Jump to content

Advertisements




Diễn dịch lại lời các quẻ - hào Chu Dịch /2014

dưới ánh sáng khoa học

66 replies to this topic

#31 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 09/04/2014 - 12:48

29/ QUẺ TẬP KHẢM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tập là tập quen, khảm là hiểm trở, hố sâu, vực thẳm.Tập thời Hán giảng là dòng nước sâu để từ đó giảng quẻ Khảm là tượng cho nước và tập từ đời Tống là 2 lần, vì vậy có người đặt luôn tên mới là thuần Khảm.
Quẻ này nói về sự cần thiết tập luyện trong nguy hiểm để biết cách ứng phó .
-pth 77 : Quẻ có lẽ bao gồm hai ý nghĩa chính yếu:
+ Tập luyện để vượt qua thực tế khó khăn, khắc nghiệt.
+ Tập luyện để rèn cái Tâm can đảm/ can trường.


Lời quẻ: Tập khảm.Hữu phu, duy tâm , hanh . Hành hữu thượng.
dịch : Tập luyện nơi hiểm trở .Có đức tin, giữ vững lòng, hanh thông.Thực hành dẫn đến vượt qua , vươn lên (khó khăn)
Cổ điển hơn thì hành hữu thượng là : thực hành sẽ có điều hay / phần thưởng..

Hào 1 : Tập khảm.Nhập vu khảm đảm.Hung.
dịch : Tập luyện nơi hiểm trở.Đi vào hố sâu, hiểm.Đóng.

Hào sơ còn lo sợ (hào âm) nên phải luyện tập để đừng hốt hoảng.Nếu không thì xấu.
+ bắt đầu đi vào thời kì tập luyện khó khăn, gian khổ, nhiều hiểm nguy, chưa có nhiều kinh nghiệm mà đã chọn ngay việc tập luyện đi vào hố sâu, hiểm thì không phù hợp, nên đóng.

Hào 2 : Khảm hữu hiểm.Cầu tiểu đắc.
dịch : Trũng có chỗ hiểm.Cầu (việc ) nhỏ thì được.

Khi đang ở chỗ hiểm nguy không nên tính chuyện quá lớn (liều lĩnh ).
Chọn điạ hình Trũng có chỗ hiểm để rèn luyện, hào này có lẽ thấy được khả năng thực tế, cũng như rút kinh nghiệm từ hào sơ, nên lựa chọn việc nhỏ phù hợp, tránh vượt quá sức. (Hào đắc trung, lại dương cương, nên có lẽ đủ sức vượt được khó khăn thời kì đầu)
Hào 3 : Lai chi khảm khảm.Hiểm thả chẩm .Nhập vu khảm đảm. Vật dụng .
dịch : Trước mặt trùng trùng hiểm trở.Trong hiểm mà gối (đầu nghỉ ngơi ) .Đi sâu vào hố hiểm. Chớ làm.

Hào này càng nhập sâu càng gặp khó nên phải biết nghỉ ngơi dưỡng sức.Chớ làm chỉ việc cần cực kỳ thận trọng.
Chọn địa hình tập luyện vô cùng khó khăn - trước mặt trùng trùng hiểm trở, có thể cho rằng đó là giới hạn tối đa cho sức chịu đựng, do vậy mà có thể:
+ Trong hiểm mà gối (đầu nghỉ ngơi ) chọn sự nghỉ ngơi, dừng lại không tiếp tục nữa vì có thể vượt quá sức chịu đựng mà gặp nguy hiểm thực tế. (giới hạn tập luyện cho những người còn ít từng trải)
+ Trong hiểm mà gối (đầu nghỉ ngơi ) .Đi sâu vào hố hiểm: nghỉ ngơi để lấy lại thăng bằng, an tâm, sau đó lại tiếp tục đi vào thách thức, tuy nhiên cần cực kỳ thận trọng.(có lẽ là giới hạn cần phải vượt qua của những người ưu tú, đã từng trải)

Hào 4 : Tôn tửu, quỹ nhị, dụng phẫu.Nạp ước tự dũ .Chung vô cữu.
dịch : Dùng rượu , hai chén, dùng bồn đựng thức ăn.Giao thâu đều qua cửa sổ.Cuối cùng không lỗi.

Hào này thú thật chúng tôi không hiểu ý . Đây ngắt theo Dương Ngọc Dũng , nạp ước hiểu theo Cao Hanh mà không hiểu ước là tín ước.Hào này có lẽ nói về một điển tích mà chúng ta không biết đến.Theo bài thơ trong sách Học Năng thì ý nghĩa hào này là phải chờ lâu, kiên nhẫn mới mong thành công.Sự trịnh trọng khi tế lễ cần sự cẩn trọng , hay là đó là thái độ cần có khi đang trong hiểm nguy ?
Cổ điển dịch : Dâng rượu trong chén , sau đó dùng bồn chứa thức ăn.Nạp tờ giao ước qua cửa sổ.Cuối cùng không lỗi.
Chữ Tôn có nghĩa là chén uống rượu, cũng có nghĩa là tôn quý, cao cấp,... nên QNB hiểu là:
Dâng rượu quý, hai chén. Dùng vò mà nộp ước. Chủ động mở mang dẫn lối. Đến cuối sẽ không lỗi.

Tức là ở hào này vẫn trong vị thế thấp kém, có thể bị nguy hiểm, nên cần phải nhún nhường, dâng chén rượu quý, lại dùng cả vò rượu quý mà nộp như là vật ước lễ. Chủ động để gợi mở cơ hội cho mình thì cuối cùng sẽ không có lỗi gì nguy hại.
Hào 5 : Khảm bất doanh , ký kỳ bình.Vô cữu.
dịch : Hố sâu chưa (lấp ) đầy. Chỉ là đã bằng phẳng .Không lỗi.

Ở thời Khảm thì không làm việc lớn được nhưng ở hào này thì tâm đã vững.

Hào 6 : Hệ dụng huy mặc.Chí vu tùng cức.Tam tuế bất đắc .Hung.
dịch : (Bị) trói chặt bằng dây thừng , dây chão.( giam) trong (tù) có cây gai bao bọc .Ba năm chẳng được.Đóng .

Hào này không nói đến hố sâu mà lại bị giam hãm .Phải chăng vì không tập luyện nên dù theo nghĩa đen hay nghĩa bóng đều bị rơi vào nơi sâu hiểm ?

Sửa bởi Ngu Yên: 11/04/2014 - 02:38


#32 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 11/04/2014 - 16:35

30/ QUẺ LY/LA

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ly có nghĩa là xa rời, lại có nghĩa là bám víu, lệ thuộc. Theo Javary thì chữ Ly là Chữ Ly/Li 離 (bộ Chuy 隹).
Với Chuy (được viết ở bên phải của chữ Li) có nghĩa là chỉ các loài chim có đuôi ngắn nói chung.
Bên trái của chữ Li cũng đọc là Li 离, có phần trên có hình tựa như con chim, phần dưới là chữ Nhựu 禸 có nghĩa là vết chân thú dẫm vào, chân thú in vào, đạp vào,...
Cho nên Ly/Li 離 mang cả 2 nghĩa:
- thứ nhất là, Chia lìa, phân chia ra, tách ra (khi ở gần mà chia lìa, tách ra thì người ta dùng chữ Li, còn khi ở xa mà chia lìa thì gọi là Biệt).
- thứ hai là, Bám dính, mắc phải,...
Giải nghĩa theo kiểu chiết tự của Javary thì là như thế. Nhưng bản thân QNB thì cho rằng chữ Li này chỉ cần hiểu là sự phân chia, chia lìa, chia ly.
.Nhưng nhiều học giả TQ ngày nay lại viện bản Mã vương Đôi mà cho rằng chính ra là quẻ La ,có nghĩa là lưới bắt chim / chim mắc lưới nên còn có nghĩa gặp nạn .Giải thích này dựa vào ý nghĩa gặp nạn, đốt phá, giết chóc, chiến tranh của các hào từ 4 đến 6 và ly hay la đều có hình tượng chim bay .Sau này ly lại có thêm nghĩa ánh sáng từ hình ảnh con chim mà ra. Ly là lửa thì chỉ có từ thời Hán khi các quẻ tam quái đã xuất hiện.

lời quẻ: Ly.Lợi trinh, hanh.Súc tẫn ngưu , cát.
dịch : Bám chặt.Chính bền lợi, hanh thông.Nuôi bò cái, mở.

Javary giảng phải tỉnh táo, giữ chính bền như nuôi bò cái chứ không nên mê mẩn .Cho nên ý của Javary là ly chỉ con chim , nếu biết bám chặt chỗ đứng của mình thì tốt mà nếu tham lam bay xa thì bị lưới
QNB hiểu là: Phân chia. Lợi chính bền, hanh thông. (được) nuôi con bò cái. Mở

Hào 1 : Lý thác nhiên .Kính chi , vô cữu.
dịch : Đi bừa/ rón rén.Cẩn trọng, không lỗi.
"Dẫm lầm. Thận trọng, (thì) không lỗi".

Hào sơ chưa biết phải làm thế nào nên cẩn trọng thì tránh được sai lầm.

Hào 2 : Hoàng ly.Nguyên cát .
dịch:Ánh sáng vàng / Chim vàng anh.Tốt lớn.
Đất được phân chia. Tốt lớn

hào 3 : Nhật trắc chi ly.Bất cỗ phẫu chi ca, tắc đại điệt chi ta.Hung
dịch : Mặt trời xế bóng. Không gõ bồn mà ca hát, tất các già lão thở than .Đóng
Mặt trời xế bóng thì phân chia. Chẳng gõ phẫu (một loại nhạc khí) mà ca ngâm, thì người già (cũng) đau xót. Đóng.

Hào 4 : Đột như, kỳ lai như, phần như, tử như, khí như.
dịch : Như đột nhiên, như trở lại .như cháy, như chết, như bị bỏ.
Đột ngột... xảy ra... đốt cháy... chết chóc... hủy bỏ...
Hào này dương cư âm vị dường như quá nóng nảy .Vương Bật cho là ngỗ ngược làm loạn.

Hào 5 : Xuất thế đà nhược, thích ta nhược.cát .
dịch : Nước mắt đầm đìa , than thở vắn dài .mở.
Nước mắt chảy ra giàn dụa, thân thích đau xót. Mở

Hào này phải chịu hậu quả tang thương.Nhưng cớ sao lại phê mở ? nạn đã qua ? Hào 6 cứu ?

Hào 6: Vương dụng xuất chinh .Hữu gia chiết thủ , hoạch phỉ kỳ xú.Vô cữu.
dịch : Vua ra quân .Thật tốt đẹp vì chém được tướng giặc , chẳng bắt hết bè lũ xấu .Không lỗi.

Hào này dẹp loạn, cốt yên dân tình chẳng cần bắt nô lệ .

Quẻ này với tôi là quẻ khó nắm bắt nhất , tên quẻ không chắc . Một giả thuyết lịch sử tôi xin đưa ra là quẻ này nói về sự phản loạn của Tam thúc họp với Vũ Canh , con vua Trụ.Trong trường hợp đó hào 2 nói đến lúc tam thúc được tấn phong ở các đất xung quanh Ân khư đã cắt ra cho 3 người là Quản, Sái/ Thái và Hoắc để giám sát con vua Trụ được phong ở trung tâm đất Ân cũ.Hào 3 nhắc đến cái chết của Vũ vương , tam thúc không khóc than mà lại mưu việc soán đoạt .Hào 4 kể lại cuộc nổi dậy/phản loạn và hậu quả kẻ bị giết (Võ Canh tức Lộc Nghĩa và Quản thúc ) người bị phế bỏ.Hào 5 chỉ sự khóc lóc của Sái thúc và Hoắc thúc cùng họ ngoại ( tức là phe Ân )xin tha và cuối cùng họ được tha chết chỉ bị đi đầy.Hào 6 nói rằng sau khi bắt giết được các đầu sỏ Chu công đã tha tội cho quí tộc nhà Ân , chỉ bắt một số gia đình dời sang Lạc ấp sống và số còn lại thì chịu sự cai trị của chư hầu trung thành của nhà Chu (xem quẻ 35 Tấn ).

Sửa bởi Ngu Yên: 19/04/2014 - 13:50


#33 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 15/04/2014 - 02:13

31/QUẺ HÀM

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Hàm có nghĩa là tất cả, hết thảy, giống nhau.
Nhưng từ thời Hán thì chữ Hàm có thêm bộ Tâm thành chữ Cảm và có nghĩa là giao cảm, cảm ứng. Từ nhà Thanh đến hiện đại thì có thêm khuynh hướng giảng là bị thương hoặc là động. Tôi theo Javary nghĩ rằng hàm là sự cảm bị động.
QNB :Chữ Cảm còn có nghĩa là mắc phải, bị, cảm thương (thương tiếc, thương xót),... nó còn thông với chữ Hám 撼 nghĩa là lay động.
Có hai quẻ trong Chu Dịch dùng cơ thể con người làm tượng: quẻ 52 Cấn nói về sự dừng, và quẻ Hàm này nói về sự động (động lòng, động tình ...).
Cảm động là 1 trạng thái ngắn ngủi có thể gây ra mê hoặc hay bối rối nhưng cũng có một tiềm năng làm chuyển động trở lại cái gì trước đó bị đình trệ (có nhà nho sau này chú rằng quẻ Bĩ chuyển sang quẻ Hàm nhờ trao đổi hai hào 3 và 6 ) hay , ở hào 4 , biến được cái cảm động phiếm diện thành tình cảm lâu dài.

Lời quẻ: Hàm. Hanh. Lợi trinh. Thú nữ, cát.
dịch : Động cảm. Thông. Nên chính bền. Lấy vợ, mở.

Cái cảm giúp cho hanh thông nhưng việc động phải biến thành lâu dài thì mới lợi. Lấy tượng tình cảm trai gái tựu thành việc vợ chồng làm điều tốt.

Hào 1 : Hàm kỳ mẫu.
dịch : Cảm ở ngón chân cái.

Mới cảm sơ đã muốn động đậy. Ứng với hào 4 chủ quẻ nên không phê xấu. Duy nhớ là còn mới chưa sâu.

Hào : Hàm kỳ phi, hung. Cư cát .
dịch : Cảm ở bắp vế, đóng. Ở yên mở.

Cảm mạnh nên dễ đi đến mê mệt .tỉnh táo lại thời mở (ứng với hào 5).

Hào 3 : Hàm kỳ cổ,. Chấp kỳ tùy. Vãng lận .
dịch : Cảm ở bắp đùi. Giữ chặt (không để ) theo. Tiến lên sẽ hối hận.

Sức cảm mạnh quá dễ sa ngã.Chớ nghe theo lời ngon ngọt hay khích bác(ứng với hào 6) mà làm điều xằng bậy.

Hào 4 : Trinh cát, hối vong. Đồng đồng vãng lai. Bằng tòng nhĩ tư.
dịch : Chính bền tốt, sẽ không hối tiếc. Chạy qua chạy lại lăng xăng như trẻ con. Các bạn bè đều thuận theo ý ngươi.

Hào này sự cảm thông rất cao , tình cảm trở nên sâu đậm .giữ được lâu dài thời thật tốt.

Hào 5 : Hàm kỳ mỗi. Vô hối.
dịch : Động ở sống lưng. Không hối hận gì.

