Jump to content

Advertisements




TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO - Quyển 3


47 replies to this topic

#31 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 12/07/2012 - 20:52

PHẦN BẢY

28. Kiếp Luân Hồi

Quan Thái Phó Dương Hựu, tự Thái Tử, là một danh thần triều Tấn. Thuở ông còn bé, thường bảo bà vú nuôi lấy cái vòng cho mình chơi. Bà ấy nói:

- Cậu không có cái vòng nào cả, biết lấy ở đâu bây giờ?

Dương Hựu đáp:

- Lúc trước tôi chơi đùa, làm rớt nó ở trong bộng cây dâu nơi góc tường phía đông.

Bà vú lại bảo:

- Thế thì cậu tự tìm lấy đi.

Hựu nói:

- Đây không phải là nhà trước, tôi không biết chỗ.

Sau, Dương Hựu ra cổng chơi, trông ngóng bốn phương, rồi đi thẳng về phía Đông, bà vú cũng đi theo. Khi đến nhà họ Lý, Hựu liền rẽ sang tường phía Đông, tìm dưới một gốc cây lấy được cái vòng, Lý thị thấy thế, vừa sợ vừa thương nói:

- Đây là món đồ chơi yêu quí của con tôi thuở trước. Nó vương bệnh rồi chết hồi bảy tuổi. Sau khi nó mất, tôi mãi tìm chiếc vòng ấy, nhưng không gặp. Nay cậu đã bắt được, xin trả lại cho tôi.

Dương Hựu không nói gì, cầm chiếc vòng chạy đi. Lý thị theo hỏi, bà vú liền thuật lại những lời của Hựu đã nói khi trước. Lý thị mừng thương lẫn lộn, muốn trở lại xin Hựu làm con, người trong xóm cùng nhau giảng giải cho, sau mới thôi. Lớn lên, Dương Hựu thường mang bệnh nhức đầu. Thầy thuốc muốn chữa trị, Hựu nói:

- Khi tôi mới sanh ra ba ngày, đầu day về phương Bắc, bị gió thổi vào, trong ý chắc về sau sẽ do đó thành bệnh đã sâu, không thể điều trị nữa.

Sau Dương Hựu làm quan Đô Đốc, trấn nhậm ở đất Tương Dương, thường cúng vào chùa Võ Đương rất hậu. Có người hỏi duyên cớ, ông lẳng lặng không đáp. Đến lúc già, nhân khi sám hối, ông mới bày tỏ việc nhân quả rằng:

- Thân trước của tôi có nhiều tội, nhờ cất ngôi chùa này mà được khỏi. Vì thế, tôi mới có ý ân cần với chùa Vỏ Đương hơn các chùa khác.

***

Đời Tề, vua Võ Đế đến viếng thiền sư Tăng Trù, sư ngồi yên trên thiền sàng, không ra đón rước. Các học trò đều khuyên thầy nên tiếp giá. Thiền sư đáp:

- Thưở xưa vua Ưu Điền đem lòng ác đến thảo am, muốn hại Tôn giả Tân Đầu Lô, Tôn giả xuống giường đi bảy bước nghinh tiếp. Bảy ngày sau, vua Ưu Điền mất ngôi, bị nước láng giềng bắt xiềng chân, cầm tù đến mười hai năm. Nay ta tuy kém đức, nhưng cũng gắng học đòi theo người xưa, muốn cho vua được phước.

Có kẻ đem lời gièm pha đến tai vua; Võ Đế rất căm giận, định hôm nào vào chùa, để ý xem, nếu Thiền sư không cung kính, sẽ bắt đem giết đi. Ngài Tăng Trù biết việc ấy, đợi khi vua đến thăm viếng, liền ra khỏi chùa đón mười dặm. Vua lấy làm lạ, hỏi duyên cớ, Ngài đáp:

- Bần Tăng sợ huyết nơi thân làm nhơ uế cảnh Già Lam, nên đi xa đón trước để chịu chém.

Võ Đế nghe qua sợ hãi, xin sám hối và bảo quan cận thần là Dương Tuân rằng:

- Trầm không sáng suốt, thiếu chút nữa lỗi lầm làm hại Thánh Sư!

Về đến chùa, ngài Tăng Trù tâu với vua rằng:

- Bệ hạ tiền thân là La Sát, đời nay ưa chém giết là thói quen từ kiếp trước chớ không chi lạ.

Vua hỏi:

- Làm sao biết được?

Thiền sư lấy cái chậu đổ nước vào, đứng niệm chú, rồi xin vua đến xem. Quả nhiên, trông vào chậu nước, Võ Đế thấy thân mình là La Sát, lại có một bầy quỷ nhỏ theo sau. Vua cả kinh, từ đó dứt tuyệt rượu thịt, trọn ngày lạy Phật, tham thiền, sự hành đạo tinh tấn mạnh mẽ dường như gió cuốn.

***

Đời Đường, Vi Cao làm quan Thái Úy Trung Thơ Lịnh. Thuở mới sanh người, cha trai Tăng để cầu phước cho con. Khi chúng Tăng thọ trai xong, bà nhũ mẫu bồng đứa nhỏ đến, cầu xin chú nguyện. Có một vị Tăng đứng dậy bảo chúng rằng:

- Đứa bé này đời trước là Gia Cát Võ Hầu, ngày sau sẽ có sự chánh trị tốt đẹp ở miền đất Thục.

Nói xong, vị Tăng ấy biến mất. Về sau, Vi Cao ra làm quan, những điều tiết, nghĩa, công danh, đại khái cùng với Gia Cát Võ Hầu đều giống hệt nhau. Cai trị đất Thục hai mươi mốt năm. Vi Cao được vua phong đến tước Nam Khang Quận Vương, dân chúng đều cảm đức, Quận Vương rất mến đạo Thích. Khi tượng Phật đá ở Gia Châu mới tạc thành, ngài tự thân viết lời kỷ niệm…

Đời Đường, Sa Môn Viên Trạch ở chùa Huệ Lâm, xứ Đông Đô cùng với ẩn sĩ Lý Nguyên kết bạn rất thân thiện, chùa Huệ Lâm vốn là nhà cũ của Lý Nguyên. Từ khi Lý Trảng, cha của Nguyên, bị An Lộc Sơn làm hại, Nguyên không ra làm quan, thường ở trong chùa, cùng Sư Viên Trạch đàm đạo suốt ngày và lấy đó làm vui thú.

Một hôm, hai người cùng rủ nhau đến núi Nga My để xem cảnh đẹp. Viên Trạch muốn đi theo ngã Tà Cốc đến Trường An, Lý Nguyên lại bàn nên đi dọc con đường từ Kinh Châu thẳng đến và lại nói rằng:

- Tôi từ lâu đã chán nẻo lợi danh, chẳng còn muốn trông thấy cảnh phồn hoa chốn kinh sư nữa.

Không biết làm sao, Viên Trạch đành phải chiều theo bạn, cùng đi ngã Kinh Châu.

Khi thuyền đến Nam Phố, Viên Trạch trông thấy một người đàn bà quảy đôi thùng xuống bến gánh nước, liền sa nước mắt nói:

- Sỡ dĩ tôi không muốn đi đường này, chỉ vì thế!

Nguyên kinh sợ, hỏi duyên cớ? Trạch đáp:

- Người đàn bà kia có mang đã ba năm, chờ tôi đến làm con. Nếu tôi không gặp thì thôi, nay đã gặp rồi, quyết không thể trốn tránh được. Vậy, ba ngày sau, nếu không quên nghĩa tri giao, xin ngài tìm đến thăm, tôi sẽ dùng một nụ cười để làm tin. Và, mười ba năm nữa, xin hẹn cùng ngài gặp gỡ nơi đất Hàng Châu, ngoài chùa Thiên Trúc.

Nguyên nghe nói, bùi ngùi cảm động, sai nấu nước cho bạn tắm rửa. Chiều lại, Sư Viên Trạch liền nở nụ cười, chàng bèn đem việc ấy thuật lại cho gia quyến người sản phụ kia nghe. Lo việc mai táng cho bạn xong, Nguyên liền trở về chùa.

Mười ba năm sau, Lý Nguyên đúng kỳ đến nơi ước hẹn, thấy một tên mục đồng gõ vào sừng trâu ca rằng:

- Ba sanh trên đá vương hồn cũ
Nào lúc ngâm thi dưới nguyệt tròn
Thẹn với người xưa xa đến viếng
Thân này tuy khác tánh linh còn…

Lý Nguyên nghe tiếng ca, hỏi:

- Trạch công có được mạnh khỏe chăng?

Mục đồng đáp:

- Lý Quân thật là người tín sĩ! Nhưng tôi duyên trần chưa dứt không thể gần nhau. Nếu ngài cố gắng tu hành, sau sẽ có phen gặp gỡ.

Nói xong lại ca rằng:

- Nỗi riêng sau trước sự tơi bời
Muốn tỏ nguồn cơn, đứt ruột thôi
Ngô, Việt nước non tìm đã khắp
Cùng đường trở bước nẻo xa vời.

Ca xong, liền biến mất. Lý Nguyên lại trở về chùa Huệ Lâm, đến niên hiệu Trường Khánh năm đầu, Nguyên được tám mươi tuổi, vua Mục Tôn hạ chiếu phong cho làm quan Gián Nghị đại phu, không nhận. Chưa được bao lâu Nguyên qua đời.

Ta còn để lại gì không
Kìa non đá lở nọ sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa khơi dặm về
Trông ra bến thảm bờ mê
Nghìn thu nữa chớp bốn bề một phương
Ta van cát bụi trên đường
Dù dơ dù sạch, đừng vương gót này.





#32 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 05:30

29. Phá Táo Đọa

Xưa, có một thiền Tăng vô danh, đi hành khất trên đường du phương, Sư có đi ngang qua một cái miếu thờ Thần Táo, được cư dân đồn đại là rất hiển linh.

Tò mò Sư đến trước miếu thờ Thần Táo thầm xem xét. Thấy miếu thờ chỉ có ba viên gạch bắc sơ sài, Sư ngạc nhiên tự hỏi:

- Ủa! Chỉ ba viên gạch nung kê thành cái bếp, hiển linh từ đâu ra nhỉ?

Sư vừa dứt lời, ba viên gạch liền nát vụn, miễu thờ cũng sụp đổ, sợ cư dân nói mình phá miễu, Sư vội vàng rảo bước.

Đi một quãng, sư gặp một cụ gìà mặc áo xanh quỳ bên vệ đường, kính cẩn thưa:

- Xin tạ ơn thầy đã vì con mà thuyết pháp vô sanh.

Vị Tăng ngạc nhiên:

- Tôi đã gặp cụ khi nào?

Ông lão mỉm cười:

- Thưa, con nguyên là một vị Táo Thần ở ngôi miếu thờ khi nãy. Đã từ lâu con ngu mê tưởng rằng ba viên gạch nung là thân của mình, nên cứ phải lẩn quẩn loanh quanh ở ngôi miếu mà ban phúc giáng họa. Ai đến cũng kính lễ bái ba viên gạch ấy thì con vừa lòng hãnh diện; gặp kẻ khinh rẻ ba viên gạch thì con nổi trận lôi đình. Hôm nay nhờ câu nói của thầy con tỏ ngộ lý vô sanh, thoát kiếp Thần Táo, ba lạy này gọi là đền ơn tri ngộ.

Lễ xong, cụ già biến mất. Từ đó người ta gọi vị Tăng này là Phá Táo Đoạ tức là người đã giúp cho ông Táo hóa kiếp vậy.

Như Thủy

Tất cả các pháp đều do tâm tạo.



#33 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 05:33

30. Ryonen

Ryonen là một thiếu nữ xuất thân từ một gia đình vương giả. Nàng được thân quyến cho phép xuất gia vào năm hai mươi lăm tuổi và hãy còn rất đẹp.

Sắc đẹp của Ryonen gây ra nhiều rắc rối. Không một thiền sư nào dám nhận nàng vào tu viện, vì một lý do duy nhất đó là dung nhan của nàng Ryonen sẽ gây xáo trộn cho đồ chúng họ.

Ryonen liền lấy bàn ủi nóng xóa đi cái chướng ngại cuối cùng ấy, nàng đã viết lên chiếc gương soi những dòng chữ đánh dấu sự thành công của mình:

Ngày xưa ta đốt hương trầm

Ướp xông những chiếc quần hồng, áo xoa.

Muốn làm khất sĩ Ta Bà

Chính tay ta đốt mặt hoa của mình.

Về sau, Ryonen trở thành một thiền sư Ni đắc đạo, Sư Ni tịch vào năm sáu mươi sáu tuổi.

Có vô số thiền sư Ni, khỏi đốt mặt cũng không gây rắc rối cho ai, ngoài chính mình.

Như Thủy

Sống trong cái chết bao lần khóc

Ngẫm lại cơn mê thấy trận cười.


#34 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 05:46

31. Một Lễ Trai Tăng Lạ Thường

Ngày xưa, một hôm đức Phật ngụ tại Kỳ Viên tịnh xá, có một bà Bà La Môn sắm sanh một lễ trai Tăng đặc biệt và nhờ chồng bà đi thỉnh bốn vị Thánh Tăng đến thọ thực. Lúc chồng bà vào Kỳ Viên tịnh xá, ở nhà bà vui thích hân hoan dọn sẵn bốn cái ghế xinh đẹp quý giá, chờ rước khách quý của bà. Khi thấy ông chồng của bà trở về với bốn ông Sa Di bảy tuối, bà tỏ vẻ hết sức bất bình. Bốn ông Sa Di tên là: Samkicca, Pandita, Sopaka, và Revata, là bốn vị A La Hán mà bà thí chủ nào có biết được.

Bà căm giận quá lẽ, ra vô vùng vằng, miệng lầm bầm như muốn nổ trên lò than. Bà không chịu mời bốn vị Sa Di ấy an tọa trên ghế tốt quý giá của bà, lại chỉ cho bốn ông ngồi trên bốn ghế đẩu thấp, rồi bà xoay lại rầy ông chồng, tại sao lại dắt về làm chi bốn đứa trẻ con không đáng tuổi cháu của bà, và sai ông chồng mau đi thỉnh cho được một vị Thánh Tăng cao niên. Ông chồng lật đật chạy vào chùa Kỳ Viên gặp Trưởng lão Xá Lợi Phất, liền thỉnh ngài Xá Lợi Phất, ngài Xá Lợi Phất đến nơi mới hay rằng bốn vị Sa Di A La Hán chưa thọ thực chi cả. Ngài bỏ ra về, vì ngài biết số lượng thực phẩm chỉ vừa đủ cho bốn phần ăn thôi.

Không hiểu tại sao Trưởng lão Xá Lợi Phất ra về, bà thí chủ sai chồng chạy lại lần nữa vào chùa Kỳ Viên thỉnh cho được Thánh Tăng khác, và chuyến này ông chồng bà trở về với Trưởng lão Mục Kiền Liên. Đến nơi, Trưởng lão Mục Kiền Liên cũng xem xét như Trưởng lão Xá Lợi Phất khi nãy, rồi cũng ôm bát trở về.

Bây giờ bà thí chủ càng nổi sân thêm lên, thốt rằng:

- Vì sao các vị Trưởng lão Thánh Tăng không chấp nhận cúng dường của mình! Vậy thì ông lại mấy chỗ mấy thầy Bà La Môn khổ hạnh rước về cho tôi một vị Trưởng lão.

Bà đã nhất định gom tài thí lại làm một, để chỉ dâng cúng một vị Thánh Nhân, hơn là bố thí cho bốn trẻ con; nên lúc ấy bà cũng không cho bốn ông Sa Di thọ thực. Bốn ông này từ sáng sớm chưa được dùng một món chi, vẫn ngồi đó mà chịu đói. Nhưng đã là bậc A La Hán bốn ông Sa Di không xao xuyến, lại tỏ vẻ bình tĩnh nhẫn nại. Vì đức cao cả của bốn vị A La Hán bảy tuổi, trời Đế Thích Sakka chủ thấy nóng nảy, ngồi không yên được trên ngai vàng. Điều này thường xảy ra, khi có bậc tiên nhân đương lâm nạn, trời Đế Thích Sakka thường biết như vậy, trong nhiều trưởng hợp đã qua. Ngài liền dùng thiên nhãn xem xét, thấy bốn vị A La Hán đương ngồi chịu đói với đầy nhẫn nại trong nhà bà Bà La Môn. Ngài nhất định lập công bồi đức.

Ra khỏi cung trời, xuống hạ giới Ngài biến ra một vị Bà La Môn thật già, đến ngồi một chỗ trống trải nơi cư ngụ của các vị tu sĩ khổ hạnh. Chồng bà thí chủ vừa đến, chợt thấy vị Trưởng lão đi ngay lại thỉnh ông về nhà. Ông Bà La Môn biết vợ sẽ hài long. Thật vậy, vừa thấy vị tu sĩ lụm khụm bước vào, bà rất vui mừng lật đật lấy nệm trên hai chiếc ghế đẹp ,chồng lại làm một và cung kính mời:

- Bạch đức cao thượng, xin thỉnh Ngài an tọa nơi đây.

Thay vì ngồi đó, trời Sakka khép nép, bái chào bốn vị Sa Di và ngồi bẹp dưới đất, gần bên bốn ghế đẩu của bốn ông Sa Di. Tư cách ấy làm cho bà thí chủ ngơ ngác và hết sức bất bình. Bà quở ông chồng:

- Lần này ông thỉnh về một người đáng tuổi cha của ông, nhưng ông này lại quá cung kính bốn trẻ con, chưa đáng làm cháu chắt của ông, chịu sao cho nổi. Tôi không cần ông này nữa! Phải mau mau tống khứ ông này ra khỏi nhà tức khắc.

Ông chồng nghe lời vợ, chạy lại nắm vai, kéo tay, ôm xếch eo ếch, hết sức bình sinh, lôi xệch ông ra, nhưng không làm sao cho ông ấy nhúc nhích, xê dịch được. Thấy vậy, bà vợ, một người sức lực, chạy lại tiếp chồng:

- Ông cứ lôi ông ta đi! Ông nắm một cánh tay, tôi nắm một cánh tay, chúng mình lôi ông một lượt không nổi sao?

Vừa kéo tay, vừa đẩy sau lưng ông già, quyết lôi ông ra khỏi cửa. Nhưng họ kinh ngạc khủng khiếp, ông già vẫn ngồi dính cứng một chỗ, hai tay quơ qua lắc lại; Chừng ấy hai ông bà chết đứng, không biết làm gì nữa. Đức Đế Thích Sakka chậm rãi cho hai ông bà biết, ông là ai, rồi biến mất. Lúc ấy, hai vợ chồng mới suy nghĩ: Đức Đế Thích Sakka, chúa cả chư Thiên, còn đảnh lễ bốn ông Sa Di với tất cả sự cung kính. Bốn ông này chắc hẳn là bậc đạo đức cao trọng.

Nghĩ vậy rồi, hối hả dọn vật thực ra cúng dường cho bốn vị Thánh Tăng bảy tuổi với đức tin trong sạch, nhờ đó mà hai ông bà gieo được phước báu cao thượng. Thọ thực xong rồi, bốn vị Thánh Tăng từ giã gia chủ một cách phi thường: Một vị đằng vân xuyên qua nóc nhà, một vị xuyên qua mái trước, một vị xuyên qua mái sau, vị thứ tư độn thổ mà đi.

Các Ngài muốn làm như thế, để cho đức tin của hai vợ chồng Bà La Môn tăng trưởng thêm lên. Khi các Ngài về tới Kỳ Viên tịnh xá, có một vài thầy Tỳ Kheo xúm lại hỏi thăm. Bốn ông Sa Di thuật lại đầu đuôi cho các Tỳ Kheo nghe. Các thầy này mới hỏi:

- Vậy chớ bốn ông có giận vợ chồng lão Bà La Môn ấy không?

Các thầy Tỳ Kheo này còn là phàm Tăng, không thể tin được lời thành thật của bốn ông Sa Di trẻ con, mới đem câu chuyện thưa lại với Đức Phật và cho rằng bốn ông Sa Di phạm tội nói dối. Đức Thế Tôn mới trả lời rằng:

- Những bậc nào đã diệt tận ái dục rồi, chẳng bao giờ dùng dịch ý đối chọi với dịch ý.

Rồi Ngài ngâm kệ ngôn:

- Ai là người nhã nhặn và nhất thiết giữa kẻ cừu địch, ôn hòa giữa kẻ hung bạo, không cố chấp giữa kẻ cố chấp, người ấy Như Lai gọi là bậc Sa Môn.

Nghe bài kệ ấy, các thầy Tỳ Kheo, đắc được quả Tu Đà Hoàn.

Bác sĩ A Nan Đà
Sa Di mười bốn hay giảng kinh
Tuổi như sư vậy chỉ mang bình
Sa Di thuyết pháp Sa Môn thính
Chẳng tại tuổi cao tại tánh linh.



#35 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 05:50

PHẦN TÁM

32. Vậy Sao???

Thiền sư Hakuin là một Tăng sĩ được cư dân quanh vùng ca tụng và kính trọng như một ông Phật sống. Gần tịnh thất của sư có một thiếu nữ rất đẹp. Một hôm, cha mẹ mỹ nhân chợt khám phá con mình có mang. Qua biết bao là phiền phức, mỹ nhân thú thật rằng. Thiền sư chính là người tình vụng trộm của mình. Bao nhiêu danh thơm tiếng tốt của sư đều đổ xuống bùn nhơ cả. Bà mẹ dẫn cô gái đến gặp thiền sư.

Đáp lại trận mưa ngôn ngữ thịnh nộ của khách. Sư chỉ mở mắt hỏi:

- Vậy sao?

Khi đứa bé chào đời, nó được bà ngoại mang đến tịnh thất với những lời sỉ vả cay đắng kèm theo. Từ dạo đó cư dân thường thấy thiền sư đi trì bình với một đứa bé trên tay. Sư nuôi nấng đứa trẻ rất tử tế…chú bé lớn lên rất bụ bẫm…chú tập bò, đứng và đi lẫm đẫm quanh chiếc thiền sàng của Sư. Chỉ khi nào đứa bé ngủ sâu, sư mới đi tọa thiền được. Hơn một năm sau, mỹ nhân thú thực rằng. Cha chú bé không phải là thiền sư Hakuin. Sau bao nhiều lời sám hối dài dòng và phiền toái.

Thiền sư trao đứa bé lại cho bà ngoại chú, cũng với hai tiếng:

- Vậy sao?

Ngôi tịnh thất im lìm trở lại, vắng bặt tiếng u ơ của trẻ thơ và thiền sư đi trì bình chỉ vỏn vẹn cái bình bát. Cư dân lại ca tụng và kính trọng sư như một ông Phật sống.

Như Thủy

Con ai đem bỏ chùa này

Nam Mô Di Phật. Con thầy thầy nuôi.



#36 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 05:59

33. Vết Thương Nặng Nhất

Sau một thời gian thương thuyết giữu bộ giao thương nước La Duyệt Kỳ với bộ giao thương các nước phía nam La Duyệt Kỳ, con đường giao thông giữa các nước đó được chính thức mở rộng. Thế là ước vọng từ lâu của nhân dân, nhất là hạng thương gia được hoàn mãn.

Nhưng than ôi! Con đường ấy ở cách thành La Duyệt Kỳ khoảng 200 dặm, nơi biên giới của hai nước phải xuyên qua một dãy núi trùng điệp, chọc trời, lại lắm hố hầm và hẻo lánh. Một lũ giặc cướp năm trăm tên đã nhiều phen lợi dụng địa thế hiểm yếu đó chận người cướp của. Vì thế cho nên đa số khách buôn mỗi khi ngang qua đó đều bị cướp sạch của cải, hàng hóa và đôi khi còn không bảo toàn được tánh mạng nữa.

Đường hẻo lánh càng lắm, tai biến càng nhiều, sự giao thông giữa các nước cơ hồ như đến chỗ bế tắc! Quốc Vương La Duyệt Kỳ hay tin, đã đôi phen hạ lệnh phái binh mã thiện chiến lùng xét nhưng vẫn bất lực trước những dãy núi ấy.

Bấy giờ, với lòng từ vô hạn, đức Thế Tôn nghĩ: “Bọn giặc kia có mắt mà không thấy sự thật, có tai mà không lúc nào nghe lẽ phải, phải chăng vì thế mà không biết nhân quả, tội phước chi cả. Nếu ta không đến cứu độ thì tội ác của chúng ngày càng nặng, rồi mai kia chúng sẽ không thoát khỏi đắm chìm trong đau khổ. Như thế thì có khác gì tảng đá nặng chìm xuống đáy bể". Nghĩ vậy, đức Thế Tôn liền đến núi ấy với một thân hình thanh niên vạm vỡ, phục sức tuyệt mỹ, lưng mang kiếm báu, trên tay lại nắm cung tên và cưỡi trên ngựa quý cũng trang sức bằng những vật vô giá.

Bốn vó ngựa phi nhanh, cây cối hai bên đường nhấp nhô như tiễn người chiến sĩ lên đường tranh đấu cho an bình của quần chúng. Ngựa chạy thâu đường, tiếng reo của lục lạc bằng vàng như đánh thức sự chú ý của bọn giặc. Tên đầu đảng đứng trên cao nhìn xuống, xa xa trông thấy chàng thanh niên trên vó ngựa với vô số bạc vàng, châu ngọc lấp lánh dưới ánh nắng mai, lòng vô cùng vui sướng vì sống với nghề ấy xưa nay mà chưa có dịp nào tốt như thế. Ma tham dục hối thúc, tức thì anh ta xuống đồi ra lệnh cho toàn đảng bố trí sẵn sàng…

- Xung phong! Xung phong!

Tiếng la hét của bọn cướp long trời lở đất và tiếp theo chúng phóng vô số dao tên bay về phía chàng thanh niên vùn vụt… Nhanh như chớp, chàng thanh niên ấy giương cung bắn trả, tức thì mỗi tên cướp đều bị một mũi tên cắm sâu vào mình. Dù chúng đã lanh trí, rút tên ra để đắp vào thứ lá thuốc mà chúng luôn phòng bị trong mình, nhưng tên rút không ra, thuốc vẫn vô hiệu quả. Năm trăm tên cướp không chống cự được nữa đành thất vọng thả vũ khí trên tay, ngã lăn xuống đất, rên la thảm thiết và cầu xin đầu hàng.

- Ngài là thần thánh chăng mới có oai lực như thế. Chúng con hạng người ngu dại đảo điên, xin ngài thương tình tha thứ và cứu vớt những sinh mạng bé nhỏ của chúng con. Chúng con đau nhức lắm, không thể chịu nổi.

- Vết thương ấy có đau gì mấy! Mũi tên kia có sâu bao nhiêu! Trong đời này chỉ có vết thương tham lam ích kỷ mới sâu nhất và sự ngu si giết hại người mới nặng nhất. Thế mà nay tham lam và ngu muội các ngươi còn giữ trong lòng, ta e rằng vết thương kia không bao giờ lành được. Vả lại, một khi hai gốc rễ ấy ăn sâu vào tâm địa thì dù sức mạnh như thần cũng không nhổ được mũi tên ấy.

Chỉ có khi nào các người biết theo đạo đức để sửa mình, hiểu rõ chánh lý để tu tập may ra mới làm bật rễ được vết thương tham muốn và ngu muội trong lòng. Có thế thì không những nhổ được mũi tên, lành được vết thương mà còn an ổn dài lâu nữa. Vậy các ngươi hãy chế phục ngã mạn, sa thải bớt dục vọng ngu si bằng cách, Cố gắng tích đức tu nhơn theo chánh pháp của đấng Năng Nhơn Vô Thượng.

Nói mấy lời đó xong, chàng thanh niên lại hiện nguyên hình đức Phật nói tiếp mấy bài tụng:

Vết thương không thể hơn tham dục

Tên độc không thể hơn ngu si.

Tráng sĩ không tài gì nhổ được

Trừ chăng chỉ có sự tu hành

Từ đây cũng như mù được thấy

Người si ám trở lại thông minh

Ta giáo hóa mọi người ở đời

Như đem mắt cho người ở đời

Vậy các ngươi nên gấp trừ si ám

Và sa thải dục vọng kiêu sa

Tiến bước trên con đường chánh pháp

Mới là người tích đức tu nhơn.

Bấy giờ năm trăm tên giặc cướp thấy tướng tốt của Phật, lại nghe được mấy bài tụng ấy, đều cúi đều cảm mộ và ăn năn những tội ác ngày trước. Liền khi ấy, dao tên trên mình chúng đều rơi rụng tất cả xuống đất, và những vết thương kia bỗng chốc không còn thấy nữa. Sung sướng được thoát nạn và cảm mến ân giáo hóa của đức Phật, năm trăm tên cướp không ai bảo ai mà tất cả đều quỳ trước đức Phật mà cầu xin rằng:

- Kính lạy Ngài, chúng con hôm nay nhờ ơn pháp nhũ của Ngài mà rõ sự thật… Vậy xin Ngài cho chúng con quy y và trì năm giới.

Từ đấy con đường giao thông phía nam nước La Duyệt Kỳ, người đi buôn bán càng tấp nập hơn xưa, không còn nghe thấy kẻ đón đường giựt của nữa.

T.M.L

Ai lo lửng như thuyền nan không bến

Ai hận đời không một chút tình thương

Ai thấy mình sao lạnh lẽo thê lương

Mơ kiếp sống đượm mùi hương giải thoát.

Thì đây:

Mắt Thế Tôn nhìn xa ngoài muôn dặm

Lòng Thế Tôn như bể thẳm xanh màu

Tay hiền từ đốt đuốc giữa đêm thâu

Với pháp nhũ đầy vàng châu cảm mến.



#37 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 06:14

34. Pháp Sư Tàu Hũ

Thuở xưa có một ông đồ thông minh, bác học. Ông ta làm khổ vị Hoà Thượng trụ trì chùa láng giềng không ít, vì những câu hỏi lý sự cùng mình của ông ta. Vì thế, mỗi lần nghe tiếng guốc lộp cộp của ông đồ đến gần, dù đang bận bất cứ công việc gì, xem kinh hay cuốc đất…Hoà Thượng vội vàng leo lên thiền sàng để “tỵ nạn” tham vấn của ông đồ đa sự.

Một hôm, đang ăn mấy củ khoai lỡ bữa, chợt nghe tiếng khua ngoài cổng tam quan, Hoà Thượng vội vàng lau miệng tức tốc trở về phương trượng. Thấy chủ nhà lật đật, khách cũng hối hả không kém. Nhờ vậy, ông khách bắt được Hoà Thượng lúc ngài mới leo lên bồ đoàn mà chưa kịp gác tréo chân. Cực chẳng đã, Hòa Thượng phải quay lại chào khách, ngài thở phào nhẹ nhõm.

- A, thì ra bác đậu hũ! Vậy mà bác làm tôi sợ đến bở vía…

Chàng đậu hũ ngạc nhiên:

- Có chuyện gì vậy, Bạch thầy? Hôm nay bán ế quá, con tạt vào chùa, nài thầy mua giùm vài miếng chứ con có làm gì đâu nào?

- Ấy, không phải vậy!

Và, Hòa Thượng bèn thuật lại đầu đuôi câu chuyện xong, ngài than thở:

- Hôm nào cái tên đa sự đó đến đây thì ta vô phương làm việc…cứ phải ngoáy tai ra nghe nào là Pháp thân, Niết bàn, Tối thượng thừa, Đệ nhất nghĩa đế, Chơn đế…thiếu điều điếc con ráy…

Chàng đậu hũ bất bình:

- Rồi thầy chịu trận chứ không có cách nào tống cổ hắn à?

Hòa Thượng nhắm mắt:

- Ta có mở miệng được tiếng nào đâu? Hắn cứ thao thao bất tuyệt đến lúc nào khô cổ mới chịu ngừng lại hớp nước, lấy hơi và nói tiếp…

- Thế, hôm nay hắn có đến không ạ?

- Hôm nào lại khỏi, quả là một đại họa cho ta.

Gã bán đậu hũ thuộc loại người có máu Lục Vân Tiên, nghĩa là thấy chuyện bất bình thì phải ra tay nghĩa hiệp, hăng hái nói:

- Thầy để nó cho con. Con sẽ trị cho hắn một mẻ, thế nào cũng cạch đến già…

- Chú có cách nào? Đừng có chọc người ta mà phải tội!

- Ậy, thầy cứ cho con mượn cái mũ ni, áo tràng cùng y bá nạp nữa…Rồi thầy trò mình sẽ làm như vầy…như vầy…

Hai thầy trò còn đang bàn tính thì đã nghe tiếng guốc của ông đồ. Đương sự mới đến sân ngoài đã đánh tiếng:

- A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! Bạch Hòa Thượng con mới đến ạ!

Hòa Thượng vội bước ra, suỵt hỏi:

- Im nào! Ông bạn…hôm nay chùa có khách.

- Ai thế nhỉ?

- Một thiền sư vừa hạ sơn, Ngài ở Tà Lơn mới xuống…

- Ồ, quý hóa quá! Thật là: Hữu duyên thiên lý năng tao ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng.

- Suỵt, ngài còn trẻ nhưng đạo cao đức trọng lắm…

- Ồ…vạn hạnh, vạn hạnh…thật là Vị tằng hữu…Sư tử lên ba còn hơn dã can đầu bạc.

- Nhưng mà…ngài không thích nói nhiều.

- Đó mới là…Vô ngôn thông… Tri giả bất ngôn…Người biết mà không nói…mà lại.

- Đạo hữu có hầu chuyện với ngài thì nên ít lời một tí…

- Thế thì…con xin được phép hầu chuyện với ngài bằng lối im lặng. Một cuộc im lặng như sấm sét của những tâm hồn vĩ đại và chơn thực…

Hòa Thượng ngơ ngác:

- Thế nghĩa là sao?

- Im lặng, im lặng và im lặng. Đó là sự đối thoại của Bồ Tát cư sĩ Duy Ma Cật, một lối mặc ngữ mà pháp âm vang như sấm rền.

Hòa Thượng đành lắc đầu:

- Thôi thì chú cứ làm những gì chú thấy cần thiết.

Ông đồ liền tuột guốc, rón rén bước đến vái chào vị Thiền sư Tà Lơn. “Thiền Sư” vẫn im lặng, hai mắt hơi hé ra rồi nhắm lại như cũ. Khách và chủ cùng phân tòa ngồi. Hòa Thượng cũng kiếm một chỗ ngồi, hồi hộp theo dõi cơ sự.

Thoạt tiên, ông đồ đưa lên một ngón tay, tiếp theo thiền sư cũng đưa tay lên, nhưng đến ba ngón. Ông đồ gật gù, tỏ vẻ thông cảm tiếp thu kịp.

Ông đồ lại đưa lên năm ngón tay. Thiền sư mỉm cười, lúc đầu ra vẻ khoan dung rồi đưa hai bàn tay lên, xòe đủ mười ngón.

Ông đồ chặc lưỡi tỏ vẻ thán phục, đưa tay vẽ một vòng tròn. Thiền sư có vẻ bất bình, đưa tay, hất mạnh, chỉ ra ngoài ngõ.

Ông đồ sụp lạy, cung kính cáo từ ra về. Tiễn y đến tam quan, Hòa Thượng hỏi:

- Sao, chú thấy thế nào?

- Ồ quả là Thiên niên thiết thọ khai hoa dị. Nghìn năm cây sắt đơm bông dễ…nhưng tìm được một người như thiền sư Tà Lơn thì quả là khó. Tam sinh hữu hạnh mới có một cuộc đối đáp như chớp nhoáng xẹt lửa như thế.

- Ngài đã nói với chú những gì?

- Ồ, Hòa Thượng làm sao hiểu thấu!

Hòa Thượng khẩn khoản:

- Tôi ở chốn rừng núi quê mùa, dốt đặc cán mai. Xin chú làm ơn thuật lại tỉ mỉ cho tôi mở rộng tầm con mắt. Tại sao chú lại đưa lên một ngón tay?

- Đó là chỉ Nhất tâm…

- Còn ổng đưa lên ba ngón tay là sao?

- Đó là, nhất tâm… tam giới. Một tâm nhưng bao trùm cả ba cõi, đầy đủ thể tướng dụng. Đó là pháp. Ngài đã đưa ra Tam giới để trả lời cho Nhất tâm. Thật là hay, hay tuyệt!

- Rồi khi chú đưa năm ngón tay lên?

- Đó là ý hỏi: Nhưng đối với kẻ đã lỡ tạo tội ngũ nghịch thì sao?

- Rồi ổng đưa mười ngón tay?

-Ý dạy: Phải khuyên đương sự tu mười điều thiện.

- Ồ, hay quá! Chỗ này thì tôi đã hiểu kịp. Thế, lúc chú đưa tay vẽ một vòng tròn?

- Tôi muốn nói: Chúng ta đang đi quanh quẩn trong vòng luân hồi vô tận.

- Và ổng lắc đầu, hất tay chỉ ra ngoài ngõ?

- Ý ngài nhắc chúng ta phải có chí hướng thượng, vĩnh xuất tam giới…Xong, Ngài buông thỏng hai tay, lắc đầu tỏ ý là đến chỗ vô ngôn tuyệt lự, bất lập văn tự. Khi ấy tôi chỉ còn nước im lặng, đảnh lễ ra về mà vẫn nghe pháp âm rền vang như sấm nổ.

Ông đồ cáo từ. Hòa Thượng trở vào, gặp thiền sư Tà Lơn, tức chàng bán đậu hũ đang đứng lúng túng trong đống y cùng áo. Hòa Thượng tiếp tay, giúp anh ta xếp y cất áo mão xong, hỏi:

- Chú ra dấu hiệu gì mà hắn ta chạy một mạch vậy?

Anh bán đậu hũ cười hề hề:

- Có chi đâu! Cũng chuyện làm ăn mà. Đâu có gì ngoài việc mua với bán. Hắn gạt Hòa Thượng chứ đâu có qua mắt thằng bán đậu hũ này nổi!

- Chú thuật lại đầu đuôi cho ta nghe thử!

- Đầu tiên hắn ta đưa lên một ngón tay, ý hỏi: Bao nhiêu một miếng đậu hũ. Con liền xòe ba ngón, tức là đồng bạc.

Hắn liền đưa ra năm ngón tay, tức là ngỏ ý mua năm miếng. Con nghĩ hôm nay bán ế, mình để giá vốn cho hắn, nên đưa lên mười ngón, ra giá là mười đồng. Thấy rẻ, hắn động lòng tham, đưa tay ra dấy hỏi mua hết cả thúng…Con nổi sùng hất tay bảo hắn ra chợ hỏi xem có ai chịu bán giá đó không? Còn thúng đậu ế này, thà rằng con đem cúng thầy làm chao cúng rằm cho có phước…

Từ đó, ông đồ không làm phiền Hòa Thượng nữa. Có lẽ ông đã nghe đầu đuôi câu chuyện, vì bác đậu hũ không phải là một người kín miệng cho lắm…

Như Thủy

Người làu thông pháp học và đọc thuộc lòng kinh điển mà không thực hành theo lời Phật dạy. Thì con người ấy tựa hồ như kẻ chăn bò, tay có đếm bò nhưng đó là bò của người khác.



#38 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 06:31

35. Phục Hổ Thu Đồ Đệ

Ở núi sau Cửu Hoa Sơn có một nhà sư trẻ bước tới, người đó cưỡi con quái thú, đi men theo con đường nhỏ dọc bờ sông, phía trước có một đôi chim bay lượn dẫn đường. Đó là đôi gà vàng, sống đã được ngàn năm ở trên vách đá Cửu tử. Vị Hòa Thượng này tên gọi Kim Kiều Giác, mười một tuổi đã xuất gia làm Tăng, vốn là người có họ gần với quốc vương nước Tân La (1).

Nghe nói người này là Địa Tạng giáng sinh, mới cưỡi quái vật qua đường biển tới Cửu Hoa Sơn khai lập ra Địa Tạng Vương đạo tràng. Con quái thú đó không phải con gì khác mà tên gọi là Độc Giác Thiểm Điện Thú. Con thú chớp điện một sừng tục gọi là Tứ Bất Tượng (2) nhìn được xa, chạy được nhanh, tất cả các loài dã thú đều phải sợ nó. Cho nên cưỡi nó đi thường để phòng địch.

Hôm ấy, Kim Địa Tạng theo Kim Kê (gà vàng), đến Cửu Tử Nhai, vừa nhìn đã thấy đây quả là nơi tu hành rất tốt. Kim vừa đi vừa nhìn không ngớt lời khen ngợi. Khi Kim vừa đặt chân lên một tảng đá lớn, còn chưa đứng vững đã nghe một tiếng nổ vang trời, núi sụt lở xuống một nữa. Kim Kê sợ quá bay mất một con, còn một con thì co đầu rụt lại không dám động đậy. Độc Giác thú rất tinh nhanh, không chờ Kim Địa Tạng rơi xuống chân núi đã vội vàng chạy tới trước mặt phò Kim Địa Tạng bay vút lên trời, trong nháy mắt đã tới Thiên đài.

Chưa đặt chân xuống đất đột nhiên gió yêu quái nổi dậy khắp bốn phương mây đen cuồn cuộn, cát bay đá chạy, sương mù đen kịt từng lớp. Chính trong lúc này, Kim Địa Tạng đã phát hiện ở trên vách đá có một hang núi lóe sáng. Độc Giác thú liền chui vào trong hang đặt chân. Trong hang có một chiếc đài đá, xán lạn đường hoàng, hang tuy không to nhưng quả là nơi tránh gió trú mưa tốt. Người lấy từ trong túi quyển kinh, đặt ở trên đài, rồi khoanh tay lại nhắm mắt đọc kinh.

- Cứu tôi với! Cứu tôi với!

Đột nhiên từ nơi xa truyền lại tiếng kêu cứu. Liền theo sau đó là tiếng gió thổi, hổ gào kinh thiên động địa. Kim Địa Tạng vội vàng ra khỏi động, nhìn về phía có tiếng hổ gào, thấy ở trên núi trước mặt có một con mãnh hổ đuổi theo một đứa trẻ con. Người xuất gia làm gì có đạo lý nhìn thấy người sắp chết mà không cứu! Nghĩ đến đây, Kim lập tức cưỡi lên con thú một sừng, kẹp chặt hai chân vào lưng thú nói:

- Đuổi!

Thú một sừng lập tức tung bốn vó bay lên trên không trung như người cưỡi mây đạp sương mù, đuổi theo mãnh hổ. Lúc này, đứa trẻ chạy thục mạng ở phía trước, mãnh hổ đuổi sát theo sau. Mắt nhìn, Kim thấy đứa trẻ sắp bị hổ ăn thịt, Kim Địa Tạng liền từ trên thú một sừng nhảy xuống, nói:

- Bắt con hổ dẫn lại gặp ta!

Thú một sừng liền nhằm thẳng vào mãnh hổ xông tới, một người hai thú chạy thành một sợi chỉ.

Đứa trẻ bị mãnh hổ đuổi đến mức mê man, phải chuyển hướng, lại nhìn thấy con quái thú một sừng cũng đuổi gấp, thật là sợ hết hồn hết vía. Chạy quanh mãi, quanh mãi, bỗng trước mắt xuất hiện một bức tường đá, chận mất đường đi. Mãnh hổ há hốc mồm to tướng đỏ lòm đầy máu chạy tới. Đứa trẻ sắp rơi vào miệng hổ. Bỗng một luồng chớp sáng, Độc giác thú uốn mình, đứng thẳng. Mãnh hổ vốn chẳng coi Độc Giác thú uốn mình, đứng thẳng. Mãnh hổ vốn chẳng coi Độc giác thú là cái thá gì, miệng hoác rộng gào to lên một tiếng, xô tới vồ.

Độc giác thú hơi né mình sang một phía khiến cho hổ vồ hụt. Đứa bé sợ đến mức không biết tiến lên hay lùi xuống, không biết nên tránh về hướng nào. Lúc này, từ bức tường đá bỗng nhiên xuất hiện một cửa hang, đứa trẻ vội vàng nấp vào trong đó. Mãnh hổ nhìn thấy, lại sợ mất miếng mồi đã kề tận miệng, cũng lui vào trong hang theo đứa bé. Ai ngờ, không chui vào hang thì thôi, vừa chi vào thì mãnh hổ đã sợ hãi. Chỉ nhìn thấy một luồng ánh sáng vàng chiếu thẳng làm cho mãnh hổ không thể động đậy được nữa. Té ra là Kim Địa Tạng đã chờ sẵn ở trong hang. Kim Địa Tạng phất áo cà sa, nhìn vào mãnh hổ nói:

- Nghiệt súc to gan! Cớ sao dám giết hại mạng người!

Tiếng nói vừa buông, lại có một đạo hào quang vàng chói chiếu thẳng vào mãnh hổ. Một tiếng thét lạ lung, con mãnh hổ lông vằn vừa nhảy nhót hung dữ, bỗng chốc đã biến thành một con hổ đá, vĩnh viễn không động đậy được nữa. Đứa bé nhìn thấy rõ ràng, hiểu rõ sự việc như thế nào, vội vã quỳ xuống trước mặt Địa Tạng, vái lạy lia lịa.

Kim Địa Tạng nhắm chặt đôi mắt, khoanh hai tay nói:

- A Di Đà Phật! Về nhà đi thôi!

Đứa bé nói:

- Thành tâm tu hành, không kể lớn bé. Một ngày sư phụ không bằng lòng thì một ngày đồ đệ con không dám đứng dậy.

Kim Địa Tạng không trả lời. Cứ xếp bằng ngồi trước mặt hổ đá, người chỉ nhắm mắt khoanh tay, miệng đọc chân kinh. Đứa bé đã quỳ suốt ba ngày ba đêm, không một lời kêu khổ. Kim Địa Tạng thấy đứa bé có tấm lòng thành mới mở miệng nói:

- Tuổi nhỏ lòng thành, ta nhận làm học trò. Hãy đứng dậy!

Địa Tạng nhìn thấy đứa bé mặt mày đoan chánh, đôi mắt có thần, cho nên đặt pháp danh cho nó là Đạo Minh. Đứa bé vui mừng liền sụp lạy. Đứa bé này không phải ai khác đó chính là con trai đại tài chủ Mẫn Công ở Cửu Hoa sơn. Đó là đồ đệ đầu tiên mà Kim Địa Tạng thu nhận ở Cửu Hoa Sơn.

***

Sau khi Kim Địa Tạng thu nhận Đạo Minh, thấy đồ đệ này rất nghe lời, trong lòng rất vui mừng. Hôm đó, người căn dặn Đạo Minh không được ra ngoài, phải trông coi ở trong hang, tĩnh tâm dưỡng tính. Bản thân người xuống núi hóa duyên, chuẩn bị xây chùa. Kim Địa Tạng khoác áo cà sa vừa ra khỏi hang đá đang định xuống núi thì có một ông lão bước thẳng tới, cong lưng vái lạy nói:

- Xin hỏi sư phụ, có nhìn thấy một đứa bé mặt tròn, mắt to không?

Kim Địa Tạng nhìn thấy ông lão mặc lụa đeo vàng, biết ngay là người giàu có liền chắp tay trả lời:

- A Di Đà Phật! Tìm nó có việc gì?

Ông lão này chẳng phải ai khác, mà chính là đại tài chủ Mẫn Công ở Cửu Hoa Sơn.

Mẫn Công nói:

- Chẳng phải là sư phụ đã nhìn thấy nó rồi ư? Nó là con trai của tôi. Mấy ngày rồi nó chưa về, làm tôi lo sợ muốn chết. Xin hỏi sư phụ, hiện nay cháu ở đâu?

Kim Địa Tạng nói:

- Đang ở trong hang.

- Tại sao không ra ngoài? Mẫn công hỏi.

- Vì cháu đã xuất gia theo bần Tăng rồi. Kim nói.

- Xuất gia ư? Mẫn Công nghe vậy vô cùng tức giận nói: Tôi chỉ có một đứa con trai, chỉ dựa vào nó để kế truyền nòi giống, sao có thể xuất gia được? Mong cầu sư phụ, hãy tha cho con trai tôi về. Mẫn Công nói rồi vái lạy liền liền.

Kim Địa Tạng nói:

- A Di Đà Phật! Bây giờ ông bắt nó trở về sợ rằng nó cũng không trở về đâu!

Mẫn Công vội quỳ xuống trước mặt Địa Tạng, van nài:

- Con tôi còn bé, nó không thể xuất gia được. Tôi muốn con trai tôi trở về!

Sau đó ông cụ hướng vào trong hang gọi to:

- Con ơi, về nhà với cha đi! Đôi mắt của mẹ con khóc sắp mù rồi! Con ơi! Có lẽ nào ngay đến cả gia đình con cũng không cần nữa. Cha van con, con hãy trở về nhà cùng với cha!

Đạo Minh ở trong hang nghe thế rất đau lòng, liền bước ra cửa hang quỳ xuống trước mặt người cha, đem chuyện gặp hổ được sư phụ cứu thoát, trước sau kể hết một lượt, lại nói rõ đã xuất gia rồi, quyết không về nhà nữa. Mẫn Công biết con trai mình là một người nói một không hai, liền lại quỳ xuống gập đầu vái lạy Kim Địa Tạng nói:

- Đại ân của sư phụ cứu sống con trai tôi, tôi quyết không dám quên. Cúi mong sư phụ đại từ đại bi tha cho con trai tôi trở về nhà, sư phụ cần gì tôi xin có nấy.

Kim Địa Tạng nói:

- A Di Đà Phật! Tôi đã là người tu hành, không cần cái gì cả, chỉ muốn mượn ở quý sơn đây một miếng đất để dựng chùa, đã là mãn nguyện lắm rồi.

Mẫn Công nói:

- Được! Được! Được! Ơn cứu sống con trai tôi của ân sư, đang không biết đền đáp như thế nào, đừng nói một miếng đất, dù có cần trăm miếng, ngàn miếng cũng xin tùy tiện. Chín mươi chín ngọn núi này đều thuộc tôi quản lý. Ân sư nhìn ưng chỗ nào, cần bao nhiêu tôi cho bấy nhiêu.

Kim Địa Tạng nói:

- Tôi chỉ cần một mảnh đất bằng chiếc áo cà sa thôi!

Mẫn Công cảm thấy kỳ lạ nói:

- Mảnh đất bằng chiếc cà sa thôi ư? Áo cà sa to được bao nhiêu? Ít ỏi quá! Để tôi dẫn ân sư đi chọn.

- A Di Đà Phật!

Kim Địa Tạng đứng dậy định đi, trước mặt tự nhiên xuất hiện một luồng ánh sáng thần. Người đi theo luồng ánh sáng thần ấy, Mẫn Công đi theo sau. Họ lên tới đầu ngọn núi, nhìn thấy luồng ánh sáng thần vòng quanh đầu núi một vòng, tiếp sau đó tỏa ánh sáng hào quang rực rỡ. Kim Địa Tạng cho rằng đây là thần linh tái hiện, đó là mảnh đất quý báu, liền luôn miệng niệm “Nam mô A Di Đà Phật” rồi hướng về bốn phương vái lạy liền liền.

Trái lại, Mẫn Công không nhìn thấy gì hết, chỉ thấy Kim Địa Tạng vái lạy tứ phương, cảm thấy rất kỳ quái, trong lòng nghĩ, có lẽ nào lão sư phụ nhìn thấy ở đây có vẻ hơi nhỏ một tí chăng?

Tức thì liền nói với Địa Tạng:

- Thưa ân sư, ngọn núi này hơi bé quá phải không?

- Không bé! Không bé!

Kim Địa Tạng lại hỏi:

- Nơi đây tên gọi là gì?

Mẫn Công nói:

- Nơi đây núi hoang ngọn nhỏ, làm gì có tên.

Kim Địa Tạng nói:

- Vừa ban nãy tôi nhìn thấy một luồng ánh sáng thần, vậy đặt tên là “Thần Quang Lĩnh” được không?

- Thần Quang Lĩnh à?

Mẫn Công nói:

- Được, được, được! Thế nhưng ngọn núi nhỏ này đã mấy đời nay chúng tôi đều không để ý tới, cũng chưa hề nhìn thấy thần quang, thế nhưng ở đây không được rộng lắm, tôi nghĩ, có lẽ ân sư nên chọn mảnh đất khác thì tốt hơn.

Kim Địa Tạng nói:

- Đây là Thần Quang bảo địa, hay là thí chủ còn có chút luyến tiếc chăng?

Mẫn Công vội nói:

- Ân sư nói điều gì lạ thế chứ! Không phải là tôi luyến tiếc đâu, nếu trao ngọn núi nhỏ bé này cho ân sư, quả thật là tôi rất áy náy. Những chỗ tốt đẹp hơn nơi đây còn rất nhiều. Vì sao ân sư lại chỉ thích ở chỗ này? Có lẽ nào ân sư thật lòng chỉ muốn một mảnh đất bằng một áo cà sa?

Kim Địa Tạng nói:

- Bần Tăng nói lời thật đó!

Mẫn Công nói:

- Vâng được! Vâng được! Xin tuân ý ân sư.

- Thí chủ đã bằng lòng, chỉ cần mảnh đất bằng một áo cà sa, nhiều hơn một chú cũng không cần.

Kim Địa Tạng vừa nói vừa trải chiếc áo cà sa xuống, vặn mình một cái, áo bay lên không. Cà sa lập tức biến thành cái võng trời, bỗng chốc chụp kín hết cả chín mươi ngọn, lại còn chụp thêm cả một nữa thành Thanh Dương. Thành Hoàng lão gia nhìn thấy ánh sáng thần chiếu tới, sợ quá phải chạy ra ngoài thành. Cho nên miếu Thành Hoàng của Thanh Dương ở ngoại thành là vì lẽ đó. Ngọn Thần Quang cũng thành tên từ đó.

Mẫn Công nhìn thấy Kim Địa Tạng Phật pháp vô biên, vội vã sụp quỳ xuống đất vái lạy nói:

- Ân sư bề trên xin nhận của đồ đệ một vái. Khẩn cầu sư phụ thu nhận con làm đồ đệ!

Và như vậy Mẫn Công đã là đồ đệ thứ hai của Kim Địa Tạng. “Tiên tiến sơn môn vi Trưởng lão”, (Ai đến cửa núi trước thì được làm Trưởng lão trước) cho nên Mẫn Công đã gọi con trai là sư huynh để cho nó đứng bên tả. Mẫn Công là sư đệ, đứng ở bên hữu Kim Địa Tạng.

Mẫn Công không những đã đem hết gia sản cúng cho Kim Địa Tạng xây dựng chùa, mà còn đến tất cả các đại tài thân cư sĩ ở Thanh Dương quyên cúng để hóa duyên dựng chùa. Các cư sĩ lên núi gặp Kim Địa Tạng, thấy ngài ở hang đá, nuốt đất trắng, ăn bột vàng, từ nơi xa xôi vạn dặm đến khổ tu ở Cửu Hoa Sơn, về nhà cũng đem cúng hết vàng bạc cùng hợp lực với Mẫn Công xây nên chùa Hóa Thành, mời Kim Địa Tạng dọn vào trong chùa ở.

Bắt đầu từ đó Cửu Hoa Sơn đã trở thành Địa Tạng đạo tràng, biến thành thánh địa của Phật giáo. Ở Cửu Hoa Sơn chùa miếu mọc lên nhiều như cây rừng, Tăng Ni có hàng ngàn hàng vạn, hương khói nghi ngút quanh năm không tắt, cho nên còn có tên gọi là “Nước Phật Liên Hoa”. Hoa sen của nước Phật

Truyện Bồ Tát

Địa ngục còn tội nhân

Ta thề chưa thành Phật.

[1] Tân La: nay gọi là Triều Tiên

[2] Độc Giác thú: Phật giữ gọi là Đế Thích Tứ Bất Tượng tức là con nai lộc, sừng giống hươu, đuôi giống lừa, móng giống trâu, cổ giống lạc đà, nhưng nhìn toàn bộ thì chẳng giống thú nào cả, tính hiền, ăn thực vật, rất hiếm thấy, rất quý.



#39 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 09:36

36. Con Khỉ Nhân Từ

Ðời xưa, có một con khỉ lớn, sức lực mạnh mẽ, trí não thông minh và lòng nhân từ của nó chưa chắc người đã bì kịp (tiền thân của Ðức Phật Thích Ca) nó đi khắp cả rừng cây này, núi nọ để cứu giúp những kẻ gặp cơn hoạn nạn.

Một hôm, đang ngồi ăn trái ở trên cây, nó nghe có tiếng than khóc ở trong cái hang đá đưa ra. Ngạc nhiên nó nhảy đến nhìn xuống hang, thì ra một người bị rơi xuống đáy mà chẳng có đường lên. Nó tìm lối xuống hang rồi nói rằng: “Anh kia, anh đừng sợ hãi. Tôi xuống để cứu anh đây. Anh cứ leo lên lưng tôi để tôi cõng anh ra”.

Người bị nạn trong lòng sợ hãi, nhưng cũng liều trèo lên lưng khỉ. Khỉ lần mò vịn từng cành cây khớp đá, cố đem hết sức lực mới ra khỏi hang. Cả hai cùng mừng rỡ nhưng vì quá mệt mỏi, phải nằm lăn trên thảm cỏ xanh, dưới một bóng cây to để nghỉ cho lại sức. Gió hiu hiu đưa người và khỉ vào giấc ngủ say. Khi tỉnh dậy, người vừa được cứu thoát nạn nghĩ thầm: “Ta lâu nay đói khát và đường về nhà còn xa xôi, đồ ăn chẳng có, chi bằng trong lúc con khỉ đang ngủ ta lén giết quách, lấy thịt ăn qua ngày”.

Người ấy liền lấy một hòn đá to ném vào đầu khỉ. Khỉ bị thương máu ra lai láng, liền nhảy lên cây, nhìn xuống, nó biết người kia cố tâm hại mình lòng ngao ngán nhưng không giận hờn. Nó đau đớn nhìn con người ác độc ấy và để rơi từng giọt nước mắt theo từng giọt máu đỏ xuống đám cỏ xanh. Một hồi lâu, nó liền chuyền qua cây khác đi mất.

Lược sử Phật Tổ

Hãy tưới tình thương và đức độ xuống hận thù.

Ðừng bao giờ lấy gươm giáo trả lời với gươm giáo.

Hãy sống cuộc đời Chư Phật, Hỷ Xả, Từ Bi.


Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 22:41


#40 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 09:40

37. Người Không Tai, Mắt, Mũi, Lưỡi

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn đang trú tại nước Xá Vệ, Tịnh xá Kỳ Ðà diễn giảng đạo lý cho chúng Tỳ Kheo.

Có một gia đình trưởng giả, sinh được năm người con, nhưng toàn là con gái, chẳng có thằng con trai nào hết. Trong lúc bà đang mang thai người con thứ sáu thì chẳng may ông trưởng giả chết.

Theo luật nước nếu sau khi người cha chết rồi mà gia đình ấy không có con trai để thừa hưởng gia tài, thì của cải đó được sung công vào kho nhà nước.

Sau khi ông trưởng giả qua đời, thì chính quyền địa phương đến lập thủ tục giấy tờ tịch thu tài sản, sung công quỹ. Nhưng người con gái lớn không cho và đến tâu vua:

- Tâu bệ hạ, cha con mới mất, gia đình con hiển nhiên hiện giờ là không có con trai rồi, nhìn mẹ con còn đang mang một người con trong bụng, biết đâu sau này là con trai thì sao. Vậy mong ơn Vua xin hẹn lại một thời gian, say khi mẹ con đủ ngày, đầy tháng, chừng ấy quả thiệt là chẳng muộn. Vua nghĩ có lý bèn nói:

- Con nói có lý, ta sẽ cho quan địa phương dừng lại.

Chăng bao lâu, bà trưởng giả hạ sanh một cậu con trai, nhưng tiếc thay chẳng có tai mắt mũi lưỡi gì cả, chỉ có hình dáng như người con trai nên gọi là con trai mà thôi, bèn đặt tên là Man Từ Tỳ Lê.

Dù chẳng đầy đủ bộ phận con người, nhưng cũng là trai, nên tài sản đó không bị nhà nước tịch thu làm của công.

Tuy được một người em trai, nhưng người chị chẳng hài lòng tí nào cả, mặc dù tài sản vẫn còn nguyên, vì đứa em trai chẳng giống vật chỉ mà cũng mang dành hưởng trọn một gia tài đồ sộ, cô chán nản cho thân gái bèn bỏ nhà ra đi làm kẻ hầu hạ cho người: Khi nấu ăn, khi dâng nước, chẳng khác như đứa tớ gái.

Gần đó có một nhà trưởng giả, ông thấy vậy bèn hỏi:

- Nhà con giàu có, đâu phải nghèo hèn gì, tại sao không ở nhà mà thụ hưởng, tiêu xài mà phải ra thân tôi tớ cực nhọc vậy?

- Thưa ông, cha con vừa chết, của cải đầy kho đụn, mà chị em chúng con đều là con gái, nên của kia bị Vua thu làm công, nhưng may sao mẹ con vừa hạ sinh được một đứa con trai, nhưng nghiệt nỗi chẳng có tai mắt mũi lưỡi gì cả, nhờ vậy mà tài sản khỏi bị tịch thu. Em trai của con được trọn quyền sử dụng, nhìn thấy vậy mà buồn tủi cho phận gái vô duyên, chẳng bằng một người con trai mà chẳng ra người nên thân con mới ra nông nỗi này.

- Buồn làm gì vô ích, con muốn thoát khỏi thân gái bây giờ hãy tạo nhân lành, làm phước để kiếp sau sanh làm con trai khôi ngô tuấn tú, vậy giờ con hãy đi với ta đến chỗ Phật.

Hai ông cháu cùng đi đến yết kiến Thế Tôn.

- Kính bạch Thế Tôn, Man Từ Tỳ Lê được phước duyên gì mà sinh vào nhà giàu sang, phú quý, nhưng bạch Thế Tôn, bị tội gì mà sinh làm thân người mà chẳng đủ lục căn, xin Thế Tôn chỉ dạy.

- Lành thay, trưởng giả, về đời quá khứ có hai anh em sanh vào một gia đình giàu có, người anh tên là Ðàn Nhã Thế Chất người em tên là Thi La Thế Chất.

Người anh nết na thuần hậu, trung chánh và hay bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo cùng, bởi vậy nên được mọi người trong nước kính nể, tôn trọng, về sau được Vua chọn vào triều giữ chức bình sự, để sử lý việc kiện tụng của dân.

Theo luật bấy giờ, những người vay nợ, chẳng có giấy tờ bút mực gì cả, mà hai bên đều đến quan bình sự làm chứng cho là được.

Lúc ấy, nhà Thi La Thế Chất giàu sang cho vay tiền lãi. Hôm ấy, có người lái buôn đến vay ông một số tiền khá lớn để đi buôn. Ngày giao tiền cả hai cùng đến trước quan bình sự để làm chứng. Khi đi Thi La Thế Chất dắt theo hai đứa con trai nhỏ, nói với anh rằng:

- Em chỉ có đứa con trai này, vậy sau này em có chết đi, thì món nợ người lái buôn mượn trả lại cho nó. Xin anh làm chứng cho.

- Em đừng lo, không sao đâu, sau này ông ta sẽ trả lại cho cháu, miễn sao ông đi được tốt đẹp và trở về an toàn là hay.

Sau thời gian chẳng bao lâu, Thi La Thế Chất qua đời, để lại tài sản cho vợ và con, còn người lái buôn kia không may, khi thuyền ra biển bị trận bão đánh đắm tàu tất cả, ông bám vào khúc gỗ và gió thổi tạt vào bờ.

Người con trai của Thi La Thế Chất hay được tin ấy lấy làm thương tình, nên khi gặp lại người lái buôn cũng chẳng đòi nợ.

Thời gian sau có người lái buôn khác, cho mượn vốn và dẫn ông ta đi để đền bù lại chuyến thất bại trước. Rất may, chuyến này gặp tốt đẹp hoàn toàn, vàng bạc, châu báu chở đầy tàu. Thế là ông ta phát tài lớn. Ông mời họ hàng anh em vui say, thanh toán món nợ của người lái buôn cho mượn vừa rồi, nhưng còn món nợ của Thi La Thế Chất thì không trả. Ông nghĩ: “Chuyến trước mình về chẳng thấy đứa con trai ông đòi hỏi gì, có lẽ khi mình với cha nó giao ước mượn tiền thì nó còn nhỏ quá nên không nhớ, hoặc là thấy mình buôn bán lỗ lã nên không đòi, vậy mình thử cậu bé có còn nhớ hay không”.

Hôm đó ông mặc áo đẹp, cưỡi ngựa đi chợ, gặp cậu con trai Thi La Thế Chất, cậu trai hỏi:

- Người lái buôn, bây giờ ông đã phát tài lớn rồi, vậy hãy trả lại số tiền mượn khi trước của cha tôi đi.

Ông ta giả đò vớ vẩn rồi đáp:

- Nào tôi có mượn tiền của cha cậu hồi nào đâu, hay là ai, cậu nhầm ư?

Trở về nhà, ông ta liền lấy một viên ngọc đi ngay đến nhà quan bình sự, nhét viên ngọc vào tay vợ quan, thưa rằng:

- Thưa bà quan lớn, khi trước tôi có vay của ông Thi La Thế Chất một số tiền nên bây giờ con ông theo đòi, mà hiện giờ gia đình tôi túng thiếu nên không trả nổi, vậy thằng con trai ấy đến kiện tụng, thì xin bà nói giúp giùm quan lớn để cho qua, tôi khỏi trả số nợ ấy.

- Ôi! Quan lớn nhà tôi trung trực lắm anh ơi! Tôi không giám đâu.

Nhưng ông ta theo năn nỉ mãi nên bà ta cũng động lòng, chấp nhận. Ðến tối, vợ đem câu chuyện ấy thuật lại cho chồng nghe, chồng gạt phắt đi và nói:

- Bà chỉ làm việc rầy rà, bà có biết nó là cháu tôi, hơn nữa tôi là người thành thực liêm chính, nhà Vua tin dùng, giờ này bà biểu tôi làm điều càn dở hay sao, mai nó có đến, sai lính đuổi đầu nó ra.

Sáng ngày người lái buôn lại lóc ngóc đến, vợ quan lớn thấy liền nói rằng:

- Không được ông ơi, tôi nói rồi nhưng chồng tôi không nghe, còn la tôi nữa.

Thấy bất ổn người lái buôn lòi ra hai viên ngọc nữa và nói rằng:

- Xin bà lớn giúp giùm cho một phen nếu giả như rằng con trai kia có kiện tụng và số tiền bồi thường ấy bà cũng đâu có dùng được. Bà cầm tất cả đi, xin bà thương cho trăm sự nhờ bà.

Nghe êm tai, và lòng tham nổi dậy bà hứa sẽ giúp.

Tối đến quan lớn làm việc về, cơm nước xong xuôi, vào phòng khách ngồi nghỉ, bà lẽo đẽo theo sau và nói với chồng:

- Này mình, đó là việc nhỏ mọn mà, mình giúp tí thôi, có gì mà liêm chính quá.

- Không có lý như vậy, tôi là người thiên hạ tin dùng, nếu tôi làm điều gian dối, ăn hối lộ thì đời nay không ai tin tôi, rồi đời sau đọa vào địa ngục để trả nợ, biết chừng nào cho xong. Bà hãy dẹp đi, đừng nói nữa.

Ðứng phắt dậy, ông bỏ vào phòng ngủ.

Lúc ấy đôi vợ chồng sinh được một mụn con trai chưa biết đi. Bà bèn lập mưu bế con vào phòng giận dỗi:

- Tôi với mình kết duyên với nhau hai thân như một, gặp việc dù đến chết cũng chẳng thể rời nhau và cũng chẳng lúc nào trái ý, huống nữa đây là một việc chẳng đáng kể, trọn quyền nắm trong tay mình, vậy mà tôi đã hết lời năn nỉ mà mình chẳng chiều tôi một chút, vậy mà tôi sống làm gì cho bận lòng mình, tôi giết con trước rồi sau tự sát cho xong đời tủi hổ này.

Quan bình sự nghe vợ nói quyết liệt như vậy, như nhát búa bổ vào đầu, nghẹn vổ họng, thầm nghĩ: “Ta chỉ có một mụn con, nếu chết rồi thì ai nối dòng gia thất, còn nếu chiều theo bà vợ oan nghiệt này thì trái pháp luật, làm điều xằng bậy, đời này bị phỉ nhổ, rồi đời sau chịu quả báo khổ muôn kiếp. Thật là một việc nan giải, từ chối cũng không được mà nhận lời cũng chẳng yên”. Cuối cùng buộc lòng ông phải đáp:

- Thôi bà cứ yên tâm.

Thấy chồng chấp nhận bà vui mừng, sáng hôm sau gặp người lái buôn, bà hớn hở nói:

- Mọi việc đều xong, quan lớn nhận lời rồi, ông khỏi lo.

- Thật cám ơn bà muôn vạn, quý hóa quá, nhờ bà tận tình giúp đỡ.

Sáng hôm sau người lái buôn thức dậy, mặc áo quần bảnh bao, đeo vòng vàng ngà ngọc, cưỡi ngựa đi vào chợ, cậu bé con trai Thi La Thế Chất thấy mình ông đeo vòng vàng, ngà ngọc thầm tưởng chắc ông ta mang đến trả nợ cho mình, nhưng một đỗi chẳng thấy ông nói gì hết và có vẻ làm lơ, cậu bèn chạy lại hỏi:

- Này người lái buôn, tiền nợ của cha tôi khi trước ông nên trả cho tôi đi chớ!

- Ô kìa, cậu bé, ai vay nợ cha cậu hồi nào?

- Ông quên rồi hả? Có quan bình sự làm chứng mà!

- Tôi không biết, cậu có muốn cứ trình quan.

- Vậy ông theo tôi.

Hai người bèn đi đến trước quan bình sự.

Hai người bèn đi đến trước quan bình sự.

- Thưa bác, ông lái buôn nầy ngày trước có vay tiền của cha con để đi buôn và khi ấy bác làm chứng, lúc ấy cũng có con nữa. Vậy mà bây giờ con đòi, ông nói chẳng có vay mượn chi cả. Xin bác giải quyết dùm con.

- Nầy cháu, bác có nghe nói gì đâu? Hay là cháu nhầm ai rồi! Thôi cháu nghe lời bác, hãy bỏ qua đi, đừng rầy rà nữa.

- Không, chính bác đã quên chứ cháu không có nhầm đâu, hôm đó bác có đưa tay chỉ và nói với cha cháu rằng: “Ðược rồi không sao đâu, chú cứ yên lòng cho họ vay, miễn họ đi về được yên lành thì tốt”. Vậy mà bây giờ bác bảo là không thấy, không nghe, không chỉ, không nói gì.

- Bác là người xử đoán công minh, luật pháp rõ ràng, lẽ nào bác lại ép cháu. Thôi cháu chớ có nhiều lời.

- Thưa bác, bác là người liêm chính, trung thực nhà Vua cử làm Quan bình sự, ai ai cũng tin dùng bác, còn tôi, tôi là cháu ruột của bác mà bác xử ngược lý như vậy thì người ngoài ra sao nữa, bác sẽ ép họ đến mức nào. Nhưng riêng cháu, cháu cũng chẳng biết điều phải lẽ trái như thế nào, thôi thì, đời sau sẽ rõ.

Thuyết giảng đến đây, Ðức Thế Tôn nhắc lại:

- Nầy Trưởng Giả, Quan bình sự thưở trước nay chính là Man Từ Lê Tử, chịu phải quả báo không tai mắt mũi lưỡi, bởi do một lời nói dối và giả bộ làm ngơ lúc đó, nhưng cũng vì hay giàu lòng bố thí nên được phước thọ sanh nhà giàu sang, phú quý và làm chủ một gia tài đồ sộ như thế.

Sự báo ứng thiện ác rõ ràng, hãy cẩn thận miệng lưỡi chớ nói càn mà mang họa.

Giới Ðúc

Kiếp này nợ trả chưa xong

Làm chi thêm đỡ nợ chồng kiếp sau.


Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 22:51


#41 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 13/07/2012 - 10:05

38. Tai Hại Của Sân Hận

Thuở xưa, tại thành Ba La Nại dưới quyền thống trị của Ðức Vua Ki Ta Va Sa, Ngài là một minh quân, thương yêu dân chúng như con ruột của mình.

Hiền nội của Ngài là một trang tuyệt sắc giai nhân, đủ tài cầm kỳ thi họa. Trong chuỗi ngày hạnh phúc trọn vẹn ấy, Hoàng Hậu thọ thai, thật là một tin lành khiến cho Hoàng gia và dân chúng vui mừng không sao tả xiết. Ðức Vua Ki Ta Va Sa vốn đã thương yêu Hoàng Hậu, bây giờ lại quý mến hơn, và hằng gia tăng lễ bái cầu nguyện thường xuyên hơn, tự thân Ngài chăm sóc từng miếng ăn thức uống của nàng, cho đến màn nệm gối loan thật êm ấm, thật tinh khiết. Một đoàn ngự y được lệnh túc trực bên Hoàng hậu để theo dõi sức khỏe, từng biến chuyển của Hoàng Hậu và thai nhi.

Thời gian thấm thoát trôi qua, ngày khai hoa nở nhụy đã đến, Ðức Vua Ki Ta Sa Va cùng Hoàng tộc hết sức đợi chờ, dân chúng Ba La Nại đều kéo về Hoàng Cung, hàng vạn dân chúng tụ tập quanh Hoàng thành để chờ đợi tin mừng, thời gian hình như lắng đọng. Khi tiếng loa tin Hoàng Hậu trổ sanh Hoàng Tử thì tiếng reo mừng của dân chúng vang trời dậy đất. Mọi người ôm nhau nhảy nhót hò hét như điên để biểu lộ niềm vui tột cùng ấy. Nhưng người sung sướng nhất hôm nay phải kể là Ðức Vua Ki Ta Sa Va. Ngài truyền lệnh dân chúng kết hoa ăn mừng, một đại tiệc được tổ chức sau đó, Hoàng Tử mới ra đời được chọn một tên thật đẹp là Ðút Tha Ku Ma Ra.

Một vị tiên tri đại tài được mời đến, sau khi quan sát Thái Tử nhiều lượt, nét mặt nhà tiên tri bỗng thoáng vẻ âu sầu. Ðức Vua liền phán hỏi:

- Khanh xem tướng Thái Tử như thế nào mà lộ vẻ lo âu như vậy?

- Vị tiên tri ngập ngừng:

- Tâu Hoàng Thượng… Tâu Hoàng Thượng…

Ðức Vua nóng lòng hỏi:

- Hoàng Tử thế nào? Khanh cứ trình bày, ta sốt ruột lắm!

Vị tiên tri đáp:

- Muôn tâu Bệ hạ, hạ thần không muốn vì một lời nói của mình làm suy giảm cuộc vui hôm nay.

Ðức Vua vội nói:

- Kể từ các vị Tiền Ðế dựng nước đến nay, dòng dõi của ta là một chủng tộc anh hùng, chỉ biết chiến thắng không hề biết chiến bại, ta và chủng tộc bao giờ củng nhìn thẳng vào sự thật, Khanh cứ tâu trình đi, đừng ngại chi cả.

- Muôn tâu Hoàng Thượng, sau nầy Hoàng Tử sẽ lìa đời một cách khổ sở lắm.

- Khổ sở đến mức nào?

- Kính tâu, Hoàng Tử sẽ lìa trần bởi khát nước.

Ðáp xong vị Tiên tri xin phép cáo từ, Ðức Vua cho tùy tùng đưa vị Tiên Tri đến nơi cư ngụ.

Vốn biết tài tiên đoán của vị Tiên Tri không bao giờ sai. Ðức Vua cho triệu tập bá quan một phiên họp khẩn cấp, tại Kim Loan điện. Hôm ấy, bầu không khí thật u buồn và nghiêm trọng. Ai ai cũng hiểu rằng, Hoàng Tử bây giờ không phải riêng của Ðức Vua và Hoàng tộc mà sinh mạng của Hoàng Tử bây giờ gắn liền với niềm hy vọng của toàn thể dân tộc này. Bá quan ai cũng thi nhau đưa những ý kiến hay nhất của mình. Cuối cùng một kế hoạch tỉ mỉ được thảo ra với niềm hy vọng lớn sẽ ngăn ngừa những điều tai hại xảy đến cho Hoàng Tử.

Một mặt Ðức Vua truyền lệnh cho đào giếng trong và ngoài thành, trữ nước bằng lu để trong các chòi lá rải rác theo dọc đường. Một mặt Vua ra lệnh cho các nơi gia tăng nguyện cầu mong được nhiều sự an lành đến cho Thái Tử. Nhưng than ôi! Nghiệp chướng của Hoàng Tử Ðút Tha Ku Ma Ra quá sâu dày, cho nên bây giờ dù muốn chuyển nghiệp cũng rất khó, những nghiệp ác đó đã tạo phải trả không sai vậy.

Thời gian thấm thoát trôi qua, Hoàng Tử Ðút Tha Ku Ma Ra lớn dần trong sự vui mừng của Ðức Vua, Hoàng Hậu cùng Hoàng tộc, nhưng ai cũng lo lắng không hiểu đại họa chừng nào sẽ đến cho Hoàng Tử.

Càng lớn lên Ðút Tha Ku Ma Ra cũng tỏ ra thông minh đĩnh ngộ, văn võ song toàn, nhưng trước sự nuông chiều của Ðức Vua cùng Hoàng Hậu và sự kính trọng của mọi người, lòng kiêu hãnh cũng lớn dần theo thời gian. Bao giờ Ðút Tha Ku Ma Ra cũng nghĩ rằng ngoại trừ phụ vương và mẫu hậu, ai ai cũng phải cúi đầu trước mặt chàng.

Cách kinh thành Ba La Nại không xa, một khu lâm viên tươi tốt, thú rừng rất nhiều. Dân chúng không được phép bén mảng đến đấy, khu lâm viên này chỉ dành cho Hoàng tộc, Hoàng Tử Ðút Tha Ku Ma Ra rất thường đến đây tha hồ bắn giết không một chút nương tay. Trong xứ ấy dân chúng rất tôn trọng những nơi tu hành này. Các vị tu sĩ kể từ các triều đại trước, những ngôi tu viện luôn luôn được nhà Vua xây dựng và bảo hộ, những vị tu sĩ luôn luôn được tôn trọng, vì họ hiểu rằng có như thế các vị Thánh nhân mới đủ cơ duyên ra đời, bởi một nước nào nơi tôn thờ được giữ gìn có các vị Thánh nhân xuất hiện, xứ ấy sẽ hưởng thanh bình an lạc, mưa gió thuận hòa, thiên tai sẽ không đến, và triều đại sẽ rất bền vững.

Một hôm Hoàng Tử Ðút Tha Ku Ma Ra cùng đoàn tùy tùng đến khu lâm viên săn bắn, Ðút Tha Ku Ma Ra rất thích khu rừng này vì nơi đây có đủ muông thú để thỏa mãn lòng hiếu sát của chàng.

Ngược chiều với đoàn xa giá, một vị Phật Ðộc Giác lặng lẽ ôm bát vào thành khất thực, trước vẻ trang nghiêm và oai nghe tế hạnh của vị Bích Chi Phật, những tư tưởng an lành của ngài luôn luôn phát tiết, khiến mọi người khi nhìn Ngài cảm thấy hoan hỷ lạ thường. Không ai bảo ai, đoàn tùy tùng đồng loạt chắp tay cung kính hướng về Ðức Phật Ðộc Giác đảnh lễ.

Hoàng Tử Ðút Tha Ku Ma Ra thấy thế, lòng sân hận nổi lên như thác lũ, nghĩ rằng bọn tùy tùng ấy chỉ được phép cúi đầu trước mặt mình mà thôi, bây giờ trong khi đi vời mình mà ngang nhiên cúi đầu trước lão tu sĩ này.

Nhanh nhẹn rời lưng voi, tiến đến trước mặt Ðức Phật Ðộc Giác giựt lấy bình bát trên tay Ngài quăng xuống đất rồi dẫm lên cho bể. Ðoàn tùy tùng kinh ngạc lẫn hãi hùng trước hành động quá ngông cuồng của Thái Tử nên không ai kịp can gián điều gì.

Với lòng bi mẫn, nghĩ rằng hành động tội lỗi vĩ đại như thế sẽ gây nhiều thảm họa cho kiếp hiện tại và kiếp vị lai, nên Ðức Phật Ðộc Giác nhìn Hoàng Tử với đôi mắt từ bi vô lượng.

Không một chút hối hận ăn năn, Thái Tử cất lên một chuỗi cười ngạo nghễ và khiêu khích:

- Này lão Sa môn kia, ông biết tôi là ai không?

- Ðức Phật Ðộc Giác vẫn yên lặng.

Hoàng Tử nói tiếp:

- Ta là Hoàng Tử Ðút Tha Ku Ma Ra con của Ki Ta Va Sa đây.

Vị Ðộc Giác Phật vẫn lặng yên không nói gì, Ðút Tha Ku Ma Ra thao thao bất tuyệt:

- Lão có giận ta không? Lão hãy mở mắt nhìn ta cho kỹ. Xem bộ dạng ông như thế mà dám làm gì ai.

Ðức Phật Ðộc Giác vẫn thản nhiên yên lặng, Ngài đành chịu đói và vận thần thông bay về núi Nam Dra Mu Ha Ka.

Không còn hứng thú trong việc đi săn đó nữa, Hoàng Tử truyền lệnh cho đoàn tùy tùng trở lại hoàng cung. Ðoàn tùy tùng nặng nề luy bước, ai ai cũng lo sợ vì nghiệp dữ quá nặng nề mà Hoàng Tử mới tạo.

Trên đường về, Hoàng Tử bỗng cảm thấy nói năng lạ thường, sức nóng ngày càng tăng, cảm thấy khát nước. Hoàng Tử truyền lệnh cho đoàn tùy tùng tìm nước uống, nhưng do nghiệp lực quá nặng nề khiến hồ ao giếng đều khô cạn, đoàn tùy tùng tìm mãi không được một giọt nước nào, trong khi ấy Hoàng Tử đang lăn lộn la hét:

- Nước! Nước! Hãy cho ta uống nước. Ôi! Khát nước quá! Có lẽ ta chết mất!

Dù tận tâm tận lực, đoàn tùy tùng vẫn không tìm ra chút nước nào, thậm chí đến một giọt cũng không có.

Chịu khát không nổi, Ðút Tha Ku Ma Ra quằn quại khổ sở, cuối cùng trút linh hồn.

Sau khi lìa trần, linh hồn Hoàng Tử bị đọa vào địa ngục A Tỳ chịu khổ không sao tả xiết.

Giới Ðúc

Giận lên là phát cơn điên

Người khôn hóa dại, người hiền hóa ngu.


Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 22:56


#42 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 17/07/2012 - 19:40

39. Tìm Thánh Tăng

Tại một ngôi chùa Trung Quốc hồi xưa, có một vị sư nổi tiếng về hạnh ở dơ. Thầy lại không đủ điều kiện thân tướng trang nghiêm để thọ giới, vì thế mặc dù ở chùa đã lâu, thầy vẫn giữ chức vụ của chú tiểu là làm các công việc ở nhà vệ sinh và trong bếp, ngoài vườn. Tất cả những công việc nặng nhọc dơ dáy đại chúng đều giao cho thầy phụ trách. Thầy làm tất cả mọi sự với tâm hoan hỷ, không phàn nàn, lúc nào nụ cười cũng nở trên môi. Mặc dù y phục rách rưới dơ dáy nét mặt thầy luôn luôn rạng rỡ, có điều đáng phàn nàn nhất về thầy là mặc dù đã lớn tuổi, không còn bé bỏng gì, thế mà thầy luôn luôn để mũi chảy thò lò như một cậu bé, không chịu lau chùi, không bao giờ rửa mặt. Cho nên, tuy thầy rất dễ thương, cũng ít ai dám đến gần vì nhờm gớm. Mỗi khi các bạn đồng tu đề nghị:

- Xin chú mày làm phúc quẹt mũi giùm đi. Dơ dáy lắm.

Thầy chỉ cười hề hề:

- Em không có thì giờ quẹt mũi, Sư huynh ạ!

Rồi bỏ đi một nước. Một hôm, nhân ngày lễ Vu Lan, nhà vua thỉnh tất cả chư Tăng trong chùa không chừa vị nào, vào cung để dự trai Tăng. Nhà vua tha thiết yêu cầu vị Hòa thượng đừng để một vị nào ở chùa, vua sẽ cho người đến giữ chùa trong thời gian Tăng chúng vào cung.

Sở dĩ nhà vua muốn như vậy là vì Ngài có dụng ý. Vua vốn là người mộ đạo tha thiết, cầu gặp Thánh Tăng để khai thị cho mình yếu nghĩa bộ kinh Kim Cang. Do lòng chí thành, một hôm vua được thần nhân báo mộng trong ngôi chùa lớn có vị Thánh Tăng, hãy thỉnh về cung thuyết pháp. Tỉnh dậy, nhà vua hoang mang không biết Thánh Tăng ấy là ai, trong ngôi chùa đông cả ngàn Tăng chúng đó. Sau một hồi bàn luận với cận thần, vua được bày một mưu kế hay ho và vội thực hành ngay kế đó để tìm gặp Thánh Tăng. Thế là vua cho sửa soạn một buổi trai Tăng cúng dường toàn thể Tăng chúng trong ngôi chùa nọ.

Về phần Tăng chúng trong chùa, họ bàn nhau:

- Hôm nay vua thỉnh toàn thể Chư Tăng vào cung thọ trai không chừa một vị nào ở lại giữ chùa. Nghĩa là phải cho cái chú ở dơ của mình đi theo. Chú ấy chưa thọ giới, vậy trong khi chúng ta đắp y đi có hàng ngũ chỉnh tề thì hãy để chú ấy đi một mình sau rốt khỏi mất thể diện chúng Tăng.

Tăng chúng bằng lòng theo sự sắp đặt ấy và báo tin cho chú ở dơ sửa soạn theo hầu chư Tăng vào cung dự lễ. Họ không quên dặn chú làm phúc quẹt mũi giùm trước khi ra đi. Chú cười hề hề:

- Dạ được rồi, quý huynh đừng lo. Lần này em xin lau mặt mũi sạch sẽ để theo hầu quý sư huynh.

Vua và đình thần đứng xếp thành hàng rào danh dự đón chư Tăng đông đủ uy nghi từ từ bước qua cổng chính để vào cung. Mặt nhà vua hơi lộ vẻ thất vọng khi thấy gần hết chư Tăng đều điềm nhiên bước qua cổng lớn. Khi người cuối cùng của hàng dài Tăng chúng đắp y đã đi qua cửa cung, sắp có lệnh đóng cửa, thì một vị sư không đắp y, ăn mặc dơ dáy ở đâu nhảy bổ tới, lộn nhào hai ba vòng để tránh dẫm chân lên ngưỡng cửa, vừa lẩm bẩm nói một mình:

- Chết chửa! Ai dám dẫm chân lên pháp bảo của Như Lai.

Vua và đình thần quỳ mọp xuống trước vị Thánh Tăng, dâng bộ y quý giá:

- Ngưỡng bạch Hòa thượng, đệ tử xin cung thỉnh người thăng pháp tòa, để chúng con được ân triêm pháp nhủ.

Thánh Tăng bước lên pháp tòa dành sẵn, giảng kinh Kim Cang như nước chảy hoa bay cho tất cả đại chúng và triều đình. Ðến đoạn: “Ly nhứt thiết chư tướng tức danh chư Phật” nhà vua thoát nhiên đại ngộ.

Sau thời thuyết pháp nhà vua quỳ sám hối trước đại chúng. Vì lòng tha thiết cầu gặp Thánh Tăng, nhà vua buộc lòng phạm đến pháp bảo bằng cách chôn một quyển kinh Kim Cang ngay lối vào cung điện. Với kế đó, nhà vua đã tìm ra vị Thánh Tăng trong hơn nghìn Tăng chúng, ấy là vị có thần thông biết được chỗ chôn kinh và tránh dẫm chân lên pháp bảo bằng cách lộn nhào qua cửa ngọ môn.

Thích Nữ Trí Hải

Nhạn lướt mặt hồ không để bóng

Gió luồng khóm trúc chẳng lưu vang.

Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 22:58


#43 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 17/07/2012 - 20:01

40. Tai Hại Của Lòng Tham

Thời Ðức Phật còn tại thế, một hôm Ngài cùng A Nan đi du hóa tại một vùng quê, Ðức Phật đang đi trên đường bỗng Ngài bước đi bên bờ cỏ. A Nan ngạc nhiên, tự nghĩ: “Ðức Thế Tôn không bao giờ đi dậm trên cỏ non, vì lý do nào hôm nay Ngài không đi trên đường mà lại đi trên cỏ”. Nghĩ thế A Nan bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, vì sao Thế Tôn không đi trên đường mà lại tránh đi trên cỏ?

