, và quy luật, sắc tướng.

Vị tư tế này là một đệ tử của vị Thánh Vương Thoth, thuộc triều đại thứ nhất của các vì vua Ai Cập. Đế quốc Ai Cập đã từng được nâng lên một trình độ văn minh cao cả hùng cường nhờ ảnh hưởng của Osris và những vị kế nghiệp của ngài. Vị Thánh Vương Thoth trị nước trong sự minh triết và cố gắng duy trì giáo lý của Osris.

Tuy vậy những quan niệm vật chất và hắc ám đã xuất hiện khi những bộ lạc miền Nam là những giống người da đen đã đưa Thoth lên cầm quyền, tăng gia ảnh hưởng của họ. Những triều đại sau đó đã đi xa những giáo lý của Osris.

Họ lần lần chấp nhận những quan niệm hắc ám của giống người da đen, và sau cùng đã tuyệt đối thực hành khoa bàn môn tả đạo. Đế quốc Ai Cập đã suy vong rất mau chóng, và một đế quốc như thế lẽ tự nhiên phải bị suy vong.

Sau khi đức Jesus đã chăm chú nghe lời dẫn giải của vị tư tế này, Ngài bèn thấu triệt được ý nghĩa thâm sâu huyền diệu của giáo lý Huyền Môn. Những quan điểm sơ khởi của đức Jesus về giáo lý nhà Phật mà ngài đã thụ huấn của những nhà hiền triết phương Đông đã giúp cho Ngài nhận thức được những điểm tương đồng chính yếu của tất cả mọi giáo lý.

Khi đó, Ngài bèn quyết định đi sang Ấn độ, đó là một dự tính hoàn toàn có thể thực hiện được do bởi con đường bộ xuyên Á châu của những đoàn lạc đà thường di chuyển từng kỳ hạn vào thời đó.

Sau khi đã nghiên cứu của giáo lý Phật giáo ở Ấn độ, đức Jesus nhận thấy giữa các tôn giáo có những điểm tương đồng. Ngài hiểu mặc dầu có những sự khác biệt về hình thức lễ và giáo điều do người đặt ra, nhưng tựu trung các tôn giáo chỉ có một nguồn gốc duy nhất là Thượng Đế...

Cuộc nói chuyện chấm dứt và chúng tôi đi đến ngôi đền. Tại đây. Tại đây, chúng tôi gặp bốn vị trong số các vị siêu nhân đã đến đây trước chúng tôi. Sau một lúc nói chuyện thông thường, chúng tôi tất cả đều ngồi xuống, và người khách lạ lúc nãy lại nói tiếp:

- Không một nhân vật lịch sử nào có thể bì kịp với đức Jesus. Phần đông người Âu Mỹ tôn sùng ngài như một thần tượng, và bởi đó họ đã lầm. Đáng lý ra họ nên coi ngài như hiện thân của một lý tưởng, thay vì tôn thờ ngài như thần tượng.

Thay vì khắc những hình tượng để thờ ngài, người ta nên coi ngài như một nhân vật đang sống, vì hiện nay ngài thật sự đang sống trong chính cái thể xác đã từng bị đóng đinh trên Thập tự giá. Ngài vẫn còn sống và có thể nói chuyện với các bạn như hồi trước khi ngài bị đóng đinh. Sự lầm lạc to lớn của đa số người, là nghĩ rằng đức Jesus bị kết liễu cuộc đời trong tai nạn đau khổ và chết trên cây Thánh giá.

Họ quên rằng phần lớn cuộc đời của ngài đã diễn ra trong thời gian khi ngài phục sinh. Ngày nay đức Jesus vẫn có thể dạy đạo và chữa bệnh một cách linh nghiệm hơn bao giờ hết. Các bạn có thể đến trước mặt ngài bất cứ lúc nào, nếu các bạn muốn.

Nếu các bạn tìm ngài, thì các bạn sẽ gặp. Đức Jesus không phải là một vị vua có thể bắt buộc các bạn chấp nhận sự hiện diện của ngài, mà là một người Anh cả luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ các bạn và giúp đỡ thế gian. Khi ngài còn sống trên cõi thế gian phàm tục, ngài chỉ có thể tiếp xúc với một thiểu số người có hạn định.

Còn dưới hình thể mà ngài khoác lấy hiện nay, ngài có thể tiếp xúc với tất cả với những người nào hướng về ngài. Phải chăng ngài đã nói rằng: "Bất cứ nơi nào có Ta, thì các người cũng có thể có mặt ở đó?"

Câu này phải chăng có ý nghĩa là ngài ở một nơi rất xa, tận trên trời, và các bạn chỉ lên tới đó sau khi đã chết? Không, ngài vẫn ở tại cõi này, là nơi các bạn đang ở, ngài có thể di chuyển đó đây, và nói chuyện với bạn.

Ta chỉ có thể cho ngài tự do hành động. Hãy nâng tầm mắt bạn nên cao hơn một chút, hãy bao gồm một chân trời rộng lớn hơn, và bạn sẽ thấy ngài, miễn là tâm hồn và trí não bạn hướng đến ngài một cách chân thành. Các bạn có thể cùng đi và

nói chuyện với ngài.

Nếu các bạn quan sát tỉ mỉ thân thể ngài, các bạn sẽ thấy những vết thẹo đóng đinh trên Thánh giá, vết đâm của ngọn giáo và của chiếc mão gai, nay đã hoàn toàn lành hẳn. Tình Thương và niềm phúc lạc từ toàn thân ngài toát ra sẽ chứng minh cho bạn thấy rằng ngài quên tất cả, và tha thứ tất cả...

Tới đây, người khách lạ ngừng nói, tất cả đều đắm chìm một lúc trong một cơn im lặng thâm trầm, kế đó một ánh sáng mà chúng tôi chưa nhìn thấy bao giờ, chiếu khắp gian phòng.

Chúng tôi nghe một giọng nói, lúc đầu dường như vọng lại từ đằng xa và không rõ ràng. Sau khi giọng nói trở lên hoàn toàn rõ rệt và vang rền những âm thanh sáng sủa như tiếng chuông ngân.

Một người trong chúng tôi hỏi:

- Ai nói đó?

Vị trưởng nhóm của chúng tôi đáp:

- Hãy im, đó là đức Chưởng Giáo của chúng ta, đức Jesus đó.

Một người trong bọn lại nói:

- Đúng rồi đức Jesus nói đấy.

Khi đó giọng nói tiếp tục:

- Khi tôi nói "Ta là Con Đường, là Chân Lý, là Sự Sống," tôi không có ý đem đến cho nhân loại cái ý nghĩ rằng chỉ có một mình tôi mới là Ánh Sáng, chân thật và duy nhất.

Khi tôi nói: "Ta là người Con hoàn toàn, người Con Duy Nhất do Chúa Trời sinh ra," tôi muốn xác nhận với toàn thể nhân loại rằng một trong những người Con của Chúa Trời đã nhìn thấy, hiểu rõ và tuyên bố tính chất thiêng liêng của mình.

Người con ấy thấy rằng cuộc đời mình và những hành động của mình vốn phát sinh từ nơi Chúa Trời, tức là cái nguyên lý Vô Cực của vạn vật. Người tuyên bố mình là đấng Chirst, người con duy nhất do Chúa Trời sinh ra. Rồi bằng cách sống cuộc đời thánh thiện của một tâm hồn chân thật và kiên nhẫn, người trở nên nhân vật thiêng liêng mà người đã tuyên bố.

Luôn luôn giữ gìn cái lý tưởng đó, người thấm nhuần nó khắp toàn thân của mình, và sau cùng đã đạt được cái mục đích mà người tìm kiếm.

Tại sao có biết bao nhiêu người không hề thấy tôi? Đó là bởi vì họ đặt tôi trên một cái ngai thần tượng và để tôi vào một chỗ cao xa không thể đạt tới. Họ bao trùm tôi với bao nhiêu phép lạ nhiệm màu và những điều huyền bí, và đặt tôi ở một nơi xa xôi cách biệt với quần chúng mà tôi hằng thương yêu với một tình bác ái vô biên khôn tả.

Tôi không rút lui khỏi họ, mà chính họ đã rút lui khỏi tôi. Họ đã dựng lên những bức màn, những vách tường ngăn cách, đặt ra những người trung gian và khắc nên những hình tượng của tôi cùng những người thân của tôi.

Mỗi người trong chúng tôi đều được bao phủ bằng những huyền thoại và những chuyện nhiệm mầu làm cho tôi bị ngăn cách quá xa đến nỗi người đời không còn biết làm thế nào để đạt tới chúng tôi nữa.

Người ta cầu nguyện và khẩn cầu đức Mẹ mến yêu của tôi và những người thân chung quanh tôi, và như vậy họ bao phủ chúng tôi với những tư tưởng trần gian phàm tục. Thật ra nếu người đời muốn biết chúng tôi một cách thật sự và mong ước được bắt tay chúng tôi như các bạn đã làm hôm nay đây, thì họ sẽ nói chuyện với chúng tôi như các bạn đã làm. Các bạn nhìn thấy chúng tôi không hề thay đổi. Chúng tôi muốn cho toàn thể thế gian cũng biết như vậy xiết bao!

Các người đã bao trùm chúng tôi từ bao nhiêu lâu với những điều huyền bí đến nỗi làm cho sự hoài nghi cuối cùng phải thắng thế. Các người càng làm nhiều hình tượng bao nhiêu, thì các người lại làm cho chúng tôi trở nên xa cách bấy nhiêu. Các người càng bao phủ chúng tôi trong sự nghi nan tăm tối sâu đậm bao nhiêu, thì cái vực thẳm mê tín dị đoan càng trở nên rộng lớn và khó vượt qua bất nhiêu.

Nếu các người muốn bạo gan bước lại bắt tay chúng tôi và nói: "Tôi biết ông", thì chừng đó mỗi người đều có thể nhìn thấy chúng tôi và biết chúng tôi như hiện giờ. Không có sự mầu nhiệm nào chung quanh chúng tôi hay những người thân chúng tôi, vì chúng tôi thương yêu tất cả nhân loại.

Phần đông chỉ nhận thấy có một phần cuộc đời của tôi nó kết liễu trên cây Thánh giá. Họ quên rằng phần lớn cuộc đời tôi đã sống trong hình thức hiện tại. Họ quên rằng con người vẫn tiếp tục sống, dẫu rằng sau cái chết bất đắc kỳ tử. Người ta không thể hủy diệt sự sống. Sự sống vẫn còn tiếp diễn luôn luôn, và một đời sống tốt lành không bao giờ mất. Dẫu cho cái xác thể vật chất cũng có thể trở nên bất tử và không còn thay đổi.

Khi người anh em Phi Lát rửa tay và nói: "Các người hãy đem y đi và hãy tự tay các người đóng đinh y trên cây Thánh giá" tôi không cho rằng Phi Lát đã lầm lỗi. Y không hề biết gì về cái diễn biến lịch sử mà y đang dự phần trong đó, và điều tiên tri mà y đang thực hiện.

Y và những người chung quanh y đã đau khổ nhiều hơn tôi. Nhưng tất cả những việc đã qua, đã được quên lãng và tha thứ, như các người sẽ thấy trong cuộc hội họp hôm nay.

Kế đó, hai nhân vật xuất hiện, và đức Jesus ôm hôn cả hai người. Đặt bàn tay Ngài lên vai của một trong hai người, Ngài nói:

- Người anh em này đã cùng tôi đi suốt con đường Đạo. Còn người kia, y đã trải qua nhiều cuộc thử thách đắng cay trước khi y mở mắt tỉnh ngộ, nhưng khi y tỉnh ngộ, y bèn đi theo chúng tôi. Y cũng hoàn toàn chân thật như những người khác, và chúng tôi thương yêu y cũng như bằng một tình thương không kém.

Khi đó, nhân vật thứ hai từ từ tiến lên và đứng yên một lúc. Đức Jesus dạy lại, mở rộng hai tay ôm lấy người ấy và nói: "Hỡi Phi Lát thân mến." Thật là không ai có thể lầm lẫn về những hảo ý của cả hai vị.

Kế đó, Phi Lát cất tiếng nói:

- Tôi đã đau khổ trong nhiều năm sau khi tuyên bố bản án vào cái ngày mà tôi đã nhẹ dạ gạ bỏ cái trách nhiệm nặng nề của tôi. Trong đời sống hằng ngày, rất ít người trong chúng ta nhận thức được những gánh nặng vô ích mà họ chồng chất lên vai kẻ khác chỉ vì họ muốn trốn tránh trách nhiệm của mình.

Nhưng khi chúng ta đã thức tỉnh, chúng ta hiểu rằng khi mình càng cố gắng tránh né bổn phận và tìm cách đặt gánh nặng của mình lên vai kẻ khác, thì cái gánh nặng ấy càng đè nặng trên vai mình. Tôi đã phải mất nhiều năm ray rứt đau khổmới nhìn thấy rõ điều đó, nhưng thật cũng là một niềm vui mừng lớn lao thay từ khi tôi đã tỉnh ngộ!

Khi đó, khúc hợp ca vô tình trổi lên với một âm điệu du dương khôn tả. Sau vài điệu nhạc, đức Jesus tiến lên và nói:

- Các người có lấy làm ngạc nhiên chăng, khi biết rằng tôi đã tha thứ từ lâu cho những kẻ đã đóng đinh tôi trên Thánh giá? Kể từ lúc đó, tại sao người thế gian không tha thứ lẫn nhau như tôi vậy?

Tại sao các người không nhìn thấy tôi trong cái chân tướng bản thể, không phải bị đóng đinh trên Thánh giá, mà vượt lên cao hơn tất cả những gì là trần gian tục lụy?

Khúc ca vô hình lại tiếp tục với câu hát:

"Xin ngài cứu rỗi và giải thoát cho tất cả, hỡi ngài là Con của Chúa Trời. Các người hãy nghiêng mình suy tôn ngài, nước Chúa đã được đặt ra cho nhân loại trường cửu đến muôn đời. Thật vậy, ngài sẽ ở bên cạnh các ngài, mãi mãi..."

Đó không phải là một cảnh tượng xa xôi, huyền ảo, hay lu mờ. Chúng tôi thật sự có mặt trong gian phòng lúc ấy và chúng tôi đã nói chuyện với những người đối thoại. Chúng tôi đã bắt tay chào hỏi và đã chụp ảnh tất cả các vị. Các vị đã hiện diện giữa nhóm chúng tôi, và chúng tôi đã vây quanh các vị.

Sự khác biệt duy nhất giữa các vị và chúng tôi là các vị được bao phủ quanh mình bằng một thứ hào quang đặc biệt. Hào quang đó dường như là cái nguồn xuất phát ra ánh sáng chiếu khắp phòng. Các vị không có tỏa ra một cái bóng nào như chúng tôi. Thể xác các vị dường như trong suốt một cách lạ thường, bàn tay sờ vào thì nó giống như chất bạch ngọc (albâtre).

Tuy nhiên, thân thể các vị có những rung động ưu ái tốt lành và tỏa ra chung quanh sự nhiệt thành và ấm áp của tình thương. Sau khi các vị đã ra đi, gian phòng dường như vẫn còn giữ lại sự ấm áp và ánh sáng của ngài. Sau đó, mỗi khi chúng tôi bước vào phòng này, chúng tôi đều cảm thấy như vậy.

Một ngày nọ, vài người trong nhóm chúng tôi họp tại đó, trao đổi cảm tưởng lẫn nhau và vị trưởng nhóm chúng tôi nói:

- Gian phòng này thật là kỳ diệu.

Anh ta đã biểu lộ cái cảm tưởng chung của chúng tôi, chúng tôi không ai nói thêm điều gì nữa. Khi chúng tôi trở lại đó vào mùa thu năm sau, gian phòng giống như một nơi linh điện và chúng tôi ngồi tĩnh tâm tại đó trong nhiều giờ.

Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, chúng tôi đợi cho các vị siêu nhân bước ra khỏi phòng. Trong khi Phi Lát sắp sửa ra đi, người yêu cầu vị trưởng nhóm chúng tôi cùng đi theo người.

Chúng tôi dùng các cầu thang đi xuống phòng dưới, và đi theo con đường hầm để ra ngoài đường. Chúng tôi đi về làng và trở về nhà trọ, tại đây chúng tôi còn ngồi nói chuyện đến nửa đêm.

Sau khi các vị quan khách đã ra về, chúng tôi tụ họp chung quanh bà chủ nhà, và mỗi người đều đến bắt tay bà để cảm ơn về buổi tối đặc biệt đó. Một người trong chúng tôi nói:

- Tôi chỉ có một cách duy nhất để phát biểu những tư tưởng và cảm nghĩ của tôi, là nói rằng những quan niệm vật chất thiển cận của tôi đã hoàn toàn tan vỡ đến nỗi tôi sẽ không bao giờ còn thấy lại một mảnh vụn nhỏ nhặt nào!

Dường như bạn tôi đã thức động đến những tư tưởng thầm kín của tất cả mỗi người trong nhóm. Về phần tôi, tôi không nói gì về những cảm nghĩ của mình và cũng không hề nghĩ đến việc thuật chuyện lại cho ai nghe. Việc đó tôi để tùy nơi sự tưởng tượng của độc giả. Khi chúng tôi chào bà chủ nhà trước khi đi ngủ, không ai thốt ra một lời nào nữa.

Mỗi người đều có cảm tưởng rằng một thế giới hoàn toàn mới lạ đã xuất hiện trước mắt chúng tôi. Chúng tôi lui về phòng riêng trong đêm đó với ý nghĩ rằng mình đã trải qua một ngày đầu năm tốt đẹp nhất trong đời.



2. Tài Liệu Cổ Xưa Đến Bốn Trăm Năm Mươi Thế Kỷ



Sáng ngày hôm sau, vào lúc ăn điểm tâm, chúng tôi hỏi bà chủ nhà và được biết rằng không phải là một điều bất thường mà thấy đức Jesus xuất hiện như Ngài đã làm đêm trước. Bà nói rằng Ngài vẫn thường tham dự với bà và các bạn hữu trong công việc chữa bịnh.

Ngày đó, bà chủ nhà và hai bà khác quyết định đến ngôi đền với chúng tôi. Khi chúng tôi vừa ra khỏi nhà, hai người đàn ông đi theo chúng tôi. Một người nói với bà chủ nhà rằng có một đứa trẻ trong làng bị đau ốm và nhờ bà đến chữa bịnh.

Chúng tôi bỏ dở lộ trình và đi theo hai người lạ mặt đến nhà đứa trẻ, thì thấy em bé ấy thật sự đang đau nặng. Bà chủ nhà chúng tôi liền tiến tới và đưa hai tay ra. Mẹ em bé đặt đứa nhỏ trong vòng tay của bà.

Gương mặt đứa bé liền sáng lên, rồi nhăn lại một lúc. Sau vài phút, nó ngủ một giấc li bì. Bà chủ nhà mới trả em bé lại cho người mẹ nó và chúng tôi ra đi để đến ngôi đền.

Người ta đưa chúng tôi đi qua nhiều phòng trong ngôi đền. Trong lúc nói chuyện, chúng tôi được biết rằng một trong hai người đã đi theo chúng tôi hồi sớm mai là con cháu của một trong các bậc siêu nhân có gương mặt còn trẻ mà chúng tôi đã gặp tại làng cũ của Thánh Jean Baptiste ở ngày xưa.

Chúng tôi đã gọi vị siêu nhân ấy là vị sư tổ, tác giả các văn kiện cổ xưa. Trái lại, người cháu chắt này già như một ông lão, điều này làm chúng tôi ngạc nhiên.

Trong khi chúng tôi trở lại gian phòng thứ nhất, vị trưởng nhóm của chúng tôi hỏi rằng một điều ước nguyện có thể nào thực hiện được chăng?

Bà chủ nhà đáp rằng mọi điều mong ước được bày tỏ dưới một hình thức cầu nguyện, rằng đức Jesus vẫn dùng một hình thức cầu nguyện toàn vẹn vì lời cầu nguyện của ngài luôn luôn được đáp ứng.

Một lời cầu nguyện luôn luôn được đáp ứng chỉ có thể là toàn vẹn, bởi đó nó rất khoa học, và nếu nó đúng tinh thần khoa học, lẽ tất nhiên nó phải theo một định luật đúng đắn. Bà chủ nhà nói tiếp:

- Định luật ấy là như vầy: Lời cầu nguyện được đáp ứng là tùy theo đức tin. Nói một cách khác, bất luận là bạn mong ước điều gì khi bạn cầu nguyện, bạn hãy tin rằng bạn đã nhận được những điều mong ước đó, rồi bạn sẽ có.

Nếu chúng ta biết chắc rằng những gì ta cầu xin đã được ban cho ta, chúng ta cũng biết rằng chúng ta đã hành động đúng luật. Và nếu điều mong ước được thực hiện, chúng ta biết rằng luật đã ứng nghiệm. Còn nếu điều ta ước mong không được đáp ứng, thì ta biết rằng chúng ta đã cầu nguyện trái phép. Lỗi ấy không phải ở nơi Trời, mà ở nơi chúng ta. Trong trường hợp đó, thì đây là điều răn:

"Các bạn hãy kính yêu Thượng Đế với tất cả tấm lòng thành, với tất cả linh hồn, tất cả sức mạnh, tâm tư và trí não của bạn. Bây giờ, bạn hãy đi sâu vào tâm hồn bạn, không thành kiến, không sợ hãi, và không nghi nan, với một tâm hồn vui vẻ, tự do và biết ơn, và biết rằng những gì bạn cần dùng, những gì bạn cầu mong, bạn đã được rồi đấy."

Cái bí quyết là hãy nâng tâm hồn lên cho hòa nhịp với Thượng Đế. Kế đó, phải giữ nguyên trạng thái đó không cho suy chuyển một ly, dầu cho ta có gặp phải sự chống đối của toàn thể thể thế giới. Đức Jesus nói:

- Riêng ta, ta không thể làm gì được. Đức Chúa Cha ngự nơi ta đã làm tất cả mọi việc.

Các bạn hãy có đức tin nơi Thượng Đế, đừng nghi ngại, đừng sợ sệt. Các bạn hãy nhớ rằng quyền năng của Thượng Đế không giới hạn. Tất cả mọi việc, ta đều có thể làm được.



3. Đức Jesus Xuất Hiện



Trong nhiều ngày liên tiếp, suốt hai tháng trường chúng tôi nghiên cứu một loạt những tấm bia đá cổ xưa sắp thành hàng trong một phòng kín của ngôi đền. Những bia đá này có khắc những cổ tự và những hình biểu tượng hàm xúc nhiều ý nghĩa thâm sâu.

Ông lão đi theo chúng tôi giảng giải cho chúng tôi nghe những ý nghĩa của các bia đá cổ. Một ngày nọ vào ngày tháng Ba, như thường lệ chúng tôi đến gian phòng nói trên và thấy ông lão nằm yên bất động trên tấm nệm, dường như người ngủ, Một bạn tôi bước đến gần, đặt nhẹ một bàn tay trên mình ông lão để đánh thức ông dậy, nhưng đều thụt lùi lại và hoảng hốr kêu:

- Ông ta không còn thở, hay là ông ấy đã chết rồi!

Chúng tôi tựu lại quanh tấm nệm với ý nghĩ là ông lão đã chết nên không để ý đến việc gì xảy ra và có ai bước vào phòng. Bỗng một tiếng "Chào các bạn" kéo chúng tôi ra khỏi cơn mơ. Chúng tôi quay lại phía cửa vào và thấy đức Tuệ Minh.

Sự xuất hiện của ngài làm chúng tôi ngạc nhiên, vì chúng tôi tưởng là ngài đang ở một nơi cách đây một ngàn năm trăm cây số. Trước khi chúng tôi định tĩnh tinh thần, ngài đã bước tới gần và bắt tay chúng tôi.

Sau một lúc hai người chúng tôi lui ra sau và đức Tuệ Minh bước tới gần tấm nệm. Đặt một bàn tay trên trán ông lão, ngài nói:

- Đây là một huynh đệ thân mến của chúng ta vừa mới từ giã cõi đời và bỏ dở công việc của y đang làm. Các bạn nghĩ rằng y đã chết. Ý tưởng đầu tiên của các bạn là tìm một người đào huyệt, mua một cỗ quan tài, và xây cho y một ngôi mộ để cho y yên giấc nghìn thu. Hỡi các bạn, hãy suy nghĩ trong một lúc.

Ngày xưa đức Jesus đã kêu gọi đến ai khi ngài nói: "Hỡi Chúa Cha, con xin tạ ơn chúa đã nghe lời cầu nguyện của con?" Ngài không kêu gọi đến cái phàm ngã, cái lớp vỏ bên ngoài. Ngài nhìn nhận và kêu gọi đến Chân Ngã, tức Đại Ngã vô biên, vốn tàn năng, vốn nghe, biết, và nhìn thấy tất cả, tức là đức Thượng Đế toàn thông và hiện diện ở khắp mọi nơi.

Đức Jesus chủ ý đến diều gì khi ngài đứng bên cạnh nắm mồ của Thánh Lazare? Phải chăng ngài làm như các bạn là nhìn vào lỗ huyệt đào, và thấy xác thể thánh Lazare đang chương sình và sắp tan rã? Không. Khi mà các bạn chỉ nghĩ đến người chết, ngài nghĩ đến người sống, là Con duy nhất của Chúa Trời.

Nhãn quang của ngài trụ vào sự sống trường cửu, bất biến hiện diện khắp nơi và thấm nhuần tất cả mọi vật. Bây giờ, với tầm nhãn quang của chúng ta cương quyết nhắm vào sự hiện diện hằng có của Thượng Đế, chúng ta có thể nhìn thấy hoàn tất công việc của người huynh đệ thân yêu này, y đã không bao giờ tuyệt đối trông cậy nơi Thượng Đế. Y đã trông cậy một phần vào sức mình và đã đi đến trạng thái hiện tại mà các bạn đã thấy. Y đã bỏ cuộc Chúa Trời.

Y đã phạm vào điều lầm lạc mà nhiều người trong các bạn đang làm hiện thời, điều lầm lạc mà các bạn gọi là sự chết. Người huynh đệ thân yêu này đã không có khả năng từ bỏ sự nghi ngờ và sợ sệt. Y đã cậy nơi sức mình và không thể hoàn tất công việc mà mỗi người trong chúng ta đều phải làm. Nếu chúng ta cứ để y nằm yên như thế, thể xác y sẽ tan rã.

Y sẽ phải trở lại cõi trần để hoàn thành công việc thế gian mà y làm chưa xong. Thật ra, công việc ấy đã gần xong đến nỗi chúng ta có thể giúp y hoàn tất chu đáo. Chúng ta cho rằng thật là mợt vinh dự lớn lao mà có thể giúp đỡ y trong trường hợp này. Các bạn đã hỏi rằng y có thể nào thức tỉnh dậy và sống lại như mọi người hay chăng? Có, y có thể, và tất cả những người đã chết như y đều có thể sống lại.

Mặc dầu các bạn cho rằng y đã chết, nhưng chúng tôi là những người đã từng chia sẽ ít nhiều cuộc đời của y, chúng tôi có thể giúp đỡ y. Không bao lâu y sẽ hiểu và sẽ có thể đem thể xác đi theo với y. Không cần phải bỏ xác cho cái gọi là "Sự chết" và sự tan rã, dẫu rằng sau khi đã làm cái điều lầm lạc lớn lao nói trên...

Đức Tuệ Minh ngừng nói trong một lúc và có vẻ đắm chìm trong một cơn thiền định thâm sâu. Một lúc ngắn ngủi sau đó, bốn người trong các vị khách gặp nhau trong làng đều bước vào gian phòng.

Các vị bước đến gần nhau, cũng nhắm mắt định thần và đi vào cơn đại định thâm trầm. Kế đó, hai người trong các vị đưa tay ra và mời chúng tôi cùng nhập cuộc. Chúng tôi bước đến gần và khoác tay trên vai nhau, làm thành một vòng tròn chung quanh chỗ nằm của xác chết.

Chúng tôi đứng im lặng trong một lúc, kế đó ánh sáng trở lên tỏ rạng hơn trong gian phòng. Chúng tôi quay lại nhìn thấy đức Jesus và Phi Lát đang đứng cách chúng tôi có vài bước. Hai vị tiến tới và nhập đoàn cùng với chúng tôi. Lại một cơn im lặng thâm trầm tiếp theo sau, kế đó đức Jesus đến gần xác chết, đưa hai tay lên và nói:

- Hỡi các bạn, tôi xin đề nghị với các bạn hãy cùng tôi vượt trong một lúc qua cõi giới bên kia cửa Tử. Cõi ấy không phải là vùng cấm địa như các bạn có thể tưởng. Nếu các bạn cùng với tôi vượt qua cửa Tử và quan sát cõi ấy từ phía bên kia, các bạn sẽ thấy rằng nó sẽ thuần túy tạo nên bởi những tư tưởng của con người. Ở cõi giới bên kia cũng có sự sống, giống như bên này vậy.

Đức Jesus đứng yên một lúc hai tay đưa thẳng về phía trước, và nói:

- Hỡi người anh em và bạn hữu, bạn hiện diện với chúng tôi, chúng tôi cùng hiện diện với bạn, và tất cả chúng ta đều hiện diện chung nhau với Chúa Trời. Sự tinh khiết tuyệt đối, sự bằng an và điều hòa của Chúa Trời bao phủ và thấm nhuần tất cả.

Sự thực hiện điều đó nay đã biểu lộ nơi bạn một cách độc đáo và rõ rệt đến nỗi bạn có thể đứng dậy và được nhận ở một bên đấng Cha Lành. Bạn thân mến, bây giờ bạn đã thấy và biết rằng thể xác của bạn không phải là cát bụi trở về cát bụi, hay nhúm tro tàn hoàn lại đống tro tàn. Sự sống vẫn ở đó, tinh anh và trường cửu.

Không cần phải bỏ thể xác cho nó tan rã trong sự chết. Bây giờ bạn đã nhận thức được sự huy hoàng của cõi giới nguyên thủy của mình. Bây giờ bạn có thể đứng dậy và đến với Chúa Trời...

Hỡi quý độc giả, nếu người ta thử diễn tả sự mỹ lệ và tinh anh của ánh sáng tràn ngập gian phòng này bằng ngôn ngữ của trần gian, thì đó là những danh từ trống rỗng. Khi xác chết bất động ngồi dậy, dường như ánh sáng chiếu xuyên qua mọi vật, thành thử không có vật gì phát ra bóng đen, cả thể xác của người chết cũng như của chúng tôi.

Kế đó, những vách tường dường như nới rộng ra và trở nên trong suốt, và sau cùng dường như tầm nhãn quang của chúng tôi phóng vào khoảng không gian vô tận. Không thể dùng danh từ nào để có thể diễn tả sự huy hoàng của cảnh tượng lúc ấy. Khi đó chúng tôi hiểu rằng Thần Chết đã biến mất và chúng tôi đang hiện diện trước Sự Sống trường cửu, huy hoàng.

Người trần gian cũng như chúng tôi chỉ có thể nhìn với đôi mắt kinh ngạc. Trong những giây phút đó, chúng tôi vượt lên cao hơn nhiều những gì mà một khối óc giàu tưởng tượng có thể nghĩ về sự mỹ lệ huy hoàng của cõi Trời. Đó không phải là một cơn mơ, mà đó là sự thật. Sự thật ấy có thể vượt khỏi rất xa tất cả những giấc mơ.

Ngày hôm đó, ảnh hưởng kỳ diệu của sự mỹ lệ và sự bằng an của cảnh tượng ấy gây ra, cộng thêm với đức tin mà các vị Chân Sư đã gây cho chúng tôi, đã hoàn toàn đưa chúng tôi vượt qua bên kia bức rào ngăn cách giữa sự Sinh và sự Tử.

Ngày nay, bức rào ngăn cách đó đối với chúng tôi chỉ còn là đồng bằng không chướng ngại. Tuy nhiên, dường như chúng tôi thấy một cách rõ rệt rằng bằng cách này hay cách khác, mỗi người phải tự mình làm sự cố gắng cần thiết để vượt qua những chướng ngại nếu y muốn nhìn thấy sự huy hoàng lộng lẫy của cõi giới vô hình.

Mọi di tích của sự già nua đã biến mất nơi Chandersen, mà chúng tôi coi như là đã phục sinh từ cõi chết. Y day lại xác bạn hữu và liền cất tiếng nói. Giọng nói của y hàm xúc một điểm chân thành và hùng dũng:

- Hỡi các bạn, các bạn không thể biết được nỗi vui mừng, sự bằng an và niềm ân huệ lớn lao mà các bạn đã đem đến cho tôi bằng cách đánh thức tôi dậy như các bạn đã làm. Một lúc trước đây, tất cả đều tăm tối.

Tôi đang ở đó, ngại ngùng sợ sệt không dám tiến tới và cũng không thể thụt lùi. Tôi chỉ có một cách để bày tỏ những cảm tưởng của tôi. Tôi đang đắm chìm trong sự tối tăm u ám, thì bỗng nhiên tôi thức tỉnh, và bây giờ tôi lại ở một bên các bạn.

Kế đó, gương mặt y trở nên sáng lạn với một niềm hân hoan vui vẻ đến nỗi người ta không nghi ngờ lòng thành thật của y. Y day lại chúng tôi, và nói:

Hỡi các bạn, thật là hân hạnh thay khi tôi nghĩ đến sự kết hợp giữa chúng ta. Các bạn không thể biết được niềm vui của tôi khi tôi bắt tay các bạn. Thật là một niềm phúc lạc mà nhìn thấy và cảm xúc được sự chân thành của các bạn khi các bạn chấp nhận sự can thiệp của những vị cứu trợ cao cả thiêng liêng của tôi!

Nếu các bạn có thể nhìn thấy bằng đôi mắt của tôi trong lúc này, các bạn sẽ biết được cái ân huệ mà tôi vừa kinh nghiệm. Niềm vui lớn nhất của tôi là biết rằng được một cách chắc chắn rằng mỗi người trong các bạn sẽ có ngày đạt tới một giai đoạn giống như của tôi và chừng đó sẽ biết được một niềm vui tương tự. Tôi có thể nói rằng thật cũng đáng sống trọn một cuộc đời để thụ hưởng được một lúc an lạc như thế...

Một lúc sau, Chandersen đã biến mất. Phải chăng đó chỉ là một ảo ảnh? Các bạn tôi đều đồng thanh cho là không, vì có hai người đã đích thân đến bắt tay đương sự. Tôi để cho quý độc giả quyền tự do phê phán việc ấy.

Khi đó một trong các vị quý khách ở làng ấy day lại chúng tôi và nói:

- Tôi biết các bạn đang có sự nghi nan. Nhưng các bạn nên hiểu rằng tất cả những việc ấy không phải được dàn cảnh để làm vui mắt các bạn. Đó chỉ là một sự việc thông thường và ngẫu nhiên xảy ra trong cuộc đời của chúng tôi. Khi đến một lúc quyết định, chúng tôi có thể thắng đoạt được thời cơ và làm chủ tình hình.

Nếu để riêng một mình y, người anh em này không đủ sức để tự mình vượt qua bức rào chướng ngại. Quả thật, như các bạn đã thấy, y đã chết và bỏ xác nằm trơ. Nhưng mà y đã đạt tới một trình độ tâm linh khá cao, nên chúng tôi có thể giúp y vào lúc quyết định.

Trong trường hợp đó, linh hồn đã trở lại, thể xác hoàn thành sự tinh luyện cho nó đến mức toàn hảo, và hành giả có thể đem thể xác y theo đến bất cứ nơi đâu. Sự bất hạnh của người anh nay là do bởi y muốn chết quá!

Y đã bỏ xác y lại đúng vào lúc mà chỉ thêm vài bước nữa cũng đủ để cho y vượt qua bức rào ngăn cách và hoàn tất công phu tu luyện đến mức toàn hảo. Thật là một hân hạnh rất lớn cho chúng tôi mà có thể giúp đỡ y trong dịp đó...

Chúng tôi từ từ rút tay lại và đứng yên một phút trong một cơn im lặng hoàn toàn. Một người trong chúng tôi gián đoạn phút im lặng đó bằng một câu:

- Ôi! Thượng Đế toàn năng!

Riêng phần tôi, dường như không bao giờ tôi còn muốn nói gì nữa. Tôi muốn suy gẫm. Trong một giờ đồng hồ, tôi đã sống trọn một đời người. Chúng tôi tất cả đều ngồi xuống. Vài người trong chúng tôi đã định tĩnh tinh thần trở lại, bèn nói chuyện thì thầm với nhau.

Một khắc đồng hồ sau, trong khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, một bạn tôi bước đến gần cửa sổ nhìn ra ngoài và nói hình như có nhiều người lạ mặt đã vào làng. Ngạc nhiên, chúng tôi đi ra để nhìn xem. Thật vậy, thật là một điều rất hiếm mà có những người khách lạ đi bộ đến làng vào mùa này, vì lúc ấy là giữa mùa đông.

Khi đến làng, chúng tôi thấy một nhóm vài người đến từ một thôn nhỏ cách đó chừng độ năm chục cây số. Họ có đem theo một người, đi lạc trước đó một ngày trong cơn bão tuyết và hầu như đã hoàn toàn bị chết cóng.

Các bạn y chở y nằm trên một chiếc cáng và đã đi bộ vượt qua một quãng đường dài đầy tuyết phủ. Đức Jesus bước đến gần, đặt bàn tay trên đầu người ấy và đứng yên trong một lúc. Thình lình, người ấy bỏ mền ra và liền đứng dậy. Các bạn y trố mắt nhìn một cách vô cùng kinh ngạc và bỏ chạy trong cơn hoảng sợ.

Chúng tôi không thể nào thuyết phục họ quay trở lại. Người chết cóng vừa được chữa khỏi có vẻ hoang mang ngơ ngác. Hai bạn trong nhóm chúng tôi mời y về nhà để nghỉ ngơi một ít lâu. Kỳ dư đều quay trở lại nhà trọ, và chúng tôi thức đến nửa đêm để bình luận xảy ra trong hai ngày hôm đó.



4. Tài Liệu Khắc Trên Những Bia Đá Cổ



Câu chuyện xoay chiều đến một điểm, khi đó một bạn tôi hỏi địa ngục ở tại nơi đâu, và ác quỷ có nghĩa là gì? Đức Jesus phản ứng mau lẹ đáp:

- Địa ngục và ác quỷ không có nơi chỗ nào nhất định ngoài ra trong tư tưởng phàm tục của người đời. Cả hai đều ở đúng vào nơi mà con người đặt ra cho chúng. Các bạn là những người có học thức, các bạn có thể nào tìm thấy chăng một vị trí địa dư nào cho địa ngục và ác quỷ trên quả địa cầu?

Nếu cõi trời là tất cả và bao trùm tất cả, làm sao người ta có thể tìm thấy trong chất dĩ thái bao la một nơi chốn nào nhất định cho địa ngục hay ác quỷ? Nếu Chúa Trời là tất cả mọi nơi và cai quản tất cả moi sự, thì còn có chỗ nào đâu nữa cho địa ngục hay ác quỷ trong cái thiên cơ toàn diện của ngài?

Bây giờ chúng ta đã lục soát khắp cả vũ trụ và không tìm thấy chỗ nào là nơi trú ẩn của ác quỷ. Như vậy, chúng ta bắt buộc phải nhìn nhận rằng ác quỷ ở chỗ nào có người ta và nó chỉ có những quyền năng mà người đời đã gán cho nó. Các bạn tưởng tượng rằng tôi có thể đuổi tà ra khỏi bất cứ một người nào, rồi sau đó để cho nó nhập vào một bầy heo, rồi bầy heo này sẽ đâm đầu xuống biển?

Tôi không hề thấy tà ma hay quỷ quái nhập vào một người nào, trừ phi người ấy đã tự ý đem nó vào mình. Cái quyền năng duy nhất của tà ma mà tôi nhìn nhận thấy là cái quyền năng mà chính người đời đã gán cho nó.

Một lúc sau, câu chuyện xoay chiều đến vấn đề Thượng Đế, và một bạn tôi hỏi:

- Con muốn biết Chúa Trời là ai và bản chất thật sự của Ngài là như thế nào?

Đức Jesus đáp:

- Tôi hiểu tầm mức quan trọng của câu hỏi đó. Anh muốn xác định vấn đề ấy cho rõ ràng. Ngày nay, thế giới đang bị xáo trộn bởi nhiều tư tưởng trái ngược. Người ta không tìm đến nguồn gốc của danh từ. Thượng Đế hay Chúa Trời là cái nguyên lý cai quản mọi vật.

Cái Nguyên Lý nó ngự trị trong một sinh vật là Tinh Thần, và Tinh Thần vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông. Chúa Trời là Tư Tưởng duy nhất của cái nguyên nhân trực tiếp và chỉ đạo của tất cả mọi sự tốt lành ở quanh chúng ta. Chúa Trời là nguyên nhân của mọi sự sống mà ta thấy ở chung quanh ta.

Chúa Trời là nguồn gốc của tình Bác Ái bao la nó duy trì và hợp nhất tất cả mọi hình thể sinh hoạt. Chúa Trời hay Thượng Đế là một cái nguyên lý vi diệu, chớ không phải là một đấng có cá thể riêng biệt. Chúa Trời không bao giờ là một nhân vật riêng rẽ, trừ phi khi nào người trở nên là một đấng Cha Lành, đầy tình thương và có cá tính đối với quan niệm riêng của mỗi người.

Thật vậy, đối với mỗi người, Chúa Trời có thể trở nên một bậc Phụ Mẫu, đầy Bác Ái và ban rải tất cả. Chúa Trời không bao giờ là một đấng Cao Cả ngự trị ở một nơi nào đó trên trời, ở một cõi giới gọi là Thiên Đàng, nơi đó ngài ngồi trên một chiếc ngai vàng và xử xét người đời sau khi họ chết.

Vì Chúa Trời là sự sống vậy, và sự sống không bao giờ mất. Cái hình ảnh nói trên chỉ là một quan niệm sai lầm nảy sinh trong trí của kẻ ngu dốt.

Điều ấy cũng áp dụng cho nhiều sự sai lầm khác mà các bạn có thể nhận thấy trên thế gian ở chung quanh ta. Chúa Trời không phải là một vị Quan Tòa, hay một ông vua, có thể áp đặt sự hiện diện của Ngài đối với con người, và đem người đời xét xử trước một tòa án cộng lý. Chúa Trời là một đấng Cha Lành đầy bác ái và giàu lòng quảng đại, mở rộng hai tay mừng đón khi bạn tiến đến gần Ngài.

Ngài không cần biết bạn là ai trong hiện tại hay trong quá khứ. Bạn luôn luôn là con của Ngài, nếu bạn tìm đến Ngài với tấm lòng thành và với mục đích chân thật, dẫu rằng bạn đã có lúc bỏ nhà đi hoang và đã mỏi mệt trên con đường lầm lạc sa ngã. Bạn luôn luôn có thể lại quay trở về nhà của đấng Cha Lành với niềm tin tưởng chắc chắn về một sự tiếp đón đầy hảo ý.

Bữa tiệc liên hoan luôn luôn chờ đón bạn ở đó, bàn tiệc luôn luôn được sắp đặt sẵn sàng. Khi bạn trở về, bạn sẽ không nghe một lời trách móc nào của một huynh đệ đã trở về nhà trước bạn.

Các bạn có thể nhìn thấy Chúa Trời và nói chuyện với ngài bất cứ lúc nào, cũng y như bạn nói chuyện với cha mẹ, bạn bè hay thân nhân của bạn. Thật vậy, ngài còn gần gũi bạn hơn bất cứ người nào trên thế gian, ngài chăm sóc và ưu ái bạn còn hơn bất cứ bằng hữu thân tính nào.

Ngài không bao giờ giận dữ hay chán nản. Chúa Trời không hề hủy diệt, sát phạt, gây tổn thương hay làm buồn lòng một người con nào hay một sinh vật nào của ngài sáng tạo ra. Nếu ngài làm như vậy, ngài đã không phải là Chúa Trời.

Một đấng Thượng Đế mà xét xử, sát phạt hay từ chối một sự tốt lành nào đối với những sinh vật hay những đứa con của ngài, chỉ là do tưởng tượng của những triết gia ngu dốt. Các bạn không cần phải sợ sệt đấng Thượng Đế như thế, trừ phi các bạn cố ý muốn làm vậy.

Vị Chúa Trời chân chính luôn luôn đưa tay ra và nói: "Tất cả những gì Ta sở hữu, cũng là của con." Một thi nhân há chẳng đã nói rằng Thượng Đế với ta còn hơn là hơi thở, hay tay chân của ta.

Thi sĩ nói câu ấy hẳn là do một nguồn cảm hứng thiêng liêng. Tất cả đều được cảm hứng thiêng liêng khi họ hướng về điều thánh thiện hay công lý. Mỗi người đều có thể được cảm hứng thiêng liêng bất cứ lúc nào nếu họ muốn.

Nhiều vị bạn hữu của tôi cùng đoàn kết với nhau để giúp đỡ thế gian. Đó là công việc làm trong đời của chúng tôi. Có những thời kỳ phải cần huy động tất cả mọi nghị lực của chúng tôi lại với nhau để đánh tan những luồng sóng tư tưởng xấu xa hắc ám, những tư tưởng nghi ngờ, những tư tưởng dị đoan nó suýt nữa đã nhận chìm toàn thể nhân loại trong vực thẳm.

Các bạn có thể gọi đó là những lực lượng tà vậy, bất hảo hay gì tùy ý. Theo chúng tôi, những sức mạnh đó chỉ xấu xa hắc ám trong phạm vi mà người đời đã tạo ra nó.

Nhưng ngày nay, chúng tôi thấy một ánh sáng ngày càng tỏ rạng hơn lên, khi mà người ta từ bỏ những điều mê tín dị đoan trói buộc của họ. Sự giải thoát đó có thể làm cho họ đắm chìm một ít lâu trong chủ nghĩa duy vật.

Nhưng điều này giúp cho họ tiến gần mục đích, vì chủ nghĩa duy vật không gây chướng ngại cho tinh thần bằng sự mê tín dị đoan hay những huyền thoại hoang đường. Cái ngày mà tôi đi trên mặt nước, chắc chắn các bạn tưởng rằng tầm nhãn quang của tôi hướng về chỗ nước sâu, vực thẳm chăng? Không.

Tôi chỉ nghĩ đến quyền năng của Chúa Trời, nó thắng đoạt tất cả mọi sự hiểm nguy của vực thẳm. Khi tôi làm như vậy, mặt nước trở nên rắn chắc như đá, và tôi có thể đi trên mặt biển một cách tuyệt đối an toàn.

Đức Jesus ngừng một lúc, và bạn tôi hỏi:

- Thưa Ngài, buổi nói chuyện của Ngài với chúng tôi hôm nay có làm phiền rộ Ngài và làm gián đoạn công việc cao cả của Ngài chăng?

- Các anh không thể là phiền rộn một vị nào trong các bạn hữu của tôi, dẫu rằng trong một lúc, và tôi nghĩ rằng tôi cũng là một người trong nhóm đó.

Một bạn khác nói:

- Ngài là vị Anh Cả của chúng tôi.

- Cám ơn bạn, tôi vẫn luôn gọi các bạn là anh em.

Khi đó, một người trong chúng tôi day lại đức Jesus và hỏi ngài:

- Thưa ngài, phải chăng mọi người đều có thể biểu lộ đấng Chirst tự trong mình?

Ngài đáp:

- Phải, chỉ có một con đường đưa đến sự Toàn Thiện. Con người sinh ra tự Chúa Trời phải trở về với Chúa Trời. Những gì xuất xứ từ cõi Trời đều phải quay trở lại cõi Trời. Lịch sử đấng Chirst không phải bắt đầu từ lúc tôi giáng sinh, cũng như không phải chấm dứt khi tôi bị đóng đinh trên Thập Tự Giá.

Đấng Chirst vẫn hằng có, khi chúng tôi sáng tạo nên người đầu tiên theo hình ảnh của ngài và giống như ngài. Đấng Chirst và người ấy chỉ là một. Tất cả mọi người cùng với người ấy chỉ là một. Cũng như Chúa Trời là Cha của người ấy, thì ngài là Cha của tất cả mọi người. Trong thời gian trên năm mươi năm sau ngày tôi bị pháp nạn trên cây Thánh Giá, tôi đã sống với những đệ tử và những người thân yêu của tôi.

Tôi đã truyền pháp cho họ. Trong thời gian đó, chúng tôi tựu họp nhau trong một vùng hẻo lánh yên tịnh xứ Judée, ở đó chúng tôi được ẩn trú an toàn khỏi bị quấy rầy bởi những kẻ tò mò mê tín. Chính ở đó nhiều người đã đắc được những quyền năng lớn lao và thực hiện một công trình vĩ đại. Khi đó tôi hiểu rằng bằng cách rút lui một thời gian, tôi có thể tiếp xúc với toàn thể thế giới để giúp đỡ nhân loại.

Bởi đó, tôi rút lui và sống ẩn dật. Vả lại, những đệ tử tôi thường ỷ lại nơi tôi nhiều hơn là tự trông cậy nơi sức mình. Để giải thoát họ khỏi thói ỷ lại đó, tôi phải rút lui khỏi tập đoàn họ. Vì có sự liên hệ chặt chẽ giữa họ với tôi, nên phải chăng là họ có thể tìm lại tôi tùy ý muốn...

Các bạn hãy tự coi mình như một phần tử của sự sống vô biên. Các bạn hãy chấp nhận tự hy sinh vì lợi ích chung của toàn thể. Các bạn hãy tập làm điều lành mà không cần nghĩ đến hậu quả. Các bạn hãy tập từ bỏ mọi đời sống phàm tục và từ bỏ mọi thứ của cải vật chất của trần gian.

Hãy làm như vậy một cách thoải mái tự do, đó không phải là một sự quên mình hãy cam tâm sống cuộc đời bần cùng khắc khổ. Bạn càng cho ra bao nhiêu những gì mà Chúa Trời ban cho bạn, thì bạn sẽ nhận thấy rằng bạn càng có nhiều hơn để cho ra, dẫu rằng đôi khi dường như bổn phận đòi hỏi bạn phải cho tất cả, thậm trí đến cả sự sống. Khi đó, bạn sẽ thấy rằng người nào muốn duy trì sự sống của mình sẽ mất nó.

Bạn sẽ vui mừng và nhận thấy rằng sự sống mà bạn đem cho kẻ khác, lại chính là sự sống mà chính bạn thu hoạch được. Khi đó bạn sẽ biết rằng nhận lãnh, có nghĩa là cho ra một cách rộng rãi, phóng khoáng. Nếu các bạn hy sinh cái sự sống hữu hình hữu hoại này, một đời sống cao cả hơn sẽ xuất hiện. Tôi bảo đảm với các bạn rằng một đời sống như thế là một sự thực hiện lớn lao không phải cho riêng mình, mà cho tất cả.

Có lúc bạn sẽ có lòng ưu ái để cảm thông với những nhu cầu cấp bách của thế gian. Khi bạn cảm thấy điều đó, bạn sẽ có thể giúp đỡ kẻ đồng loại một cách vô tư mà không hề khoe khoang tự phụ. Bạn có thể ban rãi nguồn ân huệ thiêng liêng cho những linh hồn khát khao chân lý mà nguồn ân huệ ấy sẽ không bao giờ cạn.

Bạn hãy sử dụng khả năng dùng lời thuyết giảng đạo lý để đem nguồn an ủi cho những kẻ tìm đến bạn, để đem sự bằng an và nguồn hy vọng cho những kẻ bịnh tật, những kẻ mệt mỏi, chán nản cuộc sống, tất cả những người bị sự đau khổ của cuộc đời đè nặng lên vai.

Bạn có thể thức tỉnh những kẻ mù quáng vô tình hay cố ý. Dẫu cho một linh hồn bị sa đọa đến bực nào, y cũng sẽ cảm thấy rằng có linh hồn đấng Christ đứng ở bên cạnh y...

Kế đó, đức Jesus nói rằng ngài sẽ đến một nhà huynh đệ khác trong làng ngay chiều hôm đó. Tất cả cử tọa đều đứng dậy. Đức Jesus ban ân huệ cho tất cả chúng tôi, và rời khỏi gian phòng với hai người khác.

#56 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/06/2011 - 06:17

Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG SÁU


1. Một Nền Văn Minh Cổ Xưa Đến Hai Trăm Ngàn Năm

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi bắt tay vào công việc phiên dịch chữ cổ tự dùng trong những bản văn kiện và tài liệu cổ. Chúng tôi muốn có sự rõ ràng chính xác tối đa về ý nghĩa của những chữ ấy. Nhờ sự giúp đỡ của bà chủ nhà, chúng tôi học được nhiều về những thánh kinh cổ xưa ấy.

Chúng tôi lao mình vào công việc ấy với tất cả tâm hồn. Một buổi sáng, sau độ hai tuần làm việc, chúng tôi đi đến ngôi đền như thường lệ và thấy ông bạn Chandersen của chúng tôi, là người dường như đã trải qua sự chết và được phục sinh trước đây. Y vẫn mang thể xác bằng xương thịt như mọi người, nhưng những nét mặt của y tuy rằng vẫn y nguyên như cũ, lại không mang dấu vết nào của sự già nua.

Không thể lầm được y với một người nào khác. Khi chúng tôi bước vào phòng, y đang ngồi ghế bèn đứng dậy và đến gần để bắt tay chúng tôi với những lời chào hỏi mừng rỡ.

Người ta không thể tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi khi chúng tôi vây quanh chung quanh y và chất vấn y tới tấp. Chúng tôi giống như một đám học trò vô kỷ luật. Tất cả đều hỏi y cùng một lượt, không ai nghe được ai, và không có trật tự trước sau gì cả! Chắc chắn rằng trong cặp mắt của y, chúng tôi có vẻ như một đám trẻ con vừa chận được một đứa mang tin sốt dẻo, và tất cả đều muốn biết xem đó là việc gì! Nhưng sự thật vẫn sờ sờ ra đó.

Chandersen đang đứng trước mặt chúng tôi, với giọng nói và những nét mặt đặc biệt của y, nhưng không già chút nào! Thậm chí giọng nói của y cũng đã có được một âm thanh rắn rỏi của người nào vào độ trung niên. Y có dáng điệu của một người linh hoạt, và khỏe mạnh, sáng suốt. Gương mặt và đôi mắt y phản chiếu những nét linh động khôn tả.

Lúc đầu, chúng tôi chỉ có thể so sánh cái thực trạng của y bây giờ với tình trạng cũ của y. Trước kia khi chúng tôi mới quen biết y, y là một người già nua lọm khọm, lúc đi đứng phải chống một cây gậy lớn. Y có những lọn tóc dài trắng phau, những bước đi chập choạng, và mộ gương mặt xanh xao hốc hác. Một người trong bọn chúng tôi đã nhận thấy những điểm đó và đã nói:

- Trong số những nhân vật siêu việt kia, đây là một người già đến nổi có lẽ y gần bước qua bên kia cửa Tử.

Lẽ tất nhiên chúng tôi nhớ đến sự biến đổi ly kỳ mà chúng tôi đã chứng kiến cách đây vài ngày. Nhưng sau khi Chandersen thình lình biến mất, tất cả những điều ấy đã lùi dần vào quên lãng, vì chúng tôi tưởng rằng sẽ không còn gặp y trở lại.

Những diễn biến kế tiếp theo sau đó một cách nhanh chóng, đã đẩy thụt lùi việc này vào dĩ vãng đến nổi chúng tôi hầu như đã quên mất đi. Nhưng nay, nó đã xuất hiện trở lại trong ký ức chúng tôi một cách sống động đến nổi làm choi chúng tôi ngạc nhiên vô hạn.

Chandersen đã trẻ hẳn lại một cách không tưởng tượng. Nói đúng hơn, y đã trải qua một sự Biến Thể giống như đấng Christ mà chúng tôi hằng kính yêu rất mực. Xét về dự tương phản rõ rệt giữa hình dáng của y trước kia với tình trạng của y bây giờ, chắc chắn rằng linh hồn của y cũng đã tái sinh trở lại.

Tuy rằng trước đây chúng tôi không có sống chung với y được bao lâu, nhưng sự tiếp xúc hằng ngày giữa chúng tôi với y đã kéo dài khá lâu để cho chúng tôi được biết y như một người đã già. Kể từ hôm ấy, y đã sống chung với chúng tôi trên hai năm, vừa làm người hướng dẫn vừa làm thông ngôn trong chuyến du hành của chúng tôi vượt qua vùng sa mạc Gobi.

Nhiều năm về sau, khi vài người trong phái đoàn chúng tôi gặp lại nhau và hồi tưởng lại việc cũ, thì việc xảy ra sáng ngày hôm ấy là đề tài đầu tiên mà họ nhắc đến trong cuộc nói chuyện.

Khi tôi thuật lại chuyện này, tôi không có ý kể lại tường tận cuộc đàm thoại của chúng tôi từng chi tiết, vì chúng tôi đã trải qua gần trọn hết hai ngày chỉ để nói chyện mà thôi. Tường thuật từng chi tiết sẽ làm cho độc giả nhàm chán. Bởi vậy, tôi chỉ kể lại những điểm chính trong câu chuyện này. Khi cơn xúc động đầu tiên đã qua, chúng tôi ngồi xuống và Chandersen bắt đầu nói:

- Người ta chỉ cho tôi thấy rằng trí tuệ của con người có thể được chuyển biến thành trí tuệ thiêng liêng. Tôi thấy rằng trí tuệ của con người có thể được chuyển biến thành trí tuệ thiêng liêng. Tôi không còn nghi ngờ gì nữa. Trong khi những điều đó được giải thích cho tôi, tôi phát hiện rằng tôi có thể bước và cõi trời và cõi ấy vốn ở tại bên trong nội tâm.

Bây giờ tôi biết rằng Thượng Đế là sức mạnh duy nhất, vốn toàn năng, toàn trí và toàn thông. Những tội lỗi bất hòa, bịnh tật, sự già nua, chết chóc, đều thuộc về những kinh nghiệm về quá khứ. Bây giờ tôi đã nhìn thấy chân lý và tôi biết rằng tôi đã đi lạc trong đám mây mù của ảo giác.

Thời gian và không gian đã hoàn toàn biến mất. Tôi biết rằng tôi sống trong thế giới chủ quan, còn cái thế giới hiện tại chỉ thuộc về một thế giới khách quan. Nếu tôi có thể nắm giữ lấy những sự nhắn nhủ thầm kín và những tia sáng mà thỉnh thoảng mà tôi nhận thức được nhờ bởi những giác quan tế nhị của tôi, thì tôi đã có thể tránh được bao nhiêu những giờ phút đau khổ, hoang mang và mệt mỏi!

Trong thời niên thiếu của tôi, tôi bắt chước phần lớn của nhân loại. Tôi chỉ tin nơi một lối sống, đó là lối sống thụ hưởng khoái lạc trong mọi lĩnh vực. Bởi đó, tôi quyết định sống cuộc đời sung mãn, thụ hưởng đến mức tối đa.

Tôi lấy sự ích kỷ làm mục đích chính của đời tôi. Tôi sống buông thả theo đủ mọi thứ nhục dục, thú tánh và hoang phí nguồn sinh lực đến mức làm cho thể xác tôi trở thành cái vỏ khô khan trống rỗng như các bạn đã thấy trước đây. Bây giờ, tôi xin trình bày một hình ảnh xác nhận việc đó.

Chandersen ngồi im lặng định thần trong một lúc. Không bao lâu, trên một vách tường của gian phòng hiện ra một hình ảnh giống như đã diễn tả trước đây. Đó là hình ảnh cái thể xác của y vào thời kỳ mà chúng tôi mới quen biết y, hình ảnh một ông già lọm khọm, đi đứng phải chống gậy. Tiếp theo sau đó là hình ảnh con người của y bây giờ.

Chandersen nói tiếp:

- Hình ảnh đầu tiên là của một người đã hoang phí sinh lực của thể xác đến mức chỉ còn để lại có cái lớp vỏ khô kiệt. Còn hình ảnh thứ nhì là của một người đã bảo tồn sinh lực còn nguyên vẹn trong thể xác mình.

Trong trường hợp của tôi, các bạn nghĩ rằng đó là một sự phản lão hoàn đồng toàn vẹn và hầu như diễn ra trong khoảnh khắc, điều đó thật đúng. Nhưng tôi nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác. Biết bao nhiêu người cũng có thể có cái dịp may như tôi để nhận được sự giúp đỡ, lòng ưu ái và sự cứu trợ của những đấng Cao Cả mà chúng ta được biết?

Nếu người đời có thể hiểu rằng sinh lực của họ có hàm xúc một nguồn sinh khí dồi dào mãnh liệt như thế nào, họ sẽ cố gắng bảo tồn sinh lực thay vì hoang phí nó. Nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ đối với việc ấy. Họ tiếp tục sống trong sự mù quáng, hay sự vô minh, cho đến khi Thần Chết đến đem họ đi mất.

Các bạn kính trọng tuổi già và coi mái tóc bạc như một cái mão danh dự, điều đó tôi không hề chối cãi. Nhưng các bạn hãy thử đi sâu hơn vào vấn đề, để xem đằng nào là đáng được đặt trên đài danh dự hơn:

Một đàng là người có những lọn tóc bạc phơ như tuyết, đã gây lên sự già nua lọm khọm cho chính mình do bởi sự vô minh, nếu không là do bởi sự trác táng trụy lạc của thời niên thiếu; và một đàng là người bảo tồn sinh lực, càng ngày càng trở nên mạnh khỏe hơn và dũng mãnh hơn, đủ sức trang bị thể chất để có thể đối phó với tuổi già, và nhờ đó làm tăng trưởng thêm sự hảo tâm và lòng quảng đại của mình?

Tôi thú thật là nên có lòng trắc ẩn và tội nghiệp cho con người đã đi đến cõi chết do sự vô minh. Nhưng ta có thể nghĩ đối với người cũng đi đến một kết quả tương tự, nhưng có đầy đủ tinh thần sáng suốt minh mẫn để thấu đạt chân lý?



2. Cơn Bão Tuyết Trên Vùng Sa Mạc Gobi



Kể từ khi đó, chúng tôi chuyên cần chăm chỉ học chữ cổ tự dưới sự chỉ dẫn của Chandersen. Ngày tháng trôi qua rất mau như thoi đưa. Đến cuối tháng Tư, tức là sắp đến ngày chúng tôi lên đường đi đến đồng sa mạc Gobi, phần lớn các tài liệu cổ vẫn còn chưa dịch xong.

Chúng tôi tự an ủi với ý nghĩ rằng chúng tôi sẽ có thể trở lại một ngày nào đó để hoàn tất công việc phiên dịch. Các vị Chân Sư đã dịch giúp chúng tôi một phần lớn các tài liệu, nhưng các ngài đòi hỏi chúng tôi phải học các chữ cổ tự để có thể tự mình dịch các tài liệu ấy.

Tháng chín năm trước, chúng tôi có hẹn tái ngộ với những nhân viên khác trong phái đoàn tại vùng sa mạc Gobi. Kế đó, họ sẽ đưa chúng tôi đến địa điểm tọa lạc của ba thành phố cổ xưa nay đã chôn vùi dưới lòng đất. Vị trí đúng đắn của những thành phố này có ghi trong tài liệu cổ mà chúng tôi chưa được xem, nhưng đã được nghe nói đến.

Chúng tôi chỉ có trong tay những bổn sao chép lại các tài liệu đó, nó càng kích động sự tò mò của chúng tôi. Những tài liệu cổ cho biết rằng thời đại phát triển của những thành phố này được truy nguyên từ trên hai trăm ngàn năm trở về trước. Dân cư ở đó đã từng có một nền văn minh rất tiến bộ, đã từng có một nền văn minh rất tiến bộ, đã từng biết các môn nghệ thuật cùng các nghề nghiệp thủ công như rèn đồ sắt và làm đồ vàng bạc.

Thời đó, vàng ở xứ này rất thông dụng đến nổi người ta dùng vàng ròng để làm đồ chén dĩa và móng ngựa. Tục truyền rằng người thời ấy có quyền năng chế ngự các sức mạnh thiên nhiên, biết sử dụng những năng lực huyền bí của chính họ. Thật vậy, những huyền thoại đó thật giống một cách lạ lùng với những chuyện trong Thần Thoại Hy Lạp.

Theo các bản đồ chỉ dẫn thì ngày xưa, đế quốc Uigour gồm các phần lớn Châu Á và Châu Âu đến tận bờ biển Địa Trung Hải của Pháp, với một vùng đồng bằng rộng lớn vô cùng phì nhiêu sung túc và rất đông dân cư. Sự khám phá di tích những thành phố cổ của đế quốc ấy chắc chắn sẽ đóng góp một phần rất lớn cho lịch sử nhân loại.

Những tài liệu cổ diễn tả đế quốc Uiguor dưới triều đại của bảy vị hoàng đế có những nét huy hoàng lộng lẫy vượt hẳn rất xa xứ Ai Cẩp thời cổ. Dẫu cho trước thời kỳ bảy vị hoàng đế, các bia đá cổ diễn tả xứ ấy như một nước phồn thịnh hơn Ai Cập rất nhiều. Dân tộc xứ ấy đã sống một thời thái bình thịnh trị, không hề có chiến tranh, không có các nước chư hầu xưng hùng xưng bá, cũng không có chế độ nô lệ.

Thời gian vẫn tiếp tục qua mau và chúng tôi rất bận rộn lo chuẩn bị cuộc hành trình. Chúng tôi phải đến chỗ hẹn vào tháng năm, tại đó chúng tôi sẽ cụ bị đầy đủ lương thực và đồ vật dụng trang bị để hoàn tất chuyến đi cuối cùng.

Tôi không thể nào diễn tả những sự cảm nghĩ của tôi vào lúc gần đến ngày lên đường. Những giờ phút trong thời gian chúng tôi ở lại đây là những giờ phút thần tiên. Tuy rằng chúng tôi đã ở đây đến trên năm tháng và sống gần các Chân Sư trong suốt thời gian đó, thời giờ đã trôi qua rất mau và năm tháng đó đối với chúng tôi dường như chỉ có năm ngày.

Một thế giới lạ lùng đang chờ đón chúng tôi, dường như trước mắt chúng tôi là một cái cửa mở rộng để đưa chúng tôi vào một cõi giới huyền linh với những sự diễn biến không có giới hạn.

Mỗi người trong chúng tôi có cảm giác rằng mình chỉ cần vượt qua các cửa đó, nhưng lại do dự, cũng như chúng tôi cảm thấy phân vân lưỡng lự khi phải từ giã các bậc siêu nhân cao khiết mà chúng tôi tôn kính như bậc Anh Cả.

Tôi nghĩ rằng trong đời của mỗi người trần gian sẽ có lúc mà y có thể nhìn thấy cái cửa mở rộng cũng như vào cái ngày đẹp trời tháng tư năm ấy chúng tôi đã thấy rõ trước mắt những viễn ảnh vô biên mà người ta có thể đạt tới. Tôi yêu cầu quý vị độc giả hãy tạm thời bỏ qua tất cả mọi thành kiến của mình, và nếu có thể, quý vị hãy nhìn xuyên qua cặp mắt của chúng tôi.

Tôi không ước mong quý vị tin tưởng điều gì cả. Tôi chỉ yêu cầu quý vị hãy hiểu rõ sự khác biệt giữa sự diễn tả cuộc đời của các Chân Sư với việc ngồi dưới chân các ngài để nghe các ngài dạy bảo. Dường như nếu chúng ta dám táo bạo tiến tới để vượt qua cái cửa mở rộng nói trên, chúng ta sẽ có thể thực hiện mọi điều mong ước.

Tuy thế, chúng ta lại do dự. Tại sao? Đó là bởi vì chúng ta không có đức tin tuyệt đối. Chúng ta để cho những ý nghĩ truyền thống thủ cựu kéo ta thụt lùi lại phía sau và đóng sầm cái cửa kia lại. Rồi sau đó chúng ta nói rằng cái cửa kia bị đóng lại là do định mệnh, mặc dầu chúng ta biết quá rõ rằng định mệnh của mỗi người chỉ tùy ở tự nơi mình.

Đây là những người tốt lành, sống giản dị nhưng lại là những người phi thường, trong số đó có nhiều người đã vượt qua cái cửa ngõ đó từ nhiều thế hệ đã qua và có lẽ không biết tự bao giờ. Họ sống cuộc sống tâm linh.

Họ không tuân theo truyền thống hay quy luật nhất định nào, mà chỉ sống một cuộc đời lương thiện và trong sạch, một cuộc đời toàn vẹn đáng sống, với hai chân chồng vững trên mặt đất.

Tôi để cho quý vị độc giả hãy tự so sánh. Chúng tôi do dự không muốn từ giã các siêu nhân quý mến mà chúng tôi từ sát cánh một cách chặt chẽ trong những tháng vừa qua, tuy vậy chúng tôi lại háo hức nhìn về tương lại, vì biết rằng còn những kinh nghiệm khác đang chờ đợi chúng tôi.

Bởi vậy, chúng tôi từ giã các vị siêu nhân vào một buổi sáng đẹp trời tháng Tư. Các vị thân mật bắt tay chúng tôi và thành thật mời chúng tôi trở lại khi có dịp. Chúng tôi vái chào các vị một lần cuối và đi về hướng bắc để vượt qua sa mạc Gobi.

Những câu chuyện phiêu lưu nguy hiểm đáng sợ mà chúng tôi nghe nói đã từng sảy ra ở vùng này luôn ám ảnh chúng tôi như những viễn ảnh đen tối. Tuy nhiên chúng tôi không sợ vì có đức Tuệ Minh và Dật Sĩ đi theo chúng tôi và Chandersen thì thay chỗ Nê Bưu.

Đối với chúng tôi là những người đã từng đi du lịch nhiều nơi, việc tháp tùng theo đoàn người đi trên sa mạc là một việc thông thường hằng ngày. Tôi chắc rằng tất cả các đoàn viên trong nhóm chúng tôi đều sung sướng ra đi trong cuộc phưu lưu đầy hứa hẹn này.

Tất cả đều biết rằng một thế giới mới đã bắt đầu xuất hiện trước mắt chúng tôi. Mỗi người đều biết rõ sự xa xôi hẻo lánh và cô lập của vùng sa mạc và biết rõ những nguy cơ có thể xảy đến trong những cuộc du hành thuộc loại này.

Tuy nhiên, một mãnh lực huyền bí không cưỡng lại được đã thúc đẩy chúng tôi tiến bước. Đức tin tuyệt đối nơi các vị siêu nhân đã giúp chúng tôi dứt bỏ mọi ý nghĩ sợ sệt hay lo ngại những sự khó khăn xảy đến, và chúng tôi lao mình vào cuộc phưu lưu với một sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ.

Chúng tôi đã từng quen thuộc với những vùng hẻo lánh nhất thế giới, nhưng chưa bao giờ chúng tôi có kinh nghiệm về một xứ xa xôi và cô lập như vùng này. Tuy nhiên, chúng tôi có thể du lịch nơi đây một cánh tự do và dễ dàng khác thường.

Quý độc giả sẽ không ngạc nhiên về sự yêu thích của chúng tôi đối với xứ này và đối với các vị ân nhân của chúng tôi. Chúng tôi có cảm giác mình có thể đi lên hướng Bắc đến khi vượt qua khỏi vùng Bắc Cực và chinh phục luôn cả.

- Ồ;! Nếu chúng Ai Cập có thể như các vị siêu nhân, thì chuyến đi này sẽ dễ dàng xiết bao! Nhưng chúng ta lại bắt buộc các vị cùng đi bộ một cách nặng nề chậm chạp như chúng ta chỉ vì chúng ta không thể bắt chước các ngài!

Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến cuối ngày thứ bảy của cuộc hành trình. Chiều hôm ấy, vào khoảng năm giờ. Chúng tôi vừa ra khỏi một khe núi sâu thẳm thì một đoàn viên báo tin có nhiều kỵ mã ở đằng xa. Chúng tôi lấy ống dòm mà xem và đếm tất cả hai mươi bẩy người kỵ mã dường như có mang đầy đủ khí giới.

Chúng tôi liền báo cáo với Dật Sĩ. Anh ta đáp rằng có lẽ đó là đoàn người du mục thường có ở vùng này. Chúng tôi hỏi y phải chăng là bọn cướp. Y đáp rằng có thể như vậy, vì bọn chúng không có dắt theo một đoàn cừu hay dê nào.

Chúng tôi rời khỏi đường mòn và tiến tới một chòm cây rậm rạp, tại đây chúng tôi cắm trại để nghỉ ban đêm. Trong khi đó, hai người trong nhóm chúng tôi vượt qua một giòng suối gần nơi cắm trại và bước lên một ngọn đồi, từ đó họ có thể nhìn thấy vùng đồng bằng ở chỗ chúng tôi đã khám phá ra đoàn kỵ mã.

Khi lên tới đỉnh đồi, họ ngừng lại và soi ống dòm rồi hối hả trở về trại. Khi họ về gần tới, họ loan báo rằng đoàn kỵ mã ở cách đây không xa hơn năm cây số và đang tiến về phía chúng tôi.

Ngay khi đó, một người trong nhóm chúng tôi nói rằng một cơn giông bão sắp thổi đến. Chúng tôi nhìn lên trời, thì quả thật thấy hai đám mây u ám nặng nề đang kéo về phía tây bắc, đồng thời một đám sương mù từ bốn phía áp lại gần chúng tôi.

Chúng tôi cảm thấy rất băn khoăn lo ngại, vì bây giờ chúng tôi có thể nhìn thấy đoàn kỵ mã đang tiến, thẳng về phía trại chúng tôi. Tuy nhóm chúng tôi có tất cả ba mươi hai người, chúng tôi không có một khẩu súng nào, và điều này làm chúng tôi rất lo lắng.

Không bao lâu, cơn bão tuyết thổi đến chúng tôi với một tốc độ mãnh liệt kinh khủng. Sự lo ngại của chúng tôi mỗi lúc càng tăng vì chúng tôi đã từng kinh nghiệm sức tàn phá của giông bão trong những vùng sa mạc hẻo lánh như vậy.

Trong một lúc, cơn giông với tốc độ một trăm hai mươi cây số giờ, chứa đầy những mảnh tuyết vụn, quất vào chúng tôi và gầm thét ầm ĩ chung quanh tất cả mọi người. Chúng tôi đang e ngại sẽ bị bắt buộc dời trại di chỗ khác để tránh những cành cây gẫy đồ rơi trên đầu mình, thì bầu không khí chung quanh trại thình lình lắng dịu và trở nên yên tĩnh.

Trong một lúc chúng tôi nghĩ cơn bão tuyết có lẽ chỉ có giới hạn trong lúc ngắn ngủi, như thường xảy ra trong vùng này.

Vì bầu trời chưa đến nỗi quá ám, chúng tôi bèn lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng để lập lại trật tự trong các lều trại, và mất độ nửa giờ để làm công việc này. Ký ức về cơn bão tuyết và bọn cướp, nó đã làm cho chúng tôi sợ sệt, nay đã hoàn toàn biến mất ra khỏi đầu óc chúng tôi. Chúng tôi ngừng tay trong một lúc, và vị trưởng nhóm bước ra chỗ trại. Sau khi đã nhìn ra ngoài, y day lại và nói:

- Cơn bão tuyết dường như đang hoành hành dữ dội ở gần đây, còn ở chỗ chúng ta đang ở, thì chỉ có một cơn gió thoảng nhẹ. Các bạn hãy nhìn xem; lều vải và cây cối chung quanh đây không bị lay động gì. Khí trời ấm áp và thoang thoảng mùi hương thơm của hoa cỏ.

Nhiều người trong bọn chúng tôi đi theo y ra ngoài và trong một lúc, đứng lặng người vì ngạc nhiên. Trong khi chúng tôi lo dọn dẹp đồ đạc bên trong trại, chúng tôi không ý thức được cơn giông bão. Chúng tôi nghĩ rằng nó đã qua và thổi về phía khe núi.

Thật vậy, vài cơn bão thổi tạt ngang qua vùng này như một cơn gió lốc. Chúng hoành hành dữ dội trên nhiều cây số đường trường trước khi lắng dịu, và tiếp theo sau đó là một cơn yên tĩnh lạ thường. Nhưng trường hợp này không giống như thế. Cơn bão đang thổi mạnh ở cách chúng tôi độ ba chục thước, nhưng khí trời lại êm ả và ấm áp ở chung quanh chúng tôi.

Trái lại, chúng tôi đã từng kinh nghiệm rằng trong cơn bão tuyết tương tự, người ta thường bị lạnh buốt thấu xương, và có thể bị nghẹt thở vì trong một cơn thịnh nộ gầm thét của vũ bão, những mãnh tuyết vụn và bén nhọn bị lôi cuốn theo sức gió và quất mạnh vào mặt mũi ngươi du khách chẳng khác nào như kim đâm.

Thình lình, vùng yên tĩnh chung quanh chúng tôi sáng lên dường như bởi một phép lạ. Trong cơn kinh ngạc, dường như chúng tôi nghe có những tiếng người xem lẫn với tiếng gầm thét của cơn giông. Người ta báo hiệu đến giờ ăn chiều. Chúng tôi bước vào lều ăn và ngồi xuống. Trong bữa ăn, môt bạn tôi băn khoăn về số phận của những kỵ mã. Một bạn khác nói:

- Chúng tôi nghe dường như có tiếng người kêu gọi khi chúng tôi bước ra ngoài trại. Chúng tôi có thể nào cứu giúp những người kỵ mã hay chăng trong trường hợp họ đi lạc trong cơn bão tố?

Dật Sĩ bèn lên tiếng và nói rằng những người ấy thuộc về một trong những bọn cướp khét tiếng trong vùng. Họ chuyên môn cướp bóc xóm làng, và chiếm đoạt những đoàn dê trừu của dân chúng.

Sau bữa ăn chiều, trong một lúc gió lặng, chúng tôi nghe có tiếng người kêu ngựa hí, cùng với tiếng vó ngựa đạp lộn xộn dường như những người kỵ mã không còn làm chủ chúng nó được nữa.

Những tiếng động ấy co vẻ như rất gần, nhưng chúng tôi không thể nhìn thấy gì cả vì ban đêm tuyết xuống dày đặc. Chúng tôi không còn nhìn thấy một ánh sáng nào của những đèn đuốc và lửa trại.

Sau đó một lát, đức Tuệ Minh đứng dậy và nói rằng ngài phải đi mời những kẻ cướp vào trại, vì trừ những trường hợp phi thường, không một người hay một con vật nào có thể sống sót đến sáng ngày hôm sau trong cơn bão tuyết.

Thật vậy, không khí ở bên ngoài đã trở lên lạnh buốt vô cùng. Hai người trong bọn chúng tôi tình nguyện xin đi theo đức Tuệ Minh, điều này có vẻ làm cho ngài vui lòng. Ngài nhận lời, và cả ba người đều biến mất dạng trong cơn giông bão.

Độ hai mươi phút sau, ba người đã trở lại, cùng với hai mươi tên cướp đi bộ, tay cầm cương dắt ngựa đi theo sau. Những tên cướp này cho chúng tôi biết rằng bảy người đồng bọn của họ đã mất liên lạc với cả đoàn và có lẽ đã đi lạc trong cơn bão tuyết.

Những tên cướp gồm một thành phần hỗn tạp với những gương mặt hung dữ của bọn lục lâm cường đạo. Khi họ bước vào trại có đèn lửa ấm áp, họ có vẻ nghi ngờ rằng chúng tôi gài bẫy để bắt họ. Sự lo âu của họ hiện rõ trên nét mặt, nhưng đức Tuệ Minh bảo đảm rằng họ được tự do ra đi bất cứ lúc nào.

Ngài chỉ cho họ thấy rằng nếu họ muốn tấn công chúng tôi, chúng tôi không còn một khí giới nào để tự vệ. Tên đầu đảng bọn cướp thú thật rằng đó chính là ý định đầu tiên của họ khi họ vừa nhìn thấy chúng tôi từ trong khe núi đi ra trước cơn giông bão.

Sau đó, họ trở nên do dự và đi lạc đến nỗi họ mất phương hướng để trở về trại. Khi đức Tuệ Minh và hai người trong bọn chúng tôi thấy họ, thì họ đang trú ẩn một bên vách núi ở cách trại chúng tôi có năm chục thước.

Tên đầu đảng bọn cướp nói rằng nếu chúng tôi hất hủi họ, thì chắc chắn là họ sẽ chết vì lạnh. Đức Tuệ Minh trấn an họ và nói rằng điều đó sẽ không xảy ra. Bọn cướp bèn cột ngựa vào những gốc cây để nghỉ lại ban đêm, rồi ngồi riêng với nhau ở một góc.

Họ bắt đầu ăn thịt dê phơi khô và bơ con yak (một loại bò lùn và có sừng lớn ở xứ Tây Tạng) mà họ lấy ra từ trong những bọc da giấu dưới yên ngựa. Trong khi ăn, họ để khí giới trong tầm tay và thỉnh thoảng lại để nghe ngóng mỗi khi có một tiếng động nhỏ. Họ nói chuyện và bộ tịch rất tự nhiên.

Dật Sĩ nói với chúng tôi rằng họ lấy làm ngạc nhiên về những đồ trang bị của chúng tôi và về ánh lửa trong trại. Họ tự hỏi tại sao ở đây không có gió lớn, tại sao không khí trong trại rất ấm cúng, và tại sao mấy con ngựa có vẻ ung dung thoải mái như thế?

Một đứa lúc nào cũng nói chuyện huyên thuyên và nói nhiều nhất trong bọn cướp, đã từng nghe nói về các vị Chân Sư. Y nói với những kẻ đồng bọn rằng các vị siêu nhân cũng như thánh thần và có thể tiêu diệt bọn họ tùy ý muốn và mau lẹ trong khoảnh khắc.

Nhiều tên khác tưởng chúng tôi âm mưu để bắt sống họ, bèn tìm cách thuyết phục cả bọn đánh cướp tài sản chúng tôi rồi tẩu thoát. Nhưng tên đầu đảng ra lịnh cho họ không được phá phách chúng tôi, và nói rằng nếu họ làm hại chúng tôi, tất cả bọn sẽ bị tiêu diệt.

Sau một cơn thảo luận dông dài, tám tên cướp bèn đứng dậy, bước đến gần chúng tôi, và nói với Dật Sĩ rằng bọn chúng không muốn ở lại thêm nữa. Họ sợ có xảy ra những việc bất trắc và muốn trở về trại của họ ở cuối dòng sông cách đó vài cây số.

Họ đã tìm ra phương hướng nhờ căn cứ vào cái lùm cây to chỗ chúng tôi cắm trại. Họ bèn lên ngựa và bắt đầu đi xuống thung lũng. Sau đó hai mươi phút, tất cả bọn đều quay lại và nói rằng tuyết xuống dày đặc đến nỗi ngựa của họ không thể tiến tới được nữa.

Chính họ cũng không thể đương đầu với một cơn bão tuyết này, là cơn bão mãnh liệt nhất từ nhiều năm nay. Kế đó, họ tìm chỗ ở ngoài trại để nghỉ lại ban đêm.

Một bạn tôi nói:

- Tuy bọn này làm tôi sợ, nhưng tôi vẫn cảm thấy an toàn hơn ở trong lều so với ở bên ngoài, giữa cơn bão lớn.

Dật Sĩ quay lại chúng tôi và nói:

- Các bạn ở đâu, là nhà của Thượng Đế ở đó. Nếu các bạn ở tại đây, trong trại này, các bạn sống trong niềm vui của Thượng Đế. Sự ấm áp và tiện nghi trong trại có nghĩa gì nếu các bạn không ở tại đây, hoặc nếu các bạn không nhận thấy có sự ấm áp và tiện nghi đó? Các bạn có thể tự do mời những người ngoài vào đây.

Tuy nhiên, họ không chịu vào, vì họ không biết tới chỗ ở của các bạn. Mặc dầu họ cảm thấy sự ấm cúng nhưng những người anh em thân mến này không muốn ở lại gần, bởi vì họ luôn luôn sống bằng nghề cướp bóc.

Họ không thể hiểu rằng chính những người mà họ coi như những miếng mồi đương nhiên của họ, lại có thể dành cho họ một sự tiếp đón thân hữu mà không có lý do đặc biệt, và nhất là mình không thuộc về giới lục lâm cường đạo. Họ không biết rằng giữa cơn bão tuyết, lạnh lẽo, hay giữa cơn dày vò đau khổ nhất, vẫn luôn luôn có sự hiện diện của Thượng Đế.

Không một cơn giông to, gió lớn, hay bão lụt nào có thể làm hại được những người đã đặt sự an toàn của mình trong tay của Thượng Đế. Người ta chỉ bị đắm đuối trong cơn giông gió, bão lụt, khi nào người ta đã mất liên lạc với Thượng Đế.

Thượng Đế chỉ có thể thực hiện được những gì các bạn hiện đang nhìn thấy, khi nào người ta hướng tầm nhãn quang của mình đến Ngài một cách vững chắc, không hề lay chuyển, đến mức không còn biết gì và không nhìn thấy gì khác nữa ở bên ngoài...

Người ta có thể tìm thấy yên tĩnh thật sự giữa cơn bão tố, vì sự yên tĩnh chân thật vốn ngự trong tâm hồn của người nào đã tìm thấy Chân Ngã.

Trái lại, người ta có thể ngồi ở một nơi vắng vẻ tĩnh mịch, giữa chốn sa mạc hẻo lánh hoang vu, một mình đối diện với bóng hoàng hôn êm ả và giữa cảnh im lặng của thiên nhiên, nhưng lại bị dày vò cắn xé bởi cơn bão lòng của những đam mê, dục vọng, hoặc bị giao động rung chuyển tâm hồn bởi những sấm sét của sự sợ hãi, kinh hoàng...

Những người này là tàn tích của một dân tộc xưa kia đã từng có một nền văn minh cao cả và thịnh vượng. Tổ tiên của họ cư ngự nơi xứ này vào thời kỳ mà xứ ấy còn là một đế quốc kỹ nghệ phồn thịnh, hùng cường. Họ đã từng biết thực hành các môn khoa học và mỹ thuật.

Họ cũng đã biết rõ nguồn gốc tinh thần và sức mạnh tâm linh của họ và đã biết tôn thờ sùng kính Thiêng liêng. Về sau đến một thời kỳ họ bắt đầu say mê những khoái lạc vật chất và rơi vào tình trạng trụy lạc, sa đọa tâm linh.

Khi đó một tiếng động lớn, một cơn thiên tai địa chấn tàn phá và làm sụp đổ tất cả, chỉ còn để lại có những bộ lạc sơn nhân miền thượng ở rải rác trên những vùng hẻo lánh.

Những bộ lạc sống sót này mới quy tựu thành những cộng đồng sinh hoạt, từ đó mới xuất phát ra những chủng tộc lớn ở Âu Châu ngày nay.

Vùng này là vùng sa mạc Gobi bị cơn địa chấn tàn phá và đưa lên một chiều cao mà không còn một loài thảo mộc nào có thể sống được. Dân cư vùng ấy đã hầu như bị hoàn toàn tiêu diệt, đến nỗi chỉ còn lại có những cộng đồng hiếm hoi cô lập, và có nơi chỉ còn lại có một hoặc hai gia đình.

Những cộng đồng này mới tổ hợp lại thành từng đoàn. Đó là tổ tiên của những người dân sống tại nơi đây, họ không thể phát triển để tiến bộ hơn nữa, vì họ luôn luôn bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tương tàn giữa họ với nhau.

Lịch sử và nguồn gốc của họ đã bị lãng quên, nhưng người ta có thể truy nguyên đến tận nguồn gốc duy nhất của nền tôn giáo và những huyền thoại của họ. Những nền tảng của tôn giáo và huyền thoại này ở đâu cũng giống như nhau, tuy rằng những hình thức sắc tướng rất là khác biệt, và có những điểm dị đồng rất lớn...

Đến đây, Dật Sĩ nói y không muốn làm nhàm tai chúng tôi, vì phần đông các bạn tôi đã ngủ mê. Chúng tôi bèn nhìn về phía bọn cướp. Họ cũng đã ngủ mê, và cũng như chúng tôi, họ đã quên mất cơn giông bão tuy rằng cơn giông bão vẫn tiếp tục hoành hành dữ dội. Chúng tôi bước vào lều để nghỉ ngơi sau khi đã một lần nữa, tỏ sự biết ơn của chúng tôi đối với các vị chân sư cao cả.

Sáng hôm sau, chúng tôi thức dậy, mặt trời chiếu tỏ rạng, cả trại đều rộn rịp. Chúng tôi hối hả thay quần áo và thấy rằng tất cả mọi người, luôn cả bọn cướp, đều sắp sửa chuẩn bị ăn sáng. Trong khi ăn, chúng tôi được thông báo chương trình ngày hôm ấy là lên đường hộ tống bọn cướp trở về trại của họ.

Thật vậy, người ta dễ tìm đường khi đi chung với nhau từng đoàn hơn là đi lẻ tẻ. Điều này làm cho bọn cướp hài lòng, nhưng không làm cho chúng tôi vui, vì chúng tôi được biết rằng ở trại của họ, bọn cướp có đến một trăm năm mươi người. Khi chúng tôi điểm tâm xong, thì mọi vết tích của cơn bão đã biến mất. Chúng tôi bèn dỡ trại và cùng đi với bọn cướp, cả người lẫn ngựa, để tìm đường về trại họ.

Trại của bọn cướp ở cách đó dưới hai mươi cây số. Tuy vậy, chúng tôi chỉ đến nơi vào lúc xế chiều, và lấy làm sung sướng mà có thể nghỉ chân tại đó. Chúng tôi nhận thấy trại ấy rất tiện nghi, có đủ chỗ rộng rãi để chứa tất cả phái đoàn. Sau bữa ăn chiều, chúng tôi nhận thấy rằng nên ở lại đó một hai ngày để chờ cho tuyết ém chặt lại.

Thật vậy, qua ngày hôm sau chúng tôi phải vượt một truông núi cao gần năm nghìn thước. Vì thời tiết không tạnh ráo trở lại như chúng tôi mong, chúng tôi phải kéo dài thời gian lưu trú tại đây trong bốn ngày. Dân làng đối xử với chúng tôi một cách tôn kính và cố gắng làm cho chúng tôi được vui lòng.

Khi chúng tôi lên đường, có hai người đến xin nhập bọn với phái đoàn. Chúng tôi vui vẻ nhận lời, vì dầu sao chúng tôi cũng phải tuyển mộ một số lao công phụ giúp khi đến làng sắp tới, cách đó độ một trăm cây số. Hai người này tháp tùng đi theo chúng tôi cho đến bận về, vào mùa thu.

Khi chúng tôi rời khỏi làng, gần hết phân nửa dân làng tiễn đưa chúng tôi đến tận đỉnh của truông núi để giúp chúng tôi tìm ra con đường mòn bị tuyết dày đặc lấp mất cả dấu vết. Chúng tôi rất cám ơn sự cố gắng, khả ái của họ, vì công việc leo núi thật rất khó khăn.

Lên đến đỉnh truông núi, chúng tôi từ biệt các người anh em lục lâm cường đạo và trực chỉ đi đến chỗ hẹn. Chúng tôi đến đây ngày hai mươi tám tháng năm, tức là ba ngày sau những toán đoàn viên bạn, như họ đã gặp chúng tôi tại đây hồi mùa thu năm trước.



3. Những Di Tích Các Thành Phố Cổ



Sau một tuần lễ nghỉ ngơi, chúng tôi tom góp đồ hành trang và toàn thể phái đoàn đều lên đường đi đến chổ địa điểm tọa lạc của thủ đô đế quốc Uiguor thời tiền sử. Chúng tôi đến đây vào ngày Ba mươi tháng Sáu, và bắt đầu ngay công việc đào xới. Giếng đào đầu tiên của chúng tôi chưa sâu tới hai chục thước, thì chúng tôi gặp phải vách tường của một dinh thự cũ.

Chúng tôi đào sâu độ ba chục thước để có thể lọt vào một gian phòng lớn, tại đây chúng tôi tìm thấy những xác ướp còn nguyên vẹn ở tư thế ngồi xếp bằng, gương mặt bao phủ bởi một cái mặt nạ bằng vàng. Tại đó có nhiều pho tượng bằng vàng, bạc, đồng và đất sét, tất cả đều trạm trổ rất đẹp.

Chúng tôi đã chụp ảnh tất cả. Khi công việc đào xới đã tiến hành đến mức độ đủ chứng minh một cách thỏa đáng rằng đó thật là những di tích cổ xưa của một thành phố rất lớn, chúng tôi bèn đi đến địa điểm thứ nhì, mà chúng tôi tìm thấy ngay bởi những bút tích diễn tả trên những tấm bia đá cổ đã nói ở trên.

Tại đây chúng tôi đào sâu chừng mười hai thước trước khi tìm thấy những di tích chắc chắn của một nền văn minh cổ. Chúng tôi đã làm một công việc khá đầy đủ để chứng minh lại một lần nữa và một cách chắc chắn rằng đó là những di tích điêu tàn của một thành phố cổ. Kế đó chúng tôi đi đến địa điểm thứ ba, tại đây chúng tôi định khám phá những tàn tích chứng minh sự hiện diện của một thành phố còn cổ xưa hơn và rộng lớn hơn nữa.



4. Bọn Cướp Núi Và Đoàn Kỵ Mã Cứu Trợ Vô Hình



Để tiết kiệm thời giờ và tài nguyên, chúng tôi tổ chức thành bốn toán, trong số đó có ba toán gồm một trưởng toán và sáu người phụ tá, tức là mỗi toán có bảy người. Công việc đào xới và bảo tồn các giống đào được giao phó cho ba toán đó, mỗi toán thay phiên nhau làm việc tám giờ mỗi ngày.

Còn toán thứ tư gồm tất cả số người còn lại. Toán này có phận sự canh phòng chung quanh trại và lo việc chu cấp lương thực cho cả phái đoàn. Tôi thuộc về toán đặt dưới sự chỉ huy của vị trưởng nhóm Tô Mặc. Toán của tôi làm việc từ nửa đêm tới tám giờ sáng.

Sau khi đã đào xong giếng đầu tiên, chúng tôi lọt vào bốn gian phòng dưới lòng đất, mà chúng tôi lo quét dọn lại. Sau đó, chúng tôi đã có thể chứng minh rằng đó là di tích của thành phố lớn nhất và cổ xưa nhất trong ba thành phố, và nó chứa đựng rất nhiều kho tàng.

Một buổi sáng, toán công nhân đến thay phiên toán của tôi báo động rằng có nhiều người kỵ mã đang tiến gần đến trại từ hướng bắc. Chúng tôi ngoi lên mặt đất và thấy họ đang tiến về phía chúng tôi. Đó chắc là một đoàn lục lâm cường đạo, vì rõ ràng là họ noi theo con đường mòn đã đưa theo chúng tôi đến đây. Trong khi chúng tôi còn đang nhìn, thì Dật Sĩ bước tới và nói:

- Đó là một bọn cướp định đến đánh phá trại chúng ta, nhưng chúng ta không cần phải sợ hãi.

Chúng tôi để cho bọn cướp đến gần. Khi họ đến gần trại còn cách chừng năm trăm thước thì họ ngừng lại. Sau đó một lát, có hai tên cướp tế ngựa lại trại chúng tôi, cất tiếng chào xong rồi liền hỏi chúng tôi đang làm gì ở đây.

Chúng tôi nói rằng chúng tôi đang thử tìm kiếm những tàn tích của một thành phố cổ. Họ đáp rằng họ không tin như vậy, và nghi rằng chúng tôi là những kẻ đi tìm vàng. Họ toan tính với nhau để đánh cướp những đồ khí cụ trang bị và lương thực của chúng tôi.

Chúng tôi hỏi họ phải là binh lính của chánh phủ không? Họ đáp rằng họ không thừa nhận một chánh phủ nào cả vì xứ này chỉ có sức mạnh là đáng kể. Nhìn thấy chúng tôi không có vẻ gì lo sợ và cũng không có khí giới, có lẽ họ cho rằng chắc là chúng tôi còn đông người hơn chứ không phải có bấy nhiêu.

Họ bèn quay về bọn cướp để thảo luận kế hoạch. Được mỗt lát, hai tên ấy đã trở lại và nói rằng nếu chúng tôi chịu khuất phục một cách êm thấm, thì họ sẽ không làm hại gì cả. Nếu không, họ sẽ tiến đến và giết chết tất cả những người nào dám chống cự họ. Họ cho chúng tôi mười phút để quyết định, sau mười phút đó họ sẽ tấn công mà không cần phải báo trước.

Dật Sĩ đáp rằng chúng tôi không chống cự mà cũng không đầu hàng ai cả; điều này có vẻ làm cho họ nổi nóng. Họ quay ngựa trở về với bọn cướp, và rút súng ra sẵn sàng. Tất cả bọn cướp bèn cho ngựa phóng nước đại tấn công vào trại chúng tôi.

Tôi thú thật là đãsợ hoảng vía. Nhưng ngay sau đó, bỗng xuất hiện nhiều hình bóng giống như nhữnh người kỵ mã tế ngựa xung quanh chúng tôi. Những hình bóng này càng hiện rõ, trở lên linh động và đông đảo hơn. Bọn cướp cũng đã nhìn thấy điều ấy.

Vài tên cướp mau tay giật dây cương quay đầu trở lại. Những con ngựa của vài tên khác sợ hoảng nhẩy chồm lên, ngã quỵ xuống đất và thoát ra khỏi sự điều khiển của chủ chúng nó. Chỉ trong khoảnh khắc, một cơn náo loạn kinh khủng đã diễn ra trong hàng ngũ của bọn cướp gồm bảy mươi lăm người.

Bầy ngựa bắt đầu hí vang và ngã quỵ quăng bọn cướp té ngã lổng chổng. Cơn náo loạn kết thúc bằng một cuộc chạy trốn xiểng liểng, trong khi đó những người kỵ mã vừa xuất hiện phi ngựa đuổi theo bén gót.

Khi cơn loạn động đã êm, vị trưởng nhóm, một đoàn và tôi, cùng đi tới chỗ mà bọn cướp bị chặn lại để nhìn xem nhưng không thấy có dấu vết nào ngoài ra những dấu chân ngựa lộn xộn của bọn cướp.

Điều này có vẻ là một điều bí hiểm, vì những người cứu trợ chúng tôi đã xuất hiện rõ ràng thật sự cũng như bọn cướp, và chúng tôi đã nhìn thấy họ đến từ bốn phía. Bởi vậy chúng tôi chắc sẽ tìm thấy trên bãi cát những dấu chân ngựa của họ xen lẫn với những dấu vết của bọn cướp.

Khi chúng tôi quay trở lại, Dật Sĩ nói:

- Những người kỵ mã ấy chỉ là những hình bóng mà chúng tôi đã làm cho xuất hiện y như thật đến nỗi các bạn và cả bọn cướp đã có thể nhìn thấy. Đó là những hình ảnh của quá khứ mà chúng tôi có thể phóng ra một cách linh động đến nỗi nhìn thấy không khác gì sự thật.

Chúng tôi có thể phóng những hình ảnh đó để tự vệ và để bảo vệ kẻ khác, mà kết quả là không làm hại ai cả. Khi một mục đích nhất định đã được đặt ra, thì kết quả là không gây thương tổn. Một sự nghi ngờ đã nẩy sinh ra trong óc của bọn cướp.

Họ nghĩ rằng không có lý nào một phái bộ như chúng ta lại mạo hiểm đi đến chỗ xa xôi như vậy mà không có phòng vệ. Chúng tôi lợi dụng sự nghi ngờ những cạm bẫy. Bọn cướp là một hạng người rất nhát gan. Họ sợ thứ gì thì họ sẽ gặp thứ đó.

Nếu chúng tôi không dùng phương pháp đó, thì có lẽ chúng tôi bắt buộc phải tiêu diệt một số đông bọn cướp trước khi kẻ sống sót chịu để cho chúng ta yên. Nhưng bây giờ thì chúng ta không còn nghe nói đến bọn cướp ấy nữa. Thật vậy, chúng ta không còn sợ bị họ quấy phá.

Khi những cuộc đào xới đã có những bằng chứng để làm cho chúng tôi tin tưởng sự hiện hữu của ba thành phố cổ, chúng tôi có ý nghĩ lấp những giếng đào để che mắt những đoàn người du mục vì họ có thể tìm ra dấu vết của những cuộc khảo cổ này.

Thật vậy, sự khám phá ra các giếng này chắc sẽ gây nên một sự cướp bóc toàn diện do bởi sự hấp dẫn của các kho tàng, vì những huyền thoại được lưu truyền khắp nơi về sự hiện hữu của những thành phố cổ và những kho vàng bạc châu báu chôn dấu trong đó.

Bởi vậy, sau khi hoàn tất công việc khảo cổ, chúng tôi lấp giếng và cố gắng che đậy các dấu vết chỉ còn để lại đến tối thiểu, và trông cậy nơi cơn bão đầu tiên để xóa bỏ mọi di tích còn xót lại về sự có mặt của chúng tôi. Những cồn cát ở xứ này luôn luôn di chuyển, cũng đủ làm một chướng ngại cho việc truy tìm các tàn tích cổ.

Nếu không có sự giúp đỡ của các bật siêu nhân, chúng tôi không giờ có thể tìm ra những nơi cổ tích này. Chúng tôi được cho biết rằng những di tích cổ xưa tương tự còn ở rải rác trong vùng sa mạc đến tận phía nam xứ Tây Bá Lợi Á. Hiển nhiên là có một số dân cư đông đảo xưa kia đã từng sống thịnh vượng ở vùng này và đã đạt tới một trình độ văn minh rất cao.

Có những bằng chứng xác thực không thể phủ nhận rằng giống dân này đã từng thực hành khoa nông nghiệp, canh tác, cùng những khoa kỹ nghệ hầm mỏ, dệt cửi và những ngành sinh hoạt liên hệ.

Họ đã từng biết đọc, viết chữ và biết cả những ngành khoa học khác. Thật rõ ràng là lịch sử của những dân tộc này đã đồng hóa với lịch sử của giống dân Aryen (tức giống dân thứ năm, thủy tổ của các dân tộc văm minh Âu Mỹ hiện nay).



5. Một Cuộc Gặp Gỡ Huyền Diệu



Trước ngày chúng tôi lên đường, trong bữa ăn có một bạn tôi hỏi đức Tuệ Minh rằng lịch sử của giống dân vĩ đại này có thể nào viết lại được chăng? Đức Tuệ Minh đáp rằng có thể được, vì thành phố cổ chôn vùi ở phía dưới chỗ chúng tôi đang cắm trại, có chứa đựng những tài liệu bút tự hoàn toàn xác đáng.

Người ta chỉ cần tìm lại và phiên dịch những tài liệu đó để có một sự xác nhận trực tiếp về lịch sử của giống dân này.

Câu chuyện bị gián đoạn khi có một người vừa xuất hiện ở ngoài cửa trại. Người ấy xin phép bước vào lều. Đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Chandersen liền vội vàng bước ra để gặp người ấy. Xét về việc các vị mừng rỡ tiếp đón chào hỏi nhau, chúng tôi hiểu rằng các vị đã từng quen biết nhau nhiều.

Tô Mặc bèn đứng dậy đi theo các vị. Khi y ra đến cửa, y đứng sựng lại một lúc trong cơn ngạc nhiên, rồi bước ra ngoài lều đưa thẳng hai tay ra trước mà nói:

- Đây mới thật là một sự bất ngờ!

Những tiếng kêu ngạc nhiên thốt lên cùng một lượt như một cuộc hòa tấu, trong khi những vị quý khách mới đến, cả nam lẫn nữ, trao đổi những lời chào hỏi với y và với ba vị siêu nhân. Khi đó, những người ngồi bên trong lều bèn đứng dậy, hối hả bước ra ngoài và thấy một nhóm gồm tất cả mười bốn người khách vừa mới đến.

Trong nhóm ấy, có bà Mã Ly, thân mẫu đức Tuệ Minh, cùn với người con trai và con gái của đức Tuệ Minh và một số người khác. Tất cả mọi người đều vui vẻ, và chúng tôi hồi tưởng lại những cuộc hội họp trong những ngày đã qua.

Chúng tôi thật là hoàn toàn ngạc nhiên, và chúng tôi không dấu diếm điều đó. Nhưng sự ngạc nhiên ấy lại còn lớn hơn nữa trong những bạn đoàn viên thuộc các toán khác của phái đoàn. Nhìn vào gương mặt họ, chúng tôi hiểu rằng họ ngạc nhiên đến mức vô hạn không thể nào diễn tả nổi, vì họ chưa từng chứng kiến như chúng tôi về những cơn xuất hiện và biến mất một cách bất ngờ kiểu đó.

Công việc khảo cổ đã làm chúng tôi quá bận rộn đến nỗi chúng tôi đã bỏ qua không kể lại cho họ nghe đầy đủ những kinh nghiệm đã qua của chúng tôi, ngoài ra những câu chuyện vắn tắt đứt đoạn. Sự xuất hiện của các vị quý khách dường như từ vòm trời trong sáng mà đến, đã làm cho họ hoàn toàn khựng lại và đứng trơ như tượng đá, điều này là một đầu đề để chúng tôi bỡn cợt họ một cách nhẹ nhàng.

Sau việc giới thiệu đã xong xuôi, người phụ trách việc nấu ăn bước tới nói riêng với đức Tuệ Minh và Tô Mặc với một vẽ thất vọng:

- Làm sao đãi ăn tất cả bấy nhiêu người? Lương thực của chúng ta đã cạn, và đồ tiếp tế còn chưa đến kịp. Chúng ta chỉ còn vừa tạm đủ để ăn bữa chiều nay và bữa điểm tâm sáng ngày mai. Vả lại, mọi sự đã chuẩn bị sẵn sàng cho chúng ta lên đường.

Lê Mông, vị trưởng phái đoàn, đã lắng tai nghe rõ mọi chuyện. Y bèn bước tới, và tôi nghe y hỏi:

- Trời đất! Tất cả những người này từ đâu đến đây?

Tô Mặc vừa nhìn y vừa cười và đáp:

- Lê Mông, anh có vẻ ngớ ngẩn. Các vị đến trực tiếp từ trên trời. Hãy nhìn xem, các vị không có một phương tiện di chuyển nào cả.

Lê Mông nói:

- Điều làm tôi ngạc nhiên nhất, là hình như họ không có cánh. Khi họ đáp xuống bãi cát, đáng lẽ chúnh ta phải nghe tiếng động, vì họ rất đông. Nhưng chúng ta chẳng nghe thấy gì cả. Như vậy tôi tạm kết luận tằng giả thuyết hoàn toàn hợp lý của anh là đúng.

Lúc ấy, đức Tuệ Minh day lại và nói rằng để trấn an tinh thần của người đầu bếp, có lẽ người bắt buộc sẽ phải trách các vị khách đã không chịu đem theo lương thực để tự túc vì lương thực của chúng ta xét ra không đủ.

Người đầu bếp có vẽ rất lúng túng và giải thích rằng y không có ý muốn nói một cách thô lỗ như vậy, nhưng dầu sao sự thật vẫn còn đó, là không đủ thức ăn cho tất cả mọi người. Các vị quý khách bèn đồng thanh cười vang lên một cách vui vẽ, điều này có vẽ làm cho y càng lúng túng hơn.

Bà Mã Ly nói rằng không cần phải sợ có sự bất tiện hay thiếu xót. Bà chủ nhà của chúng tôi và vị giai nhân trong buổi dạ hội hôm trước nói rằng hai bà vui lòng đảm đương lấy trách nhiệm của bữa ăn, vì các vị quý khách đến viếng chúng tôi với ý định rõ rệt là sẽ cùng chia sẽ bữa ăn đó với chúng tôi. Người đầu bếp có vẻ yên lòng và chấp nhận ngay điều đó.

Lúc ấy trời đã xế chiều. Đó là một trong những ngày mà ngọn gió mát thổi nhẹ dường như vuốt ve đồng cát Gôbi, dẫu rằng có khi chỉ một lát sau nó có thể biến thành một cơn bảo tố gầm thét thịnh nộ với một tốc lực kinh khủng.

Chúng tôi lấy tất cả mọi thứ gì có thể dùng làm khăn trải bàn và trải lên bãi cát, ngay ở phía ngoài trại. Đối với người ngoài, đó có vẽ giống như một cuộc đi chơi cắm trại.

Những người đoàn viên thuộc các toán đến sau chúng tôi vẫn còn tỏ vẻ ngạc nhiên và do dự. Lê Mông nhìn vào nồi đựng thức ăn và nói:

- Nếu tôi nhìn thấy rõ, và nếu người ta có thể chia sớt có bấy nhiêu thức ăn cho tất cả số người đông đảo như vậy thì tôi xin mở lớn đôi mắt để nhìn xem một phép lạ được thược hiện!

Một người trong nhóm chúng tôi:

- Thật vậy, anh hãy chống mắt cho thật lớn; vì anh sắp sửa nhìn thấy điều mà anh đã đoán đúng!

Tô Mặc nói:

- Anh Lê Mông, đây là lần thứ nhì trong ngày hôm nay mà anh đã đoán đúng!

Kế đó, hai bà nữ khách bắt đầu múc thức ăn trong nồi để chia cho tất cả mọi người. Khi một dĩa đã múc đầy, nó được chuyển qua tay người khách và lại được thay thế bằng một cái dĩa mới, và cứ tiếp tục như thế cho đến khi tất cả mọi người đều được cung cấp thức ăn một cách dồi dào thừa thãi.

Khi những dĩa được múc đầy thức ăn mỗi lúc càng tiếp tục thêm, chúng tôi thấy gương mặt Lê Mông càng tỏ vẻ lo ngại. Khi người ta đưa một dĩa cho y, y truyền qua người ngồi bên cạnh rồi nói rằng y có thể bằng lòng với một dĩa ít hơn như thế nhiều. Bà chủ nhà chúng tôi nói rằng không phải lo ngại gì cả, vì có đủ thức ăn cho tất cả mọi người.

Sau khi mỗi người đã được cung cấp thức ăn một cách rộng rãi, Lê Mông nhìn vào các nồi niêu một lần nữa và thấy rằng thức ăn vẫn còn đầy, không giảm bớt chút nào. Y bèn đứng dậy và nói:

- Nếu quý bà không cho tôi là một kẻ vô phép, mất dạy và thô bỉ, thì tôi xin phép được đến ngồi gần các bà. Tôi xin nhìn nhận rằng sự tò mò ngự trị mọi tư tưởng của tôi đến mức làm cho tôi không thể nuốt trôi một miếng nào.

Các bà nữ khách đáp rằng nếy y muốn đến ngồi gần các bà, thì các bà sẽ coi như một cử chỉ lịch sự. Khi đó, y bèn đi vòng quanh sau lưng nhóm thực khách và đến ngồi cạnh chiếc khăn trải dưới đất, giữa bà Mã Ly và vị giai nhân tuyệt sắc.

Khi y ngồi xuống, có người xin bánh mì. Trong giỏ bánh mì chỉ còn có một miếng. Vị giai nhân đưa hai bàn tay ra, thì ngay khi đó một ổ bánh mì lớn liền xuất hiện trên tay bà. Bà đưa ổ bánh cho bà chủ nhà chúng tôi, bà này sửa soạn đem cắt ra từng khoanh trước khi chia cho mỗi người thực khách.

Lê Mông đứng dậy xin phép quan sát ổ bánh mì còn nguyên venï. Người ta đưa ổ bánh mì cho y, y quan sát trong một lúc với cặp mắt dò xét rồi đưa trả lại với sự băn khoăn hiện rõ trên nét mặt. Y bước đi vài bước, rồi quay lại và nói thẳng với người thiếu phụ:

- Thưa bà, tôi không muốn có vẻ xấc láo, nhưng đầu óc tôi bị đảo lộn làm cho tôi không khỏi đưa ra vài câu hỏi.

Vị gian nhân khẽ nghiêng mình, và nói rằng y được tự do hỏi bất cứ điều gì y muốn. Y nói:

- Phải chăng bà có ý muốn nói rằng bà có thể bất chấp tất cả mọi định luật thiên nhiên, ít nhất là những định luật mà chúng ta biết, và không cần làm một cố gắng nào? Rằng bà có thể làm cho bánh mì xuất hiện từ một kho dự trữ vô hình?

Người thiếu phụ đáp:

- Đối với chúng tôi, kho dự trữ không phải vô hình, mà nó lúc nào cũng hữu hình.

Khi bà chủ nhà chúng tôi cắt ổ bánh mì, chúng tôi nhận thấy rằng ổ bánh không hể giảm bớt. Lê Mông đã bình tĩnh lại, trở về chỗ ngồi, và vị giai nhân nói tiếp:

- Ước gì các bạn có thể hiểu rằng tấm thảm kịch về cuộc đời của đức Jesus đã chấm dứt trên cây Thánh Giá, còn niềm phúc lạc của cuộc sống nơi đấng Chirst đã bắt đầu với sự phục sinh thay vì mục đích tử Đạo trên Thánh Giá.

Bằng cách đó, mỗi người có thể theo gương đức Jesus trong cuộc đời tràn đầy tâm Bồ Đề, tức tràn đầy sức sống của Chân Ngã. Người ta có thể tưởng tượng một cuộc đời phúc lạc hơn và phong phú hơn sự hòa đồng với quyền năng của Chân Ngã trong nội tâm? Với cuộc sống tâm linh đó, các bạn có thể biết rằng mình được sáng tạo để chế ngự mọi hình thể, mọi hình thể, mọi tư tưởng, mọi lời nói, và mọi hoàn cảnh.

Bằng cách sống cuộc đời thỏa mãn mọi nhu cầu, các bạn sẽ nhận thấy rằng đó là một cuộc đời đúng đắn khoa học. Đức Jesus đã làm cho vài ổ bánh mì và vài con cá của đứa trẻ nhỏ tăng lên gấp bội để cho đám quần chúng hãy ngồi trong vòng trật tự, trong một thái độ trông chờ, sẵn sàng lãnh nhận thức ăn được tăng thêm do bởi một định luật sáng tạo.

Muốn tìm thấy sự yên vui và thỏa mãn trong đời sống của đức Jesus, người ta phải thực hiện định luật của đời ngài bằng cách hành động tuân theo những lý tưởng của Ngài. Người ta không nên ngồi yên bất động và tự hỏi rằng làm sao có đủ thức ăn để sống.

Nếu đức Jesus làm như vậy, thì đám quần chúng sẽ không bao giờ được ăn uống no đủ. Thay vì làm như thế, ngài ban ân huệ trong tâm thần, ngài cám ơn chúa vì những gì mà ngài đang có, và những phần ăn được tăng thêm đủ cung cấp cho tất cả mọi người.

Cuộc đời chỉ trở nên một bài toán khó khăn khi con người bắt đầu từ chối không chịu nghe theo tiếng nói ấy, y sẽ không còn làm việc để mưu sinh. Y chỉ làm việc vì niềm vui sáng tạo mà thôi. Y sẽ bước vào niềm phúc lạc sáng tạo, một lãnh vực được cai quản bởi luật Trời hay tiếng nói của Thượng Đế...

Kế đó, vị giai nhân day qua Lê Mông nói:

- Đức Jesus đã dạy những luật Đạo nhằm mục đích thiết lập cõi Trời ở dưới thế gian. Bạn đã nhìn thấy những luật đó được áp dụng trong một phạm vi khiêm tốn. Những luật đó vốn đúng đắn và rất khoa học.

Con người, vốn là con của Chúa Trời, thật sự cùng một bản chất như ngài, nên y vốn chứa đựng ở tự nơi mình cái tinh thần bất diệt của Chúa Trời. Y có thể phân biệt những định luật của đấng đã sinh ra y, sử dụng những định luật ấy, để đem lại năng xuất dồi dào toàn vẹn trong lãnh vực sinh hoạt hằng ngày của y. Y chỉ cần muốn là được.

Kế đó, giai nhân nói rằng bà rất vui lòng trả lời tất cả mọi câu hỏi của Lê Mông. Vị trưởng phái đoàn đáp rằng y đã quá xúc động để có thể hỏi bất cứ một câu nào nữa. Y cần phải có một lúc im lặng để suy nghĩ. Y có nhiều điều muốn nói và hy vọng rằng y sẽ không làm phật ý một người nào, vì y không hề có ý chỉ trích ai cả. Y còn nói:

- Khi đến xứ này, chúng tôi tưởng rằng mình sẽ tìm thấy những tàn tích của những thổ dân đã suy vong và tàn tích từ lâu. Trái lại, chúng tôi lại thấy những người mà chúng tôi không thể tưởng tượng rằng họ có cuộc đời hoạt động một cách cao quý vô cùng.

Nếu những điều mà chúng tôi vừa thấy có thể được công bố bên các nước Âu Mỹ, thì toàn thể thế giới sẽ nằm mọp dưới chân quý vị!

Ba vị phu nhân đáp rằng các bà không hề có ý muốn thấy toàn thể thế giới nằm mọp dưới chân các bà. Các bà giải thích rằng nhân loại đã có quá nhiều thần tượng, nhưng thiếu lý tưởng.

Khi đó, tất cả các quý khách, trừ ra người đầu tiên đã đến trước cửa lều, đứng dậy và nói rằng đã đến lúc các vị phải ra đi. Các vị bắt tay từ giã chúng tôi đến viếng các vị khi này.

#57 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/06/2011 - 06:19

Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG BẢY


1. Một Cuộc Cứu Chữa Nhiệm Màu

Chúng tôi dậy thật sớm vào sáng ngày hôm sau, và lên đường trước khi mặt trời mọc, để đi đến chỗ làng quê của Bạch Lãng.

Chúng tôi đến làng ấy mười hai ngày sau đó. Khi đến nơi chúng tôi được đón tiếp bởi những vị siêu nhân đã viếng thăm chúng tôi vào ngày cuối cùng trên sa mạc, và lấy làm sung sướng nhận lời khi các vị mời chúng tôi nghỉ ngơi tại nhà các vị trong vài ngày.

Chúng tôi được đưa vào những gian phòng rất sang trọng so với những lều trại của chúng tôi trên sa mạc, buổi cơm tối đã sẵn sàng nửa giờ sau đó.

Chúng tôi thay đổi y phục chỉnh tề và bước vào gian phòng khách bên cạnh, tại đây chúng tôi gặp lại nhiều vị chân sư mà chúng tôi đã từng được quen biết trong những chuyến du hành đã qua xuống miền Nam, các vị vui mừng tiếp đón, nói rằng vùng này là chỗ đất lành của chúng tôi, và sẵn sàng mở rộng cửa để tiếp đón tất cả mọi người.

Vị thống đốc của vùng này tiếp đón chúng tôi bằng một bài diễn từ khả ái xuyên qua một thông dịch viên. Người còn cho biết rằng buổi cơm tối được sắp đặt tại tư dinh và chúng tôi sẽ đến đó ngay lập tức. Chúng tôi rời khỏi phòng khách, do vị thống đốc đi trước dẫn đường, có hai vị vệ sĩ đi kèm hai bên theo lễ nghi bổn xứ.

Kế đó là Lê Mông và bà chủ nhà trọ của chúng tôi khi trước, rồi đến Tô Mặc và người thiếu phụ tuyệt sắc, và sau cùng là đức Tuệ Minh, đức bà Mã Ly, mẫu thân của ngài, và tôi, kỳ dư đều tháp tùng đi theo sau.

Chúng tôi vừa mới đi được một đoạn chừa bao xa thì một đứa gái ăn mặc rách rưới tách ra từ trong đám đông người đang nhìn chúng tôi từ bên nề đường, và hỏi bằng tiếng bổn xứ để xin nói chuyện với đức bà Mã Ly. Bà Mã Ly nắm tay tôi và đức Tuệ Minh rồi cả ba chúng tôi đều bước ra khỏi hàng ngũ để nghe xem bé ấy muốn hỏi điều gì.

Thấy vậy bà chủ nhà chúng tôi do dự một lúc, rồi nói rằng bà muốn ngừng lại. Trong khi bà bước ra khỏi hàng ngũ khách, tất cả đoàn đếu dừng chân lại. Bà Mã Ly giải thích cho viên thống đốc biết rằng bà muốn tất cả mọi người hãy tiếp tục lộ trình và ngồi vào bàn ăn trước, sau đó bà sẽ đến để nhập tiệc chung với tất cả.

Trong khi đó, bà nắm hai bàn tay của đứa bé gái trong lòng bàn tay bà. Sau khi viên thống đốc và đoàn tùy tùng đã đi qua, bà quỳ xuống thấp để áp khuôn mặt bà vào gò má của đứa bé, và nói:

- Con hỡi, con muốn ta giúp điều gì?

Sau đó, bà Mã Ly đã được biết rằng em trai của đứa bé gái này đã bị té ngã vào lúc xế trưa và có lẽ bị gãy xương sống. Đứa bé khẩn cầu bà Mã Ly đi theo nó để xem có thể cứu chữa cho em trai nó, vì đứa em trai này đang đau đớn rên xiết rất khổ sở.



2. Căn Nhà Huyền Diệu



Bà Mã Ly đứng dậy, giải thích tình hình cho chúng tôi nghe và yêu cầu chúng tôi hãy đi về tư dinh viên thống đốc, còn bà đi theo đứa bé gái và sẽ gặp lại chúng tôi sau. Lê Mông xin phép đi với bà. Bà nói rằng tất cả chúng tôi có thể đi theo bà nếu chúng tôi muốn. Chúng tôi bèn đi theo bà.

Bà vừa đi vừa nắm tay đứa bé gái, em bé này nhảy nhót vì vui mừng. Bà chủ nhà chúng tôi thông dịch lại những lời em nói. Nó nói biết rằng đứa em trai của nó sẽ được đức bà chữa khỏi.

Khi đến gần nhà, đứa bé gái chạy vọt tới trước để báo tin cho chúng tôi đến. Chúng tôi thấy em ở một cái chòi vách đất nghèo nàn. Bà Mã Ly có lẽ đọc được tư tưởng chúng tôi vì bà nói:

- Căn nhà nghèo nàn này chứa đựng những quả tim ấm áp.

Khi đó, cánh cửa đột nhiên mở. Chúng tôi nghe một giọng đàn ông và chúng tôi bước vào. Chòi lá này bên trong rất nheo nhóc. Nó chỉ vừa đủ khoảng trống để chứa tất cả chúng tôi, và trần nhà thấp đến nỗi chúng tôi không thể đứng thẳng người.

Một ngọn đèn dầu leo lét chiếu ánh sáng lập lòe lên gương mặt của cha mẹ đứa bé ngồi một góc, áo quần dơ bẩn. Trong góc ở xa nhất, nằm trên một đống rơm rạ và giẻ rách cũ hôi hám ẩm thấp, là một đứa bé trai độ chừng năm tuổi đang rên xiết, gương mặt tái ngắt như sáp và nhăn nhó như có vẻ rất đau đớn.

Đứa bé gái ngồi xuống bên cạnh và đặt hai bàn tay lên hai gò má đứa em trai. Em nói với đứa bé trai rằng nó sẽ được hoàn toàn chữa khỏi vì đức bà đã có mặt tại đó. Em rút hai bàn tay và xích qua một bên để cho em trai ấy nhìn thấy đức bà.

Đến khi đó em mới nhìn thấy lần đầu tiên những vị khách lạ, và nét mặt em liền biến đổi ngay, dường như em đang trải qua một cơn sợ hãi. Em lấy hai tay che mặt, và thân mình run rẩy hòa nhịp với tiếng khóc thổn thức.
- Ồ;! Con tưởng rằng đức bà chỉ đến một mình.

Bà Mã Ly ngồi xuống bên cạnh em và ôm em vào lòng trong một lúc. Khi em đã bình tĩnh, bà nói rằng bà sẽ cho chúng tôi về nếu em muốn. Em đáp rằng em chỉ ngạc nhiên và sợ hãi, thế thôi, vì em chỉ nghĩ đến đứa em trai đang đau ốm. Bà Mã Ly nói:

- Con thương yêu em con nhiều lắm phải không?

- Đứa bé gái, tuy chưa chín tuổi đáp:

- Dạ, nhưng con thương yêu tất cả mọi người.

Đức Tuệ Minh thông dịch lại cho chúng tôi, vì chúng tôi không hiểu môt tiếng nào. Bà Mã Ly nói:

- Nếu con thương em con nhiều như vậy, con có thể giúp sức một phần vào sự cứu chữa cho nó.

Kế đó, bà bảo em bé ấy ngồi trở lại tư thế lúc nãy, với hai bàn tay ôm lấy hai gò má của em nó, rồi bà xoay mình lại để đặt một bàn tay lên trán đưa bé. Ngay lập tức những tiếng rên xiết liền ngưng bặt, gương mặt đứa trẻ sáng lên, thân mình nó duỗi thẳng một cơn yên tĩnh hoàn toàn của bầu không khí chung quanh, và đứa trẻ ngủ yên trong một giấc ngủ tự nhiên.

Bà Mã Ly và đứa bé gái đó ngồi yên trong tư thế đó trong một lúc, rồi bà gạt nhẹ hai bàn tay đứa bé gái và nói:

- Em bé trai này thật khôi ngô, mạnh giỏi và tráng kiện thay.

Kế đó bà rút bàn tay ra một cách thật nhẹ nhàng.

Lúc đó tình cờ tôi lại đứng gần bà trong khi bà đưa tay trái ra trước. Tôi đưa bàn tay tôi để đỡ bà đứng dậy, nhưng khi bàn tay tôi chạm vào bàn tay trái của bà thì tôi cảm thấy bị va chạm như điện giật, nó làm cho tay tôi bị tê liệt bà nhẹ nhàng đứng dậy và nói:

- Tôi đã quên đi mất, đáng lẽ tôi không nên nắm lấy tay bạn như tôi đã làm, vì tôi cảm thấy trong một sức mạnh kinh khủng của luồng từ điện chạy xuyên qua thân mình tôi.

Khi bà vừa nói dứt lời, thì tay tôi đã lành mạnh trở lại như thường. Tôi tin rằng không ai đã nhận thấy việc ấy xảy ra, vì họ còn đang chú trọng vào những gì diễn ra ở chung quanh.

Đứa bé gái đã thụp xuống chân bà Mã Ly, và hôn lấy hôn để gấu áo của bà. Bà Mã Ly cúi xuống, lấy tay đỡ gương mặt ứa lệ của đứa bé, rồi quỳ xuống ôm nó vào lòng và hôn lên mắt lên miệng nó. Đứa bé quàng tay ôm cổ bà Mã Ly, và cả hai đều yên lặng như thế trong một lúc.

Kế đó, ánh sáng lạ lùng mà chúng tôi đã diễn tả trước đây bắt đầu tràn vào gian phòng. Ánh sáng ấy mỗi lúc càng trở nên sáng rỡ, và sau cùng tất cả mọi vật đều có vẻ trong suốt, dạ quang. Không có vật gì phát ra một cái bóng, và gian phòng mỗi lúc càng tỏ ra to lớn hơn.

Từ lúc đầu, cha mẹ những đứa bé vẫn ngồi yên trên nền đất, có vẻ im lặng vì sợ hãi. Nhưng đến lúc đó, thì cả hai đều biến sắc, gương mặt họ trở nên trắng bệch vì kinh hoàng; người cha sợ hãi đến nỗi y chạy phóng ra cửa và đụng vào mình Lê Mông trong cơn hấp tấp vội vàng.

Người mẹ thì thụp xuống chân bà Mã Ly, vừa lạy vừa khóc mướt. Bà Mã Ly đặt một bàn tay lên trán người đàn bà ấy và kề vai nói thì thầm. Tức thì người đàn bà kia hết khóc, y bèn ngồi nhổm dậy và nhìn thấy sự biến đổi đang hiện ra trong gian nhà.

Gương mặt y lại lộ vẽ kinh hoàng, y bèn hối hả đứng dậy và toan chạy trốn. Đức Tuệ Minh nắm lấy một tay y trong khi vị giai nhân tuyệt sắc nắm cánh tay kia. Hai vị giữ y lại tư thế trong một lúc, rồi thay vì là cái chòi lá bẩn thỉu khi chúng tôi mới bước vào, thì lúc ấy chúng tôi đang ở trong một gian phòng đầy đủ tiện nghi với những bàn ghế giường tủ tươm tất.

Đức Tuệ Minh bước qua gian phòng, ẳm lấy đứa nhỏ đang nằm ngủ trên đống rạ mốc meo, và nhẹ nhàng đặt nó lên một cái giường có trải nệm trắng và chăn mền sạch sẽ. Ngài cúi xuống đặt một chiếc hôn lên trán đứa bé một cách âu yếm như một người hiền mẫu.

Bà Mã Ly và đứa bé gái đã đứng dậy và bước tới gần người mẹ các đứa nhỏ. Chúng tôi cũng tựu lại chung quanh y. Người mẹ quỳ thụp xuống hôn lấy hai bàn châân của bà Mã Ly và khẩn cầu bà đừng tách rời khỏi y.

Đức Tuệ Minh bước tới nắm lấy hai bàn tay người đàn bà kia, đỡ y đứng dậy, rồi nói chuyện với y bằng tiếng thổ ngữ bổn xứ. Khi người mẹ đã đứng dậy, những áo quần lấm lem nhơ nhuốc của y đã biến thành những áo quần mới. Y thị im lặng trong một lúc dường như không còn hiểu biết chuyện gì nữa, và lao mình vào trong vòng tay mở rộng của bà Mã Ly. Hai người đàn bà giữ tư thế đó một lúc trong im lặng, rồi đức Tuệ Minh bước lại gỡ người ấy ra.

Kế đó, đứa bé gái chạy tới đưa hai tay ra trước và nói:

- Bà hãy nhìn xem quần áo mới của con.

Nó day lại bà Mã Ly, bà cuối xuống đỡ nó lên; trong khi đó nó choàng tay ôm cổ và áp mặt vào vai bà. Lê Mông đang đứng phía sau, đứa bé gái bèn đưa hai tay ngang qua vai bà Mã Ly, ngẩng đầu lên và mỉm cười với y. Lê Mông bước tới và đưa hai tay y ra, đứa bé nắm lấy và nói rằng nó yêu thương tất cả chúng tôi, nhưng nó yêu mến bà Mã Ly nhiều nhất.

Đức Tuệ Minh nói để ngài đi tìm người cha các đứa bé. Một lúc sau ngài đưa y về nhà, với dáng điệu sợ sệt và còn lầm bầm. Bà Mã Ly bước tới và đặt đứa bé gái xuống gần bên y. Dưới cái vẻ mặt khó chịu của người đàn ông này, chúng tôi có thể nhận thấy ẩn tàng một lòng biết ơn sâu xa.

Chúng tôi bèn bước ra khỏi căn nhà. Trước khi chúng tôi ra về, người mẹ các đứa bé yêu cầu chúng tôi hãy trở lại khi có dịp. Chúng tôi cho biết là sẽ trở lại vào ngày hôm sau.

Chúng tôi bèn hối hả đi đến tư dinh viên thống đốc vì sợ rằng đi trễ làm cho mọi người phải đợi chờ. Chúng tôi có cảm giác như đã trải qua nhiều giờ trong cái chòi lá, nhưng thật ra chỉ có nửa giờ đã trôi qua từ lúc chúng tôi tách rời khỏi đoàn người đến khi chúng tôi gặp họ trở lại.

Tất cả mọi sự đã diễn ra trong một lúc còn ngắn ngủi hơn là cái thời giờ cần thiết để ghi chép lại câu chuyện. Chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc đúng vào lúc mọi người đang ngồi vào bàn ăn. Lê Mông xin phép ngồi gần bên Tô Mặc. Y lộ vẻ vô cùng khích động. Về sau Tô Mặc cho chúng tôi biết rằng Lê Mông bị xúc động mạnh về những gì y nhìn thấy, đến nỗi y không thể nào giữ được sự bình tĩnh.

Qua ngày hôm sau, Lê Mông thức dậy trước hết mọi người. Trong bữa ăn sáng, y ngồi giữa đức Tuệ Minh và Dật Sĩ và luôn luôn đặt câu hỏi trong suốt bữa ăn. Khi chúng tôi vừa ăn xong, y đã đứng dậy và muốn chạy ra ngoài để nhìn xem cái nhà "đã mọc lên trong một khắc đồng hồ."

Quàng một tay lên vai Dật Sĩ, y nói rằng nếu y có được hai vị cứu trợ như đức Tuệ Minh và bà Mã Ly, y sẽ đi chu du khắp chốn và làm cho nhà cửa mọc lên để giúp đỡ những kẻ nghèo khổ không nhà. Y nói thêm:

- Nhưng tôi chắc là những tay chủ phố và nhà đất ở Nữu Ước sẽ nổi giận, và họ sẽ không để tôi yên.

Về sau, Lê Mông cho chúng tôi biết rằng y bị xúc động và ngạc nhiên đến nỗi y không thể nào ngồi yên mà không đặt câu hỏi. Y nói chuyến đi này thật là chuyến xuất hành sôi nổi hào hứng nhất trong đời y, tuy rằng y đã từng đi du lịch ở nhiều nơi xa lạ.

Khi đó y có ý định giúp chúng tôi tổ chức một chuyến hành trình thứ nhì để tiếp tục những cuộc đào xới khảo cổ theo chỉ thị của các vị siêu nhân. Nhưng bất hạnh thay, dự án này không được thực hiện vì Lê Mông đã đột ngột từ trần vào năm sau.

Chúng tôi phải vất vả khó nhọc lắm mới cản ngăn được y đến ngay ngôi nhà nhỏ mới dựng lên. Điều này được giải quyết ổn thỏa, theo đó y sẽ đi cùng với Dật Sĩ và một người nữa đến một nơi mà từ đó y có thể nhìn thấy ngôi nhà ấy từ đàng xa.

Sau độ nửa giờ, họ đã trở về. Lê Mông mừng rỡ lộ ra mặt vì y đã nhìn rõ ngôi nhà nhỏ thật sự. Ngôi nhà ấy làm cho y hồi tưởng lại một trong những giấc mơ hồi thơ ấu, trong khi đó y mơ thấy vừa đi dạo chơi với các vị tiên nữ vừa xây nhà cho những kẻ nghèo và làm cho họ được sung sướng.

Đức Tuệ Minh cho chúng tôi biết rằng chiều hôm đó sẽ có một cuộc hội họp giống như phiên họp hồi năm ngoái tại làng quê của ngài. Ngài mời tất cả chúng tôi cùng đến dự, chúng tôi sung sướng nhận lời.

Chúng tôi quá đông người để có thể cùng đi một lượt đến xem ngôi nhà nhỏ. Bởi đó, chúng tôi chia ra để đi từng nhóm nhỏ độ năm hay sáu người. Nhóm đầu tiên gồm có đức Tuệ Minh, Lê Mông, một hay hai vị phu nhân, và tôi.

Chúng tôi đi ngang qua nhà trọ của bà Mã Ly, bà cùng nhập bọn với chúng tôi. Khi chúng tôi gần đến ngôi nhà nhỏ, đứa bé gái chạy ra đón, rồi nhảy vào nằm gọn trong vòng tay mở rộng của bà Mã Ly, và nói rằng em trai nó nay đã khỏe mạnh.

Khi chúng tôi đến nhà, người mẹ các đứa bé chạy ra quỳ thụp xuống chân bà Mã Ly và thốt vài lời tạ ân bà. Bà Mã Ly đưa tay ra đỡ người đàn bà ấy và nói:

- Bà đừng quá khiêm cung. Tôi có thể làm cho bất cứ ai những gì tôi đã làm cho bà Cái ân huệ thiêng liêng mà bà đã nhận được, không phải do tôi ban ra, mà do Trời.

Đứa bé trai ra mở cửa, và mẹ nó mời chúng tôi vào nhà. Chúng tôi đi theo sau các bà, và bà chủ nhà trọ tình nguyện làm thông ngôn. Không còn nghi ngờ gì nữa, cái nhà vẫn còn đó, với bốn phòng đầy đủ tiện nghi.

Ba phía chung quanh là những nhà chòi tranh rất lụp xụp nghèo nàn. Chúng tôi được biết rằng các chủ nhân của các chòi tranh này đang lo chuẩn bị dọn đi nơi khác vì họ tin rằng ma quỷ đã dựng lên ngôi nhà mới này và sẽ làm cho họ chết nếu họ tiếp tục sống ở chung quanh.

Chúng tôi vừa được tin của vị thống đốc. Sáng hôm ấy, ông ta gởi một toán quân hầu và một viên đại úy đến mời chúng tôi tới dự bữa cơm trưa tại tư dinh. Chúng tôi nhận lời, và đến giờ hẹn, một vệ sĩ đến để hộ tống chúng tôi đến tư dinh viên thống đốc.

Đến tư dinh viên thống đốc, chúng tôi thấy một số đông những vị Lạt Ma của tu viện Lạt Ma giáo gần bên đã có mặt tại đó cùng với vị Sư Trưởng của họ. Chúng tôi được biết rằng tu viện này rất quan trọng và có độ (1, 500) đến (1, 800) sư sãi.

Viên thống đốc cũ có chân trong đại Hội Đồng sư sãi của tu viện này. Khi đó chúng tôi được biết được bữa tiệc này có mục đích tạo nên một dịp tiếp xúc giữa các vị Lạt Ma và các đoàn viên trong phái đoàn chúng tôi. Các vị Chân Sư đã từng biết Sư Trưởng này từ lâu, vì các ngài thường hay gặp gỡ và đã từng làm việc chung với vị Sư Trưởng ấy.

Cho đến sáng ngày hôm ấy, viên thống đốc dường như vẫn chưa biết sự liên hệ trên. Thật vậy, vị Sư Trưởng đã vắng mặt ở tu viện trong ba năm nay và mới trở về chỉ có một ngày trước khi chúng tôi đến.

Trong bữa ăn, chúng tôi nhận thấy các vị Lạt Ma là những người có học thức, có quan điểm rộng rãi về cuộc đời, đã từng du lịch nhiều và có hai vị trong số đó đã từng sống một năm bên Anh Quốc và Hoa Kỳ.

Trước khi chia tay, vị Sư Trưởng mời chúng tôi ngày hôm sau đến tu viện Lạt Ma giáo và làm thượng khách của vị Lạt Ma trong một ngày. Đức Tuệ Minh khuyên chúng tôi nên nhận lời, và chúng tôi đã trải qua một ngày rất tốt đẹp và hữu ích tại tu viện. Vị Sư Trưởng là một người đạo hạnh uyên thâm.

Ngày đó, ông ta đã cùng với Tô Mặc kết tình thân hữu, tình thân hữu này về sau đã trở nên một sự cảm thông đậm đà nồng hậu và kéo dài đến suốt đời của hai người. Vị Sư Trưởng đã đem đến cho chúng tôi một sự trợ giúp vô cùng quý báu trong những chuyến du hành về sau của chúng tôi tại vùng này.



3. Phái Đoàn Trở Về Căn Cứ Mùa Đông



Theo chương trình được sắp đặt, phái đoàn chúng tôi sẽ lên đường vào trưa ngày hôm sau. Dật Sĩ và Chandersen sẽ cùng đi với chúng tôi đến một địa điểm trao đổi hàng hóa để chúng tôi mua sắm thêm lương thực dự trữ, và đức Tuệ Minh cũng sẽ đến đó sau với chúng tôi. Kế đó, ba vị siêu nhân sẽ cùng với chúng tôi trở lại địa điểm căn cứ mùa đông.

Khi chúng tôi đến căn cứ, phái đoàn thám hiểm giải tán, và mọi công việc sắp đặt cho những người nào muốn về nhà, có thể đi đến chỗ khởi điểm của họ do con đường mòn của khách thương buôn. Ngày hôm sau, đức Tuệ Minh đến với chúng tôi. Chúng tôi từ giã các bạn đoàn viên và cùng với ngài đi về phía căn cứ mùa đông.

Chúng tôi nghỉ hai ngày tại trại bọn cướp. Hai người bổn xứ đi theo chúng tôi tại đây, và toán chúng tôi chỉ còn lại có bảy người. Hai tên cướp thuật lại cho bọn chúng nghe về chuyến du hành kỳ lạ vừa rồi và những điều nhiệm mầu mà chúng đã nhìn thấy. Chúng tôi được đối xử một cách vô cùng chu đáo.

Ba vị siêu nhân được chúng dành cho những ưu đãi danh dự đặc biệt. Viên đầu đảng bọn cướp cho ba vị biết rằng để đáp lại thịnh tình của các vị Chân Sư đã tỏ ra đối với họ, họ sẽ coi địa điểm chôn dấu của thành phố cổ như một vùng cấm địa tuyệt đối thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Vả lại, cũng không có sự e sợ rằng bọn cướp rời khỏi căn cứ họ để toan đánh cướp một nơi xa xôi như thế.

Thật vậy, những bọn cướp sa mạc không bao giờ xâm phạm vào miền núi, và trái lại bọn cướp núi không hề xâm chiếm vùng đồng bằng, vì họ luôn chiên tranh với nhau. Theo chỗ chúng tôi biết, thì cho đến nay họ vẫn giữ lời hứu phân chia khu vực hoạt động, và không lấn ranh lãnh thổ của nhau.

Sáng ngày chúng tôi lên đường, viên đầu đảng tặng cho Tô Mặg một huy chương bạc nhỏ bằng đồng tiền Shilling, trên đó có khắc chữ rất lạ. Y cho Tô Mặc biết rằng nếu chúng tôi bị một bọn cướp đánh trong vùng này, chúng tôi chỉ cần đưa cái hay chương này là chúng tôi được trả tự do lập tức.

Gia đình y đã giữ huy chương ấy từ nhiều thế hệ và coi nó như một vật quý vô giá, nhưng y muốn tặng cho Tô Mặc để tỏ lòng ngưỡng mộ của y đối với chàng.

Sau khi xem xét kỹ lưỡng chiếc huy chương, đức Tuệ Minh nói cho chúng tôi biết rằng đó là một bổn sao rất đúng đắn của một đồng tiền đã từng được lưu hành ở phía bắc vùng Gobi từ nhiều ngàn năm nay. Riêng chiếc huy chương này đã có đến trên bảy trăm năm.

Những đồng tiền loại này thường được các thổ dân bản xứ dùng như những linh vật hộ phù, và họ cho rằng đồng tiền càng cổ xừa thì nó lại càng quý và càng có hiệu lực nhiều hơn. Viên đầu đảng và cả bọn cướp hẳn là đánh giá món quà của họ một giá trị rất lớn.

Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình một cách êm thấm và đến căn cứ mùa đông vào giờ đã định trước. Tại đây chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của các vị siêu nhân đã đến viếng chúng tôi trên vùng sa mạc và đã từ biệt chúng tôi tại nơi làng nọ khi chúng tôi gặp vị Sư Trưởng của tu viên Lạt Ma giáo.

Một lần nữa chúng tôi lại được mời đến nhà ở của bà chủ trọ hồi năm trước, và chúng tôi liền vui vẻ nhận lời.

Lần này chúng tôi chỉ còn lại có bốn người, vì bảy người đoàn viên đã trở về Ấ Độ và Mông Cổ để thực hiện những cuộc sưu tầm khác nữa. Việc sắp đặt ấy giúp cho chúng tôi có nhiều thời giờ hơn để phiên dịch các tài liệu cổ. Làng nhỏ này rất yên tịnh. Chandersen và chủ nhà luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi dịch các đoạn văn khó và bí hiểm.

Công việc này tiếp tục cho đến cuối tháng muời hai. Khi đó chúng tôi lại nhận thấy một đám khá đông dân chúng lại tựu họp trở lại trong phiên hội hàng năm. Phần đông đều là những người đã tham dự năm ngoái, nhưng địa điểm hội họp lại khác. Lần này cuộc lễ sẽ diễn tại ngôi đền đục trong vách núi, trong gian phòng trung ương dùng làm tòa đại sảnh.

Chiều nay đầu năm dương lịch, chúng tôi bước lên tòa sảnh đường khi còn sớm để nói chuyện với những người đã hội họp tại đó. Họ đến từ nhiều vùng khác nhau và cho chúng tôi biết tin tức của thế giới bên ngoài, cái thế giới mà chúng tôi thật sự cảm thấy rằng đã mất hẳn liên lạc từ lâu. Tuy nhiên công việc của chúng tôi làm cho chúng tôi bận rộn quên cả ngoại cảnh, và thời gian đã trôi qua rất mau.

Ngày hôm sau, Tô Mặc đề nghị với cả bọn cùng xuống phòng tài liệu để tiếp tục công việc phiên dịch. Chúng tôi mải lo chăm chú vào công việc đến nỗi không ý thức được sự hiện diện của những người khác trong phòng. Thình lình Tô Mặc đứng dậy và bước tới đón chào những người mới đến.

Chúng tôi ngước mắt nhìn lên thì thấy đức Jesus, bà Mã Ly, bà chủ nhà trọ và Chandersen. Vị sau cùng này vốn là người mà chúng tôi vẫn thường gọi là "Ông già giữ pho tài liệu," nhưng bây giờ thì chúng tôi gọi y là "Người thanh niên." Ngoài ra còn có Bạch Lãng, và một người lạ mặt được giới thiệu với chúng tôi cái tên Bút Già.

Lúc ấy đã quá trưa, chúng tôi dọn bàn và chuẩn bị bữa ăn. Xong rồi chúng tôi ngồi vào bàn và sau một lúc im lặng, đức Jesus cất tiếng nói:

- Chúng ta hãy chiêm ngưỡng đức Chúa Cha toàn năng. Nguyên lý đồng đại thấm nhuần tất cả vạn vật, Ngài là ánh sáng, tình thương và mỹ lệ mà chúng ta được ban những ảnh hưởng tốt lành.

Chúng ta có thể vĩnh viễn được thấm nhuần những ân huệ tốt lành ấy nếu chúng ta muốn. Chúng ta nghiên mình kính trước bàn thờ trên đó chiếu diệu ngọn lửa thiêng trường cửa của tình bác ái đại đồng, sự điều hòa, minh triết chân chính, sự sùng kính vô tận, và sự khiêm tốn chân thật.

Ngọn lửa thiêng ấy đã chiếu sáng không bao giờ lu mờ. Nó xuất từ đáy lòng của những người đang tựu vào giờ phút này và nhân danh đấng Cha Lành và Tình Bác Ái.

Xuất phát từ những người thân cận và mến yêu của chúng ta, ngọn lửa thiêng ấy lan tràn trong không gian, soi sáng những vùng xa xôi nhất trên Trái Đất để cho mỗi người có thể nhìn thấy ánh sáng của nó và nhận được những ân huệ tốt lành do tình thương khiết bạch và vô tận của nó ban giải ra.

Những tia sáng rung động của ánh sáng đó, của cái mỹ lệ đó và sự tinh khiết đó đi xuyên qua những tâm hồn thụ cảm của những người chung quanh bàn thờ của Ngài. Bây giờ chúng ta đã có ý thức về tình bác ái mà sức ấm áp đang lan khắp vũ trụ.

Chúng ta gởi những tia bác ái đó đi khắp nơi để biến đổi thế gian, cải tạo và hòa hợp tất cả nhân loại. Chúng ta nghiêng mình trước Tinh Thần của Chúa Trời vốn sống động trong mỗi người. Chúng ta đứng đối diện với Chúa Trời, ngang hàng với ngài, hợp nhất với ngài. Một lần nữa, chúng ta kính cẩn chào đức Chúa Trời vốn sống động nơi chỗ thâm sâu bí ẩn nhất trong lòng chúng ta.

Khi đức Jesus nói xong, có người đề nghị rằng cả bọn trở lại gian phòng mà chúng tôi đã chứng kiến sự phục sinh của Chandersen.

Khi chúng tôi đến nơi, gian phòng được thắp sáng một cách lộng lẫy cũng như khi chúng tôi ra đi. Gian phòng này đối với chúng tôi là một linh điện, một nơi mà chúng tôi có cái đặc ân thực hiện trên đường tâm linh một giai đoạn trước đó mà không thể nào quan niệm rằng nó có thể có được đối với người phàm tục như chúng tôi.

Kể từ ngày đó đến ngày mười lăm tháng tư là ngày chúng tôi lên đường, không có ngày nào hoặc đêm nào mà chúng tôi không tựu họp tại đó với tất cả các Chân Sư trong khoảng ít nhất một tiếng đồng hồ. Trong những cuộc hội họp đó, gian phòng không bao giờ có cái hình dáng đục trong vách đá nữa.

Dường như chúng tôi luôn luôn có thể nhìn thấy xuyên qua các vách tường vào khoảng không gian vô tận. Chính trong gian phòng này mà những bức rào tâm thức của chúng tôi bị xóa bỏ. Chính ở đây là nơi đã mở rộng trước mắt chúng tôi môt viễn cảnh rộng lớn về tương lai.

Khi chúng tôi đứng dậy khiếu từ, các vị siêu nhân chúc chúng tôi yên giấc và rút lui. Chúng tôi còn ở nán lại trong giây lát để bình luận những kinh nghiệm vừa qua trước khi trở về nhà trọ. Khi đứng dậy ra về, chúng tôi liền tự đặt câu hỏi:

- Làm sao tìm thấy đường về mà không có đèn lửa chi cả?

Mỗi người trong chúng tôi đều nghĩ như vậy, chỉ có một mình Tô Mặc không đồng ý, vì y nói:

- Các bạn thấy chăng chúng ta chỉ luôn luôn bám víu lấy những thói quen cũ của mình và luôn luôn bị trói buộc bởi những ý tưởng thủ cựu. Ở đây chúng ta hoàn toàn được thấm nhuần trong một vầng sáng không hề sút giảm sau khi các vị siêu nhân quý mến của chúng ta đã ra đi.

Phải chăng đây là một dịp để chúng ta tiến tới và tỏ rằng chúng ta tự tin nơi sức mình, tự tin nơi quyền năng của mình và có thể thực hiện những công trình giống như các ngài? Ít nhất chúng ta hãy thử làm xem sao và hãy có căn bản tiến lên một bước đầu tiên đến chỗ thực hiện.

Chúng ta quá nương tựa vào tình thương của các vị Chân Sư đến nỗi chúng ta cảm thấy một vết thương khi cần phải xa cách các ngài trong một lúc. Nếu chúng ta không thể tự lực tự cường trong sự thực hiện những việc nhỏ, chúng ta sẽ không bao giờ thành công trong những việc lớn. Tôi chắc rằng các vị đã từ chúng ta để cho chúng ta có một cơ hội chứng tỏ khả năng của mình.

Trước khi ra đi, một bạn tôi đề nghị là tốt hơn hãy nên suy nghĩ trước về cách hành động. Nhưng Tô Mặc đáp bằng một giọng cứng rắn:

- Không. nếu chúng ta định đi, ta phải đi ngay tức khắc. Sau những dấu hiệu mà chúng ta đã thấy và những diễn biến mà ta đã tham dự, chúng ta phải hành động một cách quả quyết, nếu không chúng ta không còn xứng đáng được một sự trọng vọng nào cả!

Chúng tôi liền đi xuống các cầu thang, đi ngang qua nhiều gian phòng, vượt qua con đường hầm, đi xuống thung lũng trở về làng. Trong khi chúng ta đi, thì đường đi hoàn toàn được chiếu ánh sáng. Thân thể chúng tôi dường như mất cả sức nặng, chúng tôi di chuyển một cách rất dễ dàng không hề mệt nhọc, và trở về nhà trọ mà trong lòng như điên lên vì sung sướng do bởi sự thành công này.

Kể từ lúc đó cho đến khi chúng tôi rời khỏi làng, chúng tôi có thể đi khắp nơi tùy ý mà không cần có đèn đuốc chi cả. Những phòng ngủ của chúng tôi tự nhiên thắp sáng lên khi chúng tôi và tỏa ra một sự ấm cúng đẽ khó tả.

Chúng tôi ngủ yên giấc ngay sau khi đó và thức dậy rất trễ vào sáng ngày hôm sau.



4. Bọn Cướp Hăm Dọa Tấn Công




Ngày một tháng tư đến rất mau chóng. Chúng tôi đã hoàn tất công việc phiên dịch các tài liệu và sắp sửa vẽ họa đồ những bức tượng cổ xưa tạc trong núi đá. Công việc này được thực hiện một cách mau chóng vì sự hứng thú và hăng say của chúng tôi khi bắt tay vào công việc.

Một buổi xế trưa, một người sứ giả đem tin đến làng. Nhìn thấy cách mà các dân làng tụ họp chung quanh người ấy, chúng tôi hiểu rằng đó là một biến cố khác thường. Chúng tôi bỏ dở công việc và đi xuống làng. Tại đó chúng tôi gặp bà chủ nhà trọ cho chúng tôi biết rằng một toán quân cướp khá đông đang có mặt ở dưới thung lũng cách đó không xa.

Điều này gây cho dân làng một sự lo ngại rất lớn, vì từ nhiều năm nay, quân cướp thường đánh phá làng này. Người ta đồn rằng ngôi đền đục trong hang núi có chứa đựng một kho tàng khổng lồ. Những mưu toan đánh cướp làng này từ trước đến nay vẫn thất bại, và những toán quân cướp cho rằng phần lớn sự thất bại này là do bởi sức chống cự mãnh liệt của những nông dân sống ở miền thung lũng.

Hôm nay, nhiều toán quân cướp đã tập hợp nhau lại để tăng cường lực lượng. Chẳng khác nào một đạo binh nhỏ, độ bốn ngàn quân khinh kỵ có võ trang khí giới đầy đủ đang tấn công miền thung lũng để đánh tan sự chống cự của những người nông dân sống chung quanh làng. Bọn cướp hy vọng rằng chiến lược tấn công lần này sẽ có hiệu quả hơn những lần trước.

Người sứ giả kêu gọi cứu trợ giúp cho dân làng vì nhiều người đã bị giết, và những người khác sắp sửa từ bỏ mọi sự chống cự. Bà chủ nhà chúng tôi đáp rằng trong làng không còn sẵn người nào để đi xuống thung lũng. Bà nói y có thể trở về và và sẽ không có gì xảy ra cho những người chung quanh y. Chúng tôi lại tiếp tục làm việc mặc dầu cũng ý thức được sự lo ngại của dân làng, và chia sẽ phần nào sự lo ngại của họ.

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục vẽ họa đồ và ổ túc công việc thu góp tài liệu để có thể tìm thấy lịch sử của nền văn minh cổ xưa và của một dân tộc đã từng sống trên phần đất bao la này của thế giới, nay đã trở thành bãi sa mạc hoang vu.

Viễn ảnh ấy bị mất đi những kết quả sưu tầm của chúng tôi trong một trận đánh thư hùng với bọn cướp làm cho chúng tôi rất đỗi lo âu. Chúng tôi bèn góp nhặt tất cả các giấy tờ đem vào trong phòng dự trữ tài liệu của ngôi đền, đền này đã từng thoát khỏi một loạt tấn công tương tự của bọn cướp.

Tối hôm đó, chúng tôi cùng với bà chủ nhà mưu toan kế hoạch trợ giúp dân làng. Chúng tôi bày tỏ sự ngạc nhiên mà không thấy các vị chân sư. Bà chủ nhà nói rằng sau khi có sự cầu cứu của người đem tin, bọn cướp có lẽ bị bắt buộc phải gián đoạn cuộc tấn công, nếu không họ sẽ tự diệt lấy họ. Đêm đó, chúng tôi đi ngủ với ý niệm rõ rệt là nỗi lo ngại về sự an toàn của chúng tôi thật là quá đáng.

Ngày hôm sau, chúng tôi thức dậy sớm và sắp sửa bắt tay vào việc, thì người đem tin ngày hôm qua lại xuất hiện. Y báo tin rằng những cuộc tấn công đám nông dân đã dứt và bọn cướp đã tập trung lực lượng ở đó độ ba mươi lăm cây số, có lẽ để đánh vào làng chúng ta.

Trong khi bà chủ nhà nói chuyện với người sứ giả đem tin, với một nhóm dân làng tựu họp ở chung quanh, một người kỵ mã phóng ngựa vào làng và chạy ngay đến chúng tôi. Trên đường y chạy vào làng, những nhóm dân làng có vẻ nhận ra y và liền giải tán và dường như là sợ hãi.

Trong khi người kỵ mã sắp đến gần, người sứ giả bất giác thốt ra tên y và liền chạy trốn cùng với những dân làng khác, hiển nhiên là vì sợ rằng bọn cướp sẽ đến nơi sau người kỵ mã.

Chúng tôi còn ở lại với bà chủ nhà để đợi y đến. Y gò cương ngựa và hất hàm nói với Tô Mặc một cách hiên ngang, rằng bọn cướp biết rõ chúng tôi là người ngoại quốc và chúng tôi đến đây với mục đích gì. Y nói chuyện bằng tiếng bổn xứ mà chúng tôi không hiểu gì cả. Nhìn thấy chúng tôi đang ngơ ngác, y hỏi có ai thông ngôn được không.

Bà chủ nhà trọ day lại đối diện với người kỵ mã lúc ấy hãy còn ngồi yên trên lưng ngựa, và hỏi y rằng bà có thể làm việc ấy giúp y được không? Khi y vừa thấy bà, y có vẻ như là bị điện giật. Tuy nhiên, y trấn tĩnh lại ngay để nhẩy xuống ngựa một cách gọn gàng và vừa chạy lại vừa đưa hai tay ra trước, y kêu lên:

- Vậy ra bà ở đây?

Kế đó, y đưa hai bàn tay lên trán, quỳ xuống trước mặt bà và xin lỗi bà.

Bà chủ nhà chúng tôi ra lệnh cho y hãy đứng dậy và bày tỏ ý muốn của y. Chúng tôi nhìn thấy bà đứng thẳng người, và trong một lúc gương mặt bà đỗi sắc vì nổi cơn thịnh nộ. Bà tỏ ra một cơn xúc động mãnh liệt đến nỗi người kỵ mã phải kinh hoảng.

Chúng tôi cũng sợ hãi đến nỗi mất cả sự bình tĩnh. Những danh từ "Hèn nhát, đồ sát nhân, hãy bước tới và nói rõ mi muốn gì" xuất hiện trên môi của bà với một sức mạnh kinh khủng đến nỗi người kia phải quỳ mọp sát đất. Một lần nữa, bà lại mắng mỏ y thậm tệ:

- Đứng lên, mi quá hèn mạt đến nỗi không dám đứng dậy chăng?

Chúng tôi không ngạc nhiên vì sự sợ hãi bi lụy của người kỵ mã, vì cũng như y, chúng tôi hoàn toàn đứng sững như trời trồng, không dám cựa quậy. Tôi chắc rằng nếu y có thể làm được với sức mình, thì y đã chạy vắt giò lên cổ. Nhưng lúc ấy, cũng như chúng tôi, y không thể làm một cử động hay thốt lên một lời. Y rơi mình xuống đất như một cái xác không hồn, hai mắt giương lên và miệng mồm há hốc.

Trong sự tiếp xúc với các vị Chân Sư có những quyền năng siêu phàm, đây là lần đầu tiên chúng tôi có dịp nhìn thấy một vị bày tỏ một cơn xúc động mạnh. Chúng tôi cũng hoảng sợ giống như tên cướp.

Những rung động trong giọng nói của bà chủ làm cho chúng tôi bị chạm mạnh như sức va chạm của một tiếng nổ dữ dội kèm theo với một cú điện giật, làm tê liệt những giọng nói mà luôn cả các bắp thịt của chúng tôi. Tôi không tìm thấy danh từ nào khác để diễn tả những cảm giác của chúng tôi lúc ấy.

Có lẽ quý vị độc giả sẽ ngạc nhiên mà thấy những rung động xuất phát từ một thân mình nhỏ thó, mảnh mai, nhẹ nhàng của bà chủ nhà lại có thể làm cho chúng tôi bị đè bẹp và trở nên yếu đuối bất lực, nhưng sự thật là như vậy.

Tuy tình trạng đó chỉ kéo dài một lúc, nhưng nó hằng như lâu đến hằng giờ trước khi trở lại bình thường. Chúng tôi đứng trân mình như những pho tượng và lấy làm động lòng trắc ẩn đối với tên cướp. Chúng tôi cảm thấy sự mong ước mãnh liệt là muốn trợ giúp y bằng mọi cách. Đó là sự phản ứng chung của tất cả chúng tôi, nhưng ngược lại chúng tôi chỉ có thể đứng sững nhìn bà chủ nhà trân trối.

Thình lình, mọi sự đều thay đổi. Gương mặt bà biểu lộ trước hết một sự cứng rắn, kế đó nét mặt bà biến đổi và trở lại dịu dàng như lúc bình thường. Chúng tôi cảm thấy có lòng trắc ẩn sâu xa đến nỗi chúng tôi tất cả đều chạy lại đỡ cái thân hình nằm mọp dưới đất. Bà chủ nhà cũng cúi xuống và đưa một tay cho tên cướp. Người này giây lát đã tĩnh lại.

Chúng tôi đỡ y đứng dậy và đặt y ngồi thoải mái trên một chiếc ghế dài gần đó. Y nhất định từ chối không bước vào bất cứ nhà nào. Bà chủ nhà khi đó mới nhận thấy cái ảnh hưởng mà bà đã gây cho chúng tôi, bèn tỏ lời hối tiếc về cơn thịnh nộ quyết liệt của bà. Chúng tôi vẫn còn run rẩy khắp thân mình, và một chập sau đó mới chấn tĩnh tinh thần lại được.

Bà giải thích rằng người kỵ mã là tên đầu đảng của một bọn cướp khét tiếng trong vùng này của đồng sa mạc Gobi. Một vài người rất hiếm biết được tên y, gọi là tên "Cướp Đen," chỉ dám thốt ra tên ấy một cách sợ hãi vì mọi người đều biết y là một kẻ cướp rất bạo tàn, không biết thương xót ai cả.

Bà chủ nhà chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với người này trong hai lần tấn công bị thất bại của bọn cướp. Mỗi lần như vậy, y đã tỏ rõ một sự thù hận sâu xa đối với bà và đối với các vị chân sư nói chung. Thỉnh thoảng y đã gửi đến các ngài những bức thông điệp với lời lẽ đầy căm hờn và các ngài không hề để ý đến.

Sự xuất hiện thình lình của y đã nhắc nhở cho bà chủ nhà những hành động bất hảo trong quá khứ của y một cách rõ rệt đến nỗi bà đã mất bình tĩnh trong một lúc. Nhưng bà liền trấn tĩnh lại và bước đến gần người ấy.

Khi bà đến gần, y toan đứng dậy nhưng không thể làm gì khác hơn là thu hình để ngồi ngay ngắn hơn một chút, với một vẽ mặt kinh khiếp sợ hãi đến cực độ. Sự căm hận toát ra từ mọi cử chỉ của y, thân mình y run rẩy lập cập như những người bị chứng liệt bại.

Bà chủ nhà chúng tôi tỏ ra một dáng điệu trái ngược hẳn với y, vì bà đã lấy được sự bình tĩnh và không còn tỏ ra một dấu hiệu xúc động nào.

Chúng tôi có ý nghĩ đem người kia đi. Trước khi chúng tôi có thể thốt ra lời, bà chủ nhà đã đọc được tư tưởng chúng tôi và đưa tay lên để yêu cầu chúng tôi giữ im lặng. Tô Mặc hiểu rằng bà đảm đương trách nhiệm của tình hình lúc ấy, và những gì chúng tôi làm chỉ đưa đến việc đặt bà trong một tình thế khó xử.

Chúng tôi bèn rút lui cách đó một quãng xa. Bà nói chuyện với người ấy bằng một giọng thấp nhỏ và êm đềm trong một lúc khá lâu trước khi nhận được sự trả lời.

Khi người ấy bắt đầu trả lời, bà chủ nhà bèn ra dấu cho chúng tôi bước lại gần. Chúng tôi ngồi xuống đất trước mặt hai người và lấy làm sung sướng mà có thể làm một cử chỉ khả dĩ đưa đến bớt sự căng thẳng.

Tên cướp giải thích rằng y được các tên chúa đảng đề cử y đến với tư cách một sứ giả hòa bình để thương thuyết việc giao nạp kho tàng của cải mà họ nghi rằng đang được chôn dấu trong ngôi đền khoét trong hang núi.

Nếu dân làng chịu đem nạp cái kho tàng ấy, bọn cướp hứa là sẽ không đánh phá họ nữa và sẽ thả hết các dân làng bị cầm tù mà theo y cho biết thì có đến trên ba ngàn người. Họ cũng hứa sẽ rời xứ này và không bao giờ còn làm hại những người dân sống ở miền thung lũng.

Bà chủ nhà chúng tôi giải thích cho y biết rằng trong đền không có một kho tàng nào có một giá trị nào đối với bọn cướp. Bà cho y biết nhiều chi tiết và đề nghị đưa y xem tất cả các gian phòng trong đền hoặc bất cứ nơi nào y muốn.

Y từ chối hẳn, vì sợ rằng bị giữ lại làm con tin. Không một lời đảm bảo nào của chúng tôi có thể thuyết phục được y. Bà chủ nhà xác nhận với y sự thành thật của chúng tôi và y liền tin ngay.

Nhưng khi đó y đang ở vào một tình thế khó xử vì y là kẻ chủ mưu vụ đánh cướp này. Chính y đã khêu gợi óc tưởng tượng của bọn cướp và làm cho chúng có nhiệt hứng để đánh cướp kho tàng. Y đã diễn tả một cách linh động và hấp dẫn những kho của cải dồi dào bất tận nó sẽ về tay chúng nếu chúng thành công.

Thật vậy, chính sự hứa hẹn kho tàng đã làm cho cha y và y có thể duy trì sự đoàn kết trong bọn cướp. Y là một tên đầu đảng của một trong năm toán cướp đang tập trung lực lượng để phát động cuộc tấn công.

Tình hình đã đi đến chỗ bí lối. Nếu y trở về toán cướp của y với cái tin tức không có kho tàng, chúng sẽ lên án y ngay như một kẻ phản bội và đối xử với y một cách tương xứng.

Như vậy, y sẽ không thể ngăn cấm bọn cướp mở cuộc tấn công, vì sau tất cả những cố gắng mà y đã làm để đưa cuộc chuẩn bị đến giai đoạn hiện tại, người ta sẽ không còn tin tưởng nơi y nữa. Y thật là bị lâm vào một tình thế rất khó khăn.

Trước sự vô cùng ngạc nhiên của chúng tôi, bà chủ nhà tình nguyện đưa y trở về trại. Bất chấp những lời can gián của chúng tôi, bà muốn đi ngay lập tức. Bà trấn an chúng tôi rằng không có gì nguy hiểm nếu bà đi một mình, nhưng nếu có chúng tôi đi theo, thì bọn cướp sẽ nghi kỵ và tất cả chúng tôi sẽ bị lâm nguy. Chúng tôi bèn lẳng lặng tuân theo vì không thể làm gì khác hơn.

Tên tướng cướp bèn lên ngựa, và chúng tôi đỡ bà chủ nhà lên ngồi trên lưng ngựa phía sau tên cướp, trên một tấm yên thứ nhì đã sắp đặt sẵn. Hai người ra khỏi làng, bày trước mắt chúng tôi một cảnh tượng khó quên nó sẽ luôn luôn sống động trong ký ức chúng tôi đến tận muôn đời; tên cướp với một nét mặt tỏ vẻ nghi ngờ, còn bà chủ nhà quay lại mỉm cười và thản nhiên nói với chúng tôi rằng bà sẽ trở về vào lúc chiều tối.

Suốt những giờ còn lại trong ngày hôm đó, chúng tôi không còn hứng thú để làm việc, và đi thẩn thơ vô định chung quanh làng cho đến lúc xế chiều. Sau đó chúng tôi trở về nhà trọ để đợi bà chủ nhà. Về đến nơi chúng tôi thấy trên bàn đã có bày những thức ăn ngon lành.

Quý vị độc giả thử tưởng tượng sự ngạc nhiên của chúng tôi đến bực nào khi chúng tôi thấy bà chủ nhà ngồi đó nơi đầu bàn với nét mặt tươi cười hồn nhiên như mọi ngày. Chúng tôi đứng sững sờ trong im lặng. Bà lấy dáng trang trọng và nói một giọng hơi chế giễu:

- Các bạn hỡi, người ta thường chào hỏi nhau khi bước chân vào nhà.

Khi đó chúng tôi mới nghiêng mình và tìm thấy lại giọng nói để thốt ra tiếng chào bà.

Bà nói tiếp:

- Tôi đã hoàn toàn thất bại trong mưu toan thuyết phục bọn cướp, nhưng bọn họ đồng ý với nhau là hứa sẽ trả lời tôi trong vòng ba ngày. Bây giờ tôi biết rằng sự trả lời của họ sẽ là khởi một cuộc tấn công, nhưng tôi đã cứu mạng sống cho tên tướng cướp, ít nhất là trong lúc này. Chúng ta sẽ chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công, vì không gì có thể ngăn cản bọn chúng được nữa.

Tôi nghĩ rằng mỗi người trong chúng ta chắc phải có lúc nghĩ đến sự công bình thiêng liêng để tìm thấy đức tin vững chắc hầu có vượt qua những lúc khó khăn nguy hiểm trong đời.

#58 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/06/2011 - 06:23

Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG TÁM


1. Một Đêm Yên Tịnh Với Đức Jesus

Sau bữa cơm, chúng tôi đứng dậy và bà chủ nhà đưa chúng tôi ra vườn. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy đức Jesus, đức Tuệ Minh, Dật Sĩ và Bút Già đã ngồi sẵn tại đó. Chúng tôi bèn ngồi xuống bên cạnh các vị và liền cảm thấy một sự thoải mái bằng an khôn tả nó cho chúng tôi hiểu rằng từ đây cuộc đời chúng tôi còn phải nương tựa vào các Chân Sư biết bao nhiêu.

Chúng tôi đã ràng buộc chặt chẽ với các ngài dường như bởi những sợi dây sắt. Tôi nhận thấy rằng đó không phải là một điều tốt. Mỗi người trong chúng tôi cần phải thực hiện cái vai trò nhất định của mình trên sân khấu lớn của cuộc đời, để cho không ai trở nên một con người bù nhìn, thụ động.

Tôi hiểu rằng nếu chúng tôi không thể đứng vững mà không cần ai trợ giúp, hay không thể trông cậy ở tự nơi mình, thì các ngài sẽ bắt buộc phải cắt đứt mọi liên lạc. Sau đó, Tô Mặc đã có dịp nêu ra vấn đề này một cách hoàn toàn thành thực và cởi mở.

Mặt trời vừa khuất bóng, ánh tà dương còn tô màu lên cảnh vật lúc trời chiều, bày ra một sự phong phú màu sắc và một vẻ đẹp không tả. Không một ngọn gió thổi, không một tiếng động làm gián đoạn sự yên tĩnh chung quanh chúng tôi. Sự sợ sệt về bọn cướp cho đến lúc ấy vẫn đè nặng trong lòng chúng tôi, cũng đã hoàn toàn thoải mái lạ thường. Chúng tôi dường như tự thả trôi theo giòng thời gian một cách vô tư, không màng gì đến ngày mai.

Thình lình, dường như chúng tôi cảm thấy mình nghe giọng nói của đức Jesus, không nói ra bằng lời. Một loại ảnh hưởng rung động nhịp nhàng đến với chúng tôi thay vì những lời nói. Ảnh hưởng này còn sâu đậm và rõ rệt hơn nhiều so với ảnh hưởng của lời nói. Nhip độ của nó thật không thể tả nổi. Đó thật là một kinh nghiệm hoàn toàn mới lạ đối với chúng tôi.

Những ý tưởng dường như tràn ngập chung quanh và tồn tại trong trí chúng tôi. Không những ý nghĩ vừa đến, chúng tôi bèn chép ra bằng tốc ký, rồi sau đó diễn dịch thành từng lời, từng câu. Sau cùng, chúng tôi đem trình lên cho các vị chân sư duyệt xét.

- Những tư tưởng đó được ghi chép lại như sau:

- Khi tôi nói: "Đây là đấng Chirst của Chúa Trời," tôi thấy xuất hiện ra Người của Chúa Trời. Tôi thấy thể xác tôi như cái linh điện của Chúa Trời, cái khí cụ, cái vận hà hoàn hảo xuyên qua đó cái Nguyên Lý Sáng Tạo vĩ đại được biểu lộ tự do. Khi tôi nhận định rằng tôi là trời, trong trạng thái đó, tôi làm chủ của mọi tình hình và tôi biểu lộ điều mà tôi sùng kính.

Tôi không bao giờ có thể biểu lộ Chúa Trời nếu cái Chân Ngã của tôi không thê hiện được Chúa Trời cho toàn thể nhân loại. Trong cái thái độ tích cực đó, người ta chế ngự tất cả mọi hoàn cảnh. Chân Ngã đã toàn thắng. Chúa Trời và con người cùng là một.

Một bạn trong chúng tôi suy nghĩ một lúc rồi hỏi:

- Làm sao chúng tôi có thể biểu lộ cái Nguyên Lý đó và sử dụng nó trên thực tế?

- Hãy để cho thể xác của bạn trở nên một cái động cơ xuyên qua đó luân chuyển cái Nguyên Lý Sáng Tạo vĩ đại, nó là mọi sự phát huy của mọi sự quyền năng. Khi đó, thể xác của bạn sẽ tác động như một cái máy phát điện. Nó sẽ thu thập và tăng trưởng luồng tinh lực, và bạn sẽ xuất phát nó ra dưới hình thức những tia bạch quang tinh anh sáng suốt không có gì có thể cưỡng lại nổi.

Trong tình trạng đó, không một hành động thù nghịch nào của đối phương có thể làm hại bạn. Bạn có thể phóng dọc theo những tia sáng đó là những luồng điện mãnh liệt đến nỗi nó sẽ tiêu diệt cái thể xác của kẻ nào muốn làm hại bạn. Kẻ nào cưỡng lại luồng tinh lực đó, càng làm tăng gia mãnh lực của nó.

Người nào dùng ý muốn ích kỷ của mình mà chống lại nó, sẽ tự diệt lấy họ. Nếu không ai cưỡng lại sức mạnh đó, nó sẽ toát ra một ảnh hưởng tốt lành xuyên qua người xuất phát và người thọ lãnh lấy nó.



2. Luồng Bạch Quang Tinh Anh



Đó là cái tia sáng tinh khiết của Thượng Đế. Sự rung động của nó diễn ra trên một nhịp độ cao nhất, tất cả những người nào chấp nhận nó sẽ cùng có một rung động điều hòa và hoàn toàn đồng nhịp. Không một tai họa nào có thể xảy đến cho họ, vì họ rung động cùng nhịp với Thượng Đế. Không gì có thể làm hại được người nào thọ lãnh sự rung động của Thượng Đế.

Rung động tức là sống. Bây giờ bạn thấy bằng cách nào bạn vẫn luôn luôn sống với Thượng Đế chăng? Trong trạng thái đó, không còn có thể nào có sự chia rẽ đặc biệt. Sự cách biệt duy nhất là sự cưỡng nghịch lại, nguyên nhân của sự bất điều hòa.

Không có một sự gì xấu xa có thể đến gần bạn khi bạn hợp nhất với Thượng Đế. Đó không còn phải là một đặc ân cho một số ít người, mà là một triển vọng cho tất cả. Chừng đó, tất cả đều sống theo Luật Trời, theo giòng tư tưởng rung động với một nhịp độ cao nhất. Không một rung động xấu xa nào có thể đạt tới nhịp độ đó, hoặc xâm nhập vào cái cõi giới mà tất cả mọi người đều sống yên lành, đó tức là Cõi Trời của họ.

Ngườt ta cũng có thể dùng cái quyền năng đó để xua đuổi những tư tưởng xấu xa và những ác ý của thiên hạ nhắm vào mình. Nếu bạn muốn, bạn cũng có thể tăng cường cái tia bạch quang thiêng liêng đó, gán cho nó cái quyền năng của Thượng Đế, nới rộng và biến đổi tinh lực của cái tư tưởng xấu nhắm vào mình bạn, rồi đặt cho nó trong tấm gương phản chiếu của bạn và gởi lại cho đối phương với tốc lực của ánh sáng.

Những tư tưởng nhắm vào mình bạn với một nhịp độ rung động hạ thấp, bị trả lại dưới hình thức một tia bạch quang tinh anh. Mãnh lực của các tia sáng này mạnh mẽ đến nỗi, khi nó trở về nguyên quán, nó có thể tiêu diệt thể xác của người đã phóng ra cái tư tưởng xấu xa nói trên. Dầu bạn có biết hay không biết cái nguồn gốc hay địa điểm xuất phát luồng tư tưởng đó, nó vẫn quay trở về nguyên quán một cách chắc chắn.

Người ta có thể biến đổi cái quyền năng của Thượng Đế và phóng nó ra ngoài với một cường độ mãnh liệt không thể cưỡng nổi. Đó là những tia bạch quang mà các bạn nhìn thấy toát ra từ thân mình thôi.

Thân thể các bạn cũng toát ra những tia sáng đó, nhưng không mạnh bằng. Khi các bạn tiếp tục sử dụng cái quyền năng đó và kết hợp nó với cái Nguyên Lý Sáng Tạo, các bạn sẽ tăng thêm cường độ ánh sáng của mình và có thể dùng nó để thực hiện mọi điều ước vọng tốt lành tùy ý muốn.

Bây giờ, bạn hãy tăng cường tia bạch quang đó, và hãy gởi đến nó cái sức mạnh của Thượng Đế. Hãy truyền vào nó một mãnh lực gấp mười ngàn lần hay mười triệu lần cái sức mạnh của tư tưởng mà người ta nhắm vào bạn. Kế đó, hãy để cho tia bạch quang ấy trở về nguyên quán của nó.

Khi người muốn hại bạn nhận tia sáng ấy trở về và chấp nhận nó như một vật của Thượng Đế, thì mọi ác ý sẽ được xóa bỏ, tha thứ và quên lãng. Không gì có thể làm hại bạn hay làm hại kẻ đã phóng ra luồng tư tưởng xấu. Bạn và người ấy, cả hai đều bình đẳng trước Thượng Đế. Cả hai đều là một, và một sự điều hòa tuyệt đối đã thay thế cho sự bất hòa.

Trái lại, nếu người phóng ra luồng tư tưởng xấu không nhận tia bạch quang mà bạn đã gởi trả về nguyên quán với một cường độ tăng lên gấp bột phần, thì thể xác y sẽ bị tiêu diệt. Nếu người ta có thể cho tia bạch quang ấy hoàn tất công việc của nó, nó sẽ hủy diệt mọi thứ rung động trái ngược. Nếu cưỡng lại nó, thì đương sự chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Y tự chuốc vào mình sự chống đối của toàn thể sức mạnh sáng tạo.

Dưới khía cạnh đó, bạn tiêu biểu cho Thượng Đế bằng cách ban rải sức mạnh thiêng liêng, theo định luật dĩ tức báo oán. Nhưng dẫu cho với thái độ đó, bạn hãy thành thật, nhỏ nhoi, khiêm tốn, và đừng xét đoán ai cả. Hãy đặt trọn hết tình thương trên luồng bạch quang đó và coi nó như là tình thương của Thượng Đế.

Khi bạn làm như thế, thì hằng muôn nghìn Thiên Thần sẽ tùng phục theo ý muốn của bạn. Bạn cứ giữ một mực hiền lành, khiêm tốn tuân theo luật Trời và ánh sáng của Thượng Đế, tức sự sống, tình thương, sự tinh khiết và mỹ lệ thiêng liêng trường cửu muôn đời.

Thể xác con người chứa đựng bảy trung tâm bí yếu (tiếng phạn gọi là Chaka = luân xa), có thể sử dụng như những tấm gương phản chiếu. Người ta có thể làm cho chúng chiếu một ánh sáng rực rỡ hơn gấp bội phần bất cứ một ánh sáng giả tạo nào. Khi người ta muốn phát ra ánh sáng đó, thì nó sẽ chiếu ánh sáng vào một cường độ mạnh và có tác dụng lớn lao hơn cả những ngọn đèn điện một trăm watts.

Nếu người ta có thể làm tất cả bảy trung tâm đều được chiếu sáng cùng một lượt, thì người ta được hoàn toàn bao phủ bởi một tấm giáp sắt không thể chọc thủng. Thể xác người ấy sẽ chiếu bằng một thứ ánh sáng mạnh hơn gấp bội ánh sáng của ngôi mặt trời giữa trưa. Người ấy đứng trước đấng thiêng liêng, sáng tạo ra muôn loài...

Trong khi những tư tưởng đó đến với chúng tôi bằng nhưng âm ba rung động, ánh sáng hào quang toát ra từ đức Jesus và các vị siêu nhân trở lên chói lòa. Những làn sóng tư tưởng ấy lại tiếp tục:

- Nếu bọn cướp này vẫn ngoan cố trong ý định đánh phá thôn ấp, rốt cuộc chúng sẽ tự tiêu diệt lấy nhau. Cơ hội đã được đưa đến cho họ rời khỏi làng mà không làm hại đến dân chúng. Nếu họ không đón nhận cơ hội ấy, họ sẽ quay lại để giết nhau.

Người ta không thể mưu toan tiêu diệt kẻ đồng loại mà không chuốc lấy tai họa tương tự vào mình. Chúng ta chỉ gửi đến cho bọn cướp ấy luồng bạch quang tinh khiết của tình bác ái thiêng liêng. Nếu họ đáp lại tình thương bằng sự hận thù, sự phản bội hay sự báo oán, thì họ sẽ tự mình biến đổi luồng bạch quang tinh anh đó thành một ngọn lửa nó sẽ tiêu diệt lấy họ.

Các bạn đừng sợ sệt gì cả. Chúng ta chỉ ban rải tình thương, nhưng chúng ta không thể ép buộc họ chấp nhận. Nếu bọn cướp đến đây với tình thương, thì sẽ không có sự xung đột. Dầu sao, thì chính nghĩa của chúng ta đã thắng.

Đến đây, chúng tôi được thông báo rằng một người đem tin đã đã đến gần làng. Chúng tôi bước ra đón tiếp y và được cho biết rằng bọn cướp đã chấm dứt việc đánh phá và cắm trại một cách yên ổn ở cách đó ba mươi lăm cây số. Từ khi có sự kêu gọi cứu trợ của dân làng, họ đã ngưng mọi con tin trong trường hợp có sự kháng cự bằng võ lực.

Theo người sứ giả đem tin tức, thì có tin đồn rằng bọn cướp sẽ tấn công làng vào ngày hôm sau hay hôm sau nữa, nếu của cải kho tàng không được đem nạp cho họ. Y cũng chuyển đạt lời chào hỏi của các tù binh. Tất cả dân làng đều tình nguyện hy sinh tánh mạng để bảo vệ làng, nhưng người sứ giả được cho biết sự hy sinh đó không cần thiết.

Y được mời hãy trở về nhà với những lời cám ơn và sự biết ơn sâu xa của dân làng về những cố gắng của y vì mục đích bảo vệ chung cho tất cả mọi người.

Sáng ngày hôm sau, chúng tôi tìm thấy lại những sự hứng khởi trong việc làm, và mọi tư tưởng sợ sệt đều đã biến mất. Ngày kế đó, chúng tôi đang nghiên cứu vài hình tượng khắc trên tảng đá của hang núi, thì chúng tôi bèn lưu ý đến người canh tuần làng.

Người này đứng ở phía bên kia hang núi trên một vị thế cao hơn chỗ chúng tôi đứng, và như vậy y có thể quan sát khắp trên một vùng rộng lớn hơn nhiều. Nhìn xuyên qua ống dòm, chúng tôi thấy người ấy đang làm dấu báo hiệu cho làng.

Không bao lâu, chúng tôi thấy dân làng chạy náo loạn tứ phía và hiển nhiên là họ tìm nơi trú ẩn trong những hang động sâu thẳm của vùng núi non hẻo lánh này. Tất cả đều tỏ vẻ vô cùng xao xuyến náo động.

Chúng tôi lắng tai nghe thấy tiếng ồn ào như sấm động từ đằng xa vọng lại của bọn cướp đang tiến tới. Một người trong chúng tôi trèo lên cao hơn một chút nữa để quan sát tình hình. Y kêu gọi chúng tôi và nói nhìn thấy một đám mây bụi bay lấp đầu dậy lên bởi đoàn kỵ mã đang phi nước đại tiến về phía hang núi.

Chúng tôi đem cất dấu đồ dụng cụ của mình trong một khe đá ở gần bên, và tìm nơi trú ẩn trong những khe núi chớn chở, từ đó chúng tôi có thể quan sát những động tịnh của bọn cướp.

Đoàn kỵ mã ngừng lại ở chỗ cửa vào hang núi. Năm chục tên cuớp đi tiên phong phi ngựa tiến lên phía trước, kế đó tất cả bọn đều quất ngựa phóng nước đại chạy vào hang. Tiếng vó ngựa chạy dồn dập cùng với tiếng hò hét vang rền hợp thành một khúc hòa tấu rùng rợn khôn tả.

Chúng tôi chiếm một vị thế rất thuận lợi, vì những vác núi đều hầu như dựng đứng như vách thành. Chúng tôi có thể nhìn xuống dưới hang núi và xem thấy bọn cướp tiến tới như nước vỡ bờ, không có gì ngăn cản nổi.

Đoàn quân tiên phong đã vượt khỏi chỗ vị trí chúng tôi, và những người kỵ mã đi đầu đoàn trung quân tiến lên rất mau. Chúng tôi lấy ống dòm nhìn trở lại vế làng thì thấy dân làng đang bị náo loạn trong cơn khủng khiếp.

Chúng tôi cũng thấy một thàn viên trong bọn chúng tôi đứng trên bao lơn của ngôi đền. Y ngưng làm việc để nhìn xem bọn cướp đang tiến tới. Kế đó y quay lại và nhìn về phía cửa vào sảnh đường chính của ngôi đền. Đức Jesus xuất hiện từ trong cửa đó bước ra. Ngài đi thẳng đến bao lơn và đứng yên một lúc, trong một tư thế oai nghiêm như một pho tượng.

Tất cả những ống dòm của chúng tôi lẽ tự nhiên là nhắm tập trung về Ngài. Bao lơn cách xa chỗ chúng tôi trú ẩn đến năm cây số và ở độ ba trăm thước cao hơn. Chúng tôi nhận thấy Ngài đang nói chuyện và lời nói Ngài vọng đến chúng tôi thật rõ ràng.

Người đoàn viên đứng trên bao lơn bèn xuống để ghi chép lời ngài tốc ký. Tôi cũng làm y như vậy. Một sự phối kiểm về sau đó chúng tôi biết rằng lời nói của đức Jesus lấn át hẳn tiếng ồn ào của bọn cướp đang phi ngựa tiến tới. Tuy nhiên, chúng tôi được biết rằng Ngài không hề nói lớn hơn lúc bình thường, cũng không hề thay đổi âm điệu thường nhật của Ngài.

Khi đức Jesus vừa cất tiếng nói, tất cả dân làng đều hoàn toàn im lặng. Dưới đây là những lời ngài nói mà về sau chúng tôi có đưa cho Ngài duyệt xét. Tôi chỉ có một ước vọng sâu xa nhất, là đừng bao giờ quên những lời nói ấy, dẫu cho tôi phải sống đếm mười ngàn năm:

Ánh Sáng

"Trong khi tôi đựng một mình trong cơn im lặng vĩ đại của Chúa Trời, một ánh sáng tinh anh chiếu diệu trong lòng tôi và thấm nhuần mỗi nguyên tự của thân thể tôi. Sự Sống, Tình Thương, Sức Mạnh, Sự Tinh Khiết, Sự Mỹ Lệ và Toàn Thiện ngự trị nơi tôi một cách tuyệt đối.

Trong khi tôi nhìn vào trung tâm của ánh sáng đó, tôi thấy một ánh sáng khác, lỏng, dịu, trắng vàng, và tinh anh sáng suốt một cách tuyệt diệu, nó nuôi dưỡng và phát huy ánh lửa mơn trớn của luồng ánh sáng vĩ đại nói trên. Bây giờ tôi biết rằng tôi là một với Chúa Trời, và hợp nhất với toàn thể vũ trụ của Ngài...



3. Bức Tường Rào Màu Nhiệm



Khi đức Jesus vừa nói xong, một tia bạch quang sáng rỡ chói lòa tự nơi bí huyệt của quả tim ngài phóng ra xa đến tận hang núi và chấm đất ở chỗ khúc quanh về bên trái, ngay trước mặt đoàn quân tiên phong của bọn cướp. Một bức tường trong giây lát đã dựng lên như vách thành ở ngay chỗ ấy, với những mũi nhọn tủa ra chơm chởm tỏ ra như những mũi tên.

Những con ngựa ở hàng đầu đang phóng nước đại như bay tới trước, hốt nhiên nhảy dựng lại thình lình làm cho một số lớn những kỵ mã tiên phong bị hất văng xuống đất. Nhiều con ngựa nhảy dựng và đứng lại cửa hang, đi ngược chiều với toàn thể bọn cướp ở đạo trung quân. Khi chúng đến gần đạo quân này, những kỵ mã còn chưa bị té ngựa cố gắng kiềm hãm ngựa của họ, nhưng vô ích.

Cùng với những con ngựa vô chủ phóng tới như điên, họ chạm trán với bọn cướp đi trung quân, là, cho những hàng đầu của đạo quân này bị lỡ trớn và đứng khựng lại. Những hàng kế đó, không biết sự hiểm nguy, vẫn phóng nước đại tiến vào đám người hỗn độn nói trên, và trong hang núi ấy hiện ra cái cảnh tượng của một đám người ngựa lộn xộn và mất trật tự, không còn hàng ngũ kỷ cương gì cả.

Trong một lúc, có sự im lặng của nhà mồ, chỉ gián đoạn bởi những tiếng thét rú lên của những ngưởi kỵ mã trong cơn khủng khiếp và tiếng ngựa hí thất thanh. Kế đó diễn ra một cảnh tượng rùng rợn ở ngay tại chỗ mà đoàn kỵ mã tiên phong hoảng kinh quay đầu trở lại, bị chạm trán với những hàng quân đầu tiên của bọn cướp ở đạo trung quân.

Những con ngựa không người cưỡi, trong cơn hoảng hốt, đã phóng vào đám rừng người, làm cho một số lớn những người kỵ mã bị trật yên và hất văng xuống đất. Những con ngựa của họ trờ thành vô chủ, không người kiềm chế, và càng làm tăng thêm sự hỗn loạn.

Chúng nó bắt đầu hí vang, nhảy vọt bên tả bên hữu, và thét rú lên từng hồi trong cơn hãi hùng và khủng khiếp tụt độ. Kế đó, cơn hỗn loạn cơn hỗm loạn lan tràn khắp cả bọn cuớp đang bị lúng túng và bế tắc lưu thông trong hang núi ở phía dưới chúng tôi.

Thình lình chúng tôi thấy những nguời kỵ mã tuốt gươm trần ra khỏi vỏ và chém loạn xạ tứ phía. Những người khác rút súng bắn vào đám người ngựa với ý định khai đàng huyết lộ để thoát thân. Không bao lâu, cảnh tượng đó đã biến thành một trận giặc thư hùng, chỉ có những kẻ mạnh nhất sống sót.

Trận giặc chấm dứt bằng sự đổ xô nhau để chiếm những khoảng trống, giữa những kẻ có cái may mắn thoát khỏi cơn chém giết vừa qua. Họ rời khỏi hang núi và để lại những đống xác người ngựa đã chết hoặc bị thương.

Chúng tôi hối hả đi xuống để tìm cách trợ giúp tối đa cho những kẻ bị thương. Tất cả dân làng và vị siêu nhân đều tiếp tau với chúng tôi. Những sứ giả được gửi đi khắp bốn phía để cần trợ giúp.

Chúng tôi làm việc ráo riết suốt đêm và cho đến sáng ngày hôm sau. Đức Jesus và các Chân Sư bổn thân săn sóc những kẻ bị thương khi chúng tôi vừa đem họ ra khỏi đống thịt người ngựa hỗn tạp, có kẻ sống lẫn kẻ chết. Khi chúng tôi cứu trợ tất cả cho đến người cuối cùng, chúng tôi trở về quán trọ để ăn sáng.

Vừa bước vào nhà trọ, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy tên Cướp Đen đang ngồi nói chuyện với đức Tuệ Minh. Cho đến khi đó, chúng tôi không hề hay biết gì về sự có mặt của đức Tuệ Minh. Ngài nhận thấy cái nhìn ngạc nhiên của chúng tôi và nói:

- Chúng tôi sẽ nói chuyện lại sau.

Sau bữa ăn sáng, chúng tôi bèn ra ngoài cùng với Tô Mặc. Tô Mặc cho biết đức Tuệ Minh và y đã tìm thấy tên Cướp Đen bị thương nặng và không thể cử động được nữa, vì tên cướp bị ngựa đè lên mình. Hai vị đã kéo tên cướp ra và chở y đến một nơi tạm trú, tại đây y được dành cho tất cả mọi tiên nghi có thể tìm được.

Kế đó hai vị kêu gọi đến sự giúp đỡ của bà chủ nhà trọ chúng tôi và giao tên cướp cho bà chăm sóc. Khi những vết thương của y được băng bó xong, y yêu cầu bà chủ nhà cầu xin với đức Chúa Trời cho biết y phải làm gì để được cứu rỗi. Y cũng xin bà dạy cho y biết đọc kinh cầu nguyện.

Bà hỏi y có muốn được bình phục sức khỏe chăng. Y đáp:

- Có, tôi muốn được lành mạnh hoàn toàn cũng như bà.

Bà chủ nhà nói:

- Bây giờ anh cầu xin được có sức khỏe, lời cầu xin của anh đã được đáp ứng. Anh sẽ được hoàn toàn lành mạnh.

Kế đó, tên cuớp nằm thiếp đi trong một cơn ngủ mê li bì. Đến nửa đêm, những vết thương của y đã hoàn toàn khép kín và không để lại một cái thẹo nào. Tô Mặc đã nhận thấy điều này khi y đi canh tuần lúc ban đêm. Tên cuớp bèn đứng dậy, mặc y phục vào, và tình nguyện giúp tay cứu trợ cho những kẻ thoát nạn.

Chúng tôi cũng thấy một số đông bọn cướp được hoàn toàn bình phục mà trước đó chúng tôi nghĩ rằng họ không sao qua khỏi. Khi công việc cứu trợ kết thúc, tên Cướp Đen len lỏi trong đám đồng bọn bị thương và cố gắng hết sức để an ủi và trấn tĩnh tinh thần họ.

Nhiều người giống như những con thú bị gài bẫy, họ lo sợ bị tra tấn, đến chết, vì đó là cách đàn áp những kẻ bị sa lưới theo phong tục bổn xứ. Ý nghĩ đó ăn sâu vào trong trí óc họ đến nỗi họ không có một sự phản ứng tốt lành nào đối với những cách đối xử nhân đạo mà người ta dành cho họ.

Họ sợ rằng những cố gắng của chúng tôi để trợ giúp cho họ mau bình phục sức khỏe, chỉ có mục đích là để cho chúng tôi có thể tra tấn họ lâu dài hơn. Sau cùng, tất cả đều đã khỏi bịnh, tuy rằng một số ít người kéo dài bịnh tật dây dưa trong nhiều tháng với niềm hy vọng rõ rệt không dấu diếm rằng nhờ đó họ có thể đình hoãn lại ngày tra tấn của họ!

Ít lâu sau đó, tên Cướp Đen quy tựu tất cả những tên "Cựu thương binh" nào tình nguyện theo để thành lập một toán quân để bảo vệ làng mạc chống lại những cuộc tấn công của bọn cướp về sau này, y cũng chiêu mộ được nhiều dân làng gia nhập vào toán quân đó.

Về sau chúng tôi biết rằng kể từ ngày đó, những bọn cướp không còn đánh phá vùng này nữa. Hai toán đoàn viên của phái đoàn chúng tôi rốt cuộc đã vượt qua vùng lãnh thổ này trên lộ trình của họ đi đến vùng sa mạc Gobi.

Tên Cướp Đen và đồng bọn đã hộ tống an ninh cho phái đoàn trong vùng địa phận của họ, và vùng lân cận, ít nhất trên bảy trăm cây số đường trường, và không người nào muốn nhận tiền thù lao về công việc đó.

Chúng tôi còn thường nghe nói về tên Cướp Đen. Y đã phát triển nhiều công việc từ thiện và cứu trợ trong toàn thể vùng này và dành trong cuộc đời để giúp đỡ cho dân chúng được sống yên lành hạnh phúc mà không hề nhận tiền bạc của ai.

Ngày thứ hai sau khi bọn cướp đã bị tiêu diệt, vào lúc trưa, chúng tôi đã săn sóc tất cả những kẻ bị thương và đã đi quan sát một lần cuối cùng để biết chắc rằng không một người nào còn bị bỏ sót lại trong hang núi giữa đống xác người ngựa nằm ngổn ngang la liệt như bãi chiến trường.

Trong khi chúng tôi trở về quán trọ để ăn điểm tâm và nghỉ ngơi, một người trong bọn cất tiếng lên cái ý nghĩ nó vẫn ám ảnh chúng tôi từ nhiều giờ:

- Tại sao sự chết chóc rùng rợn và hủy hoại sinh mạng khủng khiếp như thê?

Chúng tôi mệt đừ, và cơn xúc động đã làm cho chúng tôi bị hoàn toàn kiệt sức. Vì bọn cướp gây cho dân làng một sự sợ hãi kinh hoàng tột độ, nên tất cả mọi cố gắng cứu trợ đều đổ dồn lên vai chúng tôi, nhất là trong những giờ phút đầu tiên.

ẫu cho rằng khi chúng tôi đã lôi hết những kẻ bị thương ra khỏi đống xác người ngựa nằm ngổn ngang chồng chất lên nhau, chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn để thuyết phục dân làng ra tay trợ giúp những kẻ bị thương. Họ tuyệt đối không thấy có một lý do nào để giúp đỡ chúng tôi cứu mạng những kẻ toan giết hại đến sinh mạng của họ.

Nhiều người cảm thấy ghê tởm khi phải sờ vào một xác chết. Nếu họ không có một sự kính trọng đặc biệt nào đối với các vị Chân Sư, thì họ đã rời khỏi vùng này ngay lập tức mà không hẹn ngày trở lại.

Dầu sao, chúng tôi đã quá mệt mỏi và rất đau lòng, vì đó là cái kinh nghiệm khủng khiếp nhất trong đời chúng tôi. Khi cơn xúc động của những ngày đầu tiên đã lắng dịu, chúng tôi lại bắt tay vào việc một cách hào hứng hăng say.

Mùa lễ Phục Sinh đã sắp đến và chúng tôi định kết thúc công việc siêu tầm ở làng này trước khi trở về Ấn Độ. Công việc được hoàn thành rất mau chóng. Cuộc chuẩn bị cuối để trở về trước ngày lễ Phục Sinh, và chúng tôi định dành trọn ngày Chúa Nhật để nghỉ ngơi dưỡng sức.

Khi bước ra cửa để đi tới đền trước lúc bình minh, chúng tôi gặp Chandersen ngồi trong sân quán trọ. Y đứng dậy để đi theo chúng tôi, và nói với Tô Mặc sẽ gặp chúng tôi tại chánh điện.

Y đề nghị rằng chúng tôi nên trở về Ấn Độ qua ngã Lhassa, thủ đô Tây Tạng, kế đó qua Mouktinath do truông núi Kandernath trên dãy Tuyết Sơn rồi từ đó, chúng tôi sẽ đi tới Darjeeling.

Về đến làng, chúng tôi thấy mọi việc đều chuẩn bị sẵn sàng chờ chúng tôi lên đường. Một số khá đông dân làng đã đi trước để vạch đường trên các truông núi bị bao phủ dưới một lớp tuyết dày đến ba bốn thước tây. Truông núi mà chúng tôi mà chúng tôi sẽ vượt qua xa cách đến tám mươi cây số và trên một chiều cao độ bốn ngàn thước.

Phần lớn vùng này núi non chớn chở khó vượt qua. Dân làng có thói quen vạch một con đường mòn và nện tuyết ém xuống cho chặt một ngày trước khi lên đường. Tuyết được ép chặt trên đường lộ sẽ đông đặc lại khi ban đêm và người ngựa sẽ đi dễ hơn.

Chúng tôi thức dậy rất sớm trước khi trời sáng và nhận thấy rằng mọi chi tiết đã được chăm sóc chu đáo. Dật Sĩ và một người hướng đạo bổn xứ sẽ đi theo chúng tôi. Tất cả dân làng đều tề tựu đông đủ để tiễn đưa chúng tôi lên đường. Chúng tôi lấy làm tiếc mà phải rời khỏi làng, tại đây chúng tôi đã trải qua hai mùa đông tốt đẹp.

Dân làng là những người hồn nhiên chất phát và dễ thương. Để tỏ lòng ưu ái, nhiều ngườ trong bọn họ đã tiễn đưa chúng tôi trên bảy tám cây số rồi mới trở về. Khi đó chúng tôi mới từ giã họ một lần cuối cùng và tiếp tục lộ trình trải qua nhiều tháng trên đường trở về Ấn Độ. Nhưng chúng tôi còn phải trải qua nhiều tháng trên đường về trước khi nhìn thấy lại những ngọn núi đầu tiên của dãy Tuyết Sơn.

Theo lộ trình đã định, chúng tôi đi xuống thung lũng Giamanuchu, đi dọc theo một con sông đến truông Tonjnor Jung, rồi đi vòng theo con sông Brahmapoutre để đến Lhassa, thủ đô Tây Tạng.

Khi chúng tôi gần đến Lhassa, thì đã thấy nóc điện Potala, tức cung điện của vị Đạt Ma Lạt Ma, chúa tể xứ Tây Tạng, nhô lên từ đằng xa như một viên ngọc quý duy nhất của thành phố này.

Lhassa là thủ phủ chính trị của Tây Tạng, nhưng còn vị lãnh đạo tinh thần tối cao là vị Phật Sống, tức là vị chúa tể cầm quyền cai trị về mặt đạo đức tâm linh từ một trung tâm hyền bí ẩn dấu gọi là Shamballa, hay Bạch Ngọc Cung.

Chúng tôi rất mong ước được viếng thăm trung tâm huyền bí và linh thiêng này, mà người ta nói rằng được dấu rất sâu dưới lòng đất ở vùng sa mạc Gobi.

Chúng tôi vào thành phố Lhassa cùng với đoàn người hộ tống. Người ta đưa chúng tôi đến những nhà trọ có chuẩn bị sẵn đủ mọi thứ tiện nghi có thể tìm được. Một đám đông kéo đến trước nhà trọ, đứng hằng giờ để nhìn xem chúng tôi, vì sự hiện diện của người da ở tại đây là một cảnh tượng hiếm có.

Chúng tôi được mời đến viếng tu viện Lạt Ma Giáo vào ngày hôm sau lúc mười giờ. Chúng tôi được yêu cầu bày tỏ những điều ước muốn của mình, và mọi người sẽ vui lòng giúp đỡ chúng tôi về mọi mặt.

Bất cứ chúng tôi đi đâu, đều có một nhóm, người đi theo sau lưng. Một lính canh được đặt trước cửa nhà trọ để đuổi những kẻ tò mò, vì dân chúng thủ đô Lhassa có thói quen bước và nhà người lạ mà không báo trước. Sự có mặt của chúng tôi là một điều mới lạ duy nhất trong đời họ, và chúng tôi không thể trách họ về sự tò mò nói trên.

Khi một người trong chúng tôi đi ra ngoài một mình, những kẻ tò mò bao vây chung quanh với ý định rõ ràng là để nhìn xem cho tận mắt, sờ mó tận tay để biết chắc rằng y quả là một người thật, và đôi khi sự quan sát ấy tỏ ra quá đỗi sỗ sàng đối với nạn nhân!

Ngày hôm sau chúng tôi thức dậy rất sớm và sửa soạn đi đến tu viện để gặp vị Sư Trưởng. Khi chúng tôi đi gần đến tu viên, vị Sư Trưởng bước ra tiếp đón chúng tôi. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy: Cùng đi với Sư Trưởng, lại có cả đức Tuệ Minh và đức bà Mã Ly. Đó là một sự tao ngộ lý thú. Chúng tôi bước vào tu viện và nghỉ lại đó.

Sau những cuộc đàm luận lý thú về Đạo Lý vớ Sư Trưởng, chúng tôi bàn về việc lên đường đi Shamballa.Vị Sư Trưởng hỏi rằng cùng đi với chúng tôi được chăng. Một trong các vị siêu nhân đáp lại rằng người có thể đi không khó nếu người có thể rời xác phàm và trở về nhập xác tùy ý muốn.

Dầu sao, nhóm các vị Chân Sư sẽ đi Shamballa ngay tối hôm ấy. Chúng tôi đồng ý rằng các ngài sẽ tựu họp tại nhà trọ của chúng tôi vào lúc xế chiều và Tô Mặc sẽ cùng đi với các ngài. Thật vậy, các ngài đã tựu họp tại đó sau khi chúng tôi trở về nhà trọ. Sau một cuộc nói chuyện ngắn, các ngài bước ra cửa và chúng tôi không còn gặp lại các ngài trong nhiều ngày.



4. Yết Kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma



Trưa ngày hôm sau, chúng tôi được thông báo cho biết rằng đức Đạt Lại Lạt Ma sẽ tiếp kiến chúng tôi tại biệt điện.

Vị Sư Trưởng đến ngay chiều hôm đó để đưa cho chúng tôi những chỉ thị về cuộc yết kiến này mà chúng tôi phải chờ đợi tôi được dành cho cái đặc ân này ngay sau khi một sứ giả đem tin tức trở về cho đức Thái Tuế (một danh hiệu của đức Đạt Lai Lạt Ma biết rằng cuộc thăm viếng của Bạch Ngọc Cung (Shamballa) đã diễn ra một cách tốt đẹp.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng được thông báo về những sự diễn biến đã xảy ra trước đây tại một làng, khi mà một ngôi nhà nhỏ tự nhiên mọc lên một cách mầu nhiệm.

Chúng tôi cố gắng gây cho ngài một ấn tượng tốt đẹp đến mức tối đa, vì chúng tôi đã xin phép để theo dõi cuộc khắp nơi trong xứ. Chúng tôi được biết rằng vị thống đốc của tỉnh sẽ đến trước giờ trưa và đã thông báo cho biết, do một viên sứ giả đem tin, rằng ngài sẽ giúp đỡ chúng tôi tất cả quyền hạn của ngài.

Đó thật là một sự ngạc nhiên bất ngờ. Chúng tôi thức dậy sớm và đi cùng với một nhóm tùy tùng đến yết kiến xã giao vị thống đốc. Người tỏ vẻ rất hài lòng về cử chỉ này và mời chúng tôi cùng đi với người. Khi chúng tôi và vị thống đốc đến nơi, chúng tôi được đưa vào gian phòng dành cho quan khách tại biệt điện.

Từ đó, chúng tôi đi thẳng đến một phòng riêng để làm những cuộc lễ đầu tiên để chuẩn bị cho cuộc yết kiến với đức Đạt Lai Lạt Ma.

Khi chúng tôi đến nơi, ba vị Lạt Ma cao cấp đã ngồi trên những chiếc ghế cao có lót nệm dày, trong khi những vị những vị Lạt Ma cấp dưới ngồi dưới đất trong tư thế nhập thiền (Samadhi).

Hai vị Lạt Ma mặc áo đỏ đứng trên những chiếc ghế đẩu và điều khiển khúc thánh ca hợp tấu. Vị Sư Trưởng bạn chúng tôi thì ngồi trên chiếc ngai có che lọng theo nghi lễ chờ viên thống đốc đến.

Sân ngoài của tu viện được trang hoàng lịch sự trong dịp này. Những bức tranh tuyệt đẹp trình bày những cảnh tượng thành lập tượng lịch sử diễn ra từ năm 1417 khi đức Tsong Kappa thành lập môn phái Phật Giáo Thống Nhứt ở Tây Tạng, mà Lhassa là trung tâm chính yếu.

Và lúc sau đó, vị thống đốc cùng đoàn tùy tùng bước vào và đi thẳng đến chỗ ngồi của vị Sư Trưởng, vị này cũng đã từ trên ngai bước xuống. Cả hai đều đứng chung một chỗ để tiếp đón chúng tôi đến phòng khách của đức Đạt Lai Lạt Ma.

Tòa sảnh được trang hoàng với những tấm thảm bằng lụa treo trên vách rất lộng lẫy, và với những bàn ghế bằng gỗ quý đánh bóng rất đẹp.

Sau khi được đưa vào phòng khách, chúng tôi quỳ xuống một lúc đức Thái Tuế rồi mới đứng dậy, và chúng tôi được mời ngồi. Vị Sư Trưởng thay mặt chúng tôi để chúc mừng Thái Tuế và trình bày mục đích cuộc viếng thăm của chúng tôi. Đức Thái Tuế đứng dậy và mời chúng tôi bước lại gần.

Một vị Lạt Ma hầu cận đưa chúng tôi đến chỗ của mỗi người. Vị Sư Trưởng và viên thống đốc ở hai góc cùng một hàng với chúng tôi. Khi đó, đức Đạt Lai Lạt Ma bước xuống ngai và đứng trước mặt chúng tôi. Ngài cầm lấy một cây quyền trượng (sceptre) do vị quan hầu cận đưa cho ngài, rồi từ từ đi dọc theo hàng của chúng tôi đứng và điểm nhẹ cây quyền trượng lên trán của mỗi người.

Kế đó, vị Sư Trưởng làm thông ngôn, ngài chúc mừng chúng tôi đến xứ Tây Tạng. Ngài nói rằng ngài có hân hạnh tiếp đón chúng tôi như những vị khách trong thời gian chúng tôi lưu lại thành phố này.

Ngài yêu cầu chúng tôi hãy tự coi mình là những vị khách danh dự của quốc gia và dân chúng Tây Tạng trong thời gian lưu trú hiện tại và bất cứ lúc nào trong tương ý định sẽ trở lại xứ này.

Chúng tôi đưa ra cho ngài nhiều câu hỏi và được biết rằng ngài sẽ trả lời vào ngày hôm sau. Ngài mời chúng tôi đến xem những tài liệu và bia đá cổ được lưu trữ dưới hầm biệt điện. Ngài gọi một vị quan hầu cận và truyền khẩu lịnh mà vị quan ấy thông dịch lại, nhưng chúng tôi hiểu rằng chúng tôi được tự do đi lại khắp nơi trong biệt điện mà không có giới hạn.

Kế đó, đức Thái Tuế ban ân huệ cho chúng tôi, bắt tay chúng tôi một cách thân mật, và cho người đưa chúng tôi cùng với vị Sư Trưởng và viên thống đốc về dịch xá an nghỉ. Hai vị này xin phép vào phòng chúng tôi vì họ muốn duyệt xét nhiều vấn đề.

Vị Sư Trưởng nói:

- Có nhiều lý thú đã xảy ra từ khi các bạn đến lưu trú trong làng nhỏ cùng với chúng tôi. Chúng tôi đã xem xét nhiều tấm bia đá cổ trong tu viện và nhận thấy rằng tất cả đều có đề cập đến nền văn minh cổ của xứ Gobi. Chúng tôi tin chắc chắn rằng tất cả các nền văn minh và tín ngưỡng tôn đều xuất xứ từ một nguồn gốc duy nhất.

Chúng tôi không biết rõ căn nguyên và thời đại nào đã sáng tạo nên các bia đá ấy đã ghi lại những tư tưởng của một dân tộc đã từng sống cách đây nhiều ngàn năm. Chúng tôi đã có xem phần tóm lược của bản dịch do vị Lạt Ma xứ Kisou Abou dịch lại cho chúng tôi. Chính nhờ nó mà tôi đã đạt tới khúc quanh quan trọng của đời tôi vậy.

Sáng ngày hôm, khi chúng tôi đang đợi vị sư trưởng, một sứ giả đem tin đến cho hay rằng đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ tiếp kiến chúng tôi vào lúc hai giờ trưa.

Chúng tôi bèn đi tìm vị Sư Trưởng và gặp nguời ở ngoài cửa tòa sảnh đường, vẻ mặt hân hoan và cầm nơi tay một tờ công lệnh cho phép chúng tôi được tự do lưu thông khắp nơi trong xứ. Sau khi đọc tờ thông điệp mà người sứ giả đã đem đến cho chúng tôi, vị Sư Trưởng nói:

- Đây là một thư mời với mục đích chánh thứ trao tặng tờ giấy thông hành cho các ông.

Khi chúng tôi đã tựu họp lại, có người đề nghị với chúng tôi hãy quên đi ngay lại phòng lưu trữ các tài liệu văn khố. Chúng tôi liền đi tới từng nhóm và khi đến nơi, một sự bất ngời làm chúng tôi ngạc nhiên.

Tại đó chúng tôi thấy có hằng nghìn những pho tài liệu khắc trên những tấm bảng bằng đồng và bằng gang, và trên những tấm bia bằng đá cẩm thạch trắng trạm trổ rất đẹp. Đó là lần đầu tiên mà chúng tôi có dịp quan sát tận mắt loại tài liệu cổ đó.

Vị Sư Trưởng cho chúng tôi biết rằng ông không được biết rõ các bia đá cổ đó, nhưng người ta có nói cho ông biết rằng nguồn gốc của chúng là ở Ba Tư. Ông mới tình nguyện đi tìm một vị Lạt Ma biết rõ tường tận về những bia đá cổ này. Ông ta bèn bước ra ngoài, và chúng tôi bắt đầu cuộc quan sát.

Không một đoàn viên nào trong nhóm chúng tôi biết đọc những chữ cổ khắc trên các bia đá. Chung quanh những bia đá này đều chừa một cái lề, bề rộng chừng năm phân tây, trên lề có khắc hình nổi. Nhiều hình nổi này được khắc bằng vàng ròng cẩn trên đá cẩm thạch, còn những chữ cổ tự cũng cẩn vàng nhưng không khắc cho nổi lên. Những bia đá đều sắp thành từng loạt rất có ngăn nắp quy cũ, và mỗi loạt đều có mang một số thứ tự.

Trong khi chúng tôi đang đắm chìm trong cơn mơ tưởng mông lung, thì vị Sư Trưởng đã về đến nơi cùng với một vị Lạt Ma cao niên, có phận sự coi sóc các văn khố tài liệu. Vị Lạt Ma thuật cho chúng tôi nghe lịch sử các văn bản và tài liệu cổ, và câu chuyện làm cho chúng tôi thích thú say mê, đến nỗi vị Sư Trưởng phải nhắc nhở chúng tôi về cuộc hội kiến với đức Đạt Lai Lạt Ma.

Giờ yết kiến đức Đạt Lai Lạt Ma đã gần đến và chúng tôi tôi phải mặc áo và tràng dự lễ trong dịp này. Khi chúng tôi đến nơi sảnh đường, thì đức Đạt Lai Lạt Ma vừa đi qua dãy hành lang cùng với toán ngự lâm quân bước vào sảnh đường do một cửa lớn. Cách cửa hông vừa mở, chúng tôi lại được đưa vào phòng khách trang hoàng lộng lẫy như đã nói ở trên.

Ở giữa phòng khách, đức Đạt Lai Lạt Ma ngồi trên một sàn cao có trải nệm thêu chỉ vàng. Ngài mặc áo rộng thêu vàng, với khăn choàng đỏ. Vị Sư Trưởng đưa chúng tôi đến trước mặt ngài và lại đứng cùng một hàng với chúng tôi như trước. Sau những lời chào hỏi chúc mừng, đức Đạt Lai Lạt Ma từ trên sàn bước xuống và đứng trước mặt chúng tôi với hai bàn tay đưa lên. Chúng tôi bèn quỳ xuống để cho ngài ban ân huệ.

Khi chúng tôi đứng lên, ngài bước tới trước vị trưởng đoàn chúng tôi, ghim một cái xiên (broche) trên ngực y và nói những lời này do một viên thông ngôn dịch lại:

- Cái xiên này sẽ bảo đảm cho túc hạ và cả phái đoàn, quyền tự do lưu thông khắp nơi trong xứ tùy ý muốn. Do tờ văn bằngnày, quả chân củng bang cho túc hạ tư cách công dân danh dự của xứ Tây Tạng, và nước chàm quận công vùng sa mạc Gobi.

Kế đó ngài từ từ đi dọc theo hàng ngũ chúng tôi và ghim một cái xiên tương tự nhưng nhỏ hơn lên ngực mỗi người và nói:

- Quý vị hãy đeo cái xiên này, nó tượng trưng cho lòng ái mộ của quả nhân. Nó sẽ mở rộng cửa cho quý vị khắp nơi trong xứ Tây Tạng, và có giá trị như một tờ giấy thông hành ở bất cứ nơi nào quý vị muốn đến.

Kế đó, ngài cầm lấy cái hộp ống dài đựng tờ văn bằng từ trên tay vị Sư Trưởng và trao cho vị trưởng phái đoàn. Những cái xiên đều rất đẹp, làm bằng vàng y có cẩn một viên ngọc bích ở giữa.

Trên viên ngọc có khắc bằng hình nổi bức chân dung vô cùng linh động và xem rất giống của đức Đạt Lai Lạt Ma. Đức Thái Tuế và các vị Lạt Ma cận thần đều là hiện thân của sự khả ái và lịch sự, và chúng tôi không biết nói gì khác hơn là thốt ra hai tiếng "Cám ơn".

Kế đó, vị Lạt Ma hầu cận cho biết chúng tôi được mời dự dạ tiệc với Đạt Lai Lạt Ma ngay tối hôm đó tại biệt điện.

Sau bữa tiệc, câu chuyện lại xoay quanh vấn đề về những tấm bia đá cổ lạ kỳ. Đức Đạt Lai Lạt Ma và viên lão thần đảm trách kho tài liệu cổ, do sự trung gian của một viên thông ngôn, thuật lại cho chúng tôi nghe lịch sử của những bia đá cổ mà chúng tôi đã ghi chép cẩn thận và kể lại sau đây.

Những bia đá cổ là do một vị sư Phật giáo tìm ra được trong một cái hầm ở dưới nền đất của một ngôi đền cổ đã điêu tàn ở xứ Ba Tư.

Vị sư thuật lại rằng y được hướng dẫn đến nơi chôn giấu những bia đá cổ do bởi những tiếng hát dịu dàng êm ái vọng ra từ ngôi đền cổ, mà y nghe văng vẳng bên tai trong khi tọa thiền. Bài hát rất du dương và giọng hát rất trong trẻo đến nỗi làm cho nhà sư phải chú ý và tò mò.

Nhà sư bè đi về hướng từ đó vọng ra tiếng ca và bước vào bên trong các hầm đá của một ngôi đề cổ đã đổ nát. Giọng hát dường như xuất phát từ dưới hầm. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, và không thấy có một lối nào đi xuống phía dưới hầm, nhà sư bèn quyết định tìm ra nguồn gốc xuất phát ra giọng hát.

Nhà sư mới tìm những đồ khí cụ thô sơ và bắt đầu đào xới trong những đống gạch ngói đổ nát. Không bao lâu, y tìm thấy một phiến đá lớn dường như là để lót sàn đá dưới hầm. Y cảm thấy thất vọng vì trong một lúc y tưởng rằng đã bị lạc hướng vì tiếng gió rít lên từng hồi trong những tường xiêu vách đổ của ngôi đền.

Trước khi rời khỏi chỗ ấy, nhà sư bèn ngồi tọa thiền trong một lúc. Trong khi y đang nhập định, thì tiếng hát trở lên trong trẻo hơn và rõ ràng hơn trước, và ra lịnh cho y phải tiếp tục cuộc thăm dò, tìm kiếm. Một sự cố gắng dường như phi phàm giúp cho y chuyển động tấm phiến đá lật qua một bên và khám phá ra một con đường hầm.

Khi y chui lọt qua cửa hầm này, thì đường đi được soi sáng dường như bởi một mãnh lực vô hình. Trước mặt nhà sư, chiê1u một vầng ánh sáng chói lòa. Nhà sư bèn đi theo, ánh sáng đó dìu dắt y đến cửa một hang động lớn, khép chặt bằng những cách cửa bằng đá rất kiên cố. Trong khi y đang ngắm nhìn những cánh cửa đá này, thì cánh cửa rít lên một phiến đá lớn từ từ xoay ngang, để lộ ra một cửa vào, y chui xuyên qua đó.

Trong khi y bước qua cửa này, thì giọng hát lại xuất hiện, trong trẻo êm ái dường như người hát đang ngồi ở phía trong. Ánh sáng dừng lại ở chỗ ngoài cửa từ lúc nãy, bấy giờ lại di chuyển vào bên trong động và chiếu sáng khắp nơi. Những tấm bia đá cổ đều dựng đứng nơi đây, trong những khoảng trống đục khoét trên vách tường đá, phủ đầy cát bụi đắp lên đó tự muôn đời.

Nhà sư bèn quan sát vài tấm bia cổ, và liền hiểu ngay sự mỹ lệ và giá trị của những tấm bia này. Y bèn quyết định chờ dịp thổ lộ với ba người tâm phúc tin cậy, để cùng họ tìm cách di chuyển những tấm bia đá ra ngoài và đem cất dấu ở một nơi an toàn.

Y bèn rời khỏi hầm, đặt phiến đá lớn lại nguyên chỗ cũ, lấy gạch ngói vụn nát phủ lên như trước, rồi đi tìm những người bạn tâm phúc sẵn lòng tin tưởng câu chuyện y tường thuật và có đủ can đảm cùng phương tiện để cùng y thực hiện kế hoạch.

Sự tìm kiếm này kéo dài đến hơn ba năm. Hầu hết những người mà y thuật chuyện cho nghe đều tưởng rằng y đã loạn trí, hay điên khùng. Sau cùng, trong chuyến hành hương, y gặp ba vị tăng lữ mà y quen biết trong cuộc đi hành hương tương tự trước đây, và thuật lại chuyện mình cho họ nghe. Họ tỏ ra rất hoài nghi.

Nhưng vào buổi tối đúng vào lúc chín giờ, trong khi họ đang ngồi quây quần chung quanh một ánh lửa trại, thì giọng hát lại bắt đầu một bài ca nói về đề tài những bia đá cổ.

Ngày hôm sau họ chấm dứt cuộc hành hương và bắt đầu cuộc hành trình đi đến ngôi đền cổ, Kể từ đó, giọng kia lại hát mỗi ngày đúng vào lúc chín giờ tối, giọng hát ấy càng nhẹ nhàng khi bốn người du khách đi đường mệt mỏi.

Khi họ đã gần đến ngôi đền cổ điêu tàn, và chuyến hành trình đã sắp kết thúc, thì hình ảnh mảnh mai thanh tú của một đứa trẻ thiếu niên xuất hiện vào lúc một giờ trước lúc giữa trưa và bắt đầu vừa hát vừa hướng dẫn họ đến chỗ ngôi đền.

Khi họ đến nơi, thì phiến đá lớn đã bị cậy bật lên. Họ liền đi theo đường hầm đến chỗ động đá. Những cánh cử tự nhiên mở rộng khi họ đến gần, và họ bước vào động. Chỉ một lúc ngắn ngủi cũng đủ cho các vị tăng lữ nhận biết giá trị của bảo vật này. Họ bèn đi đến một làng cách đó độ một trăm cây số để tìm mua lạc đà và đồ lương thực tiếp tế, để chuẩn bị đem các bia đá cổ đến chỗ an toàn.

Họ mua được mười hai con lạc đà và trở lại ngôi đền cổ và gói gém cẩn thận các bia đá cổ chắc chắn cho khỏi bị hư hỏng dọc đường. Kế đó họ mua thêm ba con lạc đà nữa, và bắt đầu một cuộc hành trình lâu dài đến Peshawar, xuyên qua các nước Ba Tư và A Phú Hãn.

Gần đến Peshawar, các vị tăng lữ mới đem cất giấu đồ bảo vật trong một hang núi hẻo lánh; và để đồ vật nằm yên tại đó trong ba năm. Để giữ gìn các bia đá cổ, một trong các vị tăng lữ luôn thay phiên ngồi tọa thiền trước cửa hang núi. Từ Peshawar họ trở các bia đến Lahnda, trong tỉnh Punjab, và lưu trữ tại đó trong mười năm. Kế đó xuyên qua nhiều giai đoạn chậm chạp từ từ và chậm chạp, đồ bảo vật đã được trở đến đây và lưu giữ trong biệt điện của đức Đạt Lai Lạt Ma.

Như thế tất cả là bốn chục năm đã trôi qua kể từ khi các bia đá được đem đi từ nơi chôn dấu đầu tiên. Từ biệt điện, người ta còn phải chở đồ vật này đến "Bạch Ngọc Cung" (Shamballa), tức là hiện thời nó vẫn đang di chuyển trên lộ trình, chứ chưa thực sự đến chỗ an toàn chỉ định.

Đến chỗ này của câu chuyện lịch sử, một người trợ tá đem bốn tấm bia đá vào phòng, và đặt lên một bàn gỗ giống như cái bàn mà chúng tôi đang ngồi chung quanh, thành thử chúng tôi nhìn thấy các bia đá tận mắt. Khi kim đồng hồ chỉ đúng chín giờ, giọng hát lại trổi lên những âm điệu nhịp nhàng du dương.

Giọng hát vô cùng em dịu, và trong lanh lảnh như đứa trẻ thiếu niên, đại ý nói về Nguồn Gốc thiêng liêng của muôn loài, sự tạo lập vũ trụ và các bầu thế giới do một ý chí thiêng liêng thấm nhuần tất cả vạn vật, cái Nguyên Lý vô biên và vô cùng minh triết cai quản tất cả mọi hình thức trong Vũ Trụ càn khôn, và sự thực hiện Chân Ngã để giúp cho con người có thể thấu đạt cái Nguyên Lý vô biên và hỗn hợp với Thượng Đế.

Những cuộc sưu tầm ráo riết và công phu hơn có lẽ sẽ chứng minh rằng những bia đá cổ này chỉ là những bổn sao được tạo nên để bảo tồn các tài liệu cổ trên các bản chánh nay đã bị thất lạc. Nếu giả thuyết này đúng, thì các bia đá này đã được khắc vào thời kỳ sơ khai của nền văn minh cổ Ấn Độ.

Dầu sao, theo chỗ chúng tôi biết, thì thế giới văn minh hiện đại không có tài liệu cổ nào giống như thế. Những bia đá cổ với những tài liệu khắc trên đó vốn xuất xứ từ đâu mà ra, nếu không là từ cái Nguồn Gốc duy nhất?

Bốn tấm bia đá cổ vẫn còn đó, đang được dựng lên ở trước mặt chúng tôi, và mỗi tấm bia đáng giá cả một kho tàng của cải của một ông vua.

Câu chuyện tường thuật trên đây có vẻ hơi đi ra ngoài về mục đích chính yếu, nhưng chúng tôi thấy cần phải trình bày một cách vắn tắt tối đa, những chuyện xảy ra ở nhiều nơi cách biệt rất xa, mà người ta đã tìm thấy những tài liệu có liên hệ trực tiếp đến những nền văn minh cổ xưa nhất thế giới.

Chúng tôi cũng sẽ nói sơ qua về những nền nghệ thuật và văn hóa của họ, cùng những tư tưởng và động lực đã giúp cho nền văn minh ấy duy trì được sự sinh tồn của họ ở một trình độ rất cao.

Vài nhóm người rất hiếm vẫn tiếp tục thực hành đời sống tâm linh cao cả. Những nhóm người đã một phần nào trở nên những ngọn đuốc soi đường cho nhân loại đang tiến hóa đến một cao điểm mới của lịch sử văn minh thế giới.

Hãy còn chờ xe phải chăng những thiếu sót lỗi lầm của một thiểu số, được tăng cường bởi đa số nhân loại, có thể nào lại một lần nữa nhận chìm thế giới và lôi cuốn phần đông loài người vào trong quên lãng trong một thời gian lâu dài.

Tấm mức quan sát của chúng tôi cho thấy rằng hiện tại có tiềm lực chứa đựng tất cả tương lai. Chỉ có những công trình của hiện tại mới tạo nên tương lai. Nếu hiện tại đượ hoàn hảo, thì tương lai cũng không khỏi được hoàn hảo. Không phải là sự hoàn hảo của hiện tại được nối tiếp theo trong tương lai. Chính cái ý thức về sự hoàn hảo hiện tại nó đưa đến cái ý thức của một tương lai toàn vẹn.

Dù chúng tôi đi đến đâu, chúng tôi cũng khám phá những dấu tích của một dân tộc, ở một thời kỳ nhất định nào đó, đã hoàn toàn sống trong hiện tại. Trọn cái tương lai của dân tộc ấy hoàn toàn phù hợp hoàn toàn đúng đắn với những công trình hiện tại của họ, đến nỗi tương lai của họ không là cái nguồn gốc của lời răn:

"Các ngươi chớ băn khoăn lo lắng gì về tương lai." Họ áp dụng điều này: "Hãy sống với hiện tại một cách thành thật, rồi tương lai cũng sẽ tốt đẹp an toàn."

Tư tưởng ấy luôn luôn tái xuất hiện trong những phong tục, tập quán, những bài dân ca, và những kinh cầu nguyện của họ.

Chúng tôi cũng nghiên cứu những chuyện huyền thoại về những âm binh vùng "Biển Cát," theo như danh từ của người Trung Hoa thường gọi vùng sa mạc Gobi. Ở nhiều nơi trên sa mạc, người ta nghe có tiếng nói dị kỳ. Nhiều khi chúng tôi nghe trong khoảng không, có tiếng người kêu gọi đúng tên họ chúng tôi.

Có khi chúng tôi nghe thất tiếng động ồn ào huyên náo của một đám đông người dường như ở rất gần. Chúng tôi cũng thường nghe tiếng đàn do nhiều loại nhạc khí khác nhau, kèm theo với những giọng hát rất dịu dàng thánh thót. Chúng tôi đã từng nhìn thấy rất nhiều ảo ảnh và nghe tiếng động của những cồn cát di chuyển.

Chúng tôi chắc rằng những tầng lớp không khí ở một chiều cao nhất định nào đó bên trên bãi sa mạc đã trở nên trong suốt đến nỗi vào những lúc mà tất cả những điều kiện bên ngoài đều hoàn toàn hòa hợp với nhau đến mức tối đa, thì những lớp không khí ấy có tác động giống như những "Phòng âm thanh".

Nó phản chiếu lại những âm ba rung động đã được phát ra trong thời quá khứ. Chúng tôi tin rằng những diễn biến xảy ra từ thời Trung Cổ đã được tái diễn lại được bằng cách đó.

Chúng tôi mắc bận rộn về những công việc đến nỗi mất cả ý thức về ngoại cảnh, và thời gian trôi qua mau như bay. Dưới sự chỉ dẫn của vị Lạt Ma cao niên, chúng tôi sao chép lại các tài liệu cổ trên các bia đá cùng những tài liệu khác nữa.

Buổi sáng ngày chúng tôi lên đường, thời tiết rất sáng sủa, quan đãng và mọi việc đã sắp đặc sẵn sàng cho chuyến đi bận về của chúng tôi đến Shigarzé. Chúng tôi đã từ giã tất cả những nhân vật hầu cận của đức Đạt Lai Lạt Ma. Một đám đông dân chúng cũng tề tựu trên các đường phố để tiễn đưa chúng tôi.

Họ vẫy tay khắp nơi để ra dấu từ giã, hoặc chắp tay cầu nguyện cho chúng tôi được an toàn vô sự. Một phái đoàn đại diện dân chúng đã đi trước chúng tôi nhiều cây số đường trường, và năm chục người tiễn đưa chúng tôi đến tận Shagazé, trên vùng thượng lưu sông Brahmapoutre.

Trong khi chúng tôi đi gần tới thành phố này, tức là thành phố quan trọng thứ nhì của xứ Tây Tạng sau thủ đô Lhassa, chúng tôi nhìn thấy tu viện Tashi Lumpo rất lớn, ở cách hai cây số ngoài thành phố. Một phái đoàn sư sãi của tu viện này đã đi bộ trên năm cây số để tiếp đón chúng tôi và mời chúng tôi an nghỉ tại tu viện trong thời gian lưu trú tại đây.

Khi bước vào tu viện, chúng tôi cảm thấy một niềm an tĩnh thấm nhuần các gian phòng như một sự hiện diện cao cả vô hình. Thật vậy, đó là nơi nghỉ ngơi lý tưởng trước khi bước chân lên đoạn đường sẽ đưa chúng tôi dến hồ Dolma và đến thị trấn Sansrawar.

Sau khi dùng bữa cơm chiều với vị Lạt Ma, chúng tôi bàn luận về những ngôi đền rất đẹp và rải rác khắp nơi trong thành phố. Kế đó câu chuyện xoay qua vấn đề khác biệt giữa các tín ngưỡng và tôn giáo. Một vị Lạt Ma rất cao niên nói:

- Các vị Lạt Ma và đạo sĩ Yogi không cùng chia sẻ những tin tưởng giống nhau. Ngưới Yogi không thể chấp nhận rằng giáo lý của bất cứ một người nào xướng ra là có giá trị quyết định độc đáo. Tất cả mọi người phải đạt tới sự thông suốt trong tự nội tâm của họ.

Còn những tu sĩ Lạt Ma giáo thì tuân theo một cách chặt chẽ các giáo lý của đức Phật. Họ nghĩ rằng mỗi người đều đang tiến hóa và cứu cánh sẽ đạt tới quả vị tối cao của Phật. Một người Gia Tô sẽ đạt tới trình độ tâm thức của đấng Chirst. Người Phật tử sẽ đắc quả vị của Phật Thích Ca...

Chúng tôi thấy sáu vị Lạt Ma cầm đầu một nhóm tu sĩ gọi là các Tu Sĩ đi Ta Bà. Nhóm sư sãi ta bà này đi châu du khắp nơi, không tiền bạc chi cả, cũng không bao giờ khất thực. Họ không nhận lãnh đồ vật hay tiền bạc của ai cả. Họ luôn luôn giao tiếp với nhau và với sáu vị Lạt Ma trưởng ở tu viện.

Nhóm tu sĩ ta bà này chia làm ba toán, mỗi toán có một vị Lạt Ma cầm đầu, tức là gồm một cơ cấu chỉ huy có chín vị Lạt Ma. Ba vị toán trưởng có thể ở ba xứ khác nhau. Mỗi vị sư sãi đi ta bà luôn tiếp xúc với vị toán trưởng của mình, và vị trưởng toán này giao tiếp thường xuyên với sáu vị Lạt Ma trưởng ở tu viện.

Các vị này giao tiếp với nhau bằng một phương pháp mà chúng tôi tạm gọi là chuyển tư tưởng vì thiếu một danh từ chính xác hơn, nhưng chúng tôi biết rằng đó là một thứ mãnh lực tinh tế hơn và chính xác hơn nhiều.

Người ta gọi nó là atma, tức là sự giao cảm trực tiếp giữa linh hồn với linh hồn mà không có một vật gì làm trung gian. Chúng tôi đã gặp sáu vị Lạt Ma này và dùng buổi ăn sáng chung với các vị vào ngày hôm sau.

Vị Lạt Ma cho chúng tôi biết rằng người sẽ đi theo chúng tôi đến tận đền Pora Tat Sanga khi chúng tôi hoàn thành mọi công việc. Chúng tôi nhận lời, vì vị Lạt Ma này là bạn thiết của vị hướng đạo vừa dẫn đường vừa làm thông ngôn cho chúng tôi. Cả hai người giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong việc nghiên cứu các tài liệu cỗ.

#59 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/06/2011 - 06:28

Á CHÂU HUYỀN BÍ


CHƯƠNG CHÍN


Trong khi nói chuyện, vị Lạt Ma già nói một cách tự nhiên:

- Hai người đoàn viên đã từ giã các ông ngày thứ hai vừa rồi, sẽ đến Calcutta ngày hôm nay lúc mười một giờ ba mươi. Nếu các ông muốn tiếp xúc với họ, thì có thể được.

Vị trưởng phái đoàn chúng tơi viết một bức thông điệp gọi hai đoàn viên ấy hãy đến thẳng Darjeeling để lo thu xếp về một công việc cần phải làm, và đợi chúng tôi đến vào ngày hai mươi bốn tháng tám. Y đề ngày trên bức thông điệp, chép một bổn sao để lại, và đưa bổn chánh cho vị Lạt Ma.

Vị này đọc xong, xếp tờ giấy lại cẩn thận và để qua một bên. Sau đó, hai đoàn viên đã gặp lại chúng tôi tại Darjeeling ngày hai mươi bốn tháng tám. Họ đưa cho chúng tôi xem một bức thông điệp viết tay được chuyển giao đến tận tay họ sau khi họ đến Calcutta không đầy hai chục phút. Họ đã nghĩ rằng người đem thơ chắc là một thư tín viên được gửi đi từ trước với những chỉ thị rõ rệt.

Bây giờ chúng tôi đã có bằng chứng cụ thể về những quyền năng thần giao cách cảm của các vị Lạt Ma Tây Tạng. Nếu họ đã chứng tỏ quyền năng trên địa hạt nầy, chắn hẳn là họ cũng có thể nới rộng quyền năng trên những lãnh vực khác nữa?

Chúng tôi hối hả lên đường đến Pora tat Sanga, vì một số đông khách hành hương sẽ tựu họp lại đó vào mùa này là mùa thuận tiện cho một cuộc hội họp như vậy. Chúng tôi đi ngang qua thị trấn Gyantzé, tại đây chúng tôi được cho biết là sẽ gặp một một vị đệ tử rất đặc biệt, mà người ta gọi là vị "Vị đệ tử cười."

Những giọng hát tiếng cười của y làm cho người ta nghe dứt hết mọi cơn sầu khổ, và giúp đỡ khách hành hương vượt qua những đoạn đường gau go khó khăn nhất lộ trình của họ.

Khi chúng tôi bước vào sân tu viện, một người thanh niên lực lưỡng bước đến gần chúng tôi với nhữn lời chào mừng nghinh tiếp. Y cho chúng tôi biết rằng các vị Lạt Ma muốn mời chúng tôi ở lại tu viện trong thời gian lưu trú tại làng này. Chúng tôi nói rằng chúng tôi sẽ lên đường ngay ngày hôm sau, vì chúng tôi phải đi gấp lên truông Phari. Y đáp:

- Chúng tôi biết rằng các bạn định đi tới Pora tat Sanga. Tôi cũng trở về đó sáng ngày mai và rất sung sướng mà được cùng đi với các bạn nếu các bạn cho phép!

Chúng tôi nhận lời. Với một chuỗi cười dài cởi mở, y đưa chúng tôi đến chỗ ngủ, trong gian phòng lớn của tu viện. Sau khi đã xếp đặt cho chúng tôi được có đủ tiện nghi, y chúc chúng tôi nghỉ yên giấc, xin khiếu từ và nói y sẽ gặp lại chúng tôi rất sớm vào sáng ngày hôm sau.

Y vừa bước đi vừa hát bằng giọng rất trong. Đó là vị "Đệ Tử Cười." Sáng ngày hôm sau, y đánh thức chúng tôi dậy bằng một giọng hát vang lừng và loan báo rằng bữa điểm tâm đã sẵn sàng.

Chúng tôi từ biệt các vị Lạt Ma, được các vị ban ân huệ trước khi lên đường, và thấy rằng mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi của chúng tôi đến truông núi Phari. Truông này đưa du khách qua khỏi các đỉnh núi Phari và Kang La.

Nói chung, đường đi rất cheo leo, nhưng ở những đoạn đường khó đi, thì người đệ tử đi trước dẫn đường vừa hát và vừa cười. Trong những đoạn đường gồ ghề lồi lõm nhất, giọng hát của y vang rền và dường như đưa chúng tôi đi một cách dễ dàng êm ái.

Chúng tôi lên tới đỉnh truông núi vào lúc ba giờ chiều. Trạm nghỉ chân sắp tới của chúng tôi là thị trấn Manha Muni với một ngôi đền rất to lớn như pháo đài. Cũng như ở các nơi khác, tại đây chúng tôi được tiếp đón nồng hậu. Chúng tôi được cho biết rằng người ta không cần giữ chúng tôi ở lại, vì Chân Sư Pouridji đã đi trước chúng tôi đến đền Pora tat Sanga là nơi có rất nhiều đạo sĩ Yogi và tu sĩ các môn khác đã tề tựu rất đông tại đây.

Ngày hôm sau, đám người hành hương tựu họp rất sớm vì họ muốn đi sớm để được gặp Chân Sư Pourdji. Họ cũng muốn chiêm ngưỡng ngôi đền Pora tat Sanga là ngôi đền cao nhất thế giới, một tòa kiến trúc mỹ lệ dựng trên một đỉnh núi cao. Tất cả đoàn người hành hương và chúng tôi đều lên đường. Ngọn Everest hùng vĩ nhô lên trước mặt chúng tôi dưới lớp áo tuyết trắng như pha lê và chiếu ánh sáng dịu của bình minh.

Nó dường như mời mọc chúng tôi hãy cố gắng tiến thêm vài bước, chỉ vài bước nữa thôi, rồi đưa tay ra trước để nắm manh áo tuyết của nó. Nhưng mỗi khi chúng tôi tiến thêm vài bước, thì khối đá khổng lồ vẫn lọt ra ngoài tầm tay chúng tôi. Chúng tôi đã vượt qua khỏi núi Chomolhari thật là treo leo hiểm trở, nhưng bây giờ chúng tôi đi một cách vô cùng vất vả trên một con đường mà thường khi chúng tôi phải bò trên bốn cẳng!

Tuy nhiên, những giọng hát tiếng cười của người đệ tử vẫn đưa chúng tôi đi nhẹ nhàng thoải mái như lướt trên hai cách. Trong cơn hứng khởi, chúng tôi quên cả sự hiểm nguy, và dường như chúng tôi vượt qua những đoạn đường khó khăn một cách dễ dàng nhanh chóng. Chuyến đi ngày hôm ấy không có vẻ gì là lâu lắc hay mệt nhọc đối với chúng tôi, mà dường như chỉ kéo dài trong chốc lát.

Những âm ba rung động của thần lực, của sự an tĩnh và điều hòa toát ra từ các ngôi đền luôn luôn hấp dẫn người du khách đến những ngọn núi này. Thật không lạ gì mà thấy rằng dãy núi Tuyết Sơn vẫn gây nguồn cảm hứng tâm linh cho khách lữ hành, và các thi nhân vẫn luôn luôn ca tụng sự huy hoàng hùng vĩ của nó.

Sau cùng, đến chiều tối, chúng tôi đã vượt qua tất cả mọi nỗi khó khăn trên đường mòn và dừng chân trên một khoảng đá bằng phẳng rộng lớn, ai nấy mệt nhoài và thở dốc.

Nhiều ngôi đền rải rác xa xa, nhưng đền Pora tat Sanga đẹp như viên ngọc, nhô lên ở một chiều cao bảy trăm thước trên đầu chúng tôi, và chiếu một vầng ánh sáng rực rỡ, soi sáng tất cả các núi đá và đền miếu ở vùng chung quanh.

Đám người hành hương và chúng tôi cùng ngồi quây quần trong một hang đá rộng lớn. Chúng tôi ngạc nhiên mà nhận thấy rằng có cả phụ nữ trong đám hành hương. Không có sự kỳ thị hay phân biệt nam nữ trong những chuyến hành hương, ai muốn đi đều có thể xin gia nhập.

Các vị Chân Sư đã từng sống ở tại đây. Chân Sư Niri cũng đã từng đi qua con đường mòn của chúng tôi vừa đi. Hôm nay, nhà đạo sĩ Santi cao cả, khiết bạch và khiêm tốn, đã ngồi tọa thiền tại hang đá này và đang đắm chìm trong cơn đại dịnh.

Chúng tôi hỏi làm sao tìm được nơi ăn chốn ở cho tất cả những người hành hương này? Vị Đệ Tử Cười cất tiếng hát:

- Đừng lo chi vấn đề nhà ở. Tại đây có đầy đủ thức ăn, chỗ ngủ và áo quần cho tất cả mọi người.

Kế đó, người đệ tử lại hát một giọng du dương:

- Xin mời tất cả mọi người hãy an tọa.

Khi chúng tôi vừa ngồi xuống thì những chén thức ăn nóng và bổ dưỡng xuất hiện. Vị đạo sĩ Santi cũng đã xả thiền đứng dậy và bắt đầu chuyền thức ăn cho các du khách, với sự trợ giúp của người đệ tử và các người hành hương khác.

Khi ai nấy đều đã ăn uống no lòng, tất cả khách hành hương đều đứng dậy và người ta đưa họ đi từng nhóm nhỏ đến các ngôi đền kế cận để nghỉ lại trong đêm đó.

Vị đệ tử đưa chúng tôi đến một ngôi đền tọa lạc trên một khối đá, ngăn cách chỗ chúng tôi bởi một vách đá dốc đứng chừng hai mươi lăm thước bề cao. Khi đến gần, chúng tôi nhận thấy một cây cột trụ dài, chân trụ chấm đất, còn ngọn thì đỡ lấy các mõn đá de ra phía dưới ngôi đền.

Vì cây cột trụ này dường như là phương tiện duy nhất để lên tới ngôi đền, nhóm chúng tôi tựu lại dưới chân trụ để tìm cách trèo lên. Trong một lúc, cái hy vọng duy nhất để có chỗ ngủ là ban đêm dường như tùy thuộc vào khả năng của chúng tôi để trèo lên cây trụ ấy. Nhưng người đệ tử nói:

- Các bạn chớ nên hấp tấp vội vàng.

Kế đó, y cất giọng lớn:

- Hỡi Thượng Đế mến yêu, chúng con sở cậy nơi Ngài để có chỗ trú trong đêm nay.

Ngay khi ấy, tất cả mọi người chung quanh chúng tôi đều giữ im lặng trong một lúc, rồi bằng một giọng đồng thanh hòa tấu rất mãnh liệt, họ thốt lên những lời này:

- Đó là quyền năng của Thượng Đế, AUM...

Trong khoảnh khắc, tất cả chúng tôi đã thấy mình đứng trên mõn đá, và cùng đi với những người hành hương khác đến ngôi đền rải rác chung quanh, được chỉ định cho từng nhóm. Khi đến nơi, chúng tôi không còn giữ lại một dấu vết nào của sự mệt nhọc.

Đêm đó chúng tôi ngủ yên giấc như trẻ con. Chúng tôi thầm nghĩ rằng nếu những rung động của thần lực toát ra từ nhóm người đó được sử dụng để san bằng núi non thành bình địa, thì ắt là điều ấy vẫn có thể làm được!

Sáng ngày hôm sau, lúc bốn giờ, giọng hát mạnh mẽ rõ ràng của người đệ tử đánh thức chúng tôi dậy. Y hát:

- Cõi thiên nhiên đã thức dậy. Nhữn người con của thiên nhiên cũng phải thức giấc. Bình minh của một ngày mới đã xuất hiện. Sự tự do của ngày này đang chờ đón các bạn AUM!

Chúng tôi đến gần chỗ mõm đá gie ra ngoài và gác lên đỉnh cột trụ trong ngàu hôm trước. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng cột trụ đã thay thế bằng cầu thang rất chắc chắn. Khi xuống cầu thang, chúng tôi tự hỏi không biết có phải chúng tôi đã mơ hay chăng?

Người đệ tử đón chúng tôi dưới chân cầu thang nói:

- Không, các bạn không mơ đâu. Chính Chân Sư Pourdji đã mơ tưởng cái cầu thang trong đêm qua và đã đặt nó tại đây vì sự ích lợi công cộng. Đó là giấc mơ trở thành sự thật đấy.

Trong khoảng khắc mười lăm ngày chúng tôi đã trải qua trong vùng này, mỗi ngày chúng tôi được ăn những thức ăn nóng hổi và bổ dưỡng không hề thấy có ai làm bếp hoặc nấu nướng gì, và được cung cấp thức ăn rất đầy đủ.

Người đệ tử và một người đồng hành bắt đầu trèo lên ngọn núi Pora tat Sanga. Đường đi khởi đầu bằng những nấc thang tam cấp đục trong khối đá. Kế đó, người ta phải đi trên những tấm sàn gỗ bắc ngang để nối liền các khe hở giữa hai vách núi, tạo nên những vực thẳm dưới chân người lữ hành.

Có những chỗ khác, người ta phải leo dây, mà một đâu dây được cột chặt với những mô đá đưa ra ở phía trên. Sau hai giờ đồng hồ, những người leo núi vẫn chưa có thể vượt qua mõm đá thứ nhì chiều cao ở một trăm bảy mươi lăm thước cao hơn điểm khởi hành. Khi đó, họ mới nhận thấy rằng họ bắt buộc phải bỏ dở chuyến trèo núi này.

Nhìn thấy họ lưỡng lự và biết rõ vị trí khó khăn của họ, đạo sĩ Santi kêu Tonjnor Jung:

- Tại sao các anh không xuống đi?

Người đệ tử đáp:

- Chúng tôi thử đi xuống nhưng đá trơn quá không xuống được.

Y đã trải qua cái kinh nghiệm thông thường là trèo lên một vách đá hầu như trơn láng còn dễ hơn là xuống!

Khi đó, người đạo sĩ nói đùa:

- Nếu vậy, tại sao các anh không ở nguyên tại chỗ? Chúng tôi sẽ trở lại sáng ngày mai với đồ lương thực, và chắc chắn các anh sẽ có thể trèo lên tới đỉnh!

Kế đó, đạo sĩ yêu cầu hai người leo núi hãy hoàn toàn bình tĩnh, và hướng dẫn họ cẩn trọng trong ba tiếng đồng hồ để cho họ đi xuống được an toàn. Khi họ đã xuống tới đất và gặp lại chúng tôi, người Yogi mỉm cười và nói:

- Như thế là sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ tàn lụi dần.

Hai người thanh niên bèn ngước nhìn lên đỉnh núi với những cặp mắt đầy mong ước. Họ nói:

- Nếu Chân Sư Pourdji đang ở trên đó, chúng tôi thật là không may mà không gặp được ngài. Cuộc trèo núi này thật quá khó khăn đối với chúng tôi.

Người Yogi đáp:

- Các anh đừng lo ngại gì. Một vị cao cả hơn chúng tôi sẽ lo việc ấy. Bây giờ các anh hãy nghỉ ngơi, các anh đã khởi sự một cách tốt đẹp đó.

Chúng tôi bèn tự hỏi trong sự ngạc nhiên, bằng cách nào người ta có thể xây cất một ngôi đền trên chót núi như ngôi đền Pora tat Sanga.

Nhiều giọng nói thốt lên hỏi rằng bao giờ chúng tôi mới có thể gặp được Chân Sư. Người Yogi đáp:

- Chiều nay.

Thật vậy, chân sư Pouridji đã đến gặp chúng tôi trong buổi cơm chiều. Chúng tôi có nhắc đến việc trèo núi của hai người thanh niên bị thất bại. Chân Sư nói rằng hai người đã thành công trong việc trèo núi nhờ bởi mưu toan lần thứ hai mà họ đã làm trong tư tưởng.

Bốn giờ chiều ngày hôm sau, tất cả chúng tôi đều tựu họp trong hang đá ở phía dưới ngôi đền. Đạo sĩ Santi đang ngồi nhập định. Ba người trong nhóm bèn đi tới một tảng đá bằng phẳng và ngồi lên đó trong tư thế tọa thiền. Trong giây lát, tảng đá bay bổng lên trên không và chở ba người lên tới ngôi đền trên đỉnh núi.

Khi đó đạo sĩ Santi nói với người đệ tử và hai người nữa:

- Các anh sẵn sàng chưa?

Họ đáp là sẵn sàng và liền ngồi xuống một bên đạo sĩ trên tảng đá. Tảng đá này liền bắt đầu tự cất mình nhẹ bổng lên và chở cả ba người lên đến trước sân đền. Kế đó, người ta mời chúng tôi đứng chung lại thành một nhóm. Tất cả mọi người đều đứng dậy. Những người đã lên tới đền từ trước bèn bước ra sân và bắt đầu hát thành ngữ AUM.

Trong khoảnh khắc, chúng tôi đã thấy mình không còn ở dưới đất nữa mà đã có mặt tại sân đền trên chót núi. Chỉ trong giây lát, tất cả chúng tôi đã tề tựu đông đủ tại ngôi đền cao nhất thế giới.

Khi chúng tôi đã ngồi an tọa, Chân Sư Pouridji cất tiếng nói:

- Nhiều người trong các bạn chưa hề nhìn thấy hiện tượng khinh thân và cho rằng đó là một phép lạ nhiệm mầu. Thật ra, đó không có gì lạ phép lạ cả. Đó chỉ là kết quả của một quyền năng tự nhiên của con người. Chúng tôi được truyền thụ phép ấy do bởi pháp môn Yoga cổ truyền.

Trong quá khứ, nhiều người đã từng sử dụng quyền năng đó mà không ai cho là nhiệm mầu hết cả. Đức Phật cũng đã từng viếng thăm nhiều nơi xa xôi hẻo lánh bằng phương tiện khinh thân. Tôi từng thấy hằng nghìn người đã đạt tới kết quả tương tự.

Ngoài ra còn có những cách biểu lộ quyền năng cao hơn nhiều so với những gì các bạn sẽ được nhìn thấy. Những sự biểu lộ đó chứng minh sự hiện hữu của một sức mạnh vạn năng. Khi người ta hoàn toàn làm chủ được cái sức mạnh vạn năng đó, người ta có thể sử dụng nó để lấp biển dời non.

Các bạn ca tụng sự tự do, các bạn tuyên dương đức vô úy. Nhưng thay vì các bạn quên mất sự nô lệ, và không còn nhắc đến nó nữa, các bạn vẫn còn nhớ đến nó một cách quá rõ, và chính là sự tự do mà các bạn đã quên. Một pháp môn Yoga thuần túy là một thông điệp tự do cho toàn thể thế giới.

Kế đó Chân Sư Pouridji thuyết giảng về ý nghĩa thần bí của thánh ngữ AUM. Sau khi dứt lời, ngài mời chúng tôi cùng đi theo ngài đến một động đá rất lớn ở dưới lòng đất, tại đây, nhiều vị đạo sĩ Yogi đang ngồi tọa thiền nhập định.

Chúng tôi ở lại ngôi đền và trong động đá này chín ngày. Nhiều vị Yogi đã từng sống tại động đá trong nhiều năm, và khi họ rời khỏi nơi vắng vẻ cô liêu, họ thực hiện những công trình tốt đẹp về đạo đức tâm linh giữa những người của dân tộc họ.

Chúng tôi được cho biết rằng sau cuộc hội họp này, nhiều vị Chân Sư sẽ trở về Ấn Độ do con đường đi đến hồ Sansrawar và Mouktinath. Từ Mouktinath chúng tôi có thể đi dễ dàng đến Darjeeling. Đó là một tin lành, và triển vọng được đi chung với các đấng cao cả làm cho chúng tôi rất hãnh diện.

Chúng tôi đi từ động này đến động khác và nói chuyện với nhiều tu sĩ và đạo sĩ Yogi. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy nhiều vị trong số đó sống tại đây mùa đông cũng như mùa hè. Chúng tôi hỏi họ có bị lạnh vì tuyết xuống nhiều vào mùa đông hay không. Họ đáp rằng tuyết không rơi xuống vùng chung quanh chỗ họ Ở, và vùng này không hề có sương mù hay bão tố.

Thời gian qua mau như thoi đưa, và bây giờ chúng tôi đã sắp đến ngày lên đường.



5. Chuyến Đi Trở Về



Sáng ngày chúng tôi lên đường, tất cả đoàn người đều thức dậy vào lúc ba giờ sáng do bởi tiếng hát vang của người "Đệ Tử Cười." Chúng tôi nghĩ là chắc có thể xảy ra chuyện gì khác thường, vì y mời tất cả chúng tôi hội họp lại trong một lúc.

Trong khi chúng tôi bước ra ngoài, ánh sáng từ đền Pora tat Sanga toát ra với một ánh hào quang rực rỡ đến nỗi tất cả vùng chung quanh đến chiếu sáng. Người đệ tử đứng ở một góc đền và yêu cầu chúng tôi chiêm ngưỡng cảnh tượng ấy trong im lặng. Chúng tôi thấy hàng trăm bóng người đứng yên, hai tay đưa lên. Cơn im lặng bị gián đoạn bởi những lời kêu gọi:

- Xin chào tất cả các bạn, Chân Sư Pouridji sắp sửa ngâm thánh ca.

Hằng nghìn giọng cất lên phụ họa với giọng ngâm của ngài, và tiếng vang dội lại gây cho người nghe cái cảm giác là còn có hằng nghìn giọng hát khác nữa. Mỗi chữ vang lên rõ ràng trong cơn im lặng của buổi bình minh. Chân Sư nói:

- Có thể nào có một vị Thượng Đế cho người Ấn Độ, một Thượng Đế cho người Trung Hoa, một Thượng Đế cho người Do Thái và một Thượng Đế cho người Gia Tô chăng? Chỉ có một Nguyên Lý duy nhất, đại đồng và thiêng liêng cai quản tất cả muôn loại vạn vật.

Cái ánh sáng trung ương của Nguyên Lý ấy gọi là Thượng Đế. Thượng Đế phải là bao gồm hết tất cả. Tất cả đều thấm nhuần sự sống của Thượng Đế. Điều ấy, chắc hẳn không có nghĩa là có một vị Thượng Đế cá nhân, riêng biệt cho một nhóm người nào.

Khi chúng ta nói về Thượng Đế, chúng ta chỉ nói có một đấng Duy Nhất, Ngài là của tất cả, cho tất cả, trong tất cả và xuyên qua tất cả. Nếu người Ấn Độ đặt một tên cho Thượng Đế của họ, và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ đã có sự phân cách.

Nếu người Trung Hoa đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ đã bị phân chia. Nếu người Do Thái đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ đã có sự cách biệt.

Nếu người Gia Tô đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ cũng đã bị phân chia. Một cái nhà mà nó tự đã chia rẽ cách biệt, thì đã bị tiêu diệt ngay từ trước, và nó phải sụp đổ.

Nếu có hợp nhất, nó sẽ sống trường cửu. Các bạn hãy chọn lựa xem nên theo đằng nào. Chia rẽ, cách biệt có nghĩa là phá sản và diệt vong. Hợp nhất trong cái Nguyên Lý Âm Dương có nghĩa là tiến bộ, danh dự và quyền năng. AUM, AUM, AUM.

Tiếng thánh ngữ AUM này dường như vang dội đến chỗ tận cùng của thế giới. Chúng tôi có thể nghe tiếng ngân vang của nó vang dội lại trong ít nhất là mười phút, dường như tiếng cồng của ngôi đền điểm giờ khắc trôi qua.

Có những lúc, dường như các tảng đá cũng thốt ra tiếng ngân đó. Trong khi những âm hưởng vang dội lại đã tan dần, tất cả những người hành hương đều tề tựu trong hang đá ở phía dưới ngôi đền, và chúng tôi cũng họp chung với họ.

Khi nhóm chúng tôi đã ngồi xuống, đạo sĩ Santi đưa tay lên khỏi đầu, và tất cả mọi người đều đồng thanh cất tiếng ngâm thánh ngữ AUM như trước. Lại một lần nữa, những vách đá phản ảnh lại tiếng vang. Tiếng dội kéo dài cho đến khi chúng tôi đứng dậy, và tất cả đều giữ một lúc im lặng. Kế đó, người đệ tử cất tiếng hát:

- Chúng tôi sẽ từ giã các bạn. Chúng tôi gửi cho các bạn những lời chúc lành sâu đậm nhất, khi chúng tôi phải cách biệt với sự hiện diện khả ái của các bạn. Chúng tôi yêu cầu các bạn hãy dành cho chúng tôi cái danh dự được tiếp đón các bạn một lần nữa.

Chúng tôi rất do dự phải chia tay với các bạn. Chúng tôi mong ước các bạn sẽ trở lại và có ngày sẽ tái ngộ với chúng tôi. Cầu xin cho các bạn hãy nhận được những ân huệ tốt đẹp của đấng thiêng liêng.

Câu trả lời đến ngay dường như chỉ thốt ra bởi một người:

- Các bạn thân mến, chúng ta không bao giờ cách biệt nhau dầu các bạn tưởng rằng không gian đào một vực thẳm giữa chúng ta, vì Thượng Đế thấm nhuần tất cả không gian và nối liền với chúng tôi.

Chúng tôi cũng không cảm thấy cần thốt ra lời từ giã các bạn không phải là những chuyến đi và đến. Các bạn luôn vẫn ở đây. Biệt ly, thời gian, quên lãng, không hề có. Hiện tại là ở đây, và tương lai là cũng ở đây. Chúng ta có thể ở tại nơi đâu, nếu không phải là tất cả cùng ở nơi Thượng Đế?

Chúng tôi đã đi được một quãng đường dài khi những lời sau này vọng đến tai chúng tôi. Những bước chân dong ruổi trên đường lộ đưa chúng tôi đi xa, nhưng lòng chúng tôi vẫn còn ở Pora tat Sanga. Thật quả là không có sự biệt ly, và chúng tôi không hề cảm thấy rằng đã rời khỏi nơi thánh điện tôn nghiêm đó.

Trên đường về, người đệ tử đưa đường cho chúng tôi vẫn luôn luôn cất tiếng hát vang và cười rất vui vẻ. Cũng như lần trước, giọng hát tiếng cười của y dường như giúp chúng tôi vượt qua dễ dàng tất cả những đoạn đường khó khăn gập ghềnh.

Vào lúc hai giờ trưa, chúng tôi đi qua thị trấn Maha Muni, nhưng thay vì dừng chân tại đây để nghỉ ngơi, chúng tôi vẫn tiếp tục đi thêm mười sáu giờ đồng hồ, và vượt qua trên một trăm hai chục cây số. Tuy vậy, chúng tôi không hề cảm thấy mệt nhọc chút nào, và cuộc hành trình vẫn tiếp tục như thế cho đến bờ hồ Sanarawar.

Tại đây, người ta đưa chúng tôi đến nghỉ tại một ngôi đền rất mỹ lệ Ở gần bên bờ hồ. Chúng tôi nghỉ ngơi suốt hai ngày trước khi tiếp tục lộ trình đi qua truông núi trên dãy Tuyết Sơn. Địa điểm này phong cảnh u nhã và có vẻ rất thần tiên.

Hồ nước phẳng lặng và xanh biếc như viên ngọc nằm giữa một khung cảnh núi non hùng vĩ bao bọc chung quanh. Các loài chim ca hát líu lo trên các cây cổ thụ tỏa bóng mát quanh hồ. Nhiều vị Chân Sư cùng đi với chúng tôi cư ngụ tại đây.

Chúng tôi tiếp tục lộ trình đến Mouktinath cùng với đạo sĩ Santi. Chúng tôi thường nghe nói về sự cheo leo hiểm trở của truông núi trên dãy Tuyết Sơn. Chuyến du hành kéo dài suốt nhiều ngày, nhưng chúng tôi đi đường một cách dễ dàng suôn sẽ và đến Mouktinath đúng ngày giờ đã định.

Tại đây, chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của đức Tuệ Minh và nhiều vị siêu nhân khác. Những lời nói không thể nào diễn tả được sự vui mừng vô hạn của chúng tôi trong dịp tái ngộ này. Chúng tôi đã từng đi đến tận những vùng xa xôi cách trở, và đã được dành cho một sự tiếp đãi trọng hậu và khả ái nhất đời. Tuy nhiên, chính tại đây mà chúng tôi mới cảm thấy mình đã thật sự "Trở về nhà."



Dịch Giả: Nguyễn Hữu Kiệt



#60 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 08/06/2011 - 11:26

AI CẬP HUYỀN BÍ




Người du khách cuối cùng đã về, người hướng dẫn viên cuối cùng đã lập lại đến cả ngàn lần những điều hiểu biết của mình để giới thiệu cho du khách ngoại quốc về xứ cổ Ai Cập. Một bầy lừa mệt mỏi và đàn lạc đà bất kham đã lần bước chậm chạp trên đường về với những du khách cuối cùng trong ngày.

Trong khung cảnh xứ Ai Cập, bóng hoàng hôn có một vẻ đẹp siêu nhiên và khó quên. Mọi vật đều khoe màu đổi sắc, giữa khoảng trời đất bao la nổi bật lên những khoảng tương phản lạ lùng.

Tôi còn ngồi lại một mình trên bãi cát vàng, đối diện với pho tượng Sphinx hùng vĩ oai nghiêm tuyệt trần. Tôi nhìn một cách say mê cái cảnh tượng những màu sắc mỏng manh như sương phai mờ dần một cách nhẹ nhàng, trong khi mặt trời lặng đã cất đi những ánh vàng lộng lẫy trên nền trời Ai Cập.

Những ánh lửa diệu huyền, nét huy hoàng tuyệt đối mà mặt trời lặn của Châu Phi còn bỏ sót lại trong không gian, có ai tiếp nhận bức thông điệp thiêng liêng của trời mà không cảm giác được trong giây lát cái phút lạc lõng của cõi Thiên Đàng?

Niềm phúc lạc đó sẽ còn tồn tại khi con người chưa đến quá nỗi trụy lạc trong vòng trần gian ô trược, trong sự sa đọa tâm linh, nó sẽ tồn tại khi con người còn biết yêu vần Thái Dương này là nguồn gốc của sự sống và của bao nhiêu màu sắc huy hoàng lộng lẫy xuất hiện trước mắt ta. Cổ nhân xứ Ai Cập thật ra đã không kém minh triết khi họ tôn thờ RÂ, biểu tượng ngôi mặt trời, mà trong thâm tâm họ coi như một vị Thần...

Trong bối cảnh hoàng hôn Ai Cập, dưới một nền trời xám ngắt đã tối mờ dần, tôi nhìn pho tượng đá Sphinx mỗi lúc càng sậm màu, cho đến khi những tia nắng vàng sậm cuối cùng đã tắt hẳn và không còn chiếu vào gương mặt lạnh lùng bí hiểm của nó nữa.

Hình thần tượng Sphinx nhô lên giữa bãi sa mạc mênh mông gương mặt khổng lồ, than hình nằm duỗi ra, trải qua nhiều thế hệ đã từng gây sự sợ hãi cho những người Ả Rập dị đoan, và làm ngạc nhiên những người du khách hoài nghi, mà bằng chứng là những câu hỏi từ người lữ khách, lần đầu tiên con quái vật khổng lồ xuất hiện trước đôi mắt kinh ngạc của họ.

Pho tượng đá bí hiểm mình sư tử đầu người này có một sức hấp dẫn rất lạ lùng và phức tạp đối với bao nhiêu thế hệ du khách. Nó là một sự bí mật đối với người Ai cập, và một bài toán bí hiểm cho toàn thế giới. Ai đã điêu khắc ra nó? Vào thời đại nào? Không ai biết được. Nhà Ai Cập học chuyên môn nhất cũng chỉ đưa ra những giả thuyết vu vơ về ý nghĩa và lịch sử của hình thần tượng Sphinx.

Dưới ánh sáng le lói cuối cùng của một ngày đã tàn, đôi mắt tôi ngừng lại trên đôi mắt bằng đá của pho tượng thản nhiên bất động. Nó đã từng thấy hằng bao nhiêu là tỷ ức người lần lượt đến trước mặt nó, với những cái nhìn im lặng, đưa ra những câu hỏi không lời và không giải đáp, rồi bước chân ra về trong sự hoang mang!

Nó đã từng thản nhiên lặng nhìn châu Atlantide bị tràn ngập dưới cơn đại hồng thủy và biến mất dưới lòng biển sâu. Cái nụ cười thoảng qua của nó đã từng chứng hiến công trình vĩ đại của vua Mena, vị Quốc Vương Ai Cập đầu tiên đã đổi dòng sông Nile yêu quý của người Ai Cập và bắt nó chảy qua một đường hướng khác.

Cái nhìn im lặng đượm mùi mến tiếc của nó đã từng thấy nhà tiên tri Moise, nghiêm cẩn và ít nói, từ giả nó lần cuối cùng. Câm lặng và đau thương, nó đã nhìn thấy những nỗi đau khổ của xứ Ai Cập bị tàn phá, suy vong sau cuộc xâm lăng của vị bạo chúa Cambyse, hoàng đế nước Ba Tư.

Có lẻ vừa thích thú vừa khinh bỉ, nó từng nhìn thấy nữ hoàng Cléopâtre đẹp lộng lẫy và kiêu hãnh trong chiếc thuyền rồng mũi trạm vàng, buồm may bằng nhung đỏ thắm và mái chèo đúc bằng bạc.

Nó từng sung xướng nhìn thấy đức Jesu trên đường đi tìm đạo lý phương đông để chuẩn bị chờ ngày thi hành sứ mạng, ngày mà đức Chúa Cha gửi Ngài đi truyền bá cho thế gian một thông điệp thiêng liêng về đức nhân từ bác ái. Như một kẻ báo hiệu không lời, biểu tượng Sphinx chào mừng Bonaparte, khí cụ của định mệnh các nước Châu Âu, trước khi tên Mã Phá luân nổi bật làm lu mờ những tên khác.

Và ngay khi ông ta hãy còn là một nhân vật chưa tên tuổi, chưa đặt chân xuống chuyến thuyền Bellérophon để sang chinh phục xứ Ai Cập. Nó cũng nhìn thấy, với ít nhiều bi ai, toàn thể thế giới chú ý đến Ai Cập khi ngôi lăng tẩm của một vị Pharaon, vua Ai Cập thời cổ bị khai quật lên để cho người đời tọc mạch nhìn xem xác ướp của vua với những đồ ngọc ngà châu báu.

Thật vậy, đôi mắt bằng đá của pho tượng đã từng chứng kiến những điều đó và nhiều điều khác nữa. Nhưng bây giờ nó nhìn thấy gì? Không màng để ý kẻ thế nhân phàm tục đang bôn tẩu trên đường danh lợi, thản nhiên trước nỗi sung sướng, khổ đau của nhân loại, hình như biết rõ cái định mệnh đã ghi sẵn tất cả mọi biến cố lớn của trần gian, đôi mắt bằng đá kia nhìn thẳng vào cõi vô cùng...

Hình thần tượng Sphinx đã chuyển màu xám sang màu đen, rồi một màu đen như mực, nền trời đã mất cái nét xám bạc của lúc ban chiều, tất cả điều đắm chìm trong đêm tối, chúa tể của sa mạc. Nhưng pho tượng vẫn còn hấp dẫn sự chú ý của tôi và làm cho tôi bị thu hút như do mãnh lực của một luồn từ điện vô hình.

Đó là vì tôi cảm thấy rằng màn đêm rủ xuống đã đem pho tượng trở về nguyên quán của nó. Cái bối cảnh đen âm u, đó mới đúng là cái bối cảnh thực sự của nó. Những gì là thần bí của một đêm Châu Phi tạo cho nó một bầu không khí thích nghi. Cũng trong những giờ ban đêm mà Râ và Horus, Isis và Osiris, những vị Thần Linh của xứ cổ Ai Cập, luôn luôn trở về với nhân gian.

Tôi nhất định đợi lúc trăng lên và sao mọc để nhìn thấy một lần nữa cái chân tướng của hình thần tượng Sphinx. Tôi ngồi một mình giữa đóng cát bao la, nhưng tôi không cảm thấy cô đơn, thật vậy, cảm giác cô đơn hiu quạnh không thẻ nào có được với tôi.

Ban đêm, tôi có thể ngắm nhìn thần tượng Sphinx dưới cái khía cạnh mà ít người du khách được nhìn thấy. Tạc trong khối đá, in trên nền trời xanh như chàm, cao bằng một ngôi nhà lầu bốn tầng, con sư tử đầu người khổng lồ vươn mình nằm dài trong thung lũng của đồng cát. Dưới ánh trăng sao vừa ló dạng, những nét hùng vĩ của nó hiện rõ lần lần. Đó là cái biểu tượng lạ lùng của một xứ Ai Cập mà nguồn gốc bí ẩn được truy nguyên đến những thời đại xa xăm vô định.

Giống như con vật nằm canh gát những bí mật của thời tiền sử, nghĩ đến những thế hệ của châu Atlantide mà ký ức mong manh của người đời không còn nhớ đến nữa, pho tượng đá khổng lồ chắc cũng sẽ còn tồn tại mãi qua mọi thế hệ văn minh của loài người hiện nay, và nó cũng sẽ giữ nguyên vẹn không hề tiết lộ sự bí mật nội tâm của nó. Gương mặt khắc khổ và uy nghiêm của nó không phản ánh một điều gì, đôi môi khép chặt của nó vẫn giữ một sự im lặng muôn đời.

Nếu pho tượng Sphinx có giữ gìn cho nhân loại một thông điệp ẩn dấu nào mà nó đã chuyển đạt qua nhiều thế kỷ cho một số rất ít người hữu hạnh có một năng khiếu linh cảm khác thường, thì điều bí mật đó có khi sẽ được nhắn nhủ thầm bên tai của người thí sinh tầm đạo.

Đêm tối dành cho hình thần tượng Sphinx một khung cảnh tuyệt hảo. Ở phía sau, bên mặt và bên trái pho tượng là "Thành phố của người chết," một khoảng đất rộng dẫy đầy những nấm mộ hoang cùng lăng tẩm.

Chung quanh vùng cao nguyên lởm chởm những núi đồi và đá tảng nhô lên từ dưới đồng cát ở phía nam, phía tây và phía bắc pho tượng Sphinx, những lăng tẩm và mồ mả được xây cất chứa những cổ quan tài đựng hài cốt và những xác ướp của những vị vua chúa, các vị đại thần và chức sắc của triều đình hay tôn giáo của xứ Ai Cập thời cổ.

Không có một ngôi lăng tẩm nào mà khi bước vào mà người ta không thấy cỗ quan tài bật nắp ra và những đồ vàng ngọc châu báo tô điểm xác ướp đã bị lấy đi mất. Sự cướp bóc này đã xảy ra cùng lúc với sự khai quật những nấm mồ trong những cuộc đào xới để khảo cổ. Người ta chỉ lại tại chỗ những pho tượng nhỏ và những bình, vại chứa đựng ruột gan của những xác chết đã đem ướp bằng chất hương liệu.

Ngay ở xứ Ai Cập thời cổ cũng đã có những kẻ trộm đào mồ, khi dân chúng nổi loạn chống giai cấp thống trị càng ngày càng trở nên suy tàn, họ trả thù bằng cách khai quật mồ mả và cướp bóc nơi nghĩa trang rộng lớn của nhà vua, tại đây những vị đại thần được cái vinh dự yên nghĩ giấc nghìn thu bên cạnh xác ướp của các bậc vua chúa mà họ đã phụng sự từ thuở sinh tiền.

Một số ít những người chết mà xác ướp thoát khỏi bàn tay cướp bóc của những kẻ trộm đầu tiên, đã nằm yên nghỉ trong một thời gian khá lâu cho đến khi người Hy Lạp, người La Mã và người Ả Rập lần lượt thay phiên nhau đến đánh thức họ.

Những ngôi mộ, lăng tẩm nào thoát khỏi cướp bóc và khai quật trong những cuộc biến cố sau này, được yên nghỉ thêm một thời gian khá lâu nữa cho đến đầu thế kỷ mười chín, khi các nhà khảo cổ hiện đại ra công thám hiểm dưới lòng đất của xứ Ai Cập để tìm kiếm những gì mà kẻ trộm thời xưa còn sót lại chưa lấy đi.

Như thế há phải chẳng tội nghiệp cho những bậc vua chúa, vương hầu bất hạnh của thời xưa, tuy xác ướp họ còn nằm đó, mà bị người ta khai quật mồ mả và cướp bóc kho tàng? Dầu cho những xác ướp của họ không bị dập tan ra từng mảnh do bàn tay bạo tàn của những kẻ trộm báu vật, thì những xác ướp đó cũng đã bị giam cầm cho nằm yên nghỉ trong những cổ tàng viện để làm thỏa mãn sự tò mò và làm mục tiêu dị nghị bình phẩm của mọi người.

Đó là cái bối cảnh rùng rợn của thần tượng Sphinx khi nó vươn mình và nhô đầu dậy trong cô đơn tịch mịch giữa đồng cát. Nó đã từng quan sát những hầm tối trong "Thành phố của xác chết," lần lượt bị sự cướp bóc của người dân Ai Cập nổi loạn và quân xâm lăng Ả Rập.

Vị quản thủ đồ cổ Ai Cập tại bảo tàng viện British Museum là ông Wallis Budge không làm ai ngạc nhiên khi ông đi đến kết luận rằng: "Thần tượng Sphinx là để đuổi tà ma ra khỏi những nghĩa địa và lăng tẩm ở vùng chung quanh." Cũng không ai ngạc nhiên mà thấy rằng ba ngàn bốn trăm năm trước, vua Thoutmès thứ tư của Ai Cập có cho khắc vào một tảng đá lớn mà ông đặt ngay trước ngực tượng Sphinx, hàng chữ:

"Một sự bí mật linh thiêng đã từng bao phủ vùng này từ lúc sơ khởi, vì gương mặt của pho tượng Sphinx là một biểu tượng của thần Khepera, vị thần của sự Bất Tử, chúa tể các vị thần linh và ngự trị vùng này. Dân chúng ở thành Memphis và ở khắp địa phương cùng đưa tay lên để cầu nguyện trước mặt Ngài".

Như vậy không ai còn lạ gì mà thấy dân Ả Rập ở làng Gizeh gần bên có nhiều truyền thống rất dồi dào về những chuyện vong linh và âm hồn thường lởn vởn ban đêm trong bầu không khí chung quanh hình thần tượng Sphinx, một nơi họ cho rằng có nhiều ma nhất thế giới!

Phải chăng bằng cách ướp xác những nhân vật quyền quý của thời xưa, người cổ Ai Cập đã kéo dài trong một thời gian vô hạn định sự tiếp xúc giữa những vong linh thời cổ với nhân loại chúng ta ngày nay?

Quả thật ban đêm là lúc mà người ta có thể ngắm nhìn thần tượng Sphinx một cách thú vị nhất. Vì dường như ban đêm là lúc mà cõi giới âm linh có vẻ gần gủi với ta hơn, tâm hồn ta sẵn sàng mở rộng đối với những cảm giác bất ngờ, trong khi ở chung quanh ta, dưới màn đêm bao phủ, thậm chí những hình thể vật chất thô kệch cũng thoát lấy một vẻ mờ ảo u huyền.

Màn trời ban đêm đã trở thành màu chàm pha lẫn màu đỏ thắm, một thứ màu thần bí phù hạp với sự tìm tòi thám hiểm của tôi. Đêm tối kéo dài một cách từ từ êm ả và câm lặng như một con heo, nếu người ta không để ý đến những tiếng rú rùn rợn giống như tiếng người của vài con beo đốm trong sa mạc, là những tiếng động duy nhất điểm giờ khắc trôi qua.

Chúng tôi vẫn ngồi đó, thần tượng Sphinx và tôi, dưới ánh sao vằng vặc của nền trời Châu Phi, sự giao cảm giữa chúng tôi mỗi lúc càng thêm sâu đậm; từ sự quen biết nhau, chúng tôi tiến đến tình bạn, có lẽ chúng tôi bắt đầu hiểu nhau ít nhiều.






Similar Topics Collapse

4 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 4 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |