Jump to content

Advertisements




TRÍ QUANG TỰ TRUYỆN


13 replies to this topic

#1 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 10/08/2012 - 18:35

1. Tôi người Quảng bình, một trong ba nơi mà Huyền trân công chúa mới đáng là thành hoàng. Tổ tiên gốc người Hải dương, bốn cha con cùng có mặt trong đạo quân tiếp quản Quảng bình, rồi định cư ở ba làng. Thuận lý là con trưởng, kế đó, Phương xuân là con thứ hai. Diêm điền, làng tôi, là nơi Tổ của làng tôi cùng con út định cư. Làng tôi cách trung tâm tỉnh lỵ Quảng bình chỉ có chừng sáu trăm mét đường chim bay.

Trước đó, cả làng định cư bao giờ không rõ, chỉ biết vì chậm chân nên ngoài số ruộng đất không đáng kể, làng tôi phải làm muối, vì con sông của làng là nhánh sông lớn Nhật lệ, nước mặn. Do đó mà có tên Diêm điền, cấp phường chứ không phải xã, thuộc tổng Long đại, phủ Quảng ninh, một trong năm phủ huyện của Quảng bình. Vị trí gần tỉnh lỵ, nhưng làng không có truyền thống học chữ Tây. Vẫn học Nho, nhưng không có tiếng là làng Nho học hay khoa bảng gì.

Một bí mật mà nay nên nói ra. Làng tôi có liên hệ khá chặt chẽ với phong trào Văn thân của chí sĩ Phan đình Phùng. Vùng núi phía tây của làng có hai quân thứ của phong trào. Bác họ tôi là một chỉ huy cấp trung, ông ngoại tôi là một đội viên, của một trong hai quân thứ. Cha tôi là “người của vua Minh”, tiếng gọi kín vua Hàm nghi.

Năm tôi mười bốn tuổi, cha tôi bảo đi theo ra thăm đám ruộng cạnh giếng Nĩ, vùng Ải dài, nghiêm trọng kể cho tôi, và bảo:

- Phải biết và nhớ lấy.

Tôi hỏi, làng mình có ai là “người của vua Minh” nữa không, cha tôi đắn đo rồi bảo:

- Có, làng mình và các làng chung quanh, nhất là dưới tỉnh, có cả. Nhưng, này, “quốc tặc” là gì, con biết không?

Tôi thưa:

- Dạ biết.

Cha tôi bảo:

- Biết, biết nó là gì thì không được sợ, cũng không được khinh suất.



Thanked by 2 Members:

#2 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 10/08/2012 - 18:42

2. Nhà tôi có sáu anh em trai. Anh đầu là Phạm Huệ, mất ở Lào.

Anh hai là Phạm Cần 102 tuổi, mất năm kia.

Bốn anh em còn lại sinh cùng một mẹ là:

Phạm Minh 90 tuổi

Tôi Phạm Quang 89 tuổi.

Em kế Phạm Chánh tử trận năm 1947.

em út là Phạm Đại.

Trong tuần lễ thứ hai chống Pháp tại tỉnh nhà; em út là Phạm Đại mất chưa kịp gặp tôi, sau 1975. Tôi có bác ruột, Phạm Phương, tử trận tại bến Bồ đề, cuối cầu gỗ Đông ba, Huế, trong trận chiến quân ta tấn công tòa Khâm sứ Pháp, ở đây. Mẹ tôi rất thích nghe bài sám Lương hoàng, người Đức phổ, cùng làng với bổn sư, và tổ sư của tôi.

Là người Đắc ân, trú trì quốc tự Linh mụ. Cả cha mẹ cùng quy y ngài nầy, làm Phật tử tại gia (đồng sư với bổn sư của tôi). Cha tôi tâm đắc nhất nên tự phiên âm chữ Nôm bản “Truyện Phật Thích Ca” của Từ bi âm, thích thú đọc lớn, ngâm nga hoài, nhất là những lúc một mình, và khi mất đã tự đặt sách ấy trên ngực, hai tay giữ lấy.

Nhánh ba họ Phạm làng Diêm điền là gia tộc của tôi, theo Phật từ lâu, nhưng thật sự là ông nội và cha tôi. Cha tôi khi bán thế xuất gia thì làm đệ tử ngài Đắc quang (Tăng cang Linh mụ) em ruột ngài Đắc ân. Danh hiệu long vị là “Người dòng phái đại tổ sư Nguyên thiều, pháp danh Hồng nhật, pháp tự Tâm nguyên, đắc pháp với pháp húy Huyền đàm đại sư.”



Thanked by 2 Members:

#3 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 10/08/2012 - 18:50

3. Năm lên bảy, mẹ tôi chuẩn bị đâu vào đó, rồi nghiêm mặt đến nỗi anh Minh và tôi không dám hó hé, nhưng tôi có cảm giác là lạ, và mẹ ra lịnh:

- Sáng mai đi học.

Khai tâm cho anh em tôi là tiên chỉ của làng. Mậu thực phu từ. Mẹ tôi soát vở học luôn, bằng cách đếm trang vở, nhìn chữ son đồ nét mực đen, rồi bảo tôi trước:

- Học gì đọc cho mẹ nghe.

Nghe xong, mẹ im lặng, hai năm sau, đem anh em tôi lên làng Thuận lý, cách nhà sáu cây số, học với bác họ, bác ấm Lộc, cha làm Kinh lược ở đâu ngoài Bắc. Bác hơi dữ. Nhưng lo cháu bị mẹ đánh, bác bảo viết lại bài làm, khuyên vào nhiều vòng đỏ. Mẹ cũng đoán ra, xin bác đừng thương lắm kẻo cháu hư thân.

Mẹ về. Bác bảo, họ Phạm ta ở làng nào cũng kém lắm. Bác gọi tên tục của tôi mà bảo:

- Do, cháu gắng lên nữa, cho mẹ vui, bác vui.

Tất cả vốn liếng chữ Nho, chữ quốc ngữ và trọn chương trình Cơ thủy hồi đó, do sở Học chính Đông dương biên soạn, chúng tôi được học cả. Trừ chữ Tây. Bác Lộc nói với mẹ:

- Cháu tạm ngưng được rồi. Những gì đủ để sống ra trò ở thôn quê, tôi đã dạy cháu. Cô có thể tìm cách cho cháu học theo chương trình Tây soạn ra, một mớ chữ của nó nữa là đi thi lấy bằng Cơ thủy, học lên Thành chung... Nhưng cái đó tùy cô, bàn xét cho kỹ.

Mẹ tôi bàn với cậu ruột của tôi. Nhất là xét kỹ coi tôi có đủ sức sống với thôn quê hay không. Cậu xét gắt gao và nói với mẹ:

- Bác ấm Lộc dạy rất tốt. Còn việc học lên nữa thì phải xét có tiền không, có cần không.

Mẹ bàn với cha. Cha tôi bảo để kiểm tra đã. Và kiểm tra nghiêm ngặt, bằng khá nhiều cách. Nhất là kiểm tra học lực chữ Nho của tôi. Cha tôi khá vui nhưng bảo mẹ tôi:

- Con nó mới học một nửa. Một nửa cần phải học thêm. Ta phải dạy cho con. Đó là học làm đất: đất vườn, đất nương, đất ruộng. Đất nào nhà mình cũng có, rất ít, nhưng dạy con biết cuốc, biết cày, biết trồng, biết trỉa, đổ mồ hôi xuống đất thì đất cho cái ăn, khỏi bị khinh vì đói rách, xin xỏ, nợ nần.

Mất ba năm tròn, cha mẹ tôi mới hể hả.



Thanked by 2 Members:

#4 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 13/08/2012 - 04:51

4. Tổng hội Phật học miền Trung thành lập tại Huế. Phật lịch năm 2476 (1932), sau đó các tỉnh hội thành lập khá nhanh. Quảng bình là một. Tổng hội cử giảng sư ra giảng Phật pháp cũng khá liên tiếp. Mẹ tôi một hôm đi chợ về, ngay trên cầu Đá, gặp hai vị giảng sư từ Phổ minh về tỉnh hội. Phong cách hai vị gây chú ý đậm cho mẹ tôi. Về, mẹ nói liền với cha, và anh em chúng tôi được nghe cả. Rằng nhà mình theo Phật lâu đời mà chưa có ai như hai thầy ấy. Phải làm sao cho có.

Tôi thành mục tiêu, dầu trước đó đã chọn làm thừa tự ông bà. Thế rồi công nguyên Phật giáo 2482 (1938), quãng mười giờ đêm giao thừa, tôi được thay đổi hoàn toàn: đầu cạo sạch tóc, mặc áo nhật bình màu khói hương. Há hốc ra, nhưng tôi lại khoái chí. Một lát, Tâm, một bạn học Nho với tôi, cũng lù lù đến với bộ cánh như tôi. Lần nầy thì cha tôi ra lịnh, ôn tồn thôi:

- Hai đứa đi tu!

Một năm trước đây, anh Minh đã đi tu như vậy. Trời tối và lạnh, ngay sau giờ giao thừa, tôi với Tâm, đi theo cha tôi, vào chùa Phổ minh, xóm Ải. Rồi việc gì anh Minh đã được làm cho thì nay đến tôi và Tâm. Xong việc, bổn sư tôi, ngài Hồng tuyên, xoa đầu hai đứa, bảo về ăn Tết đi, rằm vào lại.

Ngài Hồng tuyên gốc Đức phổ, làng ngoại tôi. Cháu các ngài Đắc ân (Trú trì chùa Linh mụ) và ngài Đắc quang (Tăng cang Linh mụ) nổi tiếng với cái danh “Ký quốc ân” (Thư ký tổ đình Quốc ân). Người cao, thanh, tay quá gối, rất thông minh. Từng là học đồ cao trọng của ngài Trà am. Tính tự trọng rất cao, cũng rất cao sự biết người, biết ta.

Tiếp nhân đãi vật rất có phong thái cổ kính, lồng trong phong thái ấy là sự tiêu sái, dễ cảm mến. Sau nầy, khi đã thử thách, bảo tôi “dạy” lại kinh luận đã học. Ngài học rất nghiêm, ngồi thấp, bảo tôi ngồi cao. Cho đến nay, tôi chưa gặp ai lý giải và lĩnh hội được như ngài.

Thích nhất là Kim cang và Nhiếp luận. Trọng nhất là Di giáo. Ngài đòi làm bài, và làm nghiêm túc, dĩ nhiên bằng Hoa văn. Bài thật tuyệt. Học như vậy, suốt mùa an cư 2486 (1942) Và nói, học như vậy ăn rau lang trừ cơm cũng được. Lại bảo tôi:

- Ông làm thầy giỏi, nhưng tính nóng. Nhược điểm ấy rán mà bỏ.



Thanked by 1 Member:

#5 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 13/08/2012 - 05:05

5. Nay xin kể lại việc học Phật của tôi. Việc nầy vừa là nền móng vừa là trụ cột, của đời tôi. Sau khi xuất gia 1938, sáu năm tiếp theo 1939-1944, tôi được vào Phật học viện của Tổng hội Phật học, vốn là sơ đẳng.

Viện thành lập năm 1933, chủ yếu do hòa thượng Giác tiên, khai sơn chùa Trúc lâm, và bác sĩ Tâm minh, Lê đình Thám, đệ tử ngài. Ban đầu đặt tại Trúc lâm, kế tại Quan công, sau mới tại Báo quốc. tôi học tại đây, bằng bốn năm của cấp sơ đẳng. Viện trưởng, Thân giáo sư chính yếu, là hòa thượng Trí độ, nguyên là học đồ của ngài Thập tháp, sau, gần hết học kỳ, thầy thọ Bồ tát giới với ngài Đắc quang.

Về thế học, cấp sơ đẳng được bổ túc theo chương trình Cơ thủy, cấp trung đẳng học thêm triết học. Về Phật học, là chính yếu, thì nay đủ cả bốn cấp: sơ đẳng sáu năm, trung đẳng, cao đẳng và siêu đẳng, mỗi cấp hai năm, cộng mười hai năm tất cả. Tôi học hai năm sau của sơ đẳng. Khi lên cao đẳng thì thu gọn siêu đẳng vào đó. Học xong cuối năm quí mùi 1943, làm lễ tốt nghiệp ngay đầu năm sau 1944.

Nói tổng quát, từ sự thuộc lòng hai thời công phu, đến Đại trí luận và Du già sư địa luận, Viện dạy rất liên tục và nghiêm cẩn, đào tạo tăng tài hoàn chỉnh. Nhược điểm là học hơi nhiều về Duy thức học của hệ Giới hiền - Huyền tráng, nhất là thiếu Sử truyện Phật giáo, mà trong đó, có bậc hoằng Pháp và hộ Pháp, rất cần cho sự nung nấu hạnh nguyện của học tăng.

Trong thời gian gần xong học kỳ, tôi bị viết bản thảo vài ba dịch phẩm và tác phẩm của Thân giáo sư, lại phải tập dạy nhiều môn cho các lớp sơ đẳng và trung đẳng mà viện mới mở. Mấy việc nầy giúp tôi không ít, có số điểm cao nhất khi thi tốt nghiệp, lại giúp tôi, sau đó, dịch và viết kinh sách cho đến nay.



Thanked by 1 Member:

#6 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 13/08/2012 - 05:18

6. Bấy giờ là năm ất dậu 1945. Nói theo dương lịch thì tháng tám năm đó, nói theo âm lịch thì tháng mười năm đó cha tôi mất. Cha tôi không lú lẫn gì nhưng trước đó vài ba năm không nói không hỏi gì việc đời nữa, chỉ một mình kể Truyện Phật gần như thuộc lòng.

Nói trở lại, 1944 hai lớp sơ đẳng và trung đẳng của Phật học viện, mà bây giờ gọi là Kim sơn, được tạm dời vào Nam, với thân giáo sư là thầy Trí tịnh, quản lý là thầy Thiện hoa, hộ chủ là Trương hoằng Lâu. Vào đó liền gặp 1945, trường rã luôn. Thân giáo sư của Phật học viện gốc thì về quê nhà Bình định, với chí nguyện đem kinh nghiệm giáo thọ chúng tôi, mà lập một Phật học viện cho vừa ý hơn. Rồi chưa đến đâu, ngài ra Huế nghỉ thư giãn ở Kim sơn.

Quãng hè 1946, thầy Tâm chính, cũng là bạn học ở Kim sơn, thay lời các vị lãnh đạo Phật giáo ở miền Bắc, vào Huế mời được Thân giáo sư Trí độ, lại mời tôi theo ngài, ra lập Phật học viện tại Quán sứ, tổ chức đầy qui mô và thiện chí. Nhưng đầu tháng mười âm lịch năm đó, lịnh toàn quốc kháng chiến ban hành. Phật học viện cũng phải tạm xếp lại.

Thanked by 1 Member:

#7 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 13/08/2012 - 05:38

7. Tôi về Quảng bình thì cha tôi mất. Trước đó một ngày, đêm 21 tháng 10 âm lịch, tôi thức khuya trong gian chái hướng tây bắc, đọc lại Du già sư địa luận, thì các anh Cẩn và Minh lù lù cùng về. Hỏi ngay:

- Cha thế nào?

Tôi bảo:

- Thì cũng như cũ, yếu và dễ mệt. Tôi thêm, vẫn ăn được bắp rang ngào mật ong.

Răng cha tôi tốt nổi tiếng. Chúng tôi hạ giọng, nói chỉ đủ nghe. Thế mà trong gian nhà thứ năm cha tôi vẫn nghe được, hỏi:

- Mấy đứa về đó, phải không?

Tôi dạ. Cha tôi nói:

- Để cha nghỉ, nói gì thì sáng mai rồi nói.

Mỗi anh một gói đồ khá lớn. Dỡ ra thì gói nào cũng là đồ điếu tang. Tôi hỏi, biết người nào cũng thấy tự nhiên phải về vì nghĩ cha đang lâm nguy. Rồi anh Cẩn ở Lào thì đệ tử, anh Minh ở Huế thì người cùng cơ quan, ai cũng sắp đồ phúng điếu như vậy. Trên chuyến tàu suốt, anh Minh ở Huế ra dừng ở Đông hà, thì tại đây anh Cần lên tàu ấy. Nhưng xuống Thuận lý mới gặp nhau. Sáng sớm hôm sau, 22 tháng 10 âm lịch, cha tôi bảo chú Đại nấu nước lá chanh lá bưởi cho nhiều một chút, tắm kỹ cho cha tôi.

Mẹ tôi và chị Thuyết, chị con dì của tôi, làm bánh lá gạo hom cho cha tôi ăn. Khi chú Đại đỡ vào thì cha tôi thả chân xuống nền nhà. Sau nầy mới biết đó là hạ thổ. Cha tôi bảo đóng cửa cả năm gian nhà để ngủ bù mất ngủ hồi khuya. Rồi trừ Đại ở nhà canh cho cha ngủ, bốn anh em, kể cả chú Chánh, ai cũng xuống tỉnh. Từ cổng Bình quan, tôi rẽ qua phải đến chùa Phật học, anh Minh rẽ qua trái đến cơ quan của anh. Anh Cần xuống thẳng bến sông Nhật lệ thăm đò nhà vợ. Còn Chánh, anh chàng đi tìm chỉ huy của mình.

Quãng bốn giờ chiều, không ai hẹn ai mà cũng gặp nhau, thì Đại ôm ngực chạy xuống, hét lớn:

- Các anh về gấp mà coi, cha lạ lắm, nằm thẳng cẳng ra rồi!

Cả nhà bấy giờ nhìn kỹ. Cha tôi mang tất trắng, mang y hậu chỉnh tề, đầu đội mão Quan Âm, nằm ngửa ngay thẳng và gọn gàng, hai tay để trên ngực, ấn cuốn Truyện Phật Thích Ca. Cha tôi đưa tay là lấy đúng cả, từng cái một. Tôi để ý thấy thiếu cái kính, tức khắc hiểu ra, cha tôi không cầm kính vì sợ kính không phân hủy hay xương. Đến chết mà kỹ tính vẫn y nguyên!

Anh Cần lên giường, bắt cánh tay rồi bàn tay, từ từ kéo rồi buông ra, thì từ từ tự thu lại như cũ. Anh lấy sợi chỉ rất nhỏ, cầm để nơi mũi cha tôi, chỉ không một chút lay động. Mắt cha tôi khép kín, nhưng thoải mái, miệng không mở ra hay xiết lại vì ngột thở hay nén đau. Toàn bộ sắc mặt bình thường, rất bình thường. Tìm cách khám kỹ việc đại tiểu tiện không tiết gì ra cả, cũng không hôi hám. Anh Cần, nhất là Đại, làm rất kỹ việc nầy. Xong, anh Cần hỏi mẹ tôi:

- Mẹ tính gì không?

Mẹ bảo:

- Tùy ý các con.

Khi kéo anh Cần ra, tôi hỏi:

- Cha mất ngày giờ xấu hay tốt?

Anh tính đi tính lại rồi nói:

- Xấu, phải đổi lấy ngày mai, 23 tháng 10.

Tôi ngac nhiên hỏi:

- 23 xấu mà.

Anh nói:

- Xấu cho việc khác, không xấu cho cái chết.

Tôi hỏi:

- Cha dạy kỹ và anh nhớ kỹ không?

Anh bảo:

- Yên tâm đi.

Tôi dặn kỹ:

- Ngoài anh với tôi, không được nói gì với ai về việc nầy.

Anh nói:

- Tôi cũng định dặn chú như vậy.

Rồi anh coi luôn ngày giờ nhập liệm, động quan, an táng. Ngớt mưa, bác sĩ Du lên coi kỹ, xác nhận ông đi lâu rồi. Cả nhà ngồi xuống nền nhà, chung quanh giường, tôi lên tiếng đầu tiên:

- Tuyệt đối không khóc. Không được khóc lớn, không khóc thầm, không khóc ấm ức. Ai không nhịn được thì ra ngoài mới khóc.

Mẹ tôi giao chìa khóa cho tôi. Tôi thành quản gia lúc ấy. Tôi nói với anh Minh:

- Vào chùa trình cho bổn sư hay.

Ngài nói:

- Thầy biết rồi, đang chờ ngớt mưa thì ra liền.

Anh Minh đi, có Chánh làm vệ sĩ mà vẫn còn sợ ma! Thầy mang tơi mà ra. Cả nhà quỳ lạy, và trình bạch ngày giờ các lễ quan trọng. Thầy niệm Phật, rồi cùng các sư huynh đi theo, trì tụng liên tiếp ba biến kinh Di Đà, lại xướng long vị cha tôi mà lạy. Thầy để nguyên y hậu, vào thăm cha tôi. Thầy niệm Phật lớn tiếng. Vừa niệm vừa đưa tay để trên trán cha tôi, rồi dời tay để trên cuốn Truyện Phật, nói như nói Pháp ngữ, rằng chỉ một cuốn sách mà làm cho cha tôi chết rất tự tại, đúng là “hỏa diệm hóa hồng liên”! Thầy xá sâu ba cái, ra về, dáng vẻ hoan hỷ.

Với sự giúp đỡ của chú Đông, em con cô, tôi lo đủ hết các thủ tục và tục lệ. Lúc nhập liệm, trước khi đậy nắp quan, trưởng họ của tôi hô lớn ba lần:

- Cả nhà ra nhìn ông lần chót.

Lại hô:

- Ai muốn ông mang theo cái gì thì đem ra bỏ vào.

Nghe thế, tôi chạy vào mở rương kinh của tôi, thì thấy ngay cuốn Kim cang, nhỏ và gọn, vốn tôi rất quý, chạy ra đặt trên cuốn Truyện Phật. Nắp hòm đậy lại. Một mình bổn sư tôi đứng trên đầu cha tôi. Trưởng họ xua ra hết. Thợ làm việc. Tiếng nện nắp hòm e dè, nhưng vẫn khá mạnh và lớn. Đột nhiên tôi chấn động cả người, vụt chạy vào buồng, khóc không gào thét, nhưng dữ dội. Tôi đứng úp mặt vào ván gỗ, khóc không lấy hơi được. Bổn sư tôi vào, đỡ nhẹ tôi đứng thẳng. Cứ như thế, Thầy đứng với tôi niệm Phật rất nhẹ.


Thanked by 1 Member:

#8 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 13/08/2012 - 05:53

8. Những năm 1943–1946 thế sự quốc gia và quốc tế đại động. Tôi về xứ, sống với bổn sư, được mẹ cho ăn, ban ngày ở trong cái nhà như chòi tranh, nhưng rất sạch của anh con bác, tiếp giáp khuôn viên nhà tôi. Tôi biên tập bộ Phật học cấp sơ đẳng, bản thảo chép tay, lên đến chín cuốn vở trăm trang khổ lớn. Châm chước rất nhiều theo kinh nghiệm đã học và giảng dạy, cốt sao cho Hoa Việt cân đối, giáo lý nghi lễ đồng đẳng.

Sử liệu Phật giáo đủ cần, truyện tích cổ đức cũng vậy. Chỉ thiếu lấy nốt nhạc các điệu tán chính: ngũ ngôn như bài Kiến văn, thất ngôn như bài đại từ, trường ngôn như bài Dương chi. Sách soạn theo thể thức giáo khoa. Thì giờ mất một năm, 1944. Bấy giờ chưa có photocopy, nên gói kỹ, bảo chú Kỳ, đệ tử đầu tiên, người Hà tĩnh, đem về cất ở đó. Sau đó biệt tích luôn, cả người và sách. Cho đến nay, tôi vẫn tiếc khôn nguôi.

Dầu chưa phải lúc, ở đây vẫn nên nói rõ về sự biên dịch kinh sách Phật giáo của tôi. Vì điều nầy mới đích thực là thị hiếu và chí hướng bình sinh của đời tôi, là mong ước của mẹ tôi. Nên, dầu cơ hội có chùa lớn và đệ tử nhiều, tôi có không ít, nhưng tôi khước từ không đắn đo. Chỉ tạm trú hết Từ đàm thì Ấn quang, thì Già lam, ở đâu, đầu óc tôi chỉ nghĩ đến, ngay trong lúc ăn, phải dịch chữ nầy, câu kia, đoạn nọ, sao cho đúng ý và nghe được.

Tôi không dạy học, vì không thích bằng sự biên dịch. Khởi sự hơn một năm trước ngày tốt nghiệp, tôi đã chuẩn bị đầy đủ để biên tập Từ điển Phật học và biên dịch Đại tạng kinh. Nhưng công việc lúc đó, công việc góp sức Vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam, khiến tôi xếp cất lại chí nguyện của mình. Chỉ còn làm lai rai, như đã làm và sẽ còn làm.

Tôi rũ bỏ hết, rũ bỏ thật hết, cầu sao sống được một năm hay năm bảy tháng nữa, để sửa chữa và biên dịch mấy đầu sách rất cần. Bản tự truyện nầy viết mất vài ba tuần, làm tôi không khoái chút nào. Dưới đây là danh mục đã sửa chữa từ Pháp ảnh lục, mà tôi đã quyết định đình chỉ:

1. Ba ngàn hiệu Phật
2. Lương hoàng sám
3. Pháp hoa chính văn
4. Pháp hoa lược giải
5. Vạn Phật
6. Tổng tập giới pháp xuất gia
7. Dược Sư
8. Địa Tạng
9. Thủy Sám
10. Kim Cang.
và các tiểu phẩm:
1. Hành pháp kinh Di Đà
2. Vu lan báo ân
3. Tôn kính đức Quan Âm.

và dự tính đang làm:
1. In lại Pháp cú Nam tông
2. Đang dịch Pháp cú Bắc tông
3. In lại Nhiếp luận
4. Chữa và in Khởi tín luận
5. In lại kinh Ánh sáng hoàng kim.

chữa và in các tiểu phẩm:
1. Tập Định lăng nghiêm
2. Dị tông luận




Thanked by 1 Member:

#9 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 13/08/2012 - 05:57

9. Nay xin nói kinh nghiệm của tôi vốn tính đem ra áp dụng vào hai việc: biên dịch Đại tạng kinh trước, rồi làm cùng lúc hay sau đó về việc biên tập Đại từ điển (để giải thích từ ngữ trong Đại tạng kinh ấy). Trước, nói biên dịch Đại tạng kinh. Thì Đại tạng ở đây là nói Hoa văn trước. Đại tạng ấy không nhiều nếu bỏ những bản trùng dịch, bỏ những bản không cần dịch, biên dịch yếu lược. Nên tham khảo Quốc dịch đại tạng kinh của Nhật trong việc nầy.

Rồi, nói việc làm Từ điển, thì kinh nghiệm cho thấy, đừng làm theo Phật học đại từ điển, Phật quang từ điển. Phật học từ điển của Vọng nguyệt cũng phải thu xếp lại chỗ nào cần làm như vậy. Nói thí dụ, chữ Kiếp có đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp, bốn từ tất cả. Nếu giải thích tất cả vào trong từ Kiếp thì tra mau và dễ hiểu hơn. Vấn đề ở chỗ làm mục lục cho kỹ một chút. Lại nữa, lối giải thích như Nhất thế kinh âm nghĩa thì xác hơn, vì có chữ chỗ nầy chỗ khác, đâu phải tất cả đều giống nhau. Nên kinh xưa thường có âm thích ở cuối kinh, làm như vậy xác hơn.

Biên dịch Đại tạng kinh và biên tập Đại từ điển là hoài bão của bất cứ ai đã học Phật. Tôi chỉ trình bày sơ sài về kinh nghiệm, không hy vọng gì làm được hơn. Đó là nỗi ân hận đã thành thống hận cho đời tôi.





Thanked by 1 Member:

#10 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 17/08/2012 - 18:34

10. Đầu tháng hai 1947 Pháp sắp chiếm Quảng bình. Tôi được cho biết như vậy. Nghĩ chết nhất là chết giặc, mà không có giới thì không được. Tôi xin bổn sư truyền giới cho theo cách gặp lúc đại nạn ở biên địa. Truyền và thọ Sa di giới và Tỷ kheo giới rồi, tối hôm ấy vía Xuất gia của Phật, 8-2-1947, thầy tôi cố ý một mình truyền Bồ tát giới cho tôi.

Lễ xong, thầy đứng càng nghiêm kính, nói, tôi với thầy là nhân duyên thầy trò trọng đại cho đời tôi. Tôi muốn góp sức làm cho ánh sáng Phật pháp trải ra khắp nơi. Hiện chùa Phổ minh là tôi chọn cho ý nguyện ấy. Nhưng tôi đã không làm được gì cho thỏa dạ. Tôi nhờ thầy kỳ vọng ở thầy rán giúp cho tôi...

Tôi cố cầm nước mắt phục xuống lạy Thầy. Thầy vẫn còn khóc. Nhìn lên Phật, Phật độc lộ toàn thân với cái bát nhang duy nhất. Sau đó 1955 khi bờ cõi mất thống nhất, mẹ tôi cũng một mình bảo tôi:

- Con đi mà trả nghĩa cho Phật. Đi cho thẳng, đừng đè bụi đè bờ mà châm vô!

Mẹ cắn răng ngậm nước mắt giục tôi đi đi. Tôi đi trong nước mắt và cho đến nay, tám mươi chín tuổi rồi, vẫn không đủ can đảm về nhìn mộ của Mẹ.



Thanked by 1 Member:

#11 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 17/08/2012 - 18:39

11. Khi còn học ở Phật học viện, tôi tụng kinh rất nhiều. Thường quỳ luôn trên hai giờ, theo lối quỳ của Nhật. Mắt rất rõ. Tiếng cao, trong, dài. Lạy siêng lắm, không biết mệt là gì. Mỗi lần tụng kinh, lạy ít nhất một trăm lẽ tám lạy.

Sự lạy nầy chỉ thua bổn sư mà thôi. Tụng tại chánh điện Báo quốc, không tán, không dùng chuông mõ. Pháp Hoa thường hai buổi, bất thường là một buổi. Hoa nghiêm tám chục cuốn, thường là năm cuốn mỗi lần, vì kinh đóng hay đựng hộp đều có số ấy. Cỡ như thế, Hoa nghiêm sáu chục cuốn và bốn chục cuốn, tôi tụng hết.

Đại phương tiện báo phụ mẫu trọng ân kinh tụng hai lần. Đặc biệt là Đại bát niết bàn, chỉ tụng hai lần bản dịch của ngài Đàm mô sấm, sau nầy mới đọc được bản dịch của cao tăng Pháp hiển. Còn thường tụng là Pháp hoa và Hoa nghiêm bản tám mươi cuốn. Dời lên Kim sơn, tôi vẫn được thường tụng. Về Phổ minh thì hay lạy Vạn Phật với bổn sư.

Pháp lực đã độ trì cho tôi, rất rõ, trong bao phen suýt mất mạng.

Thanked by 1 Member:

#12 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 17/08/2012 - 18:52

12. Sau húy nhật Cha thấy Mẹ khỏe vui, tôi thưa làm lễ bạt độ cho Chánh. Chú tử trận ngày 22-2-1947 tuần thứ hai sau giặc đổ bộ. Năm đó, Mẹ năm mươi ba tuổi, đại hạn: mất con là đúng lý số.

Nghe nói làm lễ Mẹ mới buồn trở nên vui. Tôi lo việc. Nói chuyện với người anh họ, vốn là người Việt gốc thầy chùa, có học, nhưng nay có gia đình. Anh khá về nghi lễ chính thức và không chính thức của Phật giáo. Tôi cất học thức, làm lễ nghiêm trang, xúc động. Thậm chí nói buồn cười, tôi xếp và đặt vàng bạc nhiều vào bàn thờ Chánh, cảm thấy em đang có ở đó.

Liên tiếp mười ngày, tôi trì tụng cho Chánh ba biến Địa tạng, ba biến Kim cang, và một biến Pháp hoa. Mỗi ngày anh họ tôi đến cúng Ngọ và tiến Linh. Tôi đội sớ điệp cúng em, thầm trì Vãng sinh cho Chánh. Lễ thức đơn bạc. Cái đói năm ất dậu, nay vẫn còn múa lưỡi hái tử thần khắp nơi.

Ngày chót người anh họ bày đồ cầu đồng ra. Tôi hơi cười.

- Có cần không?

Anh bảo:

- Xưa mần răng thì chừ phải mần rứa.

Mẹ rất chịu. Thế là đồng lên, người lên đồng là chú Đông, em con cô của tôi. Trong gần một tiếng đồng hồ, đồng nói giọng em Chánh. Hỏi gì cũng nói rất đúng, những điều mà đồng, cũng như Chánh lúc sống, không ai biết gì về những điều ấy. Tôi hỏi về tương lai gần và xa, đồng cố ý tảng lờ không nói. Đồng nói với mẹ vài ba chuyện nữa, đột nhiên khóc nấc lên. Ai cũng mủi lòng. Đồng nói với Mẹ, con xin đi và đứng lên lạy Phật, lạy Mẹ. Không khí thương cảm rất nặng nề.





Thanked by 1 Member:

#13 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 17/08/2012 - 22:40

13. Sau khi cúng Cha và cúng em, tôi muốn sinh hoạt bình thường. Nhưng chỉ bái sám Lương hoàng cho Mẹ nghe. Rồi chuyên trì Kim cang cho Chánh mà em thích. Và đọc Hoa nghiêm đại sớ. Nhưng ngày đêm bị đủ cách quấy nhiễu. Còn Mẹ, đã hai đêm nay không ngủ. Tôi hỏi, Mẹ bảo:

- Ngồi đó, bàn coi.

Mẹ lo nghĩ lấy ai thừa tự ông bà đây. Nhưng Mẹ không bàn gì cả. Trưa đó ăn xong Mẹ không nghỉ đi đâu không nói. Khi về thiệt nhiều hơn chơi, Mẹ nói:

- Xóm mình có cô M. ngó được. Cô nầy sau đó cảm cái tình tri kỷ của Mẹ đã thương Mẹ như mẹ ruột.

Nhưng... Mẹ lai đi đến một nhà gần Chùa, có hai người con gái. Về Mẹ vẫn chưa nói gì. Thưa, Mẹ mới nói chậm rãi:

- Giữa một thầy tu mà Mẹ đã mơ ước với một thầy cúng quê mùa như ai, mẹ phân vân hết sức.

Thế là đã rõ. Nhưng Thầy đã rõ trước. Thầy ra nhà lúc mới xế bóng. Mẹ chào hỏi, Thầy nói nhẹ nhàng:

- Chị ơi, xưa người ta có con thừa tướng dễ hơn có con cao tăng.

Mẹ thưa liền:

- Tôi không biết bàn tính với ai. Định chiều vào Thầy thì Thầy đã ra và đã có ý kiến. Có thể không có gì phải phân vân nữa.

Đêm đó tôi trang trọng thưa Mẹ:

- Lấy vợ, làm thầy cúng quá dễ. Nhưng không dễ, hoàn toàn không dễ cho mẹ con mình. Con đi tu là lời nguyền của Mẹ, bây giờ nói khác đi sao được.

Thầy lại ra sớm, Mẹ nói rất bất ngờ:

- Phải chi con tôi vào Huế, ở trong "Tổ đình Quốc Ân" thì tốt quá.

Phần tôi, trong lòng không thư thả mấy. Đi, để Mẹ thui thủi một mình... Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi “không vẫn hoàn không”, không có gì đáng nhớ, đáng nói. Ngay như sự tự truyện này, vì không thể không có nên phải viết và phải in, mà thôi. “Không vẫn hoàn không” là Phật cho, tôi mới được như vậy.

Trí quang



#14 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6938 thanks

Gửi vào 18/08/2012 - 10:58

13. Trí Quang tự truyện: phác thảo về cuộc đời và sự nghiệp của một danh tăng

Hòa Thượng Thích Trí Quang là một bậc danh tăng Việt Nam thời hiện đại. Ngài sinh năm Quý Hợi 1923, tại làng Diêm Điền, tỉnh Quảng Bình, ngôi làng có mối liên hệ chặt chẽ với Phong trào Văn Thân của chí sĩ Phan Đình Phùng, trong một gia đình gồm sáu anh em trai. Gia đình Hòa thượng đều theo Phật lâu đời; thân phụ sau này xuất gia, làm đệ tử của ngài Đắc Quang, Tăng cang chùa Linh Mụ.

Hòa Thượng Thích Trí Quang là nhân vật lịch sử, có vai trò quan trọng trong phong trào tranh đấu Phật giáo 1963. Trang 451 của tập hồi ký Tâm sự tướng lưu vong, Hoành Linh Đỗ Mậu viết: Trong số những Tăng sĩ lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chế độ Diệm, Thượng tọa Thích Trí Quang là nhân vật bị anh em nhà Ngô đánh giá là nguy hiểm hơn cả. Ngài cũng là vị Tăng sĩ lãnh đạo Phật giáo, được báo chí trong và ngoài nước quan tâm nhiều nhất thời bấy giờ.

Tuy vậy, việc góp sức vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam cũng như lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chế độ Diệm, không phải là tâm hướng của Hòa Thượng. "Sự biên dịch kinh sách mới đích thực là thị hiếu và chí hướng bình sinh của đời tôi, là lòng mong ước của mẹ tôi” Hòa Thượng đã viết như thế trong tập Trí Quang tự truyện (năm 2011).

Trí Quang tự truyện, không như mong đợi của nhiều người, chỉ là những phác thảo sơ lược, quá ít so với những biến cố quan trọng mà ngài đã chứng kiến và trải qua. Bởi, theo Hòa thượng: “Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi “không vẫn hoàn không”, không có gì đáng nhớ, đáng nói. Ngay như tự truyện này, vì không thể không có nên phải viết và phải in, mà thôi. “Không vẫn hoàn không” là Phật cho, tôi mới được như vậy”.

Nhân dịp Trí Quang tự truyện ra đời, chúng tôi xin trích một phần (nguyên văn) giới thiệu đến quý độc giả, nhằm để hiểu hơn về tâm hướng của Hòa thượng, một bậc danh tăng hữu công với Phật giáo mà sự hiểu biết của chúng ta ngày nay về ngài vẫn còn quá ít...

Tâm Đăng








Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |