←  Tử Vi

Tử Vi Lý Số :: Diễn đàn học thuật của người Việt

»

Hành lang thảo luận "Thủy tụ nhờ...

Locked

5 6 7 8

Gia Thi's Photo Gia Thi 19/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TuBinhTuTru, on 19/03/2013 - 08:00, said:


với lại, tôi không có quyển Cổ kim đồ thư tập thành nên không biết nguyên văn nhưng tôi có lý do để cho rằng lời nói này không liên quan gì đến ngũ hành trong luận điểm trên.


Thật đáng tiếc tôi đã nêu tên nguồn sách trích dẫn, hy vọng anh Tubinhtutru sớm sưu tầm được sách Cổ kim đồ thư tập thành
Trích dẫn

TuBinhTuTru's Photo TuBinhTuTru 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

vodanhthiendia, on 19/03/2013 - 08:17, said:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TuBinhTuTru, on 19/03/2013 - 07:56, said:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

vodanhthiendia, on 19/03/2013 - 05:14, said:

Vấn đề này đã được trả lời ở trên rồi nên nhàm không lập lại làm gì.


24. Hỏa (Tỵ cung) sanh Thổ (TS) và khắc Kim

mới thích đáng hơn Thổ ở Thân (Kim cung) chứ lị!? Chẳng lẽ Vodanhthiendia đoạn chương thủ ý hay sao mà không có:

25. Thổ (?? cung) sanh Kim (TS) khắc Thủy

Vì như vậy sẽ thấy lý luận của Vodanhthiendia về "Thổ ở Thân" nó vô lý đó mà

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

chứ nhàm gì hè!

Vẩn còn thắc mắc như trên thì "pó tay" chứ chẳng còn nhàm . Hihi

Lý giải không thông thì "pó tay" là đúng rồi!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Trích dẫn

TuBinhTuTru's Photo TuBinhTuTru 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Gia Thi, on 19/03/2013 - 17:59, said:

Thật đáng tiếc tôi đã nêu tên nguồn sách trích dẫn, hy vọng anh Tubinhtutru sớm sưu tầm được sách Cổ kim đồ thư tập thành

Anh Gia Thi đã có sẵn sách lại không nói nhanh ra dùm "cổ nhân" đó là ai (?) mà làm khó bắt tôi tìm; để rồi tôi tìm mãi mới ra mới biết là do "Dương Tuyền" soạn:

"Nho gia lập hồn thiên dĩ truy thiên hình tòng xa luân yên chu bễ lập thiên. Ngôn thiên khí tuần biên nhi hành tòng ma thạch yên đẩu cực thiên chi trung dã. Ngôn thiên giả tất nghĩ chi nhân cố tự tề dĩ hạ nhân chi âm dã tự cực dĩ bắc thiên chi âm dã sở dĩ lập thiên địa giả thủy dã thành thiên địa giả khí dã thủy thổ chi khí thăng nhi vi thiên...."

Tựu chung vẫn như tôi nghĩ cái "Thủy thổ" ở trong "Vật lý luận" là không phải nói về ngũ hành Cục và càng không thể từ đó sẽ rõ thêm hàm nghĩa tại sao Thủy Thổ đều an vòng Trường sinh ở Thân địa như Gia Thi gợi ý:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Gia Thi, on 12/03/2013 - 10:01, said:

Nhưng, Lưu Mục cho rằng, Kinh Dịch kiến lập dưới tiền đề số "chẵn lẻ", số "trời đất", đều là nguyên nhân khởi đầu của "Ngũ hành sinh thành số". Số sinh tức là số âm dương còn chưa giao khí, số thành là số mà âm dương đã giao khí mà thành (Chú: cộng thêm 5 được gọi là giao khí). QuachNgocBoi tham khảo thêm tại Cổ kim đồ thư tập thành sẽ rõ thêm hàm nghĩa tại sao Thủy Thổ đều an vòng Trường sinh ở Thân địa.

"Thủy thổ" là cụm từ để nói lên "điều kiện khí hậu của một vùng [địa phương]" mà ta hay dùng như: "Thủy thổ không quen dễ sinh bệnh" nhưng không phải vì vậy mà gán cái lý đó cho Thổ cục khởi Trường Sinh ở Thân địa.

Anh Gia Thi có thể làm rõ thêm hàm nghĩa này không, nếu có thể được?
Trích dẫn

Vô Danh Thiên Địa's Photo Vô Danh Thiên Địa 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TuBinhTuTru, on 20/03/2013 - 00:07, said:

Lý giải không thông thì "pó tay" là đúng rồi!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Đúng là không thông cho nên cách giải có sẳn cũng vẩn không biết tính ra đáp số.
Trích dẫn

Vô Danh Thiên Địa's Photo Vô Danh Thiên Địa 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Gia Thi, on 19/03/2013 - 15:13, said:



Anh Vodanhthiendia trình bày thứ tự số nạp âm ở bài viết nào

Tôi đã trình bầy thứ tự số nạp âm ở bài viết #83 rồi

Anh Giathi,
Đang bị bận bất ngờ nên chưa trả lời anh được .
Trích dẫn

TuBinhTuTru's Photo TuBinhTuTru 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Gia Thi, on 19/03/2013 - 10:14, said:

Anh Vodanhthiendia nói đúng "dễ hiểu nhầm ý", phần lập luận này tương đối dài, máy tính phần tiếng Trung đang trục trặc, Anh đợi ít bữa nữa, đọc tham khảo cho vui mà Anh.


Tại sao cổ nhân lại quy định thứ tự số nạp âm để làm gì ?




Khảo sát 5 đồ nạp âm để nhận biết được thứ tự của số nạp âm. Cơ sở khảo sát căn cứ theo "Địa thường" lấy Dần làm chuẩn.


- Đồ nạp âm thuộc Hỏa

..........Ất..............Mậu..............Kỷ.............Bính

........Giáp.................................................Đinh

.......Đinh..................................................Giáp

.......Bính............Kỷ................Mậu............Ất

Nhận thấy, theo "Địa thường", thì 2 can Bính Đinh phối với Dần Mão


- Đồ nạp âm thuộc Thổ

........Đinh...........Canh............Tân...........Mậu

.......Bính...................................................Kỷ

........Kỷ...................................................Bính

.......Mậu.............Tân.............Canh.........Đinh

Nhận thấy, theo "Địa thường", thì 2 can Mậu Kỷ phối với Dần Mão


- Đồ nạp âm thuộc Mộc

.........Kỷ.............Nhâm..............Quý............Canh

.......Mậu.......................................................Tân

.......Tân.......................................................Mậu

.......Canh...........Quý...............Nhâm............Kỷ

Nhận thấy, theo "Địa thường", thì 2 can Canh Tân phối với Dần Mão


- Đồ nạp âm thuộc Kim

...........Tân..............Giáp............Ất..............Nhâm

..........Canh...................................................Quý

...........Quý..................................................Canh

.........Nhâm.............Ất............Giáp...............Tân

Nhận thấy, theo "Địa thường", hai can Nhâm Quý phối với Dần Mão


- Đồ nạp âm thuộc Thủy

............Quý.............Bính..............Đinh.............Giáp

...........Nhâm.......................................................Ất

.............Ất.........................................................Nhâm

..........Giáp.............Đinh...............Bính..............Quý

Nhận thấy, theo Địa thường, 2 can Giáp Ất phối với Dần Mão

Theo "Thiên chính" lấy Tý làm chuẩn phối với "Địa thường", khởi thứ tự của 10 thiên can để xác định mối quan hệ với cung Dần

- Thứ nhất là Bính Đinh gặp Dần Mão
- Thứ hai kế tiếp sau Bính Đinh là Mậu Kỷ gặp Dần Mão
- Thứ ba kế tiếp sau Mậu Kỷ là Canh Tân gặp Dần Mão
- Thứ tư kế tiếp sau Canh Tân là Nhâm Quý gặp Dần Mão
- Thứ năm kế tiếp sau Nhâm Quý là Giáp Ất gặp Dần Mão

Cổ nhân định lệ thứ tự số nạp âm: Hỏa là 1, Thổ là 2, Mộc là 3, Kim là 4, Thủy là 5, thông qua 5 đồ nạp âm, có thể nhận thấy sự tương đồng về thứ tự số nạp âm

Thì ra là vậy!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Gia Thi, on 19/03/2013 - 10:14, said:

=============

Ngài Lý Hư Trung lại nói: "Đạo sinh nhất, nhất tuy lập nhi đạo vị ly dã. Nhất sinh nhị, nhị danh thành, nhi đạo tư viễn hỹ"

Theo đó mà xem xét, thì:

- Số ngũ hành sinh thành Thủy là 1
- Số ngũ hành nạp âm Hỏa là 1

Nhưng đó là vì cổ nhân sắp đặt theo thứ tự: Bính Dần, Mậu Dần, Canh Dần, Nhâm Dần, Giáp Dần mà thôi!


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Gia Thi, on 19/03/2013 - 10:14, said:

Lập luận thông qua 5 đồ nạp âm này, liệu rằng có đúng với "mật ý" của cổ nhân hay không ? Hay vẫn còn phương pháp nào khác để xác định số thứ tự của Nạp âm ?

Có! Nếu như theo trình tự của Can là:


Giáp Dần - Thủy - 1
Bính Dần - Hỏa - 2
Mậu Dần - Thổ - 3
Canh Dần - Mộc - 4
Nhâm Dần - Kim - 5

thì lại là ý gì?
Trích dẫn

TuBinhTuTru's Photo TuBinhTuTru 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Gia Thi, on 19/03/2013 - 11:02, said:

Thứ tự về số nạp âm mà cổ nhân đã quy định, có những hàm nghĩa gì ?

Những hàm nghĩa này, liệu rằng có giúp chúng ta, lấy thứ tự về số nạp âm để truy tìm nguyên nhân tại sao nạp âm Thủy và nạp âm Thổ lại đồng độ ở Thân ?

Xét đồ nạp âm thuộc Thủy

............Quý.............Bính..............Đinh.............Giáp

...........Nhâm.......................................................Ất

.............Ất.........................................................Nhâm

..........Giáp.............Đinh...............Bính..............Quý


Nếu ta căn cứ theo "Thiên chính" lấy Tý làm chuẩn, khi phối với "Địa thường", theo thứ tự đếm số thì can Bính ứng với số thứ tự là 13, thì Thủy mới được nạp thêm âm vào, để thành nạp âm thủy, ... Vậy, tại sao phải đến số thứ 13 thì mới hình thành nạp âm Thủy ?

Tại vì cách bát sinh tử mà nghịch hành từ Hà Đồ: Kim - Hỏa - Mộc - Thủy - Thổ nên mới có số thứ 13 thì mới hình thành nạp âm Thủy.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Gia Thi, on 19/03/2013 - 11:02, said:

Nhìn đồ hình nạp âm Thủy thấy can Giáp ở ngôi Thân, nhìn đồ hình nạp âm Thổ thấy can Mậu ở ngôi Thân, từ Giáp đến Mậu là 5, cổ nhân căn cứ vào vị trí xác định của 2 sao để quan sát và nhận biết quỹ đạo của 5 sao ứng với 5 hành, ... vậy thì, phải thông qua 2 để truy tìm 5, có thể là một hướng, để tìm nguyên nhân tại sao nạp âm Thủy Thổ đồng độ ở Thân !?

Anh Gia Thi nói phải thông qua 22 nào? 2 sao ? Giáp và Mậu là 2? Nếu cho Giáp là Mộc tinh và Mậu là Thổ tinh là 2 như Gia Thi nói thì quỹ đạo cần quan sát thuộc về "Thiên Văn Học cổ đại Trung Hoa" (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ):

Ngũ tinh hay ngũ vĩ, ngũ bộ là 5 hành tinh chính của mặt trời. Ngũ tinh là:


(1) Kim Tinh (Thái Bạch, Khải Minh, sao Mai), chu kỳ 1 năm.

(2) Mộc Tinh (Mộc Đức, Tuế Tinh, Kỷ Tinh), chu kỳ 12 năm.

(3) Thủy Tinh (Thủy Diệu, Thần Tinh, Tiểu Chính), chu kỳ 1 năm.

(4) Hỏa Tinh (Vân Hán, Huỳnh Hoặc), chu kỳ 2 năm.

(5) Thổ Tinh (Thổ Tú, Trấn Tinh), chu kỳ 28 năm.


Vậy, nguyên nhân là gì?
Trích dẫn

TuBinhTuTru's Photo TuBinhTuTru 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

vodanhthiendia, on 20/03/2013 - 02:09, said:

Đúng là không thông cho nên cách giải có sẳn cũng vẩn không biết tính ra đáp số.

Cách giải "phước chủ may thầy" có nhất quán gì mà ra đáp số được hè!
Trích dẫn

Vô Danh Thiên Địa's Photo Vô Danh Thiên Địa 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TuBinhTuTru, on 20/03/2013 - 02:53, said:

Cách giải "phước chủ may thầy" có nhất quán gì mà ra đáp số được hè!
Dĩ nhiên, không thông thì quán ra con gà chớ sao nhất quán được.
Cái gì không hiểu, không biết thì cứ xem nó là vô lý và đừng xài bởi xài chỉ có hại nên khỏi thắc mắc làm gì nửa hé .
Trích dẫn

TuBinhTuTru's Photo TuBinhTuTru 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

vodanhthiendia, on 20/03/2013 - 04:55, said:

Dĩ nhiên, không thông thì quán ra con gà chớ sao nhất quán được.
Cái gì không hiểu, không biết thì cứ xem nó là vô lý và đừng xài bởi xài chỉ có hại nên khỏi thắc mắc làm gì nửa hé .

Thà rằng đó giờ cứ nhắm mắt an sao y vậy đi và để tồn nghi cho hậu học tìm nguyên nhân còn hơn; chứ ráng lý giải không thông mà cứ tưởng là thông thì bít lấp đường xưa lối về của Đạo rồi còn gì. Vodanhthiendia như ưng với lý luận không logic ấy thì cứ thế nhé!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Trích dẫn

Gia Thi's Photo Gia Thi 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TuBinhTuTru, on 20/03/2013 - 01:04, said:

Anh Gia Thi có thể làm rõ thêm hàm nghĩa này không, nếu có thể được?


Mệnh đề Thủy tụ nhờ Thổ sinh lập luận nạp âm Thủy và nạp âm Thổ định lệ an tại Thân

- Thứ tự về số sinh:.... Thủy là 1, Hỏa là 2, Mộc là 3, Kim là 4, Thổ là 5
- Thứ tự về số nạp âm: Hỏa là 1, Thổ là 2, Mộc là 3, Kim là 4, Thủy là 5

Bài toán đặt ra:

- Lựa chọn một trong sáu:

1 = Cái thiên,
2 = Hỗn thiên,
3 = Tuyên thiên
4 = Hân thiên
5 = Khung thiên
6 = An thiên

- Đạo lập chí

- Can Bính phối tú Hư, can Đinh phối hành Hỏa
- Can Mậu phối tú Vị, can Kỷ phối hành Thổ
- Can Mậu phối tú Liễu, can Kỷ phối hành Thổ
- Can Mậu phối tú Đê, can Kỷ phối hành Hỏa

- Can Nhâm phối tú Sâm, can Quý phối hành Thủy
- Can Nhâm phối tú Cơ, can Quý phối hành Thủy

- Cơ sở:
- dựa vào mối quan hệ giữa 4 mùa và đạo nhất âm nhất dương, (tức là Thái âm thêm một âm và một dương, hoặc thái dương thêm một âm một dương ...)
- dựa vào mối quan hệ giữa 4 "thực" là Càn Khôn Khảm Ly, và 4 "hư" là Đoài Chấn Cấn Tốn (hoặc 4 "thực" là Chấn Ly Đoài Khảm và 4 "hư" là Khôn Tốn Cấn Càn)

- Chứng minh:

- thứ tự số nạp âm 5 ứng nạp âm Thủy và số nạp âm 2 ứng nạp âm Thổ tương hợp ở phương Tây Nam và ở ngôi vị quẻ Khôn hậu thiên, thông qua tứ "hư" và tứ "thực" (nếu chứng mình bằng thứ tự của số sinh, thì đó là hai số 1 và 5)

- có nghĩa là chứng minh nạp âm Thủy và nạp âm Thổ an tại Thân.
Sửa bởi Gia Thi: 20/03/2013 - 07:53
Trích dẫn

Gia Thi's Photo Gia Thi 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Gia Thi, on 20/03/2013 - 07:40, said:


- Can Mậu phối tú Đê, can Kỷ phối hành Hỏa


Sửa lại:

- Can Mậu phối tú Đê, can Kỷ phối hành Thổ
Trích dẫn

Vô Danh Thiên Địa's Photo Vô Danh Thiên Địa 20/03/2013

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TuBinhTuTru, on 20/03/2013 - 07:01, said:

Thà rằng đó giờ cứ nhắm mắt an sao y vậy đi và để tồn nghi cho hậu học tìm nguyên nhân còn hơn; chứ ráng lý giải không thông mà cứ tưởng là thông thì bít lấp đường xưa lối về của Đạo rồi còn gì. Vodanhthiendia như ưng với lý luận không logic ấy thì cứ thế nhé!

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Lý luận sanh khắc Ngũ hành thuộc về trí biện luận chớ Đạo gì mà lạc. À nói về lạc đạo thì có cái đạo lý nền tảng cho sanh khắc vì không thông nên nêu thắc mắc quá thô sơ căn bản. Đành chịu thôi.
Trích dẫn

tigerstock68's Photo tigerstock68 20/03/2013

- Đồ nạp âm thuộc Thủy

............Quý.............Bính..............Đinh.............Giáp

...........Nhâm.......................................................Ất

.............Ất.........................................................Nhâm

..........Giáp.............Đinh...............Bính..............Quý




Ngũ dương giai dương bính vi tối, ngũ âm giai âm quý vi chí




Nguyên chú: giáp, bính, mậu, canh, nhâm vi dương, độc bính hỏa bỉnh dương chi tinh, nhi vi dương trung chi dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý vi âm, độc quý thủy bỉnh âm chi tinh, nhi vi âm trung chi âm.

Dịch nghĩa:
Giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc dương, duy chỉ bính hỏa mang khí thuần dương, dương trong dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý thuộc âm, duy chỉ quý thủy mang khí thuần âm, âm trong âm.
Nhâm thị viết: bính nãi thuần dương chi hỏa, vạn vật mạc bất do thử nhi phát, đắc thử nhi liễm; quý nãi thuần âm chi thủy, vạn vật mạc bất đắcdo thử nhi sinh, đắc thử nhi mậu.
Dương cực tắc âm sinh, cố bính tân hóa thủy; âm cực tắc âm sinh, cố mậu quý hóa hỏa. âm dương tương tể, vạn vật hữu sinh sinh chi diệu. Phu thập can chi khí, dĩ tiên thiên ngôn chi, cố nhất nguyên đồng xuất, dĩ hậu thiên ngôn chi, diệc nhất khí tương bao. Giáp ất nhất mộc dã, bính đinh nhất hỏa dã, mậu kỷ nhất thổ dã, canh tân nhất kim dã, nhâm quý nhất thủy dã, tức phân biệt sở dụng, bất quá dương cương âm nhu, dương kiện ạm thuận nhi dĩ. Thiết quái mệnh gia tác ca vi phú, bỉ nghĩ thất luận, cánh dĩ giáp mộc vi lương đống, ất mộc vi hoa quả; bính tác thái dương, đinh tác đăng chúc; mậu tác thành tường, kỷ tác điền viên; canh vi ngoan thiết, tân tác châu ngọc; nhâm vi giang hà, quý nhi vũ lộ. tương duyên dĩ cửu, lao bất khả phá, dụng chi luận mệnh, thành đại mậu dã. như vị giáp vi vô căn tử mộc, ất vị hữu căn hoạt mộc, đồng thị mộc nhi phân sinh , khởi dương mộc độc bẩm tử khí, âm mộc độc bẩm sinh khí hồ? luận đoán chư can, như thử chi loại, bất nhất nhi túc, đương tẫn tị chi, dĩ tuyệt tương lai chi mậu.

Dịch nghĩa:
Bính thuộc hỏa khí thuần dương, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà phát triển, thu liễm; quý thuộc thủy khí thuần âm, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà sinh ra, tươi tốt. Dương cực thì âm sinh, do vậy bính tân hợp hóa thủy; âm cực thì dương sinh, do vậy mậu quý hợp hóa hỏa. Âm dương tương giao, vạn vật khéo sinh sôi vậy. Đến như khí của mười can, theo tiên thiên mà nói thì khí đó đồng nhất khí (tức là do âm dương nhị khí sinh ra vậy-ND), theo hậu thiên mà luận thì khí đó cũng do hai khí tương hợp nhau mà thành. Giáp ất thuộc mộc, bính đinh thuộc hỏa, mậu kỷ thuộc thổ, canh tân thuộc kim, nhâm quý thuộc thủy cũng do phân biệt thể dụng mà ra, nhưng cũng không ngoài cái khí âm nhu thuận, cái dương khí cương kiện đó. Các mệnh gia nông cạn, làm ra các bài phú tạo mệnh, với cách nghĩ sai lệch, cho rằng giáp mộc làm lương đóng, ất mộc làm hoa quả; bính hỏa thuộc thái dương, đinh hỏa thuộc đèn đuốc; mậu thổ làm thành quách, kỷ thổ tức điền viên; canh kim thuộc sắt cứng, tận kim thuộc châu ngọc; nhâm thủy thuộc sông ngòi, quý thủy thuộc mưa móc. Luận theo đó đã lâu, bền chắc không thể phá được. Ví như giáp dương mộc không gốc rể gọi là tử mộc, ất âm mộc có gốc rể gọi là hoạt mộc, cũng đồng một thứ mộc mà phân ra sinh tử, chẳng là dương mộc chỉ thụ khí tử tuyệt, còn âm mộc chỉ độc thụ khí sinh vượng hay sao? Luận đoán thiên can các loại thiếu sót, bất nhất,xa vời thực tế như thế, làm sai lầm cho người sau vậy.


Ngũ dương tòng khí bất tòng thế, ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa


Nguyên chú: ngũ dương đắc dương chi khí, tức năng thành hồ dương cương chi thế, bất úy tài sát chi thế; ngũ âm đắc âm chi thế, tức năng thành hồ âm thuận chi nghĩa, cố mộc thịnh tất tòng mộc, hỏa thịnh tất tòng hỏa, thổ thịnh tất tòng thổ, kim thịnh tất tòng kim, thủy thịnh tất tòng thủy. vu tình nghĩa chi sở tại giả, kiến kỳ thế suy, tất kị chi hĩ, cái phụ nhân chi tình dã. như thử, nhược đắc khí thuận lý chính giả, diệc vị tất tòng thế nhi vong nghĩa, tuy tòng diệc tất chính hĩ.

Dịch nghĩa:
Ngũ dương do thụ cái khí dương, mà thành thế dương cương, chẳng sợ tài sát; ngũ âm do thụ cái khí âm, mà thành thế âm thuận, thế cho nên mộc thịnh thì tòng mộc, hỏa thịnh thì tòng hỏa, thổ thịnh thì tòng thổ, kim thịnh thì tòng kim, thủy thịnh thì tòng thủy. Do theo tình nghĩa mà nương náu, gặp thế suy yếu thời hung kị, như người con gái theo chồng vậy. Thế cho nên, khi đặng cái khí thuận chính, mà tòng thế bỏ nghĩa, tuy tòng nhưng cũng thuận chính đó.

Nhâm thị viết: ngũ dương khí tỵ, quang hanh chi tượng dịch quan; ngũ âm khí hấp, bao hàm chi uẩn nan trắc. ngũ dương chi tính cương kiện, cố bất úy tài sát nhi hữu trắc ẩn chi tâm, kỳ xử thế bất cẩu thả; ngũ ạm nhi tính nhu thuận, cố kiến thế vong nghĩa, nhi hữu bỉ lận chi tâm, kỳ xử thế đa kiêu siểm. thị dĩ nhu năng khắc chế cương, cương bất năng chế khắc nhu dã. đại để xu lợi vong nghĩa chi đồ; giai âm khí chi vi lệ dã; hào hiệp khẳng khái chi nhân, giai dương khí chi độc chung. Nhiên thượng hữu dương trung chi âm, âm trung chi dương, hựu hữu dương ngoậi âm nội, âm ngoại dương nội, diệc đương biện chi. Dương trung chi âm, ngoại nhân nghĩa nhi nội gian trá; âm trung chi dương, ngoại âm hiển nhi nội nhân từ; dương ngoại âm nội giả, bao tàng họa tâm; âm ngoại dương nội giả bỉnh trì trực đạo. thử nhân phẩm chi đoan tà? Cố bất khả dĩ bất biện. yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành đình quân, thứ bất thiên ỷ, tự vô tổn nhân lợi kỷ chi tâm. Phàm trì thân thiệp thề chi đạo, xu tỵ tất tiên tri nhân, cố vân”trạch kỳ thiện giả nhi tòng chi”, tức thử ý dã.

Dịch nghĩa:
Ngũ dương khí tán, có cái tượng sáng sủa hanh thông; ngũ âm khí hợp, bao hàm ẩn dấu khó lường. Khí ngũ dương tính cương kiện, chẳng sợ tài sát nên có lóng trắc ẩn, xử thế không cẩu thả; khí ngũ âm tính nhu thuận, theo lợi quên nghĩa, nên có cái lòng bỉ lận, xử thế nhiều kiêu căng nịnh nọt. Cái khí âm nhu này có thể khắc chế cái khí dương cương, chứ cái khí dương cương đó không thể khắc chế cái khí âm nhu được. Nói chung lệ là: “âm khí là hạng người thấy lợi quên nghĩa; còn dương khí là hạng người hào hiệp khẳng khái”. Như trên trong dương có âm, trong âm có dương, lại có ngoài dương mà trong âm, ngoài âm mà trong dương, theo đó mà luận bàn. Như ngoài thì dương mà bên trong thì âm tức hạng người ngoài thì nhân nghĩa mà lòng thì gian trá, tất có cái họa ần chứa bên trong; còn ngoài thì âm nhu mà trong thì dương cương tức hạng người ngoài thì trông có vẻ gian trá nhưng lòng thì nhân nghĩa bao dung cương trực. Cứ theo đó chẳng lẻ nào mà không biết được nhân phẩm đoan chính hay gian tà sao? Cho nên không thể không biện biệt cho tường tận vậy. Thiết yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành bình hòa, không nên thiên lệch không có chổ nương tựa, không làm lợi mình hại người. Phàm con người muốn giử được cái đạo thiệp thế, xu cát tỵ hung trước hết phải biết người, xưa có câu”nên phân biệt được cái thiện để mà theo”, là như vậy đó.


Giáp mộc sâm thiên, thoát thai yếu hỏa. xuân bất dung kim, thu bất dung thổ. Hỏa sí thừa long, thủy đãng kị hổ. Địa nhuận thiên hòa, thực lập thiên cổ.




Nguyên chú: thuần dương chi mộc, tham thiên hùng tráng. Hỏa giả mộc chi tử dã, vượng mộc đắc hỏa nhi dũ phu vinh. Sinh vu xuân tắc khi kim, nhi bất năng dung kim dã; sinh vu thu tắc trợ kim, nhi bất năng dung thổ dã. dần ngọ tuất, bính đinh đa kiến nhi tọa thìn, tắc năng quy; thân tý thìn, nhâm quý đa kiến nhi tọa dần, tắc năng nạp. Sử thổ khí bất can, thủy khí bất tiêu, tắc năng trường sinh hĩ.

Dịch nghĩa:
Giáp vốn là mộc thuần dương, [trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất ư hùng tráng. Hỏa nhiều mộc bị chết cháy, vượng mộc mà đắc hỏa càng phú quý trọn đầy. Sinh vào mùa xuân mộc vượng kim suy mà không thể dung kim được; sinh vào mùa thu mộc suy kim vượng đi trợ kim không thể dung thổ được. Thấy dần ngọ tuất, bính đinh nhiều nhật chủ tọa chi thìn thổ có thể quy về; thấy thân tý thìn, nhâm quý nhiều nhật chủ tọa dần có thể thu nạp. Gía khiến không có thiên can khí thổ, cái thủy khí không nơi nào tiêu đi, tức năng trường sinh vậy.
Nhâm thị viết: giáp vi thuần dương chi mộc, thể bản kiên cố, tham thiên chi thế, hựu cực hùng tráng. Sinh vu xuân sơ, mộc nộn khí hàn, đắc hỏa nhi phát vinh; sinh vu trọng xuân, vượng cực chi thế, nghi tiết kỳ tinh anh. Sở vị cường mộc đắc hỏa, phương hóa kỳ ngoan. Khắc chi giả kim, nhiên kim chúc hưu tù, dĩ suy kim nhi khắc vượng mộc, mộc kiên kim khuyết, thế sở tất nhiên, cố xuân bất dung kim dã. sinh vu thu, thất thời tựu suy, đãn chi diệp tuy điêu lạc tiệm hi, căn khí khước thu liễm hạ đạt, thụ khắc giả thổ. thu thổ sinh kim tiết khí, tối vi hư bạc. dĩ hư khí chi thổ, ngộ hạ công chi mộc, bất năng hồi mộc chi căn, tất phản tao kỳ khuynh hãm, cố thu bất dung thổ dã. trụ trung dần ngọ tuất tòan, hựu thấu bính đinh, bất duy tiết khí thái quá, nhi mộc thả bị phần, nghi tọa thìn, thìn vi thủy khố, kỳ thổ thấp, thấp thổ năng sinh mộc tiết hỏa, sở v ị hỏa khí thừa long dã. thân tý thìn toàn hựu thấu nhâm quý, thủy phiếm mộc phù, nghi tọa dần, dần nãi hỏa thổ sinh địa, mộc chi lộc vượng, năng nạp thủy khí, bất trí phù phiếm, sở vị thủy đãng kị hổi dã. như quả kim bất duệ, thổ bất táo, hoả bất liệt, thủy bất cuồng, phi thực lập thiên cổ nhi đắc trường sinh giả tai!

Dịch nghĩa:
Giáp mộc thuộc khí thuần dương, thế vốn kiên cố, [ trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất hùng tráng. Sinh vào tháng sơ xuân (tháng dần-ND), khí mộc còn non yếu hàn lạnh, đắc hỏa mà phát quý; sinh vào tháng trọng xuân (tháng mão-ND), mộc khí vượng cực, cần nên tiết khí vượng đắc dụng. Sở dĩ mộc vượng đắc hỏa, mà kim trở nên cứng dòn. Kim khí hưu tù khắc mộc sinh vượng, mộc cứng kim bị khuyết, lý lẻ đương nhiên là thế, cho nên mới nói mộc mùa xuân không dung kim được vậy. Sinh vào mùa thu, giáp mộc khí suy, cành khô lá rụng, nguyên khí thu tàng thông suốt, mà khắc chế được thổ khí. Thổ mùa thu sinh kim tiết khí nhiều nên rất bạc nhược. do cái thổ khí hư nhược mà còn bị khí mộc ở dưới công phá, chẳng những không thể tài bồi cho khí mộc suy được, mà còn trở lại che lấp cái mộc khí suy đó nữa, cho nên giáp mộc mùa thu không thể dung thổ vậy. trong trụ dần ngọ tuất đầy đủ, trên can lại thấu bính đinh, chẳng là do mộc tiết khí thái quá, nên mộc bị cháy khô, như nhật chủ tọa thìn, thìn thuộc thủy khố, khí thuộc thấp thổ, mà có khả năng sinh mộc tiết khí hỏa vượng nên mộc được cứu, thế nên hỏa khí thừa long là vậy. thân tý thìn đầy đủ trên can lại thấu nhâm quý, thủy nhiều mộc bị trôi dạt, như nhật chủ tọa dần, địa chi dần tàng chứa can hỏa thổ là đất trường sinh, giáp lộc tại dần, nên có thể dung nạp được thủy dư, mà mộc không còn phù phiếm nữa, thế nên thủy đãng kị hổ là vậy. ví như kim không bén nhọn, thổ không khô cứng, hỏa không mãnh liệt, thủy không cuồng thịnh, thì cái vốn có nghìn năm không thể lâu dài được!


ất mộc tuy nhu, khuê dương giải ngưu. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu. Đằng la hệ giáp, khả xuân khả thu.




Nguyên chú: ất mộc giả, sinh vu xuân như đào lí, hạ như hòa giá, thu như đồng quế, đông như kỳ ba. Tọa sửu mùi năng chế nhu thổ, như cát tể dương, giải cát ngưu nhiên, chích yếu hữu nhất bính đinh, tắc tuy sinh thân dậu nguyệt, diệc bất vị chi; sinh vu tý nguyệt, nhi hựu nhâm quý phát thấu giả, tắc tuy tọa ngọ, diệc năng phát sinh. Cố ích tri tọa sửu mùi nguyệt tri vi mỹ. Giáp dữ dần tự đa kiến, đệ tòng huynh nghĩa, thí chi đằng la phụ kiều mộc, bất úy chước phạt dã.

Dịch nghĩa:
Can ất thuộc mộc, sinh vào mùa thu như đào lý, mùa hạ như lúa mạ, mùa thu như cây đồng cây quế, mùa đông như hoa thơm cỏ lạ. Tọa sửu mùi có thể chế khắc nhu thổ, dể như giết dê mổ trâu, chủ yếu là có can bính đinh, tức tuy sinh vào tháng thân dậu, cũng chẳng lo chi; sinh vào tháng tý mà trên can lại thấu xuất nhâm quý thủy, mặc dù nhật chủ tọa ngọ cũng không có thể phát sinh được. Cho nên biết rằng tọa tháng sửu mùi thật là tốt đẹp vậy. Can giáp cùng chi dần xuất hiện nhiều trong trụ, thuận tòng theo huynh đệ, lấy dây cột vào cây cầu mà làm thí dụ, chẳng sợ bị chặt vậy.

Nhâm thị viết: ất mộc giả, giáp chi chất, nhi thừa giáp chi sinh khí dã. xuân như đào lí, kim khắc tắc điêu; hạ như hòa gia, thủy tư đắc sinh; thu như đồng quế, kim vượng hỏa chế; đông như kỳ ba, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vu xuân nghi hỏa giả, hỉ kỳ phát vinh dã; sinh vu hạ nghi thủy giả, nhuận địa chi táo dã; sinh vu thu nghi hỏa giả, sử kì khắc kim dã; sinh vu đông nghi hỏa giả, giải thiên chi đống dả. cát dương giải ngưu giả, sinh vu sửu mùi nguyệt, hoặc ất mùi ất sửu nhật, mùi nãi mộc khố, đắc dĩ bàn căn, sửu nãi thấp thổ, khả dĩ thụ khí dã. hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu giả, sinh vu thân dậu nguyệt, hoặc ất dậu nhật, đắc bính đinh thấu xuất thiên can, hữu thủy bất tương tranh khắc, chế hóa đắc nghi, bất úy kim cường. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu giả, sinh vu hợi tý nguyệt, tứ trụ vô bính đinh, hựu vô tuất mùi táo thổ, tức sử niên chi hữu ngọ, diệc nan phát sinh dã. thiên can thâu giáp, điậ chi dần tàng, thử vị thiên la hệ tùng bách, xuân cố đắc trợ, thu diệc hợp phù, cố khả xuân khả thu, ngôn tứ quý giai khả dã.

Dịch nghĩa:
Can ất thuộc mộc, là chất của giáp, do khí của giáp mà thành. Mùa xuân như đào lý, gặp kim được điêu khắc; mùa hạ như lúa mạ, gặp thủy tức được sinh; mùa thu như cây đồng cây quế, kim vượng được hỏa chế mộc được cứu; mùa đông như hoa thơm cỏ lạ, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vào mùa xuân gặp hỏa, tức phát quý vinh; sinh vào mùa hạ gặp thủy, đất được tươi nhuận khô ráo; sinh vào mùa thu gặp hỏa, khiến hỏa chế khắc kim khí mà không khắc mộc; sinh vào mùa đông gặp hỏa, giải bớt khí hàn lạnh. Cát dương giải ngưu, sinh vào tháng sửu mùi (tháng 12, 6-ND), hoặc ngày ất sửu ất mùi, mùi thuộc mộc khố, ất mộc có gốc, sửu thuộc thấp thổ, có thể nuôi dưỡng khí mộc. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu, như sinh vào tháng thân dậu(tháng 7, 8-ND), hoặc ngày ất dậu, mà trên can thấu xuất bính đinh, có thủy cũng không tương tranh, chế khắc đắc nghi, chẳng sợ kim cứng. Hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu, như sinh vào tháng hợi tý(tháng 10, 11-ND), tứ trụ không bính đinh, lại chẳng có chi tuất mùi táo thổ, ngay khiến như chi năm có chi ngọ, cũng không phát sinh được. Thiên can thấu giáp, địa chi tàng dần, gọi là mộc rừng cây tùng cây bách, mùa xuân được trợ giúp, mùa thu được hợp phù, cho nên nói xuân thu không sợ, bốn mùa chẳng kiêng vậy.
Trích dẫn

TuyenYD's Photo TuyenYD 20/03/2013

anh Tiger68 đưa Tích Thiên Thủy vào làm gì vậy?
Sửa bởi Can: 20/03/2013 - 17:20
Trích dẫn
Locked

5 6 7 8