Sống lưng chỉ việc cân bằng, bình tĩnh, không dễ bị lay động vì sự cảm, nên không hệ lụy gì.

Hào 6 : Hàm kỳ phụ, giáp thiệt.
dịch : cảm ở cửa miệng ,má, mép.

Động ở chỗ dễ trao đổi (thức ăn, uống, lời nói ) nên động nhiều .Miệng lưỡi tự nó không có lỗi, chỉ là tùy tâm người ta mà dụng .Nên không phê xấu tốt.

Sửa bởi Ngu Yên: 22/04/2014 - 03:32


#34 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 17/04/2014 - 04:21

32/ QUẺ HẰNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


QNB :Hằng là thường hằng, là tính bền, là sự ổn định về tính quy luật chứ không phải là sự bất biến về trạng thái.


Lời quẻ : Hằng.Hanh, vô cữu.Lợi trinh, lợi hữu du vãng.
dịch : Thường hằng.Thông, không lỗi.Nên chính bền, nên có chỗ đi.

Việc thường ngày có khi trở thành khô khan , nhàm chán cho nên cần cố gắng , lập chí bền bĩ và nên có mục tiêu (xem thêm lợi hữu du vãng ở phần dẫn nhập / thuật ngữ).

Hào 1 : Tuấn hằng.Trinh hung, vô du lợi.
dịch : Đi sâu vào sự hằng (bền gan, câu nệ). Điềm đóng, không lợi đâu.
Tuấn 浚 (có bộ thủy) nên cũng mang nghĩa là khai mở dòng nước, nạo vét, đào sâu (đối với hố/giếng nước),...
Bởi thế mà có thể hiểu hào 1 là: Làm mất cái tính ổn định thường hằng. Điềm đóng. Chẳng chỗ nào lợi cả

Hào sơ này bất chính ứng với hào 4 cũng sai lầm nên dễ đi đến cái tệ trì trệ, cố chấp.

Hào 2 : Hối vong .
dịch : Hối tiếc không còn.

Hào này bình thản và biết giữ lâu bền, không quá câu nệ (hào 1) cũng không quá vội vã (hào 3).

Hào 3 : Bất hằng kỳ đức.Hoặc thừa chi tu.Trinh lận.
dịch : Không giữ đức thường.Giả như thăng tiến thì lại gặp nhục nhã.Đoán lận đận.
Không giữ cho bền cái đức. Có thể nhận lấy cái nhục. Điềm hối tiếc.

Dương cư dương vị quá cương, quá nóng lòng đi lên có thể bất chấp tất cả .

Hào 4 : Điền vô cầm.
dịch : Đi săn chẳng có chim.Đi săn (mà) chẳng bắt.

Đi săn không phải là việc thường ngày nên không hợp quẻ , dù có bền chí cũng vô ích.
Do chữ Cầm 禽 còn có nghĩa là bắt giữ, cầm nắm,...
Lẽ thường thì đi săn là phải bắt, nhưng hào này tả cái chuyện "Đi săn mà chẳng bắt", ấy là phá vỡ tính quy luật thường hằng, là làm trái lại cái tính quy luật vốn có.

Hào 5 : Hằng kỳ đức.Trinh phụ nhân cát phu tử hung.
dịch : Giữ dức đạo hằng.Đoán phụ nữ (như thế) thì mở, đàn ông thì đóng.
Giữ cái đức được bền. Điềm (với) người vợ thì mở, (còn với) chồng thì đóng.

Theo xưa đàn bà thì cần bền chí , đàn ông nên hiểu lẽ tùy thời.
Đoán với người chồng thì đóng là do: theo lẽ thường thì vợ phải giữ cái đức mà theo chồng, còn người chồng không cần phải làm thế. Nếu chồng làm như thế thì rõ ràng là trái lẽ thường, nên điềm đóng.

Hào 6 : Chấn hằng.Hung.
dịch : Chấn động cái sự ổn định, lung lay cái tính thường hằng. Đóng.

Không giữ lâu dài nữa, vượt sự thường.Đóng đấy nhưng theo Bát tự Hà Lạc làm đúng lý thì dù trái thường cũng không sai (lẽ tùy thời).

Sửa bởi Ngu Yên: 19/04/2014 - 21:52


#35 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 19/04/2014 - 21:52

33/ QUẺ ĐỘN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Độn là trốn chạy, lui thoái, giả trá.QNB: Chữ Độn 遯 này viết với bộ Sước 辵 (nghĩa là đi túc tắc, lúc đi lúc dừng) và chữ 豚 (có bộ Thỉ 豕 nghĩa là con Heo) có 2 cách đọc: khi đọc là Đồn thì có nghĩa là con Heo sữa, còn khi cũng đọc là Độn thì nghĩa là đi loẹt quẹt, đi mà kéo lê gót chân. .Javary giảng là hình ảnh con lợn con được dùng ở đây là vừa để chỉ sự chạy trốn vừa chỉ cái lợi bảo toàn thế lực khi lui thoái tựa như con lợn lớn dần thì mau mập.Quẻ này ở 3 hào đầu nói đến những khó khăn khi phải thực hiện việc lui binh chiến lược (không vì nhát mà là không để thua tan nát) .Ba hào sau nói về cái lợi của sự thoái ẩn đúng thời.

Lời quẻ; Độn hanh. Tiểu lợi trinh.
dịch : Thoái lui, thông.Tinh tế mềm dẻo đoán lợi .

Hào 1 : Đồn vĩ, lệ.Vật dụng.Hữu du vãng.
dịch : Đuôi lợn.Nguy.Chớ làm.Có chỗ đi.

Hình ảnh heo sữa thấy bóng người thì hoảng sợ chạy cong đuôi.Thế hào này chưa nên tiến lên, thoái là theo chiến lược (có chỗ đi).

Hào 2:Chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách.Mạc chi thắng thoát.
dịch : Trói chặt bằng dây da bò.Chẳng gì (đánh ) bật nổi.

Thời độn mà không có chữ độn lại dùng chữ chấp (giữ chặt).Vậy ở đây là cố giữ đến cùng như đóng chốt để cho đại quân có thì giờ lui binh an toàn.

Hào 3: Hệ độn, hữu tật, lệ .Súc thần thiếp, cát.
dịch : Thoái lui bị trở ngại, mắc bệnh, nguy.Tụ họp tôi tớ, nô thiếp. Mở.

Là hào dương đầu tiên của quẻ nên việc lui gặp khó, rất dễ bị phá tan.Cho nên phải tụ họp mọi người lại, tránh sự hoảng loạn tối kỵ khi lui quân.Súc có 3 nghĩa : nuôi dưỡng, cản trở đều đã thấy ở các quẻ 9 & 26 còn ở đây có nghĩa tụ họp.

Hào 4 : Hiếu độn.Quân tử , cát.Tiểu nhân phủ.
dịch : Thoái lui tốt đẹp / con lợn ngon lành . Quân tử mở, tiểu nhân không .
Lùi quân thành công.Người trí dũng thì biết là tốt, kẻ tiểu nhân cho rằng không.

Hào 5 : Gia độn.Trinh cát.
dịch : Thoái lui khéo léo /con lợn đầy đặn .Đoán mở.

Bây giờ sự thoái lui mang lại cái lợi toàn cục đã rõ ràng.

Hào 6 : Phì độn.Vô bất lợi.
dịch : Thoái lui dưỡng quân / Con lợn mập mạp .Chẳng gì không lợi.
Hào này cuối quẻ nên không cần lui nữa.Quân tướng sẵn sàng phản công nên phê vô bất lợi.

Sửa bởi Ngu Yên: 22/04/2014 - 03:32


#36 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 22/04/2014 - 03:33

34/ QUẺ ĐẠI TRÁNG

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Đại tráng là lớn mạnh, cương mãnh quá.Quẻ này bàn về việc kiểm soát được sức mạnh , khí nóng biến đó thành hữu dụng, không để phá hỏng, tự mình hại mình.Tượng của quẻ là con dê đực thích húc càn (ngược với con heo con sợ sệt , trốn lủi của quẻ cặp).

Lòi quẻ: Đại tráng .Lợi trinh.
dịch : Lớn mạnh .Nên chính bền.

Sức mạnh lớn mà biết kiềm chế biến thành sức trường lâu, bền bĩ thì lợi.

Hào 1 : Tráng vu chỉ.Chinh hung.Hữu phu.
dịch : Sức mạnh ở chân .Đánh dẹp đóng.Có lòng tin.

Hào sơ nên chỉ muốn động đậy.Chu Dịch khuyên chớ làm bậy.Có lòng tin ở đây có lẽ là quá tự tin .Nhưng kinh nghiệm BTHL cho thấy cũng có thể hiểu là ngừng hung hăng thì có sự tin tưởng để giao hiếu.

Hào 2 : Trinh cát.
dịch: Đoán mở.
Hào này có người bảo nên lấy 2 chữ hữu phu của câu trên xuống.Như vậy thì hợp lý hơn vì xưa kia là 1 bài viết dài , đâu có ngắt chỗ nào hào nào rõ ràng nên chấp nhận giả thuyết này được. Tôi ghi để tồn nghi.

Hào 3 : Tiểu nhân dụng tráng, quân tử dụng võng.Trinh lệ.Đê dương xúc phiên , luy kỳ giác.
dịch : Tiểu nhân dụng sức , quân tử chẳng vậy/ dùng trí/ dùng đạo không .Điềm nguy.Dê đực húc bờ giậu , mắc kẹt sừng.

Chữ võng gây nhiều tranh cãi: võng là vô ( dùng cái không) , là chẳng, là lưới (ám chỉ mưu mô hay luật lệ) ?Cao Hanh còn cho là lo buồn.Nhưng tựu chung thì thú tính mà không kiềm chế được, làm bậy thì sẽ nhận hậu quả xấu (khác với hào 6 vị âm, ứng với hào 3 này biết thay đổi).

Hào 4: Trinh cát, hối vong.Phiên quyết , bất luy.Tráng vu đại dư chi phúc.
dịch : Điềm mở.Hối hận hết.Giậu đổ, không còn mắc kẹt.Sức mạnh ở trục xe lớn.

Hào dương nhưng vị âm lại cận hào âm nên trong cương có nhu .Vật cản đổ rồi.Vế chót nói về cái hay của cái trục quay , nhờ nó mà xe chạy ( xem Lão tử: lấy âm rỗng mà điều khiển dương thật ).
pth 77 Sử dụng được sức mạnh tổng hợp (nỗ lực cao nhất) nên thắng được sức cản của ngoại cảnh, không còn mắc kẹt nên cáng đáng được việc. Thế - lực được ví như Sức mạnh ở trục xe lớn - trục xe mạnh thì mới giúp xe lớn chạy tốt, chở nặng được, nếu không sẽ bị gãy, xe không đi được.

Hào 5 : Táng dương vu Dị.Vô hối.
dịch : Mất dê, cừu ở thành Dị .Không hối.

Đây là một khám phá của văn bản học dựa vào Trúc thư kỷ niên và Sơn Hải kinh. Dị hay Dịch là tên 1 ấp cổ, Vương Hợi (một tổ nhà Thương ) đem thú vật qua đó bán , nhưng lại đi tằng tịu với vợ chúa xứ nên vỡ lỡ thì phải bỏ chạy mất tất cả bò dê nhưng thoát chết .Sau Vương Hợi sẽ bị vua Dị phục kích giết.
Hào này nói rằng lén lút (hào này âm) thỏa chí làm bậy thì phải gánh hậu quả, chỉ mất tài vật đã là may.
Vô hối , theo kinh nghiệm Hà Lạc cũng có thể hiểu theo khuynh hướng xấu là : vẫn không hối hận (xem thêm hào 6 quẻ Lữ 56).

Hào 6 : Đê dương xúc phiên .Bất năng thoái, bất năng toại.Vô du lợi.Gian tắc cát.
dịch : Dê đực húc giậu.Không lui được, chẳng toại lòng.Không lợi đâu.Gian nan thì (lại) mở.

Hào 6 âm cư âm vị nên tuy làm sai , mắc kẹt nhưng khó khăn thì cùng tắc biến (sửa mình ) nên mở.

#37 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 25/04/2014 - 01:30

35/ QUẺ TẤN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tấn là tiến nhưng ở Chu Dịch là tấn phong.Sử gia Cố Hiệt Cương đấu thế kỷ XX đã tìm ra Khang hầu trong lời quẻ chính là một nhân vật lịch sử: Khang thúc Phong , dựa vào Tả truyện và Sử ký.Rồi khoa khảo cổ cũng tìm được một cái " zun " bằng đồng nằm trong quốc khố từ đời Tống, trên đó có ghi hàng chữ : Khang hầu Phong (đã cho ) làm chiếc tôn (? ) quý này [ Kang hou Feng zuo bao zun ] , chứng thực sự kiện Khang thúc đã cho làm chiếc tôn này để đánh dấu ngày được thụ phong .
Bối cảnh lúc ấy là sau khi Chu công đánh dẹp được loạn Võ Canh (tức Lộc Nghĩa) và tam thúc thì nhà Chu thưởng công cho những người trung thành là Vi tử Khải , anh dòng thứ của Trụ, phong ở Tống để giữ hương hỏa nhà Ân , những nhà quyền quý đất Ân theo Võ Canh thì phải dời sang sống ở Lạc Ấp ; ở đó Chu công cho xây Vương thành để làm đông đô nhằm kiểm soát đất Trung nguyên , vùng ảnh hưởng cũ của nhà Ân .Còn đất Ân thì giao cho Khang thúc em áp út của Vũ vương, đặt tên nước là Vệ (bảo vệ nhà Chu) cai quản những người còn lại ở đó.
Vì QNB không quen thuộc với chữ phiên âm do nhiều chữ Hán có thể được phát âm kiểu đồng âm khác nghĩa nên chỉ có thể dựa vào ngữ cảnh để suy "Kang Hou Feng zuo bao zun" = Khang Hầu Phong tác/tạc bảo tôn
Quẻ Tấn nói về việc tấn phong nhưng đi kèm là những khó khăn và lo âu chính trị đằng sau.

Lời quẻ: Tấn.Khang hầu dụng tích mã phồn thứ.Trú nhật tam tiếp.
dịch : Tấn phong.Khang hầu được ban cho nhiều ngựa (xe ) .Trọn ban ngày được (vua) tiếp ba lần.

Tích hiểu là phần thưởng ( Javary), là vua ban ( Trình Di) .Sự tấn phong Khang thúc phải được làm rạng rỡ mà lại gần gũi để cho thấy vai trò hộ vệ quan trọng của ông cho triều Chu.

Dương Ngọc Dũng cũng biết và sử dụng những khám phá của sử và khảo cổ nhưng không hiểu có vì chịu ảnh hưởng quá đậm của giới học giả TQ không mà không thấy ý nghĩa của chữ tấn (phong) lại dịch là Khang hầu đem ngựa vua cho chúng "giao phối " 3 lần một ngày để nhân giống chúng thật nhiều !?Và từ đó ông đã hiểu các hào một cách rời rạc trong khi quẻ này là một quẻ nhất quán hoàn toàn.

Hào 1 : Tấn như, tồi như .Trinh cát.Võng phu, dụ , vô cữu.
dịch : Như tiến lên , như lùi bước Đoán mở.Không (được) tin, khoan thai (thì ) không lỗi.

Hào chỉ khó khăn của người phải mang trọng trách, không được dân tin tưởng .Phải biết dùng khoan hồng để lấy lòng người.

Hào 2 : Tấn như, sầu như.Trinh cát .Thụ tư giới phúc vu kỳ vương mẫu.
dịch : Như tiến lên, như buồn rầu.Đoán mở.Nhận được phúc lớn từ mẹ vua .

Hào này chỉ tâm trạng đằng sau vinh quang của người mang trọng trách.Đoán mở vì sở dĩ Khang thúc được chọn làm Vệ công ngoài tài cán , lòng trung thành còn là vì ông là con cùng mẹ với Vũ vương mà mẹ ông vốn thuộc gia tộc Ân (xem hào 5 quẻ Thái 11) nên ông cũng có một phần máu mủ với quí tộc dất Ân.Đây là phép dùng tâm lý của Chu công.

Hào 3 : Chúng doãn, hối vong.
dịch : Dân chúng tin cẩn , lo hối tiêu tan.
Mọi người chấp thuận. Lo hối tiêu tan
Phép trị dân của Khang hầu cùng những sửa soạn tâm lý đã giúp cho đất Ân cũ không còn nổi loạn.

Hào 4 : Tấn như thạc thử.Trinh lệ.
dịch : Tiến mà như dế mèn / chuột đá. Đoán nguy.
Tiến lên... Nỗi lo âu lớn hơn. Đoán nguy.

Hào này là giả thiết nếu không biết quang minh chính đại thì hung nguy sẽ xẩy ra.

Hào 5 : Hối vong.Thất đắc vật tuất .Vãng cát.Vô bất lợi.
dịch : Lo hối tiêu tan Được mất chớ lo. (Như vậy mà ) tiến sẽ mở.Chẳng gì không lợi.

Đây là tóm tắt câu chuyện của Khang hầu.Cuối cùng thì bốn bề yên tĩnh không phải lo nữa.

Hào 6 : Tấn kỳ giác.Duy dụng phạt ấp.Lệ cát, vô cữu.Trinh lận.
dịch : Tiến lên sừng sộ.Chỉ dùng để trừng phạt quân phiến loạn của( Đại) Ấp (tức đất Ân) .Nguy (nhưng) mở.Điềm lận đận.

Hào này trở lại ngọn ngành .Khang thúc theo Chu công đánh dẹp cuộc phản loạn của Võ Canh và tam thúc , đó là lúc duy nhất ông tỏ ra cứng rắn với dân Ân .Phê nguy rồi lại phê cát vì chiến tranh nguy hiểm nhưng chiến thắng thì mở cho tương lai của ông .Giác là cái sừng , ở đây hiểu như tĩnh từ.

Từ hào 1 đã mô tả sự thăng trầm của Khang Thúc Phong là tiến tới/thăng tiến -> gãy đổ (do bị oan) -> được khoan dung, minh oan là không có lỗi gì.
Quá trình ở hào 2 -> hào 3, gần tương tự như quá trình ở hào 4 -> hào 5: với sự thăng tiến đi kèm với lo âu nhưng được người khác trợ giúp, đồng thuận nên sau đó nỗi lo âu đều tiêu tan cả.
Hào 6 là tiến lên rầm rộ mạnh mẽ, hợp với cảnh chinh phạt, ở trong lúc/chỗ nguy hiểm thì vẫn được an toàn, tuy nhiên vẫn phải chịu lân đận.

Hiểu rõ quẻ này là thành công rực rỡ hàng đầu của khoa Ngữ văn .Cổ điển vì không biết Khang hầu là tên nhân vật , không rõ bối cảnh lịch sử nên hiểu sai lạc nhiều , nhất là ở hai hào 2 & 6.

Sửa bởi Ngu Yên: 28/04/2014 - 12:38


#38 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 28/04/2014 - 02:33

36/ QUẺ MINH DI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Minh là sáng, sáng suốt, trí tuệ, văn minh. Di là bị thương, bị tiêu diệt, che dấu, là tên các dân tộc sống ở vùng Đông bắc TQ (trung tâm cổ là Sơn Đông) đến nam Siberia .Đại tộc Di phần lớn nay đã bị đồng hóa ( dân thiểu số Ainou còn sống ở đảo Hokkaido Nhật là một chi còn sót lại ) dùng cung lớn và thích lấy lông chim để hóa trang và thờ phượng chim.Minh di vậy vừa có nghĩa ánh sáng bị che (thời của quẻ ) vừa có nghĩa che sự sáng suốt (sách lược để tránh họa thời Minh Di). Theo giáo sư Li Xing Shi thì lúc đầu Minh Di được viết với 2 chữ khác và nên được đọc là Chim Bồ nông bị thương kêu la.Như chúng ta đã thấy ở quẻ Ly 30 chim và ánh sáng được hoán dụng cho nhau (hay như con heo và sự lùi trốn ở quẻ Độn 33).

Lời quẻ : Minh di. Lợi gian trinh.
dịch : Ánh sáng bị che .Điềm (chịu ) gian khổ (mới) lợi.
Trí tuệ bị tiêu diệt. Điềm khó khăn/nguy hiểm tới nhanh.

Chữ "lợi" ở đây có thể hiểu với nghĩa nhanh, mạnh, sắc bén,... giống như "lợi khẩu = mồm miệng lanh lợi sắc bén", "lợi khí = khí cụ sắc bén",... nên "lợi gian - trinh" có thể hiểu là điềm khó khăn nguy hiểm đến nhanh, xảy ra nhanh.

Quẻ này nhờ hào 5 có tên Cơ tử , em họ hay chú vua Trụ nên cổ điển cũng hiểu theo bối cảnh lịch sử mà giảng : đế Trụ hôn ám không nghe lời can gián nên trung thần nhà Ân hoặc bị giết, hoặc phải giả điên hay phải bỏ trốn.

Hào 1 : Minh di vu phi, thùy kỳ dực. Quân tử vu hành , tam nhật bất thực.Hữu du vãng .Chủ nhân hữu ngôn.
dịch : Chim đang bay thì bị thương , cánh nó rũ xuống. Người quân tử trên đường đi (lánh ) ba ngày không có ăn. Có chỗ để đi. Chủ nhân có lời tiếng.
Trí tuệ bị diệt bất ngờ/nhanh. Sự cung kính rớt xuống. Người quân tử ra đi, ba ngày chẳng ăn. Có chổ để đến. Người chủ (vua) có lời truy hỏi.

Hào này thường được hiểu là người quân tử gặp thời hắc ám thì nên tránh đi . theo riêng tôi thì đoán là nói về anh em Vi Khải, Vi Trọng Diễn (anh dòng thứ của vua Trụ ) bị bạc đãi và chứng kiến sự tàn bạo của Trụ nên bỏ sang Tây Chu ( có chỗ để đi) .Chủ nhân hẳn chỉ đế Trụ.
Theo QNB thì đây là khi Trụ vương bất ngờ giết Tỷ Can, lúc giết thì Trụ vương có nói "nghe đồn tim người thánh nhân trí tuệ có 7 cái lỗ, để ta thử xem tim ngươi có thật thế không".
Tỷ Can chết và Vi Tử (Vi Khải) bỏ đi, có lẽ là vừa buồn vừa sợ (sợ Trụ diệt cả đám - hào 3) nên đi rất gấp mà ba ngày chẳng ăn. Bỏ sang Tây Chu.

Hào 2 : Minh di, di vu tả cổ. Dụng chửng mã tráng. Cát.
dịch : Chim kêu rên, bị thương ở đùi trái. Cứu (người ) bằng ngựa khỏe. Mở.
Trí tuệ bị diệt, diệt cả phe phái ấy luôn. Cần cứu lấy con ngựa tốt. Mở.

Nhiều người cho là nói về Văn vương (minh cũng là sáng suốt , thông minh) bị giam ở Dữu lý (bị thương ở đùi trái). Để cứu ông ra Tây Chu phải dùng 3 món quà trong đó có ngựa hay; nhưng ta cũng có thể hiểu là phải dùng vừa bền bĩ âm nhu qua sủng thần (tượng ngựa cái quẻ Khôn ) vừa cương quyết mãnh liệt ( tráng).
Cũng vẫn nằm trong cái việc Trụ Vương giết Tỷ Can, giam cầm Cơ Tử, giáng Cơ Tử làm nô lệ, truy lùng Vi Tử. Phía Tây Chu nhân cơ hội cứu lấy Vi Tử (ví Vi Tử như con ngựa tốt - sau này Khổng Tử gọi 3 người này là hiền nhân), điều đó có lợi cho Tây Chu nên hào phê mở.

Hào 3 : Minh di vu nam thú. Đắc kỳ đại thủ. Bất khả tật trinh.
dịch : Chim bị thương khi đi tuần tiễu phương Nam. Bắt được đầu sỏ lớn. Đoán chẳng thể nhanh.
Trí tuệ bị diệt như ở cuộc săn bắt phương Nam. Giết được đầu sỏ. Điềm bệnh tật không khỏi được.

Hào này có nhiều cách ngắt câu và dịch giảng khác nhau nhưng ý chính là lập được chiến công hay đi săn bắt được thú lớn nhưng chưa đến thời nên phải chờ.Tôi cho có thể chỉ Vũ vương vì hào 3 này ứng với hào 6 chỉ Đế Tân / Trụ , ông ta phải chờ thời chứ không đánh ngay được ( đã tựu quân 1 lần rồi bỏ về).
Giết hoàng thân, đại thần bằng cách moi tim thì chẳng khác gì săn thú.

Hào 4 : Nhập vu tả phúc , hoạch minh di chi tâm vu xuất môn đình.
dịch : Mổ vào từ bụng trái, lấy trái tim của ánh sáng bị che khi đi ra khỏi cửa lớn.

Một số học giả tân thời cho là chuyện Vi tử (theo tôi chuyện Vi tử ở hào 1), xưa thì trừu tượng hóa .Javary theo tôi đúng nhất vì nghĩ là kể chuyện Tỷ Can em họ vua Trụ sau khi can gián bất thành bị Trụ nham hiểm bảo muốn xem tim của người hiền có đúng 7 lỗ không nên truyền mổ tim trước cửa điện chầu .
Hào này nên hiểu là thời xấu ám quá không nên cố sửa sẽ thiệt thân .

Hào 5 : Cơ tử chi minh di. Lợi trinh.
dịch : Cơ tử (tự) che ánh sáng. Đoán nên .
Trí tuệ bị diệt là Cơ Tử. Điềm thuận lợi.

Cơ tử là em Tỷ Can , là người hiền triết biết Trụ sẽ không tha mình nên giả điên .Nhờ vậy chỉ bị Trụ tống giam ở chuồng heo .Sau nhà Chu giải cứu ông, mời ra tham chính nhưng ông tạ từ chỉ dạy Vũ vương phép trị quốc (thiên Hồng phạm trong kinh Thư ) rồi xin di cư sang bán đảo Triều Tiên rồi lập quốc ở đấy.

Hào này bảo phải biết che sáng giữ mình hòng truyền đạt lại được cái tài đức cho đời sau chứ đừng bắt chước hào 4 .

Còn lại có Cơ Tử là trí Tuệ nhất của nhà Ân mà đem giam cầm, giáng làm nô lệ thì Điềm thuận lợi là thuận lợi cho phía Tây Chu.

hào 6 : Bất minh hối. Sơ đăng vu thiên, hậu nhập vu địa.
dịch : Tối tăm không chút ánh sáng. Lúc đầu thì lên tận (ngôi ) trời , sau thì phải nằm (trong lòng) đất.

Hào này ám chỉ đế Trụ .Sống bạo chết bạo.

Theo sử cũ thì Tỷ Can, Cơ tử có thể là chú (thúc) vua Trụ nhưng vì việc xảy ra khoảng gần 40 năm sau khi Đế Trụ lên ngôi nên có lẽ họ là em hơn (như Khang thúc là em Vũ vương) .
pth77:+ quẻ Tấn là sự lo lắng của một người được giao trọng trách, nhưng chưa có được sự tin tưởng của mọi người (trên và dưới), nên phải khẳng định bằng hành động
+ quẻ Minh Di là sự thương tổn/ lo lắng do không còn nhận được sự tin tưởng của người trên, nên phải lánh đi

Sửa bởi Ngu Yên: 30/04/2014 - 03:38


#39 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 30/04/2014 - 14:32

37/ QUẺ GIA NHÂN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn



Gia là gia tộc , dòng họ . Gia nhân là người trong họ .Gia tộc là 1 cộng đồng dựa vào huyết thống , một tổ chức để lớn mạnh và giữ được lâu dài vượt trên con người cá nhân nhờ vào điểm chung là tổ tiên các đời.

Lời quẻ : Gia nhân .Lợi nữ trinh.
dịch : Người trong gia tộc. Chính bền như phụ nữ thì lợi.

Nếu trong 1 dòng họ người trưởng họ là người nắm quyền và được chỉ định để giữ sự liên tục giữa các thế hệ qua sự thờ cúng tổ tiên thì thật ra người đàn bà mới là kẻ có khả năng đẻ con sinh cái hầu tiếp nối dòng họ từ đời này sang đời khác .

Hào 1 : Nhàn hữu gia .Hối vong.
dịch : Bảo vệ đề phòng ,lập thành gia tộc .Hối hận tiêu tan.

Nhàn là cửa lớn có cài thanh gỗ lớn làm then để phòng giữ.Ý nghĩa của nó còn là lập ra nề nếp , lề lối trong dòng họ thành một tổ chức bền vững.

Hào 2 : Vô du toại.Tại trung quỹ.Trinh cát.
dịch : Không cần đẩy xa hơn .Ở trong nhà lo việc bếp núc.Đoán tốt.

Hào âm chính vị ứng với vai trò quan trọng của người vợ là lo cho đời sống hàng ngày của cả gia tộc .

Hào 3: Gia nhân hác hác, hối.Lệ cát.Phụ tử hi hi.Chung lận.
dịch : Gia nhân nghiêm ngặt, hối.Nguy (nhưng) mở.Vợ con cười giỡn.Cuối hối tiếc.

Trị gia thà quá nghiêm còn hơn quá khoan.

hào 4 : Phú gia, đại cát.
dịch : (Làm) giàu gia tộc.Tốt lớn.

Có đức nên làm gia tộc hưng thịnh.

Hào 5 : Vương giả hữu gia.Vật tuất , cát.
dịch : Nhà vua (thay mặt gia tộc) cầu khấn tổ tiên .Chớ lo, mở.

Giả là không thật nhưng ở đây thay cho chữ cách mà cách có nghĩa mời đến, cầu khấn.Vậy giả chính là khi cầu khẩn thì giả như (tưởng tượng ) có mặt của ông trời, tổ tiên .Xem thêm quẻ 45 Tụy.

Hào 6 : Hữu phu, uy như.Chung cát.
dịch : Có lòng tin , uy nghiêm .Cuối cùng mở.

Ở đây không chỉ là thiên tử làm lễ mà là cả gia tộc cùng cộng hưởng trong không khí thiêng liêng của buổi lễ.Đấy chính là sức mạnh làm đoàn kết mỗi nhân tố của cộng đồng.

Sửa bởi Ngu Yên: 05/05/2014 - 16:41


#40 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 03/05/2014 - 21:56

38/QUẺ KHUÊ

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Khuê là trái ngược, tách rẽ. Quẻ này nói về sự đối lập , bất đồng và làm sao giải quyết những tình huống này. (Khuê cũng có nghĩa là trừng mắt lên mà nhìn, giương mắt lên mà nhìn,... nên trông thấy) Không khí của toàn quẻ đầy dẫy những cái nhìn xấu về tha nhân ;: kẻ ác, người bị trỗ mặt cắt mũi, con heo đội bùn, lũ quỷ, giặc cướp.Thời cô lập, xa lạ , lúc trái ý, đối kháng dễ gây ra những cái nhìn sai lạc.

Lời quẻ: Khuê.Tiểu sự , cát (Hối vong) .
dịch : Chia lìa .Việc nhỏ / (Giải quyết) sự việc một cách mềm dẻo, Mở.(Hối hận tiêu tan)

Thời Khuê chỉ nên từ từ xích các quan điểm lại gần hòng biến đổi các thái độ kình chống vô bổ sang hợp tác giao dịch, tương quan hữu ích.

Hào 1 : (Hối vong) .Táng mã , vật trục tự phục.Kiến ác nhân , vô cữu.
dịch : (Hối hận tiêu tan ) .Mất ngựa chớ đuổi, tự (nó ) quay về.Thấy kẻ xấu / Gặp kẻ ác, không lỗi.

Hào sơ lại không ứng hợp với ai nên đang cô lập .Đừng đổ xấu cho người , bỏ cái ác cảm ban đầu.
Vế đầu : hối vong, tôi nghĩ nên mang lên lời quẻ.

Hào 2 : Ngộ chủ vu hạng .Vô cữu.
dịch : Gặp người chủ trong ngõ hẹp.Không lỗi.

Trong thời bất đồng gặp kẻ kia một cách ngẫu nhiên hay bí mật có thể giúp giải quyết được tranh chấp.

Hào 3 : Kiến dư duệ, kỳ ngưu xiết. Kỳ nhân thiên thả tỵ. Vô sơ hữu chung.
dịch : Thấy cái xe bị trì kéo, con bò bị lôi ngược lại. Một bọn bị trỗ mặt cạo đầu xèo mũi. Không đầu có hậu.
Thấy xe bị kéo, hay là con bò nó lôi đi. Hay là kẻ vừa bị thích chữ trên mặt vừa bị xẻo mũi. Chẳng bắt đầu mà lại có kết thúc.

Hào này ở vị thế nội xuất nên bao nhiêu khó khăn của quẻ Chia lìa như dồn đổ về hết. Ấy vậy mà sự xấu xa ấy dần dần vẫn có thể làm tan biến đi được (ứng với hào 6, riêng hào được phê cát).

Hào 4 : Khuê cô. Ngộ nguyên phu. Giao phu, lệ, vô cữu.
dịch : Đang bị cô đơn chia lìa thì gặp được một người đàn ông tốt.có lòng tin nên kết bạn, nguy (nhưng) không lỗi.
Chia lìa cô đơn. Gặp người đầu tiên. Trao sự thành tín, nguy, (nhưng) không lỗi.

Hào này không có ứng với hào sơ nên tượng chia rẽ cô độc may mà lại gặp được người đồng hành với mình (hào 5 hợp) lại giỏi giang.Nên tuy vẫn còn trong nguy hiểm (hợp với hào 3 nữa) nhưng có đủ sức để vượt khó.
Trong hoàn cảnh bị chia lìa cô đơn nơi hẻo lánh (chữ "cô" cũng mang nghĩa là hẻo lánh) thì dễ mừng cuống cả lên khi gặp người khác, nhưng mà trao sự thành tín cho người khác lần đầu tiên gặp là nguy, tuy nhiên cũng may là không có lỗi gì.

Hào 5 : Hối vong. Quyết tông phệ phu. Vãng, vô cữu.
dịch : Hối hận hết. Quyết (lên ) từ đường (cùng ) ăn uống. Như thế mà tiến thì lỗi gì ?

Hào này ứng với hào 2 nên sau khi gặp gỡ đã đả thông được bất đồng .Cùng nhau làm việc (vãng) sau khi đã lên nhà tổ chứng tỏ ý thành (phệ phu là cắn thịt như ở hào 2 quẻ Phệ hạp 21).

Hào 6 : Khuê cô. Kiến thỉ phụ đồ, tải quỷ nhất xa.Tiên trương chi hồ, hậu thoát chi hồ.Phỉ khấu hôn cấu .Vãng, ngộ vũ tắc cát.
dịch : Chia lìa cô đơn.Như thấy con heo đội bùn, một xe chở đầy quỷ .Lúc đầu giương cung định bắn, sau lại bỏ cung xuống.Không phải giặc mà là người cầu hôn.Đi đường gặp được mưa nên mở.

Đang cảm thấy chia rẽ hào này nhìn đâu cũng thấy xấu. Thế nhưng dần rồi cũng quen, nghi ngại giảm đến có thể dâu gia với nhaunua-' (xem quẻ 3 Truân / phỉ khấu hôn cấu ).Hào cuối rồi nên sự chia lìa có thể hàn gắn lại (ứng với hào 3 cũng nhìn mình như một thứ chẳng ra gì ) .Gặp mưa trong Chu Dịch là lúc giải nồm/ căng thẳng nên tốt (xem hào 6 quẻ 9 tiểu Súc ).

Sửa bởi Ngu Yên: 03/05/2014 - 23:13


#41 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 05/05/2014 - 16:39

39/ QUẺ KIỂN:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Kiển vốn có nghĩa là què, thọt nghĩa bóng là khó khăn, trở ngại, vướng mắc bất tiện, không lanh lợi, chậm chạp. Một cặp quẻ thường là đảo ngược nhau như hào 1 của A thành hào 6 của B và ngược lại v.v...nhưng có khi là biến âm thành dương và ngược lại (như giữa cặp Càn / Khôn ).Kiển 39 đảo ngược thành Giải 40 , nhưng nếu biến từng hào thì lại thành quẻ Khuê 38 .Mà khuê còn có nghĩa là mắt lác .Trong Chu Dịch chúng ta thường thấy thọt và chột đi chung với nhau (quẻ lý , quẻ Qui Muội) mà họ dù tàn tật vẫn đi được, nhìn được .Vậy ngăn trở cũng thường là vướng mắc tâm lý.

Lời quẻ: Kiển. Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc. Lợi kiến đại nhân, cát.
dịch : Trở ngại. Lợi phía Tây Nam, không lợi bên Đông Bắc. Nên gặp người tài đức, mở.

Trong các lời hào dưới đây ta sẽ thấy sử dụng hình ảnh lai, vãng (trở lại, tiến lên) để khuyên thái độ nên có .
Quẻ này dùng nhiều hình ảnh "lai, vãng" nhất nên QNB chú rõ thêm một chút về 2 chữ này. Lai với Vãng có nghĩa đối ngược nhau. Từ chỗ khác đi tới chỗ người nói (lấy làm mốc) được gọi là Lai. Còn ngược lại từ chỗ người nói mà rời đi tới chỗ khác thì gọi là Vãng.
Tây Nam là Chu , Đông Bắc là Ân vậy cũng là lai, vãng. Ám chỉ không nên tìm cách giải quyết ngay trở ngại mà nen lùi lại để xem xét những sai lầm, thiếu sót hay cách trở tâm lý mà mình mắc phải. Và cách thứ hai là đi vấn kế người tài đức để có cái nhìn cao (bao quát ) hơn hòng giải tỏa khó khăn.
Quẻ này có lẽ là nói đến sự việc ngoại giao của nhà Chu (lúc ấy vẫn đang còn là chư hầu, là vương thần của nhà Ân) khi tới chầu, tới tiếp kiến phía nhà Ân. Xem lời các hào đều như cảnh tượng phía Ân vừa đe dọa (gây khó khăn) vừa dụ dỗ (được vui, được liên minh liên kết) đối với phía Chu. Trong khi đó, thì phía Chu cảm thấy lúng túng khó xử (hào 2) chưa biết ứng đáp thế nào thì có bạn có bè đảng tới đỡ lời (hào 5).

Hào 1 : Vãng kiển lai dự.
dịch : Đi lên vất vả, lui lại được khen.
Rời đi thì khó khăn, đến đây thì yên vui, được khen.

Hào 2 : Vương thần kiển kiển. Phỉ cung chi cố.
dịch : Bậc bầy tôi khó khăn trong khó khăn. Không phải lỗi ở mình .
Vương thần cứ lúng túng khó xoay sở. Không phải là nguyên cớ do khom mình.

Hào này ứng với hào 5 nên phải mang thân ra gánh vác giúp vua trong buổi khó khăn.Cớ sự (cố ) trở ngại không phải ở mình (cung).

Hào 3 : Vãng kiển lai phản.
dịch: Đi lên vất vả lui lại chuyển hướng.
Rời đi thì khó khăn, đến đây thì suy xét.

Suy xét tức là có thể sẽ có sự chuyển biến, chứ chưa chắc đã được yên vui, được khen thưởng như ở hào 1.

Hào 4 : Vãng kiển lai liên .
dịch : Đi lên vất vả lui lại liên kết.
Rời đi thì khó khăn, đến đây thì liên kết.

Hào 5 : Đại kiển bằng lai.
dịch : Khó khăn lớn, bạn bè đến (giúp).
Rất khó khăn, bạn bè đến.

Hào này là bậc vương giả khi khó khăn có bạn bè quần tụ nên có thể vượt qua được trở ngại mà không cần lui..Ứng với hào 2, hợp với các hào 4, 6.

Hào 6 : Vãng kiển lai thạc. Cát. Lợi kiến đại nhân.
dịch : Đi lên vất vả lui lại được lớn. Mở. Nên gặp người tài đức.
Rời đi thì khó khăn, đến đây thì tốt đẹp, vững bền. Mở. Nên gặp người tài đức.

Hào này biết sử dụng cả 2 chiến lược đề ra trong lời quẻ nên riêng được phê cát .

#42 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 08/05/2014 - 19:45

40/ QUẺ GIẢI

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Giải là cởi bỏ, thoát, tan .Quẻ này là quẻ cặp với quẻ Kiển nên ở lời quẻ lặp lại hướng Tây Nam của đất Chu .Hai hào dương làm chủ động cho quẻ.


Lời quẻ: Giải.Lợi Tây Nam.Vô sở vãng, kỳ lai phục, cát.Hữu sở vãng , túc cát.
dịch : Cởi bỏ.Lợi Tây Nam .Không có chỗ đi, lúc trở lại mở.Có chỗ đi (thì nên ) làm nhanh , mở.

Để giải tỏa những khó khăn nên bình tâm nhìn lại sự việc, quay về đất nhà thì dễ bình tâm.Cái gì không thể làm được, không do mình định đoạt thì nên bỏ qua .Cái gì có thể làm được thì nên chộp lấy cơ hội ngay.

Hào 1 : Vô cữu.
dịch: Không lỗi.

Hãy đi tìm điều kiện để giải thoát, cởi mở.Đừng nghi ngờ, ngần ngại.

Hào 2 : Điền hoạch tam hồ.Đắc hoàng thỉ.Trinh cát.
dịch : Đi săn bắt được ba con cáo .Được mũi tên vàng.Điềm tốt.

Hào này ở vị trung nội lại dương cương nên phải sắn tay mà làm, giải quyết những khó khăn hàng ngày, cụ thể.Cho nên được thưởng mũi tên vàng (như hào 4 cần mẫn ỏ quẻ 21 Phệ Hạp) .Có thể con cáo tượng cho sự cẩn thận, ám chỉ những điều kiện còn nằm trong bóng tối phải hội đủ để giải tỏa.

Hào 3 : Phụ thả thừa, trí khấu chí.Trinh lận.
dịch : Mang vác (tài vật ) mà cưỡi xe chỉ như vời giặc tới.Điềm lận đận.

Đã gặp khó còn đeo theo những tham lam lẽ ra phải bỏ đi (vô đức mà ngồi địa vị cao ) nên tai họa khó tránh.

Hào 4 : Giải,nhi mẫu.Bằng chí.Tư phu.
dịch : Giải tán thì tiến được .Bạn đến.Tin tưởng đó.

Hào dương nên quyết đoán : biết cởi bỏ nên không mắc kẹt .Bạn bè sum vầy nên tương lai có cơ mở lại.

Hào 5 : Quân tử duy hữu giải, cát.Hữu phu vu tiểu nhân.
dịch : Quân tử chỉ còn cởi bỏ, tốt.Có lòng tin hướng về tiểu nhân .

Hào này vị cao nhưng âm nhu , nhờ ứng hợp với 2 hào dương đã làm tan cái khó, còn chờ hào 5 cởi bỏ nghi ngờ là xong.Nhưng coi chừng vì hào này thiếu cương quyết dễ nghe theo tiểu nhân .Cho nên chỉ là người trí dũng thì mới thoát được.

Hào 6 : Công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng.Hoạch chi.Vô bất lợi.
dịch : ( Chu ) công dùng tên bắn con chim ưng từ tường cao của tòa thành.Bắt được nó.Chẳng gì không lợi.

Chu công là người nhìn xa đức lớn đứng trên thành cao nên bao quát được vấn đề. Thu hoạch là giải tỏa được khó khăn.
Cuối quẻ , hào này duy nhất có vị chính nên đủ tài đức để làm tan chướng ngại.

Sửa bởi Ngu Yên: 10/05/2014 - 04:38


#43 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 11/05/2014 - 12:28

41/ QUẺ TỔN

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Tổn là giảm, mất. Ở Chu Dịch là bớt, là thiệt nhưng mà là để cân bằng hòng làm cho tình thế tốt đẹp hơn ( chữ Ích , tên quẻ cặp , xuất hiện đến 3 lần trong quẻ Tổn).

Lời quẻ: Tổn . Hữu phu, nguyên cát. Vô cữu, khả trinh, lợi hữu du vãng. Hạt chi dụng ? Nhị quỹ khả dụng hưởng.
dịch : Giảm. Có lòng tin , từ đầu đã tốt. Không lỗi. Điềm có nhiều khả năng , nên tiến. Cúng tế thần linh ra sao? Chỉ cần hai bát quỹ là đủ.

Giảm không chỉ là làm bớt đi mà là đầu mối của sự thay đổi tổ chức, thời thế.Lời quẻ cho thấy giảm, do dù do mình hay do thời thế , hứa hẹn những khả năng mới sẽ xuất hiện.Javary cho rằng cặp Tổn / Ích là thời điểm âm (âm thầm, tiềm năng) của cặp Cách / Đỉnh 49/50 , là đầu mối của thời đại được lãnh Mệnh Trời sau này.

Hào 1 : Dĩ sự, thuyên vãng. Vô cữu. Chước tổn chi.
dịch : Việc xong đi mau. Không lỗi. Suy nghĩ cân nhắc về sự tổn giảm.
QNB:Xong việc, ra đi nhanh chóng. Không lỗi. Cái sự đắn đo vơi đi.

Dĩ hiểu là xong theo Trình Di và đa số hiện đại. Hào này giúp người không cầu báo nhưng cũng cân nhắc chứ không để thiệt thòi quá sực có thể gây mất quân bình.
Dĩ sự, cũng có nghĩa là Thôi/ngừng/từ bỏ chức vụ, từ bỏ công việc nào đó đang làm.

Hào 2 : Lợi trinh. Chinh hung. Phất tổn ích chi.
dịch : Nên chính bