Gửi vào 06/02/2013 - 22:51
Chuyện Tử Bình không trọng thần sát là một sự thật thông thường của giới mệnh lý Đài Cảng. Những ai còn nghi ngờ xin đọc bài phỏng dịch sau đây (trích sách "Mệnh lý hoàn toàn khoa học", Đằng Sơn).
Phê phán hai khoa Tử Vi và Tử Bình
Nguyên tác: “Đẩu số, Tử Bình đại phê phán”
Trích chương 3, trang 32-36, sách “Tử Vi đẩu số trưng nghiệm”
Soạn giả: Nhật Nguyệt Đạo Nhân
nhà xuất bản Vương Gia, Đài Bắc 1991
Đằng Sơn phỏng dịch, 2005
(bỏ qua đoạn đầu vì chỉ là lời khai mào.)
“Khoa chiêm tinh ‘thất chính tứ dư’ theo Phật giáo từ Tây Vực truyền vào Trung Quốc, cùng với cái học truyền thống “phương vị thần sát” dung hợp thành khoa “quả lão tinh tông” từ đời Đường (chú 1); rồi Tử Bình và Tử Vi cùng lấy “quả lão tinh tông” làm chủ thể mà phát triển ra.
“Theo chỗ nghiên cứu của tệ nhân (chú 2) thì cả hai khoa Tử Vi và Tử Bình khi mới sáng lập đều có những khuyết điểm trầm trọng. Riêng việc khoa Tử Bình vì chuyên dùng ngũ hành tương sinh tương khắc luận cát hung mà phải bỏ cái tính quan trọng của phương vị thần sát là một khuyết điểm không thể tha thứ được (chú 3).
“Tại sao từ lúc sáng lập khoa Tử Bình đã không trọng phương vị thần sát? Lời đáp cho câu hỏi này rất giản dị: Tử Bình chỉ có bốn trụ, chỉ có 8 loại can chi; kết cấu quá thô sơ nên không thể nào kết nạp phương vị thần sát vào mà xử dụng được.
“Đưa thử một thí dụ quý vị sẽ thấy ngay.
“Trong quyết yếu an thần sát, khi thái tuế là năm Giáp Tý thì niên can sát tinh Dương Nhận được an ở Mão. Chữ ‘Mão’ này đại biểu phương chính đông của tinh bàn, hoàn toàn chẳng phải như khoa Tử Bình nói là ‘trong bát tự có chi Mão thì có Dương Nhận’. Quan điểm này (về Dương Nhận của khoa Bát Tự) hoàn toàn méo lệch so với nghĩa nguyên thủy của thần sát. Lại nữa, khi ta nói Dương Nhận của Giáp ở Mão, chữ ‘Giáp’ này không phải là thiên can của tháng, ngày, hoặc giờ, mà là thiên can của Thái Tuế. Sách cổ viết ‘Thái Tuế là chủ tể của các thần sát’, lại có nói ‘Thái Tuế đuổi theo các sát’. (Từ đó có thể nói) cách an thần sát có liên hệ mật thiết với chuyển động của địa cầu.
Khoa Tử Bình cho đủ loại thần sát phát xuất từ can ngày; những thần sát hư cấu này phải áp dụng thế nào vào việc đoán mệnh vận? Cho nên, sau nhiều thế kỷ thử nghiệm, cuối cùng khoa Tử Bình đã bỏ việc dùng thần sát để hỗ trợ việc đoán vận. Các thầy Tử Bình có đề cập (đến thần sát) cũng chỉ là nói cho qua vậy thôi.
“Khuyết điểm thứ hai về kết cấu của khoa Tử Bình là nó dùng can ngày làm nguyên thần, và coi đó là trọng điểm khi luận mệnh. Quý học giả có chút cơ sở dịch lý đều hiểu rõ, trong bát tự thì can chi của tháng và giờ đều có thể định vị bằng luật ‘thái cực luân hồi’. Như người sinh gần tiết Hạ Chí là lúc nguyệt lệnh có khí dương cực vượng, tất nguyệt chi phải là ‘Ngọ’ không sai. Giờ cũng vậy, sinh đâu đó gần lúc nửa đêm thì chi giờ tất phải là một chữ ‘Tý’. Can chi của năm thì có thể kiểm nghiệm bằng cách xét vận hành của các thần sát xem chính xác ra sao.
“Còn ngày? Chúng ta không tìm ra phương pháp nào để kiểm chứng cả. Như ngày có can và chi thủy rất vượng là ‘Quý Hợi’ chẳng nhất định là có mưa như trút nước. Ngày Bính Ngọ cũng chưa chắc thấy mặt trời hoặc có khí hỏa vượng. Lịch vạn niên mà chúng ta đang xử dụng, can chi của ngày trong đó tạm được coi là chuẩn xác; (nhưng) theo ý tệ nhân phải tuyệt đối giữ thái độ hồ nghi. Thử nghĩ, can và chi của ngày đã trải qua mấy ngàn năm, trên triệu lần tuần hoàn, trong đó chỉ cần một lần ghi sai thì khoa Tử Bình coi như phải bỏ hay sao???
“Việc ông Từ Tử Bình khởi từ phép ‘lấy năm là trọng’ của ông Lý Hư phát triển thành phép ‘lấy ngày làm chủ’ thì cũng giống như hiện nay Tử Bình gia Ngô Tuấn Dân chủ trương can chi của lưu niên phải đổi vào ngày đông chí (chú 4). Ông Từ Tử Bình chỉ là một người nghiên cứu mệnh lý của thời xưa, cái lý luận rất mới mà ông sáng lập chỉ là cái suy nghĩ tâm đắc của một người. Việc ông lấy nhật chủ làm nguyên thần trong phép luận bát tự chẳng phải là ngón tay thần không thể đi ngược lại. Ông Từ Tử Bình đã làm người sau sai trật cả nghìn năm, giờ đã đến lúc ta phải kiểm nghiệm xem có phải là chân lý hay không.
“Xét lý tiên thiên thì cách luận mệnh của khoa bát tự cũng có chỗ thiếu sót. Chúng ta biết tính tuần hoàn của thời gian và không gian và sự biến đổi của âm dương theo phút theo giây mà tiệm tiến. Đây cũng là một định luật của học thuyết ‘thái cực’, tư tưởng trung tâm của ngũ thuật Trung Hoa. Nhưng khoa Tử Bình bát tự lấy phù hiệu can chi của lục thập hoa giáp chặt thành từng khúc một, việc này rõ ràng ngược lại cái lý cơ bản của thái cực (chú thích 5). Chúng ta có dám ước vọng loại học thuyết như vậy phát triển thành một ngành mệnh lý thỏa khoa học tính hay chăng?
(Bỏ một đoạn ngắn viết về Tử Vi vì không nằm trong chủ đề hiện tại. Đại khái soạn giả nói Tử Vi có tính khoa học còn Tử Bình thì không).
“Nhật Nguyệt đạo nhân ta học tập và nghiên cứu mệnh lý Trung Quốc nhiều năm. Đầu tiên nhập môn với bát tự, sau cùng đổi sang chuyên luyện Tử Vi. Tệ nhân đối với Tử Vi và Tử Bình hoàn toàn chẳng phân môn hộ, hôm nay phê bình khoa Tử Bình như vậy hoàn toàn chỉ là công khai cái nghiên cứu tâm đắc của mình. Như có vị tiền bối, bậc thầy nào thấy bài luận văn này có chỗ trái lẽ xin đừng hà tiện lời chỉ giáo./”
NHẬT NGUYỆT ĐẠO NHÂN
Chú 1 (của Nhật Nguyệt Đạo Nhân): Xin đọc “Tử Vi đẩu số tầm căn” -Tạm dịch: ‘Thử đi tìm cái gốc của Tử Vi đẩu số’- nxb Vương Gia, Dân Quốc năm 75 (tức 1986).
Chú 2 (của soạn giả Đằng Sơn): Chữ “tệ nhân” đây là lời ông Nhật Nguyệt đạo nhân tự xưng.
Chú 3 (của Nhật Nguyệt Đạo Nhân): Trong giới bát tự có một quan niệm sai lầm cho rằng các thần sát khởi từ khoa bát tự mà ra. Kỳ thật trước khi khoa bát tự ra đời, các phương vị cát hung thần sát (các sao cát hung an theo phương vị) đã được phát minh và xử dụng rộng rãi.
Chú 4 (của soạn giả Đằng Sơn): Theo cách xem Tử Bình truyền thống, ngày đầu tiên của tiết lập xuân là lúc Thái Tuế đổi can chi. Cứ theo bài này thì ông Ngô Tuấn Dân đề nghị đổi can chi của Thái Tuế vào ngày đầu của tiết Đông Chí, tức là khoảng tháng 11 ta. Vậy là một cảnh “mèo lại hoàn mèo” vì tháng 11 ta xưa có lúc được coi là tháng 1 (nên mới có danh từ “một chạp” để chỉ tháng 11 và tháng 12 ta).
Chú 5 (của Nhật Nguyệt đạo nhân): Tính luân hồi của thái cực, tính giao đổi của âm dương cũng như thời gian phút giây tiệm tiến, đầu đuôi gặp nhau mà trở về nguyên thủy. Lấy tính luân hồi của thái cực diễn dịch ra thì học thuyết “ngũ hành mệnh lý” cũng không thể thoát ngoài lý ấy. (Xin đọc thêm “Tử Vi đẩu số tầm căn”, chương 4).