- Này A Nan, phía trước có kẻ giặc, sau ta có ba Phạm Chí đang đi, họ sẽ gặp giặc đó.

Ba người Phạm Chí đang đi bỗng thấy bên đường có một gói vàng bèn dừng lại lấy bỏ túi.

Khi được của, ba anh mới bàn tính, rồi bảo một người đến chợ mua đồ về ăn uống no say, khao nhau một bữa.

Anh đi chợ vừa đi vừa nghĩ: “Gói vàng ấy nếu chia cho hai anh kia thì ta sẽ ít đi, chi bằng nhân lúc này ta cho thuốc độc vào đồ ăn để giết cả hai người kia thì số vàng đó do ta hưởng trọn”. Nghĩ thế, anh liền thực hành ngay ý định.

Trong khi đó, hai người ở lại cũng cùng nhau bàn tính:

“Nếu chúng ta chia cho người kia thì số vàng sẽ bị ít đi, chi bằng đợi nó về rồi cả hai cùng ra giết quách là xong”. Nghĩ vậy hai người cùng núp vào chỗ kín, chờ người kia đi chợ mua đồ ăn về, liền nhảy ra giết chết. Giết xong, hai người đem đồ ăn ra, ăn uống, no say thỏa mãn, nhưng khi ăn xong thuốc độc thấm vào người, liền lăn đùng ra đất chết hết.

Ðức Phật bảo A Nan:

- Cả ba người vì lòng tham nên sanh ác tâm để rồi cùng giết hại lẫn nhau. Kẻ ngu si thật đáng thương.

Giới Ðức

Khi lòng tham đã xâm nhập con người thì họ quên mất đạo đức ở đời này và quả báo ở đời sau.


Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 23:02


#44 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2012 - 23:03

41. Gần Phật Và Xa Phật

Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, tại Tịnh Xá Kỳ Hoàn thuyết pháp cho Chư Thiên nghe. Lúc bấy giờ ở nước La Duyệt Kỳ có hai vị tân học Tỳ kheo muốn yết kiến Ðức Phật. Giữa hai nước ấy có một khoảng đồng rộng, không có người ở, lại gặp thời tiết hạn hán, nên suối hồ đều cạn. Hai người đi ngang qua, bị khát nước, chỉ gặp được vũng nước nhỏ thì bị đầy những trùng, không thể uống được.

Hai người mới bàn với nhau rằng:

- Chúng ta từ xa lại, cốt trông mong chiêm ngưỡng Ðức Phật, không ngờ ngày nay bị chết khát giữa đường.

Mội người nói rằng:

- Thôi ta hãy tạm uống để khỏi chết có vậy mới gặp được Phật và lại ta uống cũng không ai biết cả.

Người kia đáp rằng:

- Giới luật Ðức Phật chế ra, lấy nhân từ làm gốc. Nếu giết hại chúng sanh để tự sống thì dù thấy Ðức Phật cũng không ích gì. Thà rằng giữ giới chịu chết, chớ không phạm giới mà được sống.

Người đầu theo ý riêng của mình uống nước đỡ khát và đi đến chỗ Phật ở. Người thứ hai không chịu uống nên phải chết vì khát nhưng được sanh lên cõi trời Ðao Lợi. Nhờ suy nghĩ nên tự biết mình ở kiếp trước nhờ giữ giới nên được sanh thiên, thật là do lòng tin mạnh nên phước báu chẳng xa vậy. Nghĩ như thế, bèn đem hương hoa đến lễ Phật rồi đứng hầu một bên.

Còn người uống nước, phải cực khổ trải qua nhiều ngày mới đến chỗ Phật ở. Thấy đầng Chí Tôn oai nghiêm, người liền cúi đầu đảnh lễ khóc lóc bạch Phật rằng:

- Con còn một người bạn muốn đến yết kiến Phật, chẳng may giữa đường bị mệnh chung, dám mong Ðức Thế Tôn biết cho.

Ðức Phật trả lời:

- Ta đã rõ rồi.

Liền lấy tay chỉ Tiên nhân đứng hầu một bên mà nói rằng:

- Người Tiên nhân này chính là người bạn của ngươi đó. Người này nhờ giữ trọn giới luật nên được sanh lên cõi Trời và được gặp ta trước ngươi.

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn chỉ tay vào ngực người kia và bảo rằng:

- Ngươi tuy thấy hình ta mà không giữ giới luật của ta, thì tuy ngươi thấy ta mà ta không thấy ngươi. Người kia tuy cách xa ta ngàn vạn dặm, nhưng giữ giới luật thì người ấy tất đứng trước mặt ta.

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn bèn nói bài kệ rằng:

Học nhiều lại nghe nhiều

Hai đời được ngợi khen

Học ít lại nghe ít

Hai đời bị đau khổ

Phàm học nên nghe nhiều

Dầu gặp nhiều tai nan

Trì giới chẳng tái phạm

Sở nguyện được thành tựu

Giữ giới không chu toàn

Sở nguyện bị tán mấ.

Xét lý nhận yếu nghĩa

Không gì đáng can ngại.

Lúc bấy giờ vị Tỳ kheo nghe bài kệ xong bèn tự xấu hổ, cúi đầu xin sám hối, yên lặng suy nghĩ lời Phật dạy. Còn vị Tiên nhân sanh tâm hoan hỷ, chứng được Pháp nhãn, trong chúng hội hoan hỷ phụng hành.

Minh Châu

Giới luật là thầy của các ngươi

Giới luật là thọ mạng của Phật Pháp

Giới luật còn Phật Pháp còn.

Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 23:03


#45 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 19/07/2012 - 23:10

42. Của Tuy Đất Cát Lòng Con Kính Thành

Hôm ấy nghỉ học, sáu đứa bé cả trai lẫn gái thân hình cũng như trạc tuổi xấp xỉ ngang nhau, chúng rủ nhau lại trong chiếc sân rộng mát trước nhà em Lệ Xa, con của ông bà Ðăng Quang, một gia đinh lễ giáo rất sùng thượng để chơi trò chơi mà mấy hôm nay chúng không chơi được vì mưa lạnh. Không biết trò chơi này ai bày ra và đâu truyền đến mà đứa bé Ấn Ðộ nào cũng biết và rất thích chơi, nhất là những lúc có mặt độ năm bảy đứa.

Sau phút họp mặt chúng liền phân phối công việc để sắm sửa cuộc chơi. Mấy em gái thì đi chợ và nấu cơm, mấy em trai xây nhà và chưng dọn.

Nguyên liệu làm nhà là những viên gạch bé, những tấm ván thừa. Nhà thì có nhà song không ở và làm gì trong nhà được cả. Bông hoa, đồ dùng đều phải chưng dọn bên ngoài. Chợ chúng là hàng rào râm bụt, hoa đỏ lá xanh là những thức ăn ngon lành dể mua. Gạo thì có sẵn bên hè nhà chỉ còn xúc nấu: Ấy là cát. Tuy nhiên, Li Tơ em bé gái phụ trách nấu cơm vẫn giả bộ bem hem, buốc huốc chum hum thổi phò qua những khe củi không bao giờ cháy vì tươi xanh và không có lửa, thức ăn thì không cần nấu, sau khi mua về chúng ngắt vụn và cứa nhỏ vào bát đĩa là xong, nói bát đĩa cho oai chứ toàn là những miếng mảnh sành, nắp hộp và khu chén. Còn đũa thì rất sẵn ở bờ đậu chúng tự bẻ lấy.

Hí hoáy, chạy ngược chạy xuôi la thúc hối trong chốc lát thì tất cả đâu vào đấy: Thức ăn đều được sắp lên bàn, ồ thật là giản dị chỉ là cái đòn, có nải chuối tráng miệng, không biết chúng tạo đâu ra hay lượm trong thùng rác của chị bếp.

Bày biện xong xuôi, chúng mời nhau lại để khai mạc buổi tiệc. Ðang xúm xít vây quanh chiếc bàn thấp lè tè thì bỗng nhiên đôi mắt tròn xoe của Lệ Xa hướng về những người đức hạnh trong những bộ áo cà sa vàng nghiêm trang vượt qua hàng cây trước bờ rào, rồi tất cả lũ trẻ quay mặt nhìn theo… Bữa tiệc chưa bắt đầu nhưng đã bị gián đoạn vì đoàn người kia khoan thai, im lặng bước vào cổng. Lệ Xa liền rời khỏi bàn ăn chạy ngay đến trước Ðức Phật chắp tay vái chào và kính thưa:

- Thưa Ngài, thầy mẹ con hôm nay có việc phải qua làng bên cạnh.

- Tốt lắm! Thôi con trở vào chơi với bạn, Ðức Phật bảo Lệ Xa.

Ngần ngừ không lui bước, Lệ Xa tỏ vẻ vì không có gì để cúng dường, mọi hôm, vào giờ này khi Phật và Chư Tăng đi ngang là cha mẹ Lệ Xa thường hay dâng cúng vật thực.

Ðoán biết em bé Lệ Xa muốn thưa thỉnh điều chi nên Ngài chưa đi vội.

Bỗng Lệ Xa nhanh nhẩu về phía bạn nhanh tay bưng ngay bát cơm to nhất trên bàn đem dâng cúng Phật với đôi tay tín thành kính cẩn.

Các đệ tử đứng sau đều lấy làm lạ, xầm xì và hỏi nhau về thứ lễ vật lạ kỳ mà em bé đang dâng cúng. Chính lũ trẻ, bạn của Lệ Xa cũng không hiểu Lệ Xa đang làm gì và rất lo ngại cho nó…

Ðỡ lấy bát, Ðức Phật nói với giọng trong thanh, hiền dịu:

- Của tuy đất cát, lòng con kính thành. Như Lai nhận cho con.

Ðoạn Ngài trao bát cơm ấy cho Tôn giả A Nan, dặn đem về vãi lên nền nhà Ngài ở. Nhìn khắp các đệ tử, Ngài dạy thêm:

- Em bé này có tâm hoan hỷ cúng dường, nhờ công đức ấy một trăm năm sau sau khi Như Lai nhập diệt, em bé sẽ làm vị Quốc Vương tên là A Dục. Vị lãnh tụ này sẽ là một người hộ pháp đắc lực, rất tôn sùng Tam bảo, biết phân chia Xá Lợi, xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp để tôn thờ, biết đem Chánh Pháp áp dụng trong công việc trị dân, giúp nước, tiếng tăm lừng lẫy…

Tôn giả A Nan lại ngạc nhiên hơn nữa liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn em bé này chỉ cúng dường chút ít đất cát mà sao lại được phước báu nhiều như thế, nhất là được nhân duyên xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp để cúng dường Xá Lợi?

Ðức Phật ôn tồn giải đáp:

- Này A Nan và tất cả đại chúng. Không phải chỉ trong kiếp này mà ở một tiền kiếp xa xưa em bé đã là một vị Quốc Vương tên Ba Tắc Bỳ luôn luôn được cúng dường Ðức Phật Phất Sa, và nghĩ đến nhân dân chưa có dịp được chiêm ngưỡng đức tướng trang nghiêm của Ðấng Giác ngộ, người đã mời rất nhiều họa sĩ vẽ tám vạn bốn ngàn bức tượng để lưu truyền khắp mọi nơi. Nhờ công đức ấy cộng thêm việc đang làm trong hiện tại mà sau này em bé sẽ được vô lượng phước báu và nhất là đước có nhân duyên xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp để tôn thờ Xá Lợi.

Nghe đến đây Tôn giả A Nan và toàn thể đại chúng mới hết nghi ngờ.

Riêng về Lệ Xa thì em sung sướng và thỏa mãn vô hạn vì đã được Ðức Phật tiếp nhận lễ vật và tự tay em làm ra dâng cúng.

Lũ trẻ nãy giờ đứng xa nhìn lại, bây giờ sau khi nghe, thấy và nhận biết lòng thương bao la rộng rãi của Ðức Phật chúng rủ nhau đi gần lại và vây quanh Ngài.

Giờ đã gần hết, Ðức Phật và các đệ tử phải tiếp tục đi hóa trai. Trước khi ra đi, một lần nữa Ngài rờ đầu và chú nguyện cho Lệ Xa thường được sức khoẻ, học tập tiến bộ và Ngài dặn thêm lũ trẻ:

- Các con chơi với nhau cho hòa thuận, vui vẻ nhé!

Ðoàn người thanh tịnh khuất lần trong ngả xóm, nhưng lũ trẻ mải nhìn theo không chớp mắt.

Ðại Chí

Tam Bảo là ruộng phước phì nhiêu cho chúng sanh gieo giống.

Sửa bởi hiendde: 30/07/2012 - 23:03







Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |