Tử Bình Nhàn Đàm
longkiet
07/12/2014
VULONG1, on 07/12/2014 - 08:20, said:
“76 - Bính thìn - canh dần - ất mão - đinh hợi
Tân mão/ nhâm thìn/ quý tị/ giáp ngọ/ ất mùi/ bính thân/ đinh dậu
Mệnh này chi tam hội mộc cục, hoả sáng thì mộc được tú khí, mừng nhất bính hỏa khắc canh kim, ất mộc sinh tháng dần, đắc hợi thủy sinh trợ. Phong lưu tiêu sài, học vấn uyên thâm. Đinh hợi sinh mộc trợ hỏa, rất cần nhờ vào mộc; vận quý tị danh cao chức trọng thiên triều; vận giáp ngọ bán hợp dần mộc hóa hỏa được mão mộc sinh, trở thành trụ cột họ đặng lâm, ra sức vơ vét tài vật, là chỗ dựa gia tộc, đến vận đinh dậu, ất mộc vô căn, kim đắc địa, phá mất tam hội cục tú khí, phạm tội mất chức, nếu không có hợi thủy hóa dậu kim, làm sao có thể miễn đại hung!”
Với Tứ Trụ này chúng ta thấy tác giả đã nhìn thấy địa chi tạo thành tam hội cục Dần Mão Thìn hóa Mộc thành công nhưng ông ta có thể lại không nhìn thấy Nhật can Ất hợp với Canh trụ tháng thuộc Ngũ hợp của Thiên can, vì vậy ông ta mới luận: “mừng nhất bính hỏa khắc canh kim,”. Nhưng cũng có thể ông ta nhìn thấy nhưng vẫn luận như vậy và cho rằng đúng như bao các cao thủ Tử Bình ngày nay.... Vì những người này cho rằng “Hợp Quan lưu Sát” hay “Hợp Sát lưu Quan” chỉ đúng với Quan và Sát thôi còn các Thần khác thì ở trong hay ở ngoài tổ hợp chúng vẫn xung khắc được với nhau thì phải?
Theo ý kiến của riêng tôi thì tác giả Nhâm Thiết Tiều thiên về trường hợp sau như bao cao thủ khác thì đúng hơn. Nếu đúng như vậy thì tôi có thể kết luận rằng hầu như các cao thủ Tử Bình từ Cổ đến Kim không biết đến “Binh Pháp Tử Bình số 5” của tôi (trừ những người có sách gia truyền).
“Binh Pháp Tử Bình số 5” được phát biểu như sau:
“- Các Can trong tổ hợp không có khả năng tác động với các Can khác bên ngoài tổ hợp và ngược lại.
- Các Chi trong tổ hợp không có khả năng tác động với các Chi khác bên ngoài tổ hợp nhưng các Chi bên ngoài tổ hợp vẫn có khả năng tác động tới các Chi trong tổ hợp. Các lực tác động này có thể gây ra tốt hay xấu cho mệnh cục chỉ khi nó có đủ sức phá tan tổ hợp“.
Cuốn “Giải Mã Tứ Trụ” của tôi được xây dựng trên 6 “Binh Pháp Tử Bình” mà tôi đã phát biểu (thực tế còn nhiều hơn nữa) nên một ai muốn phản biện thành công các bài luận của tôi hay một ý nào của cuốn sách này thì trước hết phải chứng minh được các “Binh Pháp Tử Bình” của tôi là sai. Và dĩ nhiên điều ngược lại sẽ đúng là nếu không chứng minh được thì các bài luận của họ không sử dụng các Binh Pháp này sẽ không thể đúng được.
Nếu không tin, xin mời mọi người Xuất Chiêu !
Nghe sao giống những buổi họp ở cơ quan tôi quá : nếu các đ/c không có ý kiến gì thì xem như đồng ý.
PMK
07/12/2014
longkiet, on 07/12/2014 - 11:15, said:
...Và nếu không có ai phản biện thì xem như mọi người đã đồng ý đúng.
Nghe sao giống những buổi họp ở cơ quan tôi quá : nếu các đ/c không có ý kiến gì thì xem như đồng ý.
longkiet
07/12/2014
PMK, on 07/12/2014 - 15:54, said:
Tôi cũng đã từng phản biện, và ông ta còn nợ tôi một câu trả lời nhưng đến nay vẫn chưa trả lời được.
Sửa bởi longkiet: 07/12/2014 - 22:33
VULONG1
07/12/2014
longkiet, on 07/12/2014 - 22:22, said:
Tôi cũng đã từng phản biện, và ông ta còn nợ tôi một câu trả lời nhưng đến nay vẫn chưa trả lời được.
VULONG1, on 07/12/2014 - 00:23, said:
Ví dụ số 38 trong cuốn Trích Thiên Tuỷ:
“38 - Bính tý kỷ hợi ất dậu nhâm ngọ
Canh tý/ tân sửu/ nhâm dần/ quý mão/ giáp thìn/ kỷ tị
Trụ toàn dậu, hợi, tý tức khí âm hàn. Ất mộc lạnh cần sưởi ấm, có bính hỏa có thể làm dụng thần, nhâm thủy chính là khắc thần. Mừng nhờ nhâm thủy xa bính hỏa, nhâm thủy sinh trợ ất mộc, ất mộc vốn suy nhược mừng được sinh phò. Lại có kỷ thổ thấu can, có thể ngăn thủy bảo vệ bính hỏa. Thật đẹp khi can thủy mộc hỏa thổ lập nên môn hộ, tương sinh hữu tình. Địa chi ngọ hỏa chế sát tân kim tàng trong dậu, năm tháng hỏa thổ thông căn lộc vượng. Vận đông nam đều là vận tốt, tứ trụ hữu tình, hành vận hanh thông vinh quang, làm quan đến chức tổng đốc, liên đăng giáp đệ, âm dương phối hợp thật vi diệu vậy”.
Tác giả đã viết rõ ràng là : “Địa chi ngọ hỏa chế sát tân kim tàng trong dậu”, vậy không có Ngọ chế Dậu thì làm sao có "Ngọ hoả chế sát Tân kim" mà còn cho rằng "Tác giả có chữ nào nói rằng ngọ khắc được dậu đâu mà bác khẳng định", chưa hết lại còn mở ngoặc cho rằng: "(nhưng chế được hay không còn tùy)", rồi lại cho rằng "chế không được". Sao ông bạn lắm giọng vậy?
Nếu Ngọ không khắc (hay chế) được Dậu thì tác giả sẽ luận như ở ví dụ 40 sẽ là Nhâm khắc Ngọ nên Ngọ không khắc được Dậu trụ giờ.
.......................................
Sau đây là ví dụ số 39 ngay bên dưới ví dụ trên:
"39 - Kỷ hợi bính tý ất sửu nhâm ngọ
Ất hợi/ giáp tuất/ quý dậu/ nhâm thân/ tân mùi/ canh ngọ
Trụ này khác trụ trên ở chi dậu tý. Nói về chi, sửu thay dậu tất là đẹp hơn, dậu là thất sát, khắc ta còn sửu là thiên tài, ta khắc, có thể chứa thủy, thật đẹp vậy. Chẳng biết rằng sửu thuộc thấp thổ có thể tiết hỏa, ngăn thủy, dậu tuy là thất sát, bị ngọ hỏa khắc, không tiết ngọ hỏa, trụ ở trên bính hỏa tại can năm, can nhâm ở trụ giờ cách xa, thêm được kỷ thổ bảo hộ; trụ này bính hỏa can tháng, nhâm thủy cận kề, kỷ thổ không có lực hộ bính hỏa, lại gặp tý thủy. Hơn nữa, vận hành tây bắc, là nơi âm hàn, bính hỏa vô sanh, ất mộc phát sinh được sao? Thập can giống như thân thế: “hư thấp chi địa, kỵ mã diệc ưu” (tức nhật chủ ất, thiên can không thấu xuất bính đinh hữu lực, hoặc tàng chi tuất thì không thể phát được), lời riêng không sai lầm vậy. Cho nên, thất chí vân song, nghèo xác sơ, khắc vợ không con, đến vận nhâm thân, bính hỏa lâm tuyệt địa mà chết".
Ta thấy để so sánh với ví dụ trên tác giả đã viết: "dậu tuy là thất sát, bị ngọ hỏa khắc,", điều này rõ ràng tác giả đã thừa nhận Ngọ trụ giờ khắc Dậu trụ ngày.
................................
Ở ví dụ 38 tác giả đã viết: “Địa chi ngọ hỏa chế sát tân kim tàng trong dậu”, thiết nghĩ một đứa con nít mới nhập môn Tử Bình cũng thừa hiểu là Ngọ khắc Dậu rồi ấy mà một người tự cho là "Thông Thái" vẫn không hiểu mặc dù tôi đã giải thích cặn cẽ và còn cẩn thận hơn khi trích dẫn câu so sánh của tác giả ở ví dụ 39 với ví dụ 38 nói rõ là: "dậu tuy là thất sát, bị ngọ hỏa khắc". Đến đây tôi chắc mẩm vị "Thông Thái" này sẽ hiểu nhưng thật lạ lùng là vị này vẫn không hiểu mà còn nói cho mọi người biết rằng mình là một người không những "Thông Thái" mà còn là một người "Quang Minh lỗi lạc" thế mới "Khủng" chứ!
Họ hàng nhà Hoàng Đại Lục chỉ không có khả năng học thuộc lòng thôi nhưng vẫn còn hiểu người khác nói nên tôi chỉ gọi là loại có "Cách Cục Đầu Đất" nhưng vị "Thông Thái" này thì đã không có khả năng học thuộc lòng lại còn không có khả năng hiểu nữa thì Tứ Trụ của vị này thuộc Cách Cục nào hả các bác?
Loại "Thông Thái" này theo tôi nặng thà "Vạch Đầu Gối Ra Mà Nói Truyện" còn tốt hơn.
Sửa bởi VULONG1: 07/12/2014 - 23:54
weiwei
08/12/2014
Nói nhiều viết lắm
Ngu hiền, thông thái
Chẳng chịu tỉnh tu
Chồng vợ lu bu
Suốt ngày nhí nhéo
Loanh qua loanh quanh
longkiet
10/12/2014
VULONG1, on 07/12/2014 - 23:52, said:
Họ hàng nhà Hoàng Đại Lục chỉ không có khả năng học thuộc lòng thôi nhưng vẫn còn hiểu người khác nói nên tôi chỉ gọi là loại có "Cách Cục Đầu Đất" nhưng vị "Thông Thái" này thì đã không có khả năng học thuộc lòng lại còn không có khả năng hiểu nữa thì Tứ Trụ của vị này thuộc Cách Cục nào hả các bác?
Loại "Thông Thái" này theo tôi nặng thà "Vạch Đầu Gối Ra Mà Nói Truyện" còn tốt hơn.
@weiwei: cũng muốn tỉnh tu lắm nhưng vào chốn này sao tu nổi. Bạn không thấy bác boigiaisau cũng chỉ cần một chữ nhàn (đàm) thôi cũng không toại, nay bác lặn đâu mất rồi bỏ mình tôi tả hữu hàng long phục hổ vậy trời!.
Sửa bởi longkiet: 10/12/2014 - 14:26
VULONG1
13/12/2014
“76 - Bính thìn canh dần ất mão đinh hợi
Tân mão/ nhâm thìn/ quý tị/ giáp ngọ/ ất mùi/ bính thân/ đinh dậu
Mệnh này chi tam hội mộc cục, hoả sáng thì mộc được tú khí, mừng nhất bính hỏa khắc canh kim, ất mộc sinh tháng dần, đắc hợi thủy sinh trợ. Phong lưu tiêu sài, học vấn uyên thâm. Đinh hợi sinh mộc trợ hỏa, rất cần nhờ vào mộc; vận quý tị danh cao chức trọng thiên triều; vận giáp ngọ bán hợp dần mộc hóa hỏa được mão mộc sinh, trở thành trụ cột họ đặng lâm, ra sức vơ vét tài vật, là chỗ dựa gia tộc, đến vận đinh dậu, ất mộc vô căn, kim đắc địa, phá mất tam hội cục tú khí, phạm tội mất chức, nếu không có hợi thủy hóa dậu kim, làm sao có thể miễn đại hung!
(Ví dụ này tác giả luận Bính khắc được Canh trong hợp (vì Canh hợp Ất).)
....................................................
87 - Kỷ sửu nhâm thân đinh mùi bính ngọ
Tân mùi/ canh ngọ/ kỷ tị/ mậu thìn/ đinh mão/ bính dần
Mệnh này xem qua thấy tổng quát tương đồng với mệnh trên, quan tinh đắc thế, hà cớ sao trên đắc phú quý, mệnh này lại khốn cùng? Chẳng biết rằng mệnh này không có ấn, quan khắc nhật chủ, ngọ mùi tuy hỏa còn dư khí lộc vượng, sửu chứa quý thủy ám thương ngọ mùi, nhâm thủy phùng sanh, lại khắc bính hỏa, đáng ngại kỷ thổ nhất thấu, không thể chế thủy, ngược lại tiết hỏa; lại phùng thổ vận, tiết hỏa khí, khắc tiết quá nhiều. Công danh bất thành, tài hao phá tán, không khỏi hình thê khắc tử. Nghiên cứu kỹ thấy kỷ sửu thật hại, về sau gặp vận thủy mộc, tuy là tiền vận gặp lận đận, nhưng chung thân vào hậu vận nhất định hanh thông thuận lợi.
(Ví dụ này tác giả luận Nhâm ở trong hợp (vì Nhâm hợp Đinh) khắc được Bính ở ngoài.)
..............................................................
128- Mậu dần quý hợi đinh mùi tân hợi
Giáp tý/ ất sửu/ bính dần/ đinh mão/ mậu thìn/ kỷ tị
Trụ này quý thủy lâm vượng, sát bên nhật chủ nên khắc rất nặng, bị mậu thổ hợp mất, ngược lại trợ thân. Tháng hợi thủy trợ sát, đắc chi năm dần hợi hợp lại sanh nhật chủ, dần mộc vốn ở xa nhật chủ, do hợp hợi thủy hóa mộc mà trở nên thân cận. Chi giờ hợi thủy, lại hợp mùi thổ, do hỗn tạp mà tốt, một hợp một khứ, cùng nhau hợp sức mà cân bằng, một đi một đến, thông quan không trở ngại. Cho nên khoa giáp liên đăng, làm quan triều đình.
(Ví dụ này tác giả luận Quý trong hợp (vì Quý hợp Mậu) không khắc được Đinh bên ngoài hợp”.)
..............................................................
- Ví dụ số 76 tác giả thừa nhận Can ngoài tổ hợp khắc đuợc Can trong tổ hợp.
- Ví dụ số 87 tác giả thừa nhận Can trong tổ hợp khắc được Can ngoài tổ hợp.
- Nhưng ví dụ số 128 tác giả lại cho rằng Can trong hợp không khắc được Can ở bên ngoài tổ hợp.
Chỉ cần 3 ví dụ này đủ để chứng minh tác giả không biết đến nội dung “Binh Pháp Tử Bình số 5“ của tôi.
“Binh Pháp Tử Bình số 5“ được phát biểu như sau:
“Các Can trong tổ hợp không có khả năng tác động với các Can khác bên ngoài tổ hợp và ngược lại.
Các Chi trong tổ hợp không có khả năng tác động với các Chi khác bên ngoài tổ hợp nhưng các Chi bên ngoài tổ hợp vẫn có khả năng tác động tới các Chi trong tổ hợp. Các lực tác động này có thể gây ra tốt hay xấu cho mệnh cục chỉ khi nó có đủ sức phá tan tổ hợp“.
Sửa bởi VULONG1: 13/12/2014 - 18:04
VULONG1
14/12/2014
VULONG1, on 13/12/2014 - 17:58, said:
“76 - Bính thìn canh dần ất mão đinh hợi
Tân mão/ nhâm thìn/ quý tị/ giáp ngọ/ ất mùi/ bính thân/ đinh dậu
Mệnh này chi tam hội mộc cục, hoả sáng thì mộc được tú khí, mừng nhất bính hỏa khắc canh kim, ất mộc sinh tháng dần, đắc hợi thủy sinh trợ. Phong lưu tiêu sài, học vấn uyên thâm. Đinh hợi sinh mộc trợ hỏa, rất cần nhờ vào mộc; vận quý tị danh cao chức trọng thiên triều; vận giáp ngọ bán hợp dần mộc hóa hỏa được mão mộc sinh, trở thành trụ cột họ đặng lâm, ra sức vơ vét tài vật, là chỗ dựa gia tộc, đến vận đinh dậu, ất mộc vô căn, kim đắc địa, phá mất tam hội cục tú khí, phạm tội mất chức, nếu không có hợi thủy hóa dậu kim, làm sao có thể miễn đại hung!
(Ví dụ này tác giả luận Bính khắc được Canh trong hợp (vì Canh hợp Ất).)
....................................................
87 - Kỷ sửu nhâm thân đinh mùi bính ngọ
Tân mùi/ canh ngọ/ kỷ tị/ mậu thìn/ đinh mão/ bính dần
Mệnh này xem qua thấy tổng quát tương đồng với mệnh trên, quan tinh đắc thế, hà cớ sao trên đắc phú quý, mệnh này lại khốn cùng? Chẳng biết rằng mệnh này không có ấn, quan khắc nhật chủ, ngọ mùi tuy hỏa còn dư khí lộc vượng, sửu chứa quý thủy ám thương ngọ mùi, nhâm thủy phùng sanh, lại khắc bính hỏa, đáng ngại kỷ thổ nhất thấu, không thể chế thủy, ngược lại tiết hỏa; lại phùng thổ vận, tiết hỏa khí, khắc tiết quá nhiều. Công danh bất thành, tài hao phá tán, không khỏi hình thê khắc tử. Nghiên cứu kỹ thấy kỷ sửu thật hại, về sau gặp vận thủy mộc, tuy là tiền vận gặp lận đận, nhưng chung thân vào hậu vận nhất định hanh thông thuận lợi.
(Ví dụ này tác giả luận Nhâm ở trong hợp (vì Nhâm hợp Đinh) khắc được Bính ở ngoài.)
..............................................................
128- Mậu dần quý hợi đinh mùi tân hợi
Giáp tý/ ất sửu/ bính dần/ đinh mão/ mậu thìn/ kỷ tị
Trụ này quý thủy lâm vượng, sát bên nhật chủ nên khắc rất nặng, bị mậu thổ hợp mất, ngược lại trợ thân. Tháng hợi thủy trợ sát, đắc chi năm dần hợi hợp lại sanh nhật chủ, dần mộc vốn ở xa nhật chủ, do hợp hợi thủy hóa mộc mà trở nên thân cận. Chi giờ hợi thủy, lại hợp mùi thổ, do hỗn tạp mà tốt, một hợp một khứ, cùng nhau hợp sức mà cân bằng, một đi một đến, thông quan không trở ngại. Cho nên khoa giáp liên đăng, làm quan triều đình.
(Ví dụ này tác giả luận Quý trong hợp (vì Quý hợp Mậu) không khắc được Đinh bên ngoài hợp”.)
..............................................................
- Ví dụ số 76 tác giả thừa nhận Can ngoài tổ hợp khắc đuợc Can trong tổ hợp.
- Ví dụ số 87 tác giả thừa nhận Can trong tổ hợp khắc được Can ngoài tổ hợp.
- Nhưng ví dụ số 128 tác giả lại cho rằng Can trong hợp không khắc được Can ở bên ngoài tổ hợp.
Chỉ cần 3 ví dụ này đủ để chứng minh tác giả không biết đến nội dung “Binh Pháp Tử Bình số 5“ của tôi.
“Binh Pháp Tử Bình số 5“ được phát biểu như sau:
“Các Can trong tổ hợp không có khả năng tác động với các Can khác bên ngoài tổ hợp và ngược lại.
Các Chi trong tổ hợp không có khả năng tác động với các Chi khác bên ngoài tổ hợp nhưng các Chi bên ngoài tổ hợp vẫn có khả năng tác động tới các Chi trong tổ hợp. Các lực tác động này có thể gây ra tốt hay xấu cho mệnh cục chỉ khi nó có đủ sức phá tan tổ hợp“.
Ở bài viết trên mới có bằng chứng về Thiên Can mà chưa có bằng chứng về Địa Chi nay xin đưa tiếp ví dụ số 125 của cuốn "Trích Thiên Tuỷ" như sau:
" Ví dụ 125 - Tân Mão - Tâm Mão - Bính Tý - Giáp Ngọ
Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu/ Giáp Thân...
Trụ này lấy Mộc làm nguyên lưu, ngũ hành không có Thổ, không thể lưu chuyển đến Kim, Tài Quan lại viễn cách, xung mà phùng tiết, sanh hoá vô tình. Sơ vận Canh Dần được tổ tiên nuôi dưỡng hành phúc. Kỷ Sửu vận hợp Tý tiết Hoả sanh Kim của cải dư thừa. Mậu Tý Thổ hư Thuỷ vượng, ám trợ Mộc, hình tang hao tán. Đinh Hợi Mộc khắc Kim hội Mộc, của nát nhà tan".
Qua ví dụ này ta thấy tác giả đã viết: "Kỷ Sửu vận hợp Tý tiết Hoả sanh Kim của cải dư thừa" (ý nói Sửu đại vận hợp với Tý trụ ngày hoá Thổ (chưa cần nói tới thần dẫn không có) nên Thổ cục có thể "tiết Hoả sanh Kim của cải dư thưa"),tức tác giả đã thừa nhận Sửu đại vận hợp với Tý trụ ngày đã phá tan xung của Ngọ trụ giờ với Tý trụ ngày. Điều này chứng tỏ tác giả khẳng định lực của lục hợp mạnh hơn lực xung của Tý Ngọ Mão Dậu. Thêm điều này mới đủ để kết luận tác giả không hề biết đến nội dung "Binh Pháp Tử Bình số 5 và số 6" của tôi.
“Binh Pháp Tử Bình số 5 va 6“ được phát biểu như sau:
"Số 5 : “Các Can trong tổ hợp không có khả năng tác động với các Can khác bên ngoài tổ hợp và ngược lại.
Các Chi trong tổ hợp không có khả năng tác động với các Chi khác bên ngoài tổ hợp nhưng các Chi bên ngoài tổ hợp vẫn có khả năng tác động tới các Chi trong tổ hợp. Các lực tác động này có thể gây ra tốt hay xấu cho mệnh cục chỉ khi nó có đủ sức phá tan tổ hợp“.
Số 6 : “Với các tổ hợp thì lực hợp của tam hội cục là mạnh nhất sau mới tới tam hợp cục rồi tới bán hợp và cuối cùng mới là lục hợp.
Với các lực của Tứ Hành Xung thì lực xung mạnh nhất là Tý Ngọ Mão Dậu sau mới tới Dần Thân Tị Hợi, cuối cùng mới là Thìn Tuất Sửu Mùi.
Các lực của Tứ Hành Xung có thể phá được bán hợp hay lục hợp nếu lực xung của nó không nhỏ hơn lực hợp, riêng với các lực xung gần của Tý Ngọ Mão Dậu luôn luôn phá được bán hợp hay lục hợp.
Chỉ có các Thiên Khắc Địa Xung mới có thể phá được tam hợp hay tam hội, riêng Tý Ngọ Mão Dậu xung nhau gần trong Tứ Trụ có thể phá được tam hợp không hóa hoặc tam hội ngoài Tứ Trụ không hóa có 3 chi....
Chỉ có các Thiên Khắc Địa Xung trong một số trường hợp đặc biệt mới có thể phá được Ngũ Hợp của Thiên can“".
Sửa bởi VULONG1: 14/12/2014 - 21:10
VULONG1
17/12/2014
“3 – Càn tạo: Tân dậu - tân sửu - kỷ dậu - bính dần
Nhâm dần/ quý mão/ giáp thìn/ ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu
Giống như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại thì cũng như thế, nhật can kỷ thổ, tuy sinh vào tháng sửu thổ vượng, nhưng thổ mùa đông hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh sửu hàm chứa kim thủy, can thấu hai tân, chi bán hội sửu dậu kim cục, nhật can bị tiết chế quá độ, dụng thần tất chọn bính hỏa. Rất may thời trụ dần mộc, hàn cực sinh dương, bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận nhâm quý thủy thi hương trắc trở, sang vận tị ngọ mùi hỏa địa, tiến trình tốt đẹp không thể nói hết (Tân Tăng)“.
Qua bài luận ta thấy tác giả đã liệt kê hầu như toàn bộ các can chi trong Tứ Trụ cũng như nói chính xác tới từng đại vận tốt xấu ra sao. Vậy thì ai có thể phát hiện ra cái “Sai Lầm Chết Người“ của bài luận này không (bỏ qua không tính đến luận đúng hay sai ở đây) ?
Sửa bởi VULONG1: 17/12/2014 - 07:19
huygen
17/12/2014
longkiet, on 17/12/2014 - 14:08, said:
huygen đã đọc lại loạt bài tranh luận giữa longkiet và VULONG1 gần đây, tranh luận từ bài #311, bài này đã được VULONG1 trả lời khá rõ ràng rồi. Sao longkiet không những bảo vệ quan điểm của mình mà còn đi bày bác và kích VULONG1 làm chi ?
Thiết nghĩ rằng, bất đồng quan điểm về 1 vấn đề nào đó là chuyện rất bình thường, quan trọng hơn là bản thân có chấp nhận sai hay cố chấp bảo vệ quan điểm mặc dù sự thật đã sai. Bên cạnh đó xưa kia, longkiet cũng đã tranh luận với VULONG1 rồi mà? Sao còn khích nhau để nghe lời chói tai ?
Mỗi người đều có ưu điểm, khuyết điểm.
Như VULONG1 thì đã thể hiện rõ ưu điểm ở đâu, khuyết điểm ở đâu. Sao phải soi và kích thích người khác thể hiện khuyết điểm của người ta mà không nghĩ lại bản thân:
- Phát huy tối đa ưu điểm bản thân, cống hiến cho học thuật.
- Tối thiểu các khuyết điểm để hoàn thiện bản thân cũng như cuộc sống.
Trên tinh thần học thuật như vậy, huygen tin chắc rằng ai ai cũng sẽ ngày càng thăng tiến cao hơn trên con đường học thuật này.
Trong việc này, nhắc nhở chung cả 2 hội viên nên kiềm chế bản thân để tránh việc không hay xảy ra.
huygen
Khokhao
18/12/2014
VULONG1, on 17/12/2014 - 07:15, said:
“3 – Càn tạo: Tân dậu - tân sửu - kỷ dậu - bính dần
Nhâm dần/ quý mão/ giáp thìn/ ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu
Giống như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại thì cũng như thế, nhật can kỷ thổ, tuy sinh vào tháng sửu thổ vượng, nhưng thổ mùa đông hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh sửu hàm chứa kim thủy, can thấu hai tân, chi bán hội sửu dậu kim cục, nhật can bị tiết chế quá độ, dụng thần tất chọn bính hỏa. Rất may thời trụ dần mộc, hàn cực sinh dương, bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận nhâm quý thủy thi hương trắc trở, sang vận tị ngọ mùi hỏa địa, tiến trình tốt đẹp không thể nói hết (Tân Tăng)“.
Qua bài luận ta thấy tác giả đã liệt kê hầu như toàn bộ các can chi trong Tứ Trụ cũng như nói chính xác tới từng đại vận tốt xấu ra sao. Vậy thì ai có thể phát hiện ra cái “Sai Lầm Chết Người“ của bài luận này không (bỏ qua không tính đến luận đúng hay sai ở đây) ?
Khokhao
18/12/2014
VULONG1, on 17/12/2014 - 07:15, said:
“3 – Càn tạo: Tân dậu - tân sửu - kỷ dậu - bính dần
Nhâm dần/ quý mão/ giáp thìn/ ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu
Giống như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại thì cũng như thế, nhật can kỷ thổ, tuy sinh vào tháng sửu thổ vượng, nhưng thổ mùa đông hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh sửu hàm chứa kim thủy, can thấu hai tân, chi bán hội sửu dậu kim cục, nhật can bị tiết chế quá độ, dụng thần tất chọn bính hỏa. Rất may thời trụ dần mộc, hàn cực sinh dương, bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận nhâm quý thủy thi hương trắc trở, sang vận tị ngọ mùi hỏa địa, tiến trình tốt đẹp không thể nói hết (Tân Tăng)“.
Qua bài luận ta thấy tác giả đã liệt kê hầu như toàn bộ các can chi trong Tứ Trụ cũng như nói chính xác tới từng đại vận tốt xấu ra sao. Vậy thì ai có thể phát hiện ra cái “Sai Lầm Chết Người“ của bài luận này không (bỏ qua không tính đến luận đúng hay sai ở đây) ?
Sách Tứ trụ đọc nhiều cũng thấy co rất nhiều bất cập. Như trong cuốn Tinh mệnh học của Nguyễn Anh Vũ cũng có những điều gây cho tôi thấy rất ngộ và không biết có tin nổi ko. Trong một đoạn trong sách có nói về cách cục có xuất hiện một cách đó là "Ám hợp Quan cách" đó là sử ụng 4 ngày Mậu Tuất, Giáp Thìn, Quý Mão, Quý Dậu nhớ hình như vậy.
Ah quên điều kiên để thành Ám hợp Quan cách la:
1. Sinh vào 4 ngày như trên và có chi tháng giống ngày và thêm một chi giờ hay năm giống nữa( tức là phải có 3 chi giống nhau)
2. Phài không có một chính quan nào xuất hiên trong tứ trụ
3. Phải khống có chi xung với 3 chi đó (vd: 3 chi là Mão thì ko nên có Dậu, cũng ko dc có Tuất vì có Tuất phải luận cách cục bình thường)
Lúc đó 3 chi đó sẽ ám hợp Quan tinh trong tối thành Ám quan cách. Theo câu trong cổ thư nói: "Minh lí hữu thời, minh lí thủ; minh lí vô thời, ám trung cầu"
Và cho ví dụ:
Quý Mão Ất Mão Quý Mão Nhâm Tý (đây gọi là Ám hợp Quan Cách, lấy Mão hợp Tuất, trong Tuất có Mậu là chính quan)
Sau đó chọn dụng thần là chi Mão luôn, kị có Dậu xung, Tuất điền thực
Tôi có chút khó hiễu với cách này như vd trên thì Dậu Tuất kị vậy nếu đại vận có Dậu Tuất thì chi giờ phải là chi gì mới cứu vớt dc vận, hay cứ gặp Dậu Tuất là tiêu hay cách Ám hợp Quan chi là bịa đặt trong cuốn Tinh mệnh học của ông Nguyễn Anh Vũ.
VULONG1
18/12/2014
Khokhao, on 18/12/2014 - 10:49, said:
Sách Tứ trụ đọc nhiều cũng thấy co rất nhiều bất cập. Như trong cuốn Tinh mệnh học của Nguyễn Anh Vũ cũng có những điều gây cho tôi thấy rất ngộ và không biết có tin nổi ko. Trong một đoạn trong sách có nói về cách cục có xuất hiện một cách đó là "Ám hợp Quan cách" đó là sử ụng 4 ngày Mậu Tuất, Giáp Thìn, Quý Mão, Quý Dậu nhớ hình như vậy.
Ah quên điều kiên để thành Ám hợp Quan cách la:
1. Sinh vào 4 ngày như trên và có chi tháng giống ngày và thêm một chi giờ hay năm giống nữa( tức là phải có 3 chi giống nhau)
2. Phài không có một chính quan nào xuất hiên trong tứ trụ
3. Phải khống có chi xung với 3 chi đó (vd: 3 chi là Mão thì ko nên có Dậu, cũng ko dc có Tuất vì có Tuất phải luận cách cục bình thường)
Lúc đó 3 chi đó sẽ ám hợp Quan tinh trong tối thành Ám quan cách. Theo câu trong cổ thư nói: "Minh lí hữu thời, minh lí thủ; minh lí vô thời, ám trung cầu"
Và cho ví dụ:
Quý Mão Ất Mão Quý Mão Nhâm Tý (đây gọi là Ám hợp Quan Cách, lấy Mão hợp Tuất, trong Tuất có Mậu là chính quan)
Sau đó chọn dụng thần là chi Mão luôn, kị có Dậu xung, Tuất điền thực
Tôi có chút khó hiễu với cách này như vd trên thì Dậu Tuất kị vậy nếu đại vận có Dậu Tuất thì chi giờ phải là chi gì mới cứu vớt dc vận, hay cứ gặp Dậu Tuất là tiêu hay cách Ám hợp Quan chi là bịa đặt trong cuốn Tinh mệnh học của ông Nguyễn Anh Vũ.
Cám ơn bạn đã tham gia. Ở đây tôi đã gợi ý là: (bỏ qua không tính đến luận đúng hay sai ở đây), có nghĩa là không quan tâm tới tác giả luận có đúng hay sai mà quan tâm tìm ra cái sai lầm khác đáng sợ hơn nhiều, đều mà tôi phải nói là "Sai Lầm Chết Người".
Thân chào.
anhphongkiem
18/12/2014
VULONG1
19/12/2014
anhphongkiem, on 18/12/2014 - 22:15, said:
Tôi đã nói là không quan tâm tới ông ta luận đúng hay sai rồi cơ mà.
Hãy thử tìm xem có cái sai nào không liên quan tới bài luận Tứ Trụ này, tức là cả bài luận của tác giả không cần quan tâm tới. Vậy thì còn cái gì để mà đáng quan tâm nữa?
Thân chào.