

TRUYỆN CỔ PHẬT GIÁO - Quyển 3
Viết bởi hiendde, 05/07/12 21:45
47 replies to this topic
#16
Gửi vào 10/07/2012 - 22:20
15. Ánh Mắt Từ Bi
“Kiến Phật liễu sanh tử”
Buổi sớm mùa đông ấy, tiếng guốc của Sudas vang lên một âm thanh mòn mòn, ngái ngủ trên sườn đồi hẻo lánh. Với chiếc gàu tưới trong tay, Sudas rảo bước vừa hát thì thầm, tiến về phía dòng suối dưới chân đồi. Sudas mỉm cười khoan khoái, nghĩ đến những luống hoa đang chờ đợi những dòng nước mát sau một đêm đông dài.
Anh ta đến đây lập nghiệp từ bao giờ, không ai hay biết. Chỉ biết Sudas sống cô độc trên đỉnh đồi, và hoa của Sudas là thứ hoa tốt nhất vùng, có thể làm thỏa mãn những khách hàng đài cát nhất.
Đồi hoa của Sudas ở biệt lập, suốt năm không hề một du khách đặt chân. Và thành thị gặp Sudas mỗi tuần một bận, khi anh đem hoa bán để đổi lấy những nhu cầu cần thiết. Ngoài những hôm ấy ra, quanh năm thui thủi trên ngọn đồi vắng vẻ, Sudas sống một cái đời ở ngoài cuộc đời.
Ngày ngày chăm bón những luống hoa, sáng tưới nước, trưa che nắng, chiều bắt sâu, Sudas tự mãn với công việc ấy. Để hoa tốt, tốt để làm gì, để bán. Bán để làm gì, để mua lương thực, để làm gì nữa?... Rủi thay và may thay, Sudas chẳng bao giờ tự đặt những câu hỏi ấy. Đầu óc giản dị của anh ta chỉ chú tâm đến một việc: trồng hoa, Sudas sống không vui không buồn, không sở thích, không đam mê. Hoa của anh là cứu cánh vừa là phương tiện. Những luống hoa anh đã chăm bón hằng ngày với tất cả trìu mến và say sưa, đến cuối tuần cũng chính anh ta sẽ cắt hoa bó thành bó để đem xuống thành thị làm vật đổi chác. Rồi một thế hệ hoa mới lại được nâng niu và sẽ cùng chung số phận như những luống hoa đã đi qua…
Sudas đứng dừng lại bên bờ suối. Mặt nước xao động, và những gợn sóng như những bàn tay mềm đang từ từ xóa những dấu chân Sudas in trên cát. Chưa bao giờ mặt nước ban mai lại xao động như hôm nay. Sudas khẽ rùng mình linh tính báo cho anh ta một việc gì khác thường sắp xảy đến. Lập tức, Sudas vụt vội gàu nước xuống suối để lấy nước. Nước băng giá tung toé vào mặt, vào tay anh. Sudas không kịp cảm thấy giá buốt. Anh nóng lòng muốn lấy lại cái luống hoa và vội rảo bước lên đồi.
Lá úa phủ đầy lối đi, và cây cỏ phô bày bộ xương thiểu não của mùa đông. Đêm qua hẳn gió thổi nhiều, và biết đâu lại không có bão táp. Bão, Sudas giật mình bước chân lên đồi hoa. Nhưng kìa! Đã đến chân đồi, mà sao nhưng giò hoa thắm sắc vẫn mất hút tăm dạng? Sudas hoảng hốt bước lên thì…Chao ôi! Cả một vùng hoa đã bẹp nát dưới bùn lầy, không còn lấy một giò hoa tươi tốt. Đêm qua đã có bão thật rồi! Cả một sự nghiệp đổ nát, một công trình tan vỡ! Thiên nhiên đã phá mất của ta tất cả lẽ sống còn.
Thẫn thờ, thiểu não, Sudas bước những bước chuếnh choáng xuống sườn đồi thoai thoải. Anh ngỡ mình đang ở trong một cơn mơ không lành. Có lẽ nào! Những luống hoa tươi vừa mới hôm qua đầy hứa hẹn một buổi chợ đắt hàng, thế mà chỉ qua một đêm…Sudas quay lui và nhìn lại một lần cuối để biết chắc rằng mình không mơ. Đây, ở nơi đã vươn lên nhưng chồi hoa mập mạnh, bây giờ là một khung trời mờ nhạt, lạnh lùng…
Sudas xuống đồi đi lang thang, lòng buồn hơn cả trời đông. Men theo dòng suối, anh đi mãi không mục đích và mặc cho ngọn gió buốt làm cho tay và mặt anh tê cóng, anh đã đến biên giới của miền hoang vu. Qua một cổng thành, anh sẽ bước vào một thế giới của đô thị náo nhiệt. Sudas dừng chân, hoang mang. Nhưng lạ kỳ chưa, dưới chân thành, trong hồ sen tàn úa của tuyết đông, anh bỗng bắt gặp một đóa sen tàn úa của tuyết đông, anh bỗng bắt gặp một đóa sen đang vươn lên, đơn chiếc.
Đóa hoa trắng muốt và to lớn một cách dị thường. Anh chưa hề thấy một bông sen to như thế cả đến trong những mùa sen nở. Thế mà giờ đây, đang giữa mùa đông, đóa hoa vương giả ấy lại xuất hiện trong một hồ sen công cộng! Sudas mừng rỡ lội xuống hồ bẻ. Anh cầm chiếc hoa sen đi ra cổng thành, định bán để mua một ít đồ ăn lót dạ. Nhưng bỗng Sudas chóa mắt khi thấy bao nhiêu người đều đổ xô đến anh ta và tranh giành nhau để mua đóa hoa. “Ta phải bán nó với một giá thật đắt” Sudas nhủ thầm trong khi khách mua mỗi lúc một đông và giá trả đang lên như diều gặp gió. Sudas làm cao từ chối tất cả các khách hàng:
- Không bán cho ai hết, tôi sẽ đem bán cho nhà vua.
Khách mua lảng xa, bằng lòng nhường để bán cho nhà vua vì họ đều biết rằng vua cũng sẽ mua đóa hoa quý ấy để cúng dường đức Phật đang thuyết pháp trong vùng.
Sudas đi đến kinh thành, nhưng một hành khách sang trọng dừng bước, anh ta đòi mua cho kỳ được đóa hoa với một giá chưa từng có, hai trăm quan tiền vàng. Sudas gần muốn điên lên vì sung sướng. Hai trăm quan! Cả một đồi hoa tươi tốt của anh ta cũng chưa bao giờ bán được với giá ấy. Và vì lòng tham không hề lùi bước, anh ta quyết đem bán cho nhà vua thật. Nhưng Sudas không phải nhọc công đi vào kinh thành, vì kìa, đức vua đã ngự đến. Vẻ giản dị của ngài vẫn không làm giảm cốt cách cao sang. Ngài dừng lại, ôn tồn bảo hành khách:
- Này du khách, ngươi có thể nhường cho ta mua đóa hoa này chăng? Để ta đem đến dâng cúng đức Thế Tôn.
Cũng như những người mua trước, du khách bằng lòng và bỏ tiền vào túi rồi rảo bước. Nhà vua nói với Sudas:
- Ngươi sẽ bán đóa hoa cho ta với giá gấp đôi giá hành khách kia đã trả, được chứ?
Sudas ngẫm nghĩ: Đức Thế Tôn là ai? Nhưng chắc hẳn phải là cao sang và giàu có hơn nhà vua này. Thế nên mọi người, cả đến nhà vua, mới hăm hở mua hoa để dâng ngài như thế. Tại sao ta lại không bán cho chính Đức Thế Tôn ấy? Ta sẽ giàu to chuyến này!
Và Sudas từ chối nhà vua:
- Tâu ngài, tôi sẽ đem hoa này bán cho Đức Thế Tôn. Xin ngài vui lòng chỉ dẫn tôi, ông ấy hiện ở đâu.
Nhà vua vui lòng chỉ lối đi. Sudas rảo bước về tịnh xá, nơi đức Phật đang tĩnh tọa để đợi giờ thuyết pháp cho Tăng sĩ.
Sudas đã đến cõi thanh bình. Đây là vườn Cấp Cô Độc, người đã cúng Phật khoảnh đất để làm nơi thuyết pháp. Tuy là giữa mùa đông mà lá cây xanh rờn, khắp không trung bàng bạc một mùi hương thanh tịnh. Sudas bỗng lạnh người… Dưới gốc cây, đức Phật đang ngồi, uy nghiêm, chói lọi. Sudas đứng dừng và toan lùi bước. Nhưng đức Thế Tôn đã nhìn thấy Sudas…ánh mắt từ bi! Ôi cả một đại dương tình thương chứa đầy đôi mắt ấy!
Sudas từ từ tiến đến đức Phật, bao nhiêu tham lam hèn hạ đã tan biến đâu mất. Sudas quỳ xuống, một nụ cười hiền dịu nhìn Sudas. Ngài đã biết tận can phế của đứa con yêu và dịu dàng khẽ hỏi:
- Con muốn gì nữa?
Sudas cúi đầu ấp úng:
- Bạch Ngài, con muốn hôn chân Ngài.
Tần Xuyên
“Kiến Phật liễu sanh tử”
Buổi sớm mùa đông ấy, tiếng guốc của Sudas vang lên một âm thanh mòn mòn, ngái ngủ trên sườn đồi hẻo lánh. Với chiếc gàu tưới trong tay, Sudas rảo bước vừa hát thì thầm, tiến về phía dòng suối dưới chân đồi. Sudas mỉm cười khoan khoái, nghĩ đến những luống hoa đang chờ đợi những dòng nước mát sau một đêm đông dài.
Anh ta đến đây lập nghiệp từ bao giờ, không ai hay biết. Chỉ biết Sudas sống cô độc trên đỉnh đồi, và hoa của Sudas là thứ hoa tốt nhất vùng, có thể làm thỏa mãn những khách hàng đài cát nhất.
Đồi hoa của Sudas ở biệt lập, suốt năm không hề một du khách đặt chân. Và thành thị gặp Sudas mỗi tuần một bận, khi anh đem hoa bán để đổi lấy những nhu cầu cần thiết. Ngoài những hôm ấy ra, quanh năm thui thủi trên ngọn đồi vắng vẻ, Sudas sống một cái đời ở ngoài cuộc đời.
Ngày ngày chăm bón những luống hoa, sáng tưới nước, trưa che nắng, chiều bắt sâu, Sudas tự mãn với công việc ấy. Để hoa tốt, tốt để làm gì, để bán. Bán để làm gì, để mua lương thực, để làm gì nữa?... Rủi thay và may thay, Sudas chẳng bao giờ tự đặt những câu hỏi ấy. Đầu óc giản dị của anh ta chỉ chú tâm đến một việc: trồng hoa, Sudas sống không vui không buồn, không sở thích, không đam mê. Hoa của anh là cứu cánh vừa là phương tiện. Những luống hoa anh đã chăm bón hằng ngày với tất cả trìu mến và say sưa, đến cuối tuần cũng chính anh ta sẽ cắt hoa bó thành bó để đem xuống thành thị làm vật đổi chác. Rồi một thế hệ hoa mới lại được nâng niu và sẽ cùng chung số phận như những luống hoa đã đi qua…
Sudas đứng dừng lại bên bờ suối. Mặt nước xao động, và những gợn sóng như những bàn tay mềm đang từ từ xóa những dấu chân Sudas in trên cát. Chưa bao giờ mặt nước ban mai lại xao động như hôm nay. Sudas khẽ rùng mình linh tính báo cho anh ta một việc gì khác thường sắp xảy đến. Lập tức, Sudas vụt vội gàu nước xuống suối để lấy nước. Nước băng giá tung toé vào mặt, vào tay anh. Sudas không kịp cảm thấy giá buốt. Anh nóng lòng muốn lấy lại cái luống hoa và vội rảo bước lên đồi.
Lá úa phủ đầy lối đi, và cây cỏ phô bày bộ xương thiểu não của mùa đông. Đêm qua hẳn gió thổi nhiều, và biết đâu lại không có bão táp. Bão, Sudas giật mình bước chân lên đồi hoa. Nhưng kìa! Đã đến chân đồi, mà sao nhưng giò hoa thắm sắc vẫn mất hút tăm dạng? Sudas hoảng hốt bước lên thì…Chao ôi! Cả một vùng hoa đã bẹp nát dưới bùn lầy, không còn lấy một giò hoa tươi tốt. Đêm qua đã có bão thật rồi! Cả một sự nghiệp đổ nát, một công trình tan vỡ! Thiên nhiên đã phá mất của ta tất cả lẽ sống còn.
Thẫn thờ, thiểu não, Sudas bước những bước chuếnh choáng xuống sườn đồi thoai thoải. Anh ngỡ mình đang ở trong một cơn mơ không lành. Có lẽ nào! Những luống hoa tươi vừa mới hôm qua đầy hứa hẹn một buổi chợ đắt hàng, thế mà chỉ qua một đêm…Sudas quay lui và nhìn lại một lần cuối để biết chắc rằng mình không mơ. Đây, ở nơi đã vươn lên nhưng chồi hoa mập mạnh, bây giờ là một khung trời mờ nhạt, lạnh lùng…
Sudas xuống đồi đi lang thang, lòng buồn hơn cả trời đông. Men theo dòng suối, anh đi mãi không mục đích và mặc cho ngọn gió buốt làm cho tay và mặt anh tê cóng, anh đã đến biên giới của miền hoang vu. Qua một cổng thành, anh sẽ bước vào một thế giới của đô thị náo nhiệt. Sudas dừng chân, hoang mang. Nhưng lạ kỳ chưa, dưới chân thành, trong hồ sen tàn úa của tuyết đông, anh bỗng bắt gặp một đóa sen tàn úa của tuyết đông, anh bỗng bắt gặp một đóa sen đang vươn lên, đơn chiếc.
Đóa hoa trắng muốt và to lớn một cách dị thường. Anh chưa hề thấy một bông sen to như thế cả đến trong những mùa sen nở. Thế mà giờ đây, đang giữa mùa đông, đóa hoa vương giả ấy lại xuất hiện trong một hồ sen công cộng! Sudas mừng rỡ lội xuống hồ bẻ. Anh cầm chiếc hoa sen đi ra cổng thành, định bán để mua một ít đồ ăn lót dạ. Nhưng bỗng Sudas chóa mắt khi thấy bao nhiêu người đều đổ xô đến anh ta và tranh giành nhau để mua đóa hoa. “Ta phải bán nó với một giá thật đắt” Sudas nhủ thầm trong khi khách mua mỗi lúc một đông và giá trả đang lên như diều gặp gió. Sudas làm cao từ chối tất cả các khách hàng:
- Không bán cho ai hết, tôi sẽ đem bán cho nhà vua.
Khách mua lảng xa, bằng lòng nhường để bán cho nhà vua vì họ đều biết rằng vua cũng sẽ mua đóa hoa quý ấy để cúng dường đức Phật đang thuyết pháp trong vùng.
Sudas đi đến kinh thành, nhưng một hành khách sang trọng dừng bước, anh ta đòi mua cho kỳ được đóa hoa với một giá chưa từng có, hai trăm quan tiền vàng. Sudas gần muốn điên lên vì sung sướng. Hai trăm quan! Cả một đồi hoa tươi tốt của anh ta cũng chưa bao giờ bán được với giá ấy. Và vì lòng tham không hề lùi bước, anh ta quyết đem bán cho nhà vua thật. Nhưng Sudas không phải nhọc công đi vào kinh thành, vì kìa, đức vua đã ngự đến. Vẻ giản dị của ngài vẫn không làm giảm cốt cách cao sang. Ngài dừng lại, ôn tồn bảo hành khách:
- Này du khách, ngươi có thể nhường cho ta mua đóa hoa này chăng? Để ta đem đến dâng cúng đức Thế Tôn.
Cũng như những người mua trước, du khách bằng lòng và bỏ tiền vào túi rồi rảo bước. Nhà vua nói với Sudas:
- Ngươi sẽ bán đóa hoa cho ta với giá gấp đôi giá hành khách kia đã trả, được chứ?
Sudas ngẫm nghĩ: Đức Thế Tôn là ai? Nhưng chắc hẳn phải là cao sang và giàu có hơn nhà vua này. Thế nên mọi người, cả đến nhà vua, mới hăm hở mua hoa để dâng ngài như thế. Tại sao ta lại không bán cho chính Đức Thế Tôn ấy? Ta sẽ giàu to chuyến này!
Và Sudas từ chối nhà vua:
- Tâu ngài, tôi sẽ đem hoa này bán cho Đức Thế Tôn. Xin ngài vui lòng chỉ dẫn tôi, ông ấy hiện ở đâu.
Nhà vua vui lòng chỉ lối đi. Sudas rảo bước về tịnh xá, nơi đức Phật đang tĩnh tọa để đợi giờ thuyết pháp cho Tăng sĩ.
Sudas đã đến cõi thanh bình. Đây là vườn Cấp Cô Độc, người đã cúng Phật khoảnh đất để làm nơi thuyết pháp. Tuy là giữa mùa đông mà lá cây xanh rờn, khắp không trung bàng bạc một mùi hương thanh tịnh. Sudas bỗng lạnh người… Dưới gốc cây, đức Phật đang ngồi, uy nghiêm, chói lọi. Sudas đứng dừng và toan lùi bước. Nhưng đức Thế Tôn đã nhìn thấy Sudas…ánh mắt từ bi! Ôi cả một đại dương tình thương chứa đầy đôi mắt ấy!
Sudas từ từ tiến đến đức Phật, bao nhiêu tham lam hèn hạ đã tan biến đâu mất. Sudas quỳ xuống, một nụ cười hiền dịu nhìn Sudas. Ngài đã biết tận can phế của đứa con yêu và dịu dàng khẽ hỏi:
- Con muốn gì nữa?
Sudas cúi đầu ấp úng:
- Bạch Ngài, con muốn hôn chân Ngài.
Tần Xuyên
Thanked by 1 Member:
|
|
#17
Gửi vào 10/07/2012 - 23:02
16. La Hán Mù
Vào một mùa an cư, Trưởng lão Đại Thọ dẫn đầu sáu mươi Tỳ kheo đến một trú xứ để tu tập thiền định. Vì tinh tấn quá mức, Trưởng lão bị chứng đau mắt nặng, nhưng Ngài vẫn không bỏ dở nguyện đã lập ban đầu là chỉ giữ ba oai nghi đi đứng ngồi, không nằm suốt mùa an cư. Với ý chí kiên cường mãnh liệt Ngài tự nhủ: Từ vô lượng kiếp ta đã từng bị mù tối vô minh, đã bao nhiêu đời chư Phật, hằng hà sa số đấng Giác Ngộ đã hiện thân, thế mà ta chưa hề biết đến, mãi đến kiếp này may mắn được đức Thế Tôn dạy ta tu tập, ba tháng an cư này ta quyết không ngủ dù thân ta khô gầy bịnh tật, dù đôi mắt ta tàn lụi, mù lòa. Phát nguyện xong, tâm thái Ngài nhẹ nhàng, siêu thoát.
Chưa hết mùa an cư mà đôi mắt của Ngài như ánh đèn sắp sửa phụt tắt, vào một đêm Ngài thấy toàn không gian một màu đen vô tận, nhưng cùng lúc đó tâm thức Ngài lại sang bừng chân lý nhiệm mầu, tất cả phiền não vô minh đều vén sạch. Ngài đắm chìm trong thiền định quên cả không gian, thời gian cho đến khi chư Tăng vào thăm, họ mới khám phá ra Ngài đã mù.
Từ hôm ấy Trưởng lão Đại Thọ không đi khất thực nữa, dân làng biết Ngài bị mù họ vô cùng xúc động, ngày ngày họ mang cơm cháo, thức ăn đến cúng dường Ngài thật chu đáo.
Sáu mươi Sa Môn được sự hướng dẫn tu tập thiền định của Trưởng lão đều đắc A La Hán quả. Đã hết mùa mưa, ba tháng an cư chấm dứt, các Sa Môn náo nức muốn về Xá Vệ gặp lại đức Bổn Sư, họ xin phép Trưởng lão. Trưởng lão nghĩ thầm: Năm nay ta già yếu nhiều, trên đường đi rừng rậm hiểm nguy lại có lắm ma quỷ quấy phá. Nếu ta đi với các huynh đệ, lại thêm bận rộn, mất thì giờ của họ, vả lại ta không thể khất thực được, lại thêm phiền cho họ lắm! Ta cứ để cho các huynh đệ đi trước. Suy nghĩ xong Ngài quả quyết nói:
- Vâng, các huynh đệ, tôi rất đồng ý đề nghị này, nhưng các vị cứ đi trước.
- Nhưng còn Ngài?
- Tôi già yếu, nếu tôi cùng đi sẽ mất thì giờ các vị và gây bận rộn cho các huynh đệ, vì thế tôi muốn các huynh đệ đi trước.
- Thưa Ngài, chúng tôi chỉ đi khi có Ngài cùng đi thôi!
- Đúng, các ông đừng trái lời tôi và đừng lo cho tôi. Vì em trai tôi khi nó trông thấy chư Tăng thế nào hắn cũng hỏi thăm tin tức của tôi, các huynh đệ hãy nói với hắn cho người đến đây đưa tôi về. Thôi! Tôi kính thăm tất cả chư vị Trưởng lão nhé!
Sau cuộc hành trình vất vả chư Tăng đến Xá Vệ, vào tịnh xá Kỳ Viên diện kiến đức Phật, đảnh lễ Ngài và thăm các trưởng lão. Ngày hôm sau họ đi khất thực gần nhà của em Trưởng lão Đại Thọ, nên trông thấy các Sa Môn, Tiểu Thọ hy vọng sẽ gặp lại được anh. Tiểu Thọ vui mừng đón tiếp chư Tăng và lo lắng hỏi thăm:
- Còn Trưởng lão Đại Thọ anh của tôi bây giờ ra sao?
Chư Tăng thuật rõ mọi việc, Tiểu Thọ bàng hoàng, đau xót thương anh tật nguyền và nóng lòng muốn gặp anh. Qua cơn xúc động Tiểu Thọ vâng theo lời các Sa Môn cho người cháu trai đến rước Trưởng lão về. Nhưng đường đi nguy hiểm nhiều tà ma quỷ quái, theo lời bàn luận của chư Tăng, nên cho chú cháu trai ấy xuất gia thọ giới pháp của Phật rồi đi mới có thể an toàn được, vì dù sao đi nữa ma cũng nể sợ đệ tử của Phật, không dám xâm hại. Người cháu trai của Trưởng lão được xuất gia thọ giới trong một đêm và trở thành Sa Môn.
Chàng Sa Môn bất đắc dĩ lặn lội mấy ngày mới đến nơi Trưởng lão, tìm gặp được Ngài và sau đó dìu Ngài đi về. Lúc cùng đi xuyên qua cánh rừng hoang vu, chàng tu sĩ thoáng nghe giọng hát du dương từ xa đưa lại như tiếng người con gái đi nhặt củi trong rừng, tiếng hát truyền cảm như xoáy tận tâm chàng trai, chàng ta quên hẳn bổn phận của chàng đối với Trưởng lão, chàng xin Trưởng lão dừng lại đợi chàng một tí, nói xong chàng chạy thoát đi tìm xuất xứ của tiếng hát kia. Chàng gặp một thiếu nữ xinh đẹp nàng im lặng mỉm cười, chỉ thoáng chốc chàng tu sĩ trẻ tuổi đã đánh mất lương tri.
Vị Trưởng lão chờ lâu không thấy tăm dạng chàng Sa Môn. Ngài băn khoăn: Ta vừa nghe tiếng hát đàn bà. Có lẽ chú ấy đã bị quyến rũ và lỡ dại phạm giới rồi. Chàng Sa Môn trở lại, thưa:
- Thưa Ngài, chúng ta cùng tiếp tục đi!
Nhưng Trưởng lão nghiêm nghị hỏi:
- Này Sa Môn, ông đã phạm tội rồi phải không?
Sa Môn trả tuổi xấu hổ im lặng. Ngài lại nói tiếp một cách đanh thép:
- Một kẻ không thanh tịnh như người không thể nào ở trong đoàn thể của ta được.
Sa Môn trẻ vô cùng hối hận, chàng cởi chiếc y vàng xếp lại, khoác lại chiếc áo thế tục và ngập ngừng quỳ xuống thưa:
- Thưa Ngài, ngày hôm qua con là tu sĩ, hôm nay con trở lại làm cư sĩ. Thật ra con đi tu là một sự bất đắc dĩ, chứ không phải vì lòng chân thành tin nguyện, vì sợ hãi những hiểm nguy trên cuộc hành trình nên con phải mượn hình thức Sa Môn để dọa tà ma. Thôi! Xin Ngài thứ lỗi cho con và con xin đưa Ngài đi!
Trưởng lão trả lời chậm rãi, bình tĩnh:
- Dù là Sa Môn hay người thế tục, hễ kẻ hành động xấu vẫn bị xem là kẻ xấu. Ngươi là Sa Môn ngươi không giữ gìn phạm hạnh và khi thành kẻ thế tục biết ngươi có được là kẻ tốt lành chút nào không? Đâu có phải cởi chiếc áo ra là hết xấu? Ta không bao giờ đi chung với một kẻ tội lỗi như ngươi!
- Nhưng thưa Ngài! Đường đi nguy hiểm xa xôi, còn Ngài đã già yếu lại thêm mù lòa, Ngài không thể nào đi tiếp tục một mình, chẳng lẽ Ngài ở lại đây sao?
Trưởng lão cương quyết.
– Đừng bận tâm, dù ta phải nằm ở đây mà chết nơi đây ta cũng cam lòng, ta không bao giờ đi với ngươi. Ngài lại đọc bià kệ:
Ôi! Đôi mắt ta khép kín
Đường nhọc nhằn dấn bước
Ta sẽ nằm chết rũ
Như chiếc lá khô rơi
Kẻ đồng hành si dại
Thôi hãy từ giã nhau.
Chàng trai rợn cả người, xúc động đến run rẩy và sự hối hận khiến chàng đau khổ ăn năn quá sức, chàng ôm lấy đầu khóc nức nở và chạy đi như một kẻ điên loạn.
Âm vang của bài kệ làm cả thế giới chuyển động và trên tầng trời, vua Đế Thích bỗng thấy trên thiên quốc Ngài bị chấn động lạ lùng. Vua trời Đế Thích dùng thiên nhãn xem thấy Trưởng lão mù là người quyết xả thân vì đạo, cảm kích đạo tâm dũng mãnh của Trưởng lão, Đế Thích tức tốc đến hộ trì bậc tu hành chân chánh. Trời Đế Thích hiện hình người đến gần Trưởng lão, đi tới chạm chân Trưởng lão.
- Ai đấy? Trưởng lão lên tiếng hỏi.
- Thưa, tôi là lữ khách, tôi muốn đi về Xá Vệ.
- Nhưng thôi, ông đi trước đi.
Lữ khách ôn tồn bảo:
- Như vậy chúng ta cùng đi, vì được đi với Ngài tôi sẽ được chút phước chớ, Ngài đừng phiền chi cả.
Trời Đế Thích dùng thần lực thu ngắn quãng đường nên chỉ trong chớp mắt đã đến thành Xá Vệ, Trưởng lão bỗng nghe tiếng trống, tiếng đàn, âm nhạc rộn ràng, Ngài ngạc nhiên hỏi:
- Đây là đâu lại có những âm thanh này?
- Thưa đã đến Xá Vệ rồi!
Trưởng lão nghe nói như thế thầm biết người lữ khách này không phải phàm phu, có lẽ là thần thánh nào đây. Đế Thích dìu Trưởng lão vào một túp lều tranh do Tiểu Thọ cất để cho Trưởng lão tạm trú. Xong rồi Đế Thích hóa thành người bạn của Tiểu Thọ đến nhà Tiểu Thọ báo tin Trưởng lão Đại Thọ đã về. Báo tin xong người bạn ấy biến mất. Tiểu Thọ vội vàng chạy đến lều tranh, gieo mình dưới chân anh, ôm chân Trưởng lão kể lể bao nỗi nhớ thương. Tiểu Thọ cắt đặt cho hai người giúp việc đến xuất gia với Trưởng lão và ở lại đó để lo hầu hạ, giúp đỡ những việc lặt vặt cho Ngài.
Chư Tăng được tin Trưởng lão về, cũng rủ nhau đến thăm Ngài. Thình lình sáng hôm ấy, có cơn bão dữ dội xảy đến, họ đành hẹn lại ngày thuận tiện sẽ tới thăm. Sau hai ngày mưa, đất ẩm ướt, loài côn trùng chui ra khỏi đất nằm la liệt trên đất, Trưởng lão vẫn giữ thói quen đi kinh hành trong thất như hằng ngày. Ngài bước đi dò dẫm, đạp chết vô số côn trùng mà không biết. Hôm sau chư Tăng đến Thăm Ngài, thấy quá nhiều côn trùng bị dẫm chết trong thất Trưởng lão, họ bất bình quay về bạch Phật.
Đức Phật hỏi chư Tăng:
- Các ông có thấy Trưởng lão sát sanh không?
- Thưa không!
- Rõ ràng là các ông không thấy ông ấy giết và ông ấy mù không thấy côn trùng bị chết, tâm ông ấy không có chứa một chút xíu ý tưởng sát sanh. Sa Môn các ông nào biết vị Trưởng lão này đã dứt sạch tất cả triền phược và sẽ chấm dứt luân hồi sanh tử, thực sự chứng đắc quả A La Hán.
Các Sa Môn ngạc nhiên hỏi:
- Bạch Thế Tôn, nhưng vì saovị A La Hán này lại bị mù lòa?
Phật bảo:
- Các Sa Môn, ta sẽ nói rõ nhân duyên.
Vào thời Phật xa xưa, lúc vua Kasi ngự trị nước Ba La Nại, có một vị y sĩ đi khắp nơi hành nghề. Một hôm, gặp một người đàn bà đau mắt, ông đến hỏi thăm:
- Bà làm sao thế?
Người đàn bà ôm mắt rên siết:
- Mắt tôi sưng đau nhức mấy ngày nay, tôi sợ bị mù quá!
Lương tâm nghề nghiệp khiến cho y sĩ không thể làm ngơ được, ông sốt sắng:
- Tôi thử chữa trị cho bà nhé?
- Ồ quý hóa thay!
Người đàn bà muốn tỏ lòng tri ân nên vội vàng hứa rằng:
- Nếu mắt tôi được lành mạnh, suốt đời tôi xin làm tôi tớ phục dịch cho ông, đến các con tôi, con trai, con gái, cũng đều xin phục dịch cho ông để đền đáp ơn này.
- Vâng, thật quá tốt!
Vị y sĩ chế thuốc và xức thuốc cho người đàn bà, chỉ trong vài hôm sau mắt người đàn bà hết đau nhức, trở lại bình thường. Người đàn bà thầm nghĩ: Ta đã hứa làm nô tỳ cho ông ấy và bắt các con cũng phục dịch để trả ơn thật là quá đáng. Ông ấy chữa trị có tốn hao gì đâu, chỉ dùng vài lá cây tán nhuyễn rồi đắp vào mắt là khỏi ngay. Nhưng để khỏi thi hành theo lời hứa vừa rồi, mình phải nói dối, cho ông ta hết mong được thù đáp, trả công.
Vài ngày sau, y sĩ tới thăm bà thân chủ đau mắt hỏi bà có bớt chút nào không, bà trả lời:
- Đã không đỡ đau, thuốc dán của ông còn hành nhức nhối thêm nữa.
y sĩ ngẫm nghĩ: Từ hôm trước ta biết mụ này keo kiệt, không muốn trả tí thù lao cho ta, bây giờ muốn nuốt luôn lời hứa, nên dối gạt ta đây. Thôi ta chẳng cần, bây giờ ta làm cho mụ mù luôn cho bõ ghét. Ông ta ấm ức lắm nên về kể chuyện này cho vợ nghe, vợ ông không dám bày tỏ ý kiến, để mặc ông cặm cụi chế thuốc. Y sĩ nấu một lọ thuốc dán đặc biệt toàn là những độc tố đem biếu không cho người đàn bà và căn dặn phải xức một ngày ba lần. Người đàn bà thấy có thuốc không mất tiền mua, và nghĩ rằng xức nhiều chắc mau lành bệnh nên bôi thuốc thật nhiều và không bao lâu đôi mắt của bà ta mù luôn. Ông y sĩ đó là tiền nhân của Trưởng lão Đại Thọ.
Này Sa Môn! Nếu đời trước chúng ta tạo nhân không lành, đời này dĩ nhiên chúng ta phải gánh lấy quả xấu, vì nhân quả đi với nhau như bóng theo hình. Và gốc của mọi sự đau khổ hay an lạc cũng đều do tâm thức của chúng ta chủ động. Vì tâm suy nghĩ mới đưa tới hành động, lúc hành động đã là kết nghiệp và nghiệp sẽ đẩy chúng tới sự luân chuyển không ngừng trong các cõi.
Điều quan trọng của chúng ta ngay bây giờ là chuyển hóa nghiệp lực bằng cách nỗ lực quay về hoán chuyển nội tâm. Tâm chúng ta thuần hòa, trong sáng, việc làm chúng ta được hướng dẫn bởi tâm niệm tốt lành, dĩ nhiên sẽ đem lại sự an lạc và lợi ích cho chính mình cũng như cho người khác. Đây là một sự thật hiển nhiên.
Học đạo quý vô tâm
Làm nghĩ, nói không lầm
Sáng trong và lặng lẽ
Giản dị mới uyên thâm.
Vào một mùa an cư, Trưởng lão Đại Thọ dẫn đầu sáu mươi Tỳ kheo đến một trú xứ để tu tập thiền định. Vì tinh tấn quá mức, Trưởng lão bị chứng đau mắt nặng, nhưng Ngài vẫn không bỏ dở nguyện đã lập ban đầu là chỉ giữ ba oai nghi đi đứng ngồi, không nằm suốt mùa an cư. Với ý chí kiên cường mãnh liệt Ngài tự nhủ: Từ vô lượng kiếp ta đã từng bị mù tối vô minh, đã bao nhiêu đời chư Phật, hằng hà sa số đấng Giác Ngộ đã hiện thân, thế mà ta chưa hề biết đến, mãi đến kiếp này may mắn được đức Thế Tôn dạy ta tu tập, ba tháng an cư này ta quyết không ngủ dù thân ta khô gầy bịnh tật, dù đôi mắt ta tàn lụi, mù lòa. Phát nguyện xong, tâm thái Ngài nhẹ nhàng, siêu thoát.
Chưa hết mùa an cư mà đôi mắt của Ngài như ánh đèn sắp sửa phụt tắt, vào một đêm Ngài thấy toàn không gian một màu đen vô tận, nhưng cùng lúc đó tâm thức Ngài lại sang bừng chân lý nhiệm mầu, tất cả phiền não vô minh đều vén sạch. Ngài đắm chìm trong thiền định quên cả không gian, thời gian cho đến khi chư Tăng vào thăm, họ mới khám phá ra Ngài đã mù.
Từ hôm ấy Trưởng lão Đại Thọ không đi khất thực nữa, dân làng biết Ngài bị mù họ vô cùng xúc động, ngày ngày họ mang cơm cháo, thức ăn đến cúng dường Ngài thật chu đáo.
Sáu mươi Sa Môn được sự hướng dẫn tu tập thiền định của Trưởng lão đều đắc A La Hán quả. Đã hết mùa mưa, ba tháng an cư chấm dứt, các Sa Môn náo nức muốn về Xá Vệ gặp lại đức Bổn Sư, họ xin phép Trưởng lão. Trưởng lão nghĩ thầm: Năm nay ta già yếu nhiều, trên đường đi rừng rậm hiểm nguy lại có lắm ma quỷ quấy phá. Nếu ta đi với các huynh đệ, lại thêm bận rộn, mất thì giờ của họ, vả lại ta không thể khất thực được, lại thêm phiền cho họ lắm! Ta cứ để cho các huynh đệ đi trước. Suy nghĩ xong Ngài quả quyết nói:
- Vâng, các huynh đệ, tôi rất đồng ý đề nghị này, nhưng các vị cứ đi trước.
- Nhưng còn Ngài?
- Tôi già yếu, nếu tôi cùng đi sẽ mất thì giờ các vị và gây bận rộn cho các huynh đệ, vì thế tôi muốn các huynh đệ đi trước.
- Thưa Ngài, chúng tôi chỉ đi khi có Ngài cùng đi thôi!
- Đúng, các ông đừng trái lời tôi và đừng lo cho tôi. Vì em trai tôi khi nó trông thấy chư Tăng thế nào hắn cũng hỏi thăm tin tức của tôi, các huynh đệ hãy nói với hắn cho người đến đây đưa tôi về. Thôi! Tôi kính thăm tất cả chư vị Trưởng lão nhé!
Sau cuộc hành trình vất vả chư Tăng đến Xá Vệ, vào tịnh xá Kỳ Viên diện kiến đức Phật, đảnh lễ Ngài và thăm các trưởng lão. Ngày hôm sau họ đi khất thực gần nhà của em Trưởng lão Đại Thọ, nên trông thấy các Sa Môn, Tiểu Thọ hy vọng sẽ gặp lại được anh. Tiểu Thọ vui mừng đón tiếp chư Tăng và lo lắng hỏi thăm:
- Còn Trưởng lão Đại Thọ anh của tôi bây giờ ra sao?
Chư Tăng thuật rõ mọi việc, Tiểu Thọ bàng hoàng, đau xót thương anh tật nguyền và nóng lòng muốn gặp anh. Qua cơn xúc động Tiểu Thọ vâng theo lời các Sa Môn cho người cháu trai đến rước Trưởng lão về. Nhưng đường đi nguy hiểm nhiều tà ma quỷ quái, theo lời bàn luận của chư Tăng, nên cho chú cháu trai ấy xuất gia thọ giới pháp của Phật rồi đi mới có thể an toàn được, vì dù sao đi nữa ma cũng nể sợ đệ tử của Phật, không dám xâm hại. Người cháu trai của Trưởng lão được xuất gia thọ giới trong một đêm và trở thành Sa Môn.
Chàng Sa Môn bất đắc dĩ lặn lội mấy ngày mới đến nơi Trưởng lão, tìm gặp được Ngài và sau đó dìu Ngài đi về. Lúc cùng đi xuyên qua cánh rừng hoang vu, chàng tu sĩ thoáng nghe giọng hát du dương từ xa đưa lại như tiếng người con gái đi nhặt củi trong rừng, tiếng hát truyền cảm như xoáy tận tâm chàng trai, chàng ta quên hẳn bổn phận của chàng đối với Trưởng lão, chàng xin Trưởng lão dừng lại đợi chàng một tí, nói xong chàng chạy thoát đi tìm xuất xứ của tiếng hát kia. Chàng gặp một thiếu nữ xinh đẹp nàng im lặng mỉm cười, chỉ thoáng chốc chàng tu sĩ trẻ tuổi đã đánh mất lương tri.
Vị Trưởng lão chờ lâu không thấy tăm dạng chàng Sa Môn. Ngài băn khoăn: Ta vừa nghe tiếng hát đàn bà. Có lẽ chú ấy đã bị quyến rũ và lỡ dại phạm giới rồi. Chàng Sa Môn trở lại, thưa:
- Thưa Ngài, chúng ta cùng tiếp tục đi!
Nhưng Trưởng lão nghiêm nghị hỏi:
- Này Sa Môn, ông đã phạm tội rồi phải không?
Sa Môn trả tuổi xấu hổ im lặng. Ngài lại nói tiếp một cách đanh thép:
- Một kẻ không thanh tịnh như người không thể nào ở trong đoàn thể của ta được.
Sa Môn trẻ vô cùng hối hận, chàng cởi chiếc y vàng xếp lại, khoác lại chiếc áo thế tục và ngập ngừng quỳ xuống thưa:
- Thưa Ngài, ngày hôm qua con là tu sĩ, hôm nay con trở lại làm cư sĩ. Thật ra con đi tu là một sự bất đắc dĩ, chứ không phải vì lòng chân thành tin nguyện, vì sợ hãi những hiểm nguy trên cuộc hành trình nên con phải mượn hình thức Sa Môn để dọa tà ma. Thôi! Xin Ngài thứ lỗi cho con và con xin đưa Ngài đi!
Trưởng lão trả lời chậm rãi, bình tĩnh:
- Dù là Sa Môn hay người thế tục, hễ kẻ hành động xấu vẫn bị xem là kẻ xấu. Ngươi là Sa Môn ngươi không giữ gìn phạm hạnh và khi thành kẻ thế tục biết ngươi có được là kẻ tốt lành chút nào không? Đâu có phải cởi chiếc áo ra là hết xấu? Ta không bao giờ đi chung với một kẻ tội lỗi như ngươi!
- Nhưng thưa Ngài! Đường đi nguy hiểm xa xôi, còn Ngài đã già yếu lại thêm mù lòa, Ngài không thể nào đi tiếp tục một mình, chẳng lẽ Ngài ở lại đây sao?
Trưởng lão cương quyết.
– Đừng bận tâm, dù ta phải nằm ở đây mà chết nơi đây ta cũng cam lòng, ta không bao giờ đi với ngươi. Ngài lại đọc bià kệ:
Ôi! Đôi mắt ta khép kín
Đường nhọc nhằn dấn bước
Ta sẽ nằm chết rũ
Như chiếc lá khô rơi
Kẻ đồng hành si dại
Thôi hãy từ giã nhau.
Chàng trai rợn cả người, xúc động đến run rẩy và sự hối hận khiến chàng đau khổ ăn năn quá sức, chàng ôm lấy đầu khóc nức nở và chạy đi như một kẻ điên loạn.
Âm vang của bài kệ làm cả thế giới chuyển động và trên tầng trời, vua Đế Thích bỗng thấy trên thiên quốc Ngài bị chấn động lạ lùng. Vua trời Đế Thích dùng thiên nhãn xem thấy Trưởng lão mù là người quyết xả thân vì đạo, cảm kích đạo tâm dũng mãnh của Trưởng lão, Đế Thích tức tốc đến hộ trì bậc tu hành chân chánh. Trời Đế Thích hiện hình người đến gần Trưởng lão, đi tới chạm chân Trưởng lão.
- Ai đấy? Trưởng lão lên tiếng hỏi.
- Thưa, tôi là lữ khách, tôi muốn đi về Xá Vệ.
- Nhưng thôi, ông đi trước đi.
Lữ khách ôn tồn bảo:
- Như vậy chúng ta cùng đi, vì được đi với Ngài tôi sẽ được chút phước chớ, Ngài đừng phiền chi cả.
Trời Đế Thích dùng thần lực thu ngắn quãng đường nên chỉ trong chớp mắt đã đến thành Xá Vệ, Trưởng lão bỗng nghe tiếng trống, tiếng đàn, âm nhạc rộn ràng, Ngài ngạc nhiên hỏi:
- Đây là đâu lại có những âm thanh này?
- Thưa đã đến Xá Vệ rồi!
Trưởng lão nghe nói như thế thầm biết người lữ khách này không phải phàm phu, có lẽ là thần thánh nào đây. Đế Thích dìu Trưởng lão vào một túp lều tranh do Tiểu Thọ cất để cho Trưởng lão tạm trú. Xong rồi Đế Thích hóa thành người bạn của Tiểu Thọ đến nhà Tiểu Thọ báo tin Trưởng lão Đại Thọ đã về. Báo tin xong người bạn ấy biến mất. Tiểu Thọ vội vàng chạy đến lều tranh, gieo mình dưới chân anh, ôm chân Trưởng lão kể lể bao nỗi nhớ thương. Tiểu Thọ cắt đặt cho hai người giúp việc đến xuất gia với Trưởng lão và ở lại đó để lo hầu hạ, giúp đỡ những việc lặt vặt cho Ngài.
Chư Tăng được tin Trưởng lão về, cũng rủ nhau đến thăm Ngài. Thình lình sáng hôm ấy, có cơn bão dữ dội xảy đến, họ đành hẹn lại ngày thuận tiện sẽ tới thăm. Sau hai ngày mưa, đất ẩm ướt, loài côn trùng chui ra khỏi đất nằm la liệt trên đất, Trưởng lão vẫn giữ thói quen đi kinh hành trong thất như hằng ngày. Ngài bước đi dò dẫm, đạp chết vô số côn trùng mà không biết. Hôm sau chư Tăng đến Thăm Ngài, thấy quá nhiều côn trùng bị dẫm chết trong thất Trưởng lão, họ bất bình quay về bạch Phật.
Đức Phật hỏi chư Tăng:
- Các ông có thấy Trưởng lão sát sanh không?
- Thưa không!
- Rõ ràng là các ông không thấy ông ấy giết và ông ấy mù không thấy côn trùng bị chết, tâm ông ấy không có chứa một chút xíu ý tưởng sát sanh. Sa Môn các ông nào biết vị Trưởng lão này đã dứt sạch tất cả triền phược và sẽ chấm dứt luân hồi sanh tử, thực sự chứng đắc quả A La Hán.
Các Sa Môn ngạc nhiên hỏi:
- Bạch Thế Tôn, nhưng vì saovị A La Hán này lại bị mù lòa?
Phật bảo:
- Các Sa Môn, ta sẽ nói rõ nhân duyên.
Vào thời Phật xa xưa, lúc vua Kasi ngự trị nước Ba La Nại, có một vị y sĩ đi khắp nơi hành nghề. Một hôm, gặp một người đàn bà đau mắt, ông đến hỏi thăm:
- Bà làm sao thế?
Người đàn bà ôm mắt rên siết:
- Mắt tôi sưng đau nhức mấy ngày nay, tôi sợ bị mù quá!
Lương tâm nghề nghiệp khiến cho y sĩ không thể làm ngơ được, ông sốt sắng:
- Tôi thử chữa trị cho bà nhé?
- Ồ quý hóa thay!
Người đàn bà muốn tỏ lòng tri ân nên vội vàng hứa rằng:
- Nếu mắt tôi được lành mạnh, suốt đời tôi xin làm tôi tớ phục dịch cho ông, đến các con tôi, con trai, con gái, cũng đều xin phục dịch cho ông để đền đáp ơn này.
- Vâng, thật quá tốt!
Vị y sĩ chế thuốc và xức thuốc cho người đàn bà, chỉ trong vài hôm sau mắt người đàn bà hết đau nhức, trở lại bình thường. Người đàn bà thầm nghĩ: Ta đã hứa làm nô tỳ cho ông ấy và bắt các con cũng phục dịch để trả ơn thật là quá đáng. Ông ấy chữa trị có tốn hao gì đâu, chỉ dùng vài lá cây tán nhuyễn rồi đắp vào mắt là khỏi ngay. Nhưng để khỏi thi hành theo lời hứa vừa rồi, mình phải nói dối, cho ông ta hết mong được thù đáp, trả công.
Vài ngày sau, y sĩ tới thăm bà thân chủ đau mắt hỏi bà có bớt chút nào không, bà trả lời:
- Đã không đỡ đau, thuốc dán của ông còn hành nhức nhối thêm nữa.
y sĩ ngẫm nghĩ: Từ hôm trước ta biết mụ này keo kiệt, không muốn trả tí thù lao cho ta, bây giờ muốn nuốt luôn lời hứa, nên dối gạt ta đây. Thôi ta chẳng cần, bây giờ ta làm cho mụ mù luôn cho bõ ghét. Ông ta ấm ức lắm nên về kể chuyện này cho vợ nghe, vợ ông không dám bày tỏ ý kiến, để mặc ông cặm cụi chế thuốc. Y sĩ nấu một lọ thuốc dán đặc biệt toàn là những độc tố đem biếu không cho người đàn bà và căn dặn phải xức một ngày ba lần. Người đàn bà thấy có thuốc không mất tiền mua, và nghĩ rằng xức nhiều chắc mau lành bệnh nên bôi thuốc thật nhiều và không bao lâu đôi mắt của bà ta mù luôn. Ông y sĩ đó là tiền nhân của Trưởng lão Đại Thọ.
Này Sa Môn! Nếu đời trước chúng ta tạo nhân không lành, đời này dĩ nhiên chúng ta phải gánh lấy quả xấu, vì nhân quả đi với nhau như bóng theo hình. Và gốc của mọi sự đau khổ hay an lạc cũng đều do tâm thức của chúng ta chủ động. Vì tâm suy nghĩ mới đưa tới hành động, lúc hành động đã là kết nghiệp và nghiệp sẽ đẩy chúng tới sự luân chuyển không ngừng trong các cõi.
Điều quan trọng của chúng ta ngay bây giờ là chuyển hóa nghiệp lực bằng cách nỗ lực quay về hoán chuyển nội tâm. Tâm chúng ta thuần hòa, trong sáng, việc làm chúng ta được hướng dẫn bởi tâm niệm tốt lành, dĩ nhiên sẽ đem lại sự an lạc và lợi ích cho chính mình cũng như cho người khác. Đây là một sự thật hiển nhiên.
Học đạo quý vô tâm
Làm nghĩ, nói không lầm
Sáng trong và lặng lẽ
Giản dị mới uyên thâm.
#18
Gửi vào 10/07/2012 - 23:14
17. Bảy Nàng Công Chúa
Chính giữa kinh thành Ba La Nại có một hồ sen rộng, nước trong xanh mát, dưới đáy hồ toàn cát vàng, trong hồ rất nhiều thứ cá đủ sắc bơi lội nhịp nhàng, hoa sen thường nở bốn mùa, sắc đẹp hương thơm ngào ngạt. Ngoài ra lại còn nhiều thứ cây hoa kỳ lạ, những trái giả sơn cao vút sắp đặt kỳ xảo, có suối chảy, có thông reo...Đây là một thắng cảnh của kinh đô mà thời xưa khi nhân loại còn man rợ và chưa đông đúc, thì chốn này rất thanh tịnh là nơi “tú khí anh linh” nên các tiên nhân hoặc các vị Bồ Tát thường đến đây tham thiền.
Vì vậy khi vua nước Ba La Nại lên ngôi, vua liền lập đạo tràng ngay tại đấy, để những ngày trai tiết vua và bảy công chúa thường ra đây thọ giới “Bát quan trai”. Nhà vua là một Phật tử thuần thành, nên khi lên ngôi vua liền lấy Phật giáo làm quốc giáo, lấy năm giới và mười điều thiện làm thước ngọc khuôn vàng để giáo hóa muôn dân. Lại lập nhiều tịnh xá thỉnh Phật thuyết pháp, nhờ vậy trăm họ đều được thấm nhuần pháp lạc. Nhất là bảy nàng công chúa. Từ khi Hoàng hậu băng hà, các công chúa đã chứng kiến cái cảnh tử thần cướp mất người mẹ hiền thục đoan trang diễm lệ và thân yêu nhất của đời mình. Nhận thấy cảnh vô thường diễn rõ trước mắt làm cho bảy công chúa tỉnh ngộ.
Từ đấy những con người ngọc ấy đã cương quyết không lập gia đình, nguyện đem sắc đẹp khuynh thành và lứa tuổi thanh xuân để phục vụ chúng sanh. Nhà vua tuy không có con trai, nhưng nhờ hiểu sâu giáo lý của đức Phật, nên đức vua cũng không nghĩ đến việc kế truyền mai hậu. Ngài cô động bao nhiêu tình thương vào bảy cô con gái, vua rất chiều ý con. Đặc sắc của bảy công chúa là thục hành hạnh bố thí. Thường ngày trai tiết bảy công chúa vẫn thọ giới bát quan trai, vua bao giờ cũng tùy hỷ hạnh lành của các con.
Một hôm, sau khi xả giới bát quan trai xong các công chúa liền xin cha lên chốn tha ma để ngoạn thưởng. Vua lấy làm lạ liền khuyên:
- Tha ma là nơi đáng ghê sợ, chỗ ấy là cảnh giới của người chết, nơi ấy xương cốt bừa bãi, thây chết ngổn ngang đầy mùi hôi thối, chim quạ tranh nhau ăn nuốt, sâu bọ rúc ráy, thân nhân than khóc thảm thê có gì mà các con ngoạn thưởng? Trong cung ta có nhiều vườn hoa đẹp, cảnh sắc xinh tươi, muôn hoa đua nở, có hồ nước mát trong, các loài chim quý hót tiếng vui tai… Vậy các con nên vào thượng uyển mà thưởng ngoạn.
Các công chúa tâu:
- Vườn đẹp, chim hót, hoa nở… phỏng có giúp gì cho nghiệp của các con! Các con vì nhìn thấy tâm niệm vô thường, thân như huyễn hóa dù cho giàu sang như vua chúa, đẹp đẽ của tuổi xanh...cũng không thoát khỏi già, bệnh, chết. Vì vậy, chúng con muốn quán pháp bất tịnh để trừ tham dục, thì chỗ tha ma thật là cảnh thuận tiện cho các con tu pháp bất tịnh, vậy xin phụ vương chiều con một chút.
Sau khi nghe các con giải thích đúng lý, vua liền thuận cho. Được lệnh vua cha cho phép, bảy công chúa phục sức thô sơ rồi cùng nhau lên chốn tha ma. Đây thật là một cảnh vô cùng ghê sợ, chỗ này thây chết phình to, hơi thối xông lên đến nôn mửa, chỗ kia thây bắt đầu rã, nước chạy lầy lụa, dòi sâu rúc ráy lúc nhúc, và đây một thây chết vừa mới bị vứt vào, trương phình thật là mồi ngon cho chim quạ tha hồ giành giựt…Xa xa người ta đang xúm nhau khiêng một thây ma mới, quyến thuộc theo sau khóc lóc gào thét thảm thê, kêu trời vang đất não nùng, quay quắt để rồi bỏ đấy mà đi. Tất cả thật là một cảnh giới rùng rợn.
Bảy công chúa thấy vậy, mỗi người liền tìm đến một gốc cây ngồi thiền quán. Thân ta rồi đây cũng thịt nát xương tan, cũng hôi hám lầy lụa, thế mà thân ta rồi đây đã không làm mồi cho chim quạ được, lại thêm tốn củi mất công người thiêu đốt. Than ôi! Sắc đẹp tuổi xanh chỉ là một lớp da mỏng bao bọc những đồ nhơ nhớp...Khi thiền định xong, mỗi nàng ứng khẩu đọc một bài kệ.
Công chúa thứ nhất:
Người đời quý thân mạng
Điểm phấn lại thoa son
Khi chết ra mồ hoang
Điểm trang có ích gì?
Công chúa thứ hai:
Ví như ngôi nhà kia
Người đi nhà đổ nát
Thân ta cũng như vậy
Thần đi, thân tan tác.
Công chúa thứ ba:
Khi thần còn tại xác
Như ngựa buộc vào xe
Xe hư ngựa chạy mất
Mang theo bao tội ác.
Công chúa thứ tư:
Nương thuyền qua bến giác
Đến bờ bỏ thuyền đi
Thần nương thân tu tập
Thân hư, thần an lạc.
Công chúa thứ năm:
Thân xưa vốn tươi đẹp
Nay chết nằm trơ trơ
Phủ lên bao bụi đất
Thân tan hồn dật dờ.
Công chúa thứ sáu:
Như chim ở trong lồng
Bốn mặt đều rào kỹ
Lồng rách chim bay đi
Thân tan, thần chạy mất.
Công chúa thứ bảy:
Đãy gấm dệt rất xinh
Trong đựng viên ngọc quý
Đãy rách ngọc rơi mất
Thức mang bao nghiệp lực.
Trong lúc các công chúa đàm đạo cùng nhau, tình cờ vua Đế Thích vận thần thông ngang qua nghe được liền khen:
- Đúng hóa thay, quý hóa thay, các nàng tuổi còn trẻ, đương thời tươi đẹp thế mà đã hiểu được sự vô thường, nhàm chán sắc thân mộng huyễn, như thế là các nàng đã tỉnh trong lúc chúng sinh còn mê, đã ngộ trong lúc chúng sinh chưa tỉnh. Vậy nay các nàng ưa cần gì ta sẽ giúp đỡ.
Các công chúa hỏi:
- Ngài là Đế Thích hay Phạm Vương?
- Ta là Đế Thích, ta có đủ năng lực giúp cho tất cả nhân loại toại nguyện.
Công chúa thứ nhất:
- Tôi nguyện là con thuyền để đưa chúng sanh qua khỏi bể khổ.
Công chúa thứ hai:
- Tôi nguyện làm ngọn đèn để soi sáng đêm tối vô minh.
Công chúa thứ ba:
- Tôi nguyện làm hồ nước trong mát để rửa sạch phiền não cho chúng sanh.
Công chúa thứ tư:
- Tôi nguyện thành Phật để độ chúng sanh.
Công chúa thứ năm:
- Tôi nguyện độ tất cả chúng sanh, mới thành Chánh Giác.
Ðế Thích hoảng hốt:
- Xin thôi! Xin thôi! Nếu các nàng muốn hạnh phúc an toàn, giàu sang tột bậc, sắc đẹp lâu bền, hoặc làm vua trong các cõi trời thì ta tận lực giúp cho. Nhưng than ôi! Ðại nguyện của các nàng rộng lớn như hư không, tôi thật bất lực.
Các công chúa thưa:
- Chúng tôi là Phật tử, biết được lẽ vô thường, dù có làm đến bậc đế vương cũng không thoát khỏi sanh tử. Vậy Ngài không giúp gì cho nguyện vọng của chúng tôi được ư?
Ðế Thích buồn bã:
- Vậng, tôi cũng còn trong vòng sanh tử như các nàng, nên tôi thật không giúp gì được đại nguyện của các nàng cả. Vậy tôi xin cầu chúc các công chúa chóng đạt đại nguyện.
Nói xong, Ðế Thích bay đi.
Dạ Quang
Ðường đời như khúc nhạc
Nghĩa trang nốt cuối cùng.
Chính giữa kinh thành Ba La Nại có một hồ sen rộng, nước trong xanh mát, dưới đáy hồ toàn cát vàng, trong hồ rất nhiều thứ cá đủ sắc bơi lội nhịp nhàng, hoa sen thường nở bốn mùa, sắc đẹp hương thơm ngào ngạt. Ngoài ra lại còn nhiều thứ cây hoa kỳ lạ, những trái giả sơn cao vút sắp đặt kỳ xảo, có suối chảy, có thông reo...Đây là một thắng cảnh của kinh đô mà thời xưa khi nhân loại còn man rợ và chưa đông đúc, thì chốn này rất thanh tịnh là nơi “tú khí anh linh” nên các tiên nhân hoặc các vị Bồ Tát thường đến đây tham thiền.
Vì vậy khi vua nước Ba La Nại lên ngôi, vua liền lập đạo tràng ngay tại đấy, để những ngày trai tiết vua và bảy công chúa thường ra đây thọ giới “Bát quan trai”. Nhà vua là một Phật tử thuần thành, nên khi lên ngôi vua liền lấy Phật giáo làm quốc giáo, lấy năm giới và mười điều thiện làm thước ngọc khuôn vàng để giáo hóa muôn dân. Lại lập nhiều tịnh xá thỉnh Phật thuyết pháp, nhờ vậy trăm họ đều được thấm nhuần pháp lạc. Nhất là bảy nàng công chúa. Từ khi Hoàng hậu băng hà, các công chúa đã chứng kiến cái cảnh tử thần cướp mất người mẹ hiền thục đoan trang diễm lệ và thân yêu nhất của đời mình. Nhận thấy cảnh vô thường diễn rõ trước mắt làm cho bảy công chúa tỉnh ngộ.
Từ đấy những con người ngọc ấy đã cương quyết không lập gia đình, nguyện đem sắc đẹp khuynh thành và lứa tuổi thanh xuân để phục vụ chúng sanh. Nhà vua tuy không có con trai, nhưng nhờ hiểu sâu giáo lý của đức Phật, nên đức vua cũng không nghĩ đến việc kế truyền mai hậu. Ngài cô động bao nhiêu tình thương vào bảy cô con gái, vua rất chiều ý con. Đặc sắc của bảy công chúa là thục hành hạnh bố thí. Thường ngày trai tiết bảy công chúa vẫn thọ giới bát quan trai, vua bao giờ cũng tùy hỷ hạnh lành của các con.
Một hôm, sau khi xả giới bát quan trai xong các công chúa liền xin cha lên chốn tha ma để ngoạn thưởng. Vua lấy làm lạ liền khuyên:
- Tha ma là nơi đáng ghê sợ, chỗ ấy là cảnh giới của người chết, nơi ấy xương cốt bừa bãi, thây chết ngổn ngang đầy mùi hôi thối, chim quạ tranh nhau ăn nuốt, sâu bọ rúc ráy, thân nhân than khóc thảm thê có gì mà các con ngoạn thưởng? Trong cung ta có nhiều vườn hoa đẹp, cảnh sắc xinh tươi, muôn hoa đua nở, có hồ nước mát trong, các loài chim quý hót tiếng vui tai… Vậy các con nên vào thượng uyển mà thưởng ngoạn.
Các công chúa tâu:
- Vườn đẹp, chim hót, hoa nở… phỏng có giúp gì cho nghiệp của các con! Các con vì nhìn thấy tâm niệm vô thường, thân như huyễn hóa dù cho giàu sang như vua chúa, đẹp đẽ của tuổi xanh...cũng không thoát khỏi già, bệnh, chết. Vì vậy, chúng con muốn quán pháp bất tịnh để trừ tham dục, thì chỗ tha ma thật là cảnh thuận tiện cho các con tu pháp bất tịnh, vậy xin phụ vương chiều con một chút.
Sau khi nghe các con giải thích đúng lý, vua liền thuận cho. Được lệnh vua cha cho phép, bảy công chúa phục sức thô sơ rồi cùng nhau lên chốn tha ma. Đây thật là một cảnh vô cùng ghê sợ, chỗ này thây chết phình to, hơi thối xông lên đến nôn mửa, chỗ kia thây bắt đầu rã, nước chạy lầy lụa, dòi sâu rúc ráy lúc nhúc, và đây một thây chết vừa mới bị vứt vào, trương phình thật là mồi ngon cho chim quạ tha hồ giành giựt…Xa xa người ta đang xúm nhau khiêng một thây ma mới, quyến thuộc theo sau khóc lóc gào thét thảm thê, kêu trời vang đất não nùng, quay quắt để rồi bỏ đấy mà đi. Tất cả thật là một cảnh giới rùng rợn.
Bảy công chúa thấy vậy, mỗi người liền tìm đến một gốc cây ngồi thiền quán. Thân ta rồi đây cũng thịt nát xương tan, cũng hôi hám lầy lụa, thế mà thân ta rồi đây đã không làm mồi cho chim quạ được, lại thêm tốn củi mất công người thiêu đốt. Than ôi! Sắc đẹp tuổi xanh chỉ là một lớp da mỏng bao bọc những đồ nhơ nhớp...Khi thiền định xong, mỗi nàng ứng khẩu đọc một bài kệ.
Công chúa thứ nhất:
Người đời quý thân mạng
Điểm phấn lại thoa son
Khi chết ra mồ hoang
Điểm trang có ích gì?
Công chúa thứ hai:
Ví như ngôi nhà kia
Người đi nhà đổ nát
Thân ta cũng như vậy
Thần đi, thân tan tác.
Công chúa thứ ba:
Khi thần còn tại xác
Như ngựa buộc vào xe
Xe hư ngựa chạy mất
Mang theo bao tội ác.
Công chúa thứ tư:
Nương thuyền qua bến giác
Đến bờ bỏ thuyền đi
Thần nương thân tu tập
Thân hư, thần an lạc.
Công chúa thứ năm:
Thân xưa vốn tươi đẹp
Nay chết nằm trơ trơ
Phủ lên bao bụi đất
Thân tan hồn dật dờ.
Công chúa thứ sáu:
Như chim ở trong lồng
Bốn mặt đều rào kỹ
Lồng rách chim bay đi
Thân tan, thần chạy mất.
Công chúa thứ bảy:
Đãy gấm dệt rất xinh
Trong đựng viên ngọc quý
Đãy rách ngọc rơi mất
Thức mang bao nghiệp lực.
Trong lúc các công chúa đàm đạo cùng nhau, tình cờ vua Đế Thích vận thần thông ngang qua nghe được liền khen:
- Đúng hóa thay, quý hóa thay, các nàng tuổi còn trẻ, đương thời tươi đẹp thế mà đã hiểu được sự vô thường, nhàm chán sắc thân mộng huyễn, như thế là các nàng đã tỉnh trong lúc chúng sinh còn mê, đã ngộ trong lúc chúng sinh chưa tỉnh. Vậy nay các nàng ưa cần gì ta sẽ giúp đỡ.
Các công chúa hỏi:
- Ngài là Đế Thích hay Phạm Vương?
- Ta là Đế Thích, ta có đủ năng lực giúp cho tất cả nhân loại toại nguyện.
Công chúa thứ nhất:
- Tôi nguyện là con thuyền để đưa chúng sanh qua khỏi bể khổ.
Công chúa thứ hai:
- Tôi nguyện làm ngọn đèn để soi sáng đêm tối vô minh.
Công chúa thứ ba:
- Tôi nguyện làm hồ nước trong mát để rửa sạch phiền não cho chúng sanh.
Công chúa thứ tư:
- Tôi nguyện thành Phật để độ chúng sanh.
Công chúa thứ năm:
- Tôi nguyện độ tất cả chúng sanh, mới thành Chánh Giác.
Ðế Thích hoảng hốt:
- Xin thôi! Xin thôi! Nếu các nàng muốn hạnh phúc an toàn, giàu sang tột bậc, sắc đẹp lâu bền, hoặc làm vua trong các cõi trời thì ta tận lực giúp cho. Nhưng than ôi! Ðại nguyện của các nàng rộng lớn như hư không, tôi thật bất lực.
Các công chúa thưa:
- Chúng tôi là Phật tử, biết được lẽ vô thường, dù có làm đến bậc đế vương cũng không thoát khỏi sanh tử. Vậy Ngài không giúp gì cho nguyện vọng của chúng tôi được ư?
Ðế Thích buồn bã:
- Vậng, tôi cũng còn trong vòng sanh tử như các nàng, nên tôi thật không giúp gì được đại nguyện của các nàng cả. Vậy tôi xin cầu chúc các công chúa chóng đạt đại nguyện.
Nói xong, Ðế Thích bay đi.
Dạ Quang
Ðường đời như khúc nhạc
Nghĩa trang nốt cuối cùng.
#19
Gửi vào 10/07/2012 - 23:34
18. Một Ðạo Sĩ Chí Hiếu
Thuở đời quá khứ vô số kiếp về trước, có một người đạo sĩ tên là Quang Thiểm, tánh tình thuần hậu, hiếu hạnh đáng khen. Tuy là số phận của chàng hàn vi mặc dầu, song tấm lòng trọng đạo thương người và việc xử thế chẳng chút gì lỗi phạm. Nhưng rủi thay! Chàng gặp hoàn cảnh rất gian nan, vì cha mẹ của chàng tuy còn sanh tiền, mà tuổi đã già và đui mù bóng quáng. Vì vậy, chàng phải hết lòng báo đáp, cứ gần gũi một bên cha mẹ, lo bữa sớm bữa trưa và quạt nồng đắp lạnh, đặng đền đáp bồi ơn sanh dưỡng cho trọn phần hiếu hạnh.
Chàng thường thấy phần đông người đời, cứ lo xu danh trục lợi, chẳng chút gì quan niệm đến sự nhân từ, lại còn khinh khi ngôi Tam bảo là khác nữa, nên chàng chán ngán mới vào nơi chốn sơn lâm, cất một túp chòi tranh, rồi đem cha mẹ về mà bảo dưỡng, đêm ngày làm việc không hở tay, sớm tối thăm nom thường bên gối. Chí như chỗ lập khước của chàng, thì hay kỉnh thờ chư Phật và giữ tròn mười điều lành chẳng khi nào sát sanh hại vật, đến đỗi tấm lòng thanh tịnh, không hề trước nhiễm đến sự ái tình.
Gần chỗ ở của chàng, lại có một mạch suốt nước đầy trong vắt, bông sen đua nở bốn mùa, còn chung quanh thì cây trái xum xuê, trái ngon đủ thứ. Mỗi ngày chàng thường đến nơi mé suối ấy mà kiếm trái cây, và múc nước đem về dâng cho cha mẹ. Vì chàng hiếu đạo như thế, nên loài cầm thú thường lân la gần gũi, chớ không sợ sệt gì cả. Có một bữa, trời nắng chang chang, khí trời nóng nực, chàng thấy cha mẹ hơi khát nước, nên lần mò đi đến suối ấy mà múc nước. Khi vừa bước chân trở về, thình lình bị một mũi tên trúng bên hông, té nhào xuống đất bất tỉnh nhân sự.
Số là ngày ấy, vua Ca Di dẫn quân đi săn trong rừng, đương lúc rình mò, bỗng nghe tiếng sột soạt, thì ngỡ là hươu nai, nên giương bắn càn, chừng chạy xúm lại thì thấy một người thanh niên nằm bên triền suối. Chừng đó kẻ kêu người đỡ, giây phút chàng hồi tỉnh lại, nhìn thấy đông người, biết mình bị bắn lầm, nên than rằng:
- Các Ngài ôi! Cái số phận bạc mệnh này, dầu có chết cũng cam tâm, không để tiếng gì oán trách, song ngặt vì còn cha mẹ già, hai con mắt lại bị mờ tối, nếu không có tôi bảo dưỡng, thì chắc phải chết đói. Ôi! Nghĩ lại con voi có cặp ngà là quí, con tây có cái sừng để làm vị thuốc, và con chim súy điểu có đôi lông tốt đẹp. Còn tôi đây, tay không chẳng có cái chi cống hiến cho đời, cớ sao ngày nay lại bị chết một cách rất thảm thiết như vậy! Phật trời ôi! Có rõ thấu nông nỗi này cho chăng?
Vua Ca Di nghe tiếng than thở của chàng, thì động lòng thương xót, bèn lật đật xuống ngựa mà hỏi rằng:
- Ðạo sĩ tuổi hãy còn xuân, sao không lo lập công danh để đặng tiếng thơm muôn thuở, lại ở chi chốn núi thẳm rừng xanh, đến đỗi phải khổ thân tâm như vậy?
Quang Thiểm đáp:
- Bởi vì cha mẹ tôi có tật nguyền và phận tôi lại cô độc, nên đành ẩn nơi chốn này, mà lo nuôi dưỡng song thân và yên bề học đạo!
Vua Ca Di nghe chàng bày tỏ sự tình thì sa nước mắt rồi than rằng:
- Ôi! Ta thiệt là bất nhân thái quá, vì ham mê săn bắn, sát sanh hại vật đặng nuôi dưỡng cái huyễn thân, nên mới bắn lầm một người đại hiếu như vậy! Thôi, bây giờ đạo sĩ hãy chỉ chỗ của cha mẹ chàng ở, đặng quả nhân đem về triều thay thế chàng cung phụng cho, cũng là để chuộc một phần nào lỗi lầm của trẫm, xin chàng an tâm.
Quang Thiểm bèn thưa:
- Bẩm Ðại Vương! Cách đây chẳng bao xa, nơi mé đường tắt này có một lều tranh. Ðó là chòi của song thân tôi đang ở, nếu Ðại vương mở lượng hải hà, ra tay tế độ cho cha mẹ tôi được trọn tuổi già thì ơn ấy tôi nguyện đời đời ghi tạc.
Vì mũi tên có thuốc độc đã thấm vào, nên Quang Thiểm nói dứt lời, bèn cúi đầu xuống sa nước mắt dầm dề, phút chót đã trút hơi thở cuối cùng. Vua Ca Di thương xót vô cùng, bè truyền quân lính ở lại giữ thi hài, còn Ngài lật đật theo dấu đường mòn mà tìm đến lều tranh. Ðây nhắc qua cha mẹ của Quan Thiểm, ngồi ở nhà cứ nhắc nhở sao con đi múc nước lâu mà chẳng thấy về, thì trong lòng có hơi lo ngại, kế nghe tiếng người đi rầm rộ đến, thì hai ông bà cất tiếng mà hỏi rằng:
- Ai đi đó! Có chuyện chi mà đến đây đông vậy?
Vua ứng thanh đáp:
- Ta đây là vua Ca Di, nhân đi săn đi lạc vào chốn này, vậy cho ta nghỉ tạm ở đây một lát, rồi sẽ trở về.
Hai ông bà nghe nói, liền lính quýnh thưa rằng:
- Bẩm đại vương, Nhà tôi nghèo hèn, nếu thánh giá có quang lâm, xin ngồi tạm nơi bộ phên tre, chiếc chiếu lác mà nghỉ. Vì tôi bóng quáng không thấy đường, cúi mong Ðại Vương miễn chấp, để chút nữa con tôi về sẽ bái yết mà chịu tội.
Vua Ca Di nhìn thấy tình cảnh của hai ông bà thì động tâm bèn nói thiệt rằng:
- Ta không giấu chi nhà ngươi, số là ta đương đi săn trong rừng, rủi cho phần đạo sĩ là con của ngươi vừa đi đến, bị ta bắn lầm một mũi tên bây giờ đã thiệt mạng rồi, nên ta đến đây đặng tin cho nhà ngươi biết, rồi ta sẽ đem hai ngươi về triều mà nuôi dưỡng. Còn thi hài của đạo sĩ, ta sẽ truyền quân lính chôn cất tử tế; vậy hai ngươi nên an tâm đừng buồn rầu mà thêm bệnh.
Ôi thôi! Hai vợ chồng nghe nhà vua nói vừa dứt lời, liền lăn xuống đất mà khóc ngất, và kể lể:
- Hai vợ chồng tôi đã đui mù, chỉ có một đứa con sớm hôm nuôi dưỡng mà nay đã chết oan rồi vậy Phật trời có thấu nỗi này cho chăng?
Sau đó, hai vợ chồng xin vua cho người dẫn đến chỗ tử thi của con, đặng tỏ chút lòng yêu dấu. Vua Ca Di thấy cái tình cốt nhục, nghĩa cha con, kẻ còn người mất như vậy, thiệt là quá thảm não, liền hối quân lính dẫn hai ông bà đến chỗ đạo sĩ lâm nạn. Thảm thay! Khi hai ông bà đến chỗ tử thi của chàng Quang Thiểm, thì ông rờ rẫm trên đầu, còn bà vuốt ve dưới chân mà than thở rằng:
- Trời ôi! Con tôi thiệt là chí hiếu, hết lòng nuôi dưỡng cha mẹ, cứ ban ngày thì đi múc nước và kiếm trái cây, đêm lại trì tụng kinh Phật. Nay rủi vì bị một mũi tên độc mà phải bỏ mạng nơi rừng xanh; từ rầy về sau, bóng ra vào vắng bặt, tiếng thăm nom hết thỏ thẻ bên tai. Tôi vái cùng thiên địa chứng minh và thánh thần soi xét, cho con tôi sống sót lại mà hủ hỉ với thân già; nếu con tôi bạc mệnh mà vội bỏ cõi đời, thì chúng tôi nguyện chết một chỗ cho trọn kiếp.
Linh dị thay! Khi hai ông bà khóc kể, thì tiếng sầu tư cảm động đến Hoàng Thiên nên Ðế Thích mới hóa ra một vị thần y ở trên chót núi đi xuống, đến hứa cứu Quang Thiểm sống lại. Vị thần y liền cạy miệng mà đổ thuốc vào, thì trong giây lát chàng cựa quậy rên la, rồi lần lần tỉnh lại, mở mắt ra thấy song thân ngồi một bên và quan quân đứng kề đông đúc. Chàng bèn lạy tạ ơn vua và mừng rỡ cha mẹ. Khi ấy cha con mừng mừng tủi tủi, nào dè sự trùng sanh được như vậy, nên đồng lạy giữa hư không mà đáp đền ơn tái tạo. Sau đó, vua Ca Di từ tạ ra về, còn Quang Thiểm thì dìu dắt thân sanh trở về chòi tranh.
Ðây nói qua từ ngày vua Ca Di đi săn, thấy sự linh ứng như thế, thì ra lệnh cấm không cho ai vào rừng săn bắn nữa; và lại chiêu dụ quần thần phải phụng hành theo Phật giáo, giữ trọn mười điều thập thiện và bắt chước theo gương hiếu hạnh của Ðạo sĩ Quang Thiểm mà phụng thờ cha mẹ. Nhờ chánh lịnh của vua Ca Di như thế mà cảm hóa đến bốn phương, nên khiến trong quốc độ mưa thuận gió hòa, muôn dân yên ổn. Thiệt là một thời kỳ thái bình an lạc.
Còn chàng đạo sĩ Quang Thiểm cứ giữ mực thường, mỗi ngày lo nuôi dưỡng song thân và tu tập theo Phật giáo, rồi sau cả gia đình theo thời gian đều đặng thiện chung nơi núi ấy. Nguyên vua Ca Di là tiền thân của ông A Nan, thân phụ của đạo sĩ Quang Thiểm là tiền thân của Tịnh Phạn Vương, và thân mẫu là tiền thân của bà Hoàng Hậu Ma Gia. Còn đạo sĩ Quang Thiểm có lòng chí hiếu mà bị vua bắn lầm đã nói trên đó chính là tiền thân của Phật Thích Ca.
Thiện Dụng.
Thuở đời quá khứ vô số kiếp về trước, có một người đạo sĩ tên là Quang Thiểm, tánh tình thuần hậu, hiếu hạnh đáng khen. Tuy là số phận của chàng hàn vi mặc dầu, song tấm lòng trọng đạo thương người và việc xử thế chẳng chút gì lỗi phạm. Nhưng rủi thay! Chàng gặp hoàn cảnh rất gian nan, vì cha mẹ của chàng tuy còn sanh tiền, mà tuổi đã già và đui mù bóng quáng. Vì vậy, chàng phải hết lòng báo đáp, cứ gần gũi một bên cha mẹ, lo bữa sớm bữa trưa và quạt nồng đắp lạnh, đặng đền đáp bồi ơn sanh dưỡng cho trọn phần hiếu hạnh.
Chàng thường thấy phần đông người đời, cứ lo xu danh trục lợi, chẳng chút gì quan niệm đến sự nhân từ, lại còn khinh khi ngôi Tam bảo là khác nữa, nên chàng chán ngán mới vào nơi chốn sơn lâm, cất một túp chòi tranh, rồi đem cha mẹ về mà bảo dưỡng, đêm ngày làm việc không hở tay, sớm tối thăm nom thường bên gối. Chí như chỗ lập khước của chàng, thì hay kỉnh thờ chư Phật và giữ tròn mười điều lành chẳng khi nào sát sanh hại vật, đến đỗi tấm lòng thanh tịnh, không hề trước nhiễm đến sự ái tình.
Gần chỗ ở của chàng, lại có một mạch suốt nước đầy trong vắt, bông sen đua nở bốn mùa, còn chung quanh thì cây trái xum xuê, trái ngon đủ thứ. Mỗi ngày chàng thường đến nơi mé suối ấy mà kiếm trái cây, và múc nước đem về dâng cho cha mẹ. Vì chàng hiếu đạo như thế, nên loài cầm thú thường lân la gần gũi, chớ không sợ sệt gì cả. Có một bữa, trời nắng chang chang, khí trời nóng nực, chàng thấy cha mẹ hơi khát nước, nên lần mò đi đến suối ấy mà múc nước. Khi vừa bước chân trở về, thình lình bị một mũi tên trúng bên hông, té nhào xuống đất bất tỉnh nhân sự.
Số là ngày ấy, vua Ca Di dẫn quân đi săn trong rừng, đương lúc rình mò, bỗng nghe tiếng sột soạt, thì ngỡ là hươu nai, nên giương bắn càn, chừng chạy xúm lại thì thấy một người thanh niên nằm bên triền suối. Chừng đó kẻ kêu người đỡ, giây phút chàng hồi tỉnh lại, nhìn thấy đông người, biết mình bị bắn lầm, nên than rằng:
- Các Ngài ôi! Cái số phận bạc mệnh này, dầu có chết cũng cam tâm, không để tiếng gì oán trách, song ngặt vì còn cha mẹ già, hai con mắt lại bị mờ tối, nếu không có tôi bảo dưỡng, thì chắc phải chết đói. Ôi! Nghĩ lại con voi có cặp ngà là quí, con tây có cái sừng để làm vị thuốc, và con chim súy điểu có đôi lông tốt đẹp. Còn tôi đây, tay không chẳng có cái chi cống hiến cho đời, cớ sao ngày nay lại bị chết một cách rất thảm thiết như vậy! Phật trời ôi! Có rõ thấu nông nỗi này cho chăng?
Vua Ca Di nghe tiếng than thở của chàng, thì động lòng thương xót, bèn lật đật xuống ngựa mà hỏi rằng:
- Ðạo sĩ tuổi hãy còn xuân, sao không lo lập công danh để đặng tiếng thơm muôn thuở, lại ở chi chốn núi thẳm rừng xanh, đến đỗi phải khổ thân tâm như vậy?
Quang Thiểm đáp:
- Bởi vì cha mẹ tôi có tật nguyền và phận tôi lại cô độc, nên đành ẩn nơi chốn này, mà lo nuôi dưỡng song thân và yên bề học đạo!
Vua Ca Di nghe chàng bày tỏ sự tình thì sa nước mắt rồi than rằng:
- Ôi! Ta thiệt là bất nhân thái quá, vì ham mê săn bắn, sát sanh hại vật đặng nuôi dưỡng cái huyễn thân, nên mới bắn lầm một người đại hiếu như vậy! Thôi, bây giờ đạo sĩ hãy chỉ chỗ của cha mẹ chàng ở, đặng quả nhân đem về triều thay thế chàng cung phụng cho, cũng là để chuộc một phần nào lỗi lầm của trẫm, xin chàng an tâm.
Quang Thiểm bèn thưa:
- Bẩm Ðại Vương! Cách đây chẳng bao xa, nơi mé đường tắt này có một lều tranh. Ðó là chòi của song thân tôi đang ở, nếu Ðại vương mở lượng hải hà, ra tay tế độ cho cha mẹ tôi được trọn tuổi già thì ơn ấy tôi nguyện đời đời ghi tạc.
Vì mũi tên có thuốc độc đã thấm vào, nên Quang Thiểm nói dứt lời, bèn cúi đầu xuống sa nước mắt dầm dề, phút chót đã trút hơi thở cuối cùng. Vua Ca Di thương xót vô cùng, bè truyền quân lính ở lại giữ thi hài, còn Ngài lật đật theo dấu đường mòn mà tìm đến lều tranh. Ðây nhắc qua cha mẹ của Quan Thiểm, ngồi ở nhà cứ nhắc nhở sao con đi múc nước lâu mà chẳng thấy về, thì trong lòng có hơi lo ngại, kế nghe tiếng người đi rầm rộ đến, thì hai ông bà cất tiếng mà hỏi rằng:
- Ai đi đó! Có chuyện chi mà đến đây đông vậy?
Vua ứng thanh đáp:
- Ta đây là vua Ca Di, nhân đi săn đi lạc vào chốn này, vậy cho ta nghỉ tạm ở đây một lát, rồi sẽ trở về.
Hai ông bà nghe nói, liền lính quýnh thưa rằng:
- Bẩm đại vương, Nhà tôi nghèo hèn, nếu thánh giá có quang lâm, xin ngồi tạm nơi bộ phên tre, chiếc chiếu lác mà nghỉ. Vì tôi bóng quáng không thấy đường, cúi mong Ðại Vương miễn chấp, để chút nữa con tôi về sẽ bái yết mà chịu tội.
Vua Ca Di nhìn thấy tình cảnh của hai ông bà thì động tâm bèn nói thiệt rằng:
- Ta không giấu chi nhà ngươi, số là ta đương đi săn trong rừng, rủi cho phần đạo sĩ là con của ngươi vừa đi đến, bị ta bắn lầm một mũi tên bây giờ đã thiệt mạng rồi, nên ta đến đây đặng tin cho nhà ngươi biết, rồi ta sẽ đem hai ngươi về triều mà nuôi dưỡng. Còn thi hài của đạo sĩ, ta sẽ truyền quân lính chôn cất tử tế; vậy hai ngươi nên an tâm đừng buồn rầu mà thêm bệnh.
Ôi thôi! Hai vợ chồng nghe nhà vua nói vừa dứt lời, liền lăn xuống đất mà khóc ngất, và kể lể:
- Hai vợ chồng tôi đã đui mù, chỉ có một đứa con sớm hôm nuôi dưỡng mà nay đã chết oan rồi vậy Phật trời có thấu nỗi này cho chăng?
Sau đó, hai vợ chồng xin vua cho người dẫn đến chỗ tử thi của con, đặng tỏ chút lòng yêu dấu. Vua Ca Di thấy cái tình cốt nhục, nghĩa cha con, kẻ còn người mất như vậy, thiệt là quá thảm não, liền hối quân lính dẫn hai ông bà đến chỗ đạo sĩ lâm nạn. Thảm thay! Khi hai ông bà đến chỗ tử thi của chàng Quang Thiểm, thì ông rờ rẫm trên đầu, còn bà vuốt ve dưới chân mà than thở rằng:
- Trời ôi! Con tôi thiệt là chí hiếu, hết lòng nuôi dưỡng cha mẹ, cứ ban ngày thì đi múc nước và kiếm trái cây, đêm lại trì tụng kinh Phật. Nay rủi vì bị một mũi tên độc mà phải bỏ mạng nơi rừng xanh; từ rầy về sau, bóng ra vào vắng bặt, tiếng thăm nom hết thỏ thẻ bên tai. Tôi vái cùng thiên địa chứng minh và thánh thần soi xét, cho con tôi sống sót lại mà hủ hỉ với thân già; nếu con tôi bạc mệnh mà vội bỏ cõi đời, thì chúng tôi nguyện chết một chỗ cho trọn kiếp.
Linh dị thay! Khi hai ông bà khóc kể, thì tiếng sầu tư cảm động đến Hoàng Thiên nên Ðế Thích mới hóa ra một vị thần y ở trên chót núi đi xuống, đến hứa cứu Quang Thiểm sống lại. Vị thần y liền cạy miệng mà đổ thuốc vào, thì trong giây lát chàng cựa quậy rên la, rồi lần lần tỉnh lại, mở mắt ra thấy song thân ngồi một bên và quan quân đứng kề đông đúc. Chàng bèn lạy tạ ơn vua và mừng rỡ cha mẹ. Khi ấy cha con mừng mừng tủi tủi, nào dè sự trùng sanh được như vậy, nên đồng lạy giữa hư không mà đáp đền ơn tái tạo. Sau đó, vua Ca Di từ tạ ra về, còn Quang Thiểm thì dìu dắt thân sanh trở về chòi tranh.
Ðây nói qua từ ngày vua Ca Di đi săn, thấy sự linh ứng như thế, thì ra lệnh cấm không cho ai vào rừng săn bắn nữa; và lại chiêu dụ quần thần phải phụng hành theo Phật giáo, giữ trọn mười điều thập thiện và bắt chước theo gương hiếu hạnh của Ðạo sĩ Quang Thiểm mà phụng thờ cha mẹ. Nhờ chánh lịnh của vua Ca Di như thế mà cảm hóa đến bốn phương, nên khiến trong quốc độ mưa thuận gió hòa, muôn dân yên ổn. Thiệt là một thời kỳ thái bình an lạc.
Còn chàng đạo sĩ Quang Thiểm cứ giữ mực thường, mỗi ngày lo nuôi dưỡng song thân và tu tập theo Phật giáo, rồi sau cả gia đình theo thời gian đều đặng thiện chung nơi núi ấy. Nguyên vua Ca Di là tiền thân của ông A Nan, thân phụ của đạo sĩ Quang Thiểm là tiền thân của Tịnh Phạn Vương, và thân mẫu là tiền thân của bà Hoàng Hậu Ma Gia. Còn đạo sĩ Quang Thiểm có lòng chí hiếu mà bị vua bắn lầm đã nói trên đó chính là tiền thân của Phật Thích Ca.
Thiện Dụng.
#20
Gửi vào 10/07/2012 - 23:40
PHẦN NĂM
19. Bất Diệt Trong Sanh Diệt
Có một hôm, vua Ba Tư Nặc bạch Phật:
- Bạch Ðức Thế Tôn! Ngày trước khi chưa gặp Ngài, tôi thường nghe các ngoại đạo nói thân này chết rồi mất hẳn. Và như thế gọi là Niết Bàn. Ðến nay tuy gặp Phật, đối với vấn đề ấy tôi vẫn chưa thể giải quyết cách nào cho khỏi phải trái với tâm tánh bất sanh bất diệt?
Phật dạy:
- Nhân giả! Cái thân thể của ông đó có thường còn không tiêu diệt không?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Phải tiêu diệt?
Vì thân tôi tuy chưa chết nhưng tôi xét thấy nó thay đổi mãi mãi, như lửa đốt củi thành than, than tiêu ra tro, cho đến tan mất.
- Chính vậy, nhân giả! Nhưng ông già yếu như thế dáng mạo hiện giờ có giống lúc còn nhỏ không?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Giống thế nào được? Khi nhỏ tôi tươi trẻ mà nay già cả thì tóc bạc mặt nhăn...
- Nhưng đột nhiên thay đổi như thế chăng?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Nó ngấm ngầm thay đổi, tôi không hề biết. Khi hai mươi khác lúc mười tuổi, khi ba mươi lại suy hơn hai mươi, đến bây giờ sáu hai tuổi, ngó lại lúc năm mươi thì lúc ấy cường tráng nhiều. Nhưng đó là kể trong chừng chục năm, chứ thật suy xét kỹ càng thì nó thay đổi trong từng phút, từng giây và rồi đây sẽ điêu tàn.
- Nhân giả! Ông xét thân thể ông biến hóa không ngừng và sẽ tiêu diệt như thế, nhưng ông có biết trong cái thân sanh diệt ấy có cái gì bất sinh bất diệt không?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Thật tôi không biết.
- Nhân giả! Ông bắt đầu thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Khi ba tuổi mẫu thân tôi dắt tôi đi bái yết đền trời Kỳ Bà, bấy giờ đi ngang qua sông Hằng tôi đã trông thấy nước sông ấy.
- Ông vừa nói thân thể ông thay đổi rõ ràng nhất là trong hàng chục năm. Vậy khi ba tuổi ông thấy nước sông Hằng với mười ba tuổi thấy nước sông ấy, hai cái thấy đó có gì khác nhau không?
- Bạch không! Cho đến nay sáu mươi hai tuổi rồi mà sự thấy vẫn cũng như thế.
- Nhân giả! Ông lấy làm lo lắng khi thấy thân thể ông tóc bạc mặt nhăn, khi già khác lúc trẻ. Nhưng cái thấy nước sông Hằng đó có trẻ già thay đổi như thân thể ông không?
- Bạch không! Cái thấy ấy lúc nhỏ cho đến bây giờ đây không sai biệt gì cả.
Phật dạy:
- Nhân giả! Mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy (kiến tánh) chưa khi nào nhăn. Hễ cái gì nhăn thì quyết phải biến đổi, còn cái gì không nhăn thì cái ấy quyết định bất biến. Cái gì biến đổi thì phải tiêu diệt, còn cái gì không biến đổi thì vốn bất sinh diệt. Cái đã không sinh diệt thì đâu có bị sinh tử lưu chuyển. Sao ông không tự giác bản tánh bất sinh diệt ấy mà dẫn câu chết rồi mất hẳn của bọn đoạn kiến ngoại đạo để tự nghi hoặc.
Vua Ba Tư Nặc nghe Phật khai thị như thế, liền giác ngộ bỏ thân thì thọ thân, chứ không khi nào mất hẳn. Như một người ngồi trên chiếc đò, đò đi thì thấy là bờ chạy. Cũng như thế, người ta chỉ nhìn mình hoàn toàn với con mắt sanh diệt. Người ta đã tự phủ nhận giá trị của mình vậy.
Ðạo Phật trái lại, lại phát huy cho ta thấy, trong cái thân thể sinh diệt vô thường có cái bản tánh vô thường bất sinh diệt. Ðạo Phật đã phát huy bản tánh ấy bằng cách căn cứ ngay với các giác quan thô cạn, chứ không xa xôi đâu khác. Và khi nói đến bản tánh, bất sanh diệt ấy, thì đạo Phật đã dùng vô số danh từ rất cao đẹp.
Thật ra, chúng ta bất lực, tư tưởng hành động bị “Vô minh” chi phối. Là vì chúng ta không tự ngộ bản tánh ấy. Nếu giác ngộ tánh bất diệt trong sanh diệt, thì toàn thể sanh diệt là bất diệt vậy. Và cuộc đời chúng ta sẽ hiện thân của Từ Bi, sẽ rạng ngời ánh Trí Tuệ, nếu chúng ta luôn luôn sống với bản tánh bất diệt trong cuộc đời sanh diệt.
Ba cõi lầm mê tâm tịch tịnh
Một đời sinh tử tánh thường như
Sớm mai thấy nụ hoa hồng nở
Nhẹ gót trần sa mộng tỉnh rồi.
Thích Trí Ðức
19. Bất Diệt Trong Sanh Diệt
Có một hôm, vua Ba Tư Nặc bạch Phật:
- Bạch Ðức Thế Tôn! Ngày trước khi chưa gặp Ngài, tôi thường nghe các ngoại đạo nói thân này chết rồi mất hẳn. Và như thế gọi là Niết Bàn. Ðến nay tuy gặp Phật, đối với vấn đề ấy tôi vẫn chưa thể giải quyết cách nào cho khỏi phải trái với tâm tánh bất sanh bất diệt?
Phật dạy:
- Nhân giả! Cái thân thể của ông đó có thường còn không tiêu diệt không?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Phải tiêu diệt?
Vì thân tôi tuy chưa chết nhưng tôi xét thấy nó thay đổi mãi mãi, như lửa đốt củi thành than, than tiêu ra tro, cho đến tan mất.
- Chính vậy, nhân giả! Nhưng ông già yếu như thế dáng mạo hiện giờ có giống lúc còn nhỏ không?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Giống thế nào được? Khi nhỏ tôi tươi trẻ mà nay già cả thì tóc bạc mặt nhăn...
- Nhưng đột nhiên thay đổi như thế chăng?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Nó ngấm ngầm thay đổi, tôi không hề biết. Khi hai mươi khác lúc mười tuổi, khi ba mươi lại suy hơn hai mươi, đến bây giờ sáu hai tuổi, ngó lại lúc năm mươi thì lúc ấy cường tráng nhiều. Nhưng đó là kể trong chừng chục năm, chứ thật suy xét kỹ càng thì nó thay đổi trong từng phút, từng giây và rồi đây sẽ điêu tàn.
- Nhân giả! Ông xét thân thể ông biến hóa không ngừng và sẽ tiêu diệt như thế, nhưng ông có biết trong cái thân sanh diệt ấy có cái gì bất sinh bất diệt không?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Thật tôi không biết.
- Nhân giả! Ông bắt đầu thấy nước sông Hằng lúc mấy tuổi?
- Bạch Ðức Thế Tôn! Khi ba tuổi mẫu thân tôi dắt tôi đi bái yết đền trời Kỳ Bà, bấy giờ đi ngang qua sông Hằng tôi đã trông thấy nước sông ấy.
- Ông vừa nói thân thể ông thay đổi rõ ràng nhất là trong hàng chục năm. Vậy khi ba tuổi ông thấy nước sông Hằng với mười ba tuổi thấy nước sông ấy, hai cái thấy đó có gì khác nhau không?
- Bạch không! Cho đến nay sáu mươi hai tuổi rồi mà sự thấy vẫn cũng như thế.
- Nhân giả! Ông lấy làm lo lắng khi thấy thân thể ông tóc bạc mặt nhăn, khi già khác lúc trẻ. Nhưng cái thấy nước sông Hằng đó có trẻ già thay đổi như thân thể ông không?
- Bạch không! Cái thấy ấy lúc nhỏ cho đến bây giờ đây không sai biệt gì cả.
Phật dạy:
- Nhân giả! Mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy (kiến tánh) chưa khi nào nhăn. Hễ cái gì nhăn thì quyết phải biến đổi, còn cái gì không nhăn thì cái ấy quyết định bất biến. Cái gì biến đổi thì phải tiêu diệt, còn cái gì không biến đổi thì vốn bất sinh diệt. Cái đã không sinh diệt thì đâu có bị sinh tử lưu chuyển. Sao ông không tự giác bản tánh bất sinh diệt ấy mà dẫn câu chết rồi mất hẳn của bọn đoạn kiến ngoại đạo để tự nghi hoặc.
Vua Ba Tư Nặc nghe Phật khai thị như thế, liền giác ngộ bỏ thân thì thọ thân, chứ không khi nào mất hẳn. Như một người ngồi trên chiếc đò, đò đi thì thấy là bờ chạy. Cũng như thế, người ta chỉ nhìn mình hoàn toàn với con mắt sanh diệt. Người ta đã tự phủ nhận giá trị của mình vậy.
Ðạo Phật trái lại, lại phát huy cho ta thấy, trong cái thân thể sinh diệt vô thường có cái bản tánh vô thường bất sinh diệt. Ðạo Phật đã phát huy bản tánh ấy bằng cách căn cứ ngay với các giác quan thô cạn, chứ không xa xôi đâu khác. Và khi nói đến bản tánh, bất sanh diệt ấy, thì đạo Phật đã dùng vô số danh từ rất cao đẹp.
Thật ra, chúng ta bất lực, tư tưởng hành động bị “Vô minh” chi phối. Là vì chúng ta không tự ngộ bản tánh ấy. Nếu giác ngộ tánh bất diệt trong sanh diệt, thì toàn thể sanh diệt là bất diệt vậy. Và cuộc đời chúng ta sẽ hiện thân của Từ Bi, sẽ rạng ngời ánh Trí Tuệ, nếu chúng ta luôn luôn sống với bản tánh bất diệt trong cuộc đời sanh diệt.
Ba cõi lầm mê tâm tịch tịnh
Một đời sinh tử tánh thường như
Sớm mai thấy nụ hoa hồng nở
Nhẹ gót trần sa mộng tỉnh rồi.
Thích Trí Ðức
#21
Gửi vào 10/07/2012 - 23:52
20. Bảy Bước Thăng Trầm
Một hôm, thanh niên Citta, con trai một nhà luyện voi, đi giữa đường gặp một vị Tỳ Kheo đang khất thực. Nhiều Phật tử đến đảnh lễ đặt vào bát của Tỳ Kheo những thức ăn ngon lành, trong đó có một trái sầu riêng, món mà Citta đặc biệt ưa thích. Anh ta liền tiến đến vị Tỳ Kheo và nói:
- Bạch Đại Đức, Ngài cũng ưa món này sao?
- Ồ thanh niên. Nếu muốn, ngươi có thể lấy đi!
Thanh niên sung sướng cám ơn vị Tỳ Kheo, nhận trái sầu riêng đem về. Dọc đường anh ta suy nghĩ: Mình lao động suốt ngày mới có mà ăn, vậy mà vị Đại Đức thì trông thực là nhàn nhã, khỏi làm gì cả, lại được cúng dường đầy đủ. Hay thay, nếu ta cũng xuất gia để được cúng dường.
Nghĩ thế, thanh niên bèn cạo đầu đắp cà sa đi khất thực, gia nhập một tăng đoàn của đức Phật. Nhưng vì xuất gia với một động cơ không hay ho gì lắm, nên chẳng bao lâu Citta phải hoàn tục vì chàng không chiụ nổi nếp sống khổ hạnh gò bó của Tăng đoàn. Nhưng sự thanh tịnh an lạc của chư Tăng, với khung cảnh trang nghiêm ở vườn Cấp Cô Độc, nơi đức Thế Tôn ngự toạ, vẫn để lại một ấn tượng khó phai trong tâm khảm chàng đến nỗi khi đã hoàn tục, Citta vẫn thường mơ ước trở lại đời tu sĩ.
Một hôm gặp con voi khó luyện, chàng trở nên chán nghề của cha, và tìm đến Phật xin xuất gia lại. Đức Thế Tôn chấp thuận cho chàng thế phát. Tu được vài tháng, chàng lại đâm chán, xin hoàn tục. Một lần nữa chàng trở về đời sống tại gia, cứ thế cho đến khi hoàn tục lần thứ năm. Lần này khi trở về nhà, việc đầu tiên chàng định làm là cưới một chị vợ để thay đổi không khí, họa may đời chàng có một chút ổn định nào chăng. Chàng đâm chán cái bệnh ưa thay đổi của chàng, và muốn thay đổi lần chót, do đó chàng cưới vợ.
Đời sống hôn nhân chẳng bao lâu cũng làm cho chàng chán ngấy lên tới cổ. Một đêm kia, chàng trằn trọc không ngủ được, dòm qua thấy chị vợ đang ngủ say, mép tiết ra một đống nước bọt trên gối, bụng mang bầu lớn trướng như một con cá bóng mú sắp tới kỳ sinh nở, chàng bỗng thấm thía sự dơ uế của dục lạc và lập tức ôm y bát chạy ra đường. Qua năm lần xuất gia rồi hoàn tục, chàng vẫn giữ y bát như người ta giữ cái va li chờ dịp đi xa. Trên đường vắng, đêm khuya thanh tịnh, một mình tiến đến rừng Cấp Đô Độc, bao nhiêu hột giống tốt đẹp chàng đã gieo trong ruộng thức cũng trỗi dậy một hạt, đâm chồi nảy lộc. Chàng chứng được sơ quả Dự Lưu khi đang còn đi trên đường.
Trong lúc ấy, tại vườn Cấp Cô Độc, các thầy Tỳ Kheo sau thời tọa thiền đang ngồi bàn tán về chàng:
- Tên đó lần này nếu còn trở lại, chúng ta nhất quyết đừng cho xuất gia các huynh đồng ý không?
- Đồng ý! Cho y xuất gia chẳng khác nào bắt cóc bỏ dĩa. Y cứ nhảy ra nhảy vô hoài, làm náo động nếp sống thanh tịnh của chúng Tăng.
- Phải đầy! Nhưng mà chư hiền nghĩ sao? Y có còn trở lại nữa không? Chắc y sẽ xấu hổ không trở lại. Năm lần là quá lắm rồi!
- Chúng ta hãy chờ xem!
Đúng lúc ấy, thì Citta ôm y bát tiến vào vườn. Mặt rạng rỡ như trăng rằm, các căn tịch tịnh. Chư Tỳ Kheo không ai bảo ai, đều im lặng khi Citta ngỏ lời xin được nhập Tăng đoàn trở lại. Có nghĩa là họ đã bằng lòng.
Lần thứ sáu xuất gia, Citta nhiệt tâm tu tập và nhanh chóng đạt đến Tứ Thiền, nội tâm định tĩnh. Chàng vô cùng hân hoan và mong mỏi có dịp để tỏ lộ Thánh quả. Một hôm, vài vị đã chứng A La Hán đang ngồi đàm luận về pháp. Citta cũng tham dự không ngớt ngắt lời. Vị Trưởng lão Ma Ha Câu Thi La bảo:
- Này Citta, chú hãy đợi những vị Thượng tọa nói xong cái đã, rồi mới nên phát biểu ý kiến của mình.
Vài vị Tỳ Kheo bênh vực Citta:
- Bạch Thượng tọa, huynh Citta đã đắc pháp nhãn có thể nói lên những gì đã thực chứng. Xin chớ khiển trách y.
- Ta biết y có đạt thiền chứng. Nhưng điều đó không ngăn nổi y sẽ hoàn tục trở lại. Ví như một con bò được buộc chặt vào cái cây thì có vẻ hiền lành an ổn, nhưng nếu thả ra nó sẽ giẫm đạp nát hết ruộng lúa. Cũng vậy, một vị Tỳ Kheo khi đứng trước bậc Đạo Sư hay trước những bậc Thánh, có thể rất khiêm cung, đạo hạnh, nhưng khi thả lỏng y có thể thối đọa, từ bỏ học giới và hoàn tục. Một người có thể chứng đắc bốn thiền, nội tĩnh nhất tâm, và trong khi an trú các thiền chứng này, y khoác lác với mọi người, không thể tự kềm chế y đâm ra ưa khoe khoang thánh quả.
Khi y hoan hỷ về chúng, tham đắm chúng, thì chính những thiền chứng ấy đưa y đến chỗ tàn mạt. Vì những cấu uế của tâm rất vi tế, thiền chứng chỉ làm cho chúng lắng xuống chứ không mất. Như khi một đạo quân cấm trại trong rừng, thì vì những tiếng trống, tiếng kèn, ống loa, xe cộ và tiếng người, ta không nghe được tiếng những côn trùng nấp trong cỏ, ta tưởng chúng đã im. Nhưng khi đạo quân nhổ trại đi chỗ khác thì tiếng côn trùng, tiếng dế sẽ nỉ non trở lại như thường. Về sau, quả nhiên Tỳ Kheo Citta từ bỏ đời sống xuất gia lần thứ sáu. Các Tỳ Kheo hỏi Trưởng lão:
- Có phải Ngài đã biết trước việc này do thiền quán hay nhờ chư Thiên mách?
- Cả hai.
Họ đi đến Phật, kể lại vụ này và tỏ ý tiếc rẻ cho Citta. Nhưng Đức Thế Tôn dạy:
- Không sao, Citta sẽ trở lại.
Một hôm, Citta cùng đi với Pottaphàda một nhà khổ hạnh lang thang, đến hầu Phật để hỏi về pháp. Nhưng lời đức Thế Tôn dạy cho vị khổ hạnh làm chàng rất hài lòng. Chàng bèn xin Phật xuất gia lần thứ bảy, cũng là lần chót. Đức Phật bằng lòng, sau một thời gian ngắn Citta chứng quả A La Hán.
Đức Thế Tôn thuật lại nguyện do vì sao Citta phải bảy lần xuất gia như vậy, mới chứng quả. Nguyên một đời trước thời Phật Ca Diếp, chàng cùng đi với một người bạn xuất gia. Bạn chàng muốn ngỏ ý hoàn tục vì không chịu nỗi khổ hạnh. Thay vì khuyến khích bạn tu hành tiếp tục, Citta lại có tâm xấu xúi giục bạn bỏ tu để bạn bị chê, mình được khen: vì nhân duyên ấy, kiếp này Citta phải chịu sự sỉ nhục vào ra bảy lần trong Tăng đoàn…
Người xuất gia có hai ước vọng. Ước vọng gần gũi nhất là:
- Chánh tín xuất gia, đồng chơn học đạo. Bất nhiễm thế duyên, thường tu phạm hạnh.
Và ước vọng cao xa là:
- Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.
Như Thủy
Một hôm, thanh niên Citta, con trai một nhà luyện voi, đi giữa đường gặp một vị Tỳ Kheo đang khất thực. Nhiều Phật tử đến đảnh lễ đặt vào bát của Tỳ Kheo những thức ăn ngon lành, trong đó có một trái sầu riêng, món mà Citta đặc biệt ưa thích. Anh ta liền tiến đến vị Tỳ Kheo và nói:
- Bạch Đại Đức, Ngài cũng ưa món này sao?
- Ồ thanh niên. Nếu muốn, ngươi có thể lấy đi!
Thanh niên sung sướng cám ơn vị Tỳ Kheo, nhận trái sầu riêng đem về. Dọc đường anh ta suy nghĩ: Mình lao động suốt ngày mới có mà ăn, vậy mà vị Đại Đức thì trông thực là nhàn nhã, khỏi làm gì cả, lại được cúng dường đầy đủ. Hay thay, nếu ta cũng xuất gia để được cúng dường.
Nghĩ thế, thanh niên bèn cạo đầu đắp cà sa đi khất thực, gia nhập một tăng đoàn của đức Phật. Nhưng vì xuất gia với một động cơ không hay ho gì lắm, nên chẳng bao lâu Citta phải hoàn tục vì chàng không chiụ nổi nếp sống khổ hạnh gò bó của Tăng đoàn. Nhưng sự thanh tịnh an lạc của chư Tăng, với khung cảnh trang nghiêm ở vườn Cấp Cô Độc, nơi đức Thế Tôn ngự toạ, vẫn để lại một ấn tượng khó phai trong tâm khảm chàng đến nỗi khi đã hoàn tục, Citta vẫn thường mơ ước trở lại đời tu sĩ.
Một hôm gặp con voi khó luyện, chàng trở nên chán nghề của cha, và tìm đến Phật xin xuất gia lại. Đức Thế Tôn chấp thuận cho chàng thế phát. Tu được vài tháng, chàng lại đâm chán, xin hoàn tục. Một lần nữa chàng trở về đời sống tại gia, cứ thế cho đến khi hoàn tục lần thứ năm. Lần này khi trở về nhà, việc đầu tiên chàng định làm là cưới một chị vợ để thay đổi không khí, họa may đời chàng có một chút ổn định nào chăng. Chàng đâm chán cái bệnh ưa thay đổi của chàng, và muốn thay đổi lần chót, do đó chàng cưới vợ.
Đời sống hôn nhân chẳng bao lâu cũng làm cho chàng chán ngấy lên tới cổ. Một đêm kia, chàng trằn trọc không ngủ được, dòm qua thấy chị vợ đang ngủ say, mép tiết ra một đống nước bọt trên gối, bụng mang bầu lớn trướng như một con cá bóng mú sắp tới kỳ sinh nở, chàng bỗng thấm thía sự dơ uế của dục lạc và lập tức ôm y bát chạy ra đường. Qua năm lần xuất gia rồi hoàn tục, chàng vẫn giữ y bát như người ta giữ cái va li chờ dịp đi xa. Trên đường vắng, đêm khuya thanh tịnh, một mình tiến đến rừng Cấp Đô Độc, bao nhiêu hột giống tốt đẹp chàng đã gieo trong ruộng thức cũng trỗi dậy một hạt, đâm chồi nảy lộc. Chàng chứng được sơ quả Dự Lưu khi đang còn đi trên đường.
Trong lúc ấy, tại vườn Cấp Cô Độc, các thầy Tỳ Kheo sau thời tọa thiền đang ngồi bàn tán về chàng:
- Tên đó lần này nếu còn trở lại, chúng ta nhất quyết đừng cho xuất gia các huynh đồng ý không?
- Đồng ý! Cho y xuất gia chẳng khác nào bắt cóc bỏ dĩa. Y cứ nhảy ra nhảy vô hoài, làm náo động nếp sống thanh tịnh của chúng Tăng.
- Phải đầy! Nhưng mà chư hiền nghĩ sao? Y có còn trở lại nữa không? Chắc y sẽ xấu hổ không trở lại. Năm lần là quá lắm rồi!
- Chúng ta hãy chờ xem!
Đúng lúc ấy, thì Citta ôm y bát tiến vào vườn. Mặt rạng rỡ như trăng rằm, các căn tịch tịnh. Chư Tỳ Kheo không ai bảo ai, đều im lặng khi Citta ngỏ lời xin được nhập Tăng đoàn trở lại. Có nghĩa là họ đã bằng lòng.
Lần thứ sáu xuất gia, Citta nhiệt tâm tu tập và nhanh chóng đạt đến Tứ Thiền, nội tâm định tĩnh. Chàng vô cùng hân hoan và mong mỏi có dịp để tỏ lộ Thánh quả. Một hôm, vài vị đã chứng A La Hán đang ngồi đàm luận về pháp. Citta cũng tham dự không ngớt ngắt lời. Vị Trưởng lão Ma Ha Câu Thi La bảo:
- Này Citta, chú hãy đợi những vị Thượng tọa nói xong cái đã, rồi mới nên phát biểu ý kiến của mình.
Vài vị Tỳ Kheo bênh vực Citta:
- Bạch Thượng tọa, huynh Citta đã đắc pháp nhãn có thể nói lên những gì đã thực chứng. Xin chớ khiển trách y.
- Ta biết y có đạt thiền chứng. Nhưng điều đó không ngăn nổi y sẽ hoàn tục trở lại. Ví như một con bò được buộc chặt vào cái cây thì có vẻ hiền lành an ổn, nhưng nếu thả ra nó sẽ giẫm đạp nát hết ruộng lúa. Cũng vậy, một vị Tỳ Kheo khi đứng trước bậc Đạo Sư hay trước những bậc Thánh, có thể rất khiêm cung, đạo hạnh, nhưng khi thả lỏng y có thể thối đọa, từ bỏ học giới và hoàn tục. Một người có thể chứng đắc bốn thiền, nội tĩnh nhất tâm, và trong khi an trú các thiền chứng này, y khoác lác với mọi người, không thể tự kềm chế y đâm ra ưa khoe khoang thánh quả.
Khi y hoan hỷ về chúng, tham đắm chúng, thì chính những thiền chứng ấy đưa y đến chỗ tàn mạt. Vì những cấu uế của tâm rất vi tế, thiền chứng chỉ làm cho chúng lắng xuống chứ không mất. Như khi một đạo quân cấm trại trong rừng, thì vì những tiếng trống, tiếng kèn, ống loa, xe cộ và tiếng người, ta không nghe được tiếng những côn trùng nấp trong cỏ, ta tưởng chúng đã im. Nhưng khi đạo quân nhổ trại đi chỗ khác thì tiếng côn trùng, tiếng dế sẽ nỉ non trở lại như thường. Về sau, quả nhiên Tỳ Kheo Citta từ bỏ đời sống xuất gia lần thứ sáu. Các Tỳ Kheo hỏi Trưởng lão:
- Có phải Ngài đã biết trước việc này do thiền quán hay nhờ chư Thiên mách?
- Cả hai.
Họ đi đến Phật, kể lại vụ này và tỏ ý tiếc rẻ cho Citta. Nhưng Đức Thế Tôn dạy:
- Không sao, Citta sẽ trở lại.
Một hôm, Citta cùng đi với Pottaphàda một nhà khổ hạnh lang thang, đến hầu Phật để hỏi về pháp. Nhưng lời đức Thế Tôn dạy cho vị khổ hạnh làm chàng rất hài lòng. Chàng bèn xin Phật xuất gia lần thứ bảy, cũng là lần chót. Đức Phật bằng lòng, sau một thời gian ngắn Citta chứng quả A La Hán.
Đức Thế Tôn thuật lại nguyện do vì sao Citta phải bảy lần xuất gia như vậy, mới chứng quả. Nguyên một đời trước thời Phật Ca Diếp, chàng cùng đi với một người bạn xuất gia. Bạn chàng muốn ngỏ ý hoàn tục vì không chịu nỗi khổ hạnh. Thay vì khuyến khích bạn tu hành tiếp tục, Citta lại có tâm xấu xúi giục bạn bỏ tu để bạn bị chê, mình được khen: vì nhân duyên ấy, kiếp này Citta phải chịu sự sỉ nhục vào ra bảy lần trong Tăng đoàn…
Người xuất gia có hai ước vọng. Ước vọng gần gũi nhất là:
- Chánh tín xuất gia, đồng chơn học đạo. Bất nhiễm thế duyên, thường tu phạm hạnh.
Và ước vọng cao xa là:
- Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.
Như Thủy
#22
Gửi vào 12/07/2012 - 09:09
20. Bảy Bước Thăng Trầm
Một hôm, thanh niên Citta, con trai một nhà luyện voi, đi giữa đường gặp một vị Tỳ Kheo đang khất thực. Nhiều Phật tử đến đảnh lễ đặt vào bát của Tỳ Kheo những thức ăn ngon lành, trong đó có một trái sầu riêng, món mà Citta đặc biệt ưa thích. Anh ta liền tiến đến vị Tỳ Kheo và nói:
- Bạch Đại Đức, Ngài cũng ưa món này sao?
- Ồ thanh niên. Nếu muốn, ngươi có thể lấy đi!
Thanh niên sung sướng cám ơn vị Tỳ Kheo, nhận trái sầu riêng đem về. Dọc đường anh ta suy nghĩ: Mình lao động suốt ngày mới có mà ăn, vậy mà vị Đại Đức thì trông thực là nhàn nhã, khỏi làm gì cả, lại được cúng dường đầy đủ. Hay thay, nếu ta cũng xuất gia để được cúng dường.
Nghĩ thế, thanh niên bèn cạo đầu đắp cà sa đi khất thực, gia nhập một tăng đoàn của đức Phật. Nhưng vì xuất gia với một động cơ không hay ho gì lắm, nên chẳng bao lâu Citta phải hoàn tục vì chàng không chiụ nổi nếp sống khổ hạnh gò bó của Tăng đoàn. Nhưng sự thanh tịnh an lạc của chư Tăng, với khung cảnh trang nghiêm ở vườn Cấp Cô Độc, nơi đức Thế Tôn ngự toạ, vẫn để lại một ấn tượng khó phai trong tâm khảm chàng đến nỗi khi đã hoàn tục, Citta vẫn thường mơ ước trở lại đời tu sĩ.
Một hôm gặp con voi khó luyện, chàng trở nên chán nghề của cha, và tìm đến Phật xin xuất gia lại. Đức Thế Tôn chấp thuận cho chàng thế phát. Tu được vài tháng, chàng lại đâm chán, xin hoàn tục. Một lần nữa chàng trở về đời sống tại gia, cứ thế cho đến khi hoàn tục lần thứ năm. Lần này khi trở về nhà, việc đầu tiên chàng định làm là cưới vợ để họa may đời chàng có một chút ổn định nào chăng. Chàng đâm chán cái bệnh ưa thay đổi của chàng và muốn thay đổi lần chót do đó chàng cưới vợ.
Đời sống hôn nhân chẳng bao lâu cũng làm cho chàng chán ngấy lên tới cổ. Một đêm kia chàng trằn trọc không ngủ được, nhìn qua thấy vợ đang ngủ say, mép tiết ra một đống nước bọt trên gối, chàng bỗng thấm thía sự dơ uế của dục lạc và lập tức ôm y bát chạy ra đường. Qua năm lần xuất gia rồi hoàn tục, chàng vẫn giữ y bát như người ta giữ cái va li chờ dịp đi xa. Trên đường vắng, đêm khuya thanh tịnh, một mình tiến đến rừng Cấp Đô Độc, bao nhiêu hột giống tốt đẹp chàng đã gieo trong ruộng thức cũng trỗi dậy một hạt, đâm chồi nảy lộc. Chàng chứng được sơ quả Dự Lưu khi đang còn đi trên đường.
Trong lúc ấy, tại vườn Cấp Cô Độc, các thầy Tỳ Kheo sau thời tọa thiền đang ngồi bàn tán về chàng:
- Tên đó lần này nếu còn trở lại, chúng ta nhất quyết đừng cho xuất gia các huynh đồng ý không?
- Đồng ý! Cho y xuất gia chẳng khác nào bắt cóc bỏ dĩa. Y cứ nhảy ra nhảy vô hoài, làm náo động nếp sống thanh tịnh của chúng Tăng.
- Phải đầy! Nhưng mà chư hiền nghĩ sao? Y có còn trở lại nữa không? Chắc y sẽ xấu hổ không trở lại. Năm lần là quá lắm rồi!
- Chúng ta hãy chờ xem!
Đúng lúc ấy, thì Citta ôm y bát tiến vào vườn. Mặt rạng rỡ như trăng rằm, các căn tịch tịnh. Chư Tỳ Kheo không ai bảo ai, đều im lặng khi Citta ngỏ lời xin được nhập Tăng đoàn trở lại. Có nghĩa là họ đã bằng lòng.
Lần thứ sáu xuất gia, Citta nhiệt tâm tu tập và nhanh chóng đạt đến Tứ Thiền, nội tâm định tĩnh. Chàng vô cùng hân hoan và mong mỏi có dịp để tỏ lộ Thánh quả. Một hôm, vài vị đã chứng A La Hán đang ngồi đàm luận về pháp. Citta cũng tham dự không ngớt ngắt lời. Vị Trưởng lão Ma Ha Câu Thi La bảo:
- Này Citta, chú hãy đợi những vị Thượng tọa nói xong cái đã, rồi mới nên phát biểu ý kiến của mình.
Vài vị Tỳ Kheo bênh vực Citta:
- Bạch Thượng tọa, huynh Citta đã đắc pháp nhãn có thể nói lên những gì đã thực chứng. Xin chớ khiển trách y.
- Ta biết y có đạt thiền chứng. Nhưng điều đó không ngăn nổi y sẽ hoàn tục trở lại. Ví như một con bò được buộc chặt vào cái cây thì có vẻ hiền lành an ổn, nhưng nếu thả ra nó sẽ giẫm đạp nát hết ruộng lúa. Cũng vậy, một vị Tỳ Kheo khi đứng trước bậc Đạo Sư hay trước những bậc Thánh, có thể rất khiêm cung, đạo hạnh, nhưng khi thả lỏng y có thể thối đọa, từ bỏ học giới và hoàn tục. Một người có thể chứng đắc bốn thiền, nội tĩnh nhất tâm, và trong khi an trú các thiền chứng này, y khoác lác với mọi người, không thể tự kềm chế y đâm ra ưa khoe khoang thánh quả.
Khi y hoan hỷ về chúng, tham đắm chúng, thì chính những thiền chứng ấy đưa y đến chỗ tàn mạt. Vì những cấu uế của tâm rất vi tế, thiền chứng chỉ làm cho chúng lắng xuống chứ không mất. Như khi một đạo quân cấm trại trong rừng, thì vì những tiếng trống, tiếng kèn, ống loa, xe cộ và tiếng người, ta không nghe được tiếng những côn trùng nấp trong cỏ, ta tưởng chúng đã im. Nhưng khi đạo quân nhổ trại đi chỗ khác thì tiếng côn trùng, tiếng dế sẽ nỉ non trở lại như thường. Về sau, quả nhiên Tỳ Kheo Citta từ bỏ đời sống xuất gia lần thứ sáu. Các Tỳ Kheo hỏi Trưởng lão:
- Có phải Ngài đã biết trước việc này do thiền quán hay nhờ chư Thiên mách?
- Cả hai.
Họ đi đến Phật, kể lại vụ này và tỏ ý tiếc rẻ cho Citta. Nhưng Đức Thế Tôn dạy:
- Không sao, Citta sẽ trở lại.
Một hôm, Citta cùng đi với Pottaphàda một nhà khổ hạnh lang thang, đến hầu Phật để hỏi về pháp. Nhưng lời đức Thế Tôn dạy cho vị khổ hạnh làm chàng rất hài lòng. Chàng bèn xin Phật xuất gia lần thứ bảy, cũng là lần chót. Đức Phật bằng lòng, sau một thời gian ngắn Citta chứng quả A La Hán.
Đức Thế Tôn thuật lại nguyện do vì sao Citta phải bảy lần xuất gia như vậy, mới chứng quả. Nguyên một đời trước thời Phật Ca Diếp, chàng cùng đi với một người bạn xuất gia. Bạn chàng muốn ngỏ ý hoàn tục vì không chịu nỗi khổ hạnh. Thay vì khuyến khích bạn tu hành tiếp tục, Citta lại có tâm xấu xúi giục bạn bỏ tu để bạn bị chê, mình được khen: vì nhân duyên ấy, kiếp này Citta phải chịu sự sỉ nhục vào ra bảy lần trong Tăng đoàn…
Người xuất gia có hai ước vọng. Ước vọng gần gũi nhất là:
- Chánh tín xuất gia, đồng chơn học đạo. Bất nhiễm thế duyên, thường tu phạm hạnh.
Và ước vọng cao xa là:
- Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.
Một hôm, thanh niên Citta, con trai một nhà luyện voi, đi giữa đường gặp một vị Tỳ Kheo đang khất thực. Nhiều Phật tử đến đảnh lễ đặt vào bát của Tỳ Kheo những thức ăn ngon lành, trong đó có một trái sầu riêng, món mà Citta đặc biệt ưa thích. Anh ta liền tiến đến vị Tỳ Kheo và nói:
- Bạch Đại Đức, Ngài cũng ưa món này sao?
- Ồ thanh niên. Nếu muốn, ngươi có thể lấy đi!
Thanh niên sung sướng cám ơn vị Tỳ Kheo, nhận trái sầu riêng đem về. Dọc đường anh ta suy nghĩ: Mình lao động suốt ngày mới có mà ăn, vậy mà vị Đại Đức thì trông thực là nhàn nhã, khỏi làm gì cả, lại được cúng dường đầy đủ. Hay thay, nếu ta cũng xuất gia để được cúng dường.
Nghĩ thế, thanh niên bèn cạo đầu đắp cà sa đi khất thực, gia nhập một tăng đoàn của đức Phật. Nhưng vì xuất gia với một động cơ không hay ho gì lắm, nên chẳng bao lâu Citta phải hoàn tục vì chàng không chiụ nổi nếp sống khổ hạnh gò bó của Tăng đoàn. Nhưng sự thanh tịnh an lạc của chư Tăng, với khung cảnh trang nghiêm ở vườn Cấp Cô Độc, nơi đức Thế Tôn ngự toạ, vẫn để lại một ấn tượng khó phai trong tâm khảm chàng đến nỗi khi đã hoàn tục, Citta vẫn thường mơ ước trở lại đời tu sĩ.
Một hôm gặp con voi khó luyện, chàng trở nên chán nghề của cha, và tìm đến Phật xin xuất gia lại. Đức Thế Tôn chấp thuận cho chàng thế phát. Tu được vài tháng, chàng lại đâm chán, xin hoàn tục. Một lần nữa chàng trở về đời sống tại gia, cứ thế cho đến khi hoàn tục lần thứ năm. Lần này khi trở về nhà, việc đầu tiên chàng định làm là cưới vợ để họa may đời chàng có một chút ổn định nào chăng. Chàng đâm chán cái bệnh ưa thay đổi của chàng và muốn thay đổi lần chót do đó chàng cưới vợ.
Đời sống hôn nhân chẳng bao lâu cũng làm cho chàng chán ngấy lên tới cổ. Một đêm kia chàng trằn trọc không ngủ được, nhìn qua thấy vợ đang ngủ say, mép tiết ra một đống nước bọt trên gối, chàng bỗng thấm thía sự dơ uế của dục lạc và lập tức ôm y bát chạy ra đường. Qua năm lần xuất gia rồi hoàn tục, chàng vẫn giữ y bát như người ta giữ cái va li chờ dịp đi xa. Trên đường vắng, đêm khuya thanh tịnh, một mình tiến đến rừng Cấp Đô Độc, bao nhiêu hột giống tốt đẹp chàng đã gieo trong ruộng thức cũng trỗi dậy một hạt, đâm chồi nảy lộc. Chàng chứng được sơ quả Dự Lưu khi đang còn đi trên đường.
Trong lúc ấy, tại vườn Cấp Cô Độc, các thầy Tỳ Kheo sau thời tọa thiền đang ngồi bàn tán về chàng:
- Tên đó lần này nếu còn trở lại, chúng ta nhất quyết đừng cho xuất gia các huynh đồng ý không?
- Đồng ý! Cho y xuất gia chẳng khác nào bắt cóc bỏ dĩa. Y cứ nhảy ra nhảy vô hoài, làm náo động nếp sống thanh tịnh của chúng Tăng.
- Phải đầy! Nhưng mà chư hiền nghĩ sao? Y có còn trở lại nữa không? Chắc y sẽ xấu hổ không trở lại. Năm lần là quá lắm rồi!
- Chúng ta hãy chờ xem!
Đúng lúc ấy, thì Citta ôm y bát tiến vào vườn. Mặt rạng rỡ như trăng rằm, các căn tịch tịnh. Chư Tỳ Kheo không ai bảo ai, đều im lặng khi Citta ngỏ lời xin được nhập Tăng đoàn trở lại. Có nghĩa là họ đã bằng lòng.
Lần thứ sáu xuất gia, Citta nhiệt tâm tu tập và nhanh chóng đạt đến Tứ Thiền, nội tâm định tĩnh. Chàng vô cùng hân hoan và mong mỏi có dịp để tỏ lộ Thánh quả. Một hôm, vài vị đã chứng A La Hán đang ngồi đàm luận về pháp. Citta cũng tham dự không ngớt ngắt lời. Vị Trưởng lão Ma Ha Câu Thi La bảo:
- Này Citta, chú hãy đợi những vị Thượng tọa nói xong cái đã, rồi mới nên phát biểu ý kiến của mình.
Vài vị Tỳ Kheo bênh vực Citta:
- Bạch Thượng tọa, huynh Citta đã đắc pháp nhãn có thể nói lên những gì đã thực chứng. Xin chớ khiển trách y.
- Ta biết y có đạt thiền chứng. Nhưng điều đó không ngăn nổi y sẽ hoàn tục trở lại. Ví như một con bò được buộc chặt vào cái cây thì có vẻ hiền lành an ổn, nhưng nếu thả ra nó sẽ giẫm đạp nát hết ruộng lúa. Cũng vậy, một vị Tỳ Kheo khi đứng trước bậc Đạo Sư hay trước những bậc Thánh, có thể rất khiêm cung, đạo hạnh, nhưng khi thả lỏng y có thể thối đọa, từ bỏ học giới và hoàn tục. Một người có thể chứng đắc bốn thiền, nội tĩnh nhất tâm, và trong khi an trú các thiền chứng này, y khoác lác với mọi người, không thể tự kềm chế y đâm ra ưa khoe khoang thánh quả.
Khi y hoan hỷ về chúng, tham đắm chúng, thì chính những thiền chứng ấy đưa y đến chỗ tàn mạt. Vì những cấu uế của tâm rất vi tế, thiền chứng chỉ làm cho chúng lắng xuống chứ không mất. Như khi một đạo quân cấm trại trong rừng, thì vì những tiếng trống, tiếng kèn, ống loa, xe cộ và tiếng người, ta không nghe được tiếng những côn trùng nấp trong cỏ, ta tưởng chúng đã im. Nhưng khi đạo quân nhổ trại đi chỗ khác thì tiếng côn trùng, tiếng dế sẽ nỉ non trở lại như thường. Về sau, quả nhiên Tỳ Kheo Citta từ bỏ đời sống xuất gia lần thứ sáu. Các Tỳ Kheo hỏi Trưởng lão:
- Có phải Ngài đã biết trước việc này do thiền quán hay nhờ chư Thiên mách?
- Cả hai.
Họ đi đến Phật, kể lại vụ này và tỏ ý tiếc rẻ cho Citta. Nhưng Đức Thế Tôn dạy:
- Không sao, Citta sẽ trở lại.
Một hôm, Citta cùng đi với Pottaphàda một nhà khổ hạnh lang thang, đến hầu Phật để hỏi về pháp. Nhưng lời đức Thế Tôn dạy cho vị khổ hạnh làm chàng rất hài lòng. Chàng bèn xin Phật xuất gia lần thứ bảy, cũng là lần chót. Đức Phật bằng lòng, sau một thời gian ngắn Citta chứng quả A La Hán.
Đức Thế Tôn thuật lại nguyện do vì sao Citta phải bảy lần xuất gia như vậy, mới chứng quả. Nguyên một đời trước thời Phật Ca Diếp, chàng cùng đi với một người bạn xuất gia. Bạn chàng muốn ngỏ ý hoàn tục vì không chịu nỗi khổ hạnh. Thay vì khuyến khích bạn tu hành tiếp tục, Citta lại có tâm xấu xúi giục bạn bỏ tu để bạn bị chê, mình được khen: vì nhân duyên ấy, kiếp này Citta phải chịu sự sỉ nhục vào ra bảy lần trong Tăng đoàn…
Người xuất gia có hai ước vọng. Ước vọng gần gũi nhất là:
- Chánh tín xuất gia, đồng chơn học đạo. Bất nhiễm thế duyên, thường tu phạm hạnh.
Và ước vọng cao xa là:
- Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh.
#23
Gửi vào 12/07/2012 - 09:14
21. Chim Cú Mèo
Xưa có con chim Cú Mèo làm tổ chung trên một cây với chim Gáy. Một hôm, Cú Mèo đến từ giã chim Gáy để dọn đi nơi khác, Gáy ngạc nhiên hỏi:
- Bác đi đâu thế?
- Tôi dời nhà sang phương Tây.
- Sao thế? Có việc gì làm trở ngại cho bác? Tôi trông nơi đây sinh sống dễ dàng, mát mẻ, sao bác lại bỏ đi?
Cú Mèo buồn rầu đáp:
- Dân cư vùng này không ưa tôi.
Chim Gáy dịu dàng bảo:
- Này bác ạ! Chỗ thân tình với nhau tôi nói cho bác nghe... sở dĩ người ta không ưa bác là vì tiếng kêu của bác. Nếu sang phương Tây bác cũng kêu như thế, thì người ta cũng ghét bác thôi. Chi bằng bác đổi tiếng kêu thì Ðông Tây gì cũng tốt như nhau, chẳng ai ghét bác nữa đâu mà sợ.
Cú Mèo nghe nói, giận giữ bỏ đi miền Tây ở. Ðúng như lời tiên đoán của chim Gáy. Dân chúng miền Tây ghét bỏ nó, Cú Mèo đâm ra hận đời, nhất định đi vào thâm sơn cùng cốc, lánh xa loàn người, loài vật, mắt trời, mặt trăng...
Vui lên thiên hạ đồng tình
Khóc than bạn sẽ một mình khóc than.
Như Thủy
Xưa có con chim Cú Mèo làm tổ chung trên một cây với chim Gáy. Một hôm, Cú Mèo đến từ giã chim Gáy để dọn đi nơi khác, Gáy ngạc nhiên hỏi:
- Bác đi đâu thế?
- Tôi dời nhà sang phương Tây.
- Sao thế? Có việc gì làm trở ngại cho bác? Tôi trông nơi đây sinh sống dễ dàng, mát mẻ, sao bác lại bỏ đi?
Cú Mèo buồn rầu đáp:
- Dân cư vùng này không ưa tôi.
Chim Gáy dịu dàng bảo:
- Này bác ạ! Chỗ thân tình với nhau tôi nói cho bác nghe... sở dĩ người ta không ưa bác là vì tiếng kêu của bác. Nếu sang phương Tây bác cũng kêu như thế, thì người ta cũng ghét bác thôi. Chi bằng bác đổi tiếng kêu thì Ðông Tây gì cũng tốt như nhau, chẳng ai ghét bác nữa đâu mà sợ.
Cú Mèo nghe nói, giận giữ bỏ đi miền Tây ở. Ðúng như lời tiên đoán của chim Gáy. Dân chúng miền Tây ghét bỏ nó, Cú Mèo đâm ra hận đời, nhất định đi vào thâm sơn cùng cốc, lánh xa loàn người, loài vật, mắt trời, mặt trăng...
Vui lên thiên hạ đồng tình
Khóc than bạn sẽ một mình khóc than.
Như Thủy
#24
Gửi vào 12/07/2012 - 09:16
21. Chim Cú Mèo
Xưa có con chim Cú Mèo làm tổ chung trên một cây với chim Gáy. Một hôm, Cú Mèo đến từ giã chim Gáy để dọn đi nơi khác, Gáy ngạc nhiên hỏi:
- Bác đi đâu thế?
- Tôi dời nhà sang phương Tây.
- Sao thế? Có việc gì làm trở ngại cho bác? Tôi trông nơi đây sinh sống dễ dàng, mát mẻ, sao bác lại bỏ đi?
Cú Mèo buồn rầu đáp:
- Dân cư vùng này không ưa tôi.
Chim Gáy dịu dàng bảo:
- Này bác ạ! Chỗ thân tình với nhau tôi nói cho bác nghe... sở dĩ người ta không ưa bác là vì tiếng kêu của bác. Nếu sang phương Tây bác cũng kêu như thế, thì người ta cũng ghét bác thôi. Chi bằng bác đổi tiếng kêu thì Ðông Tây gì cũng tốt như nhau, chẳng ai ghét bác nữa đâu mà sợ.
Cú Mèo nghe nói, giận dữ bỏ đi miền Tây ở. Ðúng như lời tiên đoán của chim Gáy. Dân chúng miền Tây ghét bỏ nó, Cú Mèo đâm ra hận đời, nhất định đi vào thâm sơn cùng cốc, lánh xa loài người, loài vật, mặt trời, mặt trăng...
Vui lên thiên hạ đồng tình
Khóc than bạn sẽ một mình khóc than.
Như Thủy
Xưa có con chim Cú Mèo làm tổ chung trên một cây với chim Gáy. Một hôm, Cú Mèo đến từ giã chim Gáy để dọn đi nơi khác, Gáy ngạc nhiên hỏi:
- Bác đi đâu thế?
- Tôi dời nhà sang phương Tây.
- Sao thế? Có việc gì làm trở ngại cho bác? Tôi trông nơi đây sinh sống dễ dàng, mát mẻ, sao bác lại bỏ đi?
Cú Mèo buồn rầu đáp:
- Dân cư vùng này không ưa tôi.
Chim Gáy dịu dàng bảo:
- Này bác ạ! Chỗ thân tình với nhau tôi nói cho bác nghe... sở dĩ người ta không ưa bác là vì tiếng kêu của bác. Nếu sang phương Tây bác cũng kêu như thế, thì người ta cũng ghét bác thôi. Chi bằng bác đổi tiếng kêu thì Ðông Tây gì cũng tốt như nhau, chẳng ai ghét bác nữa đâu mà sợ.
Cú Mèo nghe nói, giận dữ bỏ đi miền Tây ở. Ðúng như lời tiên đoán của chim Gáy. Dân chúng miền Tây ghét bỏ nó, Cú Mèo đâm ra hận đời, nhất định đi vào thâm sơn cùng cốc, lánh xa loài người, loài vật, mặt trời, mặt trăng...
Vui lên thiên hạ đồng tình
Khóc than bạn sẽ một mình khóc than.
Như Thủy
#25
Gửi vào 12/07/2012 - 09:22
22. Phất Già Sa Vương Với Pháp Vô Thường
Khi Thế Tôn còn ở đời, có hai ông vua kết bạn thân, một ông tên là Phất Già Sa Vương, một ông là Bình Sa Vương.
Phất Già Sa Vương chưa biết đạo, làm một cây bông bằng thất bảo, đem biếu bạn Bình Sa Vương. Bình Sa Vương đem bông ấy cúng Phật, cầu người cho bạn ông được thấy Phật nghe Pháp và gặp chúng Tăng, mau biết tu hành. Ông cầu nguyện xong bạch Phật rằng:
- Con không biết lấy gì đặng tặng lại bạn con cho xứng.
Phật dạy:
- Ông nên viết một quyển kinh “Thập Nhị Nhơn Duyên” mà tặng. Bạn ông được kinh ấy sẽ đọc tụng, hiểu biết tin đạo.
Bình Sa Vương vâng lời Phật dạy, về viết một quyển kinh và thơ riêng gởi cho bạn. Trong thơ ông nói:
- Anh có lòng tốt cho tôi cây hoa báu, tôi xin biếu anh quyển Thập Nhị Nhân Duyên, anh nên đọc tụng tìm hiểu nghĩa lý, anh sẽ được hưởng pháp vị và quả báo tốt đẹp, rồi chúng ta dắt tay nhau đến chỗ đồng đạo.
Phất Già Sa Vương được thơ và sách, đêm ngày đọc tụng suy nghiệm đạo lý, hiểu thấu đạo mầu, ông nhận thấy ngũ dục là gốc rễ khổ não, đã nhiều kiếp mê man vì nó, nay tỉnh ngộ, ngó lại quyền quí danh lợi càng thêm ghê sợ.
Vua bèn mời các quan đại thần giao phó việc nước, nhường ngôi cho Thái tử, rồi xuất gia cạo đầu, mặc áo cà sa, bưng bình bát làm vị Sa Môn, một mình đi đến La Diệt, tìm đến chỗ Phật cầu thọ giới pháp; mới đến ngoài thành vừa trời tối, đến nhà người thợ gốm xin ngủ nhờ một đêm, mai sẽ đi hầu Phật.
Thế Tôn ngự ở tịnh xá, Ngài biết Phất Già Sa Vương sáng ngày mai sẽ bỏ mạng. Phật thương xót cho ông từ xa xôi đến cầu thọ giới nghe kinh mà không kịp, đã bị quỷ vô thường bắt giữ. Phật liền hóa làm một vị Sa Môn cũng đến xin nghỉ nhờ nhà người thợ gốm. Thợ gốm mời hai vị Sa Môn ở chung một phòng. Vào phòng vị hóa Sa Môn trải tọa cụ ngồi, hỏi ông Phất Già Sa:
- Ông ở đâu đến đây? Thầy ông là ai? Vì nhân duyên gì ông xuất gia? Ông đã thấy Phật chưa?
Ông Phất Già Sa thưa:
- Tôi chưa được thấy Phật, tôi nghe pháp Thập Nhị Nhân Duyên nên tôi đi xuất gia. Ngày mai tôi sẽ vào thành hầu Phật cầu nghe giới pháp.
Vị hóa Sa Môn bảo:
- Mạng người vô thường, nay còn mai mất, nó không hẹn trước với người, không biết ngày nào giờ nào mà định; chỉ nên quán thân này do bốn đại mà thành, chết đi sẽ trả về đất, nước, gió, lửa. Phải giác ngộ thân này tuy có rồi sẽ hoàn không, giả dối hòa hợp sẽ bị tan rã. Ông nên chuyên cần niệm ngôi Tam Bảo, niệm đức bố thí trì giới, hiểu biết các pháp đều vô thường. Nếu ông tưởng niệm luôn như thế thì được lợi lạc, cũng như thấy Phật vậy. Nếu ông cứ nghĩ ngày mai sẽ đến hầu Phật thì không kịp đâu.
Vị hóa Sa Môn nói pháp như vậy cho ông Phất Già Sa nghe, ông định ý suy nghĩ, liền chứng quả A Na Hàm. Phật hiện toàn thân ba mươi hai tướng tốt, phóng hào quang, ông Phất Già Sa vui mừng đảnh lễ. Phật lại dặn dò:
- Sự vô thường đến ông đừng hoảng sợ.
Ông thưa:
- Con xin vâng lời Phật dạy.
Vị hóa Sa Môn sáng mai biến mất. Ông Phất Già Sa một mình đi vào thành tìm đến hầu Phật. Ði giữa đường có con bò mới sinh, nó sợ người ta bắt con, chạy lại húc ông Phất Già Sa vỡ bụng chết. Ông được sanh về cõi trời. Phật dạy các đệ tử đem xác ông thiêu và xây tháp. Ngài bảo:
- Tội ác đã tạo ra đối đầu phải trả. Các ông phải cẩn thận!...
Thích Nữ Ðàm Minh
Khi Thế Tôn còn ở đời, có hai ông vua kết bạn thân, một ông tên là Phất Già Sa Vương, một ông là Bình Sa Vương.
Phất Già Sa Vương chưa biết đạo, làm một cây bông bằng thất bảo, đem biếu bạn Bình Sa Vương. Bình Sa Vương đem bông ấy cúng Phật, cầu người cho bạn ông được thấy Phật nghe Pháp và gặp chúng Tăng, mau biết tu hành. Ông cầu nguyện xong bạch Phật rằng:
- Con không biết lấy gì đặng tặng lại bạn con cho xứng.
Phật dạy:
- Ông nên viết một quyển kinh “Thập Nhị Nhơn Duyên” mà tặng. Bạn ông được kinh ấy sẽ đọc tụng, hiểu biết tin đạo.
Bình Sa Vương vâng lời Phật dạy, về viết một quyển kinh và thơ riêng gởi cho bạn. Trong thơ ông nói:
- Anh có lòng tốt cho tôi cây hoa báu, tôi xin biếu anh quyển Thập Nhị Nhân Duyên, anh nên đọc tụng tìm hiểu nghĩa lý, anh sẽ được hưởng pháp vị và quả báo tốt đẹp, rồi chúng ta dắt tay nhau đến chỗ đồng đạo.
Phất Già Sa Vương được thơ và sách, đêm ngày đọc tụng suy nghiệm đạo lý, hiểu thấu đạo mầu, ông nhận thấy ngũ dục là gốc rễ khổ não, đã nhiều kiếp mê man vì nó, nay tỉnh ngộ, ngó lại quyền quí danh lợi càng thêm ghê sợ.
Vua bèn mời các quan đại thần giao phó việc nước, nhường ngôi cho Thái tử, rồi xuất gia cạo đầu, mặc áo cà sa, bưng bình bát làm vị Sa Môn, một mình đi đến La Diệt, tìm đến chỗ Phật cầu thọ giới pháp; mới đến ngoài thành vừa trời tối, đến nhà người thợ gốm xin ngủ nhờ một đêm, mai sẽ đi hầu Phật.
Thế Tôn ngự ở tịnh xá, Ngài biết Phất Già Sa Vương sáng ngày mai sẽ bỏ mạng. Phật thương xót cho ông từ xa xôi đến cầu thọ giới nghe kinh mà không kịp, đã bị quỷ vô thường bắt giữ. Phật liền hóa làm một vị Sa Môn cũng đến xin nghỉ nhờ nhà người thợ gốm. Thợ gốm mời hai vị Sa Môn ở chung một phòng. Vào phòng vị hóa Sa Môn trải tọa cụ ngồi, hỏi ông Phất Già Sa:
- Ông ở đâu đến đây? Thầy ông là ai? Vì nhân duyên gì ông xuất gia? Ông đã thấy Phật chưa?
Ông Phất Già Sa thưa:
- Tôi chưa được thấy Phật, tôi nghe pháp Thập Nhị Nhân Duyên nên tôi đi xuất gia. Ngày mai tôi sẽ vào thành hầu Phật cầu nghe giới pháp.
Vị hóa Sa Môn bảo:
- Mạng người vô thường, nay còn mai mất, nó không hẹn trước với người, không biết ngày nào giờ nào mà định; chỉ nên quán thân này do bốn đại mà thành, chết đi sẽ trả về đất, nước, gió, lửa. Phải giác ngộ thân này tuy có rồi sẽ hoàn không, giả dối hòa hợp sẽ bị tan rã. Ông nên chuyên cần niệm ngôi Tam Bảo, niệm đức bố thí trì giới, hiểu biết các pháp đều vô thường. Nếu ông tưởng niệm luôn như thế thì được lợi lạc, cũng như thấy Phật vậy. Nếu ông cứ nghĩ ngày mai sẽ đến hầu Phật thì không kịp đâu.
Vị hóa Sa Môn nói pháp như vậy cho ông Phất Già Sa nghe, ông định ý suy nghĩ, liền chứng quả A Na Hàm. Phật hiện toàn thân ba mươi hai tướng tốt, phóng hào quang, ông Phất Già Sa vui mừng đảnh lễ. Phật lại dặn dò:
- Sự vô thường đến ông đừng hoảng sợ.
Ông thưa:
- Con xin vâng lời Phật dạy.
Vị hóa Sa Môn sáng mai biến mất. Ông Phất Già Sa một mình đi vào thành tìm đến hầu Phật. Ði giữa đường có con bò mới sinh, nó sợ người ta bắt con, chạy lại húc ông Phất Già Sa vỡ bụng chết. Ông được sanh về cõi trời. Phật dạy các đệ tử đem xác ông thiêu và xây tháp. Ngài bảo:
- Tội ác đã tạo ra đối đầu phải trả. Các ông phải cẩn thận!...
Thích Nữ Ðàm Minh
#26
Gửi vào 12/07/2012 - 09:26
23. Oán thù vay trả
Phất Già Sa Vương đi vào thành La Duyệt, giữa đường bị con bò mới sanh, sợ người ta bắt mất con, chạy lại húc ông vỡ bụng chết ngay. Người chủ bò thấy thế sợ quá, vội bán bò cho người khác. Người kia mua bò dắt về định nuôi lấy sữa, vừa dắt về đến nhà lại bị bò húc, người chủ chết luôn. Còn người chủ bò nổi giận, giết bò đem thịt bán. Người nhà quê mua đầu bò gánh về, đi được nữa đường mệt, treo đầu bò lên cây rồi nghĩ mát. Bỗng nhiên đầu bò đứt dây rơi trúng anh nhà quê, sừng bò trúng vào bụng anh chết ngay. Trong một ngày ba người bị chết vì một đầu bò.
Bình Sa Vương cho là điềm quái gở. Lo sợ, vội vàng cùng quần thần đi đến hầu Phật. Ðến nơi, vua cung kính đảnh lễ rồi đứng hầu một bên:
- Bạch Thế Tôn, một đầu bò làm chết ba người, việc đó không biết duyên do vì sao? Xin Ngài chỉ dạy cho.
Phật bảo:
- Ðại Vương này, các tội lỗi đã tạo ra, có nguyên nhân rồi phải trả báo, không phải tình cờ mà có.
Vua thưa:
- Xin Ngài dạy cho con biết để tránh điều tội ác.
Phật dạy:
- Trước kia có ba người lái buôn, cùng nhau thuê chung cái nhà của một bà già. Ở được mấy tháng ba người thấy bà già có một mình đau yếu, chờ khi bà đi vắng, ba người rủ nhau lén đi, không trả tiền thuê nhà cho bà. Bà đi chơi về, thấy nhà vắng không có ai, hỏi người hàng xóm mới biết ba người đã trốn đi rồi. Bà vừa giận vừa tiếc tiền, hấp tấp chạy theo cho kịp ba người, khi gặp, bà đòi tiền thuê nhà mấy tháng nay. Ba người xúm nhau mắng thậm tệ, nói tiền nhà đã trả rồi còn đòi chi nữa, ai công nợ chi mụ... Bà cô đơn yếu đuối cãi không lại giận hờn buồn tủi khóc lóc, kêu trời vang đất, rồi bà nguyền rủa thề rằng:
- Trời đất quỷ thần làm chứng cho tôi cùng cực vô lộ bị ba người này khinh khi lường gạt, lại mắng nhiếc sĩ nhục. Tôi nguyện đời sau sanh ra chỗ nào, gặp ba người này tôi sẽ trả oán, làm cho mất mạng, ví dầu đặng đạo cũng phải trả nợ này đã.
Phật bảo Bình Sa Vương:
- Bà già khi ấy là con bò ngày nay, ba người lái buôn thuê nhà xưa là ba người bị bò húc chết ngày nay vậy.
Bình Sa Vương và các vị đại thần nghe Phật dạy ai nấy đều sợ hãi, cung kính đảnh lễ phát nguyện từ nay về sau không dám lường gạt dối trá, gây thù kết oán nữa. Một lời thề nguyện, không có hình tướng mà không mất, cứ tìm nhau đòi oán trả thù rất đáng ghê sợ, chúng ta cần phải giữ gìn lời nói và hành động vậy.
Thích Nữ Ðàm Minh
Không có một Quả nào mà không có Nhân, cũng như không có một Nhân nào mà không có Quả.
Phất Già Sa Vương đi vào thành La Duyệt, giữa đường bị con bò mới sanh, sợ người ta bắt mất con, chạy lại húc ông vỡ bụng chết ngay. Người chủ bò thấy thế sợ quá, vội bán bò cho người khác. Người kia mua bò dắt về định nuôi lấy sữa, vừa dắt về đến nhà lại bị bò húc, người chủ chết luôn. Còn người chủ bò nổi giận, giết bò đem thịt bán. Người nhà quê mua đầu bò gánh về, đi được nữa đường mệt, treo đầu bò lên cây rồi nghĩ mát. Bỗng nhiên đầu bò đứt dây rơi trúng anh nhà quê, sừng bò trúng vào bụng anh chết ngay. Trong một ngày ba người bị chết vì một đầu bò.
Bình Sa Vương cho là điềm quái gở. Lo sợ, vội vàng cùng quần thần đi đến hầu Phật. Ðến nơi, vua cung kính đảnh lễ rồi đứng hầu một bên:
- Bạch Thế Tôn, một đầu bò làm chết ba người, việc đó không biết duyên do vì sao? Xin Ngài chỉ dạy cho.
Phật bảo:
- Ðại Vương này, các tội lỗi đã tạo ra, có nguyên nhân rồi phải trả báo, không phải tình cờ mà có.
Vua thưa:
- Xin Ngài dạy cho con biết để tránh điều tội ác.
Phật dạy:
- Trước kia có ba người lái buôn, cùng nhau thuê chung cái nhà của một bà già. Ở được mấy tháng ba người thấy bà già có một mình đau yếu, chờ khi bà đi vắng, ba người rủ nhau lén đi, không trả tiền thuê nhà cho bà. Bà đi chơi về, thấy nhà vắng không có ai, hỏi người hàng xóm mới biết ba người đã trốn đi rồi. Bà vừa giận vừa tiếc tiền, hấp tấp chạy theo cho kịp ba người, khi gặp, bà đòi tiền thuê nhà mấy tháng nay. Ba người xúm nhau mắng thậm tệ, nói tiền nhà đã trả rồi còn đòi chi nữa, ai công nợ chi mụ... Bà cô đơn yếu đuối cãi không lại giận hờn buồn tủi khóc lóc, kêu trời vang đất, rồi bà nguyền rủa thề rằng:
- Trời đất quỷ thần làm chứng cho tôi cùng cực vô lộ bị ba người này khinh khi lường gạt, lại mắng nhiếc sĩ nhục. Tôi nguyện đời sau sanh ra chỗ nào, gặp ba người này tôi sẽ trả oán, làm cho mất mạng, ví dầu đặng đạo cũng phải trả nợ này đã.
Phật bảo Bình Sa Vương:
- Bà già khi ấy là con bò ngày nay, ba người lái buôn thuê nhà xưa là ba người bị bò húc chết ngày nay vậy.
Bình Sa Vương và các vị đại thần nghe Phật dạy ai nấy đều sợ hãi, cung kính đảnh lễ phát nguyện từ nay về sau không dám lường gạt dối trá, gây thù kết oán nữa. Một lời thề nguyện, không có hình tướng mà không mất, cứ tìm nhau đòi oán trả thù rất đáng ghê sợ, chúng ta cần phải giữ gìn lời nói và hành động vậy.
Thích Nữ Ðàm Minh
Không có một Quả nào mà không có Nhân, cũng như không có một Nhân nào mà không có Quả.
#27
Gửi vào 12/07/2012 - 09:30
PHẦN SÁU
24. Ðáng Mặt Cao Tăng
Minh Thứ Trai làm huyện lệnh tại huyện Hiến, ông có tiếng là một quan thanh liêm, minh chánh. Nay ông đổi về tại phủ Thái Bình. Một hôm có người nghi án, Thứ Trai thay đổi y phục, giả thường dân đi nghe ngóng, dò xét. Ông đi mỏi mệt ghé và chùa nghỉ. Tăng trưởng trong chùa trên tám mươi tuổi, người thấy ông vào chắp tay chào, rồi gọi tiểu dâng trà.
Tiểu nói:
- Quan Thái Thú chưa tới, để con mời mấy vị khách vào phòng khách sẽ ra bưng trà.
Tăng trưởng nói:
- Thái Thú đã tới rồi!
Thái Thú nghe hoảng hồn nói:
- Tại sao sư ông biết tôi?
Sư nói:
- Ngài làm Thái Thú một quận, Ngài không biết người ta, chớ nhân dân trong quận ai lại chẳng biết Ngài. Nhất cử nhất động trong phủ của Ngài ai ai cũng biết.
Thái Thú nói:
- Thế thì sư ông biết tôi đi việc gì đây chăng?
Sư nói:
- Thì vụ án chưa giải quyết đấy. Ðôi bên đều cho người đi bố cáo đầy đường cùng nẻo. Hễ gặp phe này thì phe này phải, gặp phe kia thì phe kia phải. Người đời ai cho khỏi chuyện ân oán. Như thế Ngài biết tin ai, mà còn làm hại cho Ngài nữa là khác. Ngài nên “thính tụng” là tốt hơn. Tiểu nhân ai cũng lo lợi riêng cho bản thân và gia đình của chúng. Tôi là người phương ngoại, lẽ ra không dự việc thế gian, huống hồ việc quan. Nhưng Phật pháp từ bi, xả thân tế chúng, dù lợi Phật cũng phải liều chết để mà nói. Phương chi là lợi nhân, nỡ nào tôi lại làm thinh. Án ấy Tù hay Ðày tùy Ngài định liệu “Thủy hữa lợi tắc y dĩ tự phí. Thủy hữu hoạn tắc lân quốc vị hóa” (Nước có lợi cho ta, ta nên ngăn lại để dùng, nước có hại cho ta thì cho nó chảy ra hàng xóm làm khe mương). Ăn thua nơi sự tính toán của Ngài.
Thái Thú nghe Sư nói, ngồi trầm ngâm một hồi rồi về, không đi phỏng sát nữa. Ngày mai Thái Thú cho người mang gạo và dầu, hương đến cúng chùa. Thì hỡi ôi! Sư ông đã viên tịch sau khi Thái Thú trở về Phủ đường. Trước khi sư viên tịch có nói với đồ đệ một câu:
- Tâm sự của ta đã xong rồi...
Chim hót ve kêu đều đạo lý
Sương mai lá rụng thảy thiền na.
24. Ðáng Mặt Cao Tăng
Minh Thứ Trai làm huyện lệnh tại huyện Hiến, ông có tiếng là một quan thanh liêm, minh chánh. Nay ông đổi về tại phủ Thái Bình. Một hôm có người nghi án, Thứ Trai thay đổi y phục, giả thường dân đi nghe ngóng, dò xét. Ông đi mỏi mệt ghé và chùa nghỉ. Tăng trưởng trong chùa trên tám mươi tuổi, người thấy ông vào chắp tay chào, rồi gọi tiểu dâng trà.
Tiểu nói:
- Quan Thái Thú chưa tới, để con mời mấy vị khách vào phòng khách sẽ ra bưng trà.
Tăng trưởng nói:
- Thái Thú đã tới rồi!
Thái Thú nghe hoảng hồn nói:
- Tại sao sư ông biết tôi?
Sư nói:
- Ngài làm Thái Thú một quận, Ngài không biết người ta, chớ nhân dân trong quận ai lại chẳng biết Ngài. Nhất cử nhất động trong phủ của Ngài ai ai cũng biết.
Thái Thú nói:
- Thế thì sư ông biết tôi đi việc gì đây chăng?
Sư nói:
- Thì vụ án chưa giải quyết đấy. Ðôi bên đều cho người đi bố cáo đầy đường cùng nẻo. Hễ gặp phe này thì phe này phải, gặp phe kia thì phe kia phải. Người đời ai cho khỏi chuyện ân oán. Như thế Ngài biết tin ai, mà còn làm hại cho Ngài nữa là khác. Ngài nên “thính tụng” là tốt hơn. Tiểu nhân ai cũng lo lợi riêng cho bản thân và gia đình của chúng. Tôi là người phương ngoại, lẽ ra không dự việc thế gian, huống hồ việc quan. Nhưng Phật pháp từ bi, xả thân tế chúng, dù lợi Phật cũng phải liều chết để mà nói. Phương chi là lợi nhân, nỡ nào tôi lại làm thinh. Án ấy Tù hay Ðày tùy Ngài định liệu “Thủy hữa lợi tắc y dĩ tự phí. Thủy hữu hoạn tắc lân quốc vị hóa” (Nước có lợi cho ta, ta nên ngăn lại để dùng, nước có hại cho ta thì cho nó chảy ra hàng xóm làm khe mương). Ăn thua nơi sự tính toán của Ngài.
Thái Thú nghe Sư nói, ngồi trầm ngâm một hồi rồi về, không đi phỏng sát nữa. Ngày mai Thái Thú cho người mang gạo và dầu, hương đến cúng chùa. Thì hỡi ôi! Sư ông đã viên tịch sau khi Thái Thú trở về Phủ đường. Trước khi sư viên tịch có nói với đồ đệ một câu:
- Tâm sự của ta đã xong rồi...
Chim hót ve kêu đều đạo lý
Sương mai lá rụng thảy thiền na.
#28
Gửi vào 12/07/2012 - 09:32
25. Sư Đệ
Thiền sư Bankei có rất nhiều đệ tử đến để học pháp. Trong số đó có một chú đệ tử nhỏ thường hay ăn cắp vặt và đã bị bắt quả tang nhiều lần. Thấy Thiền sư cứ bỏ qua không đả động gì đến tội phạm, các sư huynh của chú tiểu phạm tội liền họp nhau làm một tờ đơn thỉnh nguyện dâng lên bổn sư, dọa rằng họ sẽ bỏ ra đi tất cả nếu Thiền sư còn làm lơ không xử tội tên ăn cắp.
Ðọc xong tờ thỉnh nguyện khiếu nại, Thiền sư bèn họp chúng tuyên bố:
- Tốt lắm, cứ theo tờ thỉnh nguyện này thì các con đều là những người thông minh, phân biệt rành rẽ về thiện và ác... các con có thể đi bất cứ nơi nào cũng xuôi chèo mát mái cả... và thấy cũng không có gì để lo ngại. Duy chỉ có thằng đệ tử đáng thương này là chưa hiểu rõ tà chánh... Thầy có bổn phận phải dạy dỗ nó... các con cứ lên đường, còn nó phải ở lại với thầy.
Chú tiểu ăn cắp òa lên khóc và từ đó chú không bao giờ tái phạm lỗi cũ.
Tất cả môn đồ đều xin ở lại... và họ sống bên Thiền sư cho đến ngày người viên tịch.
Như Thủy
Cần thức tỉnh người chưa giác ngộ
Giác ngộ rồi, hóa độ ích chi?
Thiền sư Bankei có rất nhiều đệ tử đến để học pháp. Trong số đó có một chú đệ tử nhỏ thường hay ăn cắp vặt và đã bị bắt quả tang nhiều lần. Thấy Thiền sư cứ bỏ qua không đả động gì đến tội phạm, các sư huynh của chú tiểu phạm tội liền họp nhau làm một tờ đơn thỉnh nguyện dâng lên bổn sư, dọa rằng họ sẽ bỏ ra đi tất cả nếu Thiền sư còn làm lơ không xử tội tên ăn cắp.
Ðọc xong tờ thỉnh nguyện khiếu nại, Thiền sư bèn họp chúng tuyên bố:
- Tốt lắm, cứ theo tờ thỉnh nguyện này thì các con đều là những người thông minh, phân biệt rành rẽ về thiện và ác... các con có thể đi bất cứ nơi nào cũng xuôi chèo mát mái cả... và thấy cũng không có gì để lo ngại. Duy chỉ có thằng đệ tử đáng thương này là chưa hiểu rõ tà chánh... Thầy có bổn phận phải dạy dỗ nó... các con cứ lên đường, còn nó phải ở lại với thầy.
Chú tiểu ăn cắp òa lên khóc và từ đó chú không bao giờ tái phạm lỗi cũ.
Tất cả môn đồ đều xin ở lại... và họ sống bên Thiền sư cho đến ngày người viên tịch.
Như Thủy
Cần thức tỉnh người chưa giác ngộ
Giác ngộ rồi, hóa độ ích chi?
#29
Gửi vào 12/07/2012 - 09:40
26. Lòng Từ Bi Còn Kém
Ngày xưa, có một người đàn bà góa chồng, không biết quê quán ở đâu, rất nghèo nàn đói lạnh, nhưng về phụ hạnh vẹn toàn, khiến hàng phụ nữ và đấng nam nhân, ai ai cũng đều kính phục. Nàng nghe thiên hạ đồn rằng: Có một ngôi chùa kia do một vị sư trú trì, hợp lực cùng mấy nhà từ thiện kiến lập trai đàn. Mục đích là cầu an cho bá tánh và bố thí gạo vải cho dân nghèo. Nghe tin ấy, nàng rất vui mừng, bèn bồng hai đứa con và dắt con chó đến chùa để xin bố thí.
Đến nơi, nàng thấy trai đàn trang nghiêm thanh tịnh, đèn thắp sáng choang, khói trầm nghi ngút, những nhà giàu sang thì đang đem tiền của cho người nghèo khổ, thuốc thang tặng cho những người đau ốm bệnh hoạn. Nàng đứng xớ rớ trong đám người đi xem trai đàn, mà trong lòng thì tự nghĩ: Người ta giàu có, tiền của dư giả, đem ra làm chay làm phước để cầu phước báu về sau. Còn mình thì phước mỏng nghiệp dày, thiếu thốn đói khát, há mình không tìm được một cách gì để bố thí làm lành như những người giàu sang kia được?
Nghĩ như vậy rồi, nàng liền tự hớt đầu tóc của mình, đem vào dâng cho vị trú trì để làm vật bố thí. Khi ấy chưa đến giờ thọ trai, Tăng chúng và thiện nam tín nữ còn đang hành lễ.
- Bạch thầy, phận tôi cơ hàn, chồng thì đã chết, để lại cho tôi hai đứa con nhỏ đây, và một đứa con ở trong bụng. Thế mà người thân chẳng có, gia sản cũng không, nên tấm thân phải vất vả, nay đầu làng mai cuối chợ, ăn nhờ hột cơm dư của quần chúng. Nay tôi đến đây, xin thầy từ bi bố thí cho mấy mẹ con tôi một ít cơm chay để đỡ lòng, mẹ con tôi còn đi xin nơi khác.
Vị trú trì nghe vậy, liền sai ông đạo nhỏ chạy xuống nhà bếp đơm cho nàng ba bát cơm thật đầy. Vị trú trì tưởng cho như vậy là đủ. Ai dè, người đàn bà nhìn ba bát cơm một hồi, rồi thưa:
- Bạch thầy, thầy từ bi cho thêm một bát cơm nữa, đặng cho phần con chó.
Vị trụ trì nghe nàng nói như vậy, thì trong lòng đã hơi giận rồi, nhưng cũng ráng dằn lòng xuống và bảo người đi xúc cho con chó một bát cơm nữa cho êm chuyện. Nào ngờ, người đàn bà tiếp lấy bát cơm, lại thưa tiếp rằng:
- Bạch thầy! Đứa nhỏ mà tôi đang mang trong bụng đây. Thiết nghĩ thầy cũng nên hoan hỷ cho nó một bát cơm nữa mới đúng!
Vị trú trì nghe nói như vậy nổi xung, liền lớn tiếng:
- Kiếp trước nàng ôm lòng bỏn xẻn, không biết bố thí làm nhân, nên nay mới chiêu cảm cái thân bần nữ như thế, lại góa bụa không chồng, sống ăn nhờ của dân chúng, chết chẳng ích gì cho quê hương; vậy mà không biết thân, còn muốn ăn tham của Tăng chúng nữa. Vả lại xưa nay, có ai thấy những đứa nhỏ còn ở trong bụng mẹ mà người ta cho nó ăn cơm bao giờ, mà nàng đòi xin một cách trái đời như vậy! Thôi hãy đi chỗ khác, chớ đừng nói chuyện dây dưa mà làm trễ giờ của bần Tăng lễ Phật.
Câu nói của vị trú trì vừa dứt, thì năm sắc mây màu kết lại, rực rỡ trên hư không; rồi người bần nữ ấy hiện ra chân tướng của đức Văn Thù, cưỡi con sư tử rất hùng tráng oai nghiêm, hai bên thì có Thiện Tài và Ưu Điền Vương đứng hầu, làm cho ai nấy trông thấy đều hoảng kinh và cúi đầu đảnh lễ.
Đức Văn Thù liền đọc bài kệ:
Bầu đắng, đắng tận gốc
Dưa ngọt, ngọt cùng dây
Ta đã siêu tam giới
Còn bị chư Tăng rầy!
Khi đọc bốn câu kệ rồi, thì đức Văn Thù liền ẩn thân năm sắc mây lành lần lần tan biến.
Thấy vậy, vị trú trì thất thần biến sắc, mở hai con mắt nhìn trân trân, một chập lâu mới định trí lại, và tự trách mình rằng: Tiếc bấy lâu nay tu hành, ăn cơm Phật, nhận mình đã vào cửa vô vi, mà lòng từ bi còn kém, đức nhẫn nhục chưa tròn, đến nỗi không thấy chơn Thánh như vậy, thì ta còn để đôi mắt làm chi?
Vị trú trì tự trách rồi, liền với tay lên muốn lấy con dao nhỏ để khoét đôi mắt, mọi người lật đật xúm lại giựt con dao và khuyên giải một hồi, thì ngài mới bớt lòng buồn rầu ân hận. Sau đó vị trú trì đắp y hậu đến trước Phật đài, chí thành đảnh lễ Tam Bảo để thành tâm sám hối.
Từ đó về sau, đối với mọi người, vị trú trì giữ được tâm từ bi bình đẳng để tiếp đãi, không còn phân biệt giàu nghèo, sang hèn nữa…
Còn đầu tóc của đức Văn Thù thị hiện bố thí đó. Thì nhà chùa xây dựng một ngôi tháp ngay chỗ Bồ Tát thị hiện xin cơm để tôn thờ, và hằng ngày chiêm ngưỡng cúng dường…
Giác Nhựt
Một sự bố thí đúng pháp, là sự bố thí phát xuất từ lòng thương vị tha và tự nguyện, mà không bị chi phối bởi động lực lợi danh, hoặc một lý do nào khác.
Ngày xưa, có một người đàn bà góa chồng, không biết quê quán ở đâu, rất nghèo nàn đói lạnh, nhưng về phụ hạnh vẹn toàn, khiến hàng phụ nữ và đấng nam nhân, ai ai cũng đều kính phục. Nàng nghe thiên hạ đồn rằng: Có một ngôi chùa kia do một vị sư trú trì, hợp lực cùng mấy nhà từ thiện kiến lập trai đàn. Mục đích là cầu an cho bá tánh và bố thí gạo vải cho dân nghèo. Nghe tin ấy, nàng rất vui mừng, bèn bồng hai đứa con và dắt con chó đến chùa để xin bố thí.
Đến nơi, nàng thấy trai đàn trang nghiêm thanh tịnh, đèn thắp sáng choang, khói trầm nghi ngút, những nhà giàu sang thì đang đem tiền của cho người nghèo khổ, thuốc thang tặng cho những người đau ốm bệnh hoạn. Nàng đứng xớ rớ trong đám người đi xem trai đàn, mà trong lòng thì tự nghĩ: Người ta giàu có, tiền của dư giả, đem ra làm chay làm phước để cầu phước báu về sau. Còn mình thì phước mỏng nghiệp dày, thiếu thốn đói khát, há mình không tìm được một cách gì để bố thí làm lành như những người giàu sang kia được?
Nghĩ như vậy rồi, nàng liền tự hớt đầu tóc của mình, đem vào dâng cho vị trú trì để làm vật bố thí. Khi ấy chưa đến giờ thọ trai, Tăng chúng và thiện nam tín nữ còn đang hành lễ.
- Bạch thầy, phận tôi cơ hàn, chồng thì đã chết, để lại cho tôi hai đứa con nhỏ đây, và một đứa con ở trong bụng. Thế mà người thân chẳng có, gia sản cũng không, nên tấm thân phải vất vả, nay đầu làng mai cuối chợ, ăn nhờ hột cơm dư của quần chúng. Nay tôi đến đây, xin thầy từ bi bố thí cho mấy mẹ con tôi một ít cơm chay để đỡ lòng, mẹ con tôi còn đi xin nơi khác.
Vị trú trì nghe vậy, liền sai ông đạo nhỏ chạy xuống nhà bếp đơm cho nàng ba bát cơm thật đầy. Vị trú trì tưởng cho như vậy là đủ. Ai dè, người đàn bà nhìn ba bát cơm một hồi, rồi thưa:
- Bạch thầy, thầy từ bi cho thêm một bát cơm nữa, đặng cho phần con chó.
Vị trụ trì nghe nàng nói như vậy, thì trong lòng đã hơi giận rồi, nhưng cũng ráng dằn lòng xuống và bảo người đi xúc cho con chó một bát cơm nữa cho êm chuyện. Nào ngờ, người đàn bà tiếp lấy bát cơm, lại thưa tiếp rằng:
- Bạch thầy! Đứa nhỏ mà tôi đang mang trong bụng đây. Thiết nghĩ thầy cũng nên hoan hỷ cho nó một bát cơm nữa mới đúng!
Vị trú trì nghe nói như vậy nổi xung, liền lớn tiếng:
- Kiếp trước nàng ôm lòng bỏn xẻn, không biết bố thí làm nhân, nên nay mới chiêu cảm cái thân bần nữ như thế, lại góa bụa không chồng, sống ăn nhờ của dân chúng, chết chẳng ích gì cho quê hương; vậy mà không biết thân, còn muốn ăn tham của Tăng chúng nữa. Vả lại xưa nay, có ai thấy những đứa nhỏ còn ở trong bụng mẹ mà người ta cho nó ăn cơm bao giờ, mà nàng đòi xin một cách trái đời như vậy! Thôi hãy đi chỗ khác, chớ đừng nói chuyện dây dưa mà làm trễ giờ của bần Tăng lễ Phật.
Câu nói của vị trú trì vừa dứt, thì năm sắc mây màu kết lại, rực rỡ trên hư không; rồi người bần nữ ấy hiện ra chân tướng của đức Văn Thù, cưỡi con sư tử rất hùng tráng oai nghiêm, hai bên thì có Thiện Tài và Ưu Điền Vương đứng hầu, làm cho ai nấy trông thấy đều hoảng kinh và cúi đầu đảnh lễ.
Đức Văn Thù liền đọc bài kệ:
Bầu đắng, đắng tận gốc
Dưa ngọt, ngọt cùng dây
Ta đã siêu tam giới
Còn bị chư Tăng rầy!
Khi đọc bốn câu kệ rồi, thì đức Văn Thù liền ẩn thân năm sắc mây lành lần lần tan biến.
Thấy vậy, vị trú trì thất thần biến sắc, mở hai con mắt nhìn trân trân, một chập lâu mới định trí lại, và tự trách mình rằng: Tiếc bấy lâu nay tu hành, ăn cơm Phật, nhận mình đã vào cửa vô vi, mà lòng từ bi còn kém, đức nhẫn nhục chưa tròn, đến nỗi không thấy chơn Thánh như vậy, thì ta còn để đôi mắt làm chi?
Vị trú trì tự trách rồi, liền với tay lên muốn lấy con dao nhỏ để khoét đôi mắt, mọi người lật đật xúm lại giựt con dao và khuyên giải một hồi, thì ngài mới bớt lòng buồn rầu ân hận. Sau đó vị trú trì đắp y hậu đến trước Phật đài, chí thành đảnh lễ Tam Bảo để thành tâm sám hối.
Từ đó về sau, đối với mọi người, vị trú trì giữ được tâm từ bi bình đẳng để tiếp đãi, không còn phân biệt giàu nghèo, sang hèn nữa…
Còn đầu tóc của đức Văn Thù thị hiện bố thí đó. Thì nhà chùa xây dựng một ngôi tháp ngay chỗ Bồ Tát thị hiện xin cơm để tôn thờ, và hằng ngày chiêm ngưỡng cúng dường…
Giác Nhựt
Một sự bố thí đúng pháp, là sự bố thí phát xuất từ lòng thương vị tha và tự nguyện, mà không bị chi phối bởi động lực lợi danh, hoặc một lý do nào khác.
#30
Gửi vào 12/07/2012 - 20:27
27. Thiền Trong Mọi Phút
Truyện Cổ Phật G[áo Nhật Bản
Teno là một thiền sư vừa hạ sơn, sau mười năm khổ luyện công phu. Sư đến yết kiến thiền sư Nanin
Vừa gặp mặt, Nanin đã hỏi:
- Lúc nảy, nhà thầy đã bỏ chiếc dù bên phải hay bên trái đôi guốc, trước khi vào thiền thất của ta.
Teno bối rối thú nhận rằng đã không nhớ rõ…và đành ở lại xin thụ giáo với sư Nanin.
Một lần khác Nanin lại hỏi:
- Khi nãy thầy bỏ dép trước khi vào thất, thầy đã bỏ dép ở chân nào trước?
Teno cũng không thể trả lời được. Nhiều năm trôi qua, Nanin cũng không dạy dỗ gì thêm ngoài chuyện dù và dép. Cho đến một hôm, tự thấy mình đã hoàn toàn thiền được trong bốn môn oai nghi. Teno đến từ giã thầy ra đi. Nhưng lại thêm một lần rủi ro nữa. Thầy mở cửa hơi mạnh tay, khiến nó vang lên một tiếng động nhỏ…điều này chứng tỏ thầy đã dùng một sức lực quá mức cần thiết. Teno lại phải ở lại bên thầy thêm vài năm để học cách đóng cửa…Và sáu năm sau khi ở với Nanin, sư trở thành một thiền sư lừng danh của nước Nhật.
Như Thủy
Hũ nước lâu ngày đã cạn khô
Hôm nay ra giếng xách đem vô
Thấy hoa leo nở cần quây đẹp
Đành đến nhà quen mượn một bô.
Truyện Cổ Phật G[áo Nhật Bản
Teno là một thiền sư vừa hạ sơn, sau mười năm khổ luyện công phu. Sư đến yết kiến thiền sư Nanin
Vừa gặp mặt, Nanin đã hỏi:
- Lúc nảy, nhà thầy đã bỏ chiếc dù bên phải hay bên trái đôi guốc, trước khi vào thiền thất của ta.
Teno bối rối thú nhận rằng đã không nhớ rõ…và đành ở lại xin thụ giáo với sư Nanin.
Một lần khác Nanin lại hỏi:
- Khi nãy thầy bỏ dép trước khi vào thất, thầy đã bỏ dép ở chân nào trước?
Teno cũng không thể trả lời được. Nhiều năm trôi qua, Nanin cũng không dạy dỗ gì thêm ngoài chuyện dù và dép. Cho đến một hôm, tự thấy mình đã hoàn toàn thiền được trong bốn môn oai nghi. Teno đến từ giã thầy ra đi. Nhưng lại thêm một lần rủi ro nữa. Thầy mở cửa hơi mạnh tay, khiến nó vang lên một tiếng động nhỏ…điều này chứng tỏ thầy đã dùng một sức lực quá mức cần thiết. Teno lại phải ở lại bên thầy thêm vài năm để học cách đóng cửa…Và sáu năm sau khi ở với Nanin, sư trở thành một thiền sư lừng danh của nước Nhật.
Như Thủy
Hũ nước lâu ngày đã cạn khô
Hôm nay ra giếng xách đem vô
Thấy hoa leo nở cần quây đẹp
Đành đến nhà quen mượn một bô.
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() Thống đốc Newsom phản ứng sau khi thẩm phán ra lệnh cho Trump trả lại quyền kiểm soát của Vệ binh Quốc gia cho Californi |
Linh Tinh | FM_daubac |
|
![]() |
|
![]() Đóng gòp mấy quyển sách tôi có hứa . |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Đinh Văn Tân |
|
![]() |
|
![]() Tử Vi Chỉ Nam - Song An - Vũ Như Lâm - Quyển 1 - 1934 |
Sách Tử Vi | administrator |
|
![]() |
|
![]() tìm sách dịch học văn hóa cổ truyền |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | trongtri |
|
![]() |
|
![]() Quyền lực hay tiền bạc thu hút phụ nữ |
Linh Tinh | BiendoiQuyenluc |
|
![]() |
|
![]() ![]() Văn khấn cổ truyền Việt Nam |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | danhkiem |
|
![]() |
1 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












