1
Truyện ngắn huyền bí - hiendde
Viết bởi Manager, 05/06/11 02:02
1072 replies to this topic
#106
Gửi vào 20/06/2011 - 11:05
ĐẠO TƯỞNG
Tân Châu được biết, tên thật của ông là Lâm Văn Quốc tự Ba Quốc, con của ông Lâm Văn Ngươn, mẹ là Nguyễn Thị Nhỏ, quê ở Cái Cùng xã Long Điền, một thôn nằm ở giữa xã Vĩnh Mỹ và Gia Thái tỉnh Bạc Liêu.
Cái đất sinh ra ông là Cái Cùng. Tên "Cái Cùng" gợi cho người ta một vùng rừng đất hoang sơ của U Minh, một vùng rừng còn những con rắn khổng lồ đêm đêm treo mình giữa hai thân cây, tự lấy thân mình làm gàu tát nước giữa đêm khuya để bắt cá.
Thuở nhỏ nhà nghèo, Cái Cùng là nơi xa xôi hẻo lánh, nên ông chỉ học đến lớp abc.. Lớn lên với thân hình vạm vỡ của ông, ông thích võ nghệ. Ông thích giao du với các hảo hớn, học võ "Thiếu lâm tự" để thỏa chí bình sanh, ông lưu lạc lên đất Miên, qua Lào, học thêm bùa ngải.
Sau bao năm "tầm sư học đạo" ông trở lại đất Tân Châu, lãnh cai quản cho gia đình người cậu của mình là ông Nguyễn Chánh Sắt, người có tiếng trong làng văn làng báo thời bấy giờ. Ba Quốc nổi tiếng là người siêng năng, giỏi giang việc đồng áng, to lớn và "hầm hừ" vậy, nhưng hiền lành dễ thương.
Chẳng bao lâu vào một đêm mưa gió, những đêm mà sông Tiền như con rồng chuyển mình, dậy sóng hàn đập ì ầm, sau những ngày bần thần rã rượi, biếng nói biếng cười, cặp mắt như lờ đờ, khi đỏ ngầu, thân xác ông như bị một vị khuất mặt nào đó hành hạ ông, ông la, ông hét, ông đấm ngực, ông đụng đầu vào cột nhà, rồi ông "phát huệ", ông lại xưng là "ta là tướng núi" và đủ thứ danh tánh.
Sau đó ông lập am hành đạo. Rời nhà người cậu bỏ việc đồng áng, bằng bùa ngải ông bỏ công đi trị bịnh cho bà con dọc theo sông Tiền. Theo lời kể, lạ thay, bịnh nào ông trị cũng hết. Đó là bịnh nhẹ. Còn bịnh nặng những bịnh kinh niên, ông gọi là bịnh tà ma ám ảnh, sau khi cho bịnh nhân uống bùa ngải, ông ra thần oai, ông đụng đầu vào cột nhà cho tà ma hoàn xuất.
Rồi ông trầm tư dùng luồng sáng của đôi mắt chiếu vào bịnh nhân. Lạ thay bịnh nhân nào cũng thấy nhẹ người, người nào cũng thấy nhẹ người, người nào cũng lồm cồm ngồi dậy xá lạy ông.
Vào năm 1928, cái am bằng tre lá như một cái chòi ruộng được dựng lên, bề thế tọa lạc trên con đường gọi là Hương Chùa, cách chợ Tân Châu độ cây số ngàn.
Đạo của ông lấy kinh gốc từ chùa Tây An. Mỗi ngày ông hành lễ ba thời: khuya, ngọ và chiều. Trước hết ông lễ Bàn Thầy, Bàn Thánh, Bàn Thần. Bàn chư vị Năm Ông, mỗi bàn mười hai lạy. Xong ông ra lễ bàn Thông Thiên lạy đủ bốn phương: đông, nam, tây, bắc. Khi hành lễ cũng có chuông mỏ ngân vang như nhà chùa. Sau mười bốn năm hành đạo 1925-1939 ông có trên mười ngàn tín đồ, sống rải rác trên khắp cả đất Tân Châu, từ sông lớn đến kinh rạch qua các đồng sâu.
Ông đi đến đâu cũng được tín đồ tung hô vái lạy. Từ đó ông tự xưng là "Minh Hoàng Quốc", lúc ban đầu, đạo tưởng có nghĩa là ông ngồi tưởng cho bịnh nhân thoát bịnh. Sau cái nghĩa của Đạo Tưởng được nâng cao hơn, tưởng về "giang san tổ quốc, tưởng đến ngôi vua".
Dần dần cái sân am hành đạo của ông biến thành sân võ. Một đêm đệ tử thấy thần oai ông đụng đầu vào một thân cây, cây lá rung rinh như đương đầu trước ngọn gió. Như vậy chắc ông thấy cũng chưa đủ, có lần ông đóng cây đinh ba tấc vào cột nhà, trước mặt hàng ngàn tín đồ đứng vây quanh, ông đụng đầu vào cây đinh, cây đinh quẹo ngang mà đầu ông không hề có một vết xước sát.
Rồi đêm đêm, như một thời xa xưa nào được dựng bên bờ sông đất Tân Châu. Trước cái sân am hành đạo của ông, lá dừa bó thành đuốc nổ lép bép, đỏ đùng đục như ánh ma trơi. Hàng trăm tín đồ với sắc phục vàng hươm, kiếm loang loáng trong ánh đuốc đỏ rực dưới trời đêm, bên con sông không bao giờ mệt mỏi, vừa trôi vừa vỗ sóng dập bờ.
Chừng như đã có một đạo quân, ông Đạo Tưởng bắt đầu lập triều đình: Ông là Minh Hoàng Quốc, quân trẻ của Nguyễn Văn Hương, Đinh Phan, Vương Lèo và Nguyễn Soái Năm. Đã có tham vọng có triều đình có quân đội, ắt phải có ngày hành động.
Theo sách đã ghi, đó là đêm mùng 8 rạng ngày 9 âm lịch năm Kỷ Mão (20 -2 -1939) đêm trăng lưỡi liềm mờ mờ ảo ảo cùng nhang khói, tín đồ từ xa kéo đến nghe ông thuyết pháp. Buổi thuyết pháp trong đêm huyền ảo ấy, ông không giảng giáo lý cao siêu của đấng Từ bi hay đức hy sinh cao cả của Phật Thích Ca, mà chuyển giọng sang sảng như tiếng kèn thúc quân.
"Hỡi đồng bào. Dân tộc ta đã bị người Lang Sa cai trị nhục nhã gần trăm năm nay, số của chúng ta đã sắp mãn, đồng bào hãy cùng bổn đạo đánh đuổi quân thù rửa nhục nước". Rồi ông đưa tay vỗ ngực dõng dạc tự xưng "Ta là Chánh vì Vương thừa mạng trời lập Quốc".
Như sóng dậy từ lòng người, tiếng hò hét của tín đồ dâng lên như sấm, đuốc huơ cao, dao gươm kiếm vung lên loang loáng, tiếng reo tiếng trống tiếng phèng la nổi dậy trời... Chó dọc theo con sông cất tiếng tru xao xác cả dân chợ dân làng.
Rạng ngày mùng 9 trời vừa hừng sáng, cò Laffont, quận trưởng Nguyễn Văn Đề, thơ ký Phan Văn Thông cùng với hai tiểu đội lính vũ trang súng trường, xếp hàng theo một bờ kinh Vĩnh An tiến vào đường chùa. Quân của cò Laffont vây tròn lấy cái am của ông Đạo Tưởng trong tầm súng.
Ông Đạo Tưởng không hề nao núng... Cái am của ông không còn là cái am hành đạo nữa. Là một triều đình đã bày binh bố trận, sẵn sàng chinh chiến. Đuốc trước am, ông Đạo Tưởng oai vệ trong sắc phục vàng, áo tay rộng, đầu phủ bịch cân, lưng thắt dây đen, chân mang giày vàng, cổ đeo lòng thòng xâu chuỗi bồ đề, theo cách mô tả của người cùng thời "ông đường đường như Vu Hồng đương kiểm binh vua tướng quỷ, sái đậu thành binh hầu xuất trận".
Đứng hai bên dài dọc theo sân võ, gồm hàng trăm nam nữ "đầu trọc áo vàng" tay gươm tay giáo, bừng bừng khí thế. Giữa sân võ là hai cái thây của hai vợ chồng Hương Kiếm đã bị đem ra tế cờ vào giữa đêm vì tội phản đạo. Ông cất giọng về phía quân thù, nhằm nói với tên cò Laffont và quận Lễ:
- Các ông cứ bắn súng đi. Súng đạn của các ông không lủng được da thịt của quân "Minh Hoàng Quốc" này đâu. Bắn đi.
Sau lời thách thức của ông, súng vẫn im. Với giọng nói hùng hồn và sang sảng của ông, tín đồ không chỉ tin súng không làm gì được ông mà kể cả họ nữa. Họ đã được thầy tẩm cho bùa ngải rồi. Cả ông, cả họ không còn là người thường nữa, họ là người mình đồng da sắt.
Quận Lễ đứng từ xa cất tiếng:
- Ba Quốc hãy buông gươm giáo đầu hàng. Không sẽ thiệt mạng.
Đạo Tưởng phất tay áo:
- Hỡi binh sĩ. Trẫm nay vốn thiệt là "Minh Hoàng". Các người hãy trả áo lại cho bọn Lang Sa cùng ta tiêu diệt kẻ thù. Tiến.
Tín đồ của ông một loạt trụ bộ, rừng chân đi vừa chĩa gươm giáo vừa hô, tiếng hô như tiếng gầm phát ra từ những lồng ngực rừng rực máu.
Phía bên cò Laffont và quận Lễ, đạn lên nòng, một họng súng cất lên trời.
- Cốp.
Súng không nổ. Viên đạn lép đầu tiên của cò Laffont là bằng chứng cho lòng tin của Đạo Tưởng và tín đồ.
Gươm giáo lủa tủa trong vang lên cùng tiếng gầm thét. Súng bắt đầu nổ. Nhưng đạn chỉ cày lên sân cỏ bốc khói chẳng trúng ai. Quân "đầu trọc áo vàng" của Đạo Tưởng vừa nhảy vừa xông lên như một đám lân vừa đạp xác pháo vừa cất cao đầu.
Khi mặt dần giáp mặt, ông Đạo Tưởng vừa lắc hai vai vừa bước, phất hai tay áo, đưa hai bộ vuốt hùm, mắt trợn nhìn cò Laffont, Lê trong nháy mắt, hai bộ vuốt hùm của ông sẽ móc cả ruột gan cò Laffont. Cò Laffont vừa lùi bước vừa móc súng, bàn tay cầm súng của hắn run lẩy bẩy. Một tiếng nổ.
Nghe tiếng "hực" của ông, binh lính tín đồ giật mình quay lại. Con người siêu phàm đang loạng choạng, vừa ngã, vừa đưa cái bàn tay móng vuốt hùm lên lồng ngực. Cái lồng ngực căng đầy của ông máu tràn đẫm cả chiếc áo vàng. Không một lời trối trăn, chỉ có tiếng "ừng ực" uất nghẹn không nên lời, hai con mắt nhìn trời trợn ngược.
Bao năm tu luyện bùa ngải, chỉ cần một tiếng nổ, một viên đạn đồng bằng đầu đũa, mộng lớn của ông bỗng tan biến như khói hương trong am hàng đạo trong cơn gió. Ông ngã xuống, không một tín đồ nào ở bên ông, quanh ông chỉ còn là gươm giáo của tín đồ đã tản chạy.
Sau này có một lão râu dài đến tận ngực, vốn trước kia, thỉnh thoảng ông được Đạo Tưởng mời vào am đàm đạo. Ông kể lại với một vài bạn tri âm:
- Ông Đạo muốn làm vua nước Nam, nhưng ông không biết biên giới nước Nam mình từ đâu đến đâu. Nước Nam có bao nhiêu sông lớn, bao nhiêu núi cao, ông cũng không rành. Ông tưởng đánh được đồn Tân Châu thì cả quân Pháp đầu hàng. Ông tội thay.
Ông lão đã đến bàn thờ ông Đạo Tưởng thắp ba nén nhang:
- Chí khí của ông thật là đáng phục, xin ông nhận cho tôi ba lạy.
Ông quỳ, ông lạy ba lạy rồi chắp tay ngửa mặt lên trời:
- Hỡi ôi. Ông Đạo Tưởng.
ST
Tân Châu được biết, tên thật của ông là Lâm Văn Quốc tự Ba Quốc, con của ông Lâm Văn Ngươn, mẹ là Nguyễn Thị Nhỏ, quê ở Cái Cùng xã Long Điền, một thôn nằm ở giữa xã Vĩnh Mỹ và Gia Thái tỉnh Bạc Liêu.
Cái đất sinh ra ông là Cái Cùng. Tên "Cái Cùng" gợi cho người ta một vùng rừng đất hoang sơ của U Minh, một vùng rừng còn những con rắn khổng lồ đêm đêm treo mình giữa hai thân cây, tự lấy thân mình làm gàu tát nước giữa đêm khuya để bắt cá.
Thuở nhỏ nhà nghèo, Cái Cùng là nơi xa xôi hẻo lánh, nên ông chỉ học đến lớp abc.. Lớn lên với thân hình vạm vỡ của ông, ông thích võ nghệ. Ông thích giao du với các hảo hớn, học võ "Thiếu lâm tự" để thỏa chí bình sanh, ông lưu lạc lên đất Miên, qua Lào, học thêm bùa ngải.
Sau bao năm "tầm sư học đạo" ông trở lại đất Tân Châu, lãnh cai quản cho gia đình người cậu của mình là ông Nguyễn Chánh Sắt, người có tiếng trong làng văn làng báo thời bấy giờ. Ba Quốc nổi tiếng là người siêng năng, giỏi giang việc đồng áng, to lớn và "hầm hừ" vậy, nhưng hiền lành dễ thương.
Chẳng bao lâu vào một đêm mưa gió, những đêm mà sông Tiền như con rồng chuyển mình, dậy sóng hàn đập ì ầm, sau những ngày bần thần rã rượi, biếng nói biếng cười, cặp mắt như lờ đờ, khi đỏ ngầu, thân xác ông như bị một vị khuất mặt nào đó hành hạ ông, ông la, ông hét, ông đấm ngực, ông đụng đầu vào cột nhà, rồi ông "phát huệ", ông lại xưng là "ta là tướng núi" và đủ thứ danh tánh.
Sau đó ông lập am hành đạo. Rời nhà người cậu bỏ việc đồng áng, bằng bùa ngải ông bỏ công đi trị bịnh cho bà con dọc theo sông Tiền. Theo lời kể, lạ thay, bịnh nào ông trị cũng hết. Đó là bịnh nhẹ. Còn bịnh nặng những bịnh kinh niên, ông gọi là bịnh tà ma ám ảnh, sau khi cho bịnh nhân uống bùa ngải, ông ra thần oai, ông đụng đầu vào cột nhà cho tà ma hoàn xuất.
Rồi ông trầm tư dùng luồng sáng của đôi mắt chiếu vào bịnh nhân. Lạ thay bịnh nhân nào cũng thấy nhẹ người, người nào cũng thấy nhẹ người, người nào cũng lồm cồm ngồi dậy xá lạy ông.
Vào năm 1928, cái am bằng tre lá như một cái chòi ruộng được dựng lên, bề thế tọa lạc trên con đường gọi là Hương Chùa, cách chợ Tân Châu độ cây số ngàn.
Đạo của ông lấy kinh gốc từ chùa Tây An. Mỗi ngày ông hành lễ ba thời: khuya, ngọ và chiều. Trước hết ông lễ Bàn Thầy, Bàn Thánh, Bàn Thần. Bàn chư vị Năm Ông, mỗi bàn mười hai lạy. Xong ông ra lễ bàn Thông Thiên lạy đủ bốn phương: đông, nam, tây, bắc. Khi hành lễ cũng có chuông mỏ ngân vang như nhà chùa. Sau mười bốn năm hành đạo 1925-1939 ông có trên mười ngàn tín đồ, sống rải rác trên khắp cả đất Tân Châu, từ sông lớn đến kinh rạch qua các đồng sâu.
Ông đi đến đâu cũng được tín đồ tung hô vái lạy. Từ đó ông tự xưng là "Minh Hoàng Quốc", lúc ban đầu, đạo tưởng có nghĩa là ông ngồi tưởng cho bịnh nhân thoát bịnh. Sau cái nghĩa của Đạo Tưởng được nâng cao hơn, tưởng về "giang san tổ quốc, tưởng đến ngôi vua".
Dần dần cái sân am hành đạo của ông biến thành sân võ. Một đêm đệ tử thấy thần oai ông đụng đầu vào một thân cây, cây lá rung rinh như đương đầu trước ngọn gió. Như vậy chắc ông thấy cũng chưa đủ, có lần ông đóng cây đinh ba tấc vào cột nhà, trước mặt hàng ngàn tín đồ đứng vây quanh, ông đụng đầu vào cây đinh, cây đinh quẹo ngang mà đầu ông không hề có một vết xước sát.
Rồi đêm đêm, như một thời xa xưa nào được dựng bên bờ sông đất Tân Châu. Trước cái sân am hành đạo của ông, lá dừa bó thành đuốc nổ lép bép, đỏ đùng đục như ánh ma trơi. Hàng trăm tín đồ với sắc phục vàng hươm, kiếm loang loáng trong ánh đuốc đỏ rực dưới trời đêm, bên con sông không bao giờ mệt mỏi, vừa trôi vừa vỗ sóng dập bờ.
Chừng như đã có một đạo quân, ông Đạo Tưởng bắt đầu lập triều đình: Ông là Minh Hoàng Quốc, quân trẻ của Nguyễn Văn Hương, Đinh Phan, Vương Lèo và Nguyễn Soái Năm. Đã có tham vọng có triều đình có quân đội, ắt phải có ngày hành động.
Theo sách đã ghi, đó là đêm mùng 8 rạng ngày 9 âm lịch năm Kỷ Mão (20 -2 -1939) đêm trăng lưỡi liềm mờ mờ ảo ảo cùng nhang khói, tín đồ từ xa kéo đến nghe ông thuyết pháp. Buổi thuyết pháp trong đêm huyền ảo ấy, ông không giảng giáo lý cao siêu của đấng Từ bi hay đức hy sinh cao cả của Phật Thích Ca, mà chuyển giọng sang sảng như tiếng kèn thúc quân.
"Hỡi đồng bào. Dân tộc ta đã bị người Lang Sa cai trị nhục nhã gần trăm năm nay, số của chúng ta đã sắp mãn, đồng bào hãy cùng bổn đạo đánh đuổi quân thù rửa nhục nước". Rồi ông đưa tay vỗ ngực dõng dạc tự xưng "Ta là Chánh vì Vương thừa mạng trời lập Quốc".
Như sóng dậy từ lòng người, tiếng hò hét của tín đồ dâng lên như sấm, đuốc huơ cao, dao gươm kiếm vung lên loang loáng, tiếng reo tiếng trống tiếng phèng la nổi dậy trời... Chó dọc theo con sông cất tiếng tru xao xác cả dân chợ dân làng.
Rạng ngày mùng 9 trời vừa hừng sáng, cò Laffont, quận trưởng Nguyễn Văn Đề, thơ ký Phan Văn Thông cùng với hai tiểu đội lính vũ trang súng trường, xếp hàng theo một bờ kinh Vĩnh An tiến vào đường chùa. Quân của cò Laffont vây tròn lấy cái am của ông Đạo Tưởng trong tầm súng.
Ông Đạo Tưởng không hề nao núng... Cái am của ông không còn là cái am hành đạo nữa. Là một triều đình đã bày binh bố trận, sẵn sàng chinh chiến. Đuốc trước am, ông Đạo Tưởng oai vệ trong sắc phục vàng, áo tay rộng, đầu phủ bịch cân, lưng thắt dây đen, chân mang giày vàng, cổ đeo lòng thòng xâu chuỗi bồ đề, theo cách mô tả của người cùng thời "ông đường đường như Vu Hồng đương kiểm binh vua tướng quỷ, sái đậu thành binh hầu xuất trận".
Đứng hai bên dài dọc theo sân võ, gồm hàng trăm nam nữ "đầu trọc áo vàng" tay gươm tay giáo, bừng bừng khí thế. Giữa sân võ là hai cái thây của hai vợ chồng Hương Kiếm đã bị đem ra tế cờ vào giữa đêm vì tội phản đạo. Ông cất giọng về phía quân thù, nhằm nói với tên cò Laffont và quận Lễ:
- Các ông cứ bắn súng đi. Súng đạn của các ông không lủng được da thịt của quân "Minh Hoàng Quốc" này đâu. Bắn đi.
Sau lời thách thức của ông, súng vẫn im. Với giọng nói hùng hồn và sang sảng của ông, tín đồ không chỉ tin súng không làm gì được ông mà kể cả họ nữa. Họ đã được thầy tẩm cho bùa ngải rồi. Cả ông, cả họ không còn là người thường nữa, họ là người mình đồng da sắt.
Quận Lễ đứng từ xa cất tiếng:
- Ba Quốc hãy buông gươm giáo đầu hàng. Không sẽ thiệt mạng.
Đạo Tưởng phất tay áo:
- Hỡi binh sĩ. Trẫm nay vốn thiệt là "Minh Hoàng". Các người hãy trả áo lại cho bọn Lang Sa cùng ta tiêu diệt kẻ thù. Tiến.
Tín đồ của ông một loạt trụ bộ, rừng chân đi vừa chĩa gươm giáo vừa hô, tiếng hô như tiếng gầm phát ra từ những lồng ngực rừng rực máu.
Phía bên cò Laffont và quận Lễ, đạn lên nòng, một họng súng cất lên trời.
- Cốp.
Súng không nổ. Viên đạn lép đầu tiên của cò Laffont là bằng chứng cho lòng tin của Đạo Tưởng và tín đồ.
Gươm giáo lủa tủa trong vang lên cùng tiếng gầm thét. Súng bắt đầu nổ. Nhưng đạn chỉ cày lên sân cỏ bốc khói chẳng trúng ai. Quân "đầu trọc áo vàng" của Đạo Tưởng vừa nhảy vừa xông lên như một đám lân vừa đạp xác pháo vừa cất cao đầu.
Khi mặt dần giáp mặt, ông Đạo Tưởng vừa lắc hai vai vừa bước, phất hai tay áo, đưa hai bộ vuốt hùm, mắt trợn nhìn cò Laffont, Lê trong nháy mắt, hai bộ vuốt hùm của ông sẽ móc cả ruột gan cò Laffont. Cò Laffont vừa lùi bước vừa móc súng, bàn tay cầm súng của hắn run lẩy bẩy. Một tiếng nổ.
Nghe tiếng "hực" của ông, binh lính tín đồ giật mình quay lại. Con người siêu phàm đang loạng choạng, vừa ngã, vừa đưa cái bàn tay móng vuốt hùm lên lồng ngực. Cái lồng ngực căng đầy của ông máu tràn đẫm cả chiếc áo vàng. Không một lời trối trăn, chỉ có tiếng "ừng ực" uất nghẹn không nên lời, hai con mắt nhìn trời trợn ngược.
Bao năm tu luyện bùa ngải, chỉ cần một tiếng nổ, một viên đạn đồng bằng đầu đũa, mộng lớn của ông bỗng tan biến như khói hương trong am hàng đạo trong cơn gió. Ông ngã xuống, không một tín đồ nào ở bên ông, quanh ông chỉ còn là gươm giáo của tín đồ đã tản chạy.
Sau này có một lão râu dài đến tận ngực, vốn trước kia, thỉnh thoảng ông được Đạo Tưởng mời vào am đàm đạo. Ông kể lại với một vài bạn tri âm:
- Ông Đạo muốn làm vua nước Nam, nhưng ông không biết biên giới nước Nam mình từ đâu đến đâu. Nước Nam có bao nhiêu sông lớn, bao nhiêu núi cao, ông cũng không rành. Ông tưởng đánh được đồn Tân Châu thì cả quân Pháp đầu hàng. Ông tội thay.
Ông lão đã đến bàn thờ ông Đạo Tưởng thắp ba nén nhang:
- Chí khí của ông thật là đáng phục, xin ông nhận cho tôi ba lạy.
Ông quỳ, ông lạy ba lạy rồi chắp tay ngửa mặt lên trời:
- Hỡi ôi. Ông Đạo Tưởng.
ST
Thanked by 2 Members:
|
|
#107
Gửi vào 20/06/2011 - 11:12
HAI CON MẮT
Ông Cửu Niệm ốm li bì đã gần hai tháng. Ông ta mắc một bệnh mà các thầy lang đều cho là bệnh mê sảng của những người già lẫn, tuy ông Cửu năm nay chưa đầy sáu mươi. Bệnh như không tăng mà cũng không lui. Đêm nào cũng vậy cứ vào khoảng một, hai giờ khuya ông Cửu lại ú ớ kêu la cầu cứu, khiến con cháu ông đều thức dậy chạy cả đến bên giường.
Vừa thở hổn hển ông vừa thuật lại giấc mơ dữ dội: hai con mắt hiện lên ám ảnh ông chăm chú nhìn ông, hai con mắt to như mắt hộ pháp lòng trắng dã và tròn, lòng đen đen nháy và vuông. Ông rên hừ hừ:
- Ối trời ơi.. hai con mắt.. hai con mắt vuông..
Rồi cho đến sáng ông Cửu không sao ngủ được. Một hôm ông gọi đông đủ con cháu đến bảo:
- Tao chắc đây là một việc báo thù hay một việc đòi của.
Ông Cửu như ngần ngại, sợ hãi xấu hổ nằm im lìm suy nghĩ, giương mắt nhìn thẳng lên đỉnh màn. Trong khi ấy các con cháu ông yên lặng, lo lắng kính cẩn đứng đợi. Về sau không giữ nổi ông thở dài kể tiếp:
- Chúng mày hẳn không biết vì sao ngày nay tao có cái cơ nghiệp này, cha mẹ tao có để cho tao một đồng một chữ nào đâu. Cả người trong làng cũng vậy, thấy tao đương nghèo đói, đói thực ấy bỗng trở nên giàu có, làm nhà làm cửa, tậu vườn tậu ruộng thì họ cũng đoán và đồn rằng tao được của,thế thôi, chứ sự thực thì tao chưa hé ra với ai một lời nào.
Nhưng sự thực thì chính tao được của. Ngày xưa tao nghèo lắm, thường đi gánh thuốc lào thuê cho người hoặc làm bất cứ công việc gì, để kiếm một ngày hai bữa cơm và vài tiền quý, có khi trời làm đói kém, chỉ được một ngày hai bữa cơm thôi cũng đã là may lắm rồi.
Một hôm tao đào móng nhà cho ông chánh Thà. Lúc ấy về chiều tối, ai nấy đã nghỉ tay sắp sửa ăn cơm. Nhưng tao còn đào chơi vài nhát thuổng nữa. Có lẽ trời xui khiến ra thế, vì có ai bắt mình làm đâu! Mà nào mình có làm việc cho mình cho cam!
Bỗng giữa những tiếng giục giã:
- Ra ăn rỗi, anh Niệm!
Tao thấy chỏi tay và nghe thấy một tiếng cạch, lưỡi thuổng của tao vừa xiên xuống một vật rắn chắc như thành một cái tiểu sành vậy. Tao cúi xuống bới nhìn thì đó là một cái vật nhỏ đậy nắp mà nắp lại trát gắn bùn rất cẩn thận. Tao đồ rằng trong đó có vật quý nên lấp lại điềm nhiên đi ăn cơm với mọi người.
Đêm hôm ấy tao xin ngủ lại chỗ xưởng làm, như thể là một sự rất thường mình vẫn ở làm thuê cho ông chánh, có khi trong luôn năm ba bữa nửa tháng không về qua nhà. Tao chờ đêm khuya vắng đến chỗ móng đào bới đất moi lên được một cái vại chỉ bằng cái vại nén cà nhỏ ấy thôi. Nhưng mà tao bê thấy nặng quá.
Nền nhà mới dựng vào một khu vườn rộng, ông chánh Thà giàu lắm đất ở thênh thang có tới vài mẫu. Tao đem cái vại của tao tới bụi chuối rậm, rồi mở nắp lấy hết những vật ở trong, gói vào giẻ rách giấu đi. Tao cũng không biết đó là những vật gì. Mãi hôm sau đem về mới biết là vàng, toàn những vàng thoi...
Ông Cửu ngừng kể. Các con cháu vẫn im lặng đứng chờ, vì chưa thấy có liên lạc giữa hai con mắt vuông, với cái vại vàng chôn. Sau một lúc lâu ông Cửu lại nói:
- Vậy tao chắc nay... nó đòi của. Nó theo tao nó đòi của. Hai con mắt nó hiện ra kia.. hai con mắt nó về để báo cho tao biết.. để báo cho tao biết rằng tao đã đến ngày tận số.
Ông Cửu nghẹn ngào như bị hai bàn tay vô hình bóp cổ. Người con cả ông an ủi.
- Thưa thầy, thầy được của là trời cho thầy. Của ấy là của trời. Nếu là của ông cha ông chánh Thà để lại, thì sao ông chánh lại không biết gì, thì sao xưa kia ông ta lại không đả động tới, mà các cụ tiền nhân cũng không báo mộng báo mù gì cho ông ta hay, nhất là tại sao của ấy lại không lọt vào tay ông ta.
Lại điều này nữa khiến con tin chắc chắn rằng trời dành của ấy cho thầy, là tại sao thầy lại tìm thấy cái vại để vàng giữa lúc nghỉ việc ? Nếu thầy đào được sớm hơn vào buổi sáng hay buổi trưa chẳng hạn, thì có phải đã ầm ĩ lên và ông chánh đã nhận mất vàng rồi còn đâu.
Không, con dám quả quyết rằng của ấy là của trời chứ không phải là của tổ tiên ông chánh. Của trời dành cho thầy. Vì thuở xưa hay kiếp trước thầy đã tu nhân tích đức nhiều lắm.
Ông Cửu mỉm cười nhắc lại:
- Thầy đã tu nhân tích đức nhiều lắm.
Ông nghĩ đến những việc ông đã làm, nào cho vay nặng lãi, nào trữ thóc gạo lại không bán làm cho giá cao lên trong khi bao nhiêu người chết đói, và ông lẩm bẩm:
- Hay đó là hai con mắt của bọn ấy đến đòi mạng đến bắt mình phải đem mạng mình ra mà thế mạng.
Nhưng ông nghĩ tiếp ngay, vì trong khi ốm tinh thần ông sáng suốt khác thường. Nếu là mất của chúng thì sao hai con mắt ấy lại lạ lùng thế. Sao tròng đen lại vuông lại to thế ? Không, chắc đây là mắt thần.
Tự nhiên trong tưởng tượng của ông, một vị thần hiện ra ngồi trên bệ gạch, một vị nữ thần miệng gắn nhựa trám và hai con mắt to thao láo tròng trắng tròn tròng đen vuông. Rồi pho tượng biến dần biến dần, chỉ còn lại hai con mắt đăm đăm nhìn ông. Ông lại la:
- Trời ơi..hai con mắt..hai con mắt vuông.
Và lắc đầu xua tay đuổi cả con cháu ra ngoài phòng. Mấy người con bàn nhau về căn bệnh cha. Họ đoán có tiền căn nghiệp chướng chi đây. Họ liền mời các vị cao tăng đến lập đàn ba ngày ba đêm ở sân để tụng kinh giải ách cho cha.
Đêm thứ ba cúng chúng sinh: một nhà sư tốt giọng hát bài ca chiêu hồn để gọi linh hồn chúng sinh về nghe kinh phật, trong bọn có đủ các hạng cùng khổ trong loài người.
Nào những kẻ sa cơ, lỡ bước... Bỗng ông Cửu kêu rú lên một tiếng rồi ngất đi. Và ông mơ thấy ông đi trên con đường nắng chân mỏi bụng đói. Hai bên đường lúa mọc xanh rờn, người làm việc đông đảo. Họ hát những câu ca dao mà ông cũng thuộc và những khi đi gặt hái ông thường hát.
Tới một cái miếu con ẩn trong bóng cây đa um tùm, ông dừng chân ngồi nghỉ. Một tia hy vọng vụt chiếu rọi vào mắt ông: ông vừa trông thấy kê trước cửa miếu một cái nia đầy những xu và trinh... Ông đưa mắt nhìn quanh: không một ai. Mấy nén hương cắm trên một thẻ vàng tỏa mùi thơm lạnh lẽo và càng làm tăng phần tĩnh mịch nơi miếu vắng.
Ông tự nhủ thầm: Mình chỉ việc đưa tay ra bốc một nắm bỏ túi là sẽ có cơm ăn, là sẽ không chết đói. Và ông đưa tay ra thực. Nhưng ông lại rụt tay lại, tưởng như có ai ghé mắt đâu đó đứng nhìn. Ông nghĩ đến câu chuyện Mường, chuyện Thổ, những chuyện ma xó giữ nhà: mình vào nhà lấy trộm vật gì trong khi chủ đi vắng; con ma sẽ đọc tên vật ấy lên rồi nó theo dõi mình mà bóp cổ cho mình chết. Tự nhiên, ông rùng rợn dựng tóc gáy vội vã bỏ đi.
Đi được một quãng ông lại quay về cái nia tiền. Ông định bụng cứ lấy một ít đi ăn cơm rồi chết thì chết cũng cam lòng. Chết còn hơn đói. Giữa lúc ấy một người đi đến. Ông sợ hãi nấp vào sau gốc đa. Người kia thản nhiên qua miếu, và ông nghe thấy hắn ném vào nia một đồng trinh. Chờ cho hắn đi khỏi, ông lại nhô ra đến bên cái nia đăm đăm nhìn. Nhưng vẫn không sao dám nhặt vài đồng trong nia tiền.. của thánh.
"Của thánh.. lấy tội chết thánh quật chết"
Ông Cửu Niệm thì thầm. Rồi quả quyết đi thẳng. Một quãng xa, ông gặp trên con đường rẽ vào một cái chợ đương họp, một chị ăn mày ngồi phục bên một cái rổ, một cái gậy, và ngước mắt trắng đục nhìn trời, miệng kêu than như ca hát:
"Con người thì có, con mắt thì không...".
Trong rổ có hai đồng trinh. Mắt ông Cửu như dán vào đó. Ông đứng im một hồi lâu, tai như lắng nghe câu van lơn của người ăn mày. Nhưng sự thực ông đương nghĩ thầm:
"Nó mù! Nó mù! Nó không trông thấy mình.. Quanh đây không một ai.."
Và ông cúi xuống lẳng lặng cúi xuống, rón rén nhặt hai đồng trinh thu vào trong bọc. Rồi ông hấp tấp chạy như sợ người mù đuổi theo. Ông vào chợ mua bát cơm đầy ăn ngốn ngấu. Ăn xong ông quay về con đường cũ. Qua đầu đường ông vẫn thấy người ăn xin ngồi nguyên chỗ, và trong rổ của nó hai đồng trinh vẫn còn. Ông mừng thầm tự nhủ:
"Thì ra mình mơ thấy mình lấy hai đồng trinh của nó. Kỳ thực mình có lấy đâu?
Tới miếu cũ ông ngắm lại cái nia. Lạ lùng chưa! Bao nhiêu trinh trong nia đã sắp thành từng đôi một. Và chỉ trong một giây biến thành những cặp mắt. Những cặp mắt ấy to mãi ra, to mãi ra và trừng trừng nhìn thẳng vào mắt ông, những cặp mắt tròng trắng tròn, tròng đen vuông. Cùng một lúc tiếng ăn mày cất lên tứ phía giọng nghe thê thảm:
- Lạy ông lạy bà, ông bà thương con, con người thì có, con mắt thì không.
Rồi bao nhiêu cặp mắt vuông bay tới tấp vây chặt lấy ông Cửu..Ông kêu thét lên:
- Trời ơi..hai con mắt vuông.
Rồi ông tỉnh mộng. Ngoài sân tiếng nhà sư đọc bài chiêu hồn chúng sinh, giọng trầm bổng như kẻ ăn mày kêu đường. Ông Cửu thở hổn hển rồi lại ngất đi. Sáng hôm sau ông gọi các con đến trối trăn:
- Cha nhiều tội lắm. Cha ở ác với rất nhiều người, nhưng với hai con mắt... với hai con mắt vuông ấy thì cha chết mất. Đó là hai con mắt thịt, hai con mắt trần, chứ không phải mắt thần, mắt thánh nào cả như cha vẫn tưởng nhầm. Ngày ấy..đã lâu lắm..Nhưng mà thôi đã có các con chuộc tội cho cha. Ngay hôm nay các con rao mõ rằng luôn năm hôm cha phát chẩn cho những người đói khó trong khắp vùng này. Mỗi người các con cho một bát gạo với hai đồng trinh. Hai đồng trinh các con nhớ chưa? Đó là cha trả nợ còn bát gạo là cha trả lãi.
Chiều hôm ấy ông Cửu nghe tiếng mõ rao, và biết rằng các con ông sẽ làm theo lời ông trối lại. Ông sung sướng mỉm cười trong giấc ngủ cuối cùng. ông chắc chắn sẽ thoát khỏi sức áp bách, sức thôi miên của hai con mắt vuông.
Đời Nay
Ông Cửu Niệm ốm li bì đã gần hai tháng. Ông ta mắc một bệnh mà các thầy lang đều cho là bệnh mê sảng của những người già lẫn, tuy ông Cửu năm nay chưa đầy sáu mươi. Bệnh như không tăng mà cũng không lui. Đêm nào cũng vậy cứ vào khoảng một, hai giờ khuya ông Cửu lại ú ớ kêu la cầu cứu, khiến con cháu ông đều thức dậy chạy cả đến bên giường.
Vừa thở hổn hển ông vừa thuật lại giấc mơ dữ dội: hai con mắt hiện lên ám ảnh ông chăm chú nhìn ông, hai con mắt to như mắt hộ pháp lòng trắng dã và tròn, lòng đen đen nháy và vuông. Ông rên hừ hừ:
- Ối trời ơi.. hai con mắt.. hai con mắt vuông..
Rồi cho đến sáng ông Cửu không sao ngủ được. Một hôm ông gọi đông đủ con cháu đến bảo:
- Tao chắc đây là một việc báo thù hay một việc đòi của.
Ông Cửu như ngần ngại, sợ hãi xấu hổ nằm im lìm suy nghĩ, giương mắt nhìn thẳng lên đỉnh màn. Trong khi ấy các con cháu ông yên lặng, lo lắng kính cẩn đứng đợi. Về sau không giữ nổi ông thở dài kể tiếp:
- Chúng mày hẳn không biết vì sao ngày nay tao có cái cơ nghiệp này, cha mẹ tao có để cho tao một đồng một chữ nào đâu. Cả người trong làng cũng vậy, thấy tao đương nghèo đói, đói thực ấy bỗng trở nên giàu có, làm nhà làm cửa, tậu vườn tậu ruộng thì họ cũng đoán và đồn rằng tao được của,thế thôi, chứ sự thực thì tao chưa hé ra với ai một lời nào.
Nhưng sự thực thì chính tao được của. Ngày xưa tao nghèo lắm, thường đi gánh thuốc lào thuê cho người hoặc làm bất cứ công việc gì, để kiếm một ngày hai bữa cơm và vài tiền quý, có khi trời làm đói kém, chỉ được một ngày hai bữa cơm thôi cũng đã là may lắm rồi.
Một hôm tao đào móng nhà cho ông chánh Thà. Lúc ấy về chiều tối, ai nấy đã nghỉ tay sắp sửa ăn cơm. Nhưng tao còn đào chơi vài nhát thuổng nữa. Có lẽ trời xui khiến ra thế, vì có ai bắt mình làm đâu! Mà nào mình có làm việc cho mình cho cam!
Bỗng giữa những tiếng giục giã:
- Ra ăn rỗi, anh Niệm!
Tao thấy chỏi tay và nghe thấy một tiếng cạch, lưỡi thuổng của tao vừa xiên xuống một vật rắn chắc như thành một cái tiểu sành vậy. Tao cúi xuống bới nhìn thì đó là một cái vật nhỏ đậy nắp mà nắp lại trát gắn bùn rất cẩn thận. Tao đồ rằng trong đó có vật quý nên lấp lại điềm nhiên đi ăn cơm với mọi người.
Đêm hôm ấy tao xin ngủ lại chỗ xưởng làm, như thể là một sự rất thường mình vẫn ở làm thuê cho ông chánh, có khi trong luôn năm ba bữa nửa tháng không về qua nhà. Tao chờ đêm khuya vắng đến chỗ móng đào bới đất moi lên được một cái vại chỉ bằng cái vại nén cà nhỏ ấy thôi. Nhưng mà tao bê thấy nặng quá.
Nền nhà mới dựng vào một khu vườn rộng, ông chánh Thà giàu lắm đất ở thênh thang có tới vài mẫu. Tao đem cái vại của tao tới bụi chuối rậm, rồi mở nắp lấy hết những vật ở trong, gói vào giẻ rách giấu đi. Tao cũng không biết đó là những vật gì. Mãi hôm sau đem về mới biết là vàng, toàn những vàng thoi...
Ông Cửu ngừng kể. Các con cháu vẫn im lặng đứng chờ, vì chưa thấy có liên lạc giữa hai con mắt vuông, với cái vại vàng chôn. Sau một lúc lâu ông Cửu lại nói:
- Vậy tao chắc nay... nó đòi của. Nó theo tao nó đòi của. Hai con mắt nó hiện ra kia.. hai con mắt nó về để báo cho tao biết.. để báo cho tao biết rằng tao đã đến ngày tận số.
Ông Cửu nghẹn ngào như bị hai bàn tay vô hình bóp cổ. Người con cả ông an ủi.
- Thưa thầy, thầy được của là trời cho thầy. Của ấy là của trời. Nếu là của ông cha ông chánh Thà để lại, thì sao ông chánh lại không biết gì, thì sao xưa kia ông ta lại không đả động tới, mà các cụ tiền nhân cũng không báo mộng báo mù gì cho ông ta hay, nhất là tại sao của ấy lại không lọt vào tay ông ta.
Lại điều này nữa khiến con tin chắc chắn rằng trời dành của ấy cho thầy, là tại sao thầy lại tìm thấy cái vại để vàng giữa lúc nghỉ việc ? Nếu thầy đào được sớm hơn vào buổi sáng hay buổi trưa chẳng hạn, thì có phải đã ầm ĩ lên và ông chánh đã nhận mất vàng rồi còn đâu.
Không, con dám quả quyết rằng của ấy là của trời chứ không phải là của tổ tiên ông chánh. Của trời dành cho thầy. Vì thuở xưa hay kiếp trước thầy đã tu nhân tích đức nhiều lắm.
Ông Cửu mỉm cười nhắc lại:
- Thầy đã tu nhân tích đức nhiều lắm.
Ông nghĩ đến những việc ông đã làm, nào cho vay nặng lãi, nào trữ thóc gạo lại không bán làm cho giá cao lên trong khi bao nhiêu người chết đói, và ông lẩm bẩm:
- Hay đó là hai con mắt của bọn ấy đến đòi mạng đến bắt mình phải đem mạng mình ra mà thế mạng.
Nhưng ông nghĩ tiếp ngay, vì trong khi ốm tinh thần ông sáng suốt khác thường. Nếu là mất của chúng thì sao hai con mắt ấy lại lạ lùng thế. Sao tròng đen lại vuông lại to thế ? Không, chắc đây là mắt thần.
Tự nhiên trong tưởng tượng của ông, một vị thần hiện ra ngồi trên bệ gạch, một vị nữ thần miệng gắn nhựa trám và hai con mắt to thao láo tròng trắng tròn tròng đen vuông. Rồi pho tượng biến dần biến dần, chỉ còn lại hai con mắt đăm đăm nhìn ông. Ông lại la:
- Trời ơi..hai con mắt..hai con mắt vuông.
Và lắc đầu xua tay đuổi cả con cháu ra ngoài phòng. Mấy người con bàn nhau về căn bệnh cha. Họ đoán có tiền căn nghiệp chướng chi đây. Họ liền mời các vị cao tăng đến lập đàn ba ngày ba đêm ở sân để tụng kinh giải ách cho cha.
Đêm thứ ba cúng chúng sinh: một nhà sư tốt giọng hát bài ca chiêu hồn để gọi linh hồn chúng sinh về nghe kinh phật, trong bọn có đủ các hạng cùng khổ trong loài người.
Nào những kẻ sa cơ, lỡ bước... Bỗng ông Cửu kêu rú lên một tiếng rồi ngất đi. Và ông mơ thấy ông đi trên con đường nắng chân mỏi bụng đói. Hai bên đường lúa mọc xanh rờn, người làm việc đông đảo. Họ hát những câu ca dao mà ông cũng thuộc và những khi đi gặt hái ông thường hát.
Tới một cái miếu con ẩn trong bóng cây đa um tùm, ông dừng chân ngồi nghỉ. Một tia hy vọng vụt chiếu rọi vào mắt ông: ông vừa trông thấy kê trước cửa miếu một cái nia đầy những xu và trinh... Ông đưa mắt nhìn quanh: không một ai. Mấy nén hương cắm trên một thẻ vàng tỏa mùi thơm lạnh lẽo và càng làm tăng phần tĩnh mịch nơi miếu vắng.
Ông tự nhủ thầm: Mình chỉ việc đưa tay ra bốc một nắm bỏ túi là sẽ có cơm ăn, là sẽ không chết đói. Và ông đưa tay ra thực. Nhưng ông lại rụt tay lại, tưởng như có ai ghé mắt đâu đó đứng nhìn. Ông nghĩ đến câu chuyện Mường, chuyện Thổ, những chuyện ma xó giữ nhà: mình vào nhà lấy trộm vật gì trong khi chủ đi vắng; con ma sẽ đọc tên vật ấy lên rồi nó theo dõi mình mà bóp cổ cho mình chết. Tự nhiên, ông rùng rợn dựng tóc gáy vội vã bỏ đi.
Đi được một quãng ông lại quay về cái nia tiền. Ông định bụng cứ lấy một ít đi ăn cơm rồi chết thì chết cũng cam lòng. Chết còn hơn đói. Giữa lúc ấy một người đi đến. Ông sợ hãi nấp vào sau gốc đa. Người kia thản nhiên qua miếu, và ông nghe thấy hắn ném vào nia một đồng trinh. Chờ cho hắn đi khỏi, ông lại nhô ra đến bên cái nia đăm đăm nhìn. Nhưng vẫn không sao dám nhặt vài đồng trong nia tiền.. của thánh.
"Của thánh.. lấy tội chết thánh quật chết"
Ông Cửu Niệm thì thầm. Rồi quả quyết đi thẳng. Một quãng xa, ông gặp trên con đường rẽ vào một cái chợ đương họp, một chị ăn mày ngồi phục bên một cái rổ, một cái gậy, và ngước mắt trắng đục nhìn trời, miệng kêu than như ca hát:
"Con người thì có, con mắt thì không...".
Trong rổ có hai đồng trinh. Mắt ông Cửu như dán vào đó. Ông đứng im một hồi lâu, tai như lắng nghe câu van lơn của người ăn mày. Nhưng sự thực ông đương nghĩ thầm:
"Nó mù! Nó mù! Nó không trông thấy mình.. Quanh đây không một ai.."
Và ông cúi xuống lẳng lặng cúi xuống, rón rén nhặt hai đồng trinh thu vào trong bọc. Rồi ông hấp tấp chạy như sợ người mù đuổi theo. Ông vào chợ mua bát cơm đầy ăn ngốn ngấu. Ăn xong ông quay về con đường cũ. Qua đầu đường ông vẫn thấy người ăn xin ngồi nguyên chỗ, và trong rổ của nó hai đồng trinh vẫn còn. Ông mừng thầm tự nhủ:
"Thì ra mình mơ thấy mình lấy hai đồng trinh của nó. Kỳ thực mình có lấy đâu?
Tới miếu cũ ông ngắm lại cái nia. Lạ lùng chưa! Bao nhiêu trinh trong nia đã sắp thành từng đôi một. Và chỉ trong một giây biến thành những cặp mắt. Những cặp mắt ấy to mãi ra, to mãi ra và trừng trừng nhìn thẳng vào mắt ông, những cặp mắt tròng trắng tròn, tròng đen vuông. Cùng một lúc tiếng ăn mày cất lên tứ phía giọng nghe thê thảm:
- Lạy ông lạy bà, ông bà thương con, con người thì có, con mắt thì không.
Rồi bao nhiêu cặp mắt vuông bay tới tấp vây chặt lấy ông Cửu..Ông kêu thét lên:
- Trời ơi..hai con mắt vuông.
Rồi ông tỉnh mộng. Ngoài sân tiếng nhà sư đọc bài chiêu hồn chúng sinh, giọng trầm bổng như kẻ ăn mày kêu đường. Ông Cửu thở hổn hển rồi lại ngất đi. Sáng hôm sau ông gọi các con đến trối trăn:
- Cha nhiều tội lắm. Cha ở ác với rất nhiều người, nhưng với hai con mắt... với hai con mắt vuông ấy thì cha chết mất. Đó là hai con mắt thịt, hai con mắt trần, chứ không phải mắt thần, mắt thánh nào cả như cha vẫn tưởng nhầm. Ngày ấy..đã lâu lắm..Nhưng mà thôi đã có các con chuộc tội cho cha. Ngay hôm nay các con rao mõ rằng luôn năm hôm cha phát chẩn cho những người đói khó trong khắp vùng này. Mỗi người các con cho một bát gạo với hai đồng trinh. Hai đồng trinh các con nhớ chưa? Đó là cha trả nợ còn bát gạo là cha trả lãi.
Chiều hôm ấy ông Cửu nghe tiếng mõ rao, và biết rằng các con ông sẽ làm theo lời ông trối lại. Ông sung sướng mỉm cười trong giấc ngủ cuối cùng. ông chắc chắn sẽ thoát khỏi sức áp bách, sức thôi miên của hai con mắt vuông.
Đời Nay
#108
Gửi vào 20/06/2011 - 11:21
CHIẾC NANH HEO RỪNG CỦA ĐẠO VUỐT
Trên quốc lộ mười lăm đường đi Sàigòn Vũng Tàu, vào khoảng cây số tám mươi lăm, về phía bên tay trái, đối diện Rừng Sát là núi Ông Trịnh. Trên lưng chừng đồi núi này có một cái hang mà trước đây ông "Đạo Vuốt" đã từng tu trong đó. Ngày nay ông Đạo đã đi đâu bặt tăm mà chẳng ai biết, hang bỏ hoang trông thật tiêu điều hoang vắng.
Dưới chân núi Ông Trịnh là những gò mả nằm ngỗn ngang, vì lâu ngày không ai chăm sóc sửa sang nên cỏ gai mọc um tùm. Người ta đồn rằng vào những đêm trăng mờ gió lạnh, có những tiếng khóc than thật thê lương hờn tủi, xuất phát từ những ngôi mộ đó, lời ai oán này chính là những phụ nữ đã bị ông đạo giết chết lấy hài nhi để luyện thiên linh cái. Không ai dám lai vãng đến nơi đây, ngoại trừ lũ chồn cáo đào hang làm ổ mặc sức hoành hành, đêm đêm lẻn vào xóm làng để bắt gà vịt.
Trong làng có chú Ba Ten sống bằng nghề hái măng bẩy thú. Trước đây chú từng là đệ tử của ông đạo vuốt. Vào một buổi chiều mua thu trời tím thẫm, mưa gió rả rích, trong một căn chòi tranh vách nứa, bên chai rượu đế và mấy con sóc nướng xã ớt, chú Ba Ten kể cho tôi nghe một chuyện về ông đạo vuốt.
- "Ông tên thật là Nguyễn văn Kiên thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương do đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên sáng lập rao giảng về nghĩa tứ ân là: ân tổ tiên, cha mẹ, đất nước và ân đồng bào. Ông gốc người Long xuyên về đây giữa năm 1960 cất một cái chòi tranh, hàng ngày đi giảng đạo và chữa bệnh. Lúc ấy tôi đang bị sốt rét nặng, tưởng đã chết may nhờ có ông cứu chữa mới qua được cơn bạo bệnh. Sau đó tôi xin theo ông học cách chữa bệnh.
Thường ngày tôi và ông vào rừng, leo núi tìm cây hái thuốc. Một buổi trưa chúng tôi tìm được một hang sâu và rộng, trong đó có một ngọn suối nhỏ, nước trong và mát uống vào ngọt lịm. Bên ngoài hang xung quanh còn có nhiều cây ăn trái như xoài, bưởi, khế.. cảnh vật thật yên tĩnh xinh đẹp. Trước mặt nhìn ra biển cả bao la, bên trái là những cánh đồng lúa chín, bên phải là lăng của ông Trịnh, sau lưng là núi Thị Vãi hùng vĩ phong cảnh thiêng liêng và hữu tình.
Thầy Kiên phấn khởi lắm. Ông nói:
- Hang đá nầy có lẽ là cái hàm rồng mà từ lâu ta vẫn để công tìm kiếm, vậy ta sẽ tu tại đây.
Một hôm hai thầy trò chúng tôi chuẩn bị thức ăn thật nhiều, đi thật sâu vào rừng để tìm các loại thuốc quý và hiếm, chúng tôi băng rừng vượt suối, nơi đây chưa hề có bước chân người lai vãng, cây cối xanh mướt lạ thường, bốn bề vắng lặng chẳng nghe tiếng động của một con thú nào, kể cả tiếng chim cũng không có.
Hai thầy trò vẫn tiếp tục tiến sâu vào. Đến một cánh đồng cỏ tranh bỗng có tiếng cọp gầm liên hồi và tiếng hồng hộc giận dữ của loài heo rừng phát ra từ hướng trước mặt. Tôi giật mình lo sợ, trống ngực đánh thình thịch tính lùi lại quay về, nhưng thầy Kiên lại ra dấu đừng sợ, ông cầm cây roi bằng gỗ mun tiến lên.
Bất đắc dĩ tôi phải rón rén hồi hộp từng bước theo sau. Tiếng mãnh thú gầm gừ mỗi lúc một gần hơn, thầy Kiên ra dấu dừng lại, vạch đám cỏ phía trước ra. Tôi giật mình khiếp đãm chết trân. Trước mặt chúng tôi là một con cọp vằn vện to bằng con bò, cặp mắt long lên sòng sọc, nhìn đối thủ là con heo rừng khủng khiếp lông lưng dựng đứng, đầu to như cái thúng cặp nanh dài bén nhọn như hai lưỡi dao, chĩa lên phía trước như thách thức đợi chờ.
Hai mãnh thú gườm nhau, cọp bỗng mọp người xuống, phóng lên đánh tạt vào má heo thật mạnh, heo tránh được, đâm ngược chiếc nanh trúng bã vai cọp xé một đường dài, cọp gầm lên tức giận chụp lên lưng heo, nhờ lớp da dầy và chai cứng che chở, heo chỉ bị thương nhẹ. Hộc lên một tiếng thật lớn hất cọp rớt xuống, dùng bốn chân dậm túi bụi vào lưng và bụng cọp, cọp lăn lộn gầm thét ngữa miệng lên cắn vào chân và đùi heo, hai con mãnh thú lăn xả vào nhau cắn xé, đâm chém bụi bay mịt mù.
Bỗng cọp gầm lên phóng mình ra ngoài vòng chiến, nằm phục xuống căm hờn nhìn đối thủ. Một hồi sau như đã nghỉ mệt xong và có lẽ đã tìm được lối đánh mới, cọp đập đuôi xuống đất, gầm lên một tiếng thật lớn phóng người lên cao, lộn ngược đầu xuống chụp ngược vào hậu môn heo, ý chừng muốn rút ruột heo lôi ra. Nhưng cọp không ngờ đã sa vào thế đánh của heo, heo đã nhanh như chớp quay lại cắm ngập chiếc nanh vào họng cọp, máu phọt ra có vòi, cọp gầm lên đau đớn rồi phóng mình bỏ chạy heo hăng hái đuổi theo.
Cọp chạy đến một gò mối phóng mình lên, heo chạy đến vừa đưa đầu ngước lên liền bị cọp thọc chân xuống móc mắt lôi ra, bị trúng đòn độc heo bật ngửa ra sau, giẫy giụa kêu vang thảm thiết, máu từ hốc mắt chảy ra lai láng, không bỏ lỡ cơ hội, cọp phóng xuống cắn mạnh vào họng heo giữ chặt ngấu nghiến, heo vùng vẫy yếu dần.
Tôi nhắm mắt lại không dám nhìn thêm cảnh tượng quá dã man tàn bạo nầy. Bỗng thầy Kiên chụp cây roi nhảy ra ngoài vọt mình lên cao, hét lên một tiếng thật lớn dơ thẳng cây roi dùng hết sức bình sanh đập mạnh xuống lưng cọp "bốp", xương cọp gẫy rụm, cọp rống lên máu họng trào ra, ngáp ngáp mấy cái rồi ngoẽo đầu sang một bên chết tốt. Con heo rừng thoát chết từ từ đứng dậy, yên lặng nhìn thầy Kiên một chút rồi chậm chạp đi vào rừng cây. Lúc nầy tôi mới hoàn hồn, mon men đến bên thầy, ôm thầy thật chặt kính phục tài nghệ của thầy.
Về đến nhà tôi báo cho dân làng mang xe bò vô rừng kéo xác cọp về. Trông thấy xác cọp ai cũng lắc đầu lè lưỡi, có người kêu lên:
- Trời ơi! cọp nầy lớn quá, tôi mới thấy lần đầu phải trên ba trăm kg là ít.
Sau đó một người đánh diêm lên đốt bộ râu cọp. Theo lời người xưa kể lại, nếu nhét một sợi râu cọp vào mụt măng non, khi măng già râu cọp sẽ biến thành một loại sâu lạ, phân của sâu là một loại thuốc độc cực mạnh. Muốn giết ai chỉ cần bỏ một chút xíu vào nước hay rượu cho người đó uống sẽ chết ngay tức khắc. Để tránh tội ác phải thiêu hủy bộ râu cọp trước.
Vài tuần sau lúc trời vừa chạng vạng tối, tôi đang phụ với thầy xúc thuốc phơi nắng bỏ vào bao đem cất, thì con heo một mắt tới, thân hình nó thật ghê tởm lở lói, bên mắt hư của nó đỏ như quả ổi chín bị chim ăn giòi bọ lúc nhúc. Nó nhìn chúng tôi một chốc rồi quay lại phóng mình thật mạnh đâm vào cây bằng lăng nằm im bất động. Khi đến xem thì nó đã chết, chiếc nanh cắm thật sâu vào thân cây.
Hai tháng sau cây bằng lăng bỗng nhiên trụi lá chết khô. Rồi vào một đêm khuya mưa gió bão bùng, cây bằng lăng bị đánh trốc gốc, ngã dài trên mặt đất, chỗ có chiếc răng ngửa lên trên. Tôi và thầy Kiên dùng rìu đẽo chặt cả tiếng mới lấy chiếc nanh ra được. Thầy Kiên quý chiếc răng nầy lắm, lúc nào cũng mang bên mình.
Thầy Kiên là một thầy thuốc Nam rất giỏi, chữa bệnh rất mát tay, đã chữa cho nhiều người hết bệnh, tiếng tăm thầy vang lừng, người từ phương xa nghe danh ùn ùn kéo đến. Những người chữa theo Tây âu dần dần mất thân chủ, tức giận và đố kỵ tài năng, họ tìm cách hãm hại thầy, họ phao tin đồn là thầy có thiên linh cái. Từ đó ác danh đạo vuốt được gán cho thầy với những tội ác tày trời làm náo động khắp vùng, nên chính quyền tìm cách bắt thầy nhưng thầy đã thoát được.
Báo chí làm ầm lên, họ phái phóng viên xuống địa phương băng rừng, leo núi vào tận trong hang chụp ảnh, tìm tòi viết những bài phóng sự giật gân, hấp dẫn lôi cuốn người đọc. Mọi người đều say mê, thích thú với những truyền thuyết huyền thoại về thầy, họ muốn biết mặt thầy tìm hiểu về thầy nhiều hơn nữa.
Nhưng bóng dáng thầy vẫn bặt tăm. Sự biến mất đầy bí ẩn của thầy làm mọi người thắc mắc tò mò hơn, biết bao nhiêu câu chuyện được đồn đãi lên, mỗi người kể mỗi khác về những gì họ thấy và có liên quan đến thầy. Ông Chín Tọc làm nghề bắt cắc kè quả quyết đã trông thấy thầy ngồi thiền trên tảng đá trong dãy núi Tóc Tiên, chị Mười Núi hái măng thấy thầy dạo trong rừng trúc trên núi bà Tám, anh Nhâm còn nói điều kỳ bí lạ lùng hơn là đã thấy thầy ngồi trong chiếc hang của thầy tu trước kia.
Thời gian qua đi mọi người vì lo cho nhu cầu cơm áo hằng ngày nên vấn đề quan tâm thắc mắc về thầy cũng từ đó vơi dần. Cho đến một đêm khuya tiết trời oi bức, không một cơn gió thổi, tôi nằm trên giường cứ trằn trọc mãi mà không ngủ được, đang thao thức bỗng có tiếng gõ cửa, bước ra ngoài tôi giật mình sững sốt gặp lại thầy Kiên. Thầy đưa tôi một gói nhỏ và nói:
- Con giữ vật này, nó sẽ mang lại cho con nhiều may mắn.
Nói xong ông quay lưng lại bước vào màn đêm rồi mất hút. Vào nhà đốt đèn lên, mở ra xem thì đó là chiếc nanh heo rừng.
Kể xong câu chuyện tôi thấy những giọt nước mắt đã lăn trên khuôn mặt bâng khuâng nhiều xúc cảm của chú Ba Ten. Uống cạn ly rượu đặt xuống bàn, chú yên lặng đứng dậy đi đến bàn thờ lấy xuống một gói vải đỏ, mở ra đưa cho tôi xem chiếc nanh heo rừng. Chiếc nanh thật đẹp dài gần hai tấc, lên nước bóng loáng như có thoa một lớp dầu bóng, có chổ ửng vàng như màu lòng đỏ trứng gà, có chỗ màu nâu chocolate có chỗ màu nâu đen như màu máu khô, nhìn kỹ thấy gần đầu nanh có một lằn nứt ngang gần giáp vòng, tôi nghĩ có lẽ đây là vết tích do heo húc quá mạnh vào thân cây khi trước.
Cầm chiếc nanh mát lạnh trong bàn tay, mà đầu óc tôi cứ nghĩ miên man về những huyền thoại của nó. Chuyện quyết đấu sanh tử giữa heo và cọp, chuyện heo "hiến" răng cho thầy Kiên và những truyền thuyết huyền bí về ông. Sau này trước khi tổ chức cho gia đình đi vượt biên, tôi có nói với chú Ba Ten, chú tặng lại cho tôi chiếc nanh heo và nói:
- Ông bà mình có câu có thờ có thiêng, có kiêng có lành, cháu nhớ lấy.
Tôi vô cùng xúc động trước tấm lòng bao dung, nhân ái đầy vị tha của chú. Tôi nghĩ rằng chú phải thương tôi lắm mới cho tôi một vật quý giá và đầy kỷ niệm.
Chuyện tôi tổ chức vượt biên bất thành, công an truy nã ráo riết, tôi phải trốn lánh từ nơi này đến nơi khác, phải mấy năm sau tôi mới qua được Campuchia, từ đó tôi vượt biên qua Thái Lan thành công.
Sáng nay trong một căn phòng thật yên tĩnh, bên ly trà nóng, đầu óc trong sáng thảnh thơi không một chút suy tư, tay tôi cầm chiếc nanh heo, nhớ lại những chuyện đã qua, tôi nghĩ phải có một cái gì đó linh thiêng, huyền bí lắm đã chở che cho tôi vượt qua những gian nguy thử thách. Chợt tôi nhớ đến câu của chú Ba Ten:
- Có thờ có thiêng có kiêng có lành.
Thật là huyền diệu.
Nguyễn Tường Lâm
BÍ ẨN CHIẾC BÀN XOAY
Dù để mặt bàn ở đâu thì bàn đều xoay như ý muốn người trắc nghiệm không kể tay đặt âm hay dương, không kể nam hay nữ, không kể người thành hôn hay chưa thành hôn, nam đặt tay sấp cùng nữ đặt tay ngửa.
Trong chuyến vào Thành Phố Đà Lạt năm 2006, tình cờ tôi gặp ba chiếc bàn xoay và được biết chúng xuất xứ từ một gia đình người làng An Hòa, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Điều lạ lùng là khi một mình tôi đặt tay lên chiếc bàn xoay tại nhà số 30A đường Khe Sanh, thì bàn không xoay dù tôi đã ra lệnh. Phải hai người đặt tay bàn mới xoay. Nhưng khi đến khu du lịch đồi Mộng Mơ, một mình tôi đặt hai tay lên mặt bàn ra lệnh thì bàn xoay.
Bấy giờ có mươi khách tham quan đang đứng vây quanh bàn. Một du khách kêu lớn: "Ông này ghê quá!". Tôi nảy ra ý định thử tìm hiểu vấn đề này. Không chuyên về hiện tượng siêu nhiên mà có người gọi là "Ngoại cảm", "Đặc dị công năng", "Tâm linh"… tôi chỉ gặp gỡ trong một vài cuốn sách trên bước đường nghiên cứu các tín ngưỡng và tôn giáo. Tôi biết với sức lực và tri thức một mình tôi thì không thể nghiên cứu tương đối khoa học về vấn đề này. Tôi cũng không có mục đích nghiên cứu khoa học thật sự đề tài này, chẳng qua một chút hiếu kỳ lúc có cơ hội.
Đầu năm 2007, trong một dịp trở lại Đà Lạt, nhân ngày chủ nhật rảnh rỗi, tôi dự định làm một cuộc trắc nghiệm bàn xoay, dùng bốn nam hai nữ, có người đã kết hôn, người chưa kết hôn, người có trình độ sau đại học...
Đáng tiếc đến chiều thì Đà Lạt đổ mưa chỉ còn tôi và một nam tài xế taxi tên là Nguyễn Anh Tuấn đi nghiên cứu. Nhờ một cán bộ khoa Đông Phương giúp đỡ, tôi được Tạ Hoàng Giang, Trưởng phòng Kinh doanh Công ty Du lịch đồi Mộng Mơ giúp đỡ tận tình. Nếu không có anh việc nghiên cứu khó lòng được như đã làm.
Kế hoạch của tôi là trắc nghiệm từng cá nhân đặt một tay, hai tay, một ngón tay lên bàn xoay. Tay đặt sấp ngửa, nam nữ thay nhau để kiểm tra khả năng có tác dụng âm dương hay không. Đo đạc và cân mặt bàn để tìm hiểu lực cản. Đo tốc độ di chuyển của bàn nhanh chậm. Nhưng việc đo tốc độ không thực hiện được vì thiếu trợ lý. Những chiếc bàn xoay đều là đối tượng khai thác khách tham quan nên không thể tiếp tục nghiên cứu làm ảnh hưởng kinh doanh của chủ nhân chiếc bàn. Thời gian nghiên cứu dài nhất là chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ.
Cả ba chiếc bàn được tôi chọn trắc nghiệm đều cùng một mô thức: ba chân nhỏ đỡ thân bàn là một trụ gỗ tròn mà đầu trụ đặt vào một lỗ tròn dưới mặt bàn làm trục cho mặt bàn xoay. Cả ba bàn đều như thế và mặt bàn đều là ván ghép chứ không phải một tấm gỗ tròn nguyên vẹn. Dưới mặt bàn đều có hai thanh gỗ dài nhỏ ghép đỡ mặt bàn và cùng hai đoạn gỗ ngắn cấu tạo thành một ô tứ giác, trong đó có lỗ trục hình tròn.
Độ tròn ba mặt bàn đều không hoàn toàn chuẩn nhưng không sai số lớn nên nhìn mắt thường đều tròn.
Theo nhìn nhận của tôi thì ba chiếc bàn cùng một loại gỗ đen sẫm thớ rất mịn, không biết gỗ gì nhưng có lẽ không phải gỗ tạp mà cũng không phải tứ thiết. Khác biệt chăng là bàn cao thấp khác nhau, đường kính mặt bàn khác nhau, độ dày mặt bàn khác nhau.
Kích thước cụ thể của chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ như sau: cao 87cm, đường kính mặt bàn 74cm, mặt bàn dày 1,7cm, mặt bàn cân nặng 8,5kg.
Lần lượt trắc nghiệm bốn người: đặt một tay, hai tay, úp bàn tay và ngửa bàn tay, dùng suy nghĩ khiến bàn xoay quay trái phải nhanh chậm dừng, không cần nói to thành lời. Hiệu quả là tất cả các trường hợp trắc nghiệm:
Mặt bàn đặt trên trục bàn, mặt bàn úp sấp trên ghế nhựa, mặt bàn để ngửa trực tiếp trên sàn gạch men, mặt bàn đặt nghiêng trên sàn gạch men thì bàn đều xoay như ý muốn người trắc nghiệm không kể tay đặt âm hay dương, không kể nam hay nữ, không kể người thành hôn hay chưa thành hôn, nam đặt tay sấp cùng nữ đặt tay ngửa. Về chiếc bàn xoay nhà bác Trần Mến, anh Tạ Hoàng Giang nói:
- Bàn xoay này do bác Trần Mến bốn mươi bảy tuổi, cổ đông sáng lập Công ty Du lịch đồi Mộng Mơ mang đến. Bác Trần Mến là người xã Hoài Phú, gần thị trấn Tam Quan huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định, mua bàn xoay ở xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Bác Mến lập nghiệp bằng bàn xoay. Hiện tại nhà bác còn một chiếc bàn xoay nhỏ hơn.
Nguyễn Anh Tuấn và tôi tiến hành trắc nghiệm kết quả giống như chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ. Chúng tôi đến nhà bác Lưu Xuân Ưởng ở số 30A đường Khe Sanh. Bác sáu mươi tuổi, người xã Trực Thành huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định, thuê gian nhà này để kinh doanh bàn xoay. Bác cho biết bác mua chiếc bàn xoay này của ông Nguyễn Tại thôn An Hòa, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Bác Ưởng biểu diễn để mặt bàn lên ghế nhựa cho xoay.
Do khó khăn về thời gian và người giúp việc nên tôi chỉ trực tiếp trắc nghiệm nhiều lần chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ, trắc nghiệm một vài lần ở hai bàn xoay sau, còn lại là do chủ nhân các bàn xoay và Nguyễn Anh Tuấn tiến hành. Các cuộc trắc nghiệm còn ở dạng quá thô sơ và vì nhiều lý do nên chưa thực sự kỹ càng. Tôi thừa nhận trắc nghiệm chưa đủ giá trị khoa học. Nhưng dù vậy, tôi nhận thấy: Quả có một năng lượng từ trong thân thể tôi phát ra và tôi điều khiển được bàn xoay một mình theo ý muốn của tôi.
Luồng năng lượng đó thắng được trọng trường 8,5kg (trọng lượng mặt bàn xoay) và hướng tác động vào bàn xoay tùy thuộc ý chí của tôi. Điều này giống như khi tôi điều khiển con lắc. Để con lắc cách bàn tay trái một người nam vài centimets thì nó quay vòng tròn khi úp sấp bàn tay, lắc dọc khi đặt ngửa bàn tay; với tay phải nam giới thì lắc dọc khi úp sấp, xoay tròn khi lật ngửa bàn tay; đối với nữ thì ngược lại… Điều này đã có tài liệu nói đến.
Nghĩa là hướng con lắc di động tùy theo âm hay dương của bàn tay và nam hay nữ; tuy nhiên tôi cũng có thể khiến cho con lắc đứng yên theo ý chí của tôi. Nhưng trường hợp bàn xoay thì không phân biệt âm dương. Đáng tiếc, tôi đã không mang theo con lắc khi trắc nghiệm bàn xoay. Nhưng có lẽ con lắc và bàn xoay là hai hiện tượng khác nhau? Chúng chỉ giống nhau ở một điểm là ý chí con người có thể điều khiển được sự vận động của cả bàn xoay lẫn con lắc.
Bàn xoay cũng có hiện tượng người trắc nghiệm vô tình đẩy khi bàn đã xoay đưa cánh tay chạy ra xa mà người trắc nghiệm chưa kịp bước theo; hoặc giả người trắc nghiệm cố ý đẩy bàn xoay. Không phải ai cũng một mình điều khiển được bàn xoay. Theo chủ nhân của ba chiếc bàn xoay thì số người như thế không ít, nhưng đa số phải hai người mới điều khiển được bàn xoay. Hơn bốn mươi nam nữ sinh viên năm thứ nhất Khoa Hàn Quốc, học thuộc Trường Đại học Đà Lạt không ai một mình điều khiển được bàn xoay.
Năm 2006 tôi không điều khiển được bàn xoay nhà 30A Khe Sanh nhưng ngay sau đó đến đồi Mộng Mơ thì một mình tôi điều khiển được chiếc bàn xoay ở đây. Như vậy là có vấn đề sức khỏe của người trắc nghiệm. Lái xe Nguyễn Anh Tuấn là một thanh niên cường tráng đã tình cờ thành người trắc nghiệm chính của tôi. Anh cho biết thường xuyên đưa khách tham quan bàn xoay và lần nào một mình anh cũng điều khiển được bàn xoay.
Đã có một số sách báo viết về loại năng lượng này. Nói chung, tôi đọc không nhiều và không chuyên. Các tác giả sách báo đó đề cập đến hào quang con người, nhân điện, trường sinh học, trường năng lượng con người, trường năng lượng vũ trụ (ESP), năng lượng sinh học, bioplasma… khá phức tạp và trắc nghiệm khoa học với máy móc tinh vi, đưa ra những trị số khác nhau của năng lượng đó.
Nhưng không có điều gì giải thích hiện tượng bàn xoay và cũng chưa đề cập đến hiện tượng này dù có bàn về Psychokinesis (PK tức Viễn di sinh học). Tôi đề nghị các nhà nghiên cứu chuyên về lĩnh vực tiềm năng con người, tổ chức một dự án nghiên cứu kỹ càng hiện tượng bàn xoay, một cách tỉ mỉ khoa học, phối hợp nhiều nhà chuyên môn nhiều lĩnh vực hữu quan.
Các hiện tượng cận tâm lý (Parapsychology) đều cận khoa học đều là hiện tượng siêu việt (Paranormal) đã được tiền nhân cảm nhận như trong Yoga, Khí công, Thiền định, Cầu cơ… nay cần trắc nghiệm khoa học. Vì là hiện tượng siêu việt nên dễ bị người ta lừa gạt kẻ cả tin. Những trắc nghiệm ở Trung Quốc tiến hành mươi năm gần đây đã chứng minh điều đó. Nghiên cứu nghiêm túc, khoa học, hợp tác chân thành thì hiện tượng bàn xoay sẽ có đóng góp cho việc nghiên cứu cái mà nay gọi hỗn tạp là Ngoại cảm
Nguyễn Duy Hinh
Trên quốc lộ mười lăm đường đi Sàigòn Vũng Tàu, vào khoảng cây số tám mươi lăm, về phía bên tay trái, đối diện Rừng Sát là núi Ông Trịnh. Trên lưng chừng đồi núi này có một cái hang mà trước đây ông "Đạo Vuốt" đã từng tu trong đó. Ngày nay ông Đạo đã đi đâu bặt tăm mà chẳng ai biết, hang bỏ hoang trông thật tiêu điều hoang vắng.
Dưới chân núi Ông Trịnh là những gò mả nằm ngỗn ngang, vì lâu ngày không ai chăm sóc sửa sang nên cỏ gai mọc um tùm. Người ta đồn rằng vào những đêm trăng mờ gió lạnh, có những tiếng khóc than thật thê lương hờn tủi, xuất phát từ những ngôi mộ đó, lời ai oán này chính là những phụ nữ đã bị ông đạo giết chết lấy hài nhi để luyện thiên linh cái. Không ai dám lai vãng đến nơi đây, ngoại trừ lũ chồn cáo đào hang làm ổ mặc sức hoành hành, đêm đêm lẻn vào xóm làng để bắt gà vịt.
Trong làng có chú Ba Ten sống bằng nghề hái măng bẩy thú. Trước đây chú từng là đệ tử của ông đạo vuốt. Vào một buổi chiều mua thu trời tím thẫm, mưa gió rả rích, trong một căn chòi tranh vách nứa, bên chai rượu đế và mấy con sóc nướng xã ớt, chú Ba Ten kể cho tôi nghe một chuyện về ông đạo vuốt.
- "Ông tên thật là Nguyễn văn Kiên thuộc phái Bửu Sơn Kỳ Hương do đức Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên sáng lập rao giảng về nghĩa tứ ân là: ân tổ tiên, cha mẹ, đất nước và ân đồng bào. Ông gốc người Long xuyên về đây giữa năm 1960 cất một cái chòi tranh, hàng ngày đi giảng đạo và chữa bệnh. Lúc ấy tôi đang bị sốt rét nặng, tưởng đã chết may nhờ có ông cứu chữa mới qua được cơn bạo bệnh. Sau đó tôi xin theo ông học cách chữa bệnh.
Thường ngày tôi và ông vào rừng, leo núi tìm cây hái thuốc. Một buổi trưa chúng tôi tìm được một hang sâu và rộng, trong đó có một ngọn suối nhỏ, nước trong và mát uống vào ngọt lịm. Bên ngoài hang xung quanh còn có nhiều cây ăn trái như xoài, bưởi, khế.. cảnh vật thật yên tĩnh xinh đẹp. Trước mặt nhìn ra biển cả bao la, bên trái là những cánh đồng lúa chín, bên phải là lăng của ông Trịnh, sau lưng là núi Thị Vãi hùng vĩ phong cảnh thiêng liêng và hữu tình.
Thầy Kiên phấn khởi lắm. Ông nói:
- Hang đá nầy có lẽ là cái hàm rồng mà từ lâu ta vẫn để công tìm kiếm, vậy ta sẽ tu tại đây.
Một hôm hai thầy trò chúng tôi chuẩn bị thức ăn thật nhiều, đi thật sâu vào rừng để tìm các loại thuốc quý và hiếm, chúng tôi băng rừng vượt suối, nơi đây chưa hề có bước chân người lai vãng, cây cối xanh mướt lạ thường, bốn bề vắng lặng chẳng nghe tiếng động của một con thú nào, kể cả tiếng chim cũng không có.
Hai thầy trò vẫn tiếp tục tiến sâu vào. Đến một cánh đồng cỏ tranh bỗng có tiếng cọp gầm liên hồi và tiếng hồng hộc giận dữ của loài heo rừng phát ra từ hướng trước mặt. Tôi giật mình lo sợ, trống ngực đánh thình thịch tính lùi lại quay về, nhưng thầy Kiên lại ra dấu đừng sợ, ông cầm cây roi bằng gỗ mun tiến lên.
Bất đắc dĩ tôi phải rón rén hồi hộp từng bước theo sau. Tiếng mãnh thú gầm gừ mỗi lúc một gần hơn, thầy Kiên ra dấu dừng lại, vạch đám cỏ phía trước ra. Tôi giật mình khiếp đãm chết trân. Trước mặt chúng tôi là một con cọp vằn vện to bằng con bò, cặp mắt long lên sòng sọc, nhìn đối thủ là con heo rừng khủng khiếp lông lưng dựng đứng, đầu to như cái thúng cặp nanh dài bén nhọn như hai lưỡi dao, chĩa lên phía trước như thách thức đợi chờ.
Hai mãnh thú gườm nhau, cọp bỗng mọp người xuống, phóng lên đánh tạt vào má heo thật mạnh, heo tránh được, đâm ngược chiếc nanh trúng bã vai cọp xé một đường dài, cọp gầm lên tức giận chụp lên lưng heo, nhờ lớp da dầy và chai cứng che chở, heo chỉ bị thương nhẹ. Hộc lên một tiếng thật lớn hất cọp rớt xuống, dùng bốn chân dậm túi bụi vào lưng và bụng cọp, cọp lăn lộn gầm thét ngữa miệng lên cắn vào chân và đùi heo, hai con mãnh thú lăn xả vào nhau cắn xé, đâm chém bụi bay mịt mù.
Bỗng cọp gầm lên phóng mình ra ngoài vòng chiến, nằm phục xuống căm hờn nhìn đối thủ. Một hồi sau như đã nghỉ mệt xong và có lẽ đã tìm được lối đánh mới, cọp đập đuôi xuống đất, gầm lên một tiếng thật lớn phóng người lên cao, lộn ngược đầu xuống chụp ngược vào hậu môn heo, ý chừng muốn rút ruột heo lôi ra. Nhưng cọp không ngờ đã sa vào thế đánh của heo, heo đã nhanh như chớp quay lại cắm ngập chiếc nanh vào họng cọp, máu phọt ra có vòi, cọp gầm lên đau đớn rồi phóng mình bỏ chạy heo hăng hái đuổi theo.
Cọp chạy đến một gò mối phóng mình lên, heo chạy đến vừa đưa đầu ngước lên liền bị cọp thọc chân xuống móc mắt lôi ra, bị trúng đòn độc heo bật ngửa ra sau, giẫy giụa kêu vang thảm thiết, máu từ hốc mắt chảy ra lai láng, không bỏ lỡ cơ hội, cọp phóng xuống cắn mạnh vào họng heo giữ chặt ngấu nghiến, heo vùng vẫy yếu dần.
Tôi nhắm mắt lại không dám nhìn thêm cảnh tượng quá dã man tàn bạo nầy. Bỗng thầy Kiên chụp cây roi nhảy ra ngoài vọt mình lên cao, hét lên một tiếng thật lớn dơ thẳng cây roi dùng hết sức bình sanh đập mạnh xuống lưng cọp "bốp", xương cọp gẫy rụm, cọp rống lên máu họng trào ra, ngáp ngáp mấy cái rồi ngoẽo đầu sang một bên chết tốt. Con heo rừng thoát chết từ từ đứng dậy, yên lặng nhìn thầy Kiên một chút rồi chậm chạp đi vào rừng cây. Lúc nầy tôi mới hoàn hồn, mon men đến bên thầy, ôm thầy thật chặt kính phục tài nghệ của thầy.
Về đến nhà tôi báo cho dân làng mang xe bò vô rừng kéo xác cọp về. Trông thấy xác cọp ai cũng lắc đầu lè lưỡi, có người kêu lên:
- Trời ơi! cọp nầy lớn quá, tôi mới thấy lần đầu phải trên ba trăm kg là ít.
Sau đó một người đánh diêm lên đốt bộ râu cọp. Theo lời người xưa kể lại, nếu nhét một sợi râu cọp vào mụt măng non, khi măng già râu cọp sẽ biến thành một loại sâu lạ, phân của sâu là một loại thuốc độc cực mạnh. Muốn giết ai chỉ cần bỏ một chút xíu vào nước hay rượu cho người đó uống sẽ chết ngay tức khắc. Để tránh tội ác phải thiêu hủy bộ râu cọp trước.
Vài tuần sau lúc trời vừa chạng vạng tối, tôi đang phụ với thầy xúc thuốc phơi nắng bỏ vào bao đem cất, thì con heo một mắt tới, thân hình nó thật ghê tởm lở lói, bên mắt hư của nó đỏ như quả ổi chín bị chim ăn giòi bọ lúc nhúc. Nó nhìn chúng tôi một chốc rồi quay lại phóng mình thật mạnh đâm vào cây bằng lăng nằm im bất động. Khi đến xem thì nó đã chết, chiếc nanh cắm thật sâu vào thân cây.
Hai tháng sau cây bằng lăng bỗng nhiên trụi lá chết khô. Rồi vào một đêm khuya mưa gió bão bùng, cây bằng lăng bị đánh trốc gốc, ngã dài trên mặt đất, chỗ có chiếc răng ngửa lên trên. Tôi và thầy Kiên dùng rìu đẽo chặt cả tiếng mới lấy chiếc nanh ra được. Thầy Kiên quý chiếc răng nầy lắm, lúc nào cũng mang bên mình.
Thầy Kiên là một thầy thuốc Nam rất giỏi, chữa bệnh rất mát tay, đã chữa cho nhiều người hết bệnh, tiếng tăm thầy vang lừng, người từ phương xa nghe danh ùn ùn kéo đến. Những người chữa theo Tây âu dần dần mất thân chủ, tức giận và đố kỵ tài năng, họ tìm cách hãm hại thầy, họ phao tin đồn là thầy có thiên linh cái. Từ đó ác danh đạo vuốt được gán cho thầy với những tội ác tày trời làm náo động khắp vùng, nên chính quyền tìm cách bắt thầy nhưng thầy đã thoát được.
Báo chí làm ầm lên, họ phái phóng viên xuống địa phương băng rừng, leo núi vào tận trong hang chụp ảnh, tìm tòi viết những bài phóng sự giật gân, hấp dẫn lôi cuốn người đọc. Mọi người đều say mê, thích thú với những truyền thuyết huyền thoại về thầy, họ muốn biết mặt thầy tìm hiểu về thầy nhiều hơn nữa.
Nhưng bóng dáng thầy vẫn bặt tăm. Sự biến mất đầy bí ẩn của thầy làm mọi người thắc mắc tò mò hơn, biết bao nhiêu câu chuyện được đồn đãi lên, mỗi người kể mỗi khác về những gì họ thấy và có liên quan đến thầy. Ông Chín Tọc làm nghề bắt cắc kè quả quyết đã trông thấy thầy ngồi thiền trên tảng đá trong dãy núi Tóc Tiên, chị Mười Núi hái măng thấy thầy dạo trong rừng trúc trên núi bà Tám, anh Nhâm còn nói điều kỳ bí lạ lùng hơn là đã thấy thầy ngồi trong chiếc hang của thầy tu trước kia.
Thời gian qua đi mọi người vì lo cho nhu cầu cơm áo hằng ngày nên vấn đề quan tâm thắc mắc về thầy cũng từ đó vơi dần. Cho đến một đêm khuya tiết trời oi bức, không một cơn gió thổi, tôi nằm trên giường cứ trằn trọc mãi mà không ngủ được, đang thao thức bỗng có tiếng gõ cửa, bước ra ngoài tôi giật mình sững sốt gặp lại thầy Kiên. Thầy đưa tôi một gói nhỏ và nói:
- Con giữ vật này, nó sẽ mang lại cho con nhiều may mắn.
Nói xong ông quay lưng lại bước vào màn đêm rồi mất hút. Vào nhà đốt đèn lên, mở ra xem thì đó là chiếc nanh heo rừng.
Kể xong câu chuyện tôi thấy những giọt nước mắt đã lăn trên khuôn mặt bâng khuâng nhiều xúc cảm của chú Ba Ten. Uống cạn ly rượu đặt xuống bàn, chú yên lặng đứng dậy đi đến bàn thờ lấy xuống một gói vải đỏ, mở ra đưa cho tôi xem chiếc nanh heo rừng. Chiếc nanh thật đẹp dài gần hai tấc, lên nước bóng loáng như có thoa một lớp dầu bóng, có chổ ửng vàng như màu lòng đỏ trứng gà, có chỗ màu nâu chocolate có chỗ màu nâu đen như màu máu khô, nhìn kỹ thấy gần đầu nanh có một lằn nứt ngang gần giáp vòng, tôi nghĩ có lẽ đây là vết tích do heo húc quá mạnh vào thân cây khi trước.
Cầm chiếc nanh mát lạnh trong bàn tay, mà đầu óc tôi cứ nghĩ miên man về những huyền thoại của nó. Chuyện quyết đấu sanh tử giữa heo và cọp, chuyện heo "hiến" răng cho thầy Kiên và những truyền thuyết huyền bí về ông. Sau này trước khi tổ chức cho gia đình đi vượt biên, tôi có nói với chú Ba Ten, chú tặng lại cho tôi chiếc nanh heo và nói:
- Ông bà mình có câu có thờ có thiêng, có kiêng có lành, cháu nhớ lấy.
Tôi vô cùng xúc động trước tấm lòng bao dung, nhân ái đầy vị tha của chú. Tôi nghĩ rằng chú phải thương tôi lắm mới cho tôi một vật quý giá và đầy kỷ niệm.
Chuyện tôi tổ chức vượt biên bất thành, công an truy nã ráo riết, tôi phải trốn lánh từ nơi này đến nơi khác, phải mấy năm sau tôi mới qua được Campuchia, từ đó tôi vượt biên qua Thái Lan thành công.
Sáng nay trong một căn phòng thật yên tĩnh, bên ly trà nóng, đầu óc trong sáng thảnh thơi không một chút suy tư, tay tôi cầm chiếc nanh heo, nhớ lại những chuyện đã qua, tôi nghĩ phải có một cái gì đó linh thiêng, huyền bí lắm đã chở che cho tôi vượt qua những gian nguy thử thách. Chợt tôi nhớ đến câu của chú Ba Ten:
- Có thờ có thiêng có kiêng có lành.
Thật là huyền diệu.
Nguyễn Tường Lâm
BÍ ẨN CHIẾC BÀN XOAY
Dù để mặt bàn ở đâu thì bàn đều xoay như ý muốn người trắc nghiệm không kể tay đặt âm hay dương, không kể nam hay nữ, không kể người thành hôn hay chưa thành hôn, nam đặt tay sấp cùng nữ đặt tay ngửa.
Trong chuyến vào Thành Phố Đà Lạt năm 2006, tình cờ tôi gặp ba chiếc bàn xoay và được biết chúng xuất xứ từ một gia đình người làng An Hòa, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Điều lạ lùng là khi một mình tôi đặt tay lên chiếc bàn xoay tại nhà số 30A đường Khe Sanh, thì bàn không xoay dù tôi đã ra lệnh. Phải hai người đặt tay bàn mới xoay. Nhưng khi đến khu du lịch đồi Mộng Mơ, một mình tôi đặt hai tay lên mặt bàn ra lệnh thì bàn xoay.
Bấy giờ có mươi khách tham quan đang đứng vây quanh bàn. Một du khách kêu lớn: "Ông này ghê quá!". Tôi nảy ra ý định thử tìm hiểu vấn đề này. Không chuyên về hiện tượng siêu nhiên mà có người gọi là "Ngoại cảm", "Đặc dị công năng", "Tâm linh"… tôi chỉ gặp gỡ trong một vài cuốn sách trên bước đường nghiên cứu các tín ngưỡng và tôn giáo. Tôi biết với sức lực và tri thức một mình tôi thì không thể nghiên cứu tương đối khoa học về vấn đề này. Tôi cũng không có mục đích nghiên cứu khoa học thật sự đề tài này, chẳng qua một chút hiếu kỳ lúc có cơ hội.
Đầu năm 2007, trong một dịp trở lại Đà Lạt, nhân ngày chủ nhật rảnh rỗi, tôi dự định làm một cuộc trắc nghiệm bàn xoay, dùng bốn nam hai nữ, có người đã kết hôn, người chưa kết hôn, người có trình độ sau đại học...
Đáng tiếc đến chiều thì Đà Lạt đổ mưa chỉ còn tôi và một nam tài xế taxi tên là Nguyễn Anh Tuấn đi nghiên cứu. Nhờ một cán bộ khoa Đông Phương giúp đỡ, tôi được Tạ Hoàng Giang, Trưởng phòng Kinh doanh Công ty Du lịch đồi Mộng Mơ giúp đỡ tận tình. Nếu không có anh việc nghiên cứu khó lòng được như đã làm.
Kế hoạch của tôi là trắc nghiệm từng cá nhân đặt một tay, hai tay, một ngón tay lên bàn xoay. Tay đặt sấp ngửa, nam nữ thay nhau để kiểm tra khả năng có tác dụng âm dương hay không. Đo đạc và cân mặt bàn để tìm hiểu lực cản. Đo tốc độ di chuyển của bàn nhanh chậm. Nhưng việc đo tốc độ không thực hiện được vì thiếu trợ lý. Những chiếc bàn xoay đều là đối tượng khai thác khách tham quan nên không thể tiếp tục nghiên cứu làm ảnh hưởng kinh doanh của chủ nhân chiếc bàn. Thời gian nghiên cứu dài nhất là chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ.
Cả ba chiếc bàn được tôi chọn trắc nghiệm đều cùng một mô thức: ba chân nhỏ đỡ thân bàn là một trụ gỗ tròn mà đầu trụ đặt vào một lỗ tròn dưới mặt bàn làm trục cho mặt bàn xoay. Cả ba bàn đều như thế và mặt bàn đều là ván ghép chứ không phải một tấm gỗ tròn nguyên vẹn. Dưới mặt bàn đều có hai thanh gỗ dài nhỏ ghép đỡ mặt bàn và cùng hai đoạn gỗ ngắn cấu tạo thành một ô tứ giác, trong đó có lỗ trục hình tròn.
Độ tròn ba mặt bàn đều không hoàn toàn chuẩn nhưng không sai số lớn nên nhìn mắt thường đều tròn.
Theo nhìn nhận của tôi thì ba chiếc bàn cùng một loại gỗ đen sẫm thớ rất mịn, không biết gỗ gì nhưng có lẽ không phải gỗ tạp mà cũng không phải tứ thiết. Khác biệt chăng là bàn cao thấp khác nhau, đường kính mặt bàn khác nhau, độ dày mặt bàn khác nhau.
Kích thước cụ thể của chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ như sau: cao 87cm, đường kính mặt bàn 74cm, mặt bàn dày 1,7cm, mặt bàn cân nặng 8,5kg.
Lần lượt trắc nghiệm bốn người: đặt một tay, hai tay, úp bàn tay và ngửa bàn tay, dùng suy nghĩ khiến bàn xoay quay trái phải nhanh chậm dừng, không cần nói to thành lời. Hiệu quả là tất cả các trường hợp trắc nghiệm:
Mặt bàn đặt trên trục bàn, mặt bàn úp sấp trên ghế nhựa, mặt bàn để ngửa trực tiếp trên sàn gạch men, mặt bàn đặt nghiêng trên sàn gạch men thì bàn đều xoay như ý muốn người trắc nghiệm không kể tay đặt âm hay dương, không kể nam hay nữ, không kể người thành hôn hay chưa thành hôn, nam đặt tay sấp cùng nữ đặt tay ngửa. Về chiếc bàn xoay nhà bác Trần Mến, anh Tạ Hoàng Giang nói:
- Bàn xoay này do bác Trần Mến bốn mươi bảy tuổi, cổ đông sáng lập Công ty Du lịch đồi Mộng Mơ mang đến. Bác Trần Mến là người xã Hoài Phú, gần thị trấn Tam Quan huyện Hoài Nhơn tỉnh Bình Định, mua bàn xoay ở xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Bác Mến lập nghiệp bằng bàn xoay. Hiện tại nhà bác còn một chiếc bàn xoay nhỏ hơn.
Nguyễn Anh Tuấn và tôi tiến hành trắc nghiệm kết quả giống như chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ. Chúng tôi đến nhà bác Lưu Xuân Ưởng ở số 30A đường Khe Sanh. Bác sáu mươi tuổi, người xã Trực Thành huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định, thuê gian nhà này để kinh doanh bàn xoay. Bác cho biết bác mua chiếc bàn xoay này của ông Nguyễn Tại thôn An Hòa, xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Bác Ưởng biểu diễn để mặt bàn lên ghế nhựa cho xoay.
Do khó khăn về thời gian và người giúp việc nên tôi chỉ trực tiếp trắc nghiệm nhiều lần chiếc bàn xoay ở đồi Mộng Mơ, trắc nghiệm một vài lần ở hai bàn xoay sau, còn lại là do chủ nhân các bàn xoay và Nguyễn Anh Tuấn tiến hành. Các cuộc trắc nghiệm còn ở dạng quá thô sơ và vì nhiều lý do nên chưa thực sự kỹ càng. Tôi thừa nhận trắc nghiệm chưa đủ giá trị khoa học. Nhưng dù vậy, tôi nhận thấy: Quả có một năng lượng từ trong thân thể tôi phát ra và tôi điều khiển được bàn xoay một mình theo ý muốn của tôi.
Luồng năng lượng đó thắng được trọng trường 8,5kg (trọng lượng mặt bàn xoay) và hướng tác động vào bàn xoay tùy thuộc ý chí của tôi. Điều này giống như khi tôi điều khiển con lắc. Để con lắc cách bàn tay trái một người nam vài centimets thì nó quay vòng tròn khi úp sấp bàn tay, lắc dọc khi đặt ngửa bàn tay; với tay phải nam giới thì lắc dọc khi úp sấp, xoay tròn khi lật ngửa bàn tay; đối với nữ thì ngược lại… Điều này đã có tài liệu nói đến.
Nghĩa là hướng con lắc di động tùy theo âm hay dương của bàn tay và nam hay nữ; tuy nhiên tôi cũng có thể khiến cho con lắc đứng yên theo ý chí của tôi. Nhưng trường hợp bàn xoay thì không phân biệt âm dương. Đáng tiếc, tôi đã không mang theo con lắc khi trắc nghiệm bàn xoay. Nhưng có lẽ con lắc và bàn xoay là hai hiện tượng khác nhau? Chúng chỉ giống nhau ở một điểm là ý chí con người có thể điều khiển được sự vận động của cả bàn xoay lẫn con lắc.
Bàn xoay cũng có hiện tượng người trắc nghiệm vô tình đẩy khi bàn đã xoay đưa cánh tay chạy ra xa mà người trắc nghiệm chưa kịp bước theo; hoặc giả người trắc nghiệm cố ý đẩy bàn xoay. Không phải ai cũng một mình điều khiển được bàn xoay. Theo chủ nhân của ba chiếc bàn xoay thì số người như thế không ít, nhưng đa số phải hai người mới điều khiển được bàn xoay. Hơn bốn mươi nam nữ sinh viên năm thứ nhất Khoa Hàn Quốc, học thuộc Trường Đại học Đà Lạt không ai một mình điều khiển được bàn xoay.
Năm 2006 tôi không điều khiển được bàn xoay nhà 30A Khe Sanh nhưng ngay sau đó đến đồi Mộng Mơ thì một mình tôi điều khiển được chiếc bàn xoay ở đây. Như vậy là có vấn đề sức khỏe của người trắc nghiệm. Lái xe Nguyễn Anh Tuấn là một thanh niên cường tráng đã tình cờ thành người trắc nghiệm chính của tôi. Anh cho biết thường xuyên đưa khách tham quan bàn xoay và lần nào một mình anh cũng điều khiển được bàn xoay.
Đã có một số sách báo viết về loại năng lượng này. Nói chung, tôi đọc không nhiều và không chuyên. Các tác giả sách báo đó đề cập đến hào quang con người, nhân điện, trường sinh học, trường năng lượng con người, trường năng lượng vũ trụ (ESP), năng lượng sinh học, bioplasma… khá phức tạp và trắc nghiệm khoa học với máy móc tinh vi, đưa ra những trị số khác nhau của năng lượng đó.
Nhưng không có điều gì giải thích hiện tượng bàn xoay và cũng chưa đề cập đến hiện tượng này dù có bàn về Psychokinesis (PK tức Viễn di sinh học). Tôi đề nghị các nhà nghiên cứu chuyên về lĩnh vực tiềm năng con người, tổ chức một dự án nghiên cứu kỹ càng hiện tượng bàn xoay, một cách tỉ mỉ khoa học, phối hợp nhiều nhà chuyên môn nhiều lĩnh vực hữu quan.
Các hiện tượng cận tâm lý (Parapsychology) đều cận khoa học đều là hiện tượng siêu việt (Paranormal) đã được tiền nhân cảm nhận như trong Yoga, Khí công, Thiền định, Cầu cơ… nay cần trắc nghiệm khoa học. Vì là hiện tượng siêu việt nên dễ bị người ta lừa gạt kẻ cả tin. Những trắc nghiệm ở Trung Quốc tiến hành mươi năm gần đây đã chứng minh điều đó. Nghiên cứu nghiêm túc, khoa học, hợp tác chân thành thì hiện tượng bàn xoay sẽ có đóng góp cho việc nghiên cứu cái mà nay gọi hỗn tạp là Ngoại cảm
Nguyễn Duy Hinh
#109
Gửi vào 20/06/2011 - 11:37
MẸ TÔI VÀ BÍ ẨN TÂM LINH
Mỗi độ Thu về nhìn lá vàng rơi giăng phủ kín lối đi, với những cơn gió thổi nhè nhẹ, hơi se lạnh làm tôi cảm thấy buồn man mác và nhớ mẹ tôi vô cùng. Mẹ tôi mất cũng vào mùa Thu, cách đây đã mười tám năm rồi, nhưng đối với tôi mẹ vẫn luôn hiện hữu và tưởng chừng như chuyện mới xảy ra mà thôi.
Không riêng gì tôi có cảm giác này, mà các anh chị tôi cũng vẫn thường nhắc nhở đến mẹ với tất cả tình cảm trân quý. Có dịp gặp nhau anh chị em tôi luôn nhắc đến kỷ niệm về Bố Mẹ, cuối cùng cũng xoay quanh về Mẹ với những điều khó tin về tâm linh, nhưng lại là sự thật đã xảy đến với gia đình chúng tôi.
Khi còn nhỏ tôi thường được mẹ cho đi theo tới nhà họ hàng vào dịp lễ, tết đến nhà các bác tôi, trong lúc mẹ tôi và các bác trò truyện, nhiều lần tôi nghe các bác nói với mẹ tôi: Bà chết đi sống lại hóa ra thọ hơn ông nhà bà. Có lúc tôi nghe bác nói: Lúc bà chết, ông ấy khóc quá và làm thơ khóc bà nữa?! ...
Vì còn nhỏ nên tôi không chú ý mấy đến câu chuyện của các cụ nói với nhau. Khi khôn lớn mỗi lần nghe các bác tôi nhắc lại những lời nói trên, tôi thắc mắc hỏi lý do nào mà nói mẹ tôi chết đi sống lại, bác tôi bèn kể cho nghe câu chuyện về mẹ tôi.
Tôi sinh ra được tám tháng thì mẹ tôi bị bệnh. Sau mấy tuần lễ ốm nằm liệt giường, một buổi sáng mẹ tôi dậy rất tỉnh táo, khoẻ mạnh, đòi ăn uống và tắm rửa thay giường chiếu sạch sẽ, rồi mẹ tôi dặn dò mọi chuyện trong gia đình. Xong xuôi mẹ tôi cho biết trưa ngày hôm sau người sẽ ra đi.
Tưởng rằng cơn bệnh đã khiến mẹ tôi mê sảng nói thế, nào ngờ trưa hôm đó mẹ tôi mặc áo quần chỉnh tề và nằm ngay ngắn trên giường rồi ra đi thật. Cả nhà lo buồn và chuẩn bị tang lễ cho mẹ tôi. Bố tôi cắt đặt mọi việc nhà, chuẩn bị ngày hôm sau sẽ tẩm liệm. Ông nhờ một người bà con ngồi túc trực bên giường để canh xác trong lúc họ hàng tới đông đủ phụ lo cỗ bàn dựng rạp.
Trong lúc ngồi bàn chuyện với khách đến thăm, bố tôi đã làm bài thơ khóc mẹ tôi. Anh chị tôi lúc đó còn nhỏ nên chỉ nhớ được mấy câu, cho tới bây giờ mỗi lần có dịp gặp nhau, tôi vẫn được anh cả đọc cho nghe:
..Con thơ dậy dỗ bế bồng. Em về chín suối đau lòng chăng em. Nhớ em trăm thảm nghìn sầu. Nhớ em đến lúc bạc đầu chưa quên.
Theo lời kể của bác tôi, đêm hôm trước ngày tẩm liệm mẹ tôi, người anh bà con ngồi canh bên giường. Anh uống rượu say, vào quan tài của mẹ tôi nằm khóc và nói:
- Bà ơi! Bà hãy sống dậy đi để lo cho các cô, các cậu còn nhỏ, để con chết thay cho Bà. Mọi người lôi anh ta ra và trách anh say rượu rồi nói càn!
Đến gần sáng mọi việc đã chuẩn bị xong xuôi, chờ tới giờ thầy cúng làm nghi lễ tẩm liệm. Ngay giờ bắt đầu làm lễ, mọi người ở dưới nhà ngang, nơi để giường mẹ tôi nằm (mẹ tôi mất ở quê), nghe như có tiếng rên khe khẻ. Hốt hoảng vì tưởng con mèo nhảy qua người mẹ tôi nên mới có chuyện này, mọi người vội báo cho bố tôi biết.
Cụ bèn đến nơi và sờ người mẹ tôi, thật lạ vì mẹ tôi mất đã cách đêm mà người Bà còn hơi ấm và mềm mại. Lát sau bố tôi xem lại thì thấy cảm giác này tăng dần, ông bèn cho mời ông thầy thuốc đến bắt mạch đổ sâm cho uống.
Bố tôi cho rằng mẹ tôi đã sống lại. Ông không tin theo lời dị đoan nói rằng vì có con mèo nhảy qua người mẹ tôi nên mới có hiện tượng lạ này. Sau khi đổ sâm cho uống, vài giờ sau mẹ tôi tỉnh lại, tuy còn rất yếu nhưng nói được vài câu. Mọi người trong gia đình lúc đó đều nói: thật là điều bí ẩn khong thể giải thích được.
Sau khi mẹ tôi sống lại, bố tôi đem trả lại nhà hàng áo quan đã mua để lo cho mẹ tôi. Vài tháng sau, người bà con đã khóc đòi chết thế cho mẹ tôi đột ngột qua đời. Khi mua áo quan lo cho anh, gia đình lại mua đúng cái mà anh đã từng nằm vào. Thật là sự mầu nhiệm trùng hợp lạ lùng! Sau khi đã bình phục hoàn toàn, mẹ tôi kể lại cho bố tôi và bà con nghe những những sự việc bà đã nhìn và nghe thấy trong lúc hồn xuất dương:
Mẹ tôi được bà nội tôi dắt tay đến các cửa quan ở địa ngục (bà nội tôi mất đả lâu rồi). Hai bà đi qua nhiều nơi lắm, thấy có những nơi người bị giam cầm tra tấn, giống như những cảnh bà đã thấy trong những bức tranh treo trong chùa. Bà nội tôi không cho mẹ tôi đứng lại xem, lôi đi và dặn mẹ tôi đừng lên tiếng.
Bà nội và mẹ tôi đi qua tất cả chín cửa quan, nơi nào bà nội tôi cũng quỳ lạy, khóc xin tha cho mẹ tôi sống thêm ít lâu nữa để lo cho con cái khôn lớn. Đến nơi thứ chín, có ba vị quan lớn râu dài mặt đỏ, ngồi trên tòa sen cao, dưới đất trải chiếu hoa, chén đĩa đựng trái cây, trầu cau, ly đựng nước đều bằng bạc cả.
Bà nội tôi cũng quỳ lạy xin tha cho mẹ tôi được sống thêm lo cho con cái khôn lớn, bà nội tôi cứ quỳ và khóc mãi không chịu đứng dậy. Hai người quỳ một hồi lâu thì vị quan ngồi giữa nói với bà nội tôi, là ông tạm tha cho mẹ tôi về nuôi con.
Quá mừng bà nội đã dắt mẹ tôi chạy ra xe ngựa để trở về nhà. Về tới cổng nhà mẹ tôi nói với bà cho mẹ xuống xe. Chúng tôi đoán rằng có lẽ lúc mẹ tôi nói với bà tôi, là lúc ở nhà nghe được tiếng rên khe khẽ của mẹ tôi phát ra.
Chuyện mẹ tôi chết đi sống lại, tuy mới nghe có vẻ khó tin nhưng tất cả đều là sự thật. Sau khi mẹ tôi bình phục hoàn toàn và trở lại đời sống bình thường, có nhiều chuyện lạ xảy đến với gia đình tôi nữa. Chính mẹ tôi đã kể lại cho chị em chúng tôi nghe:
...Bố tôi làm việc ở Nam Định, thỉnh thoảng mới về quê chơi ít ngày rồi lại đi. Riêng mẹ tôi thường về quê và sống nhiều ngày hơn, bao giờ bà cũng đưa chị em tôi cùng về. Hè năm đó nóng hơn mọi năm. Một hôm trời oi bức nóng nực, mẹ tôi dắt hai chị tôi lúc ấy còn rất nhỏ, ra cổng nhà đứng hóng mát.
Sáng hôm sau ngủ dậy mắt trái của người chị thứ hai sưng vù, con ngươi đỏ ngầu đau nhức nên chị khóc la dữ lắm. Chờ sáng hẳn mẹ tôi nhờ người giúp việc, chèo đò đưa bà và chị tôi qua sông lên Nam Định gặp một vị bác sỹ bạn với bố tôi, nhờ ông khám xem chị tôi ra sao và xin thuốc chữa trị.
Sau vài lần điều trị mắt của chị tôi đã không khỏi, mà còn tệ hại hơn nữa, bác sỹ cho biết không chữa lành được. Quá tuyệt vọng mẹ tôi quay ra chữa thuốc nam cho chị. Trên đường đi hốt thuốc bà gặp một người quen mách cho biết là ở làng bên cạnh có một người lên đồng bóng, cho thuốc chữa khỏi rất nhiều người.
Mẹ tôi nghĩ : còn nước còn tảt nên đã đến nhà người này để xin thuốc chữa con mắt cho chị tôi. Đến nơi gặp ông Hưu, người lên đồng, mẹ tôi trình bày lý do và xin được giúp đở. Ông bày lễ vật và cúng bái xong, một lát thấy người ông cứ lắc qua, lắc lại, rồi ôm mặt khóc hu hu. Khóc một hồi thì ông quay qua mẹ tôi nói rằng:
- Con là cô Chín đây, con của mẹ mất đã lâu. Con muốn về nhà báo cho cha mẹ biết nhưng không biết cách nào. Mới đây nhân dịp về nhà, thấy mẹ dắt em ra đường đứng chơi nên con đã dí bông hoa nhài lên mắt em để mong mẹ biết mà tìm đến con.
Khóc xong một hồi thì người lên đồng đưa cho mẹ tôi nước cúng, trái ớt, nhánh tỏi, nói đem về giã rồi đắp lên mắt chị tôi sẽ khỏi. Nói xong thì thăng. Bán tín bán nghi không biết ra sao, mẹ tôi đánh liều làm theo lời dặn vì theo lời bác sỹ, mắt chị tôi không chữa khỏi được coi như hư luôn rồi.
Sau khi đắp ớt tỏi cho chị tôi xong, mẹ tôi bế chị nằm ngủ ở vỏng. Đến nửa đêm trong lúc mơ màng nửa tỉnh nửa mê, mẹ tôi thấy một người con gái đứng bên võng nói:
- Để con ngắt bông hoa nhài cho em.
Mẹ tôi tỉnh dậy và cùng lúc đó chị tôi khóc thét lện. Mẹ tôi vội vặn lớn ngọn đèn dầu, thấy máu và mủ ở mắt chị tôi chảy ra, bà lau sạch cho chị rồi dỗ chị ngủ tiếp. Sáng hôm sau mắt chị tôi bớt sưng. Vài ngày sau thỉ khỏi hẳn. Thật như là một phép lạ khó tin nhưng đã xảy đến với người thân của tôi, nên từ ngày đó gia đình tôi rất tin tưởng nơi thần linh.
Mẹ tôi cho biết chị cả của chúng tôi mất lúc chị mới lên chín tuổi. Chị cảm sơ trước khi mất đòi ăn nhãn, ăn xong thì hôm sau chị mất. Mẹ tôi khóc nhớ thương chị mãi, nhưng vì chị mất lúc còn nhỏ nên không lập bàn thờ ở nhà chỉ cúng mỗi dịp giỗ chị thôi. Sau chuyện này xảy ra, mẹ tôi đã đến nhà thờ Tổ, nơi thờ cúng chị tôi, xin bát nhang về thờ. Nay bát nhang chính vẫn còn được thờ ở nhà thờ Tổ của dòng họ ở ngoài Bắc.
Sau ngày đổi đời của đất nước, chú Út tôi từ ngoài Bắc vào chơi đã kể lại cho mẹ và chị em tôi về sự linh thiêng của chị Cả tôi, sự linh thiêng đã khiến dân làng rất tin tưởng và hàng năm họ góp gạo đến nhà thờ Tổ, nơi có bát nhang thờ Chị tôi, cùng nhau làm lễ cúng bái, chú tôi kể lại như sau:
- Khi gia đình tôi di cư vào miền Nam sinh sống, nhà cửa bị tiếp quản, đóng trụ sở tại đó, tới mùa trái cây như nhãn, mận, ổi, họ leo lên cây hái trái để ăn và đem bán, lần nào trèo cây cũng bị té ngã gãy tay, gãy chân hoặc u đầu sứt trán, không cách nào leo lên cây được, đêm đến có người con gái lay giường bắt dậy, đòi trả nhà cho bố mẹ Cô.
Sau đó có người mách bảo nhà có người chết linh thiêng lắm, đến nơi thờ phượng, khấn vái xin phép hái hoa trái đem bán, nghe lời khuyên, họ mang bông trái cây đến nhờ chú tôi giúp, chú tôi nói, phải có lòng thành, đích thân cúng mới được. Từ đó về sau, mùa nào trái ấy, họ đều đem lễ vật đến cúng chị Cả tôi rồi mới trèo cây hái trái, mọi việc êm xuôi, không bị té ngã nữa.
Dân làng ai có chuyện gì đều đến cầu xin chị tôi và đều được toại nguyện cả, nên ai ai cũng tin tưởng lắm. Chú út tôi còn kể cho nghe nhiều chuyện về sự linh thiêng của chị tôi nữa, chẳng hạn thời giặc Pháp hay về làng càn quét, cướp của giết người. Mỗi lần nghe báo động có giặc về làng, mọi người bồng bế, gồng gánh chạy loạn, nhiều lần chạy trong đêm tối, không nhìn rõ mặt nhau, trong hoàn cảnh như vậy, chú tôi khấn vái chị tôi phù hộ cho gia đình và dân làng thoát nạn.
Thật là mầu nhiệm, chú tôi và mọi người nhìn thấy thấp thoáng phía trước có bóng người con gái cầm đèn soi đường cho mọi người. Dân làng cứ lặng lẽ đi theo ánh đèn, bao giờ cũng tránh được giặc Tây, không bị thiệt hại gì cả.
Sau ngày 30/4 vài tuần, tôi đến nhà thăm mẹ, đúng lúc đó tôi thấy bà chị dâu thứ đang đứng khóc hu hu trước bàn thờ và người lắc như lên đồng. Mẹ tôi vội thắp nhang và khấn vái rằng, nếu có phải chị Cả tôi về đồng, muốn nhập vào chị dâu tôi thì cho biết chứ đừng hành xác chị tôi nữa, tội nghiệp chị ấy!
Sau đó mẹ tôi đưa rượu cho chị tôi uống, khai khẩu. Một lát sau chị dâu tôi ngừng khóc và nói cho biết chị Cả tôi về đồng, nhập vào chị dâu thứ của tôi để nói chuyện, một sự lạ là chị dâu tôi xưa nay đả phá đồng bóng dữ lắm, không tin dị đoan bao giờ, thế mà giờ chị Cả tôi lại nhập vào chị.
Chị tôi về đồng và nói rất thương mẹ và các em, nhưng không cứu vãn được vì hạn gia đình phải gánh, cho biết sau này tất cả các em của Chị tôi sẽ sinh sống ở nước ngoài, có cuộc sống hạnh phúc, sung sướng, con cháu thành đạt nơi xứ người.
Mẹ tôi nói không tin vì nay em trai, em rể Cô đã đi tù, những đứa ở nhà thì sống vất vả, lo lắng mọi bề, cả nhà đều bị kẹt lại không ai đi thoát ra nước ngoài sinh sống cả. Chị tôi cười và nói cứ tin nơi Chị, sẽ có ngày đó đến với các em của Chị, nói xong thì chị thăng.
Sau ngày đó, Chị tôi không về nhập đồng nữa, mọi người trong gia đình cũng quên lãng câu chuyện này. Rồi phong trào vượt biên xảy ra, chồng tôi sau khi đi tù cải tạo được thả về, mẹ chồng tôi giúp vốn đã vượt biên thành công, con các chị tôi cũng vượt biển, tới được đất Mỹ sinh sống. Chưong trình ra đi có trật tự được thực hiện, chồng tôi bảo lãnh cho ba mẹ con tôi, gia đình các chị tôi được con cái bảo lãnh, gia đình anh tôi đi diện HO.
Tất cả năm gia đỉnh anh chị em tôi đều sinh sống ở đất nước tự do này, con cái đều thành đạt, nên người. Bây giờ nhớ lại lại những lời mà Chị Cả tôi về đồng nói lúc năm xưa, không sai điểm nào cả. Vấn đề tâm linh thật khó mà giải thích!
Mẹ tôi sau này về ở với ba mẹ con tôi, bà nói chồng tôi không có nhà, tôi thì trẻ chưa qua, già chưa tới, sợ mọi người dòm ngó vì có chồng gửi quà từ Mỹ về nuôi, và lúc đó hai con tôi còn quá nhỏ cần có người chăm sóc để tôi có thời giờ đến trường dạy học. Mẹ tôi sống rất nhân đức hiền từ, hết lòng thương yêu con cái.
Mẹ tôi là một bà mẹ quê Việt Nam điển hình với tính tình đôn hậu, chịu thương, chịu khó, hy sinh cả đời lo cho chồng con. Những người quen cần gì, mẹ tôi sẵn lòng giúp ngay. Những người buôn bán hàng rong kiếm sống qua ngày, mẹ tôi mua bao giờ cũng trả đúng giá đòi, không kỳ kèo bớt xén gì cả, nhiều người hoàn cảnh quá khổ, túng thiếu, mẹ tôi còn cho mượn vốn buôn bán, cho vay từ tháng giêng đến ba mươi tết đem trả, qua mùng bốn tết đến mượn lại mà không lấy bất cứ quà cáp gì mà họ đem biếu cả.
Mẹ tôi thường nói:
- Của trời của Phật đừng lo sợ mẩt, giúp ai được điều gì thì nên giúp với tất cả tấm lòng. Ảnh hưởng cách sống của mẹ tôi nên tôi và các con cũng học được tính vị tha, thương người của Bà, sẵn lòng vì mọi người. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ tôi to tiếng với con cái hay người ngoài cả, nếu không bằng lòng con cái điều gì, mẹ tôi chỉ chép miệng thở dài thôi.
Tôi còn nhớ lúc các con tôi còn nhỏ, con nít ham vui lười học nhất là con trai tôi, tối bị cúp điện thắp đèn dầu, muỗi vo ve bên tai mẹ tôi ngồi bên cạnh, quạt đuổi muỗi cho con trai tôi học bài, mẹ tôi nói ráng mà học con ạ, ở đâu, thời buổi nào cũng cần người có học cả, có học không sợ đói, mai đây qua đoàn tụ với bố các con, thấy các con học giỏi bố mới không phàn nàn mẹ con chứ, những câu nói của mẹ tôi khó quên được.
Mẹ tôi dường như biết trước ngày mất. Hai ngày trước khi mất mẹ tôi ngủ trưa và miệng nói chuyện rang rang. Tôi đánh thức mẹ tôi dậy thì Bà nói để yên cho mẹ nói chuyện. Khi mẹ tôi tỉnh ngù, Bà cho biết sắp đến lúc mẹ đi rồi, trước kia được phép sống thêm để nuôi các con khôn lớn, nay là lúc về với Ông Bà, đã tám mươi bốn tuổi rồi, sống vậy là quá thọ rồi.
Rồi mẹ kể cho nghe vừa nói chuyện với mấy bà bác, mất đã lâu lắm rổi, các bạn đi chùa với mẹ tôi nữa, các cụ ngồi đầy xe bus chờ mẹ ngoài cổng, mẹ nói chờ mẹ về nhà lấy cây dù rồi sẽ đi sau. Biết chuyện ngày xưa mẹ đã từng chết đi sống lại, tôi rất tin tưởng lời mẹ nói là mẹ sắp ra đi.
Hôm sau tôi cho dọn dẹp nhà cửa gọn gàng sạch sẽ, những thứ không cần thiết, dẹp lên gác hết cho rộng nhà. Sáng hôm sau anh trai thứ của tôi đến thăm mẹ, tôi gọi anh ra phòng ngoài kể cho anh nghe hiện tượng về mẹ tôi, anh gạt đi và nói tôi đừng quá lo lắng và tin chuyện mẹ nói sắp ra đi, mẹ rất khoẻ, không đau ốm gì cả thì làm gì xảy ra chuyện cho mẹ được.
Tôi tạm yên lòng, mẹ tôi gọi anh tôi đến, móc túi cho tiền và phân phát cho con cháu hết số tiền đang có, nói tôi đưa bọc quần áo mà mẹ tôi đã sắp sẵn, có cả miếng vàng nhỏ để trong túi nhỏ nữa. Trưa đó mẹ tôi tắm gội sạch sẽ, cho thay giường chiếu giặt mùng màn. Đến ba giờ sáng mẹ tôi thức giấc, tôi cũng vừa chợt tỉnh và qua giường Bà nằm, hỏi thăm cần tôi giúp việc gì không, Bà nói :
- Mẹ mệt quá chắc không sống được, nói xong ngả đầu vào tay tôi nhắm mắt đi luôn, tất cả chưa đến năm phút đồng hồ! Ôm mẹ trong lòng mà không dám tin là mẹ đã mất, tôi không còn khóc được vì chuyện xảy đến quá đột ngột!
Nghe tin mẹ tôi mất, bà con họ hàng xa gần xóm giềng tới thăm viếng rất đông, ai ai cũng thương tiếc mẹ tôi và nói :
- Mẹ tôi là người nhân hậu đạo đức thương người, sống rất giản dị cởi mở với tất cả mọi người, nên Cụ ra đi dễ dàng nhanh chóng như vậy. Có những người cháu của Bố tôi với tuổi đời trên dưới bảy mươi, đã khóc mẹ tôi và kể những công đức mà ngày mẹ còn ở quê giúp đỡ con cháu họ hàng. Được biết những chuyện về mẹ mà trước đây tôi chưa bao giờ nghe mẹ nhắc đến, tôi càng kính phục mẹ thêm.
Đã mười tám năm rồi tôi vẫn luôn nhớ đến mẹ và thấy thật là bất hạnh không còn mẹ để chia xẻ những khó khăn, vui buồn của cuộc đời, được nghe những lời khuyên của mẹ. Nhất là vào dịp lễ Vu Lan, về chùa dự lễ, thấy mọi người được cài bông hồng đỏ trên áo, còn tôi với bông hồng trắng, cảm thấy buồn và tủi thân vô cùng, thật thấm thía với câu thơ của thi nhân:
Hoàng hôn phủ trên mộ. Chuông chùa nhẹ rơi rơi. Tôi thấy tôi mất mẹ. Như mất cả bầu trởi. Nhớ mẹ con nghẹn ngào. Lời ca sầu vút cao. Hoa trắng cài lên áo.
Thương mẹ mắt lệ trảo.
Mẹ ơi, hôm nay ngồi viết những dòng chữ này về mẹ, con xin nguyện cầu cho mẹ được an nghỉ bình yên. Suốt cuộc đời mẹ đã cho chúng con tình yêu thương vô bờ bến, mẹ là bóng mát dịu êm đã che chở, nuôi nấng con nên người, mẹ là nguồn sống là tình thương yêu bất tận. Cả đời mẹ hy sinh chịu đựng, sẵn sàng gánh vác sự khó khăn cho con cái. Con xin gửi đến mẹ lời thơ của Thầy Thanh Trí Cao, nói lên tâm sự của con:
Vu Lan ý nhiệm mầu. Báo hiếu nghĩa thâm sâu. Đời con cài hoa trắng. Mẹ hiền giờ ở đâu. Lạy Phật con nguyện cầu. Cho dù mẹ ở đâu. Trần gian hay nước Phật Hồn mẹ không khổ đâu.
Kim Phương Oanh
RẮN LẠI NGHE PHÁP
Chú dẫn : Ngày chủ nhật, 20 tháng 6 năm 1982, đúng lúc cử hành Pháp diên, bốn chúng đệ tử trong Vạn Phật Thành mới cùng nhau niệm "A Di Đà Phật" trên đường về Đại điện, thì phát hiện ra một con rắn lục có vằn nằm ngay nơi cửa trước Đại điện, dài khoảng ba bốn bộ, hình dạng rất nhỏ và dài.
Đại chúng thấy rắn thì sợ không dám tiến vào, bấy giờ vị Tăng giám thị, thầy Hằng Vô, muốn đem con rắn vứt ra ngoài. Song lúc đó thì Hoà Thượng cũng đang tiến lại, Ngài mỉm cười nói rằng : "Không cần thiết đâu, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, con rắn tới là để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, không nên đuổi nó !"
Kỳ lạ thay, con rắn này không giống như những con rắn bình thường khác, mình nó trườn dài ra mặt đất, tuy có trăm người bước qua mình, mà nó không sợ hãi gì cả, nó hết sức thuần thục và hiền lành. Khi Hoà Thượng lên đài thuyết Pháp thì dạy rằng : "Kêu con rắn vào đây mà nghe Pháp đi."
Con rắn nghe như vậy thì lập tức tiến vào, nó bò từ từ vào đến ngay giữa Chánh điện không hề làm kinh sợ những người hai bên, rồi từ nơi Đại điện ở phía trái nó bò qua bên phải, rồi mới nhiễu quanh tượng Phật một vòng, xong từ từ nằm phục xuống ở Pháp tòa, cũng giống như là quỳ trước tượng Phật vậy, nằm im nghe Pháp.
Hoà thượng mới khai thị cho nó như vầy :
"Nhất thiết chúng sinh
Giai hữu Phật tánh
Giai kham tác Phật."
Đó là câu nói từ kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên chúng sinh không chứng được trí huệ đức tướng của Như Lai. Từ nơi câu nói nầy chúng ta có thể suy ra mọi chúng sinh đều có tánh Phật ; đã vậy thì không nên sát sinh, không nên trộm cắp, không nên tà dâm, không nên vọng ngữ, không nên uống rượu ; mà phải giữ năm giới ! Sát sinh là giết mười phương chư Phật, vì chúng sinh là do Phật thị hiện mà ra. Do vì một niệm không giác ngộ nên sinh ra ba thứ vô minh rất vi tế (nghiệp tướng, hiện tướng, chuyển tướng), chúng sinh mới trầm luân trong biển khổ, xa lìa rồi vĩnh viễn mất đi nền Đạo chân thật !
Các vị tu Đạo hãy quán tưởng rằng tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của mình trong quá khứ, đều là những vị Phật trong tương lai, nên khi họ chưa thành Phật, mình phải tôn kính họ. Mình phải đối với chúng sinh như là đối với ba đời chư Phật vậy. Suy nghĩ như vậy thì tự nhiên hết khinh thường, bất kính, hay nhiễu loạn chúng sinh. Chúng sinh không phải chỉ là thứ hữu hình, thậm chí thứ vô hình như quỷ, thần, thiên, ma đều là chúng sinh cả. Cho nên mình phải bình đẳng cung kính, tôn trọng họ, không nên coi thường họ.
Hôm nay con rắn mà các vị gặp ở Phật điện cũng là một chúng sinh. Song, do nó thị hiện thân rắn, nên chúng ta thấy sợ, thấy mà không nhận thức, thậm chí còn bị lừa nữa. Rắn này tới đây chỉ để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, nghe Kinh, nếu không vầy thì sao nó vào đây mà hết sức hiền hoà, nằm phủ phục chẳng động đậy gì cả nơi bục cửa ?
Tuy nhiên, lấy mắt nhìn thì nó chỉ là con rắn nhỏ ; kỳ thật rắn này có sức thiên biến vạn hóa ; có thể ẩn hình, có thể thu nhỏ, biến lớn, lại biết đằng vân giá vũ, bay qua luợn lại trong không trung. Chúng ta không thể biết được bản lĩnh của nó. Rắn này tương lai tu hành thành công cũng sẽ đắc đạo. Trong Kinh Phật có đề cập tới Thiên Long Bát Bộ, thì rắn này thuộc một trong tám bộ đó : Tức là Ma Hầu La Già (đại mãng xà).
Quan sát nhân duyên con rắn này, có thể là : Ở thời nhà Châu, rắn này là một vị đại thần, xong tâm địa rất xấu xa, hiểm ác. Vì âm mưu soán đoạt ngôi vua, cho nên y dùng một con dao găm có tẩm rượu độc bỏ vào trong tay áo rồi đi hành thích nhà vua. Tuy nhiên, chẳng những y không soán đoạt được ngôi vua mà ngược lại, còn làm cho trời giận, dân oán. Vị đại thần đó khi lâm chung thì sinh tâm hết sức sân hận, độc địa, cho nên chết rồi đọa làm thân rắn, rồi có đời chuyển thành con trăn lớn.
Ở trên thế gian có hai thế lực là âm và dương, hay thiện và ác. Nếu theo đường thiện mà tận lực tu phuớc và huệ thì có thể thành Thiên, thành Thánh, thành Bồ-tát, thành Phật. Nếu theo đường ác mà luyện tập thì thế lực càng ngày càng lớn, song toàn làm những chuyện hắc ám, nào là hãm hại, tàn sát, oán hận, báo thù, do đó mỗi ngày mỗi chồng chất oán khí đầy đặc, lớn lao ; kẻ tích tập oán khí sâu dầy đó sau này sẽ biến thành rắn độc, rồng độc v.v...
Những thứ rắn độc hay rồng độc không phải là thứ mà phàm thấy đặng, song chúng đầy dẫy trong thế giới này. Thứ rắn độc, rồng độc đó là do tâm tham, sân, si tích lũy hình thành. Cho nên khi bọn chúng tới chỗ nào là chỗ đó có tai họa. Thiên tai, nhân họa, phi thi (xác chết biết đi), tà quỷ (quỷ phá làng phá xóm), yêu tinh (những thứ cây cối thực vật, khoáng chất ... hấp thụ tinh khí trời đất mà thành), ma yếm (quỷ tu luyện lâu năm thành ma), hay hoạnh dịch lưu hành (những thứ bịnh nan y) đều do những thứ rắn độc này tác quái. Còn rồng độc, dịch quỷ, thì chuyên phóng khí độc, để làm loạn tâm người hoặc đoạt tinh khí của người, làm cho người ta kinh sợ, điên cuồng.
Cho nên, hiện thời lưu hành đủ thứ bịnh tâm lý, như là tinh thần phân liệt, hoặc là điên cuồng, khiếp sợ và đủ thứ tật bịnh sinh lý ..., tất cả đều không ra ngoài phạm vi làm sóng làm gió của bọn yêu ma quỷ quái này. Tâm lý học và y học hiện đại không hiểu được một cách sâu sắc nguyên do của những chứng bịnh đó, cho nên không thể đối bịnh cho thuốc để chữa trị. Đương nhiên Phật Pháp thì có linh dược triệt để trừ hết được tai nạn, dứt hết được tai ương !
Lại nói đến nhân duyên của rắn độc này : Vì sẵn có tâm sân hận, lại thêm tu luyện cái tâm sân hận đó cho nên mới thành tinh. Rắn luyện pháp thuật càng ngày càng cao. Trải qua một thời gian lâu dài thì nó thông thiên triệt địa, nhưng chỉ lấy chuyện hại người làm vui. Những chuyện tương tợ như con rắn này trong trời đất có nhiều vô số kể, nên tôi hy vọng bọn chúng mau sinh tâm sám hối, đừng làm chuyện yêu nghiệt, gieo họa cho nhân gian nữa.
Cho đến đời nhà Tống thì con rắn này trở nên một con rồng độc. Nó ngự trị trên một con sông lớn, chuyên làm sóng gió mưa bão, sát hại không biết bao nhiêu thuyền chài, ngư phủ và khách qua sông. Cả một thời gian dài, có vị Thánh Tăng pháp thuật rất cao cường đặc biệt tới để giải cứu.
Vị đó tay cầm tích trượng, đứng bên bờ sông, lớn tiếng khiển trách rồng độc. Rồng độc nghe được thì vô cùng tức giận, mới trổ hết bản lĩnh hiện ra thân hình mãng xà dài ngàn trượng. Song, vị Pháp Sư vì có Kim Cang Tam Muội chấp trì nên chẳng hề sợ hãi. Ngài dùng pháp "Câu triệu" và pháp "Hàng phục" (hai phương pháp để chế phục quỷ thần), trải qua ba ngày ba đêm sống chết chiến đấu với nó, cuối cùng thì Ngài chiết phục được rồng độc.
Tà không thắng chánh ! Khi ác thuật bị phá rồi thì rồng độc chẳng còn cách gì khác hơn là phải đầu hàng. Bấy giờ vị Pháp Sư này mới thuyết Pháp rằng :"Tất cả mọi thứ đều là khổ, là không, là vô thường, là vô ngã, và chỉ có cái nghiệp là theo thân mình !" Đồng thời Ngài dạy nó nên sinh lòng từ bi, dùng pháp thuật để giúp ích chúng sinh, chớ không thể gia hại sinh linh nữa.
Rồng nghe Pháp rồi thì thức tỉnh, nên được con mắt thanh tịnh. Vị Pháp Sư mới truyền thọ cho nó Tam Quy, Ngũ Giới, rồi biểu nó tới một sơn động nọ để tu hành, đừng làm não hại nhân dân nữa ; rồng độc liền tuân theo lời dạy. Từ đời Tống đến nay đã trải qua mấy trăm năm lịch sử rồi, con rồng đó đã trở thành một trong Thiên Long Bát Bộ, thần thông biến hóa vô cùng."
Có lần trong Điện Vạn Phật có một vị Tỳ-kheo-ni nói rằng :"Mấy ngày trước, khi đi ngang qua Đại Hỷ Xả Viện tôi thấy đuôi con rắn này thò ra ngoài, cho nên tôi lấy cây gắp bỏ nó vào hộp gỗ, định đem đi xa rồi thả để nó đừng gây hại người. Ai ngờ chỉ quay đầu lại, mở hộp ra thì rắn đã biến mất rồi. Rõ ràng rắn không cách gì có thể thoát ra được, nhưng lạ thay, thật là nó có thần thông."
Hoà Thượng cười mà nói rằng :"Con rắn này tôi đã biết nó từ trước rồi ! Hai mươi năm trước, khi tôi còn ở Chùa Từ Hưng trên núi Đại Dư ở Hương Cảng thì nó đã từng tới Chuà để nghe Kinh. Tuy nó không làm hại ai nhưng ai cũng đều sợ nó ! Sợ cái tướng rắn. Có lần có người cũng nhặt nó bỏ trong hộp, rồi đem đi thật là xa, không biết bao nhiêu dặm, chừng khi mở hộp để thả nó, thì rắn không cánh mà bay mất. Ngày nay Phật Pháp truyền sang Tây Phương, rắn này cũng không chối từ đường sá xa xôi bay qua Mỹ để hộ Pháp."
Sau cùng Hoà Thượng giảng dạy như sau :"Chúng sinh học Phật cần phải tin sâu nhân quả. Nếu không trồng nhân ác thì tự nhiên chẳng kết quả ác, nếu trồng nhân tốt thì tương lai chắt chắn sẽ được kết quả tốt. Nhân, quả không sai một mảy may. Mình giết cha người khác thì có người giết cha mình, mình giết anh người khác thì người khác sẽ giết anh mình.
Đừng nghĩ rằng có thể tùy tiện làm chuyện ác vì làm chuyện ác sẽ hết sức tổn hại cho mình. Vì sao ? Vì trời cao có đức hiếu sinh, không muốn cho chúng sinh làm hại chúng sinh. Khi mình làm sai với lý nhân quả thì : Thân người mà mất đi, vạn kiếp khó có lại được. Cho nên, chuyện gì không tin cũng được, nhưng không thể không tin lý nhân quả ! Nếu bài bác lý nhân quả thì tương lai sẽ hết sức nguy hiểm.
Bồ-tát sợ nhân mà không sợ quả, cho nên hết sức thận trọng lúc trồng nhân. Vì nếu vô ý mà trồng nhân ác, thì lúc thọ quả báo ác, các Ngài đối mặt tiếp thọ quả báo, không chạy trốn, không oán trời cũng không trách người. Ngược lại, chúng sinh thì sợ quả báo mà không sợ lúc trồng nhân. Lúc trồng nhân thì hết sức tùy tiện làm chuyện điên đảo, đến lúc thọ quả báo ác thì sợ hãi vô cùng, oán người trách trời : "Tại sao tôi phải chịu đau khổ thế này ? Tại sao tôi phải chịu báo ứng bất công như thế này.. ?"
Các vị có biết đâu rằng nếu như khi xưa không trồng nhân như vậy thì bây giờ sao gặt quả như thế ? Hôm nay gặp nhân duyên này, có Thiên Long Bát Bộ hiện thân thuyết Pháp, cho nên tôi nhân cơ hội nó cho các vị biết tiền nhân hậu quả.
Chỉ nhân nhất trước thác,
Thâu liễu mãn bàn kỳ.
Nghĩa là :
Chỉ đi sai một nước,
Mà thua cả ván cờ.
Sai lầm chỉ một niệm mà kiếp vận khó vãn hồi. May thay là con rắn nay đã quy y Tam Bảo, tương lai nó còn có cơ hội để minh tâm kiến tánh. Nếu các vị không tin vào nhân duyên này, thì cứ tự mình thí nghiệm xem ; còn nếu tin nhân quả, thì đừng nên nghi ngờ gì chuyện này cả !
Hoà Thượng Tuyên Hoá
Mỗi độ Thu về nhìn lá vàng rơi giăng phủ kín lối đi, với những cơn gió thổi nhè nhẹ, hơi se lạnh làm tôi cảm thấy buồn man mác và nhớ mẹ tôi vô cùng. Mẹ tôi mất cũng vào mùa Thu, cách đây đã mười tám năm rồi, nhưng đối với tôi mẹ vẫn luôn hiện hữu và tưởng chừng như chuyện mới xảy ra mà thôi.
Không riêng gì tôi có cảm giác này, mà các anh chị tôi cũng vẫn thường nhắc nhở đến mẹ với tất cả tình cảm trân quý. Có dịp gặp nhau anh chị em tôi luôn nhắc đến kỷ niệm về Bố Mẹ, cuối cùng cũng xoay quanh về Mẹ với những điều khó tin về tâm linh, nhưng lại là sự thật đã xảy đến với gia đình chúng tôi.
Khi còn nhỏ tôi thường được mẹ cho đi theo tới nhà họ hàng vào dịp lễ, tết đến nhà các bác tôi, trong lúc mẹ tôi và các bác trò truyện, nhiều lần tôi nghe các bác nói với mẹ tôi: Bà chết đi sống lại hóa ra thọ hơn ông nhà bà. Có lúc tôi nghe bác nói: Lúc bà chết, ông ấy khóc quá và làm thơ khóc bà nữa?! ...
Vì còn nhỏ nên tôi không chú ý mấy đến câu chuyện của các cụ nói với nhau. Khi khôn lớn mỗi lần nghe các bác tôi nhắc lại những lời nói trên, tôi thắc mắc hỏi lý do nào mà nói mẹ tôi chết đi sống lại, bác tôi bèn kể cho nghe câu chuyện về mẹ tôi.
Tôi sinh ra được tám tháng thì mẹ tôi bị bệnh. Sau mấy tuần lễ ốm nằm liệt giường, một buổi sáng mẹ tôi dậy rất tỉnh táo, khoẻ mạnh, đòi ăn uống và tắm rửa thay giường chiếu sạch sẽ, rồi mẹ tôi dặn dò mọi chuyện trong gia đình. Xong xuôi mẹ tôi cho biết trưa ngày hôm sau người sẽ ra đi.
Tưởng rằng cơn bệnh đã khiến mẹ tôi mê sảng nói thế, nào ngờ trưa hôm đó mẹ tôi mặc áo quần chỉnh tề và nằm ngay ngắn trên giường rồi ra đi thật. Cả nhà lo buồn và chuẩn bị tang lễ cho mẹ tôi. Bố tôi cắt đặt mọi việc nhà, chuẩn bị ngày hôm sau sẽ tẩm liệm. Ông nhờ một người bà con ngồi túc trực bên giường để canh xác trong lúc họ hàng tới đông đủ phụ lo cỗ bàn dựng rạp.
Trong lúc ngồi bàn chuyện với khách đến thăm, bố tôi đã làm bài thơ khóc mẹ tôi. Anh chị tôi lúc đó còn nhỏ nên chỉ nhớ được mấy câu, cho tới bây giờ mỗi lần có dịp gặp nhau, tôi vẫn được anh cả đọc cho nghe:
..Con thơ dậy dỗ bế bồng. Em về chín suối đau lòng chăng em. Nhớ em trăm thảm nghìn sầu. Nhớ em đến lúc bạc đầu chưa quên.
Theo lời kể của bác tôi, đêm hôm trước ngày tẩm liệm mẹ tôi, người anh bà con ngồi canh bên giường. Anh uống rượu say, vào quan tài của mẹ tôi nằm khóc và nói:
- Bà ơi! Bà hãy sống dậy đi để lo cho các cô, các cậu còn nhỏ, để con chết thay cho Bà. Mọi người lôi anh ta ra và trách anh say rượu rồi nói càn!
Đến gần sáng mọi việc đã chuẩn bị xong xuôi, chờ tới giờ thầy cúng làm nghi lễ tẩm liệm. Ngay giờ bắt đầu làm lễ, mọi người ở dưới nhà ngang, nơi để giường mẹ tôi nằm (mẹ tôi mất ở quê), nghe như có tiếng rên khe khẻ. Hốt hoảng vì tưởng con mèo nhảy qua người mẹ tôi nên mới có chuyện này, mọi người vội báo cho bố tôi biết.
Cụ bèn đến nơi và sờ người mẹ tôi, thật lạ vì mẹ tôi mất đã cách đêm mà người Bà còn hơi ấm và mềm mại. Lát sau bố tôi xem lại thì thấy cảm giác này tăng dần, ông bèn cho mời ông thầy thuốc đến bắt mạch đổ sâm cho uống.
Bố tôi cho rằng mẹ tôi đã sống lại. Ông không tin theo lời dị đoan nói rằng vì có con mèo nhảy qua người mẹ tôi nên mới có hiện tượng lạ này. Sau khi đổ sâm cho uống, vài giờ sau mẹ tôi tỉnh lại, tuy còn rất yếu nhưng nói được vài câu. Mọi người trong gia đình lúc đó đều nói: thật là điều bí ẩn khong thể giải thích được.
Sau khi mẹ tôi sống lại, bố tôi đem trả lại nhà hàng áo quan đã mua để lo cho mẹ tôi. Vài tháng sau, người bà con đã khóc đòi chết thế cho mẹ tôi đột ngột qua đời. Khi mua áo quan lo cho anh, gia đình lại mua đúng cái mà anh đã từng nằm vào. Thật là sự mầu nhiệm trùng hợp lạ lùng! Sau khi đã bình phục hoàn toàn, mẹ tôi kể lại cho bố tôi và bà con nghe những những sự việc bà đã nhìn và nghe thấy trong lúc hồn xuất dương:
Mẹ tôi được bà nội tôi dắt tay đến các cửa quan ở địa ngục (bà nội tôi mất đả lâu rồi). Hai bà đi qua nhiều nơi lắm, thấy có những nơi người bị giam cầm tra tấn, giống như những cảnh bà đã thấy trong những bức tranh treo trong chùa. Bà nội tôi không cho mẹ tôi đứng lại xem, lôi đi và dặn mẹ tôi đừng lên tiếng.
Bà nội và mẹ tôi đi qua tất cả chín cửa quan, nơi nào bà nội tôi cũng quỳ lạy, khóc xin tha cho mẹ tôi sống thêm ít lâu nữa để lo cho con cái khôn lớn. Đến nơi thứ chín, có ba vị quan lớn râu dài mặt đỏ, ngồi trên tòa sen cao, dưới đất trải chiếu hoa, chén đĩa đựng trái cây, trầu cau, ly đựng nước đều bằng bạc cả.
Bà nội tôi cũng quỳ lạy xin tha cho mẹ tôi được sống thêm lo cho con cái khôn lớn, bà nội tôi cứ quỳ và khóc mãi không chịu đứng dậy. Hai người quỳ một hồi lâu thì vị quan ngồi giữa nói với bà nội tôi, là ông tạm tha cho mẹ tôi về nuôi con.
Quá mừng bà nội đã dắt mẹ tôi chạy ra xe ngựa để trở về nhà. Về tới cổng nhà mẹ tôi nói với bà cho mẹ xuống xe. Chúng tôi đoán rằng có lẽ lúc mẹ tôi nói với bà tôi, là lúc ở nhà nghe được tiếng rên khe khẽ của mẹ tôi phát ra.
Chuyện mẹ tôi chết đi sống lại, tuy mới nghe có vẻ khó tin nhưng tất cả đều là sự thật. Sau khi mẹ tôi bình phục hoàn toàn và trở lại đời sống bình thường, có nhiều chuyện lạ xảy đến với gia đình tôi nữa. Chính mẹ tôi đã kể lại cho chị em chúng tôi nghe:
...Bố tôi làm việc ở Nam Định, thỉnh thoảng mới về quê chơi ít ngày rồi lại đi. Riêng mẹ tôi thường về quê và sống nhiều ngày hơn, bao giờ bà cũng đưa chị em tôi cùng về. Hè năm đó nóng hơn mọi năm. Một hôm trời oi bức nóng nực, mẹ tôi dắt hai chị tôi lúc ấy còn rất nhỏ, ra cổng nhà đứng hóng mát.
Sáng hôm sau ngủ dậy mắt trái của người chị thứ hai sưng vù, con ngươi đỏ ngầu đau nhức nên chị khóc la dữ lắm. Chờ sáng hẳn mẹ tôi nhờ người giúp việc, chèo đò đưa bà và chị tôi qua sông lên Nam Định gặp một vị bác sỹ bạn với bố tôi, nhờ ông khám xem chị tôi ra sao và xin thuốc chữa trị.
Sau vài lần điều trị mắt của chị tôi đã không khỏi, mà còn tệ hại hơn nữa, bác sỹ cho biết không chữa lành được. Quá tuyệt vọng mẹ tôi quay ra chữa thuốc nam cho chị. Trên đường đi hốt thuốc bà gặp một người quen mách cho biết là ở làng bên cạnh có một người lên đồng bóng, cho thuốc chữa khỏi rất nhiều người.
Mẹ tôi nghĩ : còn nước còn tảt nên đã đến nhà người này để xin thuốc chữa con mắt cho chị tôi. Đến nơi gặp ông Hưu, người lên đồng, mẹ tôi trình bày lý do và xin được giúp đở. Ông bày lễ vật và cúng bái xong, một lát thấy người ông cứ lắc qua, lắc lại, rồi ôm mặt khóc hu hu. Khóc một hồi thì ông quay qua mẹ tôi nói rằng:
- Con là cô Chín đây, con của mẹ mất đã lâu. Con muốn về nhà báo cho cha mẹ biết nhưng không biết cách nào. Mới đây nhân dịp về nhà, thấy mẹ dắt em ra đường đứng chơi nên con đã dí bông hoa nhài lên mắt em để mong mẹ biết mà tìm đến con.
Khóc xong một hồi thì người lên đồng đưa cho mẹ tôi nước cúng, trái ớt, nhánh tỏi, nói đem về giã rồi đắp lên mắt chị tôi sẽ khỏi. Nói xong thì thăng. Bán tín bán nghi không biết ra sao, mẹ tôi đánh liều làm theo lời dặn vì theo lời bác sỹ, mắt chị tôi không chữa khỏi được coi như hư luôn rồi.
Sau khi đắp ớt tỏi cho chị tôi xong, mẹ tôi bế chị nằm ngủ ở vỏng. Đến nửa đêm trong lúc mơ màng nửa tỉnh nửa mê, mẹ tôi thấy một người con gái đứng bên võng nói:
- Để con ngắt bông hoa nhài cho em.
Mẹ tôi tỉnh dậy và cùng lúc đó chị tôi khóc thét lện. Mẹ tôi vội vặn lớn ngọn đèn dầu, thấy máu và mủ ở mắt chị tôi chảy ra, bà lau sạch cho chị rồi dỗ chị ngủ tiếp. Sáng hôm sau mắt chị tôi bớt sưng. Vài ngày sau thỉ khỏi hẳn. Thật như là một phép lạ khó tin nhưng đã xảy đến với người thân của tôi, nên từ ngày đó gia đình tôi rất tin tưởng nơi thần linh.
Mẹ tôi cho biết chị cả của chúng tôi mất lúc chị mới lên chín tuổi. Chị cảm sơ trước khi mất đòi ăn nhãn, ăn xong thì hôm sau chị mất. Mẹ tôi khóc nhớ thương chị mãi, nhưng vì chị mất lúc còn nhỏ nên không lập bàn thờ ở nhà chỉ cúng mỗi dịp giỗ chị thôi. Sau chuyện này xảy ra, mẹ tôi đã đến nhà thờ Tổ, nơi thờ cúng chị tôi, xin bát nhang về thờ. Nay bát nhang chính vẫn còn được thờ ở nhà thờ Tổ của dòng họ ở ngoài Bắc.
Sau ngày đổi đời của đất nước, chú Út tôi từ ngoài Bắc vào chơi đã kể lại cho mẹ và chị em tôi về sự linh thiêng của chị Cả tôi, sự linh thiêng đã khiến dân làng rất tin tưởng và hàng năm họ góp gạo đến nhà thờ Tổ, nơi có bát nhang thờ Chị tôi, cùng nhau làm lễ cúng bái, chú tôi kể lại như sau:
- Khi gia đình tôi di cư vào miền Nam sinh sống, nhà cửa bị tiếp quản, đóng trụ sở tại đó, tới mùa trái cây như nhãn, mận, ổi, họ leo lên cây hái trái để ăn và đem bán, lần nào trèo cây cũng bị té ngã gãy tay, gãy chân hoặc u đầu sứt trán, không cách nào leo lên cây được, đêm đến có người con gái lay giường bắt dậy, đòi trả nhà cho bố mẹ Cô.
Sau đó có người mách bảo nhà có người chết linh thiêng lắm, đến nơi thờ phượng, khấn vái xin phép hái hoa trái đem bán, nghe lời khuyên, họ mang bông trái cây đến nhờ chú tôi giúp, chú tôi nói, phải có lòng thành, đích thân cúng mới được. Từ đó về sau, mùa nào trái ấy, họ đều đem lễ vật đến cúng chị Cả tôi rồi mới trèo cây hái trái, mọi việc êm xuôi, không bị té ngã nữa.
Dân làng ai có chuyện gì đều đến cầu xin chị tôi và đều được toại nguyện cả, nên ai ai cũng tin tưởng lắm. Chú út tôi còn kể cho nghe nhiều chuyện về sự linh thiêng của chị tôi nữa, chẳng hạn thời giặc Pháp hay về làng càn quét, cướp của giết người. Mỗi lần nghe báo động có giặc về làng, mọi người bồng bế, gồng gánh chạy loạn, nhiều lần chạy trong đêm tối, không nhìn rõ mặt nhau, trong hoàn cảnh như vậy, chú tôi khấn vái chị tôi phù hộ cho gia đình và dân làng thoát nạn.
Thật là mầu nhiệm, chú tôi và mọi người nhìn thấy thấp thoáng phía trước có bóng người con gái cầm đèn soi đường cho mọi người. Dân làng cứ lặng lẽ đi theo ánh đèn, bao giờ cũng tránh được giặc Tây, không bị thiệt hại gì cả.
Sau ngày 30/4 vài tuần, tôi đến nhà thăm mẹ, đúng lúc đó tôi thấy bà chị dâu thứ đang đứng khóc hu hu trước bàn thờ và người lắc như lên đồng. Mẹ tôi vội thắp nhang và khấn vái rằng, nếu có phải chị Cả tôi về đồng, muốn nhập vào chị dâu tôi thì cho biết chứ đừng hành xác chị tôi nữa, tội nghiệp chị ấy!
Sau đó mẹ tôi đưa rượu cho chị tôi uống, khai khẩu. Một lát sau chị dâu tôi ngừng khóc và nói cho biết chị Cả tôi về đồng, nhập vào chị dâu thứ của tôi để nói chuyện, một sự lạ là chị dâu tôi xưa nay đả phá đồng bóng dữ lắm, không tin dị đoan bao giờ, thế mà giờ chị Cả tôi lại nhập vào chị.
Chị tôi về đồng và nói rất thương mẹ và các em, nhưng không cứu vãn được vì hạn gia đình phải gánh, cho biết sau này tất cả các em của Chị tôi sẽ sinh sống ở nước ngoài, có cuộc sống hạnh phúc, sung sướng, con cháu thành đạt nơi xứ người.
Mẹ tôi nói không tin vì nay em trai, em rể Cô đã đi tù, những đứa ở nhà thì sống vất vả, lo lắng mọi bề, cả nhà đều bị kẹt lại không ai đi thoát ra nước ngoài sinh sống cả. Chị tôi cười và nói cứ tin nơi Chị, sẽ có ngày đó đến với các em của Chị, nói xong thì chị thăng.
Sau ngày đó, Chị tôi không về nhập đồng nữa, mọi người trong gia đình cũng quên lãng câu chuyện này. Rồi phong trào vượt biên xảy ra, chồng tôi sau khi đi tù cải tạo được thả về, mẹ chồng tôi giúp vốn đã vượt biên thành công, con các chị tôi cũng vượt biển, tới được đất Mỹ sinh sống. Chưong trình ra đi có trật tự được thực hiện, chồng tôi bảo lãnh cho ba mẹ con tôi, gia đình các chị tôi được con cái bảo lãnh, gia đình anh tôi đi diện HO.
Tất cả năm gia đỉnh anh chị em tôi đều sinh sống ở đất nước tự do này, con cái đều thành đạt, nên người. Bây giờ nhớ lại lại những lời mà Chị Cả tôi về đồng nói lúc năm xưa, không sai điểm nào cả. Vấn đề tâm linh thật khó mà giải thích!
Mẹ tôi sau này về ở với ba mẹ con tôi, bà nói chồng tôi không có nhà, tôi thì trẻ chưa qua, già chưa tới, sợ mọi người dòm ngó vì có chồng gửi quà từ Mỹ về nuôi, và lúc đó hai con tôi còn quá nhỏ cần có người chăm sóc để tôi có thời giờ đến trường dạy học. Mẹ tôi sống rất nhân đức hiền từ, hết lòng thương yêu con cái.
Mẹ tôi là một bà mẹ quê Việt Nam điển hình với tính tình đôn hậu, chịu thương, chịu khó, hy sinh cả đời lo cho chồng con. Những người quen cần gì, mẹ tôi sẵn lòng giúp ngay. Những người buôn bán hàng rong kiếm sống qua ngày, mẹ tôi mua bao giờ cũng trả đúng giá đòi, không kỳ kèo bớt xén gì cả, nhiều người hoàn cảnh quá khổ, túng thiếu, mẹ tôi còn cho mượn vốn buôn bán, cho vay từ tháng giêng đến ba mươi tết đem trả, qua mùng bốn tết đến mượn lại mà không lấy bất cứ quà cáp gì mà họ đem biếu cả.
Mẹ tôi thường nói:
- Của trời của Phật đừng lo sợ mẩt, giúp ai được điều gì thì nên giúp với tất cả tấm lòng. Ảnh hưởng cách sống của mẹ tôi nên tôi và các con cũng học được tính vị tha, thương người của Bà, sẵn lòng vì mọi người. Chưa bao giờ tôi thấy mẹ tôi to tiếng với con cái hay người ngoài cả, nếu không bằng lòng con cái điều gì, mẹ tôi chỉ chép miệng thở dài thôi.
Tôi còn nhớ lúc các con tôi còn nhỏ, con nít ham vui lười học nhất là con trai tôi, tối bị cúp điện thắp đèn dầu, muỗi vo ve bên tai mẹ tôi ngồi bên cạnh, quạt đuổi muỗi cho con trai tôi học bài, mẹ tôi nói ráng mà học con ạ, ở đâu, thời buổi nào cũng cần người có học cả, có học không sợ đói, mai đây qua đoàn tụ với bố các con, thấy các con học giỏi bố mới không phàn nàn mẹ con chứ, những câu nói của mẹ tôi khó quên được.
Mẹ tôi dường như biết trước ngày mất. Hai ngày trước khi mất mẹ tôi ngủ trưa và miệng nói chuyện rang rang. Tôi đánh thức mẹ tôi dậy thì Bà nói để yên cho mẹ nói chuyện. Khi mẹ tôi tỉnh ngù, Bà cho biết sắp đến lúc mẹ đi rồi, trước kia được phép sống thêm để nuôi các con khôn lớn, nay là lúc về với Ông Bà, đã tám mươi bốn tuổi rồi, sống vậy là quá thọ rồi.
Rồi mẹ kể cho nghe vừa nói chuyện với mấy bà bác, mất đã lâu lắm rổi, các bạn đi chùa với mẹ tôi nữa, các cụ ngồi đầy xe bus chờ mẹ ngoài cổng, mẹ nói chờ mẹ về nhà lấy cây dù rồi sẽ đi sau. Biết chuyện ngày xưa mẹ đã từng chết đi sống lại, tôi rất tin tưởng lời mẹ nói là mẹ sắp ra đi.
Hôm sau tôi cho dọn dẹp nhà cửa gọn gàng sạch sẽ, những thứ không cần thiết, dẹp lên gác hết cho rộng nhà. Sáng hôm sau anh trai thứ của tôi đến thăm mẹ, tôi gọi anh ra phòng ngoài kể cho anh nghe hiện tượng về mẹ tôi, anh gạt đi và nói tôi đừng quá lo lắng và tin chuyện mẹ nói sắp ra đi, mẹ rất khoẻ, không đau ốm gì cả thì làm gì xảy ra chuyện cho mẹ được.
Tôi tạm yên lòng, mẹ tôi gọi anh tôi đến, móc túi cho tiền và phân phát cho con cháu hết số tiền đang có, nói tôi đưa bọc quần áo mà mẹ tôi đã sắp sẵn, có cả miếng vàng nhỏ để trong túi nhỏ nữa. Trưa đó mẹ tôi tắm gội sạch sẽ, cho thay giường chiếu giặt mùng màn. Đến ba giờ sáng mẹ tôi thức giấc, tôi cũng vừa chợt tỉnh và qua giường Bà nằm, hỏi thăm cần tôi giúp việc gì không, Bà nói :
- Mẹ mệt quá chắc không sống được, nói xong ngả đầu vào tay tôi nhắm mắt đi luôn, tất cả chưa đến năm phút đồng hồ! Ôm mẹ trong lòng mà không dám tin là mẹ đã mất, tôi không còn khóc được vì chuyện xảy đến quá đột ngột!
Nghe tin mẹ tôi mất, bà con họ hàng xa gần xóm giềng tới thăm viếng rất đông, ai ai cũng thương tiếc mẹ tôi và nói :
- Mẹ tôi là người nhân hậu đạo đức thương người, sống rất giản dị cởi mở với tất cả mọi người, nên Cụ ra đi dễ dàng nhanh chóng như vậy. Có những người cháu của Bố tôi với tuổi đời trên dưới bảy mươi, đã khóc mẹ tôi và kể những công đức mà ngày mẹ còn ở quê giúp đỡ con cháu họ hàng. Được biết những chuyện về mẹ mà trước đây tôi chưa bao giờ nghe mẹ nhắc đến, tôi càng kính phục mẹ thêm.
Đã mười tám năm rồi tôi vẫn luôn nhớ đến mẹ và thấy thật là bất hạnh không còn mẹ để chia xẻ những khó khăn, vui buồn của cuộc đời, được nghe những lời khuyên của mẹ. Nhất là vào dịp lễ Vu Lan, về chùa dự lễ, thấy mọi người được cài bông hồng đỏ trên áo, còn tôi với bông hồng trắng, cảm thấy buồn và tủi thân vô cùng, thật thấm thía với câu thơ của thi nhân:
Hoàng hôn phủ trên mộ. Chuông chùa nhẹ rơi rơi. Tôi thấy tôi mất mẹ. Như mất cả bầu trởi. Nhớ mẹ con nghẹn ngào. Lời ca sầu vút cao. Hoa trắng cài lên áo.
Thương mẹ mắt lệ trảo.
Mẹ ơi, hôm nay ngồi viết những dòng chữ này về mẹ, con xin nguyện cầu cho mẹ được an nghỉ bình yên. Suốt cuộc đời mẹ đã cho chúng con tình yêu thương vô bờ bến, mẹ là bóng mát dịu êm đã che chở, nuôi nấng con nên người, mẹ là nguồn sống là tình thương yêu bất tận. Cả đời mẹ hy sinh chịu đựng, sẵn sàng gánh vác sự khó khăn cho con cái. Con xin gửi đến mẹ lời thơ của Thầy Thanh Trí Cao, nói lên tâm sự của con:
Vu Lan ý nhiệm mầu. Báo hiếu nghĩa thâm sâu. Đời con cài hoa trắng. Mẹ hiền giờ ở đâu. Lạy Phật con nguyện cầu. Cho dù mẹ ở đâu. Trần gian hay nước Phật Hồn mẹ không khổ đâu.
Kim Phương Oanh
RẮN LẠI NGHE PHÁP
Chú dẫn : Ngày chủ nhật, 20 tháng 6 năm 1982, đúng lúc cử hành Pháp diên, bốn chúng đệ tử trong Vạn Phật Thành mới cùng nhau niệm "A Di Đà Phật" trên đường về Đại điện, thì phát hiện ra một con rắn lục có vằn nằm ngay nơi cửa trước Đại điện, dài khoảng ba bốn bộ, hình dạng rất nhỏ và dài.
Đại chúng thấy rắn thì sợ không dám tiến vào, bấy giờ vị Tăng giám thị, thầy Hằng Vô, muốn đem con rắn vứt ra ngoài. Song lúc đó thì Hoà Thượng cũng đang tiến lại, Ngài mỉm cười nói rằng : "Không cần thiết đâu, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, con rắn tới là để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, không nên đuổi nó !"
Kỳ lạ thay, con rắn này không giống như những con rắn bình thường khác, mình nó trườn dài ra mặt đất, tuy có trăm người bước qua mình, mà nó không sợ hãi gì cả, nó hết sức thuần thục và hiền lành. Khi Hoà Thượng lên đài thuyết Pháp thì dạy rằng : "Kêu con rắn vào đây mà nghe Pháp đi."
Con rắn nghe như vậy thì lập tức tiến vào, nó bò từ từ vào đến ngay giữa Chánh điện không hề làm kinh sợ những người hai bên, rồi từ nơi Đại điện ở phía trái nó bò qua bên phải, rồi mới nhiễu quanh tượng Phật một vòng, xong từ từ nằm phục xuống ở Pháp tòa, cũng giống như là quỳ trước tượng Phật vậy, nằm im nghe Pháp.
Hoà thượng mới khai thị cho nó như vầy :
"Nhất thiết chúng sinh
Giai hữu Phật tánh
Giai kham tác Phật."
Đó là câu nói từ kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên chúng sinh không chứng được trí huệ đức tướng của Như Lai. Từ nơi câu nói nầy chúng ta có thể suy ra mọi chúng sinh đều có tánh Phật ; đã vậy thì không nên sát sinh, không nên trộm cắp, không nên tà dâm, không nên vọng ngữ, không nên uống rượu ; mà phải giữ năm giới ! Sát sinh là giết mười phương chư Phật, vì chúng sinh là do Phật thị hiện mà ra. Do vì một niệm không giác ngộ nên sinh ra ba thứ vô minh rất vi tế (nghiệp tướng, hiện tướng, chuyển tướng), chúng sinh mới trầm luân trong biển khổ, xa lìa rồi vĩnh viễn mất đi nền Đạo chân thật !
Các vị tu Đạo hãy quán tưởng rằng tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của mình trong quá khứ, đều là những vị Phật trong tương lai, nên khi họ chưa thành Phật, mình phải tôn kính họ. Mình phải đối với chúng sinh như là đối với ba đời chư Phật vậy. Suy nghĩ như vậy thì tự nhiên hết khinh thường, bất kính, hay nhiễu loạn chúng sinh. Chúng sinh không phải chỉ là thứ hữu hình, thậm chí thứ vô hình như quỷ, thần, thiên, ma đều là chúng sinh cả. Cho nên mình phải bình đẳng cung kính, tôn trọng họ, không nên coi thường họ.
Hôm nay con rắn mà các vị gặp ở Phật điện cũng là một chúng sinh. Song, do nó thị hiện thân rắn, nên chúng ta thấy sợ, thấy mà không nhận thức, thậm chí còn bị lừa nữa. Rắn này tới đây chỉ để thân cận Tam Bảo, để nghe Pháp, nghe Kinh, nếu không vầy thì sao nó vào đây mà hết sức hiền hoà, nằm phủ phục chẳng động đậy gì cả nơi bục cửa ?
Tuy nhiên, lấy mắt nhìn thì nó chỉ là con rắn nhỏ ; kỳ thật rắn này có sức thiên biến vạn hóa ; có thể ẩn hình, có thể thu nhỏ, biến lớn, lại biết đằng vân giá vũ, bay qua luợn lại trong không trung. Chúng ta không thể biết được bản lĩnh của nó. Rắn này tương lai tu hành thành công cũng sẽ đắc đạo. Trong Kinh Phật có đề cập tới Thiên Long Bát Bộ, thì rắn này thuộc một trong tám bộ đó : Tức là Ma Hầu La Già (đại mãng xà).
Quan sát nhân duyên con rắn này, có thể là : Ở thời nhà Châu, rắn này là một vị đại thần, xong tâm địa rất xấu xa, hiểm ác. Vì âm mưu soán đoạt ngôi vua, cho nên y dùng một con dao găm có tẩm rượu độc bỏ vào trong tay áo rồi đi hành thích nhà vua. Tuy nhiên, chẳng những y không soán đoạt được ngôi vua mà ngược lại, còn làm cho trời giận, dân oán. Vị đại thần đó khi lâm chung thì sinh tâm hết sức sân hận, độc địa, cho nên chết rồi đọa làm thân rắn, rồi có đời chuyển thành con trăn lớn.
Ở trên thế gian có hai thế lực là âm và dương, hay thiện và ác. Nếu theo đường thiện mà tận lực tu phuớc và huệ thì có thể thành Thiên, thành Thánh, thành Bồ-tát, thành Phật. Nếu theo đường ác mà luyện tập thì thế lực càng ngày càng lớn, song toàn làm những chuyện hắc ám, nào là hãm hại, tàn sát, oán hận, báo thù, do đó mỗi ngày mỗi chồng chất oán khí đầy đặc, lớn lao ; kẻ tích tập oán khí sâu dầy đó sau này sẽ biến thành rắn độc, rồng độc v.v...
Những thứ rắn độc hay rồng độc không phải là thứ mà phàm thấy đặng, song chúng đầy dẫy trong thế giới này. Thứ rắn độc, rồng độc đó là do tâm tham, sân, si tích lũy hình thành. Cho nên khi bọn chúng tới chỗ nào là chỗ đó có tai họa. Thiên tai, nhân họa, phi thi (xác chết biết đi), tà quỷ (quỷ phá làng phá xóm), yêu tinh (những thứ cây cối thực vật, khoáng chất ... hấp thụ tinh khí trời đất mà thành), ma yếm (quỷ tu luyện lâu năm thành ma), hay hoạnh dịch lưu hành (những thứ bịnh nan y) đều do những thứ rắn độc này tác quái. Còn rồng độc, dịch quỷ, thì chuyên phóng khí độc, để làm loạn tâm người hoặc đoạt tinh khí của người, làm cho người ta kinh sợ, điên cuồng.
Cho nên, hiện thời lưu hành đủ thứ bịnh tâm lý, như là tinh thần phân liệt, hoặc là điên cuồng, khiếp sợ và đủ thứ tật bịnh sinh lý ..., tất cả đều không ra ngoài phạm vi làm sóng làm gió của bọn yêu ma quỷ quái này. Tâm lý học và y học hiện đại không hiểu được một cách sâu sắc nguyên do của những chứng bịnh đó, cho nên không thể đối bịnh cho thuốc để chữa trị. Đương nhiên Phật Pháp thì có linh dược triệt để trừ hết được tai nạn, dứt hết được tai ương !
Lại nói đến nhân duyên của rắn độc này : Vì sẵn có tâm sân hận, lại thêm tu luyện cái tâm sân hận đó cho nên mới thành tinh. Rắn luyện pháp thuật càng ngày càng cao. Trải qua một thời gian lâu dài thì nó thông thiên triệt địa, nhưng chỉ lấy chuyện hại người làm vui. Những chuyện tương tợ như con rắn này trong trời đất có nhiều vô số kể, nên tôi hy vọng bọn chúng mau sinh tâm sám hối, đừng làm chuyện yêu nghiệt, gieo họa cho nhân gian nữa.
Cho đến đời nhà Tống thì con rắn này trở nên một con rồng độc. Nó ngự trị trên một con sông lớn, chuyên làm sóng gió mưa bão, sát hại không biết bao nhiêu thuyền chài, ngư phủ và khách qua sông. Cả một thời gian dài, có vị Thánh Tăng pháp thuật rất cao cường đặc biệt tới để giải cứu.
Vị đó tay cầm tích trượng, đứng bên bờ sông, lớn tiếng khiển trách rồng độc. Rồng độc nghe được thì vô cùng tức giận, mới trổ hết bản lĩnh hiện ra thân hình mãng xà dài ngàn trượng. Song, vị Pháp Sư vì có Kim Cang Tam Muội chấp trì nên chẳng hề sợ hãi. Ngài dùng pháp "Câu triệu" và pháp "Hàng phục" (hai phương pháp để chế phục quỷ thần), trải qua ba ngày ba đêm sống chết chiến đấu với nó, cuối cùng thì Ngài chiết phục được rồng độc.
Tà không thắng chánh ! Khi ác thuật bị phá rồi thì rồng độc chẳng còn cách gì khác hơn là phải đầu hàng. Bấy giờ vị Pháp Sư này mới thuyết Pháp rằng :"Tất cả mọi thứ đều là khổ, là không, là vô thường, là vô ngã, và chỉ có cái nghiệp là theo thân mình !" Đồng thời Ngài dạy nó nên sinh lòng từ bi, dùng pháp thuật để giúp ích chúng sinh, chớ không thể gia hại sinh linh nữa.
Rồng nghe Pháp rồi thì thức tỉnh, nên được con mắt thanh tịnh. Vị Pháp Sư mới truyền thọ cho nó Tam Quy, Ngũ Giới, rồi biểu nó tới một sơn động nọ để tu hành, đừng làm não hại nhân dân nữa ; rồng độc liền tuân theo lời dạy. Từ đời Tống đến nay đã trải qua mấy trăm năm lịch sử rồi, con rồng đó đã trở thành một trong Thiên Long Bát Bộ, thần thông biến hóa vô cùng."
Có lần trong Điện Vạn Phật có một vị Tỳ-kheo-ni nói rằng :"Mấy ngày trước, khi đi ngang qua Đại Hỷ Xả Viện tôi thấy đuôi con rắn này thò ra ngoài, cho nên tôi lấy cây gắp bỏ nó vào hộp gỗ, định đem đi xa rồi thả để nó đừng gây hại người. Ai ngờ chỉ quay đầu lại, mở hộp ra thì rắn đã biến mất rồi. Rõ ràng rắn không cách gì có thể thoát ra được, nhưng lạ thay, thật là nó có thần thông."
Hoà Thượng cười mà nói rằng :"Con rắn này tôi đã biết nó từ trước rồi ! Hai mươi năm trước, khi tôi còn ở Chùa Từ Hưng trên núi Đại Dư ở Hương Cảng thì nó đã từng tới Chuà để nghe Kinh. Tuy nó không làm hại ai nhưng ai cũng đều sợ nó ! Sợ cái tướng rắn. Có lần có người cũng nhặt nó bỏ trong hộp, rồi đem đi thật là xa, không biết bao nhiêu dặm, chừng khi mở hộp để thả nó, thì rắn không cánh mà bay mất. Ngày nay Phật Pháp truyền sang Tây Phương, rắn này cũng không chối từ đường sá xa xôi bay qua Mỹ để hộ Pháp."
Sau cùng Hoà Thượng giảng dạy như sau :"Chúng sinh học Phật cần phải tin sâu nhân quả. Nếu không trồng nhân ác thì tự nhiên chẳng kết quả ác, nếu trồng nhân tốt thì tương lai chắt chắn sẽ được kết quả tốt. Nhân, quả không sai một mảy may. Mình giết cha người khác thì có người giết cha mình, mình giết anh người khác thì người khác sẽ giết anh mình.
Đừng nghĩ rằng có thể tùy tiện làm chuyện ác vì làm chuyện ác sẽ hết sức tổn hại cho mình. Vì sao ? Vì trời cao có đức hiếu sinh, không muốn cho chúng sinh làm hại chúng sinh. Khi mình làm sai với lý nhân quả thì : Thân người mà mất đi, vạn kiếp khó có lại được. Cho nên, chuyện gì không tin cũng được, nhưng không thể không tin lý nhân quả ! Nếu bài bác lý nhân quả thì tương lai sẽ hết sức nguy hiểm.
Bồ-tát sợ nhân mà không sợ quả, cho nên hết sức thận trọng lúc trồng nhân. Vì nếu vô ý mà trồng nhân ác, thì lúc thọ quả báo ác, các Ngài đối mặt tiếp thọ quả báo, không chạy trốn, không oán trời cũng không trách người. Ngược lại, chúng sinh thì sợ quả báo mà không sợ lúc trồng nhân. Lúc trồng nhân thì hết sức tùy tiện làm chuyện điên đảo, đến lúc thọ quả báo ác thì sợ hãi vô cùng, oán người trách trời : "Tại sao tôi phải chịu đau khổ thế này ? Tại sao tôi phải chịu báo ứng bất công như thế này.. ?"
Các vị có biết đâu rằng nếu như khi xưa không trồng nhân như vậy thì bây giờ sao gặt quả như thế ? Hôm nay gặp nhân duyên này, có Thiên Long Bát Bộ hiện thân thuyết Pháp, cho nên tôi nhân cơ hội nó cho các vị biết tiền nhân hậu quả.
Chỉ nhân nhất trước thác,
Thâu liễu mãn bàn kỳ.
Nghĩa là :
Chỉ đi sai một nước,
Mà thua cả ván cờ.
Sai lầm chỉ một niệm mà kiếp vận khó vãn hồi. May thay là con rắn nay đã quy y Tam Bảo, tương lai nó còn có cơ hội để minh tâm kiến tánh. Nếu các vị không tin vào nhân duyên này, thì cứ tự mình thí nghiệm xem ; còn nếu tin nhân quả, thì đừng nên nghi ngờ gì chuyện này cả !
Hoà Thượng Tuyên Hoá
#110
Gửi vào 20/06/2011 - 23:20
HÀNH TRÌNH ĐI VỀ BÊN KIA THẾ GIỚI
Khi được hỏi về tình trạng sức khỏe của mình, người Ai Cập cổ thường chỉ có một cách trả lời: "Hôm nay tôi khỏe, ngày mai thì tùy thuộc vào thần linh". Nền văn minh cổ Ai Cập gắn bó rất chặt chẽ với tôn giáo, và số lượng lớn các thần linh trong đó có Thần Anubis, vị thần đầu chó rừng được xem như vị thần sáng chế ra kỹ thuật tẩm hương thơm và chủ trì cho toàn bộ công việc ướp xác, cùng đồng hành với người chết đi sang thế giới bên kia.
CÁI CHẾT VÀ CUỘC SỐNG Ở BÊN THẾ GIỚI BÊN KIA
Ước mong của mỗi một người Ai Cập là, sau khi sống mạnh khỏe đến tuổi 110 ở trần thế, sẽ được thờ phụng khi bước sang thế giới bên kia. Người quá cố muốn được những con bò kéo trên một chiếc xe tang đến tận ngôi mộ đã được chuẩn bị đầy đủ, chu đáo của mình về hướng Phương Tây, với những nghi thức tang lễ và rưới rượu, và có những thân bằng quyến thuộc đưa tiễn.
Những câu chữ và hình khắc họa trên đá, phía trước và bên trong ngôi mộ, phải tôn vinh đến muôn đời những kỳ tích kiên cường mà kẻ quá cố đã đạt được ở cõi trần, và khích lệ người qua đường quan tâm niệm câu thần chú sau: "Cầu cho nhà vua hiến lễ cho Osiris, Chúa tể của Abydos1 và Chủ nhân của nghĩa trang, để ngài ban nghìn bánh mì và chum bia, nghìn bò và ngỗng, vải lanh ướp xác và thuốc dẻo tẩm hương thơm, và một nghìn những thứ tốt lành tinh khiết, cần cho cuộc sống của các thần linh, tất cả sản phẩm của trái đất và sự dồi dào của sông nước, ban cho linh hồn-Kâ của X, xin được chứng giám".
Cũng có những câu chữ khắc họa còn trực tiếp hơn như sau: "Ngươi là kẻ đang sống ở cõi trần và đi qua ngôi mộ này, bởi vì ngươi yêu cuộc sống và căm ghét cái chết, nếu ngươi muốn thành đạt và được cấp trên khen tụng, nếu ngươi muốn sống để nhìn thấy con trai ngươi hành nghề của ngươi và được nâng bậc cao hơn, ngươi phải niệm câu thần chú.
Nếu ngươi đến ngôi mộ này với ý định tốt, thì xin mời. Nhưng nếu ngươi đến đây để phá hủy hay nguyền rủa, thì bản thân thần Amon sẽ bắt ngươi, nữ thần Mout sẽ bắt vợ ngươi và thần Khonsou sẽ bắt con cái ngươi, cho đến muôn đời".
Đối với người Ai Cập, cái chết chỉ là một sự chuyển hóa đơn giản (nhưng khó khăn) từ dạng tồn tại này sang một dạng tồn tại khác, và dạng tồn tại mới này tuyệt vời và thỏa lòng đến mức những thành phần cấu tạo nên con người vừa mới qua đời phải được đảm bảo an toàn và được bổ sung bằng những phương tiện thích đáng để anh ta có thể tiếp tục tồn tại, và những nghi thức của lễ tang phải được thực hiện đầy đủ.
Người Ai Cập quan niệm rằng con người được tạo nên từ những yếu tố là thân xác, kâ (nguyên tắc tạo nên sự sống), linh hồn, bóng và tên, và khi chết, những yếu tố bị tách rời đó cần được quy tụ lại để đảm bảo cho một cuộc sống khác. Xác chết do đó cần được bảo toàn với thời gian. Nghệ thuật ướp xác chính là sinh ra từ đó.
Ngày nay, Bảo tàng về Ướp xác ở thành phố Louxor vẫn thường xuyên mở cửa để du khách vào tham quan. Ở đó, trong ánh đèn hiu hắt như trong thế giới cõi âm, người ta có thể theo dõi các công đoạn ướp xác, kỹ thuật ướp, những vật liệu cần thiết cho việc ướp xác và tẩm liệm, chôn cất, cũng như một số sản phẩm xác ướp động vật (mèo, cá sấu...). Ở Bảo tàng Cairo, du khách cũng có thể tận mắt nhìn thấy xác ướp của người.
Hiện tượng chuyển dịch hàng ngày của mặt trời tạo cho người Ai Cập niềm hy vọng về một cuộc sống khác sau khi chết. Mặt trời há chẳng chết đi mỗi chiều tối để lại chói sáng vào sáng hôm sau, trẻ trung và mạnh mẽ trở lại đó sao? Do số phận của vua Ai Cập gắn liền với thần mặt trời, trong khi sống cũng như trong cái chết, nên nhà vua không phải e ngại về nguy cơ bị rơi vào tình trạng "không tồn tại".
Và bởi triều thần cũng có trách nhiệm phục vụ cho nhà vua ở thế giới bên kia, cũng như họ đã làm ở trần thế, nên họ cũng có quyền hy vọng sẽ sống còn sau khi chết. Theo dòng thời gian, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, niềm tin vào sự phục sinh và một cuộc sống sau khi chết đã tiến dần xuống những bậc thang thấp hơn trong xã hội và chiếm lĩnh đời sống tâm linh của toàn bộ dân chúng.
Để có cơ may sống còn sau khi chết, mỗi cá nhân phải chuẩn bị cho cái chết của mình. Người Ai Cập biết rằng trái tim của người chết (nơi ngự trị mọi ý tưởng và tình cảm) phải được đem đi cân, theo những chuẩn mực nghiêm ngặt của thần Maât (luật về những hành xử đạo đức phù hợp với mong muốn của các thần linh và những chỉ dụ của nhà vua). Anh ta phải là người đức hạnh và trong sáng để có thể được thần Thot "chứng thực", và được phép đi đến vương quốc của thần Osiris.
Những kẻ có hành xử đạo đức không tốt thì tìm cách náu mình trong ma thuật. Một con bọ hung được đặt trên ngực người chết với nhiệm vụ che giấu công thức xưng tội, nhằm ngăn chặn không để cho trái tim người quá cố đưa ra một chứng cứ không có lợi nào vào ngày phán xét.
Xác ướp phải được bảo vệ một cách chắc chắn. Vì vậy phải có một mộ phần bằng đá hơn là bằng đất, hay tốt hơn cả là được khoét trong một tảng đá còn nguyên. Thông thường mộ phần được chuẩn bị ngay từ khi chủ nhân của nó vẫn còn sống. Phần lớn những ngôi mộ tư nhân thời Cựu Vương triều là những lăng mộ được gọi là "mastaba" có hình kim tự tháp đứt đoạn, trong khi những ngôi mộ vua chúa lại là những kim tự tháp bắt đầu có vào thời Trung Vương triều.
Các hầm mộ gia tộc thì thịnh hành từ thời Tân Vương triều. Các vị pharaon đầu tiên được chôn cất trong những kim tự tháp (nổi tiếng nhất là những kim tự tháp Giza, trong đó đặc biệt hơn cả là kim tự tháp mang tên Khéops). Các pharaon "thế hệ mới" lại chọn cho mình những ngôi mộ nằm sâu trong lòng đất (hypogée) được đào trong một "ouadi" (hay "wadi") ở vùng sa mạc phía tây của thành Thèbes, có tên gọi là "Thung lũng các Vị Vua" (Vallée des Rois). Vợ và con của họ được chôn cất ở một "ouadi" ở gần đó, nhưng ít nổi tiếng hơn, gọi là "Thung lũng các bà Hoàng" (Vallée des Reines).
Việc tẩm hương được những người chuyên nghiệp đảm nhiệm. Công việc chính thức kéo dài bảy mươi ngày. Trong thời gian đó người quá cố được moi ruột ra và được ngâm trong một dung dịch có tác dụng loại nước. Sau đó, người ta nhồi vào những chỗ trũng những hương liệu và các loại thuốc dẻo mau khô (onguent siccatif).
Cuối cùng xác chết được bọc trong rất nhiều lớp băng quấn bằng lanh trắng phủ thạch cao, nhựa và chất bitum. Những tấm bùa được chèn vào giữa các lớp băng, để bảo vệ từng phần, từng cơ quan của cơ thể người quá cố. Một tấm mặt nạ dành cho người quá cố được phủ lên phần đầu đã quấn băng.
Bốn chiếc bình di hài (vase canope) được dùng để đựng nội tạng đã được làm khô và được xếp vào trong một cái hộp đặt trong phòng mộ chính. Nắp các bình di hài có hình đầu người hoặc, về sau này, hình các con trai của thần Horus: chim cắt, người, khỉ đầu chó và chó rừng. Sau khi làm khô trái tim, người ta trả nó về chỗ cũ. Chỉ ở những công đoạn sau cùng bộ não mới được rút ra khỏi đầu qua đường mũi.
Xác ướp được đặt trên một chiếc xe tang kéo, với những con bò được đóng vào xe để kéo, và được trịnh trọng đưa đến ngôi mộ giữa những tiếng ca hát, than khóc và khói hương nghi ngút. Gia đình, bằng hữu đi theo xác ướp, mang theo những vật dụng của người quá cố cần thiết cho cuộc sống ở thế giới bên kia.
Ngôi mộ đã có sẵn những đồ đạc nặng, những áo quan và quách.
Trong đoàn đưa tang có cả những phụ nữ khóc thuê. Trước lối vào lăng mộ, một vị tu sĩ hay người thừa kế của kẻ quá cố thực hiện những nghi thức cuối cùng. Nghi thức quan trọng hơn cả là việc "khai khẩu" (mở miệng), thể hiện ở thao tác chạm vào những bộ phận liên quan đến các giác quan, trên mặt nạ của kẻ quá cố (miệng, mũi, mắt và tai) với một bộ vật dụng bằng đá lửa và đồng, đồng thời niệm những câu thần chú để dùng ma thuật phục hồi các giác quan cho người chết.
Xác ướp được phủ đầy các vòng hoa, và cuối cùng được đặt vào trong một hay nhiều chiếc quan tài, và lăng mộ được niêm phong lại. Bên ngoài, một bữa cơm vội vàng được dọn ra để tưởng nhớ người đã khuất, và những thức ăn còn thừa được chôn bên cạnh, cùng với những gì còn lại của quá trình ướp xác.
Hành trình về đến vương quốc của thần Osiris thật phức tạp và đầy hiểm nguy nên không thể không lắng nghe những lời khuyên bảo thích hợp, bởi cần thiết phải tránh những phần tử xấu và những kẻ canh giữ có vũ trang đáng sợ. "Tử thư" hay "Cuốn sách của Những Người Chết" (Livre des Morts) cung cấp cho người qua đời những lời chỉ dẫn và những công thức ma thuật cho phép vượt qua những khó khăn đó.
Kể từ thời Tân Vương triều, cuộn giấy papyrus đó trở thành một thành phần cốt yếu trong việc trang bị lăng mộ. Nó bao gồm những văn bản và biểu tượng họa đồ, cũng như tên và chức danh của người quá cố. Vào khoảng cuối Cựu Vương Triều, một bản hướng dẫn về thế giới bên kia, cổ xưa hơn nhưng về cơ bản là tương tự như thế, cũng đã được sử dụng trong những ngôi mộ vua chúa (kim tự tháp), nhưng dưới dạng những chữ viết hiéroglyphe được khắc họa và vẽ trên tường các phòng bên trong.
Thuyền, vốn là một phương tiện di chuyển hết sức thông dụng của người Ai Cập, cũng được xem là phương tiện đi lại của thần linh (các thuyền thiêng). Ngay cả trên mặt đất, thần linh cũng có thể đi lại bằng thuyền, và những chiếc thuyền này được các vị tu sĩ gánh trên vai. Vua cũng di chuyển bằng thuyền. Khi qua đời, kẻ quá cố sẽ được chuyên chở qua bờ Tây của dòng sông Nile trong những chiếc thuyền tang, và ở thế giới bên kia, họ cũng dùng thuyền để đi đến xứ sở Abydos của Osiris, cũng như để di chuyển ở những vùng sông nước bên trong xứ sở đó.
Ngay cả ở thế giới bên kia, kẻ quá cố được xem như vẫn phải tiến hành những công việc tay chân nặng nhọc nếu như thần linh buộc họ phải làm, như quét dọn những lòng kênh tắc nghẽn, chuyên chở cát qua sông... Để thoát khỏi những lao dịch đó mà không mắc phải tội khước từ ý thần linh, một hình nhân người quá cố, được gọi là "oushabti", được đặt trong ngôi mộ.
Một công thức ma thuật, được vẽ hay khắc họa trên thân của hình nhân bằng gỗ này, tự động bắt hình nhân nhận lãnh công việc thay cho người quá cố. Những công cụ lao động và một cái túi cũng được vẽ trên tay và trên vai hình nhân. Gia đình kẻ quá cố có nhiệm vụ thường xuyên thăm viếng ngôi mộ để mang đến thức ăn, tu sửa những hư hỏng, và chăm lo việc thờ phụng.
Với niềm tin vào hiệu ứng ma thuật của những hình ảnh, người Ai Cập phủ lên các bức tường trong ngôi mộ những tác phẩm hội họa, khắc nổi nhiều màu, hay maket ba chiều, với các câu chữ và hình ảnh thể hiện những cảnh trí như hoạt động mỹ nghệ, nông nghiệp cần thiết cho việc sản xuất ra những vật dụng phục vụ cho cuộc sống, như lương thực, đồ dùng trong nhà, y phục, những tấm bùa... Những hình ảnh này chính là những chứng cứ vô giá về cuộc sống hàng ngày của người Ai Cập cổ.
Trong ngôi mộ cũng phải có những bức tượng của người quá cố, được thể hiện một mình hay cùng với những thành viên khác trong gia đình, bởi vì Kâ (nguyên tắc tạo nên sự sống) có thể nhập vào đó. Phần lớn các tác phẩm của nghệ thuật làm tượng tư nhân đã được tìm thấy chính trong các ngôi mộ.
Những hình ảnh được thể hiện trên một bức tường của ngôi mộ cổ của Sennedjem ở Deil el-Medina, gần thung lũng các vị vua, cho thấy từ trên xuống dưới, những nghi thức tuần tự theo thời gian: hai khỉ đầu chó chào đón mặt trời đang mọc trên chiếc thuyền của mình. Sennedjem và vợ đang tôn vinh các vị thần Ré-Horakhty, Osiris, và Ptah, một người con trai của họ đang chèo thuyền và thần Khonsou đang tiến hành thủ tục "khai khẩu" (mở miệng) cho người quá cố, cuối cùng là đôi uyên ương đang lao động trên những cánh đồng của thế giới thiên đường.
THẤN ANUBIS VỊ THẦN ĐẦU CHÓ RỪNG
Anubis là vị thần Ai Cập được thể hiện với hình dạng thân người và đầu chó rừng, cũng có khi là cả đầu và thân đều là của chó rừng như trong trường hợp Anubis đang trong tư thế canh giữ "kho báu" của Tutankhamun. Anubis được xem như vị thần sáng chế ra kỹ thuật tẩm hương thơm và chủ trì cho toàn bộ công việc ướp xác, và cùng đồng hành với người chết đi sang thế giới bên kia.
Là vị thần chuyên về việc tẩm hương cho xác chết và "cân linh hồn", trước tiên Anubis là nhân vật có nhiệm vụ canh gác các khu nghĩa địa và các ngôi mộ cá nhân, và là bậc thầy của việc tẩy uế. Vị thần đầu chó rừng này được tôn vinh từ thời kỳ đầu của Cựu Vương Triều như một vị thần lớn của những người quá cố, tham gia vào việc phán xét linh hồn.
Về sau, Anubis bị Osiris thay thế, nhưng vẫn giữ một vai trò quan trọng ở thế giới bên kia: đó là vị thần của nghệ thuật tẩm hương thơm, và thao tác tẩm hương thơm lần đầu tiên Anubis thực hiện, chính là trên Osiris vừa tạ thế và qua đó đã khiến cho Osiris được hồi sinh trở lại.
Về sau, vị thần đầu chó rừng Anubis còn được xem là "kẻ dẫn dắt linh hồn"; và với vai trò này của Anubis, người Hy Lạp đã đồng hóa vị thần này với thần Hermès để tạo ra một nhân vật thần linh pha trộn là Hermanubis.
Du khách tham quan Ai Cập có thể tìm thấy hình ảnh của thần Anubis ở rất nhiều nơi, được khắc họa trên đá hay thể hiện trên các bức vẽ trong các đền thờ, lăng mộ. Sau đây là một vài thí dụ minh họa:
- Anubis ở bức khắc nổi nhiều màu trên đá, với Séthi đệ I. Vị vua này đang nhận từ tay của thần Anubis những chiếc vương trượng tượng trưng cho vương quyền.
- Anubis (được thể hiện dưới dạng song đôi và đặt đối xứng) đang che chở cho Sennedjem và vợ trong nghi lễ tôn vinh mười ba vị thần của địa phủ, đứng đầu là Osiris và Ré Horus.
- Anubis cùng đứng với Horus sau lưng thần Osiris đang ngồi, trong tư thế đón chào vị vua vừa tạ thế, ở hình vẽ trang trí cho ngôi mộ của vua Horemheb.
- Anubis cùng với Ramsès III, nhà vua đang mang chiếc mũ không vành màu đỏ. Sau lưng vua là vị hoàng tử trẻ với lọn tóc truyền thống của tuổi vị thành niên, tay cầm chiếc quạt nghi lễ, biểu hiện của vai trò cố vấn cho nhà vua.
- Anubis trong cảnh cân linh hồn của Djet Khonsou ioufankh, tu sĩ của Amon và Thot, minh họa cho cuốn "Tử thư" bằng giấy papyrus đặt trong ngôi mộ của người quá cố. Anubis đang chủ trì buổi lễ cân linh hồn. Linh hồn được cân nhưng thay cho quả cân thông thường là một chiếc lông đà điểu, biểu tượng của thần Maât. Thần Thot đang ghi lại kết quả trên một tấm bảng thư lại. Người quá cố đưa tay lên cao nhằm biểu lộ sự ngay thẳng của mình. Nếu trái tim nặng hơn chiếc lông, thì điều đó có nghĩa là người quá cố là một kẻ tội lỗi.
Ngoài ra, những tư liệu còn lưu giữ được cũng cho thấy cảnh ướp xác và tẩm hương thơm cùng những công đoạn và vật liệu được dùng cho việc ướp xác và tẩm liệm. Những người làm công việc tẩm hương thơm và những vật dụng cần thiết để chuẩn bị cho người qua đời mang sang thế giới bên kia:
1. Ở công đoạn quấn băng, người phụ trách chính công việc tẩm hương thơm mang mặt nạ hình chó rừng, tượng trưng cho thần Anubis, vị thần bảo vệ cho những người quá cố.
2. Tất cả những thành phần thuộc cơ thể người chết được quấn trong những lớp băng riêng. Ở mỗi công đoạn, người phụ trách việc tẩm hương thơm phải niệm những câu thần chú. Cũng có khi xác ướp được bọc trong một tấm vải liệm.
3. Một số tấm bùa chú mang những hình thù khác nhau được xếp xen vào các lớp băng quấn, với nhiệm vụ bảo vệ từng phần của xác chết, trong đó có những tấm bùa mang hình ảnh thần chó rừng Anubis.
4. Với những kẻ giàu có, xác ướp được đặt vào những lớp áo quan xếp chồng vào nhau được tạo nên từ vải lanh, hay giấy papyrus nhúng trong thạch cao, và cuối cùng được đặt trong một cái quách bằng đá;
a- áo quan bên trong thuộc thời Tân Vương Triều.
b- áo quan thời Trung Vương Triều.
c- quách thời Tân Vương Triều.
5. Gan, phổi, dạ dày và lòng được đặt trong những chiếc bình di hài và cất trong một chiếc hộp, bên cạnh quan tài.
Nhưng có lẽ đặc biệt và ấn tượng hơn cả là hình ảnh thần Anubis ngự trên chiếc rương gỗ mạ vàng, ở đó có những hình vẽ biểu trưng của thần Osiris và thần Isis. Thần Anubis được thể hiện dưới hình dạng một con chó rừng (cả đầu lẫn thân), một bức tượng làm bằng gỗ, dáng uy nghi, thanh thoát.
Cổ, tai và mắt được mạ vàng, nổi bật trên màu đen của cả thân hình đang trong tư thế ngồi. Khi nhà khảo cổ học Carter đã không còn chút hy vọng nào nữa trong việc tìm kiếm của mình, thì ông tình cờ phát hiện ra một bậc cấp bằng đá vôi trong thung lũng các vị vua...
Ở bậc cấp thứ mười sáu, ông thấy hiện ra một cánh cửa niêm phong với những dấu hiệu của Tutankhamun. Có những vết tích cho thấy ngôi mộ đã bị xâm nhập và sau đó được niêm phong lại. May mắn thay, kẻ trộm chỉ lấy đi vài thứ vặt vãnh. Tấm mặt nạ bằng vàng khối tuyệt vời và lừng danh của Tutankhamun, cũng như tất cả những vật dụng dùng cho việc chôn cất, đều còn y nguyên:
Ba chiếc quan tài lồng vào nhau (hai bằng gỗ và một bằng vàng) nơi Tutankhamun an nghỉ, được bảo vệ trong một cái quách bằng đá, bốn nhà táng bằng gỗ mạ vàng, được chạm trổ với hình ảnh những tấm bùa, chiếc rương đựng những bình di hài. Một bức tượng của thần Anubis, vị thần cai quản các ngôi mộ, ngồi chễm chệ trên chiếc rương đựng di hài và ngăn lối vào căn phòng ngang, nơi cất giữ phần lớn kho báu đã được chôn cất.
Phải chăng ở đây thần Anubis, vị thần mang hình dạng chó rừng của thần dân Ai Cập, vị thần của nghệ thuật tẩm hương thơm và cai quản mộ phần, đã thực hiện một cách xuất sắc nhiệm vụ được giao phó đối với lăng mộ của Tutankhamun, để bảo tồn và lưu giữ những di sản vô giá không những của các vương triều Ai Cập cổ đại, của mọi người dân Ai Cập xưa và nay, mà còn là của toàn nhân loại, từ Đông sang Tây, từ thuở xa xưa cho đến tận muôn đời.
Cũng có thể ở đâu đó Anubis vẫn đang hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vẻ vang của mình, ở những lăng mộ, đền thờ cổ xưa nào đó hiện đang bị thời gian, đất cát chôn vùi, mà vài chục năm nữa, hoặc vài trăm năm nữa, thậm chí vào một thời điểm nào xa xôi hơn trong tương lai, nhân loại sẽ có cơ may và diễm phúc cùng nhìn ngắm, thưởng ngoạn, và khâm phục.
Tia Sáng
Khi được hỏi về tình trạng sức khỏe của mình, người Ai Cập cổ thường chỉ có một cách trả lời: "Hôm nay tôi khỏe, ngày mai thì tùy thuộc vào thần linh". Nền văn minh cổ Ai Cập gắn bó rất chặt chẽ với tôn giáo, và số lượng lớn các thần linh trong đó có Thần Anubis, vị thần đầu chó rừng được xem như vị thần sáng chế ra kỹ thuật tẩm hương thơm và chủ trì cho toàn bộ công việc ướp xác, cùng đồng hành với người chết đi sang thế giới bên kia.
CÁI CHẾT VÀ CUỘC SỐNG Ở BÊN THẾ GIỚI BÊN KIA
Ước mong của mỗi một người Ai Cập là, sau khi sống mạnh khỏe đến tuổi 110 ở trần thế, sẽ được thờ phụng khi bước sang thế giới bên kia. Người quá cố muốn được những con bò kéo trên một chiếc xe tang đến tận ngôi mộ đã được chuẩn bị đầy đủ, chu đáo của mình về hướng Phương Tây, với những nghi thức tang lễ và rưới rượu, và có những thân bằng quyến thuộc đưa tiễn.
Những câu chữ và hình khắc họa trên đá, phía trước và bên trong ngôi mộ, phải tôn vinh đến muôn đời những kỳ tích kiên cường mà kẻ quá cố đã đạt được ở cõi trần, và khích lệ người qua đường quan tâm niệm câu thần chú sau: "Cầu cho nhà vua hiến lễ cho Osiris, Chúa tể của Abydos1 và Chủ nhân của nghĩa trang, để ngài ban nghìn bánh mì và chum bia, nghìn bò và ngỗng, vải lanh ướp xác và thuốc dẻo tẩm hương thơm, và một nghìn những thứ tốt lành tinh khiết, cần cho cuộc sống của các thần linh, tất cả sản phẩm của trái đất và sự dồi dào của sông nước, ban cho linh hồn-Kâ của X, xin được chứng giám".
Cũng có những câu chữ khắc họa còn trực tiếp hơn như sau: "Ngươi là kẻ đang sống ở cõi trần và đi qua ngôi mộ này, bởi vì ngươi yêu cuộc sống và căm ghét cái chết, nếu ngươi muốn thành đạt và được cấp trên khen tụng, nếu ngươi muốn sống để nhìn thấy con trai ngươi hành nghề của ngươi và được nâng bậc cao hơn, ngươi phải niệm câu thần chú.
Nếu ngươi đến ngôi mộ này với ý định tốt, thì xin mời. Nhưng nếu ngươi đến đây để phá hủy hay nguyền rủa, thì bản thân thần Amon sẽ bắt ngươi, nữ thần Mout sẽ bắt vợ ngươi và thần Khonsou sẽ bắt con cái ngươi, cho đến muôn đời".
Đối với người Ai Cập, cái chết chỉ là một sự chuyển hóa đơn giản (nhưng khó khăn) từ dạng tồn tại này sang một dạng tồn tại khác, và dạng tồn tại mới này tuyệt vời và thỏa lòng đến mức những thành phần cấu tạo nên con người vừa mới qua đời phải được đảm bảo an toàn và được bổ sung bằng những phương tiện thích đáng để anh ta có thể tiếp tục tồn tại, và những nghi thức của lễ tang phải được thực hiện đầy đủ.
Người Ai Cập quan niệm rằng con người được tạo nên từ những yếu tố là thân xác, kâ (nguyên tắc tạo nên sự sống), linh hồn, bóng và tên, và khi chết, những yếu tố bị tách rời đó cần được quy tụ lại để đảm bảo cho một cuộc sống khác. Xác chết do đó cần được bảo toàn với thời gian. Nghệ thuật ướp xác chính là sinh ra từ đó.
Ngày nay, Bảo tàng về Ướp xác ở thành phố Louxor vẫn thường xuyên mở cửa để du khách vào tham quan. Ở đó, trong ánh đèn hiu hắt như trong thế giới cõi âm, người ta có thể theo dõi các công đoạn ướp xác, kỹ thuật ướp, những vật liệu cần thiết cho việc ướp xác và tẩm liệm, chôn cất, cũng như một số sản phẩm xác ướp động vật (mèo, cá sấu...). Ở Bảo tàng Cairo, du khách cũng có thể tận mắt nhìn thấy xác ướp của người.
Hiện tượng chuyển dịch hàng ngày của mặt trời tạo cho người Ai Cập niềm hy vọng về một cuộc sống khác sau khi chết. Mặt trời há chẳng chết đi mỗi chiều tối để lại chói sáng vào sáng hôm sau, trẻ trung và mạnh mẽ trở lại đó sao? Do số phận của vua Ai Cập gắn liền với thần mặt trời, trong khi sống cũng như trong cái chết, nên nhà vua không phải e ngại về nguy cơ bị rơi vào tình trạng "không tồn tại".
Và bởi triều thần cũng có trách nhiệm phục vụ cho nhà vua ở thế giới bên kia, cũng như họ đã làm ở trần thế, nên họ cũng có quyền hy vọng sẽ sống còn sau khi chết. Theo dòng thời gian, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, niềm tin vào sự phục sinh và một cuộc sống sau khi chết đã tiến dần xuống những bậc thang thấp hơn trong xã hội và chiếm lĩnh đời sống tâm linh của toàn bộ dân chúng.
Để có cơ may sống còn sau khi chết, mỗi cá nhân phải chuẩn bị cho cái chết của mình. Người Ai Cập biết rằng trái tim của người chết (nơi ngự trị mọi ý tưởng và tình cảm) phải được đem đi cân, theo những chuẩn mực nghiêm ngặt của thần Maât (luật về những hành xử đạo đức phù hợp với mong muốn của các thần linh và những chỉ dụ của nhà vua). Anh ta phải là người đức hạnh và trong sáng để có thể được thần Thot "chứng thực", và được phép đi đến vương quốc của thần Osiris.
Những kẻ có hành xử đạo đức không tốt thì tìm cách náu mình trong ma thuật. Một con bọ hung được đặt trên ngực người chết với nhiệm vụ che giấu công thức xưng tội, nhằm ngăn chặn không để cho trái tim người quá cố đưa ra một chứng cứ không có lợi nào vào ngày phán xét.
Xác ướp phải được bảo vệ một cách chắc chắn. Vì vậy phải có một mộ phần bằng đá hơn là bằng đất, hay tốt hơn cả là được khoét trong một tảng đá còn nguyên. Thông thường mộ phần được chuẩn bị ngay từ khi chủ nhân của nó vẫn còn sống. Phần lớn những ngôi mộ tư nhân thời Cựu Vương triều là những lăng mộ được gọi là "mastaba" có hình kim tự tháp đứt đoạn, trong khi những ngôi mộ vua chúa lại là những kim tự tháp bắt đầu có vào thời Trung Vương triều.
Các hầm mộ gia tộc thì thịnh hành từ thời Tân Vương triều. Các vị pharaon đầu tiên được chôn cất trong những kim tự tháp (nổi tiếng nhất là những kim tự tháp Giza, trong đó đặc biệt hơn cả là kim tự tháp mang tên Khéops). Các pharaon "thế hệ mới" lại chọn cho mình những ngôi mộ nằm sâu trong lòng đất (hypogée) được đào trong một "ouadi" (hay "wadi") ở vùng sa mạc phía tây của thành Thèbes, có tên gọi là "Thung lũng các Vị Vua" (Vallée des Rois). Vợ và con của họ được chôn cất ở một "ouadi" ở gần đó, nhưng ít nổi tiếng hơn, gọi là "Thung lũng các bà Hoàng" (Vallée des Reines).
Việc tẩm hương được những người chuyên nghiệp đảm nhiệm. Công việc chính thức kéo dài bảy mươi ngày. Trong thời gian đó người quá cố được moi ruột ra và được ngâm trong một dung dịch có tác dụng loại nước. Sau đó, người ta nhồi vào những chỗ trũng những hương liệu và các loại thuốc dẻo mau khô (onguent siccatif).
Cuối cùng xác chết được bọc trong rất nhiều lớp băng quấn bằng lanh trắng phủ thạch cao, nhựa và chất bitum. Những tấm bùa được chèn vào giữa các lớp băng, để bảo vệ từng phần, từng cơ quan của cơ thể người quá cố. Một tấm mặt nạ dành cho người quá cố được phủ lên phần đầu đã quấn băng.
Bốn chiếc bình di hài (vase canope) được dùng để đựng nội tạng đã được làm khô và được xếp vào trong một cái hộp đặt trong phòng mộ chính. Nắp các bình di hài có hình đầu người hoặc, về sau này, hình các con trai của thần Horus: chim cắt, người, khỉ đầu chó và chó rừng. Sau khi làm khô trái tim, người ta trả nó về chỗ cũ. Chỉ ở những công đoạn sau cùng bộ não mới được rút ra khỏi đầu qua đường mũi.
Xác ướp được đặt trên một chiếc xe tang kéo, với những con bò được đóng vào xe để kéo, và được trịnh trọng đưa đến ngôi mộ giữa những tiếng ca hát, than khóc và khói hương nghi ngút. Gia đình, bằng hữu đi theo xác ướp, mang theo những vật dụng của người quá cố cần thiết cho cuộc sống ở thế giới bên kia.
Ngôi mộ đã có sẵn những đồ đạc nặng, những áo quan và quách.
Trong đoàn đưa tang có cả những phụ nữ khóc thuê. Trước lối vào lăng mộ, một vị tu sĩ hay người thừa kế của kẻ quá cố thực hiện những nghi thức cuối cùng. Nghi thức quan trọng hơn cả là việc "khai khẩu" (mở miệng), thể hiện ở thao tác chạm vào những bộ phận liên quan đến các giác quan, trên mặt nạ của kẻ quá cố (miệng, mũi, mắt và tai) với một bộ vật dụng bằng đá lửa và đồng, đồng thời niệm những câu thần chú để dùng ma thuật phục hồi các giác quan cho người chết.
Xác ướp được phủ đầy các vòng hoa, và cuối cùng được đặt vào trong một hay nhiều chiếc quan tài, và lăng mộ được niêm phong lại. Bên ngoài, một bữa cơm vội vàng được dọn ra để tưởng nhớ người đã khuất, và những thức ăn còn thừa được chôn bên cạnh, cùng với những gì còn lại của quá trình ướp xác.
Hành trình về đến vương quốc của thần Osiris thật phức tạp và đầy hiểm nguy nên không thể không lắng nghe những lời khuyên bảo thích hợp, bởi cần thiết phải tránh những phần tử xấu và những kẻ canh giữ có vũ trang đáng sợ. "Tử thư" hay "Cuốn sách của Những Người Chết" (Livre des Morts) cung cấp cho người qua đời những lời chỉ dẫn và những công thức ma thuật cho phép vượt qua những khó khăn đó.
Kể từ thời Tân Vương triều, cuộn giấy papyrus đó trở thành một thành phần cốt yếu trong việc trang bị lăng mộ. Nó bao gồm những văn bản và biểu tượng họa đồ, cũng như tên và chức danh của người quá cố. Vào khoảng cuối Cựu Vương Triều, một bản hướng dẫn về thế giới bên kia, cổ xưa hơn nhưng về cơ bản là tương tự như thế, cũng đã được sử dụng trong những ngôi mộ vua chúa (kim tự tháp), nhưng dưới dạng những chữ viết hiéroglyphe được khắc họa và vẽ trên tường các phòng bên trong.
Thuyền, vốn là một phương tiện di chuyển hết sức thông dụng của người Ai Cập, cũng được xem là phương tiện đi lại của thần linh (các thuyền thiêng). Ngay cả trên mặt đất, thần linh cũng có thể đi lại bằng thuyền, và những chiếc thuyền này được các vị tu sĩ gánh trên vai. Vua cũng di chuyển bằng thuyền. Khi qua đời, kẻ quá cố sẽ được chuyên chở qua bờ Tây của dòng sông Nile trong những chiếc thuyền tang, và ở thế giới bên kia, họ cũng dùng thuyền để đi đến xứ sở Abydos của Osiris, cũng như để di chuyển ở những vùng sông nước bên trong xứ sở đó.
Ngay cả ở thế giới bên kia, kẻ quá cố được xem như vẫn phải tiến hành những công việc tay chân nặng nhọc nếu như thần linh buộc họ phải làm, như quét dọn những lòng kênh tắc nghẽn, chuyên chở cát qua sông... Để thoát khỏi những lao dịch đó mà không mắc phải tội khước từ ý thần linh, một hình nhân người quá cố, được gọi là "oushabti", được đặt trong ngôi mộ.
Một công thức ma thuật, được vẽ hay khắc họa trên thân của hình nhân bằng gỗ này, tự động bắt hình nhân nhận lãnh công việc thay cho người quá cố. Những công cụ lao động và một cái túi cũng được vẽ trên tay và trên vai hình nhân. Gia đình kẻ quá cố có nhiệm vụ thường xuyên thăm viếng ngôi mộ để mang đến thức ăn, tu sửa những hư hỏng, và chăm lo việc thờ phụng.
Với niềm tin vào hiệu ứng ma thuật của những hình ảnh, người Ai Cập phủ lên các bức tường trong ngôi mộ những tác phẩm hội họa, khắc nổi nhiều màu, hay maket ba chiều, với các câu chữ và hình ảnh thể hiện những cảnh trí như hoạt động mỹ nghệ, nông nghiệp cần thiết cho việc sản xuất ra những vật dụng phục vụ cho cuộc sống, như lương thực, đồ dùng trong nhà, y phục, những tấm bùa... Những hình ảnh này chính là những chứng cứ vô giá về cuộc sống hàng ngày của người Ai Cập cổ.
Trong ngôi mộ cũng phải có những bức tượng của người quá cố, được thể hiện một mình hay cùng với những thành viên khác trong gia đình, bởi vì Kâ (nguyên tắc tạo nên sự sống) có thể nhập vào đó. Phần lớn các tác phẩm của nghệ thuật làm tượng tư nhân đã được tìm thấy chính trong các ngôi mộ.
Những hình ảnh được thể hiện trên một bức tường của ngôi mộ cổ của Sennedjem ở Deil el-Medina, gần thung lũng các vị vua, cho thấy từ trên xuống dưới, những nghi thức tuần tự theo thời gian: hai khỉ đầu chó chào đón mặt trời đang mọc trên chiếc thuyền của mình. Sennedjem và vợ đang tôn vinh các vị thần Ré-Horakhty, Osiris, và Ptah, một người con trai của họ đang chèo thuyền và thần Khonsou đang tiến hành thủ tục "khai khẩu" (mở miệng) cho người quá cố, cuối cùng là đôi uyên ương đang lao động trên những cánh đồng của thế giới thiên đường.
THẤN ANUBIS VỊ THẦN ĐẦU CHÓ RỪNG
Anubis là vị thần Ai Cập được thể hiện với hình dạng thân người và đầu chó rừng, cũng có khi là cả đầu và thân đều là của chó rừng như trong trường hợp Anubis đang trong tư thế canh giữ "kho báu" của Tutankhamun. Anubis được xem như vị thần sáng chế ra kỹ thuật tẩm hương thơm và chủ trì cho toàn bộ công việc ướp xác, và cùng đồng hành với người chết đi sang thế giới bên kia.
Là vị thần chuyên về việc tẩm hương cho xác chết và "cân linh hồn", trước tiên Anubis là nhân vật có nhiệm vụ canh gác các khu nghĩa địa và các ngôi mộ cá nhân, và là bậc thầy của việc tẩy uế. Vị thần đầu chó rừng này được tôn vinh từ thời kỳ đầu của Cựu Vương Triều như một vị thần lớn của những người quá cố, tham gia vào việc phán xét linh hồn.
Về sau, Anubis bị Osiris thay thế, nhưng vẫn giữ một vai trò quan trọng ở thế giới bên kia: đó là vị thần của nghệ thuật tẩm hương thơm, và thao tác tẩm hương thơm lần đầu tiên Anubis thực hiện, chính là trên Osiris vừa tạ thế và qua đó đã khiến cho Osiris được hồi sinh trở lại.
Về sau, vị thần đầu chó rừng Anubis còn được xem là "kẻ dẫn dắt linh hồn"; và với vai trò này của Anubis, người Hy Lạp đã đồng hóa vị thần này với thần Hermès để tạo ra một nhân vật thần linh pha trộn là Hermanubis.
Du khách tham quan Ai Cập có thể tìm thấy hình ảnh của thần Anubis ở rất nhiều nơi, được khắc họa trên đá hay thể hiện trên các bức vẽ trong các đền thờ, lăng mộ. Sau đây là một vài thí dụ minh họa:
- Anubis ở bức khắc nổi nhiều màu trên đá, với Séthi đệ I. Vị vua này đang nhận từ tay của thần Anubis những chiếc vương trượng tượng trưng cho vương quyền.
- Anubis (được thể hiện dưới dạng song đôi và đặt đối xứng) đang che chở cho Sennedjem và vợ trong nghi lễ tôn vinh mười ba vị thần của địa phủ, đứng đầu là Osiris và Ré Horus.
- Anubis cùng đứng với Horus sau lưng thần Osiris đang ngồi, trong tư thế đón chào vị vua vừa tạ thế, ở hình vẽ trang trí cho ngôi mộ của vua Horemheb.
- Anubis cùng với Ramsès III, nhà vua đang mang chiếc mũ không vành màu đỏ. Sau lưng vua là vị hoàng tử trẻ với lọn tóc truyền thống của tuổi vị thành niên, tay cầm chiếc quạt nghi lễ, biểu hiện của vai trò cố vấn cho nhà vua.
- Anubis trong cảnh cân linh hồn của Djet Khonsou ioufankh, tu sĩ của Amon và Thot, minh họa cho cuốn "Tử thư" bằng giấy papyrus đặt trong ngôi mộ của người quá cố. Anubis đang chủ trì buổi lễ cân linh hồn. Linh hồn được cân nhưng thay cho quả cân thông thường là một chiếc lông đà điểu, biểu tượng của thần Maât. Thần Thot đang ghi lại kết quả trên một tấm bảng thư lại. Người quá cố đưa tay lên cao nhằm biểu lộ sự ngay thẳng của mình. Nếu trái tim nặng hơn chiếc lông, thì điều đó có nghĩa là người quá cố là một kẻ tội lỗi.
Ngoài ra, những tư liệu còn lưu giữ được cũng cho thấy cảnh ướp xác và tẩm hương thơm cùng những công đoạn và vật liệu được dùng cho việc ướp xác và tẩm liệm. Những người làm công việc tẩm hương thơm và những vật dụng cần thiết để chuẩn bị cho người qua đời mang sang thế giới bên kia:
1. Ở công đoạn quấn băng, người phụ trách chính công việc tẩm hương thơm mang mặt nạ hình chó rừng, tượng trưng cho thần Anubis, vị thần bảo vệ cho những người quá cố.
2. Tất cả những thành phần thuộc cơ thể người chết được quấn trong những lớp băng riêng. Ở mỗi công đoạn, người phụ trách việc tẩm hương thơm phải niệm những câu thần chú. Cũng có khi xác ướp được bọc trong một tấm vải liệm.
3. Một số tấm bùa chú mang những hình thù khác nhau được xếp xen vào các lớp băng quấn, với nhiệm vụ bảo vệ từng phần của xác chết, trong đó có những tấm bùa mang hình ảnh thần chó rừng Anubis.
4. Với những kẻ giàu có, xác ướp được đặt vào những lớp áo quan xếp chồng vào nhau được tạo nên từ vải lanh, hay giấy papyrus nhúng trong thạch cao, và cuối cùng được đặt trong một cái quách bằng đá;
a- áo quan bên trong thuộc thời Tân Vương Triều.
b- áo quan thời Trung Vương Triều.
c- quách thời Tân Vương Triều.
5. Gan, phổi, dạ dày và lòng được đặt trong những chiếc bình di hài và cất trong một chiếc hộp, bên cạnh quan tài.
Nhưng có lẽ đặc biệt và ấn tượng hơn cả là hình ảnh thần Anubis ngự trên chiếc rương gỗ mạ vàng, ở đó có những hình vẽ biểu trưng của thần Osiris và thần Isis. Thần Anubis được thể hiện dưới hình dạng một con chó rừng (cả đầu lẫn thân), một bức tượng làm bằng gỗ, dáng uy nghi, thanh thoát.
Cổ, tai và mắt được mạ vàng, nổi bật trên màu đen của cả thân hình đang trong tư thế ngồi. Khi nhà khảo cổ học Carter đã không còn chút hy vọng nào nữa trong việc tìm kiếm của mình, thì ông tình cờ phát hiện ra một bậc cấp bằng đá vôi trong thung lũng các vị vua...
Ở bậc cấp thứ mười sáu, ông thấy hiện ra một cánh cửa niêm phong với những dấu hiệu của Tutankhamun. Có những vết tích cho thấy ngôi mộ đã bị xâm nhập và sau đó được niêm phong lại. May mắn thay, kẻ trộm chỉ lấy đi vài thứ vặt vãnh. Tấm mặt nạ bằng vàng khối tuyệt vời và lừng danh của Tutankhamun, cũng như tất cả những vật dụng dùng cho việc chôn cất, đều còn y nguyên:
Ba chiếc quan tài lồng vào nhau (hai bằng gỗ và một bằng vàng) nơi Tutankhamun an nghỉ, được bảo vệ trong một cái quách bằng đá, bốn nhà táng bằng gỗ mạ vàng, được chạm trổ với hình ảnh những tấm bùa, chiếc rương đựng những bình di hài. Một bức tượng của thần Anubis, vị thần cai quản các ngôi mộ, ngồi chễm chệ trên chiếc rương đựng di hài và ngăn lối vào căn phòng ngang, nơi cất giữ phần lớn kho báu đã được chôn cất.
Phải chăng ở đây thần Anubis, vị thần mang hình dạng chó rừng của thần dân Ai Cập, vị thần của nghệ thuật tẩm hương thơm và cai quản mộ phần, đã thực hiện một cách xuất sắc nhiệm vụ được giao phó đối với lăng mộ của Tutankhamun, để bảo tồn và lưu giữ những di sản vô giá không những của các vương triều Ai Cập cổ đại, của mọi người dân Ai Cập xưa và nay, mà còn là của toàn nhân loại, từ Đông sang Tây, từ thuở xa xưa cho đến tận muôn đời.
Cũng có thể ở đâu đó Anubis vẫn đang hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vẻ vang của mình, ở những lăng mộ, đền thờ cổ xưa nào đó hiện đang bị thời gian, đất cát chôn vùi, mà vài chục năm nữa, hoặc vài trăm năm nữa, thậm chí vào một thời điểm nào xa xôi hơn trong tương lai, nhân loại sẽ có cơ may và diễm phúc cùng nhìn ngắm, thưởng ngoạn, và khâm phục.
Tia Sáng
#111
Gửi vào 20/06/2011 - 23:41
SỨC MẠNH CỦA DÒNG ĐIỆN SINH HỌC
Năm 1938, tại trường dòng Pèlerin bên bờ sông Hương đã xảy ra một chuyện kỳ lạ, làm xôn xao dư luận Huế. Một em học trò nghèo chết, được cuộn trong chiếu rách và đặt nằm tạm trên nền đất ẩm của một chiếc lều con ở cuối vườn. Ngồi cạnh xác là một em học trò khác, rất thương bạn nhưng cũng rất sợ ma.
Khoảng nửa đêm, một hình thù quái đản, tóc xoã, mặt bôi đen, lưỡi dán giấy đỏ dài, bỗng ho khẽ một tiếng, rồi lừ lừ tiến vào trong lều. Em học trò canh xác hoảng sợ, bỏ chạy. Không may, chân em vướng vào một lỗ rách giữa chiếu và dẫm lên da thịt cái thây. Thế là xác chết bỗng giẫy mạnh một cái như bị điện giật, chồm lên, quờ tay níu lấy chân cậu bé. Con ma, vốn là một cậu bé nghịch ngợm mặc dù sợ rúm cả người, vẫn liều chết lao tới, ghì chặt "con quỷ nhập tràng", mong cứu bạn...
Rạng sáng, các thầy dòng vào lều bỗng sững lại trước một cảnh thương tâm: giữa lều là ba cái xác bé bỏng, co quắp nằm đè lên nhau: xác em bé sợ "ma", xác "quỷ nhập tràng" và xác "con ma giả"... Căn cứ vào cách ăn mặc của "con ma giả" và tư thế của ba xác chết, cảnh sát và các thầy dòng đã dựng lại diễn biến của câu chuyện theo trình tự kể trên.
Hai mươi năm sau, trong thư viện của Trạm sinh học Poiaconda trên bờ sông Đen ở vùng Bắc Cực, giáo sự Lê Quang Long người Huế, đã tình cờ tìm ra chìa khoá của chuyện buồn xảy ra trên quê hương ông, trong một bài báo của tập san "Kỹ thuật và Tuổi trẻ", số 193. Báo kể lại một chuyện tương tự, nhưng đánh thức "quỷ nhập tràng" không phải một em bé, mà là một con mèo đen!
Dòng điện rất mạnh của sự khiếp đảm do cơ thể mèo, quạ và cậu bé phát đi đã làm cái xác "bị giật bắn". Mọi tế bào của một cơ thể sống đều là những pin điện tí hon. Dòng điện của chúng rất yếu.
Với thực vật: điện của tế bào rễ củ hành là năm mươi mV, của tảo Nitella là sáu mươi mV, của bèo Nhật Bản là sáu mươi lăm mV... Với động vật và người, điện của tế bào cảm quang mắt là bốn mươi mV, của bắp thịt là sáu mươi mV, của não là chín mươi mV...
Ta lấy một ví dụ: cách đây khoảng năm ngàn năm, người cổ Ai Cập sống trên bờ sông Nile đã biết: "dưới sông có những con cá trê (Malapterus) quật ngã được nhiều thú lớn như trâu bò khi chúng xuống sông uống nước bằng những cú đánh hiểm hóc và đột ngột, mà mắt của người trần không sao thấy kịp".
Ngày nay khoa học đã phát hiện trên chín trăm loài cá có khả năng phóng điện như vậy. Loài nào cũng mang trên mình 1-2 "nhà máy điện" gồm vô số đơn vị phát điện trị số 60-120 mV.
Cá đuối điện (Torpedo) trong biển Italy hay quần đảo Guyan có chín mươi "cột điện" đấu song song, mỗi cột gồm bốn trăm "tấm điện" đấu nối tiếp.
Cá chình điện ở Nam Mỹ (Electrophorus) có một trăm bốn mươi cột điện và sáu ngàn tấm điện. Lúc săn mồi hoặc đánh nhau với kẻ thù, cá phóng liên tiếp 3-5 (có lúc 30-50) xung điện, mỗi xung điện của cá chình điện có thể lớn tới sáu trăm V, với cường độ một ampe.
Người ta đã có lần đo được trên một con cá đuối điện lớn miền Tây Âu (Torpedo occidentalis) dòng điện phóng đi lớn cỡ một ngàn V, với công suất sáu kW! (Theo Prosper 1962).
Năm 1974, dư luận Italy xôn xao vì có một em bé tên là Supina, lúc cáu giận có thể đốt cháy sách, chăn, màn, và cả chiếc giường em đang nằm. Tổng thống Italy dạo ấy là Santorini, đã treo giải năm chục ngàn USD cho ai giải thích được hiện tượng đó. Thực ra, "lưỡi tầm sét" đáng sợ của "ông Thiên Lôi" mười hai tuổi, đó là tia chớp điện phóng đi từ mười lăm tỷ tế bào pin sống của não cậu bé.
Mấy năm sau, đến lượt Đài truyền hình nước Nga thông báo: cô bé mười ba tuổi Lútmila dùng má gây điện từ, hút một lúc sáuchiếc bàn ủi! Còn Manzacki ở Ba Lan thì tuyên bố: não người là một trạm thu và phát sóng điện từ có chiều dài sóng lớn vài mươi mét, nên chẳng có gì lạ nếu ta có khả năng "thần giao cách cảm"!
Những chuyện giật gân như vậy nhiều vô kể trong các tập san và tạp chí vật lý, hoá học, sinh học đông tây kim cổ và cả trong đời thường. Bệnh viện lớn nào của ta chẳng có máy ghi điện tim? Và khoa tâm thần của các bệnh viện Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Cần Thơ... đều có máy ghi điện não.
Nhà vật lý Anh M. Faraday, người phát hiện và ứng dụng điện cảm ứng vào chữa bệnh đã có lần nói:
- Cho dù điện vật lý có hấp dẫn bao nhiêu thì cũng chẳng thể nào đem so được với sức cuốn hút kỳ diệu của điện sinh học, của dòng điện đang sống trong mỗi chúng ta.
ST
Năm 1938, tại trường dòng Pèlerin bên bờ sông Hương đã xảy ra một chuyện kỳ lạ, làm xôn xao dư luận Huế. Một em học trò nghèo chết, được cuộn trong chiếu rách và đặt nằm tạm trên nền đất ẩm của một chiếc lều con ở cuối vườn. Ngồi cạnh xác là một em học trò khác, rất thương bạn nhưng cũng rất sợ ma.
Khoảng nửa đêm, một hình thù quái đản, tóc xoã, mặt bôi đen, lưỡi dán giấy đỏ dài, bỗng ho khẽ một tiếng, rồi lừ lừ tiến vào trong lều. Em học trò canh xác hoảng sợ, bỏ chạy. Không may, chân em vướng vào một lỗ rách giữa chiếu và dẫm lên da thịt cái thây. Thế là xác chết bỗng giẫy mạnh một cái như bị điện giật, chồm lên, quờ tay níu lấy chân cậu bé. Con ma, vốn là một cậu bé nghịch ngợm mặc dù sợ rúm cả người, vẫn liều chết lao tới, ghì chặt "con quỷ nhập tràng", mong cứu bạn...
Rạng sáng, các thầy dòng vào lều bỗng sững lại trước một cảnh thương tâm: giữa lều là ba cái xác bé bỏng, co quắp nằm đè lên nhau: xác em bé sợ "ma", xác "quỷ nhập tràng" và xác "con ma giả"... Căn cứ vào cách ăn mặc của "con ma giả" và tư thế của ba xác chết, cảnh sát và các thầy dòng đã dựng lại diễn biến của câu chuyện theo trình tự kể trên.
Hai mươi năm sau, trong thư viện của Trạm sinh học Poiaconda trên bờ sông Đen ở vùng Bắc Cực, giáo sự Lê Quang Long người Huế, đã tình cờ tìm ra chìa khoá của chuyện buồn xảy ra trên quê hương ông, trong một bài báo của tập san "Kỹ thuật và Tuổi trẻ", số 193. Báo kể lại một chuyện tương tự, nhưng đánh thức "quỷ nhập tràng" không phải một em bé, mà là một con mèo đen!
Dòng điện rất mạnh của sự khiếp đảm do cơ thể mèo, quạ và cậu bé phát đi đã làm cái xác "bị giật bắn". Mọi tế bào của một cơ thể sống đều là những pin điện tí hon. Dòng điện của chúng rất yếu.
Với thực vật: điện của tế bào rễ củ hành là năm mươi mV, của tảo Nitella là sáu mươi mV, của bèo Nhật Bản là sáu mươi lăm mV... Với động vật và người, điện của tế bào cảm quang mắt là bốn mươi mV, của bắp thịt là sáu mươi mV, của não là chín mươi mV...
Ta lấy một ví dụ: cách đây khoảng năm ngàn năm, người cổ Ai Cập sống trên bờ sông Nile đã biết: "dưới sông có những con cá trê (Malapterus) quật ngã được nhiều thú lớn như trâu bò khi chúng xuống sông uống nước bằng những cú đánh hiểm hóc và đột ngột, mà mắt của người trần không sao thấy kịp".
Ngày nay khoa học đã phát hiện trên chín trăm loài cá có khả năng phóng điện như vậy. Loài nào cũng mang trên mình 1-2 "nhà máy điện" gồm vô số đơn vị phát điện trị số 60-120 mV.
Cá đuối điện (Torpedo) trong biển Italy hay quần đảo Guyan có chín mươi "cột điện" đấu song song, mỗi cột gồm bốn trăm "tấm điện" đấu nối tiếp.
Cá chình điện ở Nam Mỹ (Electrophorus) có một trăm bốn mươi cột điện và sáu ngàn tấm điện. Lúc săn mồi hoặc đánh nhau với kẻ thù, cá phóng liên tiếp 3-5 (có lúc 30-50) xung điện, mỗi xung điện của cá chình điện có thể lớn tới sáu trăm V, với cường độ một ampe.
Người ta đã có lần đo được trên một con cá đuối điện lớn miền Tây Âu (Torpedo occidentalis) dòng điện phóng đi lớn cỡ một ngàn V, với công suất sáu kW! (Theo Prosper 1962).
Năm 1974, dư luận Italy xôn xao vì có một em bé tên là Supina, lúc cáu giận có thể đốt cháy sách, chăn, màn, và cả chiếc giường em đang nằm. Tổng thống Italy dạo ấy là Santorini, đã treo giải năm chục ngàn USD cho ai giải thích được hiện tượng đó. Thực ra, "lưỡi tầm sét" đáng sợ của "ông Thiên Lôi" mười hai tuổi, đó là tia chớp điện phóng đi từ mười lăm tỷ tế bào pin sống của não cậu bé.
Mấy năm sau, đến lượt Đài truyền hình nước Nga thông báo: cô bé mười ba tuổi Lútmila dùng má gây điện từ, hút một lúc sáuchiếc bàn ủi! Còn Manzacki ở Ba Lan thì tuyên bố: não người là một trạm thu và phát sóng điện từ có chiều dài sóng lớn vài mươi mét, nên chẳng có gì lạ nếu ta có khả năng "thần giao cách cảm"!
Những chuyện giật gân như vậy nhiều vô kể trong các tập san và tạp chí vật lý, hoá học, sinh học đông tây kim cổ và cả trong đời thường. Bệnh viện lớn nào của ta chẳng có máy ghi điện tim? Và khoa tâm thần của các bệnh viện Hà Nội, Sài Gòn, Huế, Cần Thơ... đều có máy ghi điện não.
Nhà vật lý Anh M. Faraday, người phát hiện và ứng dụng điện cảm ứng vào chữa bệnh đã có lần nói:
- Cho dù điện vật lý có hấp dẫn bao nhiêu thì cũng chẳng thể nào đem so được với sức cuốn hút kỳ diệu của điện sinh học, của dòng điện đang sống trong mỗi chúng ta.
ST
#112
Gửi vào 20/06/2011 - 23:45
BẠN TIN CÓ MA HAY KHÔNG? TẠI HOA KỲ?
Đây là một đề tài nghiêm túc vì có liên quan đến nhiều người có tai mắt tại cộng đồng Việt Nam hải ngoại, như nghệ sỉ Nam Lộc, giám đốc nghệ thuật Trúc Hồ và trung tâm Asia phải cầu nguyện.
Tại hý viện Quốc Gia National Theatre. Lần này trung tâm Asia lấy chủ đề: “ Hành Trình Ba Mươi Năm “ cho cuốn DVD ca nhạc của trung tâm này . Họ chọn rạp The National Theatre tại Washington DC làm nơi trình diển.
Rạp này cách The White House chừng ba blocks đường, nằm đối diện với Freedom Plaza hay gọi công trường Tự Do. Theo đài Á Châu Tự Do thì sở dỉ trung tâm Asia chọn The National Theatre vì người thực hiện chương trình là nhạc sỉ Trúc Hồ, họ chọn là có thể mời cảm tạ các ân nhân đã đón nhận người tị nạn, đồng thời cố gắng vươn lên và đạt thành quả của người Việt sau ba mươi năm ra hải ngoại.
Do đó anh yêu cầu luật sư Trịnh Hội và nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh cùng điều khiển chương trình nầy cùng với nghệ sỉ Nam Lộc, Việt Dzũng ..
Trung tâm Asia thường chọn những rạp nổi tiếng như Kodak Theatre, nơi này tại Hollywood thường dùng để trao giải Oscar hàng năm. Theo nguồn tin hành lang đáng tin cậy, thì chi phí thuê rạp lên đến nữa triệu mỹ kim cho một ngày.
Còn chi phí thuê rạp The National Thatre lên đến bảy trăm ngàn mỹ kim. Đó là tiền thuê rạp mà thôi, còn tiền chi phí như ê kíp quay hình, thu âm, ca sỉ.. nên tiền vượt lên trên hơn một vài triệu mỹ kim là thường.
Còn rạp Kodak chứa đến ba ngàn chổ ngồi, trong khi rạp The National Thatre có sức chứa khoảng một ngàn ba trăm người. Thế nhưng tất cả tiền triệu triệu đó suýt trở thành mây khói...vì trục trặc kỷ thuật trầm trọng một cách khó hiểu..
Theo nghệ sỉ Nam Lộc thì 9 cái camera thu hình DVD đã không hoạt động đuợc ngay từ đầu xuất trưa. Trong lúc các kỷ thuật chuyên viên đang lo lắng sữa chữa thì trên sân khấu các MC như Nam Lộc, Dương Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, Trịnh Hội ráng kéo dài để câu giờ chờ sữa chữa xong...nhưng đến ba giờ chiều thì vẩn chưa xong.
Khán giả bắt đầu khó chịu và một số yêu cầu trả tiền vé lại. Nếu 9 cái camera mà không thu hình cho DVD được thì kể như khán giả bốn phương trời sẽ không có DVD thu hình gọi là "Hành Trình Ba Mươi Năm" của trung tâm Asia.
Rạp The National có một oan hồn là một kịch sỉ tên là : John McCullough.
Các nghệ sỉ trong hậu trường bắt đầu suy nghỉ đến sự cúng vái hồn ma, nên các nghệ sỉ Thanh Thúy, Thanh Tuyền và Lâm Nhật Tiến bắt đầu đi mua hoa quả, nhang đèn bánh trái .
Anh Kim là một khoa học gia cho chương trình NASA qua tâm sự với tòa soạn, chính anh là người đi mua đồ cúng cho Thanh Tuyền. Khi anh mang đồ cúng vào rạp thì bị người gác rạp ngăn anh lại không cho mang vào, nhưng anh trình bày là dùng để cúng oan hồn thì người gác rạp vui vẽ cho vào.
Các nghệ sỉ Công Giáo thì nắm tay nhau đọc kinh . các nghệ sỉ Phật Giáo vừa đọc kinh vừa vái lạy cung kính. Không khí thật u tịch và linh thiêng.
Trong lúc tuyệt vọng thì hai nhạc sỉ Trúc Hồ và Việt Dzũng đứng trên sân khấu thầm cầu nguyện linh hồn nhạc sỉ Trầm tử Thiêng, Duy Khánh và hàng trăm ngàn vong hồn các người tị nạn chết trên con đường vựot biên bằng đường bộ, đường thủy.. sống khôn chết thiêng về rạp The National Theatre thương lượng với oan hồn nghệ sỉ John McCullough để show quay được hình DVD.
Cúng xong thì như phép lạ xảy ra...tất cả một loạt 9 cái camera thu hình đồng loạt hoạt động tốt. Khi chín cái camera chạy tốt, cô Thy Vân giám đốc trung tâm Asia đùa: “ Có lẽ anh Trầm tử Thiêng, Duy Khánh và linh hồn hàng trăm ngàn người đã cùng nhau đánh với oan hồn kịch sỉ nên được mọi chuyện tốt.
Chính nghệ sỉ Nam Lộc hỏi các chuyên gia kỷ thuật máy móc thu hình thì họ trả lời: “ Chúng tôi cũng không biết vì sao như vậy ? Trong đời chúng tôi mấy chục năm trong nghề mà chưa lần nào thấy chuyện kỳ cục như vậy, tự dưng tất cả 9 máy không chạy, rồi tự dưng tất cả chín máy chạy lại ?
Có điều sau khi oan hồn kịch sỉ John McCullough chịu thua, thì bầu không khí trong hội trường bốc lên chưa từng thấy, đến nổi Thứ trưỡng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là Arthur Gene Dewey bốc lên trong lúc đọc diển văn dài đến trên mười phút, thay vì ba phút mà thôi.
Kỳ Phát
THUẬT THẤY MA QUỶ
1. Phương pháp nhiếp Quỷ
Đầu tiên ngồi xếp bằng nhắm mắt tỉnh tọa, quên hết mọi việc bên ngoài, để dần dần đi vào mặc tưởng, dùng phương pháp hô hấp toàn thân, đưa tâm lực đi vào đơn điền, để đưa chân khí từ đan điền lên hai bàn tay đang bắt ấn Huyền Thiên Thượng Đế, tức hai tay trước bắt ấn như sau:
Đầu tiên ngón đeo nhẩn co lại vào lòng bàn tay, kế đến ngón út bắt quàng qua lưng của ngón đeo nhẩn , ngón giửa co lại vào lòng bàn tay, ngón cái đè trên đầu ngón giửa lại, còn ngón trỏ duổi thẳng ra, xong hai tay chắp lại, lòng bàn tay hướng vào mình, và hai đầu ngón trỏ bên trong của hai tay chạm ngửa nhẹ vào nhau, gọi là là Lư Sơn Lưu Ly Ấn.
Tiếp đến dùng tâm lực vận khí từ đan điền lên tỏa ra đầy lồng ngực, và từ đó để ý tại tâm nhản, như vậy không lâu sẻ trông thấy ma quỷ sẻ hiện hình, nhưng nếu ta mở mắt ra thì ma quỷ liền biến mất ngay.
2. Phương pháp ban đêm trông thấy ma
Cách thứ nhất thấy ma tạm thời: Lấy hai mắt của con chim quạ đen, đem đi ngâm nước vài ngày, xong dùng nước này thoa lên trên mí mắt trái ba ngày, tối ngày thứ tư sẻ thấy quỷ hiện hình, tục gọi là mở quỷ nhản hay âm dương nhản.
Cách thứ hai vỉnh viển thấy ma quỷ: Lấy hai tròng con mắt tươi của con chim quạ đen, đem nhúng xuống nước sôi vài lần và nuốt trọng xuống trong bụng, thì suốt đời bạn sẻ trông thấy ma quỷ, mà không có cách giải cứu được, nếu có hối hận củng đả muộn, nên tính kỷ mới thực hành.
3. Phương pháp mở mắt thấy quỷ
Lấy nước sương trong ngày tiết thanh minh hay tiết đoan ngọ, đổ vào một chậu sành, bỏ hai lá cây liểu xanh tươi vào trong đó, ngâm trong nước sương nầy trong ba ngày, sau đó lấy nước nầy thoa vào mắt hay lấy lá nầy dán trên mí mắt sẻ thấy quỷ ngay.
4. Phép đợi quỷ
Sáng sớm khoảng một giờ đến ba giờ sáng, đi đến dưới một chân cầu vắng vẻ, xong đốt ba cây nhang trước mặt, kế đến đem một bó rơm nhỏ đội lên đầu và quỳ ở dưới chân cầu, gần nơi có nước dòng nước chảy qua, đừng nên động đậy, như thế một lúc sau sẻ thấy ma quỷ đến, sẻ tưởng bạn là thần thổ địa và đến lạy bạn, thì bạn đừng sợ và đừng lên tiếng, cũng đừng động đậy hoặc bỏ chạy, sẻ nguy hiểm cho bạn, cách nầy rất nguy hiểm.
5. Cách thấy quỷ trong tiết trung nguyên
Mổi năm đến tiết trung nguyên, thì chùa chiền hay đạo quán đều tổ chức lể siêu độ rất lớn, do đó nếu bạn ngưng khí hội thần nhìn các đồ cúng, hay đứng dưới vạt áo của các thầy mà nhìn ra, thì sau khi các thầy đọc kinh tụng chú xong, bạn sẻ thấy cô hồn các đản sẻ đến tranh lấy đồ cúng, khi nhìn bạn cần thành tâm thì mới linh.
Mổ́i năm vào tháng bảy âm lịch là tháng của ma quỷ thì ma quỷ ra nhiều, dể thấy chúng nó, còn những tháng khác thì ít hơn. Nếu bạn sợ ma, không muốn thấy ma thì chỉ đọc chơi thôi.
ÁNH SÁNG T2
Đây là một đề tài nghiêm túc vì có liên quan đến nhiều người có tai mắt tại cộng đồng Việt Nam hải ngoại, như nghệ sỉ Nam Lộc, giám đốc nghệ thuật Trúc Hồ và trung tâm Asia phải cầu nguyện.
Tại hý viện Quốc Gia National Theatre. Lần này trung tâm Asia lấy chủ đề: “ Hành Trình Ba Mươi Năm “ cho cuốn DVD ca nhạc của trung tâm này . Họ chọn rạp The National Theatre tại Washington DC làm nơi trình diển.
Rạp này cách The White House chừng ba blocks đường, nằm đối diện với Freedom Plaza hay gọi công trường Tự Do. Theo đài Á Châu Tự Do thì sở dỉ trung tâm Asia chọn The National Theatre vì người thực hiện chương trình là nhạc sỉ Trúc Hồ, họ chọn là có thể mời cảm tạ các ân nhân đã đón nhận người tị nạn, đồng thời cố gắng vươn lên và đạt thành quả của người Việt sau ba mươi năm ra hải ngoại.
Do đó anh yêu cầu luật sư Trịnh Hội và nữ khoa học gia Dương Nguyệt Ánh cùng điều khiển chương trình nầy cùng với nghệ sỉ Nam Lộc, Việt Dzũng ..
Trung tâm Asia thường chọn những rạp nổi tiếng như Kodak Theatre, nơi này tại Hollywood thường dùng để trao giải Oscar hàng năm. Theo nguồn tin hành lang đáng tin cậy, thì chi phí thuê rạp lên đến nữa triệu mỹ kim cho một ngày.
Còn chi phí thuê rạp The National Thatre lên đến bảy trăm ngàn mỹ kim. Đó là tiền thuê rạp mà thôi, còn tiền chi phí như ê kíp quay hình, thu âm, ca sỉ.. nên tiền vượt lên trên hơn một vài triệu mỹ kim là thường.
Còn rạp Kodak chứa đến ba ngàn chổ ngồi, trong khi rạp The National Thatre có sức chứa khoảng một ngàn ba trăm người. Thế nhưng tất cả tiền triệu triệu đó suýt trở thành mây khói...vì trục trặc kỷ thuật trầm trọng một cách khó hiểu..
Theo nghệ sỉ Nam Lộc thì 9 cái camera thu hình DVD đã không hoạt động đuợc ngay từ đầu xuất trưa. Trong lúc các kỷ thuật chuyên viên đang lo lắng sữa chữa thì trên sân khấu các MC như Nam Lộc, Dương Nguyệt Ánh, Việt Dzũng, Trịnh Hội ráng kéo dài để câu giờ chờ sữa chữa xong...nhưng đến ba giờ chiều thì vẩn chưa xong.
Khán giả bắt đầu khó chịu và một số yêu cầu trả tiền vé lại. Nếu 9 cái camera mà không thu hình cho DVD được thì kể như khán giả bốn phương trời sẽ không có DVD thu hình gọi là "Hành Trình Ba Mươi Năm" của trung tâm Asia.
Rạp The National có một oan hồn là một kịch sỉ tên là : John McCullough.
Các nghệ sỉ trong hậu trường bắt đầu suy nghỉ đến sự cúng vái hồn ma, nên các nghệ sỉ Thanh Thúy, Thanh Tuyền và Lâm Nhật Tiến bắt đầu đi mua hoa quả, nhang đèn bánh trái .
Anh Kim là một khoa học gia cho chương trình NASA qua tâm sự với tòa soạn, chính anh là người đi mua đồ cúng cho Thanh Tuyền. Khi anh mang đồ cúng vào rạp thì bị người gác rạp ngăn anh lại không cho mang vào, nhưng anh trình bày là dùng để cúng oan hồn thì người gác rạp vui vẽ cho vào.
Các nghệ sỉ Công Giáo thì nắm tay nhau đọc kinh . các nghệ sỉ Phật Giáo vừa đọc kinh vừa vái lạy cung kính. Không khí thật u tịch và linh thiêng.
Trong lúc tuyệt vọng thì hai nhạc sỉ Trúc Hồ và Việt Dzũng đứng trên sân khấu thầm cầu nguyện linh hồn nhạc sỉ Trầm tử Thiêng, Duy Khánh và hàng trăm ngàn vong hồn các người tị nạn chết trên con đường vựot biên bằng đường bộ, đường thủy.. sống khôn chết thiêng về rạp The National Theatre thương lượng với oan hồn nghệ sỉ John McCullough để show quay được hình DVD.
Cúng xong thì như phép lạ xảy ra...tất cả một loạt 9 cái camera thu hình đồng loạt hoạt động tốt. Khi chín cái camera chạy tốt, cô Thy Vân giám đốc trung tâm Asia đùa: “ Có lẽ anh Trầm tử Thiêng, Duy Khánh và linh hồn hàng trăm ngàn người đã cùng nhau đánh với oan hồn kịch sỉ nên được mọi chuyện tốt.
Chính nghệ sỉ Nam Lộc hỏi các chuyên gia kỷ thuật máy móc thu hình thì họ trả lời: “ Chúng tôi cũng không biết vì sao như vậy ? Trong đời chúng tôi mấy chục năm trong nghề mà chưa lần nào thấy chuyện kỳ cục như vậy, tự dưng tất cả 9 máy không chạy, rồi tự dưng tất cả chín máy chạy lại ?
Có điều sau khi oan hồn kịch sỉ John McCullough chịu thua, thì bầu không khí trong hội trường bốc lên chưa từng thấy, đến nổi Thứ trưỡng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là Arthur Gene Dewey bốc lên trong lúc đọc diển văn dài đến trên mười phút, thay vì ba phút mà thôi.
Kỳ Phát
THUẬT THẤY MA QUỶ
1. Phương pháp nhiếp Quỷ
Đầu tiên ngồi xếp bằng nhắm mắt tỉnh tọa, quên hết mọi việc bên ngoài, để dần dần đi vào mặc tưởng, dùng phương pháp hô hấp toàn thân, đưa tâm lực đi vào đơn điền, để đưa chân khí từ đan điền lên hai bàn tay đang bắt ấn Huyền Thiên Thượng Đế, tức hai tay trước bắt ấn như sau:
Đầu tiên ngón đeo nhẩn co lại vào lòng bàn tay, kế đến ngón út bắt quàng qua lưng của ngón đeo nhẩn , ngón giửa co lại vào lòng bàn tay, ngón cái đè trên đầu ngón giửa lại, còn ngón trỏ duổi thẳng ra, xong hai tay chắp lại, lòng bàn tay hướng vào mình, và hai đầu ngón trỏ bên trong của hai tay chạm ngửa nhẹ vào nhau, gọi là là Lư Sơn Lưu Ly Ấn.
Tiếp đến dùng tâm lực vận khí từ đan điền lên tỏa ra đầy lồng ngực, và từ đó để ý tại tâm nhản, như vậy không lâu sẻ trông thấy ma quỷ sẻ hiện hình, nhưng nếu ta mở mắt ra thì ma quỷ liền biến mất ngay.
2. Phương pháp ban đêm trông thấy ma
Cách thứ nhất thấy ma tạm thời: Lấy hai mắt của con chim quạ đen, đem đi ngâm nước vài ngày, xong dùng nước này thoa lên trên mí mắt trái ba ngày, tối ngày thứ tư sẻ thấy quỷ hiện hình, tục gọi là mở quỷ nhản hay âm dương nhản.
Cách thứ hai vỉnh viển thấy ma quỷ: Lấy hai tròng con mắt tươi của con chim quạ đen, đem nhúng xuống nước sôi vài lần và nuốt trọng xuống trong bụng, thì suốt đời bạn sẻ trông thấy ma quỷ, mà không có cách giải cứu được, nếu có hối hận củng đả muộn, nên tính kỷ mới thực hành.
3. Phương pháp mở mắt thấy quỷ
Lấy nước sương trong ngày tiết thanh minh hay tiết đoan ngọ, đổ vào một chậu sành, bỏ hai lá cây liểu xanh tươi vào trong đó, ngâm trong nước sương nầy trong ba ngày, sau đó lấy nước nầy thoa vào mắt hay lấy lá nầy dán trên mí mắt sẻ thấy quỷ ngay.
4. Phép đợi quỷ
Sáng sớm khoảng một giờ đến ba giờ sáng, đi đến dưới một chân cầu vắng vẻ, xong đốt ba cây nhang trước mặt, kế đến đem một bó rơm nhỏ đội lên đầu và quỳ ở dưới chân cầu, gần nơi có nước dòng nước chảy qua, đừng nên động đậy, như thế một lúc sau sẻ thấy ma quỷ đến, sẻ tưởng bạn là thần thổ địa và đến lạy bạn, thì bạn đừng sợ và đừng lên tiếng, cũng đừng động đậy hoặc bỏ chạy, sẻ nguy hiểm cho bạn, cách nầy rất nguy hiểm.
5. Cách thấy quỷ trong tiết trung nguyên
Mổi năm đến tiết trung nguyên, thì chùa chiền hay đạo quán đều tổ chức lể siêu độ rất lớn, do đó nếu bạn ngưng khí hội thần nhìn các đồ cúng, hay đứng dưới vạt áo của các thầy mà nhìn ra, thì sau khi các thầy đọc kinh tụng chú xong, bạn sẻ thấy cô hồn các đản sẻ đến tranh lấy đồ cúng, khi nhìn bạn cần thành tâm thì mới linh.
Mổ́i năm vào tháng bảy âm lịch là tháng của ma quỷ thì ma quỷ ra nhiều, dể thấy chúng nó, còn những tháng khác thì ít hơn. Nếu bạn sợ ma, không muốn thấy ma thì chỉ đọc chơi thôi.
ÁNH SÁNG T2
#113
Gửi vào 21/06/2011 - 02:45
KHOA HỌC TÂM LINH TỔNG HỢP
Những hiện tượng tâm linh và linh hồn, đã và đang là một vấn nạn từng trải qua bao thời đại; nó rất phức tạp và đa dạng; Do đó vì những trở ngại mọi mặt trong một xã hội quy ước của con người, mặc dầu rất khó khăn cho người tìm chân lý, nhưng nhờ ta có thể nhìn những hiện tượng chung quanh, mà có thể biết được nguyên nhân.
Nhìn tất cả những kết quả cuối cùng, có thể biết được hư thật có không, mà ta không cần phải nói ra hay cần đến sự chấp nhận hay đồng ý của mọi người. Mặc dù chân lý nầy không có ai nói đến, hay không được ghi chép rỏ ràng từ trong sách vở. Việc gì cũng có lý do của nó.
Tinh hoa của con người là Thần thức và Linh hồn; do đó con người có thể làm cho nó trở thành bất tử, qua kỷ thuật tâm linh siêu cấp, nhờ đó mà sinh mạng thức toàn vẹn của con người, được tiếp nối liên tục và sinh tồn mãi mãi...luôn hưởng hạnh phúc và phồn thịnh, trên cảnh thiên đàng nơi hạ giới này..
Con người nhờ sự di truyền của cha mẹ mà được sanh ra ở thế giới vật chất. Con người sanh ra được sở đắc một thể xác vật chất do mẩu DNA di truyền của cha mẹ tạo nên, theo một khuôn mẩu đã định sẳn trong DNA.
Với một bộ nảo vật chất mổi ngày một phát triển với một mức độ hoàn hảo, nơi đây trở thành trung tâm lưu giữ những ký ức, ấn tượng thu nhận của các giác quan, kinh nghiệm cùng kiến thức, văn hóa học tập của một cá nhân; ngoài ra nảo bộ còn là trung tâm thu và phát sóng và trao đổi thông tin đến các cá nhân khác, hay các tác nhân đồng bộ trong môi trường và vũ trụ xa gần chung quanh.
Khi đứa bé sinh ra các hoạt động sinh tồn, đều đặt dưới ảnh hưởng của DNA, vô thức hay linh hồn A lại da thức lúc nầy rất đơn giản; nhờ sự tiếp xúc của ngũ thức: mắt, tai, mủi, miệng, thân mà ý thức được tạo ra và sự chất chứa những thông tin bên ngoài, mổi ngày được tăng lên và trở thành đa dạng và phức tạp.
Từ đó tiềm thức hay thể vía tình cảm của đứa bé được tạo thành, với tuổi đời chồng chất, kho vô thức hay linh hồn trở thành nơi chứa của Dương Thần, Ký ức của dương thần và linh hồn cá nhân.
Các chức năng vi tế của nảo bộ là ý thức, tiềm thức và vô thức; ý thức là dụng cụ cho con người sử dụng tư duy hàng ngày, để sinh tồn trong thế giới vật chất, tiềm thức hổ trợ cho ý thức trong hoạt động tư duy và còn là chiếc cầu nối cho ý thức liên lạc với Dương thần.
Ký ức của dương thần và linh hồn, khi con đường siêu thức Antaskarana được khai thông. Dương thần vừa hướng dẩn ý thức trong tư duy, vừa là nơi cung cấp tất cả ký ức, kinh nghiệm và kiến thức xưa nay của cá nhân thu thập trong suốt một đời người. Ý thức chỉ có thể lưu thông với thể vía, hay tiềm thức và chỉ giao thông được với ký ức của dương thần, dương thần và linh hồn, khi nó nối được cầu siêu thức ANTASKARANA.
Còn linh hồn cá nhân hay Âm thần là nơi chứa Dương thần cùng ký ức của dương thần ( ký ức của dương thần cũng là nơi chứa thể vía hay là tiềm thức của con người ) và cũng là nơi thông lộ liên lạc của một cá nhân với linh hồn của những người khác, đồng thời cũng là nơi liên lạc và đọc được những thông tin được lưu giữ trong ký ức của vũ trụ AKASHIC RECORD.
Khi con người còn sống, nhờ tập luyện phát triển những tiềm năng tiềm ẩn của con người, nên những người này khả năng tâm đặc biệt có thể đọc được những bức xạ tàn dư của người chết, và đọc được ký ức của vũ trụ.
khi cơ thể người này bị hư hại vì tai nạn, bệnh tật hay già yếu, người này dùng phương pháp Tá Thi Hoàn hồn hay là Đoạt Xã Trọng Thức để chuyển toàn bộ tinh hoa tâm linh của họ qua một hài nhi mới sanh, hay qua một cơ thể khõe mạnh khác, hay qua thể xác mới của mình nhờ vào phương pháp CLONE hiện đại. Nếu không tìm được một thể xác lý tưởng cho việc đoạt xã, thì thần thức của người nầy phải tan rả như người bình thường.
Còn những người bình thường, khi họ chết thì tự ngã, ý thức tự thể và dương thần của họ cũng bị chết và tan mất, chỉ còn lại bốn hạt lưu tánh nguyên tử:
1. Linh hồn cá nhân và ký ức của dương thần, là một phần của dương thần đả mất ý thức.
2. Trí, hạ trí
3. Vía, tiềm thức
4. Phách, được phóng ra trong không gian và được lưu trử như là một loại bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, bán hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh; nó sẻ được tái hiện trở lại cỏi vật chất qua bộ nảo của một người nào có kết cấu rung động đồng bộ với nó...Như những hiện tượng hồn ma, luân hồi, nói chuyện với người chết, thế giới của cỏi âm...
Chúng ta quên đi những tiền kiếp, vì chúng ta khi chết đi, thần thức của chúng ta cũng chết đi; và khi đứa bé mới được sinh ra, thì phần tâm linh do nảo bộ cấu thành hoàn toàn trong trắng và vô tư, nếu nhờ sự cấu trúc đặt biệt của nảo bộ rung động đồng bộ với một bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, nên đứa bé hay người nào đó sẻ trở thành thiên tài hay cao nhân trong tức khắc, và bức xạ tàn dư hoàn chỉnh này hoàn toàn nằm dưới quyền sử dụng của dương thần hay tự ngả mới của đứa bé hay người đó.
Hoặc trong trường hợp đặt biệt do thể xác đứa bé hay một người nào đó bị đoạt xã, bởi một người khác biết kỷ thuật này, thì thể xác của đứa bé hay người đó sẻ hoàn toàn chiếm ngự bởi tự ngả cùng bản ngả của người dùng kỷ thuật đoạt xả hay tá thi hoàn hồn.
Ở những người bình thường, khi tâm nảo của họ bị thôi miên hay đi vào đại định, thì họ có thể nhớ lại dĩ vãng cùng những kỷ niệm của họ; nhưng khi đi sâu hơn nữa, thì nảo bộ được sắp xếp lại theo một mức độ rung động khác thường, nên nó có khả năng bắt được một bức xạ tàn dư nào đó, làm cho con người có cảm tưởng là mình đã từng sống ở một kiếp xa xăm nào đó, và tưởng lầm mình là người đó ở kiếp trước.
Cả những trường hợp thí nghiệm, đặt nảo bộ dưới một kích thích điện từ hay tiêm một chất hóa học nào đó, cũng có thể điều chỉnh, tái phối trí các dòng điện nảo của nảo bộ, và nó sẽ tạo sự cộng hưởng với những bức xạ tàn dư nào đó, thì con người cũng có thể thấy hay đọc được những thông tin này và lầm tưởng là hiện tượng luân hồi, tái sinh hay kiếp sống trước đó của mình.
Vì tất cả những thông tin ở môi trường chung quanh con người, đều phải đi xuyên qua ngũ quan của con người, cuối cùng đều biến đổi thành những luồng xung động thần kinh đã được mã hóa đặc biệt dưới ngôn ngữ của nảo bộ; nên những cuộc thí nghiệm như, kích thích nảo bộ của con người đang nhắm mắt hay đang ngũ, bằng một dòng điện từ đã được mã hóa những thông tin mutimedia nào đó, thì người này có thể thấy, nghe và như là đang sống thật trong ảo giác đó.
Trường hợp của Cô Kumari Shanti và Jeny được xem là tái sinh, cũng là trường hợp nảo bộ của hai người có cấu trúc đặc biệt có thể tự nhiên và thường xuyên bắt được bức xạ tàn dư hoàn chỉnh của người đã chết, mà hạ trí của họ bị đồng hóa với hạ trí được lưu giữ trong bức xạ tàn dư; nên hai người có thể nhớ lại toàn bộ sinh hoạt và tình cảm của người đã chết này như trong câu chuyện nêu trên; nhưng vì là tự ngã của hai người vẩn còn, nên hai người này còn có thể nhận biết cha mẹ hiện giờ của họ là ai và cha mẹ kiếp trước trong bức xạ tàn dư là ai. Đây có thể xem trong tâm thần bệnh học là một con người hai cá tính.
Còn trường hợp của Lanfranco Davito có thể nhớ lại sáu kiếp trước, là do nảo bộ của anh ta có một cấu trúc phức hợp, có thể lần lượt thu nhận tự nhiên được sáu bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, của sáu người đã chết ở những địa điểm và thời gian khác nhau.
Với hệ thống tín ngưởng và phong tục hiện nay của xả hội không giải thích được hiện tượng trên, nên lầm tưởng là người này đã sống qua sáu kiếp trước vậy, vì sáu bức xạ tàn dư này, không có sự tồn tại Dương thần của người đã chết, nên sáu bức xạ tàn dư này được thông dịch và đọc ra bởi tự ngả và ý thức của chàng Lanfranco Davito. Như máy DVD hay máy vi tính đọc dĩa hay nối với mạng multi-media internet vậy. Việc này được những nhà ngoại cảm cao cấp hay những nhà tâm linh đắc đạo có thể phân biệt và nhận chân được những dạng bức xạ này.
Ngày nay dần dần nhờ có sự sự hợp tác của khoa học quy ước và khoa học không quy ước ở phạm vi xả hội hay phạm vi cá nhân; luật luân hồi và tái sinh của linh hồn được giải thích với một nhản quang mở rộng hơn và cập nhật hơn, thích hợp với kỷ nguyên bảo bình của tâm linh và trực giác con người.
Dần dần con người có thể làm chủ vận mạng của mình, thông qua sự tu luyện thiền định và yoga, con người có thể nâng cao định lực, tâm lực và linh lực của mình; nhờ đó con người có thể tách rời cảm thể khỏi thể xác để khỏi chịu sự đau đớn của xác thân khi bệnh tật hay tai nạn.
Con người có thể du hành khắp mọi nơi qua kỷ thuật Remote viewing, xuất thần ngao du; con người có thể nói chuyện với nhau qua kỷ thuật truyền âm nhập mật, tha tâm thông; con người có thể dùng thuật khinh thân Lunggom để thâu ngắn con đường thiên lý; sống trong băng giá mà không bị lạnh qua kỷ thuật nội hỏa Tumo; con người có thể tự giải thoát thân tâm qua sự thăng hoa và chế ngự sự loạn động các thể xác, vía, trí ..
Một nền văn hóa mới sẽ dần dần được hình thành, và sẽ giúp đở nhân loại sống hài hòa và hạnh phúc hơn, với đà tiến bộ với tốc độ ánh sáng của khoa học kỷ thuật quy ước và không quy ước của kỷ nguyên Bảo Bình đầy hoa và ánh sáng này.
ÁNH SÁNG T2
Những hiện tượng tâm linh và linh hồn, đã và đang là một vấn nạn từng trải qua bao thời đại; nó rất phức tạp và đa dạng; Do đó vì những trở ngại mọi mặt trong một xã hội quy ước của con người, mặc dầu rất khó khăn cho người tìm chân lý, nhưng nhờ ta có thể nhìn những hiện tượng chung quanh, mà có thể biết được nguyên nhân.
Nhìn tất cả những kết quả cuối cùng, có thể biết được hư thật có không, mà ta không cần phải nói ra hay cần đến sự chấp nhận hay đồng ý của mọi người. Mặc dù chân lý nầy không có ai nói đến, hay không được ghi chép rỏ ràng từ trong sách vở. Việc gì cũng có lý do của nó.
Tinh hoa của con người là Thần thức và Linh hồn; do đó con người có thể làm cho nó trở thành bất tử, qua kỷ thuật tâm linh siêu cấp, nhờ đó mà sinh mạng thức toàn vẹn của con người, được tiếp nối liên tục và sinh tồn mãi mãi...luôn hưởng hạnh phúc và phồn thịnh, trên cảnh thiên đàng nơi hạ giới này..
Con người nhờ sự di truyền của cha mẹ mà được sanh ra ở thế giới vật chất. Con người sanh ra được sở đắc một thể xác vật chất do mẩu DNA di truyền của cha mẹ tạo nên, theo một khuôn mẩu đã định sẳn trong DNA.
Với một bộ nảo vật chất mổi ngày một phát triển với một mức độ hoàn hảo, nơi đây trở thành trung tâm lưu giữ những ký ức, ấn tượng thu nhận của các giác quan, kinh nghiệm cùng kiến thức, văn hóa học tập của một cá nhân; ngoài ra nảo bộ còn là trung tâm thu và phát sóng và trao đổi thông tin đến các cá nhân khác, hay các tác nhân đồng bộ trong môi trường và vũ trụ xa gần chung quanh.
Khi đứa bé sinh ra các hoạt động sinh tồn, đều đặt dưới ảnh hưởng của DNA, vô thức hay linh hồn A lại da thức lúc nầy rất đơn giản; nhờ sự tiếp xúc của ngũ thức: mắt, tai, mủi, miệng, thân mà ý thức được tạo ra và sự chất chứa những thông tin bên ngoài, mổi ngày được tăng lên và trở thành đa dạng và phức tạp.
Từ đó tiềm thức hay thể vía tình cảm của đứa bé được tạo thành, với tuổi đời chồng chất, kho vô thức hay linh hồn trở thành nơi chứa của Dương Thần, Ký ức của dương thần và linh hồn cá nhân.
Các chức năng vi tế của nảo bộ là ý thức, tiềm thức và vô thức; ý thức là dụng cụ cho con người sử dụng tư duy hàng ngày, để sinh tồn trong thế giới vật chất, tiềm thức hổ trợ cho ý thức trong hoạt động tư duy và còn là chiếc cầu nối cho ý thức liên lạc với Dương thần.
Ký ức của dương thần và linh hồn, khi con đường siêu thức Antaskarana được khai thông. Dương thần vừa hướng dẩn ý thức trong tư duy, vừa là nơi cung cấp tất cả ký ức, kinh nghiệm và kiến thức xưa nay của cá nhân thu thập trong suốt một đời người. Ý thức chỉ có thể lưu thông với thể vía, hay tiềm thức và chỉ giao thông được với ký ức của dương thần, dương thần và linh hồn, khi nó nối được cầu siêu thức ANTASKARANA.
Còn linh hồn cá nhân hay Âm thần là nơi chứa Dương thần cùng ký ức của dương thần ( ký ức của dương thần cũng là nơi chứa thể vía hay là tiềm thức của con người ) và cũng là nơi thông lộ liên lạc của một cá nhân với linh hồn của những người khác, đồng thời cũng là nơi liên lạc và đọc được những thông tin được lưu giữ trong ký ức của vũ trụ AKASHIC RECORD.
Khi con người còn sống, nhờ tập luyện phát triển những tiềm năng tiềm ẩn của con người, nên những người này khả năng tâm đặc biệt có thể đọc được những bức xạ tàn dư của người chết, và đọc được ký ức của vũ trụ.
khi cơ thể người này bị hư hại vì tai nạn, bệnh tật hay già yếu, người này dùng phương pháp Tá Thi Hoàn hồn hay là Đoạt Xã Trọng Thức để chuyển toàn bộ tinh hoa tâm linh của họ qua một hài nhi mới sanh, hay qua một cơ thể khõe mạnh khác, hay qua thể xác mới của mình nhờ vào phương pháp CLONE hiện đại. Nếu không tìm được một thể xác lý tưởng cho việc đoạt xã, thì thần thức của người nầy phải tan rả như người bình thường.
Còn những người bình thường, khi họ chết thì tự ngã, ý thức tự thể và dương thần của họ cũng bị chết và tan mất, chỉ còn lại bốn hạt lưu tánh nguyên tử:
1. Linh hồn cá nhân và ký ức của dương thần, là một phần của dương thần đả mất ý thức.
2. Trí, hạ trí
3. Vía, tiềm thức
4. Phách, được phóng ra trong không gian và được lưu trử như là một loại bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, bán hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh; nó sẻ được tái hiện trở lại cỏi vật chất qua bộ nảo của một người nào có kết cấu rung động đồng bộ với nó...Như những hiện tượng hồn ma, luân hồi, nói chuyện với người chết, thế giới của cỏi âm...
Chúng ta quên đi những tiền kiếp, vì chúng ta khi chết đi, thần thức của chúng ta cũng chết đi; và khi đứa bé mới được sinh ra, thì phần tâm linh do nảo bộ cấu thành hoàn toàn trong trắng và vô tư, nếu nhờ sự cấu trúc đặt biệt của nảo bộ rung động đồng bộ với một bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, nên đứa bé hay người nào đó sẻ trở thành thiên tài hay cao nhân trong tức khắc, và bức xạ tàn dư hoàn chỉnh này hoàn toàn nằm dưới quyền sử dụng của dương thần hay tự ngả mới của đứa bé hay người đó.
Hoặc trong trường hợp đặt biệt do thể xác đứa bé hay một người nào đó bị đoạt xã, bởi một người khác biết kỷ thuật này, thì thể xác của đứa bé hay người đó sẻ hoàn toàn chiếm ngự bởi tự ngả cùng bản ngả của người dùng kỷ thuật đoạt xả hay tá thi hoàn hồn.
Ở những người bình thường, khi tâm nảo của họ bị thôi miên hay đi vào đại định, thì họ có thể nhớ lại dĩ vãng cùng những kỷ niệm của họ; nhưng khi đi sâu hơn nữa, thì nảo bộ được sắp xếp lại theo một mức độ rung động khác thường, nên nó có khả năng bắt được một bức xạ tàn dư nào đó, làm cho con người có cảm tưởng là mình đã từng sống ở một kiếp xa xăm nào đó, và tưởng lầm mình là người đó ở kiếp trước.
Cả những trường hợp thí nghiệm, đặt nảo bộ dưới một kích thích điện từ hay tiêm một chất hóa học nào đó, cũng có thể điều chỉnh, tái phối trí các dòng điện nảo của nảo bộ, và nó sẽ tạo sự cộng hưởng với những bức xạ tàn dư nào đó, thì con người cũng có thể thấy hay đọc được những thông tin này và lầm tưởng là hiện tượng luân hồi, tái sinh hay kiếp sống trước đó của mình.
Vì tất cả những thông tin ở môi trường chung quanh con người, đều phải đi xuyên qua ngũ quan của con người, cuối cùng đều biến đổi thành những luồng xung động thần kinh đã được mã hóa đặc biệt dưới ngôn ngữ của nảo bộ; nên những cuộc thí nghiệm như, kích thích nảo bộ của con người đang nhắm mắt hay đang ngũ, bằng một dòng điện từ đã được mã hóa những thông tin mutimedia nào đó, thì người này có thể thấy, nghe và như là đang sống thật trong ảo giác đó.
Trường hợp của Cô Kumari Shanti và Jeny được xem là tái sinh, cũng là trường hợp nảo bộ của hai người có cấu trúc đặc biệt có thể tự nhiên và thường xuyên bắt được bức xạ tàn dư hoàn chỉnh của người đã chết, mà hạ trí của họ bị đồng hóa với hạ trí được lưu giữ trong bức xạ tàn dư; nên hai người có thể nhớ lại toàn bộ sinh hoạt và tình cảm của người đã chết này như trong câu chuyện nêu trên; nhưng vì là tự ngã của hai người vẩn còn, nên hai người này còn có thể nhận biết cha mẹ hiện giờ của họ là ai và cha mẹ kiếp trước trong bức xạ tàn dư là ai. Đây có thể xem trong tâm thần bệnh học là một con người hai cá tính.
Còn trường hợp của Lanfranco Davito có thể nhớ lại sáu kiếp trước, là do nảo bộ của anh ta có một cấu trúc phức hợp, có thể lần lượt thu nhận tự nhiên được sáu bức xạ tàn dư hoàn chỉnh, của sáu người đã chết ở những địa điểm và thời gian khác nhau.
Với hệ thống tín ngưởng và phong tục hiện nay của xả hội không giải thích được hiện tượng trên, nên lầm tưởng là người này đã sống qua sáu kiếp trước vậy, vì sáu bức xạ tàn dư này, không có sự tồn tại Dương thần của người đã chết, nên sáu bức xạ tàn dư này được thông dịch và đọc ra bởi tự ngả và ý thức của chàng Lanfranco Davito. Như máy DVD hay máy vi tính đọc dĩa hay nối với mạng multi-media internet vậy. Việc này được những nhà ngoại cảm cao cấp hay những nhà tâm linh đắc đạo có thể phân biệt và nhận chân được những dạng bức xạ này.
Ngày nay dần dần nhờ có sự sự hợp tác của khoa học quy ước và khoa học không quy ước ở phạm vi xả hội hay phạm vi cá nhân; luật luân hồi và tái sinh của linh hồn được giải thích với một nhản quang mở rộng hơn và cập nhật hơn, thích hợp với kỷ nguyên bảo bình của tâm linh và trực giác con người.
Dần dần con người có thể làm chủ vận mạng của mình, thông qua sự tu luyện thiền định và yoga, con người có thể nâng cao định lực, tâm lực và linh lực của mình; nhờ đó con người có thể tách rời cảm thể khỏi thể xác để khỏi chịu sự đau đớn của xác thân khi bệnh tật hay tai nạn.
Con người có thể du hành khắp mọi nơi qua kỷ thuật Remote viewing, xuất thần ngao du; con người có thể nói chuyện với nhau qua kỷ thuật truyền âm nhập mật, tha tâm thông; con người có thể dùng thuật khinh thân Lunggom để thâu ngắn con đường thiên lý; sống trong băng giá mà không bị lạnh qua kỷ thuật nội hỏa Tumo; con người có thể tự giải thoát thân tâm qua sự thăng hoa và chế ngự sự loạn động các thể xác, vía, trí ..
Một nền văn hóa mới sẽ dần dần được hình thành, và sẽ giúp đở nhân loại sống hài hòa và hạnh phúc hơn, với đà tiến bộ với tốc độ ánh sáng của khoa học kỷ thuật quy ước và không quy ước của kỷ nguyên Bảo Bình đầy hoa và ánh sáng này.
ÁNH SÁNG T2
#114
Gửi vào 21/06/2011 - 03:19
THIỆN ÁC VÀ THẦN THÔNG
Thiện ác giai thiên lý. Đạo không có chánh tà. Đạo là một khoa học cao cấp; Chánh Tà do Tâm con người xữ dụng nó mà làm thành ra chính tà. Do đó xã hội ngày nay chánh tà lẩn lộn, kẻ có thế lực đè đầu cưởi cổ người khác để trục lợi mà luật pháp không trừng trị, thì tại sao người hiền đức không có khả năng để cứu họ, là một người đạo đức chẳng lẻ cứ than như thế mải thì cuộc đời sẽ tươi đẹp ư.
Những người ác chẳng những họ có khả năng tự bảo vệ cho bản thân gia đình của họ, mà họ lại còn dư thừa khả năng để làm hại người khác; còn những người hiền đức tối ngày cứ bô bô cho mình là chánh đạo là chân chính. Khi gặp kẻ ác đến hảm hại thì nhẩn nhục nhút nhát, mà lại còn cảm ơn kẻ ác đến cướp đi sinh mạng quý báu của mình và bảo rằng nhờ có họ nên đã giúp mình được trả nợ trần, được tiêu diêu nơi miền cực lạc và đạt đến niết bàn tịch tịnh.
Điều nầy không đúng theo tinh thần Bi-Trí-Dủng. Người đời chỉ có Bi vì họ có lòng thương người bị bùa ngải hại, họ lại có Dủng vì họ dám đánh phèn la, la bài hải có thầy ngải hại người....việc này ai cũng thấy và biết rỏ. Bùa, Ngải, Thư, Phù, Ếm, Đối, Thần Thông, Huyền năng, Pháp Thuật....là những khoa học cao cấp; Chính quyền của tất cả các nước trên thế giới đều có thiết lập những trung tâm nghiên cứu từ lâu, cũng như đã từng áp dụng trong những trận chiến quan trọng hay những chiến lược bí mật.
Những ứng dụng về vũ khí hóa học, vi trùng, vũ khí sinh học...mà ta có thể dùng nhục nhản và ngũ quan để thấy được là vũ khí đã được tinh chế hóa và phát triển rút ra được từ Ngải, Thư, Ếm.. Những vũ khí về hạ âm và trường sinh học là kết quả tinh hoa được rút ra từ bùa chú, huyền năng và ngoại cảm. Những vấn đề nầy thuộc bí mật quốc phòng của các nước, không có phổ biến cho những người không có trách nhiệm và những người thường dân, nếu có thì chỉ là vô số tài liệu được tung ra, để đánh lừa và đánh sai hướng tiến lên của những người đạo đức mà thôi, như khuyên người ta nên hiền lành đạo đức là đủ rồi.
Đừng ham quyền năng thần thông vì nó sẽ cản trở con đường tu tập, cứ lo tu hành đạo đức đi thì thần thông tự nhiên sẽ đến vậy, cũng như là ta trồng hạt cải sẽ thu hoạch được hạt gạo, trồng hạt đậu sẽ ra cây cam vậy...Thiện tai, thiện tai, nhân quả nhản tiền, đã có biết bao nhiêu người đã bị luật nhân quả chi phối là:
NGƯỜI LÀNH CHẾT YỂU, KẺ ÁC SỐNG DAI, CỎI ĐỜI Ô TRỌC, ĐỪNG TRANH DÀNH LÀM GÌ, HẢY BỎ LẠI TẤT CẢ VẬT CHẤT TIỀN TÀI LẠI CHO NGƯỜI ÁC ĐI, THÌ CON SẼ ĐƯỢC HƯỞNG ĐẦY ĐỦ NƠI THIÊN ĐÀNG CON Ạ... HẢY KỆ HỌ CON Ạ, HẢY ĐỂ CHO NGƯỜI ÁC HỌ ĂN CƯỚP CỦA CON ĐI, VÌ THÓI ĐỜI ĐÃ CÓ NÓI: ĂN ÍT NO DAI, ĂN NHIỀU NO DỮ...MÀ.
Những điều nêu trên là do những người ác trêu chọc người hiền đức; người ác rất thích họ được như thế. Trong thế giới Huyền học không đơn giản như chúng ta nghĩ. Huyền bí học tự nó là một khoa học của kinh nghiệm tích trữ, mà nhân loại đã có được và lưu truyền từ xa xưa đến nay, nếu ai cố công tìm tòi học hỏi thì sẽ thành công.
Vì là khoa học huyền bí cũng như khoa học tự nhiên hay một khoa học quy ước, cũng như không quy ước nào khác tự bản chất của nó là không có chính trị, đạo đức và thiện ác xen vào. Nếu ta tập đúng hành đúng đủ hỏa hầu, định lực vững, tâm lực mạnh, theo đúng mục tiêu chỉ dẩn thì sự huyền diệu sẽ xảy ra.
Cũng như theo đúng công thức của thuật luyện kim, ngoại đơn hay nội đơn hay pháp thuật, bạn có được công thức gia truyền nếu có đủ các hóa chất hay dược vật, thì ta củng có thể làm lay chuyển càn khôn và chuyển ngược tình thế đấy; và khoa học này vào tay người ác thì sẽ thành ác quỷ hại người, khoa học nầy vào tay người đạo đức thì sẽ thành Tiên Phật mà cứu khổ sanh linh.
DO ĐÓ ĐẠO ĐỨC LÀ ĐẠO ĐỨC, THẦN THÔNG LÀ THẦN THÔNG, KHÔNG CÓ VIỆC LO TU HÀNH ĐẠO ĐỨC MÀ SẼ CÓ THẦN THÔNG, CŨNG NHƯ KHÔNG THỂ NGỒI MÀI HOÀI MỘT MIẾNG NGÓI MÀ CÓ THỂ LÀM THÀNH GƯƠNG SOI MẶT ĐƯỢC; NGƯỢC LẠI KHÔNG THỂ CHỈ LO TRAU GIỒI THẦN THÔNG THÌ SẼ PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC ĐƯỢC.
Mà người đạo đức song song với việc trau giồi đạo đức thì cũng lo trau giồi những quyền năng còn ẩn tàng trong cơ thể của con người, có như vậy BI-TRÍ-DỦNG được phát triển thăng bằng, thì việc cứu nhân độ thế mới nằm trong khả năng đạo đức chân chính của mình được, chứ không nên ỷ lại Trời Phật mà tự mình trói mình lại, tự dâng sinh mạng của mình cho kẻ ác và kẻ ác thích lắm chứ....
Hảy tự nghĩ xem khi kẻ ác dùng cường quyền để trục lợi người khác, mà chính quyền đương thời còn bênh vực và bảo vệ họ, thì lúc đó người đạo đức liền dùng thần thông của mình để cứu người hiền đức thì tốt biết chừng nào, khi cứu được người rồi mà quỷ thần còn chưa biết được còn nói chi kẻ ác. Nếu làm được như thế nhiều lần và mọi người đều làm được như vậy, chắc sẽ không có ai làm ác nữa vì mới suy nghĩ ác từ đầu óc, thì liền bị phát giác ra rồi thì còn đâu mà hại người khác nữa.
DO ĐÓ TẬP LUYỆN THẦN THÔNG KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ ĐẶC QUYỀN CỦA KẺ ÁC, MÀ NÓ CŨNG LÀ QUYỀN ƯU TIÊN ĐỂ CHO NGƯỜI ĐẠO ĐỨC, NHANH CHÂN LÊN KẺO TRỂ, NẾU VÌ LÝ DO VÔ MINH HOẶC NGHE THEO TÀ TRÁI, THÌ CỨ NIỆM PHẬT MÀ CẦU VẢNG SINH CHO NHAU VẬY. THIÊN ĐÀNG VÀ NIẾT BÀN CHỈ DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI CÓ TRÍ TUỆ BÁT NHÃ, KHÔN NGOAN NHƯ RỒNG VÀ HIỀN NHƯ BỒ CÂU HÒA BÌNH VẬY.
Bùa ngải cũng như những pháp thuật khác, đã được lưu truyền từ xưa đến nay nếu nó không có giá trị thì nó đã bị chìm vào quên lảng từ lâu, không còn ai nhắc tới nó nữa. Trong xã hội cận đại người ta chỉ sợ hải bùa ngải từ những ông thầy bùa tả phái; nhưng người ta không biết bùa ngải cũng giúp người rất nhiều của những ông thầy bùa thuộc các phái Lổ Ban Thần, hay những Cao Tăng đắc đạo.
Con người sợ hải khi nói tới nó nhưng lại thích nghe hoặc tìm hiểu nó, cũng như người sợ ma mà lại thích nghe người ta kể chuyện ma. Trong thời kháng chiến chống Nhật tại Đông Dương có những người kháng chiến dùng bùa ngải, phương thuật và khả năng ngoại cảm để chống giặc làm cho bọn Nhật điêu đứng trước đối thủ vô hình này.
Và Nhật cũng là một quốc gia nghiên cứu nhiều về Mật Tông Đạo gia và Thần đạo một cách nghiêm túc, họ gạt ra ngoài những hào quang mờ ảo và thần bí của kinh điển trong các tôn giáo và Du già Fakir; nên họ đã biết rằng những hiện tượng kỳ lạ và ma quỷ hiện ra quấy nhiểu toàn là do những người kháng chiến Nhật gây ra; nên họ đã ra lệnh tàn sát toàn bộ cư dân tại vùng đó; kể từ đó không còn những hiện tượng kỳ quái xảy ra để quấy nhiểu hay sát hại binh lính Nhật nữa.
Trong thời kỳ chiến tranh Đông dương các binh lính Tây Phương tràn vào đền thờ để tàn phá các tượng thờ trong nhà thờ, chùa chiền, họ tưởng rằng làm như thế sẻ tiêu diệt và làm khiếp đảm dân Đông Dương, gây cho họ hoang mang không còn nơi nương tựa của tinh thần nữa; nhưng họ đâu có biết rằng nền huyền học đông phương quá cao, không thể nào tiêu diệt được, vì những đàn tràng hay hình tượng của chư Phật và Chúa đã in sâu vào tâm hồn của người dân đông phương.
Họ đi đến nơi nào đến lúc họ cần cầu nguyện thì họ chỉ cần ngồi xuống, lưng dựa vào thân cây nhắm mắt lại, là khung cảnh của nhà thờ hay đàn tràng của bổn tôn hay hình Đức Phật đã HIỆN NGAY RA TRONG TÂM NHẢN CỦA HỌ, VÀ HỌ ĐƯỢC TỰ DO MÀ CẦU NGUYỆN, NÊN NỀN HUYỀN HỌC ĐÔNG PHƯƠNG NHỜ ĐÓ MÀ TỒN TẠI.
Như việc tại một đền thờ một vị Thần tại miền nam Việt Nam, ngay trước khoảng trống trước tượng thờ có bản thông báo, vì sự thiêng liêng của vị Thần nà̀y xin mọi người đừng bước vào vùng trên, mà chỉ nên đứng ngoài phạm vi cho phép mà chiêm nghiệm mà thôi. Có một dịp nọ một người lính Tây đi vào và bất kể lời can ngăn của mọi người, người lính Tây này mới vừa kéo bứt dây bước vào chổ cấm, mặt mày hung hăng mà cười cợt bất kính đối với vị Thần trên kia, chỉ trong hai phút thất khiếu của người này liền bị ra máu, miệng ói ra nhiều máu và chết liền tại chổ.
Như vậy có phải sự linh ứng của vị Thần kia hay không, việc này thì kính xin Thần Thánh trả lời. Còn chuyện ở trần thế thì thế này, vốn là người phác họa và tạo ra ngôi đền thờ này, đã có dự đoán sẳn để trừng phạt cho những người phá hoại hoặc đến gây sự, người này trước đó đã giấu sẳn một loại bột thuốc độc cực độc không mùi vị ở bên trên xà ngang trên đầu phía trước tượng Thần, và sợi dây được nối liền với sợi dây kéo ngang ngăn cấm mọi người không cho bước vào phạm vi ngăn cấm.
Cơ quan bài trí này chỉ có người phác họa sơ đồ và người giữ đền biết được mà thôi. Do đó khi người lính Tây nầy xông xáo bứt dây và bước vào trong phòng, đã vô tình đưa mình vào phạm vi của bột độc vừa được anh ta đã kéo tung vào không khí nên chỉ trong vài phút anh ta liền bị ngộ độc nặng và chết ngay lập tức. Rồi từ đó tiếng dử đồn xa, sự linh thiêng được xác định thêm lần nữa, nên từ đó uy danh của vị Thần nầy càng được mọi người cho là linh hiển, giúp ích được cho nền đạo đức của dân chúng và duy trì phong tục của xả hội.
Trong thời kỳ cách mạng ở Trung Hoa, các thầy bói, thầy bùa ngải đều được chính quyền ân xá cho tự kiểm, phải viết ra tất cả bí mật nhà nghề của họ, nên trong thời gian hơn mười năm trở lại đây, những tài liều nầy được chính quyền Trung Hoa phổ biến rộng rải trong quần chúng qua sách vở bày bán tự do, hoặc cho phép các thầy bùa ngải có quyền mở lớp dạy nghề, dùng bùa ngải để trị bệnh, giúp người..
Đương nhiên là có người ác họ học xong đi hại người cũng có, chính quyền rất cởi mở, vì khả năng của đã họ có thể kiểm soát các việc này một cách dể dàng, vì các chuyên gia về các khoa huyền học nầy đều đã phục vụ trung thành cho lợi ích của dân tộc và nhà nước của họ cả rồi.
Cũng như tại Hoa kỳ là nơi bạn có thể, nếu có tiền bạn cũng có thể tìm học quyền năng để trở thành giáo chủ chánh phái hay trở thành ác quỷ Satan cũng rất dể dàng, cũng tương tự như vậy, vì Hoa Kỳ cũng đã từ lâu biết và rành về các khoa huyền học nầy rồi, nên họ cũng cho tự do vì họ có thừa khả năng kiểm soát, nên ở các nước có nền kỷ thuật và huyền học cao, mổi năm đều có những hội chợ tâm linh như: Spychics fair Body, Spirit, Mind Festival, Witch Festival...
Ngoài ra ở các nước này đều có vô số viện bảo tàng huyền bí học, viện bảo tàng phù thủy và những tiệm bán sách chuyên môn về huyền bí học, Phù Thủy, Bùa Ếm...Trong đó có rất nhiều tài liệu quý giá được lọt ra từ trong những trường bí giáo, từ những người đã học qua hoặc bỏ môn phái ra ngoài lập môn phái riêng theo chí hướng của họ, cho ít gò bó ít giáo điều hơn và những pháp chỉ dẩn rất dể hiểu dể thực hành, chỉ cần bạn có một số kiến thức căn bản sau một thời gian tìm hiểu học hỏi, là bạn có thể lảnh hội một cách dể dàng.
Không như các phương pháp lề mề lạc hậu, hiện nay được truyền dạy trong các tôn giáo hiển giáo quy ước xả hội. Cũng như một số thầy bùa ngải hay thầy bói, khi họ đã có niềm tin về Chúa thì họ không hành nghề bùa ngải và thầy bói nữa và họ cũng đã viết sách để kể ra những bí mật nhà nghề cho mọi người biết, thí dụ như những bí mật của giới bói toán ở thế giới người Hoa là GIANG TƯỚNG PHÁI CÙNG NHỮNG PHÁP THUẬT CỦA NÓ ở thời Dân Quốc và còn bí mật lưu truyền đến nay.
Ngày nay với nền khoa học kỷ thuật cùng tin học tiến bộ, những pháp thuật lợi dụng các chất hóa học cùng pháp thuật thuộc ảo thuật, ảo giác đã bị đào thải trong vòng một trăm năm qua, hay những chất hoá học hay những chất thuốc này đã bị chính quyền cấm bán cho công chúng, nhưng lại vô hiệu đối với các thầy chuyên môn vì họ biết cách bào chế các chất nầy qua vật liệu thiên nhiên, hay qua các công nghệ phẩm dùng thường ngày.
Tuy nhiên khoa học chỉ là một đứa trẻ đối với nền huyền học bao la chân chính của nhân loại. Dù sao đi nữa cho dù khoa học có tiến bộ đến đâu đi nữa, thì con người cũng là một khâu chính trong việc quyết định quan trọng. Nước nào sớm thành công và phát triển mạnh khoa học nhân thể trước thì nước đó sẽ trở thành cường quốc.
Kỷ nguyên của trí xảo đã qua; Kỷ nguyên này là Kỷ nguyên của Trực giác và Tâm linh, cầu mong con người được thoát gông cùm của vô minh, để có thể hưởng thụ những lợi ích của cuộc sống của vật chất và tung mình thoát khỏi sự níu kéo của địa từ, để có thể sống an vui hài hòa trong hai cỏi Tinh Thần và Vật Chất, đúng theo sự cấu tạo có ý nghĩa khi Tạo Hóa đã nên con người.
TRI THỨC VÀ TUỆ GIÁC LÀ ÁNH SÁNG XUA TAN VÔ MINH VÀ SỢ HẢI.
CON NGƯỜI KHÔNG THỂ CHỐNG LẠI TẠO HOÁ MÀ CHỈ CÓ THỂ HỢP TÁC VỚI TẠO HOÁ MÀ THÔI.
KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ CON NGƯỜI.
MÀ KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI LÀ VÔ MINH-NGHÈO ĐÓI-BỆNH TẬT-THIÊN TAI VÀ CHIẾN TRANH.
NÓ ĐÃ CUỐN TRÔI ĐI BAO NHIÊU TÂM HUYẾT VÀ TRÍ TUỆ CỦA TIỀN NHÂN.
MÀ ĐÀN CON CỦA HỌ NGÀY QUA CÒN NGỤP LẶN ĐỂ TÌM VỀ NGUỒN SÁNG VÀ GIA TÀI Ấ.
VÀ HIỆN NAY ĐÀN CON ẤY ĐÃ TÌM ĐƯỢC NGUỒN SÁNG CÙNG GIA TÀI NÀY VÀ ĐANG BỒI ĐẮP
ĐỂ NÓ THÊM PHONG PHÚ VÀ LUÔN RẠNG NGỜI MẢI MẢI.
SUNG SƯỚNG VÀ HẠNH PHÚC THAY, TA ĐƯỢC SINH RA LÀM NGƯỜI VÀ TA LÀ VẠN VẬT CHI
LINH ĐỂ SỐNG HÀI HÒA CÙNG VẠN HỮU.
THIÊN ĐÀNG VÀ NIẾT BÀN LÀ Ở TẠI NƠI TRẦN THẾ NÀY, VÌ CÁC CỎI NẰM CHỒNG LÊN NHAU THEO KHÔNG GIAN NHIỀU CHIỀU ĐO, CÓ ĐIỀU LÀ TA CHỊU MỞ TÂM NHẢN RA HAY KHÔNG VẬY. NẾU MUỐN, TA HẢY CÙNG NHAU SÁNH BƯỚC, ĐỒNG TIẾN LÊN CÁC BẠN...
HUYỀN MÔN
Thiện ác giai thiên lý. Đạo không có chánh tà. Đạo là một khoa học cao cấp; Chánh Tà do Tâm con người xữ dụng nó mà làm thành ra chính tà. Do đó xã hội ngày nay chánh tà lẩn lộn, kẻ có thế lực đè đầu cưởi cổ người khác để trục lợi mà luật pháp không trừng trị, thì tại sao người hiền đức không có khả năng để cứu họ, là một người đạo đức chẳng lẻ cứ than như thế mải thì cuộc đời sẽ tươi đẹp ư.
Những người ác chẳng những họ có khả năng tự bảo vệ cho bản thân gia đình của họ, mà họ lại còn dư thừa khả năng để làm hại người khác; còn những người hiền đức tối ngày cứ bô bô cho mình là chánh đạo là chân chính. Khi gặp kẻ ác đến hảm hại thì nhẩn nhục nhút nhát, mà lại còn cảm ơn kẻ ác đến cướp đi sinh mạng quý báu của mình và bảo rằng nhờ có họ nên đã giúp mình được trả nợ trần, được tiêu diêu nơi miền cực lạc và đạt đến niết bàn tịch tịnh.
Điều nầy không đúng theo tinh thần Bi-Trí-Dủng. Người đời chỉ có Bi vì họ có lòng thương người bị bùa ngải hại, họ lại có Dủng vì họ dám đánh phèn la, la bài hải có thầy ngải hại người....việc này ai cũng thấy và biết rỏ. Bùa, Ngải, Thư, Phù, Ếm, Đối, Thần Thông, Huyền năng, Pháp Thuật....là những khoa học cao cấp; Chính quyền của tất cả các nước trên thế giới đều có thiết lập những trung tâm nghiên cứu từ lâu, cũng như đã từng áp dụng trong những trận chiến quan trọng hay những chiến lược bí mật.
Những ứng dụng về vũ khí hóa học, vi trùng, vũ khí sinh học...mà ta có thể dùng nhục nhản và ngũ quan để thấy được là vũ khí đã được tinh chế hóa và phát triển rút ra được từ Ngải, Thư, Ếm.. Những vũ khí về hạ âm và trường sinh học là kết quả tinh hoa được rút ra từ bùa chú, huyền năng và ngoại cảm. Những vấn đề nầy thuộc bí mật quốc phòng của các nước, không có phổ biến cho những người không có trách nhiệm và những người thường dân, nếu có thì chỉ là vô số tài liệu được tung ra, để đánh lừa và đánh sai hướng tiến lên của những người đạo đức mà thôi, như khuyên người ta nên hiền lành đạo đức là đủ rồi.
Đừng ham quyền năng thần thông vì nó sẽ cản trở con đường tu tập, cứ lo tu hành đạo đức đi thì thần thông tự nhiên sẽ đến vậy, cũng như là ta trồng hạt cải sẽ thu hoạch được hạt gạo, trồng hạt đậu sẽ ra cây cam vậy...Thiện tai, thiện tai, nhân quả nhản tiền, đã có biết bao nhiêu người đã bị luật nhân quả chi phối là:
NGƯỜI LÀNH CHẾT YỂU, KẺ ÁC SỐNG DAI, CỎI ĐỜI Ô TRỌC, ĐỪNG TRANH DÀNH LÀM GÌ, HẢY BỎ LẠI TẤT CẢ VẬT CHẤT TIỀN TÀI LẠI CHO NGƯỜI ÁC ĐI, THÌ CON SẼ ĐƯỢC HƯỞNG ĐẦY ĐỦ NƠI THIÊN ĐÀNG CON Ạ... HẢY KỆ HỌ CON Ạ, HẢY ĐỂ CHO NGƯỜI ÁC HỌ ĂN CƯỚP CỦA CON ĐI, VÌ THÓI ĐỜI ĐÃ CÓ NÓI: ĂN ÍT NO DAI, ĂN NHIỀU NO DỮ...MÀ.
Những điều nêu trên là do những người ác trêu chọc người hiền đức; người ác rất thích họ được như thế. Trong thế giới Huyền học không đơn giản như chúng ta nghĩ. Huyền bí học tự nó là một khoa học của kinh nghiệm tích trữ, mà nhân loại đã có được và lưu truyền từ xa xưa đến nay, nếu ai cố công tìm tòi học hỏi thì sẽ thành công.
Vì là khoa học huyền bí cũng như khoa học tự nhiên hay một khoa học quy ước, cũng như không quy ước nào khác tự bản chất của nó là không có chính trị, đạo đức và thiện ác xen vào. Nếu ta tập đúng hành đúng đủ hỏa hầu, định lực vững, tâm lực mạnh, theo đúng mục tiêu chỉ dẩn thì sự huyền diệu sẽ xảy ra.
Cũng như theo đúng công thức của thuật luyện kim, ngoại đơn hay nội đơn hay pháp thuật, bạn có được công thức gia truyền nếu có đủ các hóa chất hay dược vật, thì ta củng có thể làm lay chuyển càn khôn và chuyển ngược tình thế đấy; và khoa học này vào tay người ác thì sẽ thành ác quỷ hại người, khoa học nầy vào tay người đạo đức thì sẽ thành Tiên Phật mà cứu khổ sanh linh.
DO ĐÓ ĐẠO ĐỨC LÀ ĐẠO ĐỨC, THẦN THÔNG LÀ THẦN THÔNG, KHÔNG CÓ VIỆC LO TU HÀNH ĐẠO ĐỨC MÀ SẼ CÓ THẦN THÔNG, CŨNG NHƯ KHÔNG THỂ NGỒI MÀI HOÀI MỘT MIẾNG NGÓI MÀ CÓ THỂ LÀM THÀNH GƯƠNG SOI MẶT ĐƯỢC; NGƯỢC LẠI KHÔNG THỂ CHỈ LO TRAU GIỒI THẦN THÔNG THÌ SẼ PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC ĐƯỢC.
Mà người đạo đức song song với việc trau giồi đạo đức thì cũng lo trau giồi những quyền năng còn ẩn tàng trong cơ thể của con người, có như vậy BI-TRÍ-DỦNG được phát triển thăng bằng, thì việc cứu nhân độ thế mới nằm trong khả năng đạo đức chân chính của mình được, chứ không nên ỷ lại Trời Phật mà tự mình trói mình lại, tự dâng sinh mạng của mình cho kẻ ác và kẻ ác thích lắm chứ....
Hảy tự nghĩ xem khi kẻ ác dùng cường quyền để trục lợi người khác, mà chính quyền đương thời còn bênh vực và bảo vệ họ, thì lúc đó người đạo đức liền dùng thần thông của mình để cứu người hiền đức thì tốt biết chừng nào, khi cứu được người rồi mà quỷ thần còn chưa biết được còn nói chi kẻ ác. Nếu làm được như thế nhiều lần và mọi người đều làm được như vậy, chắc sẽ không có ai làm ác nữa vì mới suy nghĩ ác từ đầu óc, thì liền bị phát giác ra rồi thì còn đâu mà hại người khác nữa.
DO ĐÓ TẬP LUYỆN THẦN THÔNG KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ ĐẶC QUYỀN CỦA KẺ ÁC, MÀ NÓ CŨNG LÀ QUYỀN ƯU TIÊN ĐỂ CHO NGƯỜI ĐẠO ĐỨC, NHANH CHÂN LÊN KẺO TRỂ, NẾU VÌ LÝ DO VÔ MINH HOẶC NGHE THEO TÀ TRÁI, THÌ CỨ NIỆM PHẬT MÀ CẦU VẢNG SINH CHO NHAU VẬY. THIÊN ĐÀNG VÀ NIẾT BÀN CHỈ DÀNH CHO NHỮNG NGƯỜI CÓ TRÍ TUỆ BÁT NHÃ, KHÔN NGOAN NHƯ RỒNG VÀ HIỀN NHƯ BỒ CÂU HÒA BÌNH VẬY.
Bùa ngải cũng như những pháp thuật khác, đã được lưu truyền từ xưa đến nay nếu nó không có giá trị thì nó đã bị chìm vào quên lảng từ lâu, không còn ai nhắc tới nó nữa. Trong xã hội cận đại người ta chỉ sợ hải bùa ngải từ những ông thầy bùa tả phái; nhưng người ta không biết bùa ngải cũng giúp người rất nhiều của những ông thầy bùa thuộc các phái Lổ Ban Thần, hay những Cao Tăng đắc đạo.
Con người sợ hải khi nói tới nó nhưng lại thích nghe hoặc tìm hiểu nó, cũng như người sợ ma mà lại thích nghe người ta kể chuyện ma. Trong thời kháng chiến chống Nhật tại Đông Dương có những người kháng chiến dùng bùa ngải, phương thuật và khả năng ngoại cảm để chống giặc làm cho bọn Nhật điêu đứng trước đối thủ vô hình này.
Và Nhật cũng là một quốc gia nghiên cứu nhiều về Mật Tông Đạo gia và Thần đạo một cách nghiêm túc, họ gạt ra ngoài những hào quang mờ ảo và thần bí của kinh điển trong các tôn giáo và Du già Fakir; nên họ đã biết rằng những hiện tượng kỳ lạ và ma quỷ hiện ra quấy nhiểu toàn là do những người kháng chiến Nhật gây ra; nên họ đã ra lệnh tàn sát toàn bộ cư dân tại vùng đó; kể từ đó không còn những hiện tượng kỳ quái xảy ra để quấy nhiểu hay sát hại binh lính Nhật nữa.
Trong thời kỳ chiến tranh Đông dương các binh lính Tây Phương tràn vào đền thờ để tàn phá các tượng thờ trong nhà thờ, chùa chiền, họ tưởng rằng làm như thế sẻ tiêu diệt và làm khiếp đảm dân Đông Dương, gây cho họ hoang mang không còn nơi nương tựa của tinh thần nữa; nhưng họ đâu có biết rằng nền huyền học đông phương quá cao, không thể nào tiêu diệt được, vì những đàn tràng hay hình tượng của chư Phật và Chúa đã in sâu vào tâm hồn của người dân đông phương.
Họ đi đến nơi nào đến lúc họ cần cầu nguyện thì họ chỉ cần ngồi xuống, lưng dựa vào thân cây nhắm mắt lại, là khung cảnh của nhà thờ hay đàn tràng của bổn tôn hay hình Đức Phật đã HIỆN NGAY RA TRONG TÂM NHẢN CỦA HỌ, VÀ HỌ ĐƯỢC TỰ DO MÀ CẦU NGUYỆN, NÊN NỀN HUYỀN HỌC ĐÔNG PHƯƠNG NHỜ ĐÓ MÀ TỒN TẠI.
Như việc tại một đền thờ một vị Thần tại miền nam Việt Nam, ngay trước khoảng trống trước tượng thờ có bản thông báo, vì sự thiêng liêng của vị Thần nà̀y xin mọi người đừng bước vào vùng trên, mà chỉ nên đứng ngoài phạm vi cho phép mà chiêm nghiệm mà thôi. Có một dịp nọ một người lính Tây đi vào và bất kể lời can ngăn của mọi người, người lính Tây này mới vừa kéo bứt dây bước vào chổ cấm, mặt mày hung hăng mà cười cợt bất kính đối với vị Thần trên kia, chỉ trong hai phút thất khiếu của người này liền bị ra máu, miệng ói ra nhiều máu và chết liền tại chổ.
Như vậy có phải sự linh ứng của vị Thần kia hay không, việc này thì kính xin Thần Thánh trả lời. Còn chuyện ở trần thế thì thế này, vốn là người phác họa và tạo ra ngôi đền thờ này, đã có dự đoán sẳn để trừng phạt cho những người phá hoại hoặc đến gây sự, người này trước đó đã giấu sẳn một loại bột thuốc độc cực độc không mùi vị ở bên trên xà ngang trên đầu phía trước tượng Thần, và sợi dây được nối liền với sợi dây kéo ngang ngăn cấm mọi người không cho bước vào phạm vi ngăn cấm.
Cơ quan bài trí này chỉ có người phác họa sơ đồ và người giữ đền biết được mà thôi. Do đó khi người lính Tây nầy xông xáo bứt dây và bước vào trong phòng, đã vô tình đưa mình vào phạm vi của bột độc vừa được anh ta đã kéo tung vào không khí nên chỉ trong vài phút anh ta liền bị ngộ độc nặng và chết ngay lập tức. Rồi từ đó tiếng dử đồn xa, sự linh thiêng được xác định thêm lần nữa, nên từ đó uy danh của vị Thần nầy càng được mọi người cho là linh hiển, giúp ích được cho nền đạo đức của dân chúng và duy trì phong tục của xả hội.
Trong thời kỳ cách mạng ở Trung Hoa, các thầy bói, thầy bùa ngải đều được chính quyền ân xá cho tự kiểm, phải viết ra tất cả bí mật nhà nghề của họ, nên trong thời gian hơn mười năm trở lại đây, những tài liều nầy được chính quyền Trung Hoa phổ biến rộng rải trong quần chúng qua sách vở bày bán tự do, hoặc cho phép các thầy bùa ngải có quyền mở lớp dạy nghề, dùng bùa ngải để trị bệnh, giúp người..
Đương nhiên là có người ác họ học xong đi hại người cũng có, chính quyền rất cởi mở, vì khả năng của đã họ có thể kiểm soát các việc này một cách dể dàng, vì các chuyên gia về các khoa huyền học nầy đều đã phục vụ trung thành cho lợi ích của dân tộc và nhà nước của họ cả rồi.
Cũng như tại Hoa kỳ là nơi bạn có thể, nếu có tiền bạn cũng có thể tìm học quyền năng để trở thành giáo chủ chánh phái hay trở thành ác quỷ Satan cũng rất dể dàng, cũng tương tự như vậy, vì Hoa Kỳ cũng đã từ lâu biết và rành về các khoa huyền học nầy rồi, nên họ cũng cho tự do vì họ có thừa khả năng kiểm soát, nên ở các nước có nền kỷ thuật và huyền học cao, mổi năm đều có những hội chợ tâm linh như: Spychics fair Body, Spirit, Mind Festival, Witch Festival...
Ngoài ra ở các nước này đều có vô số viện bảo tàng huyền bí học, viện bảo tàng phù thủy và những tiệm bán sách chuyên môn về huyền bí học, Phù Thủy, Bùa Ếm...Trong đó có rất nhiều tài liệu quý giá được lọt ra từ trong những trường bí giáo, từ những người đã học qua hoặc bỏ môn phái ra ngoài lập môn phái riêng theo chí hướng của họ, cho ít gò bó ít giáo điều hơn và những pháp chỉ dẩn rất dể hiểu dể thực hành, chỉ cần bạn có một số kiến thức căn bản sau một thời gian tìm hiểu học hỏi, là bạn có thể lảnh hội một cách dể dàng.
Không như các phương pháp lề mề lạc hậu, hiện nay được truyền dạy trong các tôn giáo hiển giáo quy ước xả hội. Cũng như một số thầy bùa ngải hay thầy bói, khi họ đã có niềm tin về Chúa thì họ không hành nghề bùa ngải và thầy bói nữa và họ cũng đã viết sách để kể ra những bí mật nhà nghề cho mọi người biết, thí dụ như những bí mật của giới bói toán ở thế giới người Hoa là GIANG TƯỚNG PHÁI CÙNG NHỮNG PHÁP THUẬT CỦA NÓ ở thời Dân Quốc và còn bí mật lưu truyền đến nay.
Ngày nay với nền khoa học kỷ thuật cùng tin học tiến bộ, những pháp thuật lợi dụng các chất hóa học cùng pháp thuật thuộc ảo thuật, ảo giác đã bị đào thải trong vòng một trăm năm qua, hay những chất hoá học hay những chất thuốc này đã bị chính quyền cấm bán cho công chúng, nhưng lại vô hiệu đối với các thầy chuyên môn vì họ biết cách bào chế các chất nầy qua vật liệu thiên nhiên, hay qua các công nghệ phẩm dùng thường ngày.
Tuy nhiên khoa học chỉ là một đứa trẻ đối với nền huyền học bao la chân chính của nhân loại. Dù sao đi nữa cho dù khoa học có tiến bộ đến đâu đi nữa, thì con người cũng là một khâu chính trong việc quyết định quan trọng. Nước nào sớm thành công và phát triển mạnh khoa học nhân thể trước thì nước đó sẽ trở thành cường quốc.
Kỷ nguyên của trí xảo đã qua; Kỷ nguyên này là Kỷ nguyên của Trực giác và Tâm linh, cầu mong con người được thoát gông cùm của vô minh, để có thể hưởng thụ những lợi ích của cuộc sống của vật chất và tung mình thoát khỏi sự níu kéo của địa từ, để có thể sống an vui hài hòa trong hai cỏi Tinh Thần và Vật Chất, đúng theo sự cấu tạo có ý nghĩa khi Tạo Hóa đã nên con người.
TRI THỨC VÀ TUỆ GIÁC LÀ ÁNH SÁNG XUA TAN VÔ MINH VÀ SỢ HẢI.
CON NGƯỜI KHÔNG THỂ CHỐNG LẠI TẠO HOÁ MÀ CHỈ CÓ THỂ HỢP TÁC VỚI TẠO HOÁ MÀ THÔI.
KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI KHÔNG PHẢI LÀ CON NGƯỜI.
MÀ KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI LÀ VÔ MINH-NGHÈO ĐÓI-BỆNH TẬT-THIÊN TAI VÀ CHIẾN TRANH.
NÓ ĐÃ CUỐN TRÔI ĐI BAO NHIÊU TÂM HUYẾT VÀ TRÍ TUỆ CỦA TIỀN NHÂN.
MÀ ĐÀN CON CỦA HỌ NGÀY QUA CÒN NGỤP LẶN ĐỂ TÌM VỀ NGUỒN SÁNG VÀ GIA TÀI Ấ.
VÀ HIỆN NAY ĐÀN CON ẤY ĐÃ TÌM ĐƯỢC NGUỒN SÁNG CÙNG GIA TÀI NÀY VÀ ĐANG BỒI ĐẮP
ĐỂ NÓ THÊM PHONG PHÚ VÀ LUÔN RẠNG NGỜI MẢI MẢI.
SUNG SƯỚNG VÀ HẠNH PHÚC THAY, TA ĐƯỢC SINH RA LÀM NGƯỜI VÀ TA LÀ VẠN VẬT CHI
LINH ĐỂ SỐNG HÀI HÒA CÙNG VẠN HỮU.
THIÊN ĐÀNG VÀ NIẾT BÀN LÀ Ở TẠI NƠI TRẦN THẾ NÀY, VÌ CÁC CỎI NẰM CHỒNG LÊN NHAU THEO KHÔNG GIAN NHIỀU CHIỀU ĐO, CÓ ĐIỀU LÀ TA CHỊU MỞ TÂM NHẢN RA HAY KHÔNG VẬY. NẾU MUỐN, TA HẢY CÙNG NHAU SÁNH BƯỚC, ĐỒNG TIẾN LÊN CÁC BẠN...
HUYỀN MÔN
Thanked by 1 Member:
|
|
#115
Gửi vào 21/06/2011 - 04:17
BÍ ẨN TIỀM TÀNG BÊN TRONG CỦA HIỆN TƯỢNG QUỶ NHẬP TRÀNG
Rất có thể xung quanh chúng ta hoặc bất thần trong gia đình một ai đó đã gặp hiện tượng chết đi sống lại. Có thể đó là hiện tượng hồn của người chết tự tìm được về với thể xác của mình. Y học quen gọi là chết lâm sàng.
Thế nhưng chuyện quỷ nhập tràng lại là chuyện khác, tiềm ẩn bên trong nó sự khiếp đảm và kinh hãi của thế giới thần bí, mà đến tận bây giờ lý giải nó chỉ là điều nan giải mà thôi.
Tôi xin trích ngang câu chuyện mà tôi đã được bà ngoại kể từ hồi còn nhỏ, nhưng câu chuyện đó còn động lại trong tôi đến tận giờ. Người thầy của bà ngoại tôi, cụ học phép phù thủy của Khổng Minh và Quỷ Cốc tử.
Chính vì vậy mà những các huyền bí xung quanh đạo học cụ đều nắm rõ. Chỉ có điều riêng thuật bắt ma thì có lẽ cụ không cao tay. Điều này không phải là do đạo học của cụ kém mà do chính Thiên Can Địa Chi quyết định. Cụ tuổi Tý mệnh mộc nên cái uy, hay đúng hơn là cái khí sắc không thể đủ uy lực trừ tà sát quỷ.
Riêng Bà ngoại tôi-người học trò-người con nuôi duy nhất được cụ truyền hết bá học lại có cái uy đó. Bà tôi kể rằng có lần cụ nói với bà tôi rằng:
- Con có căn mệnh của cụ Ngộ Không (bà tôi tuổi thân mệnh Kiếm Phong Kim, thanh kiếm thần) vậy nên con có cái uy sát quỷ trừ ma, nhưng nhớ là cái nghề này nó bạc. Mình càng giúp dân độ thế được nhiều thì quỷ ma càng oán mình nhiều.
Và đây là câu chuyện của một lần bắt ma của bà ngoại tôi. Một buổi sáng sớm một người phụ nữ dắt một cô gái mặt mũi ngây dại đến gõ cửa nhà bà ngoại tôi. Nhìn sắc mặt ngây dại nhưng vẫn nhơn nhơn của cô gái, thì ai cũng bảo là nó bị điên rồi cho vào nhà thương điên kia đi.
Nhưng chỉ có người phụ nữ kia Mẹ của cô gái hiểu rõ là con bà ta bị ma nhập. Bởi theo lời bà ta kể thì cứ thỉnh thoảng con ma kia lại mượn lời của cô gái, và luôn mồm nói muốn lấy cô làm vợ.
Bà đã chữa trị nhiều nơi nhưng chỉ được lúc tức thời, còn về nhà đâu lại hoàn đấy. Mẹ tôi mở cửa cho hai mẹ con người kia vào trong nhà. Người con gái mặt còn nhơn nhơn nằng nặc đòi mẹ dẫn về, vừa bước qua cửa để vào nhà bà tôi, thì mặt chuyển sắc không dám nói năng, mà khuôn mặt cũng không còn vẻ ngây dại nữa, cô ta ngồi im không nói không rằng, không còn có biểu hiện điên loạn hò hét nữa.
Bà tôi cứ để hai mẹ con họ ngồi đấy, bà đi đánh răng rửa mặt xong, pha ấm trà rồi mời mẹ con họ uống. Người con gái lễ phép cầm cốc trà lên uống. Vừa uống xong thì chân tay cô gái co quắp lại và quỳ xuống than khóc:
- Con lạy thầy, thầy tha cho con. Con chỉ là bộ đội chết ở cây đa gần nhà Hoa (tên cô gái) con thương Hoa nên muốn lấy Hoa làm vợ chứ con đâu có muốn làm Hoa điên. Nhưng vì con mụ này (hắn chỉ vào mặt mẹ cô gái) lại mời thầy bà về bắt con, nên con điên con quyết làm Hoa điên để bắt Hoa làm vợ con. Thầy thương con...
Hóa ra sau này tôi mới biết là trong cốc nước trà bà tôi đưa cho cô gái đã được bà dùng Trú quyết trong đó (Trú đó là Trú trói ma) đồng thời bàn chân phải của bà luôn di trên sàn nhà như kiểu viết chữ gì đó để khoán tà ma. Bà tôi chậm rãi uống cốc trà và bảo với anh bộ đội kia:
- Ngươi chết kiểu gì?
- Con chết bom trong một trân. càn của địch.
- Thế ngươi có định đi đầu thai không?
- Con không thích đi đầu thai, con muốn sống với Hoa, anh bộ đội trả lời.
- Hai người một trần một âm mà lại còn đòi lấy nhau thì là loạn lẽ Trời. Không những Trời người không dung mà người còn bị đánh tan hồn vía vĩnh viễn không được nhìn thấy ánh mặt trời ở dưới ngục A tỳ thôi. Ngươi xem nếu ngươi yêu Hoa thì nỡ để cô ta chết cùng ngươi à, hay để cô ta ngớ ngẩn thế này mãi. Ngươi cũng có gia đình người thân. Gia đình ngươi đau khổ thế nào khi ngươi mất đi thì Mẹ Hoa, gia đình cô ta cũng vậy.
Người bộ độ cúi đầu lặng yên. Bà tôi dần không di chân phải nữa, người cô gái không còn bị co quắp nữa và tay chân được thoái mái hơn. Cô gái khóc giọt nước mắt của anh bộ đội. Hắn đã thấu hiểu và không còn muốn cái ước vọng lấy Hoa làm vợ nữa. Nhưng hắn đòi làm cho hắn một mâm cỗ, một hình nhân nữ giống Hoa, tiền bạc, thuyền để hắn còn đi đầu thai chịu tội. Mẹ cô gái ghi hết những lời hắn yêu cầu. Cuối cùng bà tôi nói với hắn rằng:
- Ngươi đã hiểu ra là tốt, nhưng đã hứa buông tha là phải buông tha. Người nhà Hoa sẽ làm theo đúng thỉnh cẩu của nhà ngươi để cho ngươi mau đi đầu thai chịu tội. Còn nếu mà ngoan cố lừa gạt thì lúc đấy ta dùng Phép trục hồn ngươi ra khỏi người Hoa để ngươi mãi không được siêu sinh. Ngươi nhớ đấy.
Và rồi bà tôi quơ ba nén hương trước mặt cô gái, cô ta giật mình và chạy tới ôm bà mẹ khóc nức nở sợ hãi. Người bộ đội đã thoát mệnh thể khỏi người cô. Bà tôi kéo mẹ cô gái vào phòng trong nhà, đưa cho bà ta năm đạo Dấu (Bùa của Đức Thánh Trần) và dặn là đeo trước cửa nhà hai lá, cô gái hai lá, một lá đốt cho cô gái uống. Bà tôi dặn rõ ràng như vậy bởi sợ rằng con ma kia bội tín.
Khoảng tháng sau, hai mẹ con cô gái đến nhà bà tôi tạ lễ bởi cô gái đã bình ổn. Nét mặt cô rạng rỡ hơn sau ba năm ngây dại. Sau này khi tôi đã được tám tuổi, bà đã không còn theo cái nghiệp bắt ma nữa, bởi vì bắt nhiều quá nên quỷ ma nó oán, và nó luôn theo để báo thù con cái cháu chắt của Bà ngoại tôi. Và Mẹ tôi cũng đã bị một lần ma nhập báo thù. Và sau lần chữa cho Mẹ tôi thì bà đã quỳ trước Điện tiền xin không theo nghiệp bắt ma nữa.
Câu chuyện quỷ nhập tràng của bà như sau: Ở nhà nọ, người vợ bị ốm đã lâu mà không thấy thuyên giảm. Người chồng hàng ngày vẫn bán hàng nước để nuôi vợ và kiếm kế sinh nhai. Có lần người vợ đột nhiên qua đời, người chồng đau khổ lắm mới để đến sáng hôm sau thì liệm. Không ngờ bốn tiếng sau khi tắt thở, người vợ đột nhiên bừng tỉnh và khỏe hơn bao giờ hết. Ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Người chồng thấy vợ sống lại thì mừng lắm và ông còn mừng hơn nữa khi bệnh tình của vợ cũng khỏi luôn.
Chỉ có điều là vợ ông từ lúc sống lại cả ngày chỉ ở trong phòng, ăn xong rồi trùm chăn mà rất sợ ánh sáng. Ông cũng thấy lạ nhưng nghĩ là chắc vợ mới khỏi bệnh nên mệt. Thấm thoát đã được ba tháng trôi qua, người vợ giờ đã bớt sợ ánh sáng hơn và sắc mặt trở nên sạm đen hơn nhưng đặc biệt là rất khỏe. Một buổi sáng nọ, có ông già dáng vẻ hành khất đến quán nước của người chồng uống nước (Đó là thầy của bà ngoại tôi). Cụ già này sắc mặt hồng hào nhưng bàn tay trái thì bị tật nên hơi khó cầm các thứ. Cụ ngồi lại nơi quán hàng nước của người chồng và nhâm nhi chén trà chát. Thỉnh thoảng lại thấy người chồng chạy vào trong phòng rồi lại chạy ra, rất tất bật như chăm con thơ vậy. Cụ già cất lời:
- Ta thấy bác vất vả quá nhỉ, nhà có người ốm à hay phải chăm sóc bà đẻ vậy.
- Dạ, không ạ. Nhà cháu đấy ạ. Nhà cháu vừa mới khỏi bệnh nên ăn nhiều lắm mà lạ là ăn không biết no a.
Người chồng vui vẻ đáp lời. Cụ già ngồi đó nhâm nhi mẩu ô mai mặn và đang định bước đi thì bất thần cụ nhìn thấy cái bát mà người chồng mang ra rửa, sau khi cho vợ ăn. Một vết xước dài đen ngòm hằn trên bát. Vết đen này chắc chỉ nhãn quang như cụ mới nhìn thấy được. Cụ giật mình và tim đập mạnh, trong đầu cụ hiện lên ba chữ QUỶ NHẬP TRÀNG. Cụ ngồi lại nơi quán nước để đợi người chồng ra tính tiền. Cụ lân la hỏi chuyện:
- Này Bác, cho tôi hỏi là bác gái nhà mình bệnh gì vậy mà ăn khỏe thế?
- Cụ ơi, nhà con khỏi rồi cụ ạ. Cũng may mắn lắm cơ, nhờ Trời nhờ Phật mà hóa rủi thành may. Ba tháng trước con tưởng là mất nhà con rồi cơ cụ ạ thế mà nhà con sống lại mà lại mạnh khoe mới mừng chứ cụ ạ!
- Được ba tháng rồi cơ à? Cụ già lộ vẻ lo sợ.
- Vâng, được tròn ba tháng rồi cụ ạ! Con giờ chỉ chăm sóc nhà con thôi cũng thấy vui. Người chồng đáp lời trong sự vui mừng khôn tả.
Kinh nghiệm và lòng nhân hậu của người Thầy đã thôi thúc cụ già phải cứu anh chồng và cả gia đình họ hàng anh ta. Nhưng giờ cứu như thế nào đây khi mà con quỷ nhập tràng kia đã được ba tháng rồi. Giờ nó tinh ranh và ma quái hơn nhiều. Xin cho tôi ngừng chuyện để giải thích QUỶ NHẬP TRÀNG là gì? quỷ nhập tràng là cụm từ mà trong giới phù thủy bắt ma gọi là hiện tượng, Khi một người mất đi thì hồn người đó sẽ bị hai ông quỷ sai(Chiêu Hồn Sứ) dẫn đi chịu tội.
Nhưng trong cái khoảnh khắc đó thì có một hồn ma khác lại nhẩy vào chiếm cái thể xác kia khi mà cái xác đó vẫn còn hơi ấm và sự sống, như kiểu sống ký sinh. Nhưng tai hại là do mượn xác nên không thể hòa nhập ngay với cái xác kia được, mà phải mất đúng ba tháng mười ngày, mới hoàn toàn điều khiển được cái xác mượn kia. Chỉ có điều là quỷ nhập tràng rất sợ ánh sáng, ăn rất khỏe và không biết no. Tai hại hơn là sau ba tháng mười ngày hắn sẽ đi tìm bằng hết họ hàng của cái xác mượn kia để ăn thịt.
Trở lại với câu chuyện của người chồng. Sau một hồi suy nghĩ khá lâu, cụ già kéo người chồng ra chỗ cách xa nhà của anh ta, rồi mới nói hết những cái mà cụ nhin thấy về gia cảnh hiện tại của anh. Anh thanh niên lạc quan cười bảo:
- Cụ ơi nhà con con biết, nhà con không bị quỷ nhập tràng đâu.
- Thế anh có thấy dạo này gà vịt hay lợn trong nhà anh bị mất con nào không?
- Cụ nói con mới nhớ, gần đấy con nuôi hai con lợn định đem bán thì hôm nọ mất một con, chả hiểu là bị ai bắt mà vào chuồng chỉ còn thấy vũng máu. Còn gà thì mất nhiều cụ ạ, con nghĩ chắc mấy đứa trẻ quanh xóm nó bắt chơi.
- Không đơn giản như anh nghĩ đâu. Đấy là quỷ Nhập tràng nó ăn đấy. Bởi vì đến tầm ba tháng là nó đã cứng lắm rồi, giờ nó thích máu tươi hơn. Anh phải nghe tôi để cứu anh và cả dòng họ anh nữa. Anh phải làm theo tôi thì mới mong thoát tai kiếp này.
- Vâng.. cụ dạy con... Người chồng đã bắt đầu run sợ thật sự.
- Giờ nó rất tinh ranh, không biết chừng giờ nó đã biết tôi gặp anh để bày trò bắt nó nên nó coi chừng đấy. Bởi nó đọc được suy nghĩ của anh. Giờ anh về là nó bắt anh nó cắn xé đấy. Chúng ta phải thu bát nó ngay đêm nay. Giờ anh làm đúng như tôi nhé, nếu không là cả tôi và anh cũng không thoát nổi nó đâu.
Ở đấy có bảy lá bùa Thái Thượng Lão Quân. Giờ anh kiếm cho tôi con gà sống và bảy cái bát sành. Anh dán bảy cái dấu này vào lòng bảy cái bát sành. Anh mang con gà và bảy cái bát đã dán dấu trèo lên mái nhà anh, chỗ có phòng ngủ mà con Quỷ Nhập Tràng ở, ném con gà xuống trước, đợi cho nó ăn xong con gà thì lần lượt ném bảy cái bát xuống. Tôi sẽ ở ngoài Trấn Huyệt hộ anh. Anh đi làm ngay đi.
Người chồng đi làm đúng theo lời cụ già dặn. Anh nhẹ nhàng trèo lên nóc nhà, lấy miếng ngói đỏ ra và ném con gà xuống. Con quỷ nhào ra nhai ngấu nghiến con gà trong thèm khát, người chồng quay mặt đi ghê sợ. Rồi khi lần lượt từng cái bát sứ chui vào bụng con Quỷ Nhập Tràng, đến cái bát thứ bảy thì nó lăn ra, mùi hôi của cái xác người vợ ba tháng bốc lên nồng nặc. Cụ già vẫn ở ngoài Trấn huyệt. Cụ thấy một luồng khí xanh bay qua, rồi vụt chạy thẳng vào tít xa mà không thấy quay trở lại. Sáng hôm sau người chồng an táng vợ.
ST
Rất có thể xung quanh chúng ta hoặc bất thần trong gia đình một ai đó đã gặp hiện tượng chết đi sống lại. Có thể đó là hiện tượng hồn của người chết tự tìm được về với thể xác của mình. Y học quen gọi là chết lâm sàng.
Thế nhưng chuyện quỷ nhập tràng lại là chuyện khác, tiềm ẩn bên trong nó sự khiếp đảm và kinh hãi của thế giới thần bí, mà đến tận bây giờ lý giải nó chỉ là điều nan giải mà thôi.
Tôi xin trích ngang câu chuyện mà tôi đã được bà ngoại kể từ hồi còn nhỏ, nhưng câu chuyện đó còn động lại trong tôi đến tận giờ. Người thầy của bà ngoại tôi, cụ học phép phù thủy của Khổng Minh và Quỷ Cốc tử.
Chính vì vậy mà những các huyền bí xung quanh đạo học cụ đều nắm rõ. Chỉ có điều riêng thuật bắt ma thì có lẽ cụ không cao tay. Điều này không phải là do đạo học của cụ kém mà do chính Thiên Can Địa Chi quyết định. Cụ tuổi Tý mệnh mộc nên cái uy, hay đúng hơn là cái khí sắc không thể đủ uy lực trừ tà sát quỷ.
Riêng Bà ngoại tôi-người học trò-người con nuôi duy nhất được cụ truyền hết bá học lại có cái uy đó. Bà tôi kể rằng có lần cụ nói với bà tôi rằng:
- Con có căn mệnh của cụ Ngộ Không (bà tôi tuổi thân mệnh Kiếm Phong Kim, thanh kiếm thần) vậy nên con có cái uy sát quỷ trừ ma, nhưng nhớ là cái nghề này nó bạc. Mình càng giúp dân độ thế được nhiều thì quỷ ma càng oán mình nhiều.
Và đây là câu chuyện của một lần bắt ma của bà ngoại tôi. Một buổi sáng sớm một người phụ nữ dắt một cô gái mặt mũi ngây dại đến gõ cửa nhà bà ngoại tôi. Nhìn sắc mặt ngây dại nhưng vẫn nhơn nhơn của cô gái, thì ai cũng bảo là nó bị điên rồi cho vào nhà thương điên kia đi.
Nhưng chỉ có người phụ nữ kia Mẹ của cô gái hiểu rõ là con bà ta bị ma nhập. Bởi theo lời bà ta kể thì cứ thỉnh thoảng con ma kia lại mượn lời của cô gái, và luôn mồm nói muốn lấy cô làm vợ.
Bà đã chữa trị nhiều nơi nhưng chỉ được lúc tức thời, còn về nhà đâu lại hoàn đấy. Mẹ tôi mở cửa cho hai mẹ con người kia vào trong nhà. Người con gái mặt còn nhơn nhơn nằng nặc đòi mẹ dẫn về, vừa bước qua cửa để vào nhà bà tôi, thì mặt chuyển sắc không dám nói năng, mà khuôn mặt cũng không còn vẻ ngây dại nữa, cô ta ngồi im không nói không rằng, không còn có biểu hiện điên loạn hò hét nữa.
Bà tôi cứ để hai mẹ con họ ngồi đấy, bà đi đánh răng rửa mặt xong, pha ấm trà rồi mời mẹ con họ uống. Người con gái lễ phép cầm cốc trà lên uống. Vừa uống xong thì chân tay cô gái co quắp lại và quỳ xuống than khóc:
- Con lạy thầy, thầy tha cho con. Con chỉ là bộ đội chết ở cây đa gần nhà Hoa (tên cô gái) con thương Hoa nên muốn lấy Hoa làm vợ chứ con đâu có muốn làm Hoa điên. Nhưng vì con mụ này (hắn chỉ vào mặt mẹ cô gái) lại mời thầy bà về bắt con, nên con điên con quyết làm Hoa điên để bắt Hoa làm vợ con. Thầy thương con...
Hóa ra sau này tôi mới biết là trong cốc nước trà bà tôi đưa cho cô gái đã được bà dùng Trú quyết trong đó (Trú đó là Trú trói ma) đồng thời bàn chân phải của bà luôn di trên sàn nhà như kiểu viết chữ gì đó để khoán tà ma. Bà tôi chậm rãi uống cốc trà và bảo với anh bộ đội kia:
- Ngươi chết kiểu gì?
- Con chết bom trong một trân. càn của địch.
- Thế ngươi có định đi đầu thai không?
- Con không thích đi đầu thai, con muốn sống với Hoa, anh bộ đội trả lời.
- Hai người một trần một âm mà lại còn đòi lấy nhau thì là loạn lẽ Trời. Không những Trời người không dung mà người còn bị đánh tan hồn vía vĩnh viễn không được nhìn thấy ánh mặt trời ở dưới ngục A tỳ thôi. Ngươi xem nếu ngươi yêu Hoa thì nỡ để cô ta chết cùng ngươi à, hay để cô ta ngớ ngẩn thế này mãi. Ngươi cũng có gia đình người thân. Gia đình ngươi đau khổ thế nào khi ngươi mất đi thì Mẹ Hoa, gia đình cô ta cũng vậy.
Người bộ độ cúi đầu lặng yên. Bà tôi dần không di chân phải nữa, người cô gái không còn bị co quắp nữa và tay chân được thoái mái hơn. Cô gái khóc giọt nước mắt của anh bộ đội. Hắn đã thấu hiểu và không còn muốn cái ước vọng lấy Hoa làm vợ nữa. Nhưng hắn đòi làm cho hắn một mâm cỗ, một hình nhân nữ giống Hoa, tiền bạc, thuyền để hắn còn đi đầu thai chịu tội. Mẹ cô gái ghi hết những lời hắn yêu cầu. Cuối cùng bà tôi nói với hắn rằng:
- Ngươi đã hiểu ra là tốt, nhưng đã hứa buông tha là phải buông tha. Người nhà Hoa sẽ làm theo đúng thỉnh cẩu của nhà ngươi để cho ngươi mau đi đầu thai chịu tội. Còn nếu mà ngoan cố lừa gạt thì lúc đấy ta dùng Phép trục hồn ngươi ra khỏi người Hoa để ngươi mãi không được siêu sinh. Ngươi nhớ đấy.
Và rồi bà tôi quơ ba nén hương trước mặt cô gái, cô ta giật mình và chạy tới ôm bà mẹ khóc nức nở sợ hãi. Người bộ đội đã thoát mệnh thể khỏi người cô. Bà tôi kéo mẹ cô gái vào phòng trong nhà, đưa cho bà ta năm đạo Dấu (Bùa của Đức Thánh Trần) và dặn là đeo trước cửa nhà hai lá, cô gái hai lá, một lá đốt cho cô gái uống. Bà tôi dặn rõ ràng như vậy bởi sợ rằng con ma kia bội tín.
Khoảng tháng sau, hai mẹ con cô gái đến nhà bà tôi tạ lễ bởi cô gái đã bình ổn. Nét mặt cô rạng rỡ hơn sau ba năm ngây dại. Sau này khi tôi đã được tám tuổi, bà đã không còn theo cái nghiệp bắt ma nữa, bởi vì bắt nhiều quá nên quỷ ma nó oán, và nó luôn theo để báo thù con cái cháu chắt của Bà ngoại tôi. Và Mẹ tôi cũng đã bị một lần ma nhập báo thù. Và sau lần chữa cho Mẹ tôi thì bà đã quỳ trước Điện tiền xin không theo nghiệp bắt ma nữa.
Câu chuyện quỷ nhập tràng của bà như sau: Ở nhà nọ, người vợ bị ốm đã lâu mà không thấy thuyên giảm. Người chồng hàng ngày vẫn bán hàng nước để nuôi vợ và kiếm kế sinh nhai. Có lần người vợ đột nhiên qua đời, người chồng đau khổ lắm mới để đến sáng hôm sau thì liệm. Không ngờ bốn tiếng sau khi tắt thở, người vợ đột nhiên bừng tỉnh và khỏe hơn bao giờ hết. Ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Người chồng thấy vợ sống lại thì mừng lắm và ông còn mừng hơn nữa khi bệnh tình của vợ cũng khỏi luôn.
Chỉ có điều là vợ ông từ lúc sống lại cả ngày chỉ ở trong phòng, ăn xong rồi trùm chăn mà rất sợ ánh sáng. Ông cũng thấy lạ nhưng nghĩ là chắc vợ mới khỏi bệnh nên mệt. Thấm thoát đã được ba tháng trôi qua, người vợ giờ đã bớt sợ ánh sáng hơn và sắc mặt trở nên sạm đen hơn nhưng đặc biệt là rất khỏe. Một buổi sáng nọ, có ông già dáng vẻ hành khất đến quán nước của người chồng uống nước (Đó là thầy của bà ngoại tôi). Cụ già này sắc mặt hồng hào nhưng bàn tay trái thì bị tật nên hơi khó cầm các thứ. Cụ ngồi lại nơi quán hàng nước của người chồng và nhâm nhi chén trà chát. Thỉnh thoảng lại thấy người chồng chạy vào trong phòng rồi lại chạy ra, rất tất bật như chăm con thơ vậy. Cụ già cất lời:
- Ta thấy bác vất vả quá nhỉ, nhà có người ốm à hay phải chăm sóc bà đẻ vậy.
- Dạ, không ạ. Nhà cháu đấy ạ. Nhà cháu vừa mới khỏi bệnh nên ăn nhiều lắm mà lạ là ăn không biết no a.
Người chồng vui vẻ đáp lời. Cụ già ngồi đó nhâm nhi mẩu ô mai mặn và đang định bước đi thì bất thần cụ nhìn thấy cái bát mà người chồng mang ra rửa, sau khi cho vợ ăn. Một vết xước dài đen ngòm hằn trên bát. Vết đen này chắc chỉ nhãn quang như cụ mới nhìn thấy được. Cụ giật mình và tim đập mạnh, trong đầu cụ hiện lên ba chữ QUỶ NHẬP TRÀNG. Cụ ngồi lại nơi quán nước để đợi người chồng ra tính tiền. Cụ lân la hỏi chuyện:
- Này Bác, cho tôi hỏi là bác gái nhà mình bệnh gì vậy mà ăn khỏe thế?
- Cụ ơi, nhà con khỏi rồi cụ ạ. Cũng may mắn lắm cơ, nhờ Trời nhờ Phật mà hóa rủi thành may. Ba tháng trước con tưởng là mất nhà con rồi cơ cụ ạ thế mà nhà con sống lại mà lại mạnh khoe mới mừng chứ cụ ạ!
- Được ba tháng rồi cơ à? Cụ già lộ vẻ lo sợ.
- Vâng, được tròn ba tháng rồi cụ ạ! Con giờ chỉ chăm sóc nhà con thôi cũng thấy vui. Người chồng đáp lời trong sự vui mừng khôn tả.
Kinh nghiệm và lòng nhân hậu của người Thầy đã thôi thúc cụ già phải cứu anh chồng và cả gia đình họ hàng anh ta. Nhưng giờ cứu như thế nào đây khi mà con quỷ nhập tràng kia đã được ba tháng rồi. Giờ nó tinh ranh và ma quái hơn nhiều. Xin cho tôi ngừng chuyện để giải thích QUỶ NHẬP TRÀNG là gì? quỷ nhập tràng là cụm từ mà trong giới phù thủy bắt ma gọi là hiện tượng, Khi một người mất đi thì hồn người đó sẽ bị hai ông quỷ sai(Chiêu Hồn Sứ) dẫn đi chịu tội.
Nhưng trong cái khoảnh khắc đó thì có một hồn ma khác lại nhẩy vào chiếm cái thể xác kia khi mà cái xác đó vẫn còn hơi ấm và sự sống, như kiểu sống ký sinh. Nhưng tai hại là do mượn xác nên không thể hòa nhập ngay với cái xác kia được, mà phải mất đúng ba tháng mười ngày, mới hoàn toàn điều khiển được cái xác mượn kia. Chỉ có điều là quỷ nhập tràng rất sợ ánh sáng, ăn rất khỏe và không biết no. Tai hại hơn là sau ba tháng mười ngày hắn sẽ đi tìm bằng hết họ hàng của cái xác mượn kia để ăn thịt.
Trở lại với câu chuyện của người chồng. Sau một hồi suy nghĩ khá lâu, cụ già kéo người chồng ra chỗ cách xa nhà của anh ta, rồi mới nói hết những cái mà cụ nhin thấy về gia cảnh hiện tại của anh. Anh thanh niên lạc quan cười bảo:
- Cụ ơi nhà con con biết, nhà con không bị quỷ nhập tràng đâu.
- Thế anh có thấy dạo này gà vịt hay lợn trong nhà anh bị mất con nào không?
- Cụ nói con mới nhớ, gần đấy con nuôi hai con lợn định đem bán thì hôm nọ mất một con, chả hiểu là bị ai bắt mà vào chuồng chỉ còn thấy vũng máu. Còn gà thì mất nhiều cụ ạ, con nghĩ chắc mấy đứa trẻ quanh xóm nó bắt chơi.
- Không đơn giản như anh nghĩ đâu. Đấy là quỷ Nhập tràng nó ăn đấy. Bởi vì đến tầm ba tháng là nó đã cứng lắm rồi, giờ nó thích máu tươi hơn. Anh phải nghe tôi để cứu anh và cả dòng họ anh nữa. Anh phải làm theo tôi thì mới mong thoát tai kiếp này.
- Vâng.. cụ dạy con... Người chồng đã bắt đầu run sợ thật sự.
- Giờ nó rất tinh ranh, không biết chừng giờ nó đã biết tôi gặp anh để bày trò bắt nó nên nó coi chừng đấy. Bởi nó đọc được suy nghĩ của anh. Giờ anh về là nó bắt anh nó cắn xé đấy. Chúng ta phải thu bát nó ngay đêm nay. Giờ anh làm đúng như tôi nhé, nếu không là cả tôi và anh cũng không thoát nổi nó đâu.
Ở đấy có bảy lá bùa Thái Thượng Lão Quân. Giờ anh kiếm cho tôi con gà sống và bảy cái bát sành. Anh dán bảy cái dấu này vào lòng bảy cái bát sành. Anh mang con gà và bảy cái bát đã dán dấu trèo lên mái nhà anh, chỗ có phòng ngủ mà con Quỷ Nhập Tràng ở, ném con gà xuống trước, đợi cho nó ăn xong con gà thì lần lượt ném bảy cái bát xuống. Tôi sẽ ở ngoài Trấn Huyệt hộ anh. Anh đi làm ngay đi.
Người chồng đi làm đúng theo lời cụ già dặn. Anh nhẹ nhàng trèo lên nóc nhà, lấy miếng ngói đỏ ra và ném con gà xuống. Con quỷ nhào ra nhai ngấu nghiến con gà trong thèm khát, người chồng quay mặt đi ghê sợ. Rồi khi lần lượt từng cái bát sứ chui vào bụng con Quỷ Nhập Tràng, đến cái bát thứ bảy thì nó lăn ra, mùi hôi của cái xác người vợ ba tháng bốc lên nồng nặc. Cụ già vẫn ở ngoài Trấn huyệt. Cụ thấy một luồng khí xanh bay qua, rồi vụt chạy thẳng vào tít xa mà không thấy quay trở lại. Sáng hôm sau người chồng an táng vợ.
ST
#116
Gửi vào 22/06/2011 - 05:43
BỨC TRANH QUÁI DỊ
Trước nhà thờ Saint Sébalt nơi góc đường Des Trabans là một quán nhỏ, vừa hẹp vừa cao cửa kính bụi bậm, trên nóc có dựng bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng thạch cao. Đó là nơi tôi trải qua những ngày buồn thảm nhất đời. Tôi đến thành phố Nureemberg để học hội họa từ các họa sư tên tuổi ở Đức, nhưng vì thiếu tiền nên đành phải vẽ ảnh, những ảnh xoàng xĩnh như các mụ to béo lắm lời, con mèo ngồi trên đầu gối, những ông xã trưởng đội mũ ba góc, những ông nhà giàu đầu chụp tóc giả...
Hết vẽ ảnh tôi vẽ những bản phác họa và sau cùng vẽ hình bóng. Với tôi không có gì thê thảm cho bằng luôn luôn bị viên quản lý khách sạn hạch sách. Sáng nào ông ta cũng mím môi giọng ồn ào vẻ xấc láo nạt nộ:
- Chừng nào ông mới chịu trả tiền cho tôi? Ông có biết tiền phòng của ông lên tới bao nhiêu rồi không? Hai trăm đồng "florin" và mười đồng "kreutzer". Không có bao nhiêu phải không?.
Những ai chưa nghe giọng xấc láo của tên quản lý khách sạn này không thể hiểu được nỗi khổ của tôi trong lúc bấy giờ. Tình yêu nghệ thuật óc tưởng tượng sự hăng hái đi tìm cái đẹp của tôi hoàn toàn khô héo. Tôi trở nên vụng về nhút nhát. Bao nhiêu nghị lực đều biến cũng như lòng tự trọng... Và thấy ông xã trưởng từ xa là tôi đã cúi đầu chào cẩn thận.
Một đêm không một xu dính túi quá lo ngại sợ bị viên quản lý dể sợ kia cho vào tù, tôi nhất định tự tử bằng cách cắt họng. Với ý nghĩ đó tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn ngó ra cửa sổ, triền miên nghĩ ngợi đến trăm ngàn ý nghĩ về triết lý. Tôi tự hỏi:
"Con người là gì? Một con thú ăn tạp! Hai hàm răng có các loại răng chó, răng cửa, răng hàm chứng minh điều đó. Răng chó để ăn thịt, răng cửa để ăn trái cây và răng hàm để nghiền. Nhưng khi không còn gì để nghiền thì con người là một thứ vô nghĩa trong vũ trụ, một điều thừa, một bánh xe thứ năm...".
Đó là những cảm nghĩ của tôi. Tôi không dám mở con dao cạo ra, sợ rằng tôi bỗng nhiên trở nên can đảm mà tự tử. Sau những lý luận như thế, tôi thổi ngọn đèn sáp hoãn lại mọi việc vào ngày mai. Tên quản lý khách sạn đã làm cho tôi trở nên ngu ngốc hoàn toàn.
Tôi không thấy gì khác hơn là những hình bóng và điều mong muốn duy nhất của tôi là có tiền để ném vào mặt hắn mỗi khi hắn ta đến quấy rầy tôi. Nhưng đêm đó có một cuộc cách mạng kỳ lạ trong đầu óc tôi. Tôi thức dậy vào lúc một giờ khuya, vẽ nhanh lên giấy một bức phác họa theo loại Hòa Lan tức là loại kỳ quái, không có một chút liên hệ gì tới các quan niệm về hội họa thông thường của tôi.
Các bạn hình dung bức phác họa là một khoảng sáng tối âm u, nằm giữa những bức tường cao loang lở. Những bức tường dầy đó có những móc sắt nhọn hoắt đóng ở trên cao vào khoảng hai ba thước. Người ta đoán ngay từ đầu khung cảnh đó là một lò sát sinh. Bên trại có một hàng rào mắt cáo. Bạn thấy một con bò mổ banh ra treo lên trần bằng những cái móc to tướng. Những vũng máu chảy trên nền gạch và dồn xuống một đường mương đầy rác đến dị kỳ. Ánh sáng chiếu từ trên giữa các ống khói. Bóng các mái nhà kế cận chồng chất lên nhau.
Bên trong là một trại... Dưới trại là một đống củi. Trên đống củi có một cái thang, vài bó rơm, một đống dây, một chuồng gà và một chuồng thỏ phế thải. Làm sao các chi tiết ô hợp đó lại chạy vào trí tưởng tượng của tôi? Tôi cũng không biết, không thấy một cảnh nào như vậy đê nhớ lại rồi vẽ ra. Ấy vậy mà mỗi một nét bút chỉ là một nét vẽ chững chạc được nghiên cứu cẩn thận. Không thiếu một cái gì hết!
Nhưng bên mặt còn một góc bỏ trắng. Tôi không biết vẽ gì lên đó. Kìa, có một vật gì thấp thoáng cử động. Bỗng nhiên tôi thấy một bàn chân, một bàn chân lật ngược tách khỏi mặt đất. Mặc dầu vị trí đó không thể có được tôi vẫn theo sáng kiến đó, không hề hiểu rõ mình sẽ vẽ gì đây. Bàn chân đó dính vào ống quyển... và trên ống quyển có một chéo áo...
Liền sau đó một mụ già xanh xao tiều tụy, tóc rối bời té sấp trên bờ giếng trong khi chống cự với một nắm tay đang siết cổ mụ..Thì ra tôi vẽ một bức tranh giết người. Ngọn bút rơi khỏi bàn tay tôi. Mụ già trong tư thế chống cự tận lực nằm vắt lên thành giếng, mặt nhăn nhó vì kinh hãi hai tay bám chặt lấy cánh tay của kẻ sát nhân, mụ ta làm tôi hoảng sợ...
Tôi không dám nhìn mụ. Nhưng về phần tên sát nhân thì tôi không thấy trừ cánh tay. Tôi không thể kết thúc được bức tranh. Tôi tự nhủ: "Mệt rồi. Chỉ còn có nét mặt của tên sát nhân nữa mà thôi. Ngày mai mình sẽ vẽ nốt. Dể mà!".
Tôi nằm xuống giường, hãy còn kinh sợ trước những gì vừa thấy qua nét vẽ của chính mình. Năm phút sau tôi ngủ như chết. Sáng hôm sau tôi thức dậy khi trời hãy còn mờ tối. Vừa mặc quần áo xong và sắp sửa tiếp tục bức tranh bỏ dở thì có hai tiếng gõ cửa. Tôi lên tiếng:
- Cứ vào!
Cánh cửa mở. Một người đã già cao, ốm mặc toàn màu đen bước vào thềm. Hai mắt ông gần nhau quá, mũi ông quặp xuống như mũi két, trán ông rộng xương xẩu. Gương mặt ông có vẻ nghiêm khắc ông chào tôi, hỏi thật nghiêm:
- Ông là họa sĩ Christian Vénius?
- Chính tôi thưa ông.
Ông ta gật đầu một lần nữa, tự giới thiệu:
- Tôi là Nam tước Frederic Van Spreckdal!
Sự xuất hiện của ông Van Spreckdal, chánh án tòa đại hình trước căn gác tối tăm của một họa sĩ vô danh khiến tôi thấy mất bình tĩnh. Tôi nhìn bàn ghế tồi tàn sàn gác bụi bậm, xấu hổ trước cảnh nghèo của mình. Nhưng ông Van Spreckdal không chú ý đến những chi tiết đó. Ông ngồi trước bàn nhỏ của tôi nói:
- Họa sĩ, tôi đến đây...
Nhưng cùng lúc đó hai mắt ông dừng lại trên bức họa chưa hoàn thành... ông không nói hết câu. Tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn và sự chiếu cố bất ngờ của nhân vật này dành cho một trong các tác phẩm của tôi, khiến tim tôi đập mạnh vì mối lo sợ khó nói. Độ một phút, Van Spreckdal ngước đầu lên nhìn tôi thật chăm chú.
- Ông là tác giả bức họa kia?
- Dạ phải.
- Giá bức họa đó bao nhiêu?
- Tôi không bán các bức phác họa. Đó chỉ là một dự án.
Ông khách kêu lên một tiếng "A!" khi đỡ tờ giấy lên với mấy đầu ngón tay bằng vàng, ông lấy một kính phóng đại trong áo "gi lê" ra, bắt đầu nghiên cứu bức họa một cách trầm lặng. Ánh nắng mặt trời chiếu xiên xiên qua gác. Van Spreckdal không nói một lời nào sống mũi ông quằm xuống đôi mày ông cau lại.
Không khí hoàn toàn im lặng tôi nghe rõ tiếng vo ve của một con muỗi mắc trong lưới nhện. Sau cùng không nhìn tôi ông hỏi:
- Khuôn khổ bức tranh này như thế nào?
- Bề ngang ba bộ, bề dài bốn bộ.
- Giá tiền?
- Năm mươi đồng "ducat".
Van Spreckdal đặt bức ảnh xuống lấy trong túi chiếc ví dày màu xanh lá cây, giống như một quả lê. Ông trút các đồng tiền vàng ra:
- Đây, năm mươi "ducát".
Nam tước đứng lên chào tôi. Tôi nghe tiếng chiếc gậy cán ngà của ông nện trên các bậc thang gác. Khi ông ta xuống đến tầng dưới tôi mới hoàn hồn và sực nhớ chưa cảm ơn ông ta. Tôi chạy nhanh xuống năm tầng lầu. Nhưng ra tới đường nhìn hai bên con đường vắng tanh. Tôi hổn hển" "Lạ quá!", rồi hổn hển leo trở lên gác. Sự xuất hiện đột ngột của Van Spreckdai khiến tôi ngây ngất bàng hoàng. Ngắm chồng "ducat" ngời sáng dưới ánh nắng, tôi ngẫm nghĩ:
"Hôm nay, mình tính cắt cổ tự tử vì mấy đồng "florin" không đáng, bây giờ thì cả một sản nghiệp từ trên trời rơi xuống. Mình không mở con dao cạo ra là phải! Và từ đây về sau nếu có ý nghĩ tự tử nữa thì mình nên hoãn lại ngày hôm sau. Sau những cảm nghĩ đó tôi ngồi lại để tiếp tục vẽ nốt bức tranh. Chỉ cần bốn nét bút là xong.
Nhưng tôi thất vọng não nề. Bốn nét bút đó tôi không vẽ được. Tôi mất tong cảm hứng. Nhân vật bí hiếm kia tôi không thể nào hình dung ra mặt mũi. Tôi cố suy nghĩ cố phác họa nhưng không vẽ ra hồn. Tôi đổ mồ hôi có giọt. Đúng lúc đó tên quản lý bước vào phòng tôi không gõ cửa theo thói quen. Hắn nhìn chồng tiền vàng, kêu lên:
- A ha! Tôi bắt được quả tang ông có nhiều tiền vàng như thế này, thế mà ông bảo là không có tiền!
Và mấy ngón tay nhọn hoắt của hắn quờ quạng về phía đống tiền vàng trên bàn. Tôi ngẩn ngơ vài giây. Rồi chợt nhớ tên quản lý luôn hoạnh họe bấy lâu nay, tôi nhảy xổ tới thộp cổ hắn tống ra khỏi phòng rồi sập cửa làm hắn dập cả mũi. Tất cả những việc đó xảy ra thật nhanh. Tôi nghe viên quản lý kêu ầm lên ở bên ngoài:
- Trả tiền đây! Đồ ăn cắp!
Những người mướn phòng xung quanh đổ ra ngoài. Tiếng họ lao xao:
- Có việc gì vậy?
Tôi mở cửa thật bất ngờ đạp mạnh vào mông tên quản lý khiến hắn lăn ùng ục xuống lầu, có đến vài mươi bậc thang. Tôi hét lên:
- Việc gì hả? Tôi tống cổ thằng đó xuống lầu. Chỉ có vậy thôi!
Xong tôi khóa cửa lại trong tiếng cười của các bạn phòng bên. Tôi rất hài lòng về chuyện vừa làm xoa tay thích thú. Chuyện xảy ra khiến tôi hứng chí. Tôi ngồi xuống toan tiếp tục vẽ thì có tiếng động kỳ lạ. Đó là tiếng báng súng đặt xuống vỉa hè. Tôi nhìn qua cửa sổ thấy ba cảnh sát súng dựng dưới chân đứng canh trước cửa nhà. Tôi lo sợ hỏi thầm:
"Thằng quản lý gãy tay, lọi cẳng chăng?".
Các bạn có thấy điều kỳ quái trong đầu óc con người chưa. Ngày hôm qua tôi tính cắt cổ tự tử, mà bây giờ lại run rẩy khi nghĩ tới cảnh lính bắt về tội đạp tên quản lý té lầu! Có tiếng ồn ào trên thang lầu, tiếng chân người tiếng súng khua tiếng những lệnh truyền cộc lốc. Bỗng người ta cố mở cửa phòng tôi. Cửa đã khóa. Có tiếng hô to:
- Mở cửa! Cho lính vào!
Tôi đứng lên, run rẩy, hai chân lảo đảo.
- Mở cửa!
Tôi có ý nghĩ muốn trèo lên mái nhà. Nhưng vừa ló đầu qua khung cửa sổ nhỏ bé, tôi giật thụt lùi đầu óc choáng váng. Tôi thấy các cửa sổ ở tầng dưới với những cửa kính, những chậu hoa... dưới nữa là bao lơn sau cùng là trụ đèn đường, bảng hiệu "Tônnelet Rouge" và sau hết là ba lưỡi lê sáng chóe đang chờ tôi rơi xuống để đâm suốt từ lòng bàn chân đến gáy.
Trên mái nhà đối diện có con mèo to màu hung đỏ, núp sau ống khói rình một đàn chim sẻ đang kêu chíu chít trên máng xối. Tôi không thể hình dung mắt con người có thể thấy thật rõ và nhanh đến vậy trong khi lo sợ. Bên ngoài người ta ra lệnh đến lần thứ ba:
- Mở cửa! Hay để người ta phá cửa đây!
Thấy trốn không được tôi lảo đảo đến cửa... vặn khóa. Vụt một cái hai cánh tay chụp lấy cổ tay tôi. Một người mập lùn miệng đầy hơi rượu nói:
- Đây rồi!
Ông ta mặc áo xanh ve chai gài nút tới cổ, để râu rậm đeo đầy cà rá và tên là Passauf. Hắn là cảnh sát trưởng. Bên ngoài có đến năm tên lính bồng súng nhìn tôi chăm chỉ. Tôi hỏi Passauf:
- Ông muốn gì?
Hắn quát:
- Xuống lầu!
Và ra lệnh cho một tên lính nắm tay tôi lôi đi. Mấy tên kia lập tức xông đến lục tung căn phòng nhỏ bé của tôi. Tôi bước xuống lầu dựa vào tên lính, như một kẻ ho lao đến thời kỳ thứ ba tóc tai rối nùi, mỗi bước mỗi vấp.
- Tôi bắt anh!
Người ta vứt tôi lên xe ngựa kẹp tôi giữa hai tên lính vạm vỡ. Khi chiếc xe chạy tôi còn nghe có tiếng bước chân chạy theo của trẻ nhỏ. Tôi hỏi một trong hai người lính:
- Tôi bị bắt về tội gì?
Tên này nhìn tên lính kia, mỉm cười một cách khó hiểu, nói:
- Này Hana, nó hỏi nó bị bắt về tội gì kìa?
Nụ cười đó khiến tôi sợ tái người. Không lâu một bóng mát bao trùm lên chiếc xe. Tiếng chân ngựa vang dưới nền gạch khô khốc. Chừng như tôi đã được đưa tới khám đường. Đối với tôi bây giờ cái gì cũng trở lên đen tối. Từ móng vuốt của tên quản lý tôi rơi vào nơi ngục tối, nơi người vô thì nhiều mà người ra thì ít. Người ta giam tôi một cách thản nhiên như cất một đôi vớ trong tủ, rồi mặc kệ đó nghĩ đến những chuyện khác.
Tôi ngồi bất động đến mười phút nghĩ mông lung: Thằng cha quản lý đã hét to: "Nó giết tôi" khi bị tôi đạp té xuống thang lầu. Nhưng hắn không nói rõ là ai giết hắn. Mình sẽ khai thủ phạm là ông già bán kính ở kế bên. Lão ta sẽ bị treo cổ thay cho mình.
Ý nghĩ đó làm tôi bớt lo. Tôi nhìn xung quanh phòng giam. Phòng mới quét vôi không có một hình vẽ nào trên tường trừ một hình cái giá treo cổ mà kẻ vào đây trước tôi đã vẽ. Ánh sáng bên ngoài chiếu vào qua một lỗ tròn trên cao cách mặt đất chừng ba thước. Đồ đạc trong phòng chỉ gồm một cái ổ rơm và một cái chậu.
Tôi ngồi lên ổ rơm hai tay bó gối buồn thảm không tả nổi. Tôi nghĩ là tên quản lý trước khi chết đã tố cáo tôi. Tự nhiên tôi thấy nhột ở chân như có kiến bò và tôi ngẩng cổ lên húng hắng ho như có sợi dây siết mạnh ở cổ.
Ngay lúc đó tên cai ngục mở cửa bảo tôi đi theo hắn. Tôi rùng mình vì lúc nào hắn cũng có hai tên đồ tể vạm vỡ theo sau. Chúng tôi đi qua mấy dãy hành lang dài. Tôi thấy sau lưới sắt tên Jic Jack sắp sửa bị hành quyết vào sáng hôm sau. Hắn mặc áo bó sát tay chào và hát lên với giọng khàn khàn. Khi thấy tôi hắn kêu lên:
- Chào người anh em! Tôi sẽ dành cho người anh em một chỗ ở phía bên mặt.
Hai tên lính và viên cai ngục nhìn nhau cười trong khi tôi nổi da gà. Viên cai ngục đẩy tôi vào một gian phòng cao thật tối có ghế sắp theo hình bán nguyệt. Phòng vắng vẻ có hai cửa sổ cao đóng lưới sắt kín mít và pho tượng chúa bằng gỗ nâu, hai tay dang ra đầu ngả xuống vai. Cảnh tượng đó khiến tôi hoang mang cực độ. Tất cả ý nghĩ vu khống trước đó bỗng dưng biến mất. Đôi môi tôi mấp máy cầu nguyện.
Đã từ lâu tôi không cầu nguyện, nhưng tai biến luôn luôn khiến con người khuất phục trước đấng vô hình. Trước mắt tôi trên ghế cao là hai nhân vật ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Dù vậy tôi cũng nhận ra Nam tước Van Spreckdal nhờ cái bóng ông in trên cửa kính. Nhân vật thứ hai mập má đầy thịt hai bàn tay ngắn. Hắn cũng mặc áo thẩm phán như ông Van Spreckdal. Người phía dưới là lục sự Conrad. Hắn đang cho cán viết vào đầu lỗ tai. Khi tôi đến hắn dừng tay lại nhìn tôi một cách tò mò. Người ta bảo tôi ngồi xuống. Van Spreckdal cao giọng hỏi:
- Christian Vénius, làm sao anh có bức ảnh này?
Ông ta đưa lên bức tranh tôi vẽ chưa xong. Người ta trao bức tranh đó cho tôi. Sau khi xem, tôi đáp:
- Tôi là tác giả.
Im lặng khá lâu, rồi lục sự Conrad ghi lời nói của tôi. Tôi nghe ngòi bút của ông ta cào trên giấy và tôi nghĩ:
"Câu hỏi đó có nghĩa gì? Nó có liên quan gì đến việc tôi đập thằng cha quản lý đâu!"
Van Spreckdal lại hỏi:
- Anh là tác giả, chủ đề của bức tranh là gì?
- Đó là bức tranh tưởng tượng.
- Anh có thấy các chi tiết này ở đâu không?
- Thưa không. Tất cả các chi tiết đều do tôi tưởng tượng.
Ông chánh án nói với giọng nghiêm khắc:
- Bị can Christian! Tôi yêu cầu anh nêu suy nghĩ cẩn thận. Đừng có nói dối!
Đỏ mặt và với giọng bất bình tôi kêu to:
- Tôi nói sự thật!
Van Spreckdal nói:
- Lục sự ghi vào biên bản.
Ngòi bút lại chạy rần rật trên giấy. Ông chánh án lại hỏi:
- Còn người đàn bà này. Người đàn bà mà người ta giết bên miệng giếng, anh cũng tưởng tượng ra nốt?
- Đúng vậy!
- Anh không hề nhìn thấy bà ta?
- Không hề!
Van Spreckdal đứng lên bực mình. Nhưng ông ta ngồi xuống tham khảo ý kiến đồng nghiệp. Hai bóng đen thẩm phán nổi bật lên trên nền sáng của cửa sổ và ba người đứng sau lưng tôi. Không khí trong phòng im lặng đến ngột ngạt... tất cả đều làm cho tôi hoang mang lo sợ đến bải hoải. Tôi nghĩ thầm:
"Họ muốn gì ở mình?
Bỗng Van Spreckdal nói với ba người lính:
- Đưa hắn lên xe. Chúng ta tới đường Metzrstrasse.
Rồi ông nói với tôi:
- Christian Vénius. Anh đang ở trong tình thế ngặt nghèo. Nếu anh thấy công lý của loài người cứng rắn thì anh chỉ còn chờ sự tha thứ của Chúa. Anh sẽ xứng đáng với tình thương của Chúa nếu anh thú tội.
Lời nói đó như búa bổ vào đầu tôi. Tôi ngã người ra sau đưa tay lên trời kêu to:
- Trời ơi! Thật là một cơn ác mộng!
Rồi tôi ngất xỉu. Khi tôi tỉnh lại chiếc xe đang chầm chậm trên đường. Phía trước có một chiếc xe khác. Hai tên đồ tể vạm vỡ vẫn luôn kè kè bên tôi. Một tên mời bạn hút thuốc. Tôi đưa tay về phía bao thuốc hắn vội vàng giựt tay lại, cho vội bao thuốc vào túi. Mặt tôi đỏ lên vì xấu hổ. Tôi quay đầu vào vai che giấu cơn xúc động. Bỗng tên lính có bao thuốc nói:
- Nếu anh nhìn ra ngoài chúng tôi bắt buộc phải còng tay anh lại.
Tôi nghĩ thầm:"Quỷ sao không vật mày chết cho rồi!". Chiếc xe dừng lại. Một tên bước xuống. Tên còn lại nắm cổ tôi khi thấy tên kia đã sẵn sàng để đón tôi, hắn đẩy tôi xuống xe một cách tàn nhẫn. Tất cả những sự thận trọng đó cho thấy con người tôi đích thị là một kẻ bất lương. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu rõ lời buộc tội từ phía hai ông thẩm phán. Bỗng một cảnh tượng ghê gớm mở mắt tôi ra đẩy tôi vào tận cùng tuyệt vọng.
Người ta đẩy tôi bước vào một con đường thấp lót gạch lồi lõm, tường rỉ nước vàng mùi hôi thối xộc vào mũi khiến tôi choáng váng. Tôi mò mẫm đi giữa bóng tối phía sau có hai tên lính vạm vỡ áp giải. Đằng xa thấp thoáng một cái sân rộng. Càng đi tới gần tôi càng kinh sợ. Không phải một sự lo sợ thông thường, mà đó là một sự khiếp đảm ghê gớm giống như một cơn ác mộng. Tôi chỉ muốn lùi lại chứ không thể bước được. Một tên lính đẩy mạnh vai tôi ra lệnh:
- Bước tới chứ!
Đến đầu hành lang tôi thấy trước mắt cái cảnh mà tôi vừa vẽ trong đêm qua. Đúng là cái sân ở giữa những bức tưòng dày, có những móc sắt, những đống sắt vụn, chuồng gà, chuồng thỏ... không có một chi tiết nhỏ nào bị bỏ quên. Tôi như bị sét đánh ngang tai trước hiện tượng kỳ lạ đó. Hai ông thẩm phán đứng bên cạnh miệng giếng. Dưới chân họ nằm sóng sượt một mụ già. Mụ nằm dưới tóc tai rối bời, mặt tái ngắt, hai mắt mở trừng trừng, lưỡi thè giữa hai hàm răng. Thật là một cảnh tượng kinh tởm. Van Spreckdal nói với giọng trịnh trọng:
- Sao, anh nghĩ gì?
- Anh có nhận đã ném mụ già này? Mụ Thérésa Beker xuống giếng sau khi bóp cổ giựt tiền của mụ ta?
Tôi gào to lên:
- Không! Tôi không biết mụ già này. Tôi không hề nhìn thấy mụ ta. Xin Chúa chứng cho tôi!
Van Spreckdal gắt:
- Thôi bao nhiêu đó đủ rồi!
Không nói thêm một lời ông cùng bạn đồng nghiệp bước nhanh ra. Hai tên lính nghĩ là họ có bổn phận còng tay tôi lại. Họ đưa tôi trở về khám. Trong cơn bàng hoàng lúc đó tôi hoàn toàn hoang mang, không biết có đúng là mình đã giết mụ già kia hay không. Đối với những tên lính gác, tôi rõ ràng đã là một tên tử tội.
Tôi không kể ra đây cơn xúc động của tôi trong đêm đầu tiên nằm khám. Tôi ngồi thừ trên ổ rơm nhìn qua khung cửa sổ nhỏ thấy đoạn đầu đài xa xa. Tôi nghe tiếng người gác đêm kêu to lên trong thanh vắng:
- Hỡi dân chúng Nuremberg. Hãy yên giấc. Một giờ!... Hai giờ!... Ba giờ!...
Tôi thắc mắc nghĩ ngợi nhiều. Người ta bảo thà bị xử giảo vô tội còn hơn là có tội. Đúng! Nhưng đó là về phần hồn. Còn về phần xác thì chết vô tội hay có tội cũng y như nhau. Trái lại phần xác vẫy vùng tự giải thoát khi biết vai trò của mình đã chấm dứt bằng sợi dây thắt cổ. Đó là những cảm nghĩ buồn thảm của tôi trong đêm ghê gớm ấy.
Ngày dần dần sáng thoạt tiên còn mờ mờ rồi từ từ sáng tỏ. Bên ngoài đường phố nhộn nhịp. Ngày hôm ấy nhằm ngày thứ sáu ngày nhóm chợ. Tôi nghe rõ mồn một tiếng cọc cạch của xe bò chở rau cải gà vịt. Tiếng gà kêu trong chuồng tiếng những người nông dân trò chuyện với nhau khiến lòng tôi lâng lâng.
Khu chợ trước mặt khám đã mở cửa. Người ta chắc đang sửa soạn chỗ ngồi. Khi ngày sáng rực tiếng cười nói của dân chúng vang lên. Những người đi chợ lui tới bàn cãi mặc cả giúp tôi đoán bây giờ vào khoảng tám giờ sáng. Với ánh sáng tôi yên tâm hơn. Những ý nghĩ đen tối trong đêm biến mất. Tôi cảm thấy thèm thấy những gì đang xảy ra bên ngoài.
Những người tù trước tôi đã đục những lỗ hổng trên tường để leo lên khung cửa sổ cho dể. Tôi leo lên đó đút đầu qua cái lỗ tròn nhìn ra ngoài. Tôi thấy đám đông sự sống. Tự nhiên tôi chảy nước mắt. Tôi không nghĩ tới tự vẫn nữa. Tôi cần sống cần thở. Đó thật là một điều phi thường. Tôi lầm bầm:
"Được sống là hạnh phúc. Dù người ta bắt mình kéo xe hay xiềng chân vào sắt cũng mặc, miển sống được là được rồi!".
Tôi lại nhìn sang chợ nhìn những mụ già đang ngồi sau những thúng rau giỏ gà... rổ trứng. Các người hàng thịt đang chặt thịt trên thớt. Mấy anh nông dân đầu đội nón nỉ rộng vành chống gậy chắp tay sau lưng hút thuốc. Tiếng động của đám đông sinh hoạt náo nhiệt của chợ giúp tâm trí tôi biết suy nghĩ và trong hoàn cảnh buồn thảm hiện tại, tôi vẫn thấy sung sướng được còn sống trong thế giới loài người.
Khi tôi nhìn ra ngoài như vậy có một người đi ngang qua. Hẳn là một tên đồ tể đang nghiêng lưng vác một phần con bò trên vai. Hai cánh tay trần khuỷu tay đưa lên trên đầu cúi xuống. Tóc bay phất phới che kín cả mặt. Dù vậy vừa thấy hắn ta là tôi đã giựt nảy mình. Tôi nói thành tiếng:
- Chính hắn!
Tất cả máu trong người tôi chạy dồn về tim. Tôi leo xuống toàn thân run rẩy đến cả đầu móng tay tái xanh hết cả mặt mày lẩm bẩm:
- Chính hắn!
Trong khi hắn tự do phây phây thì mình sắp chết thay cho hắn! Chúa ơi! Bây giờ tôi phải làm gì? Phải làm gì? Một ý nghĩ đột ngột một sáng kiến từ trên cao lóe lên trong trí tôi. Tôi cho tay vào túi áo... hộp bút chì hãy còn trong đó. Tôi liền chạy ngay lại bức tường dày vẽ lại khung cảnh xảy ra vụ ám sát với một hứng thú lạ thường không còn có sự mơ hồ dọ dẫm.
Tôi biết kẻ sát nhân. Tôi trông thấy hắn dường như hắn đang làm mẫu trước mắt tôi. Vào khoảng mười giờ viên cai ngục bước vào khám giam. Nét mặt chim cú thường ngày của hắn nhường chỗ cho sự thích thú. Bước trên thềm hắn hỏi:
- Có thể như thế chăng?
Tôi vẫn tiếp tục ngồi vẽ với tất cả sự phấn chấn tột cùng.
- Đi gọi các ông thẩm phán đến đây giùm tôi!
Tên cai ngục ngần ngừ:
- Các ông ấy đang chờ nơi phòng biện lý.
Tôi vẫn chăm chú vẽ nhân vật kỳ lạ trong bức tranh nói:
- Tôi muốn tiết lộ nhiều điều mới lạ với các ông thẩm phán. Nhân vật tôi vẽ như sống thật. Bộ mặt hắn rất đáng sợ.
Tên cai ngục bước ra ngoài. Vài phút sau hai vị thẩm phán tới. Họ đứng nhìn bức tranh kinh ngạc đến cực độ. Tôi đưa cánh tay ra cả người run rẩy nói:
- Đây là thủ phạm!
Sau khi im lặng một lúc Van Spreckdal hỏi:
- Tên hắn?
- Tôi không biết. Nhưng hắn hiện ở trong chợ đang chặt thịt ở thớt thứ ba bên trái nếu đi từ con đường Trabans vào chợ. Van Spreckdal quay lại ông bạn đồng nghiệp:
- Ông nghĩ sao?
Ông thẩm phán kia trịnh trọng bảo:
- Cho người đưa hắn tới đây.
Vài tên lính đứng ngoài hành lang thi hành lệnh đó. Các thẩm phán vẫn đứng nhìn bức tranh của tôi. Còn tôi, tôi ngồi vật xuống ổ rơm đầu gục lên gối mệt nhoài như chết. Không bao lâu có tiếng chân vang lên bên ngoài. Những ai chưa hề chờ giải thoát chưa đếm từng phút dài như những thế kỷ, những ai chưa biết đến xúc động cực mạnh của sự chờ đợi của sự kinh hãi của sự hy vọng của hoang mang... những kẻ đó không thể thông cảm được rúng động của tôi lúc bấy giờ.
Tôi nghe cả tiếng chân của tên sát nhân bước giữa đám lính. Tôi nghe họ tiến tới gần. Ngay cả hai vị thẩm phán cũng lộ vẻ xúc động. Tôi ngước đầu lên tim se lại như có một bàn tay sắt đang siết chặt. Tôi nhìn chăm chú vào cánh cửa mở... Tên sát nhân bước vào.
Má hắn đỏ rực hai hàm răng cắn chặt làm nổi bật hai thớ thịt bạnh đến tận vành tai. Hai con mắt ti hí lo ngại dữ tợn chợt như hai con mắt sói long lanh dưới đôi chân mày rậm và nâu. Van Spreckdal chỉ bức tranh cho hắn xem. Vừa nhìn hắn tái mặt rồi rú lên một tiếng dữ dội làm tất cả chúng tôi lạnh người.
Đôi cánh tay vạm vỡ của hắn gạt bung mấy tên lính ra. Rồi hắn nhảy lùi ra đằng sau mấy bước. Một cuộc xung đột ác liệt diễn ra ở hành lang. Người ta chỉ nghe tiếng thở hổn hển của tên đồ tể những lời nói ngắn ngủi và tiếng chân của lính gác đổ lên. Cuối cùng là tiếng rơi nặng nề xuống sàn gạch. Cuộc xung đột xảy ra hơn một phút. Sau đó tên sát nhân bước vào phòng đầu cúi xuống mắt đầm đìa máu tay bị trói thúc ra sau lưng.
Hắn ngước nhìn bức tranh lần nữa ra dáng suy nghĩ lung lắm, rồi nói nho nhỏ như nói với chính hắn:
- Làm sao lại có người trông thấy mình vào lúc nửa đêm?
Vậy là tôi thoát chết
Erckmann Chatrian
Trước nhà thờ Saint Sébalt nơi góc đường Des Trabans là một quán nhỏ, vừa hẹp vừa cao cửa kính bụi bậm, trên nóc có dựng bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng thạch cao. Đó là nơi tôi trải qua những ngày buồn thảm nhất đời. Tôi đến thành phố Nureemberg để học hội họa từ các họa sư tên tuổi ở Đức, nhưng vì thiếu tiền nên đành phải vẽ ảnh, những ảnh xoàng xĩnh như các mụ to béo lắm lời, con mèo ngồi trên đầu gối, những ông xã trưởng đội mũ ba góc, những ông nhà giàu đầu chụp tóc giả...
Hết vẽ ảnh tôi vẽ những bản phác họa và sau cùng vẽ hình bóng. Với tôi không có gì thê thảm cho bằng luôn luôn bị viên quản lý khách sạn hạch sách. Sáng nào ông ta cũng mím môi giọng ồn ào vẻ xấc láo nạt nộ:
- Chừng nào ông mới chịu trả tiền cho tôi? Ông có biết tiền phòng của ông lên tới bao nhiêu rồi không? Hai trăm đồng "florin" và mười đồng "kreutzer". Không có bao nhiêu phải không?.
Những ai chưa nghe giọng xấc láo của tên quản lý khách sạn này không thể hiểu được nỗi khổ của tôi trong lúc bấy giờ. Tình yêu nghệ thuật óc tưởng tượng sự hăng hái đi tìm cái đẹp của tôi hoàn toàn khô héo. Tôi trở nên vụng về nhút nhát. Bao nhiêu nghị lực đều biến cũng như lòng tự trọng... Và thấy ông xã trưởng từ xa là tôi đã cúi đầu chào cẩn thận.
Một đêm không một xu dính túi quá lo ngại sợ bị viên quản lý dể sợ kia cho vào tù, tôi nhất định tự tử bằng cách cắt họng. Với ý nghĩ đó tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn ngó ra cửa sổ, triền miên nghĩ ngợi đến trăm ngàn ý nghĩ về triết lý. Tôi tự hỏi:
"Con người là gì? Một con thú ăn tạp! Hai hàm răng có các loại răng chó, răng cửa, răng hàm chứng minh điều đó. Răng chó để ăn thịt, răng cửa để ăn trái cây và răng hàm để nghiền. Nhưng khi không còn gì để nghiền thì con người là một thứ vô nghĩa trong vũ trụ, một điều thừa, một bánh xe thứ năm...".
Đó là những cảm nghĩ của tôi. Tôi không dám mở con dao cạo ra, sợ rằng tôi bỗng nhiên trở nên can đảm mà tự tử. Sau những lý luận như thế, tôi thổi ngọn đèn sáp hoãn lại mọi việc vào ngày mai. Tên quản lý khách sạn đã làm cho tôi trở nên ngu ngốc hoàn toàn.
Tôi không thấy gì khác hơn là những hình bóng và điều mong muốn duy nhất của tôi là có tiền để ném vào mặt hắn mỗi khi hắn ta đến quấy rầy tôi. Nhưng đêm đó có một cuộc cách mạng kỳ lạ trong đầu óc tôi. Tôi thức dậy vào lúc một giờ khuya, vẽ nhanh lên giấy một bức phác họa theo loại Hòa Lan tức là loại kỳ quái, không có một chút liên hệ gì tới các quan niệm về hội họa thông thường của tôi.
Các bạn hình dung bức phác họa là một khoảng sáng tối âm u, nằm giữa những bức tường cao loang lở. Những bức tường dầy đó có những móc sắt nhọn hoắt đóng ở trên cao vào khoảng hai ba thước. Người ta đoán ngay từ đầu khung cảnh đó là một lò sát sinh. Bên trại có một hàng rào mắt cáo. Bạn thấy một con bò mổ banh ra treo lên trần bằng những cái móc to tướng. Những vũng máu chảy trên nền gạch và dồn xuống một đường mương đầy rác đến dị kỳ. Ánh sáng chiếu từ trên giữa các ống khói. Bóng các mái nhà kế cận chồng chất lên nhau.
Bên trong là một trại... Dưới trại là một đống củi. Trên đống củi có một cái thang, vài bó rơm, một đống dây, một chuồng gà và một chuồng thỏ phế thải. Làm sao các chi tiết ô hợp đó lại chạy vào trí tưởng tượng của tôi? Tôi cũng không biết, không thấy một cảnh nào như vậy đê nhớ lại rồi vẽ ra. Ấy vậy mà mỗi một nét bút chỉ là một nét vẽ chững chạc được nghiên cứu cẩn thận. Không thiếu một cái gì hết!
Nhưng bên mặt còn một góc bỏ trắng. Tôi không biết vẽ gì lên đó. Kìa, có một vật gì thấp thoáng cử động. Bỗng nhiên tôi thấy một bàn chân, một bàn chân lật ngược tách khỏi mặt đất. Mặc dầu vị trí đó không thể có được tôi vẫn theo sáng kiến đó, không hề hiểu rõ mình sẽ vẽ gì đây. Bàn chân đó dính vào ống quyển... và trên ống quyển có một chéo áo...
Liền sau đó một mụ già xanh xao tiều tụy, tóc rối bời té sấp trên bờ giếng trong khi chống cự với một nắm tay đang siết cổ mụ..Thì ra tôi vẽ một bức tranh giết người. Ngọn bút rơi khỏi bàn tay tôi. Mụ già trong tư thế chống cự tận lực nằm vắt lên thành giếng, mặt nhăn nhó vì kinh hãi hai tay bám chặt lấy cánh tay của kẻ sát nhân, mụ ta làm tôi hoảng sợ...
Tôi không dám nhìn mụ. Nhưng về phần tên sát nhân thì tôi không thấy trừ cánh tay. Tôi không thể kết thúc được bức tranh. Tôi tự nhủ: "Mệt rồi. Chỉ còn có nét mặt của tên sát nhân nữa mà thôi. Ngày mai mình sẽ vẽ nốt. Dể mà!".
Tôi nằm xuống giường, hãy còn kinh sợ trước những gì vừa thấy qua nét vẽ của chính mình. Năm phút sau tôi ngủ như chết. Sáng hôm sau tôi thức dậy khi trời hãy còn mờ tối. Vừa mặc quần áo xong và sắp sửa tiếp tục bức tranh bỏ dở thì có hai tiếng gõ cửa. Tôi lên tiếng:
- Cứ vào!
Cánh cửa mở. Một người đã già cao, ốm mặc toàn màu đen bước vào thềm. Hai mắt ông gần nhau quá, mũi ông quặp xuống như mũi két, trán ông rộng xương xẩu. Gương mặt ông có vẻ nghiêm khắc ông chào tôi, hỏi thật nghiêm:
- Ông là họa sĩ Christian Vénius?
- Chính tôi thưa ông.
Ông ta gật đầu một lần nữa, tự giới thiệu:
- Tôi là Nam tước Frederic Van Spreckdal!
Sự xuất hiện của ông Van Spreckdal, chánh án tòa đại hình trước căn gác tối tăm của một họa sĩ vô danh khiến tôi thấy mất bình tĩnh. Tôi nhìn bàn ghế tồi tàn sàn gác bụi bậm, xấu hổ trước cảnh nghèo của mình. Nhưng ông Van Spreckdal không chú ý đến những chi tiết đó. Ông ngồi trước bàn nhỏ của tôi nói:
- Họa sĩ, tôi đến đây...
Nhưng cùng lúc đó hai mắt ông dừng lại trên bức họa chưa hoàn thành... ông không nói hết câu. Tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn và sự chiếu cố bất ngờ của nhân vật này dành cho một trong các tác phẩm của tôi, khiến tim tôi đập mạnh vì mối lo sợ khó nói. Độ một phút, Van Spreckdal ngước đầu lên nhìn tôi thật chăm chú.
- Ông là tác giả bức họa kia?
- Dạ phải.
- Giá bức họa đó bao nhiêu?
- Tôi không bán các bức phác họa. Đó chỉ là một dự án.
Ông khách kêu lên một tiếng "A!" khi đỡ tờ giấy lên với mấy đầu ngón tay bằng vàng, ông lấy một kính phóng đại trong áo "gi lê" ra, bắt đầu nghiên cứu bức họa một cách trầm lặng. Ánh nắng mặt trời chiếu xiên xiên qua gác. Van Spreckdal không nói một lời nào sống mũi ông quằm xuống đôi mày ông cau lại.
Không khí hoàn toàn im lặng tôi nghe rõ tiếng vo ve của một con muỗi mắc trong lưới nhện. Sau cùng không nhìn tôi ông hỏi:
- Khuôn khổ bức tranh này như thế nào?
- Bề ngang ba bộ, bề dài bốn bộ.
- Giá tiền?
- Năm mươi đồng "ducat".
Van Spreckdal đặt bức ảnh xuống lấy trong túi chiếc ví dày màu xanh lá cây, giống như một quả lê. Ông trút các đồng tiền vàng ra:
- Đây, năm mươi "ducát".
Nam tước đứng lên chào tôi. Tôi nghe tiếng chiếc gậy cán ngà của ông nện trên các bậc thang gác. Khi ông ta xuống đến tầng dưới tôi mới hoàn hồn và sực nhớ chưa cảm ơn ông ta. Tôi chạy nhanh xuống năm tầng lầu. Nhưng ra tới đường nhìn hai bên con đường vắng tanh. Tôi hổn hển" "Lạ quá!", rồi hổn hển leo trở lên gác. Sự xuất hiện đột ngột của Van Spreckdai khiến tôi ngây ngất bàng hoàng. Ngắm chồng "ducat" ngời sáng dưới ánh nắng, tôi ngẫm nghĩ:
"Hôm nay, mình tính cắt cổ tự tử vì mấy đồng "florin" không đáng, bây giờ thì cả một sản nghiệp từ trên trời rơi xuống. Mình không mở con dao cạo ra là phải! Và từ đây về sau nếu có ý nghĩ tự tử nữa thì mình nên hoãn lại ngày hôm sau. Sau những cảm nghĩ đó tôi ngồi lại để tiếp tục vẽ nốt bức tranh. Chỉ cần bốn nét bút là xong.
Nhưng tôi thất vọng não nề. Bốn nét bút đó tôi không vẽ được. Tôi mất tong cảm hứng. Nhân vật bí hiếm kia tôi không thể nào hình dung ra mặt mũi. Tôi cố suy nghĩ cố phác họa nhưng không vẽ ra hồn. Tôi đổ mồ hôi có giọt. Đúng lúc đó tên quản lý bước vào phòng tôi không gõ cửa theo thói quen. Hắn nhìn chồng tiền vàng, kêu lên:
- A ha! Tôi bắt được quả tang ông có nhiều tiền vàng như thế này, thế mà ông bảo là không có tiền!
Và mấy ngón tay nhọn hoắt của hắn quờ quạng về phía đống tiền vàng trên bàn. Tôi ngẩn ngơ vài giây. Rồi chợt nhớ tên quản lý luôn hoạnh họe bấy lâu nay, tôi nhảy xổ tới thộp cổ hắn tống ra khỏi phòng rồi sập cửa làm hắn dập cả mũi. Tất cả những việc đó xảy ra thật nhanh. Tôi nghe viên quản lý kêu ầm lên ở bên ngoài:
- Trả tiền đây! Đồ ăn cắp!
Những người mướn phòng xung quanh đổ ra ngoài. Tiếng họ lao xao:
- Có việc gì vậy?
Tôi mở cửa thật bất ngờ đạp mạnh vào mông tên quản lý khiến hắn lăn ùng ục xuống lầu, có đến vài mươi bậc thang. Tôi hét lên:
- Việc gì hả? Tôi tống cổ thằng đó xuống lầu. Chỉ có vậy thôi!
Xong tôi khóa cửa lại trong tiếng cười của các bạn phòng bên. Tôi rất hài lòng về chuyện vừa làm xoa tay thích thú. Chuyện xảy ra khiến tôi hứng chí. Tôi ngồi xuống toan tiếp tục vẽ thì có tiếng động kỳ lạ. Đó là tiếng báng súng đặt xuống vỉa hè. Tôi nhìn qua cửa sổ thấy ba cảnh sát súng dựng dưới chân đứng canh trước cửa nhà. Tôi lo sợ hỏi thầm:
"Thằng quản lý gãy tay, lọi cẳng chăng?".
Các bạn có thấy điều kỳ quái trong đầu óc con người chưa. Ngày hôm qua tôi tính cắt cổ tự tử, mà bây giờ lại run rẩy khi nghĩ tới cảnh lính bắt về tội đạp tên quản lý té lầu! Có tiếng ồn ào trên thang lầu, tiếng chân người tiếng súng khua tiếng những lệnh truyền cộc lốc. Bỗng người ta cố mở cửa phòng tôi. Cửa đã khóa. Có tiếng hô to:
- Mở cửa! Cho lính vào!
Tôi đứng lên, run rẩy, hai chân lảo đảo.
- Mở cửa!
Tôi có ý nghĩ muốn trèo lên mái nhà. Nhưng vừa ló đầu qua khung cửa sổ nhỏ bé, tôi giật thụt lùi đầu óc choáng váng. Tôi thấy các cửa sổ ở tầng dưới với những cửa kính, những chậu hoa... dưới nữa là bao lơn sau cùng là trụ đèn đường, bảng hiệu "Tônnelet Rouge" và sau hết là ba lưỡi lê sáng chóe đang chờ tôi rơi xuống để đâm suốt từ lòng bàn chân đến gáy.
Trên mái nhà đối diện có con mèo to màu hung đỏ, núp sau ống khói rình một đàn chim sẻ đang kêu chíu chít trên máng xối. Tôi không thể hình dung mắt con người có thể thấy thật rõ và nhanh đến vậy trong khi lo sợ. Bên ngoài người ta ra lệnh đến lần thứ ba:
- Mở cửa! Hay để người ta phá cửa đây!
Thấy trốn không được tôi lảo đảo đến cửa... vặn khóa. Vụt một cái hai cánh tay chụp lấy cổ tay tôi. Một người mập lùn miệng đầy hơi rượu nói:
- Đây rồi!
Ông ta mặc áo xanh ve chai gài nút tới cổ, để râu rậm đeo đầy cà rá và tên là Passauf. Hắn là cảnh sát trưởng. Bên ngoài có đến năm tên lính bồng súng nhìn tôi chăm chỉ. Tôi hỏi Passauf:
- Ông muốn gì?
Hắn quát:
- Xuống lầu!
Và ra lệnh cho một tên lính nắm tay tôi lôi đi. Mấy tên kia lập tức xông đến lục tung căn phòng nhỏ bé của tôi. Tôi bước xuống lầu dựa vào tên lính, như một kẻ ho lao đến thời kỳ thứ ba tóc tai rối nùi, mỗi bước mỗi vấp.
- Tôi bắt anh!
Người ta vứt tôi lên xe ngựa kẹp tôi giữa hai tên lính vạm vỡ. Khi chiếc xe chạy tôi còn nghe có tiếng bước chân chạy theo của trẻ nhỏ. Tôi hỏi một trong hai người lính:
- Tôi bị bắt về tội gì?
Tên này nhìn tên lính kia, mỉm cười một cách khó hiểu, nói:
- Này Hana, nó hỏi nó bị bắt về tội gì kìa?
Nụ cười đó khiến tôi sợ tái người. Không lâu một bóng mát bao trùm lên chiếc xe. Tiếng chân ngựa vang dưới nền gạch khô khốc. Chừng như tôi đã được đưa tới khám đường. Đối với tôi bây giờ cái gì cũng trở lên đen tối. Từ móng vuốt của tên quản lý tôi rơi vào nơi ngục tối, nơi người vô thì nhiều mà người ra thì ít. Người ta giam tôi một cách thản nhiên như cất một đôi vớ trong tủ, rồi mặc kệ đó nghĩ đến những chuyện khác.
Tôi ngồi bất động đến mười phút nghĩ mông lung: Thằng cha quản lý đã hét to: "Nó giết tôi" khi bị tôi đạp té xuống thang lầu. Nhưng hắn không nói rõ là ai giết hắn. Mình sẽ khai thủ phạm là ông già bán kính ở kế bên. Lão ta sẽ bị treo cổ thay cho mình.
Ý nghĩ đó làm tôi bớt lo. Tôi nhìn xung quanh phòng giam. Phòng mới quét vôi không có một hình vẽ nào trên tường trừ một hình cái giá treo cổ mà kẻ vào đây trước tôi đã vẽ. Ánh sáng bên ngoài chiếu vào qua một lỗ tròn trên cao cách mặt đất chừng ba thước. Đồ đạc trong phòng chỉ gồm một cái ổ rơm và một cái chậu.
Tôi ngồi lên ổ rơm hai tay bó gối buồn thảm không tả nổi. Tôi nghĩ là tên quản lý trước khi chết đã tố cáo tôi. Tự nhiên tôi thấy nhột ở chân như có kiến bò và tôi ngẩng cổ lên húng hắng ho như có sợi dây siết mạnh ở cổ.
Ngay lúc đó tên cai ngục mở cửa bảo tôi đi theo hắn. Tôi rùng mình vì lúc nào hắn cũng có hai tên đồ tể vạm vỡ theo sau. Chúng tôi đi qua mấy dãy hành lang dài. Tôi thấy sau lưới sắt tên Jic Jack sắp sửa bị hành quyết vào sáng hôm sau. Hắn mặc áo bó sát tay chào và hát lên với giọng khàn khàn. Khi thấy tôi hắn kêu lên:
- Chào người anh em! Tôi sẽ dành cho người anh em một chỗ ở phía bên mặt.
Hai tên lính và viên cai ngục nhìn nhau cười trong khi tôi nổi da gà. Viên cai ngục đẩy tôi vào một gian phòng cao thật tối có ghế sắp theo hình bán nguyệt. Phòng vắng vẻ có hai cửa sổ cao đóng lưới sắt kín mít và pho tượng chúa bằng gỗ nâu, hai tay dang ra đầu ngả xuống vai. Cảnh tượng đó khiến tôi hoang mang cực độ. Tất cả ý nghĩ vu khống trước đó bỗng dưng biến mất. Đôi môi tôi mấp máy cầu nguyện.
Đã từ lâu tôi không cầu nguyện, nhưng tai biến luôn luôn khiến con người khuất phục trước đấng vô hình. Trước mắt tôi trên ghế cao là hai nhân vật ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Dù vậy tôi cũng nhận ra Nam tước Van Spreckdal nhờ cái bóng ông in trên cửa kính. Nhân vật thứ hai mập má đầy thịt hai bàn tay ngắn. Hắn cũng mặc áo thẩm phán như ông Van Spreckdal. Người phía dưới là lục sự Conrad. Hắn đang cho cán viết vào đầu lỗ tai. Khi tôi đến hắn dừng tay lại nhìn tôi một cách tò mò. Người ta bảo tôi ngồi xuống. Van Spreckdal cao giọng hỏi:
- Christian Vénius, làm sao anh có bức ảnh này?
Ông ta đưa lên bức tranh tôi vẽ chưa xong. Người ta trao bức tranh đó cho tôi. Sau khi xem, tôi đáp:
- Tôi là tác giả.
Im lặng khá lâu, rồi lục sự Conrad ghi lời nói của tôi. Tôi nghe ngòi bút của ông ta cào trên giấy và tôi nghĩ:
"Câu hỏi đó có nghĩa gì? Nó có liên quan gì đến việc tôi đập thằng cha quản lý đâu!"
Van Spreckdal lại hỏi:
- Anh là tác giả, chủ đề của bức tranh là gì?
- Đó là bức tranh tưởng tượng.
- Anh có thấy các chi tiết này ở đâu không?
- Thưa không. Tất cả các chi tiết đều do tôi tưởng tượng.
Ông chánh án nói với giọng nghiêm khắc:
- Bị can Christian! Tôi yêu cầu anh nêu suy nghĩ cẩn thận. Đừng có nói dối!
Đỏ mặt và với giọng bất bình tôi kêu to:
- Tôi nói sự thật!
Van Spreckdal nói:
- Lục sự ghi vào biên bản.
Ngòi bút lại chạy rần rật trên giấy. Ông chánh án lại hỏi:
- Còn người đàn bà này. Người đàn bà mà người ta giết bên miệng giếng, anh cũng tưởng tượng ra nốt?
- Đúng vậy!
- Anh không hề nhìn thấy bà ta?
- Không hề!
Van Spreckdal đứng lên bực mình. Nhưng ông ta ngồi xuống tham khảo ý kiến đồng nghiệp. Hai bóng đen thẩm phán nổi bật lên trên nền sáng của cửa sổ và ba người đứng sau lưng tôi. Không khí trong phòng im lặng đến ngột ngạt... tất cả đều làm cho tôi hoang mang lo sợ đến bải hoải. Tôi nghĩ thầm:
"Họ muốn gì ở mình?
Bỗng Van Spreckdal nói với ba người lính:
- Đưa hắn lên xe. Chúng ta tới đường Metzrstrasse.
Rồi ông nói với tôi:
- Christian Vénius. Anh đang ở trong tình thế ngặt nghèo. Nếu anh thấy công lý của loài người cứng rắn thì anh chỉ còn chờ sự tha thứ của Chúa. Anh sẽ xứng đáng với tình thương của Chúa nếu anh thú tội.
Lời nói đó như búa bổ vào đầu tôi. Tôi ngã người ra sau đưa tay lên trời kêu to:
- Trời ơi! Thật là một cơn ác mộng!
Rồi tôi ngất xỉu. Khi tôi tỉnh lại chiếc xe đang chầm chậm trên đường. Phía trước có một chiếc xe khác. Hai tên đồ tể vạm vỡ vẫn luôn kè kè bên tôi. Một tên mời bạn hút thuốc. Tôi đưa tay về phía bao thuốc hắn vội vàng giựt tay lại, cho vội bao thuốc vào túi. Mặt tôi đỏ lên vì xấu hổ. Tôi quay đầu vào vai che giấu cơn xúc động. Bỗng tên lính có bao thuốc nói:
- Nếu anh nhìn ra ngoài chúng tôi bắt buộc phải còng tay anh lại.
Tôi nghĩ thầm:"Quỷ sao không vật mày chết cho rồi!". Chiếc xe dừng lại. Một tên bước xuống. Tên còn lại nắm cổ tôi khi thấy tên kia đã sẵn sàng để đón tôi, hắn đẩy tôi xuống xe một cách tàn nhẫn. Tất cả những sự thận trọng đó cho thấy con người tôi đích thị là một kẻ bất lương. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu rõ lời buộc tội từ phía hai ông thẩm phán. Bỗng một cảnh tượng ghê gớm mở mắt tôi ra đẩy tôi vào tận cùng tuyệt vọng.
Người ta đẩy tôi bước vào một con đường thấp lót gạch lồi lõm, tường rỉ nước vàng mùi hôi thối xộc vào mũi khiến tôi choáng váng. Tôi mò mẫm đi giữa bóng tối phía sau có hai tên lính vạm vỡ áp giải. Đằng xa thấp thoáng một cái sân rộng. Càng đi tới gần tôi càng kinh sợ. Không phải một sự lo sợ thông thường, mà đó là một sự khiếp đảm ghê gớm giống như một cơn ác mộng. Tôi chỉ muốn lùi lại chứ không thể bước được. Một tên lính đẩy mạnh vai tôi ra lệnh:
- Bước tới chứ!
Đến đầu hành lang tôi thấy trước mắt cái cảnh mà tôi vừa vẽ trong đêm qua. Đúng là cái sân ở giữa những bức tưòng dày, có những móc sắt, những đống sắt vụn, chuồng gà, chuồng thỏ... không có một chi tiết nhỏ nào bị bỏ quên. Tôi như bị sét đánh ngang tai trước hiện tượng kỳ lạ đó. Hai ông thẩm phán đứng bên cạnh miệng giếng. Dưới chân họ nằm sóng sượt một mụ già. Mụ nằm dưới tóc tai rối bời, mặt tái ngắt, hai mắt mở trừng trừng, lưỡi thè giữa hai hàm răng. Thật là một cảnh tượng kinh tởm. Van Spreckdal nói với giọng trịnh trọng:
- Sao, anh nghĩ gì?
- Anh có nhận đã ném mụ già này? Mụ Thérésa Beker xuống giếng sau khi bóp cổ giựt tiền của mụ ta?
Tôi gào to lên:
- Không! Tôi không biết mụ già này. Tôi không hề nhìn thấy mụ ta. Xin Chúa chứng cho tôi!
Van Spreckdal gắt:
- Thôi bao nhiêu đó đủ rồi!
Không nói thêm một lời ông cùng bạn đồng nghiệp bước nhanh ra. Hai tên lính nghĩ là họ có bổn phận còng tay tôi lại. Họ đưa tôi trở về khám. Trong cơn bàng hoàng lúc đó tôi hoàn toàn hoang mang, không biết có đúng là mình đã giết mụ già kia hay không. Đối với những tên lính gác, tôi rõ ràng đã là một tên tử tội.
Tôi không kể ra đây cơn xúc động của tôi trong đêm đầu tiên nằm khám. Tôi ngồi thừ trên ổ rơm nhìn qua khung cửa sổ nhỏ thấy đoạn đầu đài xa xa. Tôi nghe tiếng người gác đêm kêu to lên trong thanh vắng:
- Hỡi dân chúng Nuremberg. Hãy yên giấc. Một giờ!... Hai giờ!... Ba giờ!...
Tôi thắc mắc nghĩ ngợi nhiều. Người ta bảo thà bị xử giảo vô tội còn hơn là có tội. Đúng! Nhưng đó là về phần hồn. Còn về phần xác thì chết vô tội hay có tội cũng y như nhau. Trái lại phần xác vẫy vùng tự giải thoát khi biết vai trò của mình đã chấm dứt bằng sợi dây thắt cổ. Đó là những cảm nghĩ buồn thảm của tôi trong đêm ghê gớm ấy.
Ngày dần dần sáng thoạt tiên còn mờ mờ rồi từ từ sáng tỏ. Bên ngoài đường phố nhộn nhịp. Ngày hôm ấy nhằm ngày thứ sáu ngày nhóm chợ. Tôi nghe rõ mồn một tiếng cọc cạch của xe bò chở rau cải gà vịt. Tiếng gà kêu trong chuồng tiếng những người nông dân trò chuyện với nhau khiến lòng tôi lâng lâng.
Khu chợ trước mặt khám đã mở cửa. Người ta chắc đang sửa soạn chỗ ngồi. Khi ngày sáng rực tiếng cười nói của dân chúng vang lên. Những người đi chợ lui tới bàn cãi mặc cả giúp tôi đoán bây giờ vào khoảng tám giờ sáng. Với ánh sáng tôi yên tâm hơn. Những ý nghĩ đen tối trong đêm biến mất. Tôi cảm thấy thèm thấy những gì đang xảy ra bên ngoài.
Những người tù trước tôi đã đục những lỗ hổng trên tường để leo lên khung cửa sổ cho dể. Tôi leo lên đó đút đầu qua cái lỗ tròn nhìn ra ngoài. Tôi thấy đám đông sự sống. Tự nhiên tôi chảy nước mắt. Tôi không nghĩ tới tự vẫn nữa. Tôi cần sống cần thở. Đó thật là một điều phi thường. Tôi lầm bầm:
"Được sống là hạnh phúc. Dù người ta bắt mình kéo xe hay xiềng chân vào sắt cũng mặc, miển sống được là được rồi!".
Tôi lại nhìn sang chợ nhìn những mụ già đang ngồi sau những thúng rau giỏ gà... rổ trứng. Các người hàng thịt đang chặt thịt trên thớt. Mấy anh nông dân đầu đội nón nỉ rộng vành chống gậy chắp tay sau lưng hút thuốc. Tiếng động của đám đông sinh hoạt náo nhiệt của chợ giúp tâm trí tôi biết suy nghĩ và trong hoàn cảnh buồn thảm hiện tại, tôi vẫn thấy sung sướng được còn sống trong thế giới loài người.
Khi tôi nhìn ra ngoài như vậy có một người đi ngang qua. Hẳn là một tên đồ tể đang nghiêng lưng vác một phần con bò trên vai. Hai cánh tay trần khuỷu tay đưa lên trên đầu cúi xuống. Tóc bay phất phới che kín cả mặt. Dù vậy vừa thấy hắn ta là tôi đã giựt nảy mình. Tôi nói thành tiếng:
- Chính hắn!
Tất cả máu trong người tôi chạy dồn về tim. Tôi leo xuống toàn thân run rẩy đến cả đầu móng tay tái xanh hết cả mặt mày lẩm bẩm:
- Chính hắn!
Trong khi hắn tự do phây phây thì mình sắp chết thay cho hắn! Chúa ơi! Bây giờ tôi phải làm gì? Phải làm gì? Một ý nghĩ đột ngột một sáng kiến từ trên cao lóe lên trong trí tôi. Tôi cho tay vào túi áo... hộp bút chì hãy còn trong đó. Tôi liền chạy ngay lại bức tường dày vẽ lại khung cảnh xảy ra vụ ám sát với một hứng thú lạ thường không còn có sự mơ hồ dọ dẫm.
Tôi biết kẻ sát nhân. Tôi trông thấy hắn dường như hắn đang làm mẫu trước mắt tôi. Vào khoảng mười giờ viên cai ngục bước vào khám giam. Nét mặt chim cú thường ngày của hắn nhường chỗ cho sự thích thú. Bước trên thềm hắn hỏi:
- Có thể như thế chăng?
Tôi vẫn tiếp tục ngồi vẽ với tất cả sự phấn chấn tột cùng.
- Đi gọi các ông thẩm phán đến đây giùm tôi!
Tên cai ngục ngần ngừ:
- Các ông ấy đang chờ nơi phòng biện lý.
Tôi vẫn chăm chú vẽ nhân vật kỳ lạ trong bức tranh nói:
- Tôi muốn tiết lộ nhiều điều mới lạ với các ông thẩm phán. Nhân vật tôi vẽ như sống thật. Bộ mặt hắn rất đáng sợ.
Tên cai ngục bước ra ngoài. Vài phút sau hai vị thẩm phán tới. Họ đứng nhìn bức tranh kinh ngạc đến cực độ. Tôi đưa cánh tay ra cả người run rẩy nói:
- Đây là thủ phạm!
Sau khi im lặng một lúc Van Spreckdal hỏi:
- Tên hắn?
- Tôi không biết. Nhưng hắn hiện ở trong chợ đang chặt thịt ở thớt thứ ba bên trái nếu đi từ con đường Trabans vào chợ. Van Spreckdal quay lại ông bạn đồng nghiệp:
- Ông nghĩ sao?
Ông thẩm phán kia trịnh trọng bảo:
- Cho người đưa hắn tới đây.
Vài tên lính đứng ngoài hành lang thi hành lệnh đó. Các thẩm phán vẫn đứng nhìn bức tranh của tôi. Còn tôi, tôi ngồi vật xuống ổ rơm đầu gục lên gối mệt nhoài như chết. Không bao lâu có tiếng chân vang lên bên ngoài. Những ai chưa hề chờ giải thoát chưa đếm từng phút dài như những thế kỷ, những ai chưa biết đến xúc động cực mạnh của sự chờ đợi của sự kinh hãi của sự hy vọng của hoang mang... những kẻ đó không thể thông cảm được rúng động của tôi lúc bấy giờ.
Tôi nghe cả tiếng chân của tên sát nhân bước giữa đám lính. Tôi nghe họ tiến tới gần. Ngay cả hai vị thẩm phán cũng lộ vẻ xúc động. Tôi ngước đầu lên tim se lại như có một bàn tay sắt đang siết chặt. Tôi nhìn chăm chú vào cánh cửa mở... Tên sát nhân bước vào.
Má hắn đỏ rực hai hàm răng cắn chặt làm nổi bật hai thớ thịt bạnh đến tận vành tai. Hai con mắt ti hí lo ngại dữ tợn chợt như hai con mắt sói long lanh dưới đôi chân mày rậm và nâu. Van Spreckdal chỉ bức tranh cho hắn xem. Vừa nhìn hắn tái mặt rồi rú lên một tiếng dữ dội làm tất cả chúng tôi lạnh người.
Đôi cánh tay vạm vỡ của hắn gạt bung mấy tên lính ra. Rồi hắn nhảy lùi ra đằng sau mấy bước. Một cuộc xung đột ác liệt diễn ra ở hành lang. Người ta chỉ nghe tiếng thở hổn hển của tên đồ tể những lời nói ngắn ngủi và tiếng chân của lính gác đổ lên. Cuối cùng là tiếng rơi nặng nề xuống sàn gạch. Cuộc xung đột xảy ra hơn một phút. Sau đó tên sát nhân bước vào phòng đầu cúi xuống mắt đầm đìa máu tay bị trói thúc ra sau lưng.
Hắn ngước nhìn bức tranh lần nữa ra dáng suy nghĩ lung lắm, rồi nói nho nhỏ như nói với chính hắn:
- Làm sao lại có người trông thấy mình vào lúc nửa đêm?
Vậy là tôi thoát chết
Erckmann Chatrian
#117
Gửi vào 22/06/2011 - 06:06
CÓ MA KHÔNG?
Miền Nam mưa nắng hai mùa. Ở thôn quê vào khoảng tháng tám, tháng chín Âm lịch, thì bầu trời ui ui ảm đạm, mưa rỉ rả, gió lành lạnh thổi. Sáng mưa rơi, trưa sụt sùi, chiều đổ lệ... Bà nội tôi thường nói:
- Mưa gì mà mưa ngày mưa đêm mưa thúi trời thúi đất, không làm ăn gì được ráo!.
Ông bà cha mẹ lo mùa màng bị mưa dai dẳng sũng nước làm úng gốc, vàng mầm... thì cây trái rau cải sẽ không được tươi tốt. Gạo nếp mà thất mùa thì thôn dân sẽ phải chạy gạo mệt cầm hơi chớ phải chơi đâu!
Ấy vậy mà bọn con nít chúng tôi chịu lắm! Bởi sau khi cơm nước cho buổi chiều xong. Ngoài trời mưa vẫn còn giọt ngắn giọt dài. Gió thổi hiu hiu lâu lâu hắt mạnh mưa rào rào vào vách nhà. Và thỉnh thoảng có tiếng sấm gầm gừ từng vệt sét nổ ròn tan lóe ánh sáng rồi phụt tắt. Mọi nhà đều lên đèn là lúc gia đình tôi nhứt là mấy chị em tôi rất hạnh phúc.
Ba tôi ngồi vót lạc tre hay đan rổ. Má tôi khâu lại mấy chiếc áo sút nút hay sứt đường chỉ. Chị em chúng tôi ngồi quanh bên bà nội đứa thì bóp tay đứa thì đấm lưng hay bóp chân, và miệng eo éo đòi bà kể chuyện đời xưa. Các chị lớn của tôi thì bao giờ cũng có nhiều ý kiến. Chị Hai tôi bảo:
- Kể chuyện ma đi bà nội.
Tôi cũng lên tiếng đòi:
- Nội kể chuyện đời xưa đi. Chuyện đời xưa hay hơn.
Chị Ba tôi là đứa xảnh xẹ nhứt nhà thường hay ăn hiếp tôi. Chị quay sang nguýt tôi con mắt có đuôi rồi bảo:
- Ngày nào mầy cũng đòi nội kể chuyện: Con Tấm Con Cám, Chàng Nhái Kiển Tiên, Nàng út Ống tre, Thạch Sanh Lý Thông... Nghe hoài mấy chuyện đó bộ mầy không biết chán sao? Còn tao nghe riết rồi thuộc lòng luôn. Mầy muốn nghe hôm nào tao sẽ kể cho mầy nghe tối ngày sáng đêm. Bây giờ hãy để nội kể chuyện ma. Nội kể chuyện ma hay lắm. Kể chuyện ma cho chúng cháu nghe đi nghen nội.
Thấy tôi đỏ mắt vì vô cớ bị chị nạt. Bà nội tội nghiệp cô cháu gái nhỏ nầy nên rầy chị và dỗ dành tôi:
- Cháu đừng nạt em như vậy. Thôi để bà nội kể chuyện ma rồi chút nữa vô mùng bà sẽ kể chuyện: “Đờn kêu tích tịch tình tang, ai đem công chúa lên thang mà về? Tôi cảm thấy được nội ưu đãi hơn các chị nên khoái chí mỉm cười gật đầu bằng lòng. Chị Ba tôi có vẻ ghen tức nên xụ mặt và không quên ném cái háy nẩy lửa, trề cái môi dài cả thước về phía tôi.
Hai chị tôi đã lớn nên biết nịnh bợ. Khi xong cơm nước muốn nghe kể chuyện đời xưa là họ đã chuẩn bị cho nội bình trà nóng, những lá trầu vàng tươi mơn mởn mới hái và vài trái cau dầy ruột đỏ lòng son đã chẻ sẵn để trong khai cho bà. Nội tôi khoan thai phết lớp vôi trắng mỏng lên một phần của lá trầu vàng. Bà từ từ cuốn lá trầu lại để vào miệng nhai nhỏ nhẻ với miếng cau dầy. Rồi bà tằng hắng lấy giọng kể:
- Ma là hồn của người chết không được thầy chùa tụng niệm hướng thiện, không được gia đình cúng kiếng nên đói khổ vất vưởng bên ngoài thành ma. Hoặc người lúc sống làm những chuyện sát nhơn ác đức nên khi chết xuống Âm Phủ bị phạt làm ma. Không được đầu thai làm người hay con vật hoặc đồ vật khác... Trong số các loại ma có ma cà rồng là hung dữ nhứt.
Bà tôi dừng lại vo tròn cục thuốc xỉa để vào giữa hai môi rồi độn lên mép môi trên. Tôi xích gần lại bà hơn. Chị Hai, chị Ba tôi nhìn bà châm bẩm không nói năng gì. Bà chẩm rãi tiếp:
- Ma thường nhảy nhảy trên mặt đất chớ gót nó không đi chấm đất như người đời được. Ma còn thẳng một đường chớ không chạy nhảy quanh co được. Đó là những con ma hiện được hình... Còn ma không có hình mà chỉ có hồn lẫn lộn trong mưa trong gió, chỉ có cái bóng nó ẩn hiện cho người ta thấy trong lúc không có ánh sáng mặt trời nhứt là vào những đêm tối mưa gió lạnh lùng.
Bỗng chị Hai tôi lên tiếng:
- Hồi nào đến giờ nội có thấy ma chưa nội?
- Chưa! Bà chưa bao giờ thấy ma, người ta nói ai yếu bóng vía hoặc gần chết mới thấy ma.
Chị Ba tôi xen vào:
- Vậy thật sự có ma không nội? Con nghe chú Bảy Cho ở xóm trong bảo là đêm hôm qua trời đánh cây da xà trên đình. Vì cây da có cái bọng to lắm lâu nay bọn ma quỷ trú ẩn ở trỏng và con tắc kè tu lâu năm thành quỷ kêu rang rảng trong những đêm khuya. Ma quỷ thường hay phá phách ai ban đêm đi qua.
Hoặc ai đi chợ sớm đội trái cây trên đầu, thì chúng ngồi vắt vẻo trên nhánh cây thò tay xuống lấy... Hôm sau trên các cành cây đầy bánh trái. Chú Bảy nói là sau trời đánh đêm qua sáng ra không thấy xác người hoặc con vật chết mà thấy máu me dính đầy chung quanh gốc cây! Chú còn bảo đó là máu của quỷ ma nữa... Thiệt là dễ sợ quá hả bà?
Chị Hai tôi càm ràm nhăn mặt:
- Thôi mầy đừng có hỏi nữa! Cứ đâm xuồng bần vô hoài hà để nội kể con ma cà rồng cho mà nghe.
Bà nội kể:
- Ma cà rồng dữ lắm có nhiều cách để gạt người. Nó hiện hình được nó đi được, chạy nhảy được nó thành bóng hiện trong gió, trong tối và nhứt là nó hiện thành người nào đó để gạt người mà khó ai có thế phát giác ra được. Người ta kể rằng: Trong gia đình đó cưới được con dâu. Cô dâu mới giỏi lễ phép kính trên nhường dưới. Vui vẻ với mọi người. Trong gia đình chồng ai cũng thương mến. Một hôm ông chồng phát giác ra đêm đó vợ mình đi đâu mất tiêu gần sáng mới về.
Bởi từ khi cưới vợ đến giờ ông không để ý vợ ông tối nào cũng cho ông uống thuốc bổ, nhưng thật ra đó là thuốc ngủ cho ông đến sáng, nên ông mê man tàng tịch không hay biết chi cả. Tối hôm đó bà cũng cho ông uống nhưng ông lỡ tay làm đổ sợ vợ trách nên làm thinh không nói. Ngủ giữa khuya thức giấc ông thấy cái đầu vợ ông tự động tách ra khỏi mình rồi lẹ làng lông lốc lăn đi. Ông sợ điếng hồn nhưng cũng chạy theo phía sau coi cái đầu lăn đi đâu và làm gì?
Tôi đã ngồi vào lòng bà hồi nào tôi không hay biết. Còn hai chị tôi thì mỗi người ngồi sát và nắm lấy vạt áo bà. Cả ba chị em chúng tôi như nín thở để nghe bà kể:
- Ông chồng lặng lẽ theo sau thấy vợ lăn xuống nhà cầu ngoài sau vườn ăn sạch... Ông mới nhớ là những người nhà ông, dạo nầy bị ma cà rồng ăn phân thì trở nên xanh xao vàng vọt ốm đau hoài.
Bà dừng lại uống nước. Chị Hai tôi thúc:
- Rồi sao nữa bà?
- Ông chồng mới nhờ ông Pháp sư giỏi bắt ma quỷ về làm phép. Dân làng xúm lại bắt bà ta trói rồi chất lửa đốt. Bà ta bị đốt nóng khóc ỉ ôi. Đến khi lửa cháy đứt mất dây cột bà nhe hàm răng nanh ra cười ha hả rồi bay mất dạng...
Chị Hai tôi lo sợ, hỏi vội:
- Rồi sao nữa nội? À, hèn gì con thấy nhà cô Hai Hụ chung quanh nhà bả bỏ chà chôm bằng nhánh tre gai. Chắc là để cho ma cà rồng không vào được chớ gì?
Bà nội tôi chưa trả lời thì chị Ba lấy tay của chị lạnh ngắt thọt vào lưng phía trong áo của chị Hai và sửa giọng la lớn:
- Ma cà rồng đây!
Chị Hai tôi nhảy dựng lên và hét lớn! Vì vừa sợ vừa giựt mình! Thế là hai người vừa cãi vừa đánh lộn rầm rầm. Ba tôi nổi giận lôi ra đánh mỗi người mấy roi và cấm từ rày cả hai không được đòi bà nội kể chuyện ma cho nghe nữa!
Mấy năm sau hai chị tôi có chồng ở xa. Tôi theo gia đình về chốn thị thành vì ba tôi đổi về làm việc ở đó. Và cứ mỗi năm sau lễ Bắc (Paques, lễ Phục Sinh) đến mùa hè các trường được nghỉ. Học sinh không bận rộn nhiều thi cử thì tôi được ba má cho về ngoại ở suốt mùa hè. Ba má tôi nghĩ về quê có không khí trong lành, ăn trái cây rau đậu mới hái, cá tôm tươi được hít thở hương đồng cỏ nội, sẽ giúp nhiều cho cơ thể còm cõi nay đau mai yếu của tôi.
Tôi nhớ con sông Mỹ Đức Đông chảy quanh thôn ngoại. Có bóng dừa, cau, xoài, mận, gòn, me keo, ô môi... xanh um, gie ra che mát dọc theo hai bên bờ sông có chỗ uốn quanh có chỗ dài mút mắt. Nước sông trong vắt mát rượi và ngọt quanh năm từ nhánh sông Tiền Giang chảy vào.
Nhờ dòng sông nầy mà thôn ngoại tôi trù phú. Bởi sông cho nhiều thủy sản ngon hiền cùng phù sa để nuôi mầm lúa mạ. Sông dài nối liền những con sông khác chuyên chở gạo nếp, trái cây tôm cá đưa ra thị thành và tải về các loại đồ sành, đồ gốm từ Lái Thiêu đưa tới. Đường Thốt Nốt, khô, mắm lóc từ miệt Cà Mau, Tân Châu, Hồng Ngự chở sang
Tôi không sao quên được nơi ngã ba sông có ngôi nhà lá nhỏ của chú Năm Chài. Thím Năm người nhỏ dáng gầy ốm và nước da xanh xao. Trên đầu thím luôn đội cái khăn sọc vằn trắng đen cũ màu đã lợt phai. Gia đình chú Năm có chú thím và hai đứa con. Đứa con gái lớn mười lăm tuổi giúp hết mọi việc trong nhà cho thím quanh năm cứ eng eng đau bịnh. Thằng con út mười ba tuổi cũng giúp nhiều trong việc chài lưới phụ với cha trong sinh nhai của gia đình.
Vào mùa hè năm đó tôi ở khoảng mười bảy tuổi. Mợ dâu tôi đang ngồi chẻ cau để phơi khô, mợ đã kể rằng:
- Hôm qua mợ lên xóm trên nghe bà Bảy Rỗ nói vợ ông Năm Chài bị “mắc đàng dưới”. Thiệt hèn gì bả cứ bịnh hoài.
Ngoại tôi hỏi mợ:
- Bây nghe ai nói vậy? Tội nghiệp, nó mắc phải cái ngữ như vậy (sau tôi mới biết bà ngoại không dám nhắc đến mắc đàng dưới), có môn chờ bà Thủy kéo chớ không làm gì hết được?
Mợ dâu tôi trả lời:
- Con nghe nói hôm rằm vừa qua có ông Pháp sư ở đâu núi Điện Bà thuộc Châu Đốc xuống thăm sư cụ trên chùa đi ngang qua nhà thím. Ông sanh nghi bắt ấn biết ngay thím bị thứ đó. Nghe nói chú Năm và các con chú đến lạy sư cụ nhờ nói với ông Pháp sư cứu thím. Nhưng ông Pháp sư trả lời là quá trễ rồi ngày giờ thím đi không còn bao lâu nữa...
Là một đứa trẻ sống ở tỉnh thành nên tôi nghĩ tại sao bị bịnh mà không đưa đến bác sĩ hoặc đến nhà thương khám bịnh để trị. Ở đó tin ông thầy chỉ đi ngang qua mà nói thôi. Nhưng hai hôm sau tôi thấy mợ dâu tôi đi đâu về mà mặc áo bà ba đen đầu tóc chải gọn gàng. Hỏi ra tôi mới biết mợ đi đám ma thím Năm Chài! Mợ còn kể cái chết lạ lùng của thím Năm Chài cho cả nhà nghe vào buổi cơm chiều hôm đó:
- Ở xóm không ai còn lạ thím Năm Chài bịnh rề rề quanh năm suốt tháng. Nghe ông Pháp Sư nói ai cũng bán tính bán nghi. Nhưng chú Năm và hai đứa nhỏ con chú rất tin khi nghe Pháp Sư nói:
- Phải canh giữ bả vào giờ... đêm.... đừng cho bả rời mọi người nửa bước nhứt là đừng cho bả đến gần sông, gần rạch. Nếu qua khỏi đêm đó thì bả tự nhiên hết bịnh và sẽ sống lâu trăm tuổi...
Chú Năm và hai đứa nhỏ túc trực bên thím. Tối trước khi đi ngủ thì cửa đóng then gài. Chú nằm ngang cửa trước đứa con trai thì nằm cửa sau. Còn con gái thì ngủ chung mùng với thím. Vào đúng đêm cấm kỵ đó khi chùa dộng trống, chuông công phu sáng rộn rã nhưng ngoài trời vẫn còn tối thui. Con gái thím la hoảng lên là thím đi đâu mất rồi... Cha con chú đánh mõ la làng, chòm xóm chạy đến đi tìm kiếm giùm...
Sáng khi mặt trời lên người ta phát giác thím Năm Chài nằm chết dưới bãi sình, bên đám ô rô ở bờ sông trước nhà. Lúc đó tôi bắt đầu thấy ơn ớn xương sống. Nhưng tôi hỏi:
- Mắc đàng dưới là bịnh gì vậy ngoại?
Ngoại tôi có vẻ e ngại. Bà đến bên bàn Phật đốt nhang lâm râm cầu nguyện gì đó rồi bà dè dặt nói cho tôi nghe:
- Người ta đồn ai mà chạng vạng (trời vừa tối) đi tắm sông, hay sáng sớm mà nhìn xuống nước cười với bóng mình thì sẽ bị Hà Bá bắt. Nếu bắt cả thân xác không được thì sẽ bắt hồn rồi sẽ bắt thân xác sau như thím Năm đó.
- Hà Bá là ai? Và bắt người ta để làm gì vậy ngoại?
- Đó là ma quỷ ở dưới nước. Bà nghe người ta nói Hà là sông nước, còn Bá là bá vương là người có quyền hạn lớn. Nó tóm lại là một con quỷ có nhiều quyền lực ở dưới nước. Nó bắt người để làm kẻ hầu người hạ làm nô lệ hoặc để dành ăn thịt.. Nhứt là những đứa con gái chưa chồng mà đêm hôm tắm sông, hay bọn trẻ tối ngày trầm nghịch dưới nước thì không nên đâu đó...
Rồi có những chuyện ma được kể trong nhân gian ở miệt quê thì đủ loại đủ thứ, đủ thiên hình vạn trạng... Người nghe mà rùng mình rỡn óc. Nghe không dám bước xuống giường. Còn nằm ở trên giường thì trùm mền kín mít không dám bỏ ra dù trời nóng và mồ hôi đổ ra như tắm. Họ còn nói những nơi có nhiều ma nhứt là những cây cao bóng mát có từ mấy chục năm quanh đình, miễu, chỗ có người thắt cổ tự vận, khúc sông có người chết chìm..Thời gian đó đã qua mấy mươi năm rồi. Bà nội, bà ngoại và những người thân yêu của tôi đã lần lượt qua đời. Và bây giờ hai chị tôi cũng đã ra người thiên cổ.
Lúc ở quê nhà suốt mười mấy năm làm việc ở nhà thương cho đến năm bảy lăm. Những người chết oan khuất vì bom đạn lúc nào cũng có. Và vì nghề nghiệp ngày nào tôi cũng thấy người chết, có khi họ chết trên tay mình trong lúc cấp cứu. Người ta nói ở trong bệnh viện nhà xác là nơi nhiều ma nhứt. Có người đã bị ma nhát, hoặc có kẻ đã gặp ma kêu đói, kêu lạnh...
Nhiều lúc trực đêm có việc tôi cũng phải đến nhà xác... Nhưng đi với một vài người nên tôi không thấy ma. Thậm chí nhân viên bệnh viện đồn bà y công B bị ma nhập lên đồng. Nhưng tôi cũng chưa thấy bà lên đồng lần nào. Và có nhiều người tin ở cầu cơ rất linh biết chuyện quá khứ vị lai. Nhưng tôi cũng chưa có dịp ngồi vào bàn cơ để cầu như họ, hoặc nhìn người khác đang cầu cơ mà chỉ nghe nói thôi.
Nay sống ở vùng đất tạm dung tôi đọc sách vở của ngoại quốc kể về những chuyện ma quỷ và xem phim ảnh nhiều chuyện ma thật là rùng rợn... Những chuyện ma quỉ trong các lâu đài cổ kính, trong các ngôi biệt thự của các băng đảng có tiếng từ mấy chục năm... Những hồn ma những con ma bị giết bị thanh toán kêu oan. Không biết đó có phải là sự ăn năn của những kẻ đã hành động nay đến tuổi sắp lìa đời kể lại bằng sách vở, hoặc bằng phim ảnh hay không.
Lúc còn ở quê nhà và nay ở xứ người cũng vậy. Cứ mỗi năm vào rằm tháng bảy Âm lịch, là chùa chiền đình miễu và có khi ở các nhà buôn bán thường cúng thí rất lớn, vào dịp cúng cô hồn những hồn ma vất vưởng không nơi nương tựa. Và vào tháng 10 Dương lịch đã vào mùa thu. Tiết trời lành lạnh mưa rơi rỉ rả lá vàng tan tác rơi đầy đường đầy sá.
Trước sân nhà đa số là nhà dân bản xứ họ dựng bia mộ làm nghĩa trang cùng treo những cái hòm treo những hình ảnh ma quỷ. Và cuối tháng mười vào ngày Halloween, thì trẻ con người lớn hóa trang thành những hình thù quái dị, đến từng nhà gõ cửa xin bánh, kẹo... Và trong dịp nầy cũng có nhiều cơ sở mở đại hội hóa trang để ăn nhậu vui chơi...Nhiều sách vở hoặc trên các báo chí Việt ngữ tôi đã đọc được ở đâu đó, hoặc nghe thuật lại kể lại về những chuyện ma như là: Ma đội mồ, ma thần trùng, ma da, ma cà rồng,... Còn có cả ma chó, ma mèo, ma trâu, ma ngựa...
Và ở đây gần như chúng ta nghe thấy hiện tượng của các nhà bắt ma thu được cho chiếu trên màn ảnh truyền hình, có cả máy thu nghe được tiếng nói, tiếng kêu cứu, tiếng cười, tiếng khóc ỉ ôi của ma nữa!... Nhưng theo nhận xét của riêng tôi thì đó chỉ là những âm thanh na ná giống chớ không phải là một giọng nói rõ ràng. Và cũng không thấy ma mà chỉ tưởng tượng. Bởi không có gì xác định đó là ma cả? Nếu ai hỏi tôi:
- Từ nhỏ cho đến bây giờ cô đã thấy ma chưa?
Tôi xin trả lời rằng:
- Thật sự tôi chưa thấy ma.
Còn nếu hỏi cô tin có ma không?
- Tôi xin mượn câu trả lời của người xưa: Nếu tin thì có! Còn nếu không tin thì không có.
Dư Thị Diễm
Miền Nam mưa nắng hai mùa. Ở thôn quê vào khoảng tháng tám, tháng chín Âm lịch, thì bầu trời ui ui ảm đạm, mưa rỉ rả, gió lành lạnh thổi. Sáng mưa rơi, trưa sụt sùi, chiều đổ lệ... Bà nội tôi thường nói:
- Mưa gì mà mưa ngày mưa đêm mưa thúi trời thúi đất, không làm ăn gì được ráo!.
Ông bà cha mẹ lo mùa màng bị mưa dai dẳng sũng nước làm úng gốc, vàng mầm... thì cây trái rau cải sẽ không được tươi tốt. Gạo nếp mà thất mùa thì thôn dân sẽ phải chạy gạo mệt cầm hơi chớ phải chơi đâu!
Ấy vậy mà bọn con nít chúng tôi chịu lắm! Bởi sau khi cơm nước cho buổi chiều xong. Ngoài trời mưa vẫn còn giọt ngắn giọt dài. Gió thổi hiu hiu lâu lâu hắt mạnh mưa rào rào vào vách nhà. Và thỉnh thoảng có tiếng sấm gầm gừ từng vệt sét nổ ròn tan lóe ánh sáng rồi phụt tắt. Mọi nhà đều lên đèn là lúc gia đình tôi nhứt là mấy chị em tôi rất hạnh phúc.
Ba tôi ngồi vót lạc tre hay đan rổ. Má tôi khâu lại mấy chiếc áo sút nút hay sứt đường chỉ. Chị em chúng tôi ngồi quanh bên bà nội đứa thì bóp tay đứa thì đấm lưng hay bóp chân, và miệng eo éo đòi bà kể chuyện đời xưa. Các chị lớn của tôi thì bao giờ cũng có nhiều ý kiến. Chị Hai tôi bảo:
- Kể chuyện ma đi bà nội.
Tôi cũng lên tiếng đòi:
- Nội kể chuyện đời xưa đi. Chuyện đời xưa hay hơn.
Chị Ba tôi là đứa xảnh xẹ nhứt nhà thường hay ăn hiếp tôi. Chị quay sang nguýt tôi con mắt có đuôi rồi bảo:
- Ngày nào mầy cũng đòi nội kể chuyện: Con Tấm Con Cám, Chàng Nhái Kiển Tiên, Nàng út Ống tre, Thạch Sanh Lý Thông... Nghe hoài mấy chuyện đó bộ mầy không biết chán sao? Còn tao nghe riết rồi thuộc lòng luôn. Mầy muốn nghe hôm nào tao sẽ kể cho mầy nghe tối ngày sáng đêm. Bây giờ hãy để nội kể chuyện ma. Nội kể chuyện ma hay lắm. Kể chuyện ma cho chúng cháu nghe đi nghen nội.
Thấy tôi đỏ mắt vì vô cớ bị chị nạt. Bà nội tội nghiệp cô cháu gái nhỏ nầy nên rầy chị và dỗ dành tôi:
- Cháu đừng nạt em như vậy. Thôi để bà nội kể chuyện ma rồi chút nữa vô mùng bà sẽ kể chuyện: “Đờn kêu tích tịch tình tang, ai đem công chúa lên thang mà về? Tôi cảm thấy được nội ưu đãi hơn các chị nên khoái chí mỉm cười gật đầu bằng lòng. Chị Ba tôi có vẻ ghen tức nên xụ mặt và không quên ném cái háy nẩy lửa, trề cái môi dài cả thước về phía tôi.
Hai chị tôi đã lớn nên biết nịnh bợ. Khi xong cơm nước muốn nghe kể chuyện đời xưa là họ đã chuẩn bị cho nội bình trà nóng, những lá trầu vàng tươi mơn mởn mới hái và vài trái cau dầy ruột đỏ lòng son đã chẻ sẵn để trong khai cho bà. Nội tôi khoan thai phết lớp vôi trắng mỏng lên một phần của lá trầu vàng. Bà từ từ cuốn lá trầu lại để vào miệng nhai nhỏ nhẻ với miếng cau dầy. Rồi bà tằng hắng lấy giọng kể:
- Ma là hồn của người chết không được thầy chùa tụng niệm hướng thiện, không được gia đình cúng kiếng nên đói khổ vất vưởng bên ngoài thành ma. Hoặc người lúc sống làm những chuyện sát nhơn ác đức nên khi chết xuống Âm Phủ bị phạt làm ma. Không được đầu thai làm người hay con vật hoặc đồ vật khác... Trong số các loại ma có ma cà rồng là hung dữ nhứt.
Bà tôi dừng lại vo tròn cục thuốc xỉa để vào giữa hai môi rồi độn lên mép môi trên. Tôi xích gần lại bà hơn. Chị Hai, chị Ba tôi nhìn bà châm bẩm không nói năng gì. Bà chẩm rãi tiếp:
- Ma thường nhảy nhảy trên mặt đất chớ gót nó không đi chấm đất như người đời được. Ma còn thẳng một đường chớ không chạy nhảy quanh co được. Đó là những con ma hiện được hình... Còn ma không có hình mà chỉ có hồn lẫn lộn trong mưa trong gió, chỉ có cái bóng nó ẩn hiện cho người ta thấy trong lúc không có ánh sáng mặt trời nhứt là vào những đêm tối mưa gió lạnh lùng.
Bỗng chị Hai tôi lên tiếng:
- Hồi nào đến giờ nội có thấy ma chưa nội?
- Chưa! Bà chưa bao giờ thấy ma, người ta nói ai yếu bóng vía hoặc gần chết mới thấy ma.
Chị Ba tôi xen vào:
- Vậy thật sự có ma không nội? Con nghe chú Bảy Cho ở xóm trong bảo là đêm hôm qua trời đánh cây da xà trên đình. Vì cây da có cái bọng to lắm lâu nay bọn ma quỷ trú ẩn ở trỏng và con tắc kè tu lâu năm thành quỷ kêu rang rảng trong những đêm khuya. Ma quỷ thường hay phá phách ai ban đêm đi qua.
Hoặc ai đi chợ sớm đội trái cây trên đầu, thì chúng ngồi vắt vẻo trên nhánh cây thò tay xuống lấy... Hôm sau trên các cành cây đầy bánh trái. Chú Bảy nói là sau trời đánh đêm qua sáng ra không thấy xác người hoặc con vật chết mà thấy máu me dính đầy chung quanh gốc cây! Chú còn bảo đó là máu của quỷ ma nữa... Thiệt là dễ sợ quá hả bà?
Chị Hai tôi càm ràm nhăn mặt:
- Thôi mầy đừng có hỏi nữa! Cứ đâm xuồng bần vô hoài hà để nội kể con ma cà rồng cho mà nghe.
Bà nội kể:
- Ma cà rồng dữ lắm có nhiều cách để gạt người. Nó hiện hình được nó đi được, chạy nhảy được nó thành bóng hiện trong gió, trong tối và nhứt là nó hiện thành người nào đó để gạt người mà khó ai có thế phát giác ra được. Người ta kể rằng: Trong gia đình đó cưới được con dâu. Cô dâu mới giỏi lễ phép kính trên nhường dưới. Vui vẻ với mọi người. Trong gia đình chồng ai cũng thương mến. Một hôm ông chồng phát giác ra đêm đó vợ mình đi đâu mất tiêu gần sáng mới về.
Bởi từ khi cưới vợ đến giờ ông không để ý vợ ông tối nào cũng cho ông uống thuốc bổ, nhưng thật ra đó là thuốc ngủ cho ông đến sáng, nên ông mê man tàng tịch không hay biết chi cả. Tối hôm đó bà cũng cho ông uống nhưng ông lỡ tay làm đổ sợ vợ trách nên làm thinh không nói. Ngủ giữa khuya thức giấc ông thấy cái đầu vợ ông tự động tách ra khỏi mình rồi lẹ làng lông lốc lăn đi. Ông sợ điếng hồn nhưng cũng chạy theo phía sau coi cái đầu lăn đi đâu và làm gì?
Tôi đã ngồi vào lòng bà hồi nào tôi không hay biết. Còn hai chị tôi thì mỗi người ngồi sát và nắm lấy vạt áo bà. Cả ba chị em chúng tôi như nín thở để nghe bà kể:
- Ông chồng lặng lẽ theo sau thấy vợ lăn xuống nhà cầu ngoài sau vườn ăn sạch... Ông mới nhớ là những người nhà ông, dạo nầy bị ma cà rồng ăn phân thì trở nên xanh xao vàng vọt ốm đau hoài.
Bà dừng lại uống nước. Chị Hai tôi thúc:
- Rồi sao nữa bà?
- Ông chồng mới nhờ ông Pháp sư giỏi bắt ma quỷ về làm phép. Dân làng xúm lại bắt bà ta trói rồi chất lửa đốt. Bà ta bị đốt nóng khóc ỉ ôi. Đến khi lửa cháy đứt mất dây cột bà nhe hàm răng nanh ra cười ha hả rồi bay mất dạng...
Chị Hai tôi lo sợ, hỏi vội:
- Rồi sao nữa nội? À, hèn gì con thấy nhà cô Hai Hụ chung quanh nhà bả bỏ chà chôm bằng nhánh tre gai. Chắc là để cho ma cà rồng không vào được chớ gì?
Bà nội tôi chưa trả lời thì chị Ba lấy tay của chị lạnh ngắt thọt vào lưng phía trong áo của chị Hai và sửa giọng la lớn:
- Ma cà rồng đây!
Chị Hai tôi nhảy dựng lên và hét lớn! Vì vừa sợ vừa giựt mình! Thế là hai người vừa cãi vừa đánh lộn rầm rầm. Ba tôi nổi giận lôi ra đánh mỗi người mấy roi và cấm từ rày cả hai không được đòi bà nội kể chuyện ma cho nghe nữa!
Mấy năm sau hai chị tôi có chồng ở xa. Tôi theo gia đình về chốn thị thành vì ba tôi đổi về làm việc ở đó. Và cứ mỗi năm sau lễ Bắc (Paques, lễ Phục Sinh) đến mùa hè các trường được nghỉ. Học sinh không bận rộn nhiều thi cử thì tôi được ba má cho về ngoại ở suốt mùa hè. Ba má tôi nghĩ về quê có không khí trong lành, ăn trái cây rau đậu mới hái, cá tôm tươi được hít thở hương đồng cỏ nội, sẽ giúp nhiều cho cơ thể còm cõi nay đau mai yếu của tôi.
Tôi nhớ con sông Mỹ Đức Đông chảy quanh thôn ngoại. Có bóng dừa, cau, xoài, mận, gòn, me keo, ô môi... xanh um, gie ra che mát dọc theo hai bên bờ sông có chỗ uốn quanh có chỗ dài mút mắt. Nước sông trong vắt mát rượi và ngọt quanh năm từ nhánh sông Tiền Giang chảy vào.
Nhờ dòng sông nầy mà thôn ngoại tôi trù phú. Bởi sông cho nhiều thủy sản ngon hiền cùng phù sa để nuôi mầm lúa mạ. Sông dài nối liền những con sông khác chuyên chở gạo nếp, trái cây tôm cá đưa ra thị thành và tải về các loại đồ sành, đồ gốm từ Lái Thiêu đưa tới. Đường Thốt Nốt, khô, mắm lóc từ miệt Cà Mau, Tân Châu, Hồng Ngự chở sang
Tôi không sao quên được nơi ngã ba sông có ngôi nhà lá nhỏ của chú Năm Chài. Thím Năm người nhỏ dáng gầy ốm và nước da xanh xao. Trên đầu thím luôn đội cái khăn sọc vằn trắng đen cũ màu đã lợt phai. Gia đình chú Năm có chú thím và hai đứa con. Đứa con gái lớn mười lăm tuổi giúp hết mọi việc trong nhà cho thím quanh năm cứ eng eng đau bịnh. Thằng con út mười ba tuổi cũng giúp nhiều trong việc chài lưới phụ với cha trong sinh nhai của gia đình.
Vào mùa hè năm đó tôi ở khoảng mười bảy tuổi. Mợ dâu tôi đang ngồi chẻ cau để phơi khô, mợ đã kể rằng:
- Hôm qua mợ lên xóm trên nghe bà Bảy Rỗ nói vợ ông Năm Chài bị “mắc đàng dưới”. Thiệt hèn gì bả cứ bịnh hoài.
Ngoại tôi hỏi mợ:
- Bây nghe ai nói vậy? Tội nghiệp, nó mắc phải cái ngữ như vậy (sau tôi mới biết bà ngoại không dám nhắc đến mắc đàng dưới), có môn chờ bà Thủy kéo chớ không làm gì hết được?
Mợ dâu tôi trả lời:
- Con nghe nói hôm rằm vừa qua có ông Pháp sư ở đâu núi Điện Bà thuộc Châu Đốc xuống thăm sư cụ trên chùa đi ngang qua nhà thím. Ông sanh nghi bắt ấn biết ngay thím bị thứ đó. Nghe nói chú Năm và các con chú đến lạy sư cụ nhờ nói với ông Pháp sư cứu thím. Nhưng ông Pháp sư trả lời là quá trễ rồi ngày giờ thím đi không còn bao lâu nữa...
Là một đứa trẻ sống ở tỉnh thành nên tôi nghĩ tại sao bị bịnh mà không đưa đến bác sĩ hoặc đến nhà thương khám bịnh để trị. Ở đó tin ông thầy chỉ đi ngang qua mà nói thôi. Nhưng hai hôm sau tôi thấy mợ dâu tôi đi đâu về mà mặc áo bà ba đen đầu tóc chải gọn gàng. Hỏi ra tôi mới biết mợ đi đám ma thím Năm Chài! Mợ còn kể cái chết lạ lùng của thím Năm Chài cho cả nhà nghe vào buổi cơm chiều hôm đó:
- Ở xóm không ai còn lạ thím Năm Chài bịnh rề rề quanh năm suốt tháng. Nghe ông Pháp Sư nói ai cũng bán tính bán nghi. Nhưng chú Năm và hai đứa nhỏ con chú rất tin khi nghe Pháp Sư nói:
- Phải canh giữ bả vào giờ... đêm.... đừng cho bả rời mọi người nửa bước nhứt là đừng cho bả đến gần sông, gần rạch. Nếu qua khỏi đêm đó thì bả tự nhiên hết bịnh và sẽ sống lâu trăm tuổi...
Chú Năm và hai đứa nhỏ túc trực bên thím. Tối trước khi đi ngủ thì cửa đóng then gài. Chú nằm ngang cửa trước đứa con trai thì nằm cửa sau. Còn con gái thì ngủ chung mùng với thím. Vào đúng đêm cấm kỵ đó khi chùa dộng trống, chuông công phu sáng rộn rã nhưng ngoài trời vẫn còn tối thui. Con gái thím la hoảng lên là thím đi đâu mất rồi... Cha con chú đánh mõ la làng, chòm xóm chạy đến đi tìm kiếm giùm...
Sáng khi mặt trời lên người ta phát giác thím Năm Chài nằm chết dưới bãi sình, bên đám ô rô ở bờ sông trước nhà. Lúc đó tôi bắt đầu thấy ơn ớn xương sống. Nhưng tôi hỏi:
- Mắc đàng dưới là bịnh gì vậy ngoại?
Ngoại tôi có vẻ e ngại. Bà đến bên bàn Phật đốt nhang lâm râm cầu nguyện gì đó rồi bà dè dặt nói cho tôi nghe:
- Người ta đồn ai mà chạng vạng (trời vừa tối) đi tắm sông, hay sáng sớm mà nhìn xuống nước cười với bóng mình thì sẽ bị Hà Bá bắt. Nếu bắt cả thân xác không được thì sẽ bắt hồn rồi sẽ bắt thân xác sau như thím Năm đó.
- Hà Bá là ai? Và bắt người ta để làm gì vậy ngoại?
- Đó là ma quỷ ở dưới nước. Bà nghe người ta nói Hà là sông nước, còn Bá là bá vương là người có quyền hạn lớn. Nó tóm lại là một con quỷ có nhiều quyền lực ở dưới nước. Nó bắt người để làm kẻ hầu người hạ làm nô lệ hoặc để dành ăn thịt.. Nhứt là những đứa con gái chưa chồng mà đêm hôm tắm sông, hay bọn trẻ tối ngày trầm nghịch dưới nước thì không nên đâu đó...
Rồi có những chuyện ma được kể trong nhân gian ở miệt quê thì đủ loại đủ thứ, đủ thiên hình vạn trạng... Người nghe mà rùng mình rỡn óc. Nghe không dám bước xuống giường. Còn nằm ở trên giường thì trùm mền kín mít không dám bỏ ra dù trời nóng và mồ hôi đổ ra như tắm. Họ còn nói những nơi có nhiều ma nhứt là những cây cao bóng mát có từ mấy chục năm quanh đình, miễu, chỗ có người thắt cổ tự vận, khúc sông có người chết chìm..Thời gian đó đã qua mấy mươi năm rồi. Bà nội, bà ngoại và những người thân yêu của tôi đã lần lượt qua đời. Và bây giờ hai chị tôi cũng đã ra người thiên cổ.
Lúc ở quê nhà suốt mười mấy năm làm việc ở nhà thương cho đến năm bảy lăm. Những người chết oan khuất vì bom đạn lúc nào cũng có. Và vì nghề nghiệp ngày nào tôi cũng thấy người chết, có khi họ chết trên tay mình trong lúc cấp cứu. Người ta nói ở trong bệnh viện nhà xác là nơi nhiều ma nhứt. Có người đã bị ma nhát, hoặc có kẻ đã gặp ma kêu đói, kêu lạnh...
Nhiều lúc trực đêm có việc tôi cũng phải đến nhà xác... Nhưng đi với một vài người nên tôi không thấy ma. Thậm chí nhân viên bệnh viện đồn bà y công B bị ma nhập lên đồng. Nhưng tôi cũng chưa thấy bà lên đồng lần nào. Và có nhiều người tin ở cầu cơ rất linh biết chuyện quá khứ vị lai. Nhưng tôi cũng chưa có dịp ngồi vào bàn cơ để cầu như họ, hoặc nhìn người khác đang cầu cơ mà chỉ nghe nói thôi.
Nay sống ở vùng đất tạm dung tôi đọc sách vở của ngoại quốc kể về những chuyện ma quỷ và xem phim ảnh nhiều chuyện ma thật là rùng rợn... Những chuyện ma quỉ trong các lâu đài cổ kính, trong các ngôi biệt thự của các băng đảng có tiếng từ mấy chục năm... Những hồn ma những con ma bị giết bị thanh toán kêu oan. Không biết đó có phải là sự ăn năn của những kẻ đã hành động nay đến tuổi sắp lìa đời kể lại bằng sách vở, hoặc bằng phim ảnh hay không.
Lúc còn ở quê nhà và nay ở xứ người cũng vậy. Cứ mỗi năm vào rằm tháng bảy Âm lịch, là chùa chiền đình miễu và có khi ở các nhà buôn bán thường cúng thí rất lớn, vào dịp cúng cô hồn những hồn ma vất vưởng không nơi nương tựa. Và vào tháng 10 Dương lịch đã vào mùa thu. Tiết trời lành lạnh mưa rơi rỉ rả lá vàng tan tác rơi đầy đường đầy sá.
Trước sân nhà đa số là nhà dân bản xứ họ dựng bia mộ làm nghĩa trang cùng treo những cái hòm treo những hình ảnh ma quỷ. Và cuối tháng mười vào ngày Halloween, thì trẻ con người lớn hóa trang thành những hình thù quái dị, đến từng nhà gõ cửa xin bánh, kẹo... Và trong dịp nầy cũng có nhiều cơ sở mở đại hội hóa trang để ăn nhậu vui chơi...Nhiều sách vở hoặc trên các báo chí Việt ngữ tôi đã đọc được ở đâu đó, hoặc nghe thuật lại kể lại về những chuyện ma như là: Ma đội mồ, ma thần trùng, ma da, ma cà rồng,... Còn có cả ma chó, ma mèo, ma trâu, ma ngựa...
Và ở đây gần như chúng ta nghe thấy hiện tượng của các nhà bắt ma thu được cho chiếu trên màn ảnh truyền hình, có cả máy thu nghe được tiếng nói, tiếng kêu cứu, tiếng cười, tiếng khóc ỉ ôi của ma nữa!... Nhưng theo nhận xét của riêng tôi thì đó chỉ là những âm thanh na ná giống chớ không phải là một giọng nói rõ ràng. Và cũng không thấy ma mà chỉ tưởng tượng. Bởi không có gì xác định đó là ma cả? Nếu ai hỏi tôi:
- Từ nhỏ cho đến bây giờ cô đã thấy ma chưa?
Tôi xin trả lời rằng:
- Thật sự tôi chưa thấy ma.
Còn nếu hỏi cô tin có ma không?
- Tôi xin mượn câu trả lời của người xưa: Nếu tin thì có! Còn nếu không tin thì không có.
Dư Thị Diễm
#118
Gửi vào 24/06/2011 - 05:03
NHƯ MỘT HUYỀN THOẠI
Thuở nhỏ Sư đã rất lạ. Nhà nghèo cha mất sớm. Mẹ buôn bán tảo tần nuôi Sư. Bà thường bảo con trai ra đồng mò cua phụ mẹ kiếm miếng ăn. Sư cũng vâng lời nhưng chiều nào cũng về tay không rồi nói đối với mẹ:
. Con tìm không thấy con cua ở đâu.
Một hôm trước khi quảy gánh ra chợ bán như mọi khi, mẹ Sư dặn:
- Nè! Mẹ có mua một xâu cua để ở dưới ao. Con ở nhà giã cua nấu canh. Trưa mẹ về hai mẹ con mình ăn.
Dặn rồi mẹ đi. Nhìn theo chiếc gánh oằn vai Sư thương mẹ nhiều lắm. Chạy ra bờ ao, Sư thấy ngay xâu cua.
- Cua ơi! Mẹ bảo tao giã mày nấu canh.
Nhìn chúng thật lâu bỗng nhiên Sư thấy những dòng bọt trắng trào ra, trào ra nhòe cả một vùng nước. Đau lòng Sư buông xâu cua xuống:
- Cua ơi! Đừng khóc nữa. Tao không giã mày đâu. Tao thả mày đây. Đi nhanh lên.
Thế là Sư tháo hết xâu cua thả xuống ao. Mẹ về. Sư đón lấy gióng gánh.
- Chà! Mẹ đói bụng quá. Con nấu canh cua rồi chưa?
Sư ngập ngừng:
- Mẹ ơi! Con... con thả chúng nó hết rồi.
Vừa mệt vừa đói mẹ Sư không dằn được cơn giận liền quơ lấy cây roi. Sợ quá Sư chạy thẳng một mạch ra khỏi nhà không dám ngoái đầu nhìn lại. Và mẹ Sư không ngờ cái bóng roi vô tình đã chia cắt mẹ con kể từ ấy. Non bốn mươi năm sau. Con đường làng xưa cũ chỉ còn là những khúc đê buồn rối chỉ. Tất cả đều hun hút theo thời gian. Sư lặn lội nhiều lần trên những con đường qua lại quanh những bờ ao... nhưng vẫn không tìm thấy dấu cũ. Mệt quá Sư tấp vào một cái chòi tranh ven đường. Bà lão thấy khách liền rót một chung trà:
- Sư dùng trà.
- Dạ
Nhìn mái đầu bạc phơ của cụ tương phản với mái tranh cũng bạc màu, rệu rã mục; cả hai như chìm ẩn trong nhau cùng chịu đựng, cùng mòn mỏi già nua. Sư nhớ mẹ đến nao lòng.
- Cụ à! Cụ ở đây có một mình sao?
- Già ở đây một mình,
- Cụ sống bằng cách nào?
- Già bán trà sống lây lất qua ngày.
- Cụ không có con cháu gì sao?
- Hồi xưa, già có một đứa con trai. Nhưng nó đã bỏ đi từ năm mười hai tuổi. Già tìm kiếm trông đợi thương nhớ... gần bốn chục năm nay. Thân quạnh quẽ không có ai, già che đỡ cái chòi tranh này bán trà sống qua ngày.
Sư im lặng nuốt nghẹn. Bây giờ thì chắc chắn rồi. Mưa nắng dù có cuồn cuộn trên tóc, trên mắt mẹ nhưng vẫn không làm thay đổi được cái ánh nhìn năm xưa. Thăm thẳm. Yêu thương.
- Cụ à! Nếu như tôi rước cụ về chùa, cụ có chịu không?
- Về chùa thì tôi chịu lắm. Nhưng già rồi không làm gì được ăn cơm chùa tôi sợ tội.
- Không sao! Cụ đừng lo. Ở chùa thiếu gì việc. Người trẻ làm việc trẻ. Người già làm việc già. Nhổ cỏ, lượm lá... cũng là công quả vậy. Miễn cụ chịu ăn chay niệm Phật là không có tội.
- Nếu được vậy thì Sư cho già theo về chùa với.
Sư nhìn mẹ, mỉm cười đằm thắm:
- Cụ ở đây đợi nhé! Tôi về chùa xin phép quý Thầy rồi sẽ trở lại đón cụ đi.
Về chùa không nói gì đến mẹ mình. Sư chỉ kể lại hoàn cảnh của một bà lão trên đường. Quý Thầy thương quá xin Sư cho đi đón về. Sư mới dám. Bà lão được nghỉ trong một am tranh nhỏ nhắn sau vườn chùa. Mỗi sáng Sư đến tìm mẹ thăm hỏi rồi khoanh một vòng cỏ tròn, nói:
- Bữa nay, cụ làm xong bao nhiêu đây rồi nghỉ vào niệm Phật nhé.
- Dạ.
Bà lão vui lắm. Sư cũng vui. Thời gian sau bà bệnh. Sư tự tay chăm sóc mẹ. Càng ngày bà càng yếu dần. Hôm ấy nhìn thần sắc mẹ, Sư biết. Nhưng vì có việc Sư phải vắng chùa vài hôm. Trước khi đi Sư căn dặn quý Thầy:
- Nếu ở chùa bà lão có mất quý Thầy đặt bà vào áo quan đợi tôi về hãy đậy nắp.
Quả như điều Sư đoán. Vừa trở về được tin mẹ mất. Sư đi thẳng tới am tranh nhìn mặt mẹ lần cuối rồi từ từ đậy nắp quan. Giữa hai hàng Tăng chúng Sư cầm tích trượng đứng cạnh quan tài mẹ, trầm tĩnh nói:
- Như lời Phật dạy một người tu hành ngộ đạo cha mẹ được sanh thiên. Nếu lời ấy không ngoa xin cho chiếc quan tài này bay lên hư không.
Nói xong Sư liền gõ tích trượng ba cái, chiếc quan tài từ từ bay lên hư không và nứt ra nhiều mảnh. Đến lúc ấy chư Tăng mới biết bà lão là mẹ của Thầy mình. Không cho mẹ biết tung tích về mình. Không cho Tăng chúng biết tung tích về mẹ. Sư đã thầm lặng tạo cho mẹ phần công đức mang theo về cõi lành. Trái hiếu thảo đã chín rụng xuống nắp quan mẹ một quả thơm ngọt tràn đầy, dâng lên cúng dường mười phương Phật.
Sư chính là Thiền sư Tông Diễn hiệu Chơn Dung 1640-1711, một cao tăng Việt Nam đã cứu Phật pháp thoát khỏi ách nạn vào đời Hậu Lê, mà suýt chút nữa vua Lê Hy Tông đã làm cho mai một. Và vì thế Sư đã trở thành bậc tôn sư của triều đình đương thời. Tầm vóc là vậy nhưng Sư vẫn là "Hòa Thượng Cua" trong lòng nhân gian, luôn sống mãi với cái khoảnh khắc chóng vánh thuở thiếu thời. Chóng vánh nhưng không dễ tan.
Bởi vì chính cái khoảnh khắc ấy đã thu gọn cô đọng những gì lớn lao nhất, ý nghĩa nhất của một người con Phật khi bắt đầu chọn cho mình một lối đi. Chất liệu từ bi và lòng hiếu thảo vô bờ của Sư đã thể hiện được con đường Bồ Tát đạo trong Phật giáo. Cuộc đời và công hạnh của Sư như một huyền thoại. Một huyền thoại mà làm nên những cái thật muôn đời.
Từ đó người ta gọi Ngài là Hòa Thượng Cua, và cũng theo lời người ta kể ba mảnh vỡ của chiếc quan tài hiện vẫn còn tồn tại ở một ngôi chùa Bắc Việt, để mọi người ghi nhớ câu chuyện lạ lùng và cảm động về Hoà Thượng Cua và vị thân mẫu sinh ra Ngài.
“Tu một thuở cứu thân vĩnh kiếp
Ðộ mình còn cứu vớt Mẹ Cha
Thuyền to một chiếc sắm ra
Tất nhiên chở hết cả nhà xuống đi”.
Hạnh Chiếu
Thuở nhỏ Sư đã rất lạ. Nhà nghèo cha mất sớm. Mẹ buôn bán tảo tần nuôi Sư. Bà thường bảo con trai ra đồng mò cua phụ mẹ kiếm miếng ăn. Sư cũng vâng lời nhưng chiều nào cũng về tay không rồi nói đối với mẹ:
. Con tìm không thấy con cua ở đâu.
Một hôm trước khi quảy gánh ra chợ bán như mọi khi, mẹ Sư dặn:
- Nè! Mẹ có mua một xâu cua để ở dưới ao. Con ở nhà giã cua nấu canh. Trưa mẹ về hai mẹ con mình ăn.
Dặn rồi mẹ đi. Nhìn theo chiếc gánh oằn vai Sư thương mẹ nhiều lắm. Chạy ra bờ ao, Sư thấy ngay xâu cua.
- Cua ơi! Mẹ bảo tao giã mày nấu canh.
Nhìn chúng thật lâu bỗng nhiên Sư thấy những dòng bọt trắng trào ra, trào ra nhòe cả một vùng nước. Đau lòng Sư buông xâu cua xuống:
- Cua ơi! Đừng khóc nữa. Tao không giã mày đâu. Tao thả mày đây. Đi nhanh lên.
Thế là Sư tháo hết xâu cua thả xuống ao. Mẹ về. Sư đón lấy gióng gánh.
- Chà! Mẹ đói bụng quá. Con nấu canh cua rồi chưa?
Sư ngập ngừng:
- Mẹ ơi! Con... con thả chúng nó hết rồi.
Vừa mệt vừa đói mẹ Sư không dằn được cơn giận liền quơ lấy cây roi. Sợ quá Sư chạy thẳng một mạch ra khỏi nhà không dám ngoái đầu nhìn lại. Và mẹ Sư không ngờ cái bóng roi vô tình đã chia cắt mẹ con kể từ ấy. Non bốn mươi năm sau. Con đường làng xưa cũ chỉ còn là những khúc đê buồn rối chỉ. Tất cả đều hun hút theo thời gian. Sư lặn lội nhiều lần trên những con đường qua lại quanh những bờ ao... nhưng vẫn không tìm thấy dấu cũ. Mệt quá Sư tấp vào một cái chòi tranh ven đường. Bà lão thấy khách liền rót một chung trà:
- Sư dùng trà.
- Dạ
Nhìn mái đầu bạc phơ của cụ tương phản với mái tranh cũng bạc màu, rệu rã mục; cả hai như chìm ẩn trong nhau cùng chịu đựng, cùng mòn mỏi già nua. Sư nhớ mẹ đến nao lòng.
- Cụ à! Cụ ở đây có một mình sao?
- Già ở đây một mình,
- Cụ sống bằng cách nào?
- Già bán trà sống lây lất qua ngày.
- Cụ không có con cháu gì sao?
- Hồi xưa, già có một đứa con trai. Nhưng nó đã bỏ đi từ năm mười hai tuổi. Già tìm kiếm trông đợi thương nhớ... gần bốn chục năm nay. Thân quạnh quẽ không có ai, già che đỡ cái chòi tranh này bán trà sống qua ngày.
Sư im lặng nuốt nghẹn. Bây giờ thì chắc chắn rồi. Mưa nắng dù có cuồn cuộn trên tóc, trên mắt mẹ nhưng vẫn không làm thay đổi được cái ánh nhìn năm xưa. Thăm thẳm. Yêu thương.
- Cụ à! Nếu như tôi rước cụ về chùa, cụ có chịu không?
- Về chùa thì tôi chịu lắm. Nhưng già rồi không làm gì được ăn cơm chùa tôi sợ tội.
- Không sao! Cụ đừng lo. Ở chùa thiếu gì việc. Người trẻ làm việc trẻ. Người già làm việc già. Nhổ cỏ, lượm lá... cũng là công quả vậy. Miễn cụ chịu ăn chay niệm Phật là không có tội.
- Nếu được vậy thì Sư cho già theo về chùa với.
Sư nhìn mẹ, mỉm cười đằm thắm:
- Cụ ở đây đợi nhé! Tôi về chùa xin phép quý Thầy rồi sẽ trở lại đón cụ đi.
Về chùa không nói gì đến mẹ mình. Sư chỉ kể lại hoàn cảnh của một bà lão trên đường. Quý Thầy thương quá xin Sư cho đi đón về. Sư mới dám. Bà lão được nghỉ trong một am tranh nhỏ nhắn sau vườn chùa. Mỗi sáng Sư đến tìm mẹ thăm hỏi rồi khoanh một vòng cỏ tròn, nói:
- Bữa nay, cụ làm xong bao nhiêu đây rồi nghỉ vào niệm Phật nhé.
- Dạ.
Bà lão vui lắm. Sư cũng vui. Thời gian sau bà bệnh. Sư tự tay chăm sóc mẹ. Càng ngày bà càng yếu dần. Hôm ấy nhìn thần sắc mẹ, Sư biết. Nhưng vì có việc Sư phải vắng chùa vài hôm. Trước khi đi Sư căn dặn quý Thầy:
- Nếu ở chùa bà lão có mất quý Thầy đặt bà vào áo quan đợi tôi về hãy đậy nắp.
Quả như điều Sư đoán. Vừa trở về được tin mẹ mất. Sư đi thẳng tới am tranh nhìn mặt mẹ lần cuối rồi từ từ đậy nắp quan. Giữa hai hàng Tăng chúng Sư cầm tích trượng đứng cạnh quan tài mẹ, trầm tĩnh nói:
- Như lời Phật dạy một người tu hành ngộ đạo cha mẹ được sanh thiên. Nếu lời ấy không ngoa xin cho chiếc quan tài này bay lên hư không.
Nói xong Sư liền gõ tích trượng ba cái, chiếc quan tài từ từ bay lên hư không và nứt ra nhiều mảnh. Đến lúc ấy chư Tăng mới biết bà lão là mẹ của Thầy mình. Không cho mẹ biết tung tích về mình. Không cho Tăng chúng biết tung tích về mẹ. Sư đã thầm lặng tạo cho mẹ phần công đức mang theo về cõi lành. Trái hiếu thảo đã chín rụng xuống nắp quan mẹ một quả thơm ngọt tràn đầy, dâng lên cúng dường mười phương Phật.
Sư chính là Thiền sư Tông Diễn hiệu Chơn Dung 1640-1711, một cao tăng Việt Nam đã cứu Phật pháp thoát khỏi ách nạn vào đời Hậu Lê, mà suýt chút nữa vua Lê Hy Tông đã làm cho mai một. Và vì thế Sư đã trở thành bậc tôn sư của triều đình đương thời. Tầm vóc là vậy nhưng Sư vẫn là "Hòa Thượng Cua" trong lòng nhân gian, luôn sống mãi với cái khoảnh khắc chóng vánh thuở thiếu thời. Chóng vánh nhưng không dễ tan.
Bởi vì chính cái khoảnh khắc ấy đã thu gọn cô đọng những gì lớn lao nhất, ý nghĩa nhất của một người con Phật khi bắt đầu chọn cho mình một lối đi. Chất liệu từ bi và lòng hiếu thảo vô bờ của Sư đã thể hiện được con đường Bồ Tát đạo trong Phật giáo. Cuộc đời và công hạnh của Sư như một huyền thoại. Một huyền thoại mà làm nên những cái thật muôn đời.
Từ đó người ta gọi Ngài là Hòa Thượng Cua, và cũng theo lời người ta kể ba mảnh vỡ của chiếc quan tài hiện vẫn còn tồn tại ở một ngôi chùa Bắc Việt, để mọi người ghi nhớ câu chuyện lạ lùng và cảm động về Hoà Thượng Cua và vị thân mẫu sinh ra Ngài.
“Tu một thuở cứu thân vĩnh kiếp
Ðộ mình còn cứu vớt Mẹ Cha
Thuyền to một chiếc sắm ra
Tất nhiên chở hết cả nhà xuống đi”.
Hạnh Chiếu
#119
Gửi vào 24/06/2011 - 05:10
CĂN PHÒNG ĐỦ TIỆN NGHI
Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt lang thang. Tuy vô gia cư họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác, phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất, luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng.
Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát.
Vì thế những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này.
Một buổi tối một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút trống rỗng.
Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không.
Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú:
- Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không?
Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa.
Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ.
Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là, ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối, xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới.
Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú:
- Phòng này đây. Phòng này tốt lắm ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê, không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang..
..Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls chắc ông có nghe nói đến cô ấy. À mà đấy chỉ là tên sân khấu, trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây có nhiều tủ quần áo ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.
- Bà có nhiều nghệ sĩ sân khấu thuê phòng ở đây không?
- Họ đến rồi đi. Giới sân khấu có thuê một số phòng ở đây. Đúng thế ông ạ, nơi đây là quận sân khấu. Mấy diễn viên không bao giờ ở lâu một chỗ nào cả. Một số có thuê ở đây. Vâng họ đến rồi đi.
Anh thanh niên nhận thuê phòng, trả trước một tuần. Anh bảo anh cảm thấy mệt và muốn nhận phòng ngay. Anh đếm tiền. Bà chủ bảo phòng đã sẵn sàng, ngay cả khăn lau và nước đều sẵn sàng. Khi bà chuẩn bị ra ngoài, anh thanh niên hỏi câu hỏi anh đã có trên đầu môi cả nghìn lần:
- Có một cô gái trẻ. Cô Vashner, cô Eloise Vashner, bà có nhớ cô đã đến thuê ở đây không? Rất có thể cô hát trên sân khấu. Da trắng tầm vóc trung bình, với tóc vàng kim đo đỏ và một bớt sẫm gần lông mày bên trái.
- Không tôi không nhớ tên. Giới sân khấu thay đổi tên liên tục cũng như họ thay đổi phòng. Họ đến rồi đi. Không tôi không nhớ tên này.
Không. Luôn luôn là không. 5 tháng điều tra liên tục rồi không tránh khỏi vô vọng. Bỏ rất nhiều thì giờ ban ngày để hỏi han mấy ông bầu, nhân viên đại diện, trường kịch nghệ, ban hợp xướng. Ban đêm trà trộn trong số khán giả của các sân khấu từ những nhà hát đầy ngôi sao đến các phòng ca nhạc hạ cấp. Anh, người thương cô nhất trần đời, đã cố công tìm kiếm cô. Anh chắc chắn là từ khi cô biến khỏi nhà, thành phố thênh thang bao quanh toàn là nước này chứa chấp cô ở đâu đấy, nhưng nó như là một vũng lầy khủng khiếp, luôn luôn xoáy động, không có nền chắc chắn, các vật thể nổi hôm nay bị chìm lấp ngày mai trong bùn nhớt.
Căn phòng đủ tiện nghi nội thất đón người khách mới nhất với tia sáng đầu tiên của lòng hiếu khách giả tạo, một thái độ chào đón tất bật hốc hác, máy móc. Sự thoải mái hiện đại đến từ ánh sáng phản chiếu từ đồ nội thất rã mục, tấm nệm thêu xơ xác của cái phô-tơi và hai chiếc ghế, tấm gương soi toàn thân rẻ tiền đặt giữa hai cửa sổ và khung giường bằng đồng đặt ở góc phòng. Người khách trọ ngồi ngả người trên ghế, bất động, trong khi căn phòng, hoang mang trong ngôn từ như thể là một phòng trọ trong Tháp Babel, cố gắng thuyết minh về chức năng cho thuê đa dạng của nó.
Cái tấm thảm với lắm mùi khác nhau, hình chữ nhật thêu hoa, giống như hòn đảo vùng nhiệt đới bao quanh bởi một vùng biển là tấm lót sàn vấy bẩn, phồng lên chỗ này, tọp xuống chỗ nọ. Trên bức tường dán giấy màu tươi sáng là những tấm hình đi theo những người vô gia cư từ nhà này đến nhà nọ. Những góc cạnh đạo mạo một cách khắc khổ của cái bệ lò sưởi bị che phủ một cách tồi tệ trong cái màn cửa theo mốt thời trang, bị kéo xệch dúm dó về một bên cứ như là tấm vải choàng của vũ nữ ba lê vùng rừng già Amazon ở Nam Mỹ. Trên cái bệ là xác một con tầu chỏng chơ được mang vào bờ khi một cánh buồm may mắn mang chúng đến bến cảng tươi mát, một hai bình hoa vô duyên, ảnh của mấy diễn viên, một lọ thuốc, vài lá bài tây lạc lõng khỏi cỗ bài.
Khi bản mật mã trở nên rõ ràng từ chữ này qua chữ khác, những dấu hiệu nhỏ nhoi còn sót lại sau cuộc diễu hành của những người khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi nội thất trở nên có ý nghĩa. Cái khoảnh tấm thảm xơ xác trước cái bàn phấn bảo rằng những người phụ nữ dễ thương đã đến hàng đoàn. Những dấu tay bé tí trên bức tường nói đến những tù nhân nhỏ tuổi cố lần mò tìm đường ra ánh nắng và không khí. Một vết bẩn vương vãi, toả ra như cái bóng của một bom bùng nổ, là chứng tích của một cái cốc hay chai va vào, tung toé ra lên tường chất đựng bên trong. Trên mặt gương soi toàn thân là tên người “Marie” viết nguệch ngoạc bằng kim cương.
Dường như lần lượt những khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi đã trút ra cơn giận dữ, có lẽ không thể chịu nổi vẻ lạnh lùng hào nhoáng rẻ tiền của nó và đem tất cả cuồng nhiệt ra phá phách. Bàn ghế tủ giường bị đẽo gọt và trầy trụa, cái ghế bành bị móp méo vì mấy lò xo bung ra, trông như là con quái vật khủng khiếp đã bị sát tử trong cơn quằn quại loạn cuồng. Một cơn quấy động nào đấy lộ liễu hơn đã sớt cái bệ lò sưởi đi một lát lớn. Mỗi thanh gỗ sàn tạo một mảng riêng rẽ và kêu thét như là trong cơn đau đớn riêng biệt của từng cá thể. Có vẻ khó tin là những người có thời từng gọi căn phòng này là “nhà” lại có ác ý gây ra bao đau thương như thế cho căn phòng.
Và tuy nhiên, có thể là bản năng do ý niệm về “nhà” bị lừa gạt, vốn đã tồn tại một cách đui mù sau cơn giận dữ đầy bất bình đối với cơn phẫn nộ của những người ở trọ. Nếu ta là chủ một túp lều, ta vẫn quét dọn, trang hoàng và giữ gìn nó.
Anh khách trẻ ở trọ, gọn người trong ghế, để những ý tưởng như thế lướt qua êm ái trong đầu anh, trong khi những âm thanh và những mùi hương, đều có đủ tiện nghi nội thất lan toả vào căn phòng. Anh nghe trong một căn phòng tiếng khúc khích và chuỗi cười vang buông thả không kiềm chế, trong những phòng khác một giọng độc thoại trách mắng, tiếng xúc xắc lanh canh, tiếng ru con và một tiếng khóc sụt sùi, tầng trên là tiếng đàn banjo gãy đầy nhiệt tình. Ở đâu đấy có những cánh cửa đóng sầm; cái thang máy kêu thét không ngừng, một con mèo rên rỉ thảm hại trên hàng rào sân sau. Và anh thở hơi thở của toà nhà hương vị ẩm lạnh, hơn là một mùi vị nồng nồng lạnh lẽo mốc meo như thể từ những hố ngầm dưới đất, pha trộn với hương sực nức của véc-ni và đồ gỗ mục nát đã lên nấm mốc.
Và thình lình, khi anh ngả người như thế, mùi hoa mignonette ngọt dịu tràn ngập căn phòng. Mùi hương dường như đến theo một cơn gió thoảng, với sự chắc chắn, thơm tho và khẳng định thành một hương vị khác có sự sống. Và như thể là có tiếng gọi anh rồi anh đứng bật dậy nhìn chung quanh. Mùi hương nồng nàn bám lấy anh và bao quanh lấy anh. Anh dang cả hai tay ra đón nó, mọi tri giác của anh trong nhất thời đều bị hoang mang trộn lẫn. Làm thế nào một mùi hương có thể gọi được anh? Chắc chắn đấy phải là một linh hồn. Nhưng mà có phải đấy là một âm thanh đã chạm đến anh đã ve vuốt anh?
“Nàng đã ngụ ở phòng này” anh thốt lên và bật người ra để níu lấy một ít, vì anh biết anh có thể nhận ra cái gì đấy dù nhỏ nhặt nhất thuộc về nàng hay cái gì đấy nàng đã chạm tay đến. Mùi hương mignonette này, mùi hương nàng vẫn yêu thích và biến thành mùi của riêng nàng đã từ đâu đến?
Căn phòng đã được dọn dẹp một cách cẩu thả. Vương vãi trên chiếc khăn mỏng dính đậy cái bàn phấn là khoảng nửa tá kim cài tóc, những người bạn thầm kín, khó phân biệt nhau của giới phụ nữ, thuộc phái yếu, với cảm hứng vô hạn và một thể ngôn ngữ không thể truyền thông được. Anh bỏ qua những món này, hiểu rõ chúng hoàn toàn thiếu khả năng chứng minh ai là ai. Khi lục lọi trong mấy ngăn kéo của cái bàn phấn, anh tìm thấy một khăn tay nhỏ bị vứt bỏ nhàu nát. Anh áp nó vào mặt mình. Nó có mùi cây vòi voi nồng nặc xấc xược, anh ném nó xuống sàn nhà.
Trong một ngăn kéo khác anh tìm ra vài cúc áo, một tờ chương trình nhà hát, một thẻ cầm đồ, hai mẩu kẹo đường, một lô cuốn sách nói về cách đoán mộng. Trong ngăn kéo cuối cùng là một kẹp tóc bằng vải sa-tanh đen, khiến anh dừng tay, vội bốc lấy nó, giữa băng giá lạnh và lửa nóng cháy. Nhưng cái kẹp tóc cũng chỉ là loại trang sức của nữ giới, khiêm tốn, thông thường và vô nhân cách không nói lên được điều gì.
Và rồi anh lùng sục khắp phòng như con chó săn đánh hơi con mồi, lướt qua bức tường bò trên hai chân và hai tay để xem xét từng góc kẹt của tấm trải sàn, phập phồng sục sạo cái bệ lò sưởi và mấy cái bàn, màn cửa, màn treo, cái tủ nhỏ ở góc phòng, để tìm kiếm một dấu vết sinh động, dù anh không thể nhận ra là nàng đã ở bên anh, xung quanh anh, tựa vào anh ở trong anh, bên trên anh bám lấy anh gọi anh qua mọi cảm nhận tính tế hơn, đến nỗi ngay những giác quan đơn sơ nhất của anh cũng nhận được tiếng gọi. Ôi Chúa ơi! mùi hương ấy đến từ đâu và từ bao giờ mùi hương có tiếng nói để kêu gọi? Thế là anh lần mò xung quanh.
Anh vùi mình trong các kẽ ngách và góc kẹt và tìm thấy nút chai và những điếu thuốc lá. Anh bóp chúng bẹp gí trong khinh rẻ. Nhưng có lúc anh tìm thấy trong một nếp gấp của tấm trải sàn nhà một điếu xì-gà đã hút dở và anh lấy chân chà nó với tiếng càu nhàu sắc lạnh. Anh sàng lọc cả căn phòng từ đầu này sang đầu kia. Anh tìm thấy những chứng tích lặt vặt đáng chán và hạ cấp của nhiều khách trọ lãng tử, trong khi không thấy dấu vết nào của một người có thể đã thuê phòng ở đây, người mà linh hồn dường như lảng vảng quanh đây.
Và rồi anh nghĩ đến bà chủ nhà. Anh chạy từ căn phòng bị ma ám xuống mấy bậc thang, đến một cánh cửa có khe nứt toả sáng ra ngoài. Bà chủ nhà ra mở cửa. Anh cố gắng trấn áp nỗi xúc động. Anh van nài:
- Bà có thể cho tôi biết, ai đã thuê căn phòng đó trước khi tôi đến?
- Vâng, thưa ông. Tôi có thể cho ông biết lần nữa. Đấy là Sprowls và Mooney, như tôi đã nói. Tôi nói cô B’retta Sprowls trình diễn ở các nhà hát, nhưng thực ra là bà Mooney. Nhà của tôi nổi tiếng là đứng đắn. Giấy hôn thú, có đóng khung, treo vào cái đinh bên trên.
- Cô Sprowls là người như thế nào, ý tôi muốn nói về ngoại hình?
- Sao cơ? Tóc đen, thưa ông, thấp người, tròn trĩnh, với khuôn mặt trông khôi hài. Họ đã đi ngày thứ ba tuần rồi.
- Và trước họ, ai đã ở đấy?
- Sao cơ? Đấy là một ông làm nghề khuân vác. Ông ta đi mà còn thiếu tiền thuê phòng một tuần. Trước ông là cô Crowder và đứa con của cô ấy, họ ở bốn tháng. Trước nữa là ông Doyle, tiền phòng do các đứa con trả. Ông thuê trong sáu tháng. Đấy là một năm nay, trước nữa thì tôi không nhớ.
Anh cảm ơn bà và lủi thủi trở về phòng. Căn phòng đã chết. Hương thơm cho nó sự sống đã không còn nữa. Mùi hương hoa mignonette đã ra đi. Thay vào đấy là mùi cũ kỹ, nặng nề của đồ đạc lên mốc meo, của bầu không khí ngột ngạt như là trong kho hàng.
Hy vọng tàn rụi đã làm cạn kiệt mọi niềm tin của anh. Anh ngồi nhìn chăm chăm ngọn đèn ga vàng vọt. Rồi anh đi đến cái giường và xé tấm vải giường ra thành từng dải nhỏ. Dùng cái sóng của một con dao, anh nhét từng dải vào từng khe hở của các cửa sổ và cánh cửa chính. Khi mọi chỗ đã được lèn chặt, anh tắt ngọn lửa, mở vòi ga hết mức, rồi lên nằm một cách thoải mái trên giường.
Đấy là đêm bà McCool cảm thấy thèm bia. Thế là bà đi lấy một lon đến ngồi bên bà Purdy, tại một góc cô tịch dưới tầng hầm nơi các bà chủ nhà tụ họp và nơi con sâu tham lam ít khi chết đói. Bà Purdy nói, qua một vòng tròn bọt bia li ti:
- Tối nay tôi đã cho thuê được căn phòng trên tầng ba. Một anh thanh niên đến thuê. Anh ta đi ngủ cách đây hai giờ rồi.
Bà McCool nói với lòng thán phục:
- Thật à, bà Purdy? Bà tài lắm mới có thể cho thuê loại phòng như thế.
Và McCool thì thầm đầy vẻ bí ẩn, thêm câu hỏi:
- Thế thì bà có nói cho anh ta biết không?
Bà Purdy nói, cổ họng càng như được lót thêm lông thú dày nhất:
- Có phòng là phải trang bị để cho thuê. Tôi không nói cho anh ấy biết bà McCool ạ.
- Bà nói đúng lắm, có cho thuê phòng thì những người như chúng ta mới sống được. Bà có đầu óc kinh doanh độc đáo lắm. Nhiều người có thể từ chối căn phòng đó nếu họ biết là đã có khách tự tử và nằm chết trên cái giường trong đấy.
- Như bà nói, chúng ta phải lo kiếm sống.
- Thật vậy bà ạ. Đúng một tuần trước tôi đã giúp bà trải lại tấm lót sàn. Một cô gái xinh xắn mảnh dẻ tự tử bằng ga thắp đèn, cái cô có khuôn mặt nhỏ nhắn đấy, bà Purdy.
Bà Purdy đồng tình nói nhưng pha chê bai:
- Cô ấy có thể được xem là đẹp, như bà nói, nếu không có cái bớt trên lông mày bên trái. Dùng thêm bia đi bà McCool.
ST
Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt lang thang. Tuy vô gia cư họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác, phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất, luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng.
Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát.
Vì thế những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này.
Một buổi tối một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút trống rỗng.
Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không.
Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú:
- Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không?
Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa.
Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ.
Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là, ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối, xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới.
Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú:
- Phòng này đây. Phòng này tốt lắm ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê, không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang..
..Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls chắc ông có nghe nói đến cô ấy. À mà đấy chỉ là tên sân khấu, trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây có nhiều tủ quần áo ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.
- Bà có nhiều nghệ sĩ sân khấu thuê phòng ở đây không?
- Họ đến rồi đi. Giới sân khấu có thuê một số phòng ở đây. Đúng thế ông ạ, nơi đây là quận sân khấu. Mấy diễn viên không bao giờ ở lâu một chỗ nào cả. Một số có thuê ở đây. Vâng họ đến rồi đi.
Anh thanh niên nhận thuê phòng, trả trước một tuần. Anh bảo anh cảm thấy mệt và muốn nhận phòng ngay. Anh đếm tiền. Bà chủ bảo phòng đã sẵn sàng, ngay cả khăn lau và nước đều sẵn sàng. Khi bà chuẩn bị ra ngoài, anh thanh niên hỏi câu hỏi anh đã có trên đầu môi cả nghìn lần:
- Có một cô gái trẻ. Cô Vashner, cô Eloise Vashner, bà có nhớ cô đã đến thuê ở đây không? Rất có thể cô hát trên sân khấu. Da trắng tầm vóc trung bình, với tóc vàng kim đo đỏ và một bớt sẫm gần lông mày bên trái.
- Không tôi không nhớ tên. Giới sân khấu thay đổi tên liên tục cũng như họ thay đổi phòng. Họ đến rồi đi. Không tôi không nhớ tên này.
Không. Luôn luôn là không. 5 tháng điều tra liên tục rồi không tránh khỏi vô vọng. Bỏ rất nhiều thì giờ ban ngày để hỏi han mấy ông bầu, nhân viên đại diện, trường kịch nghệ, ban hợp xướng. Ban đêm trà trộn trong số khán giả của các sân khấu từ những nhà hát đầy ngôi sao đến các phòng ca nhạc hạ cấp. Anh, người thương cô nhất trần đời, đã cố công tìm kiếm cô. Anh chắc chắn là từ khi cô biến khỏi nhà, thành phố thênh thang bao quanh toàn là nước này chứa chấp cô ở đâu đấy, nhưng nó như là một vũng lầy khủng khiếp, luôn luôn xoáy động, không có nền chắc chắn, các vật thể nổi hôm nay bị chìm lấp ngày mai trong bùn nhớt.
Căn phòng đủ tiện nghi nội thất đón người khách mới nhất với tia sáng đầu tiên của lòng hiếu khách giả tạo, một thái độ chào đón tất bật hốc hác, máy móc. Sự thoải mái hiện đại đến từ ánh sáng phản chiếu từ đồ nội thất rã mục, tấm nệm thêu xơ xác của cái phô-tơi và hai chiếc ghế, tấm gương soi toàn thân rẻ tiền đặt giữa hai cửa sổ và khung giường bằng đồng đặt ở góc phòng. Người khách trọ ngồi ngả người trên ghế, bất động, trong khi căn phòng, hoang mang trong ngôn từ như thể là một phòng trọ trong Tháp Babel, cố gắng thuyết minh về chức năng cho thuê đa dạng của nó.
Cái tấm thảm với lắm mùi khác nhau, hình chữ nhật thêu hoa, giống như hòn đảo vùng nhiệt đới bao quanh bởi một vùng biển là tấm lót sàn vấy bẩn, phồng lên chỗ này, tọp xuống chỗ nọ. Trên bức tường dán giấy màu tươi sáng là những tấm hình đi theo những người vô gia cư từ nhà này đến nhà nọ. Những góc cạnh đạo mạo một cách khắc khổ của cái bệ lò sưởi bị che phủ một cách tồi tệ trong cái màn cửa theo mốt thời trang, bị kéo xệch dúm dó về một bên cứ như là tấm vải choàng của vũ nữ ba lê vùng rừng già Amazon ở Nam Mỹ. Trên cái bệ là xác một con tầu chỏng chơ được mang vào bờ khi một cánh buồm may mắn mang chúng đến bến cảng tươi mát, một hai bình hoa vô duyên, ảnh của mấy diễn viên, một lọ thuốc, vài lá bài tây lạc lõng khỏi cỗ bài.
Khi bản mật mã trở nên rõ ràng từ chữ này qua chữ khác, những dấu hiệu nhỏ nhoi còn sót lại sau cuộc diễu hành của những người khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi nội thất trở nên có ý nghĩa. Cái khoảnh tấm thảm xơ xác trước cái bàn phấn bảo rằng những người phụ nữ dễ thương đã đến hàng đoàn. Những dấu tay bé tí trên bức tường nói đến những tù nhân nhỏ tuổi cố lần mò tìm đường ra ánh nắng và không khí. Một vết bẩn vương vãi, toả ra như cái bóng của một bom bùng nổ, là chứng tích của một cái cốc hay chai va vào, tung toé ra lên tường chất đựng bên trong. Trên mặt gương soi toàn thân là tên người “Marie” viết nguệch ngoạc bằng kim cương.
Dường như lần lượt những khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi đã trút ra cơn giận dữ, có lẽ không thể chịu nổi vẻ lạnh lùng hào nhoáng rẻ tiền của nó và đem tất cả cuồng nhiệt ra phá phách. Bàn ghế tủ giường bị đẽo gọt và trầy trụa, cái ghế bành bị móp méo vì mấy lò xo bung ra, trông như là con quái vật khủng khiếp đã bị sát tử trong cơn quằn quại loạn cuồng. Một cơn quấy động nào đấy lộ liễu hơn đã sớt cái bệ lò sưởi đi một lát lớn. Mỗi thanh gỗ sàn tạo một mảng riêng rẽ và kêu thét như là trong cơn đau đớn riêng biệt của từng cá thể. Có vẻ khó tin là những người có thời từng gọi căn phòng này là “nhà” lại có ác ý gây ra bao đau thương như thế cho căn phòng.
Và tuy nhiên, có thể là bản năng do ý niệm về “nhà” bị lừa gạt, vốn đã tồn tại một cách đui mù sau cơn giận dữ đầy bất bình đối với cơn phẫn nộ của những người ở trọ. Nếu ta là chủ một túp lều, ta vẫn quét dọn, trang hoàng và giữ gìn nó.
Anh khách trẻ ở trọ, gọn người trong ghế, để những ý tưởng như thế lướt qua êm ái trong đầu anh, trong khi những âm thanh và những mùi hương, đều có đủ tiện nghi nội thất lan toả vào căn phòng. Anh nghe trong một căn phòng tiếng khúc khích và chuỗi cười vang buông thả không kiềm chế, trong những phòng khác một giọng độc thoại trách mắng, tiếng xúc xắc lanh canh, tiếng ru con và một tiếng khóc sụt sùi, tầng trên là tiếng đàn banjo gãy đầy nhiệt tình. Ở đâu đấy có những cánh cửa đóng sầm; cái thang máy kêu thét không ngừng, một con mèo rên rỉ thảm hại trên hàng rào sân sau. Và anh thở hơi thở của toà nhà hương vị ẩm lạnh, hơn là một mùi vị nồng nồng lạnh lẽo mốc meo như thể từ những hố ngầm dưới đất, pha trộn với hương sực nức của véc-ni và đồ gỗ mục nát đã lên nấm mốc.
Và thình lình, khi anh ngả người như thế, mùi hoa mignonette ngọt dịu tràn ngập căn phòng. Mùi hương dường như đến theo một cơn gió thoảng, với sự chắc chắn, thơm tho và khẳng định thành một hương vị khác có sự sống. Và như thể là có tiếng gọi anh rồi anh đứng bật dậy nhìn chung quanh. Mùi hương nồng nàn bám lấy anh và bao quanh lấy anh. Anh dang cả hai tay ra đón nó, mọi tri giác của anh trong nhất thời đều bị hoang mang trộn lẫn. Làm thế nào một mùi hương có thể gọi được anh? Chắc chắn đấy phải là một linh hồn. Nhưng mà có phải đấy là một âm thanh đã chạm đến anh đã ve vuốt anh?
“Nàng đã ngụ ở phòng này” anh thốt lên và bật người ra để níu lấy một ít, vì anh biết anh có thể nhận ra cái gì đấy dù nhỏ nhặt nhất thuộc về nàng hay cái gì đấy nàng đã chạm tay đến. Mùi hương mignonette này, mùi hương nàng vẫn yêu thích và biến thành mùi của riêng nàng đã từ đâu đến?
Căn phòng đã được dọn dẹp một cách cẩu thả. Vương vãi trên chiếc khăn mỏng dính đậy cái bàn phấn là khoảng nửa tá kim cài tóc, những người bạn thầm kín, khó phân biệt nhau của giới phụ nữ, thuộc phái yếu, với cảm hứng vô hạn và một thể ngôn ngữ không thể truyền thông được. Anh bỏ qua những món này, hiểu rõ chúng hoàn toàn thiếu khả năng chứng minh ai là ai. Khi lục lọi trong mấy ngăn kéo của cái bàn phấn, anh tìm thấy một khăn tay nhỏ bị vứt bỏ nhàu nát. Anh áp nó vào mặt mình. Nó có mùi cây vòi voi nồng nặc xấc xược, anh ném nó xuống sàn nhà.
Trong một ngăn kéo khác anh tìm ra vài cúc áo, một tờ chương trình nhà hát, một thẻ cầm đồ, hai mẩu kẹo đường, một lô cuốn sách nói về cách đoán mộng. Trong ngăn kéo cuối cùng là một kẹp tóc bằng vải sa-tanh đen, khiến anh dừng tay, vội bốc lấy nó, giữa băng giá lạnh và lửa nóng cháy. Nhưng cái kẹp tóc cũng chỉ là loại trang sức của nữ giới, khiêm tốn, thông thường và vô nhân cách không nói lên được điều gì.
Và rồi anh lùng sục khắp phòng như con chó săn đánh hơi con mồi, lướt qua bức tường bò trên hai chân và hai tay để xem xét từng góc kẹt của tấm trải sàn, phập phồng sục sạo cái bệ lò sưởi và mấy cái bàn, màn cửa, màn treo, cái tủ nhỏ ở góc phòng, để tìm kiếm một dấu vết sinh động, dù anh không thể nhận ra là nàng đã ở bên anh, xung quanh anh, tựa vào anh ở trong anh, bên trên anh bám lấy anh gọi anh qua mọi cảm nhận tính tế hơn, đến nỗi ngay những giác quan đơn sơ nhất của anh cũng nhận được tiếng gọi. Ôi Chúa ơi! mùi hương ấy đến từ đâu và từ bao giờ mùi hương có tiếng nói để kêu gọi? Thế là anh lần mò xung quanh.
Anh vùi mình trong các kẽ ngách và góc kẹt và tìm thấy nút chai và những điếu thuốc lá. Anh bóp chúng bẹp gí trong khinh rẻ. Nhưng có lúc anh tìm thấy trong một nếp gấp của tấm trải sàn nhà một điếu xì-gà đã hút dở và anh lấy chân chà nó với tiếng càu nhàu sắc lạnh. Anh sàng lọc cả căn phòng từ đầu này sang đầu kia. Anh tìm thấy những chứng tích lặt vặt đáng chán và hạ cấp của nhiều khách trọ lãng tử, trong khi không thấy dấu vết nào của một người có thể đã thuê phòng ở đây, người mà linh hồn dường như lảng vảng quanh đây.
Và rồi anh nghĩ đến bà chủ nhà. Anh chạy từ căn phòng bị ma ám xuống mấy bậc thang, đến một cánh cửa có khe nứt toả sáng ra ngoài. Bà chủ nhà ra mở cửa. Anh cố gắng trấn áp nỗi xúc động. Anh van nài:
- Bà có thể cho tôi biết, ai đã thuê căn phòng đó trước khi tôi đến?
- Vâng, thưa ông. Tôi có thể cho ông biết lần nữa. Đấy là Sprowls và Mooney, như tôi đã nói. Tôi nói cô B’retta Sprowls trình diễn ở các nhà hát, nhưng thực ra là bà Mooney. Nhà của tôi nổi tiếng là đứng đắn. Giấy hôn thú, có đóng khung, treo vào cái đinh bên trên.
- Cô Sprowls là người như thế nào, ý tôi muốn nói về ngoại hình?
- Sao cơ? Tóc đen, thưa ông, thấp người, tròn trĩnh, với khuôn mặt trông khôi hài. Họ đã đi ngày thứ ba tuần rồi.
- Và trước họ, ai đã ở đấy?
- Sao cơ? Đấy là một ông làm nghề khuân vác. Ông ta đi mà còn thiếu tiền thuê phòng một tuần. Trước ông là cô Crowder và đứa con của cô ấy, họ ở bốn tháng. Trước nữa là ông Doyle, tiền phòng do các đứa con trả. Ông thuê trong sáu tháng. Đấy là một năm nay, trước nữa thì tôi không nhớ.
Anh cảm ơn bà và lủi thủi trở về phòng. Căn phòng đã chết. Hương thơm cho nó sự sống đã không còn nữa. Mùi hương hoa mignonette đã ra đi. Thay vào đấy là mùi cũ kỹ, nặng nề của đồ đạc lên mốc meo, của bầu không khí ngột ngạt như là trong kho hàng.
Hy vọng tàn rụi đã làm cạn kiệt mọi niềm tin của anh. Anh ngồi nhìn chăm chăm ngọn đèn ga vàng vọt. Rồi anh đi đến cái giường và xé tấm vải giường ra thành từng dải nhỏ. Dùng cái sóng của một con dao, anh nhét từng dải vào từng khe hở của các cửa sổ và cánh cửa chính. Khi mọi chỗ đã được lèn chặt, anh tắt ngọn lửa, mở vòi ga hết mức, rồi lên nằm một cách thoải mái trên giường.
Đấy là đêm bà McCool cảm thấy thèm bia. Thế là bà đi lấy một lon đến ngồi bên bà Purdy, tại một góc cô tịch dưới tầng hầm nơi các bà chủ nhà tụ họp và nơi con sâu tham lam ít khi chết đói. Bà Purdy nói, qua một vòng tròn bọt bia li ti:
- Tối nay tôi đã cho thuê được căn phòng trên tầng ba. Một anh thanh niên đến thuê. Anh ta đi ngủ cách đây hai giờ rồi.
Bà McCool nói với lòng thán phục:
- Thật à, bà Purdy? Bà tài lắm mới có thể cho thuê loại phòng như thế.
Và McCool thì thầm đầy vẻ bí ẩn, thêm câu hỏi:
- Thế thì bà có nói cho anh ta biết không?
Bà Purdy nói, cổ họng càng như được lót thêm lông thú dày nhất:
- Có phòng là phải trang bị để cho thuê. Tôi không nói cho anh ấy biết bà McCool ạ.
- Bà nói đúng lắm, có cho thuê phòng thì những người như chúng ta mới sống được. Bà có đầu óc kinh doanh độc đáo lắm. Nhiều người có thể từ chối căn phòng đó nếu họ biết là đã có khách tự tử và nằm chết trên cái giường trong đấy.
- Như bà nói, chúng ta phải lo kiếm sống.
- Thật vậy bà ạ. Đúng một tuần trước tôi đã giúp bà trải lại tấm lót sàn. Một cô gái xinh xắn mảnh dẻ tự tử bằng ga thắp đèn, cái cô có khuôn mặt nhỏ nhắn đấy, bà Purdy.
Bà Purdy đồng tình nói nhưng pha chê bai:
- Cô ấy có thể được xem là đẹp, như bà nói, nếu không có cái bớt trên lông mày bên trái. Dùng thêm bia đi bà McCool.
ST
#120
Gửi vào 24/06/2011 - 06:17
MỘT CÁI CHẾT
Bảy giờ tối. Hai chúng tôi cơm chiều xong, vừa định thắng bộ vào dạo chơi loanh quanh mấy phố thì trời bỗng đổ cơn mưa như trút. Phải bó cẳng ngồi nhà cặm cụi với mấy tờ báo, chúng tôi xem đã uể oải, mắt đã thấy mờ thì cửa vẫn khép chặt, bỗng có người đẩy đánh xầm một cái tung ra. Giật mình, chúng tôi ngơ ngác nhìn lên thì một ông lão ăn mày vừa lòa vừa cụt chân, người quắt như con mắm nướng, áo tơi, nón lá, chống nạng lê vào.
- Lạy ông, lạy bà... bố thí cho con đồng cơm bát cháo trong lúc khốn cùng...
- Không sẵn! Đi đi!!! Cửa nhà người ta khép thế mà cũng đẩy ra được...
Đã bực mình sẵn lại thấy ông lão xông xáo quá đáng thế, tôi không chút thương mà gắt rầm lên. Bạn tôi vội xua tay ngăn lại, đứng dậy, ra ân cần để vào tay ông lão một xu. Ông lão cúi rạp xuống đất tạ ơn rồi lủi thủi bước ra, để lại chỗ đứng một vũng nước dây ở cái áo tơi trút xuống. Bạn tôi cài then cửa rồi vào:
- Không bao giờ tôi nỡ đuổi một người ăn mày như anh đã đuổi.
Tôi mỉm cười một cách nhạo báng. Bạn tôi xưa nay vẫn hay giảng đạo đức, thuyết luân lý.
- Anh đừng tưởng chuyện đùa. Những chuyện rất thường mà đối với người ngoài cuộc, lắm khi có ảnh hưởng lại rất sâu xa. Một người ăn mày đến kè nhè bên ngoài. Người trong nhà chạy ra mắng đuổi hắt đi rồi đóng cửa đánh xầm một tiếng. Tưởng chẳng có chuyện gì bình thường hơn thế nữa. Thế mà cũng chỉ vì một chuyện đuổi ăn mày mà chính tôi đây, tôi đã được mục kích một tấn kịch rất đỗi bi thương.
Nói đến đó, bạn tôi ngồi xuống ghế, vớ lấy bao thuốc lá lấy ra một điếu đánh diêm châm, rồi tiếp. Bên ngoài trời vẫn rả rích mưa to.
- Hồi ấy, cách đây sáu bảy năm trời, phải, sáu bảy năm trời rồi mà câu chuyện xảy ra tôi còn nhớ mồn một như mới hôm qua.
Năm mười sáu tuổi, học lớp nhất trường Hàng Vôi, tôi ở trọ phố Bờ Sông, nhà một thầy cai lấy thuế chợ. Con trai thầy mới lên mười một, học lớp dự bị, ngày ngày bốn buổi đi về có tôi dắt dìu. Tối đến dưới ngọn đèn dầu cũng tôi chỉ bảo. Gia thế thầy cai tôi không được rõ. Vì có người quen mách giúp nên việc tôi đến trọ nhà thầy là việc ngẫu nhiên. Chỉ biết hôm tôi khuân hòm đến thì, trên chỏm mũ trắng điểm vành băng đen, thằng Hợi con thầy đã ngót hai năm trở mẹ.
Thằng Hợi! Tôi nhắc đến tên thì người, tôi cũng nhớ được ngay. .. Anh thử tưởng tượng xem, một thằng bé mới mười một tuổi đầu, mặt mũi sáng sủa, ăn nói lễ phép, đến trường học hành đã chăm chỉ, về nhà việc vặt lại hay làm. Thầy cai rất yêu quý con trai, sợ cảnh dì ghẻ con chồng, chuyện lấy vợ kế thầy không hằng nghĩ đến. Nhưng xem ý tôi biết, thằng Hợi không yêu bố nó chút nào. Chắc anh cũng chẳng lạ gì, một đứa trẻ, rất ngoan mà không ưa bố, một người bố cũng thương yêu con như trăm nghìn người bố khác, chỉ vì cái nghề mà đến con đẻ rứt ruột nó cũng không yêu.
Anh thử tính xem, cái nghề mà cửa miệng thiên hạ vẫn nói... nó đầy đoạ con người một thời xông pha mưa nắng, chỉ vì bổn phận mà đối với người nghèo hèn, buôn thúng bán mẹt đã bị họ coi như kẻ tử thù. Mỗi lần thầy cai đi thi hành công vụ qua cửa trường Hàng Vôi là lại một phen thằng Hợi khóc. Nó khóc vì nó chẳng đang tâm trông thấy bố nó thẳng cánh đánh đập một bà lão bán bún hay đá túi bụi một thằng bé con cho hòm kẹo đổ xuống đất tung tành, nó khóc vì bạn bè trong trường khinh bỉ nó vô cùng, thường rõ rẹo vào mặt nó mà rằng: "Chúng tao không chơi với mày! Bố mày làm cai lấy vé chợ"
Sau những trận đau lòng ấy, chẳng biết trông cậy vào ai, thằng Hợi chỉ còn ôm đầu lủi thủi lại cầm tay tôi, ngước mắt nhìn lên tỏ ý kêu van, dưới ánh sáng mặt trời xiên qua bóng mấy cây bàng, tôi còn thoảng nhớ cái nét mặt ủ rũ của thằng Hợi, hai hàng nước mắt chạy quanh rơm rớm. Anh, nếu anh có đứng vào địa vị tôi bấy giờ, anh mới rõ được cái cảnh thương tâm ấy. Thành thử nó coi tôi như một người anh, có lẽ hơn một người anh nữa, vì càng khinh bỉ bố nó bao nhiêu, tôi lại càng ái ngại cho thằng Hợi bấy nhiêu. Nó cũng hiểu lòng tôi thế lắm.
Nhưng có lẽ anh đã nóng ruột rồi, câu chuyện "đuổi ăn mày" anh để tâm, đây, tôi kể đến rồi đây. Buổi tối hôm ấy cũng vào độ bảy, tám giờ, cũng về cuối tháng giêng ta như hôm nay, chỉ khác là bây giờ thời tiết dễ chịu mà năm ấy thì rét như cắt. Cái nhà chênh vênh hứng gió, cửa trông thẳng ra bờ sông, chúng tôi ngồi trong, nghe bên ngoài tiếng gió ào ào, cột nhà chuyển lắc rắc mà những rùng mình.
Phải, cái cảnh tượng đêm hôm ấy trí tôi chẳng quên mất một mảy may: cửa đóng kín im im, ngồi chùm đầu trong một cái chăn bông mà hai hàm răng tôi vẫn thấy chọi nhau lập cập. Thằng Hợi ngồi học cùng bàn với tôi nhưng không biết nó nghĩ vơ vẩn điều gì, mắt nó thường không nhìn đến sách. Thầy cai thì ngồi chễm chệ giữa giường, bên đùi kê một hoả lò than đỏ rực, trên để mấy con mực khô đang sèo sèo, mùi mực nướng pha lẫn mùi rượu ngang thơm nức cả nhà, nghĩ đến mà thèm rỏ dãi.
Chợt có người khẽ gõ vào cửa mấy tiếng rồi đánh "huỵch" một cái như có vật gì rơi xuống đó. Vừa toan bỏ chăn, xỏ chân vào đôi guốc bước ra thì thầy cai giơ tay ngăn lại, cầm khăn ung dung chùi mồm, vuốt lại bộ râu cong đâu đấy rồi mới cau đôi lông mày sâu róm lại, lên tiếng dõng dạc:
- Ai hỏi gì...?
Bên ngoài lại thấy mấy tiếng gõ vào cánh cửa.
Thầy cai lộn tiết, quát:
- Hỏi gì, nói lên!!!
Nhưng gió vẫn ào ào, bạt cả lời thầy muốn nói. Chúng tôi lắng tai nghe, bên ngoài đưa vào một cơn ho lụ khụ, rời rạc như của một người mắc bệnh kinh niên, rồi thấy giọng run run đưa qua hơi thở hổn ha hổn hển:
- Lạy ông lạy bà, ông bà cứu con, vừa đói vừa rét thế này con chết mất...
Chẳng cần nói tất anh cũng hiểu là một người ăn mày. Trong lúc đó túi tôi cũng có sẵn vài xu rúc rích, vừa toan mở cửa cho thì con người vô lương tâm kia đã lên giọng quát tháo ầm ầm:
- Bước ngay! Đi nhà khác! Đây không sẵn...!
Anh tính, người ta đang đuổi thế mà mình lại cho tiền chả hoá ra chửi mát người ta hay sao? Nghĩ thế, tôi đành khoanh tay ngồi nín lặng xem cái tấn kịch ấy nó diễn ra trong ba, bốn phút.
- ối trời ơi! Con lạy ông... ông... không thương, con chết mất!!!
- à... Quân này lại muốn ra gan... Muốn sống thì xéo đi không lại vào bót sớm.
Bên ngoài, tiếng nói lẫn tiếng khóc:
- ối trời đất ơi! Con chết mất rồi đây, ông có cứu con không...?
Gớm! Đến cái con người tàn nhẫn ấy thì không thể nào kể được. Tôi không ngờ lão ta nỡ đứng phắt dậy, sẵn chậu thau nước lạnh để gần đấy, liền nhắc ngay lên nhằm khe cửa đổ hắt ra đánh "rào" một cái rồi khoanh tay đứng nhìn. Mỗi phút một xa, mấy tiếng gậy lộc cộc chống vào hè lát gạch, theo sau một tiếng thở dài... trừ ngọn gió ào ào thổi mạnh, bốn bề lại im phăng phắc.
Nét mặt vẫn thản nhiên như không, thầy cai lại ngồi vào mâm, gật gù mãi đến nửa đêm. Nằm trong chăn thấy khác hẳn mọi khi, thằng Hợi hôm ấy vừa đặt mình đã ngủ say như chết. Nhưng gần về sáng bỗng bàng hoàng tỉnh giấc, tôi thấy nó quay mặt vào tường mà khóc tỉ tê. Tôi nghĩ mà thương nhưng cũng không khuyên giải, biết rằng có nói cũng chỉ gợi thêm một mối thương tâm. Hôm sau nhằm ngày thứ năm, phải buổi chữ nho thằng Hợi ở nhà còn tôi đi học.
Đến trưa cắp cặp về, đã thấy nó đứng cửa mắt đỏ hoe:
- Anh ơi, hãy ra đây mà xem đã...
Rồi chẳng để tôi kịp hỏi nó đã xốc lấy tay tôi. Đi thẳng ra bãi trèo qua dải đê, tôi thấy xa xa một đám đông, vừa trẻ con, người lớn. Đến gần lặng nghe họ bàn tán, tôi hiểu ngay tất có chuyện buồn:
- Thôi, thế cũng xong! Chết là may, chết là hết... Nhiều người muốn chết mà chẳng được cơ...!
Lời nói lạnh lùng của một ông lão trên đầu hai thứ tóc, mắt kèm nhèm, quần áo rách như tổ đỉa. Một thằng bé độ sáu tuổi nhăn răng bảo thằng đứng bên cạnh:
- Mày ạ! Trông đầu ông ấy như một quả bóng sanh (cinq).
Rồi mấy người đàn bà cười ồ. Chẳng để ý đến mấy người họ lấy khuỷu tay đẩy mình, chúng tôi rẽ đám đông ấy, cố len lỏi vào cho được. Anh ạ, tôi quyết không bao giờ quên được cái cảnh buồn tê buồn tái ấy nó hiện ra trước mắt tôi, lần ấy là lần đầu. Trời vẫn rét, gió vẫn thổi ào ào.
Trong miệng cái cống tròn bằng xi măng một cái xác ông lão ăn mày nằm còng queo, hai chân co lên bụng, còn hai tay vẫn như ôm lấy bị gậy. Cái nón lá rơi ra một bên, bộ tóc lơ thơ, mấy chòm râu lốm đốm phất phơ bay theo ngọn gió, cái thân da bọc ngoài xương nằm đó cho ruồi bâu nhặng bám phải chăng là người hành khất đêm qua lê đến cửa nhà tôi mà đã bị một chậu nước lạnh đuổi đi...? Nghĩ thế rồi chẳng nỡ nhìn lâu cảnh ấy, tôi dắt tay thằng Hợi kéo ra chỗ khác. Nào ngờ, nó cũng nghĩ như tôi rầu rầu nét mặt mà rằng:
- Chính người ăn mày đêm qua rồi, anh ạ.
Lời nói của một đứa trẻ ngây thơ ấy theo sau một tiếng thở dài mới tha thiết làm sao... Một khối óc còn non mà đã thấy cái chân tướng cuộc đời, trong lòng xúc cảm bao mối thương tâm mà chỉ biết phát lộ ra bằng một tiếng thở dài, một tiếng thở dài mà ngụ bao nỗi đắng cay, ý vị... Tuy chúng tôi không đứng lại xem lúc xe "măng ca" đến xe cái xác ấy đi ra sao mà buổi chiều hôm ấy, như bị một sức mạnh vô hình xô đẩy, lòng tôi bỗng thấy buồn tê tái, bài chẳng muốn học, cơm chẳng muốn ăn.
Muốn giải trí, tôi rủ thằng Hợi đi xem chiếu bóng thì nó cười, cái cười giả dối ấy tôi còn nhớ mãi. Rồi nó hỏi vay tôi năm hào, nói là để mua đền anh em quả bóng mà nó đã nhỡ chân đá vỡ cách đây mấy hôm. Tôi cho vay ngay nào ngờ chỉ vì chẳng nghĩ xa xôi mà một đời tôi, rồi đây tôi còn phải lắm phen ân hận.
Đi xem về, tôi vừa gặp thằng nhỏ còn xách thùng đi gánh nước. Bấy giờ thấy cai đang giờ "service" thành cũng vắng nhà. Mở cửa bước vào tôi thấy thằng Hợi đã nằm kín mít trong chăn. Tưởng cũng như mọi khi thấy rét thì đi ngủ, tôi đến bên giường khẽ lật chăn ra, ý muốn kể lại câu chuyện vừa xem với nó. Anh ơi! Thật một đời tôi, chưa bao giờ tôi phải một phen lo sợ mà cảm động như lúc bấy giờ.
Đây này, anh...! Trái tim tôi đã thấy đập thình thình chẳng khác gì lúc ấy, lật cái chăn ra, tôi thấy mặt nó xám ngắt, mắt nó nhắm nghiền mà tay nó thì lạnh giá như đồng, một thứ lạnh của những xác chết khiến ta chỉ hơi chạm vào là đủ rùng mình ghê sợ. Tôi biết ngay là có chuyện, cố nén cái sợ ôm lấy ngang lưng nó mà lay gọi một hồi, chẳng thấy gì, tôi đưa mắt nhìn ra bàn thì bộ chén để úp đấy thấy lẻ bên ngoài một cái. Tôi vội cầm đến thì còn thấy cặn... Chao ôi! Cặn dấm thanh thuốc phiện mùi hãy còn sực nức đưa lên.
Không biết sao, lúc bấy giờ tôi đã toan chạy đâm bổ ra ngoài đường kêu cứu mà rồi tôi lại quay vào, ôm lấy cái xác mà kêu, mà gọi một hồi lâu nữa... Mặt mũi nó trắng trẻo phương phi, trông mà thương mà tiếc vô cùng, tôi tưởng chừng như ôm vào lòng xác một đứa em. Rồi không biết tôi nghĩ lẩn thẩn thế nào mà tôi nâng đầu nó dậy, in môi tôi vào trán nó mà hôn.. thì mắt nó bỗng thấy mở hé ra, tôi còn nhớ mãi đến giờ hai con mắt ấy lờ đờ mà nhìn tôi như người ngái ngủ. Bỗng nó trợn mắt lên há miệng như muốn nói, cố vùng tay giơ lên như muốn ôm lấy cổ tôi mà toan gọi: anh! anh!...
Thương thay! Thằng Hợi chửa kịp nói được điều gì thì, chừng như thuốc độc đã thấm đến ruột gan nó, nó nhắm mắt giãy mạnh một cái rồi buông xuôi hai tay mà ngoặt cổ xuống giường... bọt mép sùi ra... Chuyện về sau thế nào tưởng anh đoán lấy cũng hiểu. Riêng tôi, tôi coi cái ngày hôm ấy như một ngày mà tôi phải để tang, nhân thấy anh đuổi một ông lão ăn mày nên tôi kể chuyện lại anh nghe..
ST
Bảy giờ tối. Hai chúng tôi cơm chiều xong, vừa định thắng bộ vào dạo chơi loanh quanh mấy phố thì trời bỗng đổ cơn mưa như trút. Phải bó cẳng ngồi nhà cặm cụi với mấy tờ báo, chúng tôi xem đã uể oải, mắt đã thấy mờ thì cửa vẫn khép chặt, bỗng có người đẩy đánh xầm một cái tung ra. Giật mình, chúng tôi ngơ ngác nhìn lên thì một ông lão ăn mày vừa lòa vừa cụt chân, người quắt như con mắm nướng, áo tơi, nón lá, chống nạng lê vào.
- Lạy ông, lạy bà... bố thí cho con đồng cơm bát cháo trong lúc khốn cùng...
- Không sẵn! Đi đi!!! Cửa nhà người ta khép thế mà cũng đẩy ra được...
Đã bực mình sẵn lại thấy ông lão xông xáo quá đáng thế, tôi không chút thương mà gắt rầm lên. Bạn tôi vội xua tay ngăn lại, đứng dậy, ra ân cần để vào tay ông lão một xu. Ông lão cúi rạp xuống đất tạ ơn rồi lủi thủi bước ra, để lại chỗ đứng một vũng nước dây ở cái áo tơi trút xuống. Bạn tôi cài then cửa rồi vào:
- Không bao giờ tôi nỡ đuổi một người ăn mày như anh đã đuổi.
Tôi mỉm cười một cách nhạo báng. Bạn tôi xưa nay vẫn hay giảng đạo đức, thuyết luân lý.
- Anh đừng tưởng chuyện đùa. Những chuyện rất thường mà đối với người ngoài cuộc, lắm khi có ảnh hưởng lại rất sâu xa. Một người ăn mày đến kè nhè bên ngoài. Người trong nhà chạy ra mắng đuổi hắt đi rồi đóng cửa đánh xầm một tiếng. Tưởng chẳng có chuyện gì bình thường hơn thế nữa. Thế mà cũng chỉ vì một chuyện đuổi ăn mày mà chính tôi đây, tôi đã được mục kích một tấn kịch rất đỗi bi thương.
Nói đến đó, bạn tôi ngồi xuống ghế, vớ lấy bao thuốc lá lấy ra một điếu đánh diêm châm, rồi tiếp. Bên ngoài trời vẫn rả rích mưa to.
- Hồi ấy, cách đây sáu bảy năm trời, phải, sáu bảy năm trời rồi mà câu chuyện xảy ra tôi còn nhớ mồn một như mới hôm qua.
Năm mười sáu tuổi, học lớp nhất trường Hàng Vôi, tôi ở trọ phố Bờ Sông, nhà một thầy cai lấy thuế chợ. Con trai thầy mới lên mười một, học lớp dự bị, ngày ngày bốn buổi đi về có tôi dắt dìu. Tối đến dưới ngọn đèn dầu cũng tôi chỉ bảo. Gia thế thầy cai tôi không được rõ. Vì có người quen mách giúp nên việc tôi đến trọ nhà thầy là việc ngẫu nhiên. Chỉ biết hôm tôi khuân hòm đến thì, trên chỏm mũ trắng điểm vành băng đen, thằng Hợi con thầy đã ngót hai năm trở mẹ.
Thằng Hợi! Tôi nhắc đến tên thì người, tôi cũng nhớ được ngay. .. Anh thử tưởng tượng xem, một thằng bé mới mười một tuổi đầu, mặt mũi sáng sủa, ăn nói lễ phép, đến trường học hành đã chăm chỉ, về nhà việc vặt lại hay làm. Thầy cai rất yêu quý con trai, sợ cảnh dì ghẻ con chồng, chuyện lấy vợ kế thầy không hằng nghĩ đến. Nhưng xem ý tôi biết, thằng Hợi không yêu bố nó chút nào. Chắc anh cũng chẳng lạ gì, một đứa trẻ, rất ngoan mà không ưa bố, một người bố cũng thương yêu con như trăm nghìn người bố khác, chỉ vì cái nghề mà đến con đẻ rứt ruột nó cũng không yêu.
Anh thử tính xem, cái nghề mà cửa miệng thiên hạ vẫn nói... nó đầy đoạ con người một thời xông pha mưa nắng, chỉ vì bổn phận mà đối với người nghèo hèn, buôn thúng bán mẹt đã bị họ coi như kẻ tử thù. Mỗi lần thầy cai đi thi hành công vụ qua cửa trường Hàng Vôi là lại một phen thằng Hợi khóc. Nó khóc vì nó chẳng đang tâm trông thấy bố nó thẳng cánh đánh đập một bà lão bán bún hay đá túi bụi một thằng bé con cho hòm kẹo đổ xuống đất tung tành, nó khóc vì bạn bè trong trường khinh bỉ nó vô cùng, thường rõ rẹo vào mặt nó mà rằng: "Chúng tao không chơi với mày! Bố mày làm cai lấy vé chợ"
Sau những trận đau lòng ấy, chẳng biết trông cậy vào ai, thằng Hợi chỉ còn ôm đầu lủi thủi lại cầm tay tôi, ngước mắt nhìn lên tỏ ý kêu van, dưới ánh sáng mặt trời xiên qua bóng mấy cây bàng, tôi còn thoảng nhớ cái nét mặt ủ rũ của thằng Hợi, hai hàng nước mắt chạy quanh rơm rớm. Anh, nếu anh có đứng vào địa vị tôi bấy giờ, anh mới rõ được cái cảnh thương tâm ấy. Thành thử nó coi tôi như một người anh, có lẽ hơn một người anh nữa, vì càng khinh bỉ bố nó bao nhiêu, tôi lại càng ái ngại cho thằng Hợi bấy nhiêu. Nó cũng hiểu lòng tôi thế lắm.
Nhưng có lẽ anh đã nóng ruột rồi, câu chuyện "đuổi ăn mày" anh để tâm, đây, tôi kể đến rồi đây. Buổi tối hôm ấy cũng vào độ bảy, tám giờ, cũng về cuối tháng giêng ta như hôm nay, chỉ khác là bây giờ thời tiết dễ chịu mà năm ấy thì rét như cắt. Cái nhà chênh vênh hứng gió, cửa trông thẳng ra bờ sông, chúng tôi ngồi trong, nghe bên ngoài tiếng gió ào ào, cột nhà chuyển lắc rắc mà những rùng mình.
Phải, cái cảnh tượng đêm hôm ấy trí tôi chẳng quên mất một mảy may: cửa đóng kín im im, ngồi chùm đầu trong một cái chăn bông mà hai hàm răng tôi vẫn thấy chọi nhau lập cập. Thằng Hợi ngồi học cùng bàn với tôi nhưng không biết nó nghĩ vơ vẩn điều gì, mắt nó thường không nhìn đến sách. Thầy cai thì ngồi chễm chệ giữa giường, bên đùi kê một hoả lò than đỏ rực, trên để mấy con mực khô đang sèo sèo, mùi mực nướng pha lẫn mùi rượu ngang thơm nức cả nhà, nghĩ đến mà thèm rỏ dãi.
Chợt có người khẽ gõ vào cửa mấy tiếng rồi đánh "huỵch" một cái như có vật gì rơi xuống đó. Vừa toan bỏ chăn, xỏ chân vào đôi guốc bước ra thì thầy cai giơ tay ngăn lại, cầm khăn ung dung chùi mồm, vuốt lại bộ râu cong đâu đấy rồi mới cau đôi lông mày sâu róm lại, lên tiếng dõng dạc:
- Ai hỏi gì...?
Bên ngoài lại thấy mấy tiếng gõ vào cánh cửa.
Thầy cai lộn tiết, quát:
- Hỏi gì, nói lên!!!
Nhưng gió vẫn ào ào, bạt cả lời thầy muốn nói. Chúng tôi lắng tai nghe, bên ngoài đưa vào một cơn ho lụ khụ, rời rạc như của một người mắc bệnh kinh niên, rồi thấy giọng run run đưa qua hơi thở hổn ha hổn hển:
- Lạy ông lạy bà, ông bà cứu con, vừa đói vừa rét thế này con chết mất...
Chẳng cần nói tất anh cũng hiểu là một người ăn mày. Trong lúc đó túi tôi cũng có sẵn vài xu rúc rích, vừa toan mở cửa cho thì con người vô lương tâm kia đã lên giọng quát tháo ầm ầm:
- Bước ngay! Đi nhà khác! Đây không sẵn...!
Anh tính, người ta đang đuổi thế mà mình lại cho tiền chả hoá ra chửi mát người ta hay sao? Nghĩ thế, tôi đành khoanh tay ngồi nín lặng xem cái tấn kịch ấy nó diễn ra trong ba, bốn phút.
- ối trời ơi! Con lạy ông... ông... không thương, con chết mất!!!
- à... Quân này lại muốn ra gan... Muốn sống thì xéo đi không lại vào bót sớm.
Bên ngoài, tiếng nói lẫn tiếng khóc:
- ối trời đất ơi! Con chết mất rồi đây, ông có cứu con không...?
Gớm! Đến cái con người tàn nhẫn ấy thì không thể nào kể được. Tôi không ngờ lão ta nỡ đứng phắt dậy, sẵn chậu thau nước lạnh để gần đấy, liền nhắc ngay lên nhằm khe cửa đổ hắt ra đánh "rào" một cái rồi khoanh tay đứng nhìn. Mỗi phút một xa, mấy tiếng gậy lộc cộc chống vào hè lát gạch, theo sau một tiếng thở dài... trừ ngọn gió ào ào thổi mạnh, bốn bề lại im phăng phắc.
Nét mặt vẫn thản nhiên như không, thầy cai lại ngồi vào mâm, gật gù mãi đến nửa đêm. Nằm trong chăn thấy khác hẳn mọi khi, thằng Hợi hôm ấy vừa đặt mình đã ngủ say như chết. Nhưng gần về sáng bỗng bàng hoàng tỉnh giấc, tôi thấy nó quay mặt vào tường mà khóc tỉ tê. Tôi nghĩ mà thương nhưng cũng không khuyên giải, biết rằng có nói cũng chỉ gợi thêm một mối thương tâm. Hôm sau nhằm ngày thứ năm, phải buổi chữ nho thằng Hợi ở nhà còn tôi đi học.
Đến trưa cắp cặp về, đã thấy nó đứng cửa mắt đỏ hoe:
- Anh ơi, hãy ra đây mà xem đã...
Rồi chẳng để tôi kịp hỏi nó đã xốc lấy tay tôi. Đi thẳng ra bãi trèo qua dải đê, tôi thấy xa xa một đám đông, vừa trẻ con, người lớn. Đến gần lặng nghe họ bàn tán, tôi hiểu ngay tất có chuyện buồn:
- Thôi, thế cũng xong! Chết là may, chết là hết... Nhiều người muốn chết mà chẳng được cơ...!
Lời nói lạnh lùng của một ông lão trên đầu hai thứ tóc, mắt kèm nhèm, quần áo rách như tổ đỉa. Một thằng bé độ sáu tuổi nhăn răng bảo thằng đứng bên cạnh:
- Mày ạ! Trông đầu ông ấy như một quả bóng sanh (cinq).
Rồi mấy người đàn bà cười ồ. Chẳng để ý đến mấy người họ lấy khuỷu tay đẩy mình, chúng tôi rẽ đám đông ấy, cố len lỏi vào cho được. Anh ạ, tôi quyết không bao giờ quên được cái cảnh buồn tê buồn tái ấy nó hiện ra trước mắt tôi, lần ấy là lần đầu. Trời vẫn rét, gió vẫn thổi ào ào.
Trong miệng cái cống tròn bằng xi măng một cái xác ông lão ăn mày nằm còng queo, hai chân co lên bụng, còn hai tay vẫn như ôm lấy bị gậy. Cái nón lá rơi ra một bên, bộ tóc lơ thơ, mấy chòm râu lốm đốm phất phơ bay theo ngọn gió, cái thân da bọc ngoài xương nằm đó cho ruồi bâu nhặng bám phải chăng là người hành khất đêm qua lê đến cửa nhà tôi mà đã bị một chậu nước lạnh đuổi đi...? Nghĩ thế rồi chẳng nỡ nhìn lâu cảnh ấy, tôi dắt tay thằng Hợi kéo ra chỗ khác. Nào ngờ, nó cũng nghĩ như tôi rầu rầu nét mặt mà rằng:
- Chính người ăn mày đêm qua rồi, anh ạ.
Lời nói của một đứa trẻ ngây thơ ấy theo sau một tiếng thở dài mới tha thiết làm sao... Một khối óc còn non mà đã thấy cái chân tướng cuộc đời, trong lòng xúc cảm bao mối thương tâm mà chỉ biết phát lộ ra bằng một tiếng thở dài, một tiếng thở dài mà ngụ bao nỗi đắng cay, ý vị... Tuy chúng tôi không đứng lại xem lúc xe "măng ca" đến xe cái xác ấy đi ra sao mà buổi chiều hôm ấy, như bị một sức mạnh vô hình xô đẩy, lòng tôi bỗng thấy buồn tê tái, bài chẳng muốn học, cơm chẳng muốn ăn.
Muốn giải trí, tôi rủ thằng Hợi đi xem chiếu bóng thì nó cười, cái cười giả dối ấy tôi còn nhớ mãi. Rồi nó hỏi vay tôi năm hào, nói là để mua đền anh em quả bóng mà nó đã nhỡ chân đá vỡ cách đây mấy hôm. Tôi cho vay ngay nào ngờ chỉ vì chẳng nghĩ xa xôi mà một đời tôi, rồi đây tôi còn phải lắm phen ân hận.
Đi xem về, tôi vừa gặp thằng nhỏ còn xách thùng đi gánh nước. Bấy giờ thấy cai đang giờ "service" thành cũng vắng nhà. Mở cửa bước vào tôi thấy thằng Hợi đã nằm kín mít trong chăn. Tưởng cũng như mọi khi thấy rét thì đi ngủ, tôi đến bên giường khẽ lật chăn ra, ý muốn kể lại câu chuyện vừa xem với nó. Anh ơi! Thật một đời tôi, chưa bao giờ tôi phải một phen lo sợ mà cảm động như lúc bấy giờ.
Đây này, anh...! Trái tim tôi đã thấy đập thình thình chẳng khác gì lúc ấy, lật cái chăn ra, tôi thấy mặt nó xám ngắt, mắt nó nhắm nghiền mà tay nó thì lạnh giá như đồng, một thứ lạnh của những xác chết khiến ta chỉ hơi chạm vào là đủ rùng mình ghê sợ. Tôi biết ngay là có chuyện, cố nén cái sợ ôm lấy ngang lưng nó mà lay gọi một hồi, chẳng thấy gì, tôi đưa mắt nhìn ra bàn thì bộ chén để úp đấy thấy lẻ bên ngoài một cái. Tôi vội cầm đến thì còn thấy cặn... Chao ôi! Cặn dấm thanh thuốc phiện mùi hãy còn sực nức đưa lên.
Không biết sao, lúc bấy giờ tôi đã toan chạy đâm bổ ra ngoài đường kêu cứu mà rồi tôi lại quay vào, ôm lấy cái xác mà kêu, mà gọi một hồi lâu nữa... Mặt mũi nó trắng trẻo phương phi, trông mà thương mà tiếc vô cùng, tôi tưởng chừng như ôm vào lòng xác một đứa em. Rồi không biết tôi nghĩ lẩn thẩn thế nào mà tôi nâng đầu nó dậy, in môi tôi vào trán nó mà hôn.. thì mắt nó bỗng thấy mở hé ra, tôi còn nhớ mãi đến giờ hai con mắt ấy lờ đờ mà nhìn tôi như người ngái ngủ. Bỗng nó trợn mắt lên há miệng như muốn nói, cố vùng tay giơ lên như muốn ôm lấy cổ tôi mà toan gọi: anh! anh!...
Thương thay! Thằng Hợi chửa kịp nói được điều gì thì, chừng như thuốc độc đã thấm đến ruột gan nó, nó nhắm mắt giãy mạnh một cái rồi buông xuôi hai tay mà ngoặt cổ xuống giường... bọt mép sùi ra... Chuyện về sau thế nào tưởng anh đoán lấy cũng hiểu. Riêng tôi, tôi coi cái ngày hôm ấy như một ngày mà tôi phải để tang, nhân thấy anh đuổi một ông lão ăn mày nên tôi kể chuyện lại anh nghe..
ST
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
Dự đoán phối hợp nhiều môn huyền học cho chính trị & kinh tế thế giới |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Truyện thần tiên- Cát Hồng |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
||
những góc nhìn khác nhau về chuyện cưới xin, xung - hợp vợ chồng |
Tử Bình | hieuthuyloi |
|
||
Xem Tử Vi - huyền "Học" - vọc phương pháp |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | Vung |
|
||
Suy nghĩ với hỗn hợp nhiều môn huyền học cho lá số VNXHCN |
Mệnh Lý Tổng Quát | Ngu Yên |
|
||
Lưu Kim Tài chuyên đềLưu Kim Tài |
Tử Bình | Durobi |
|
10 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 10 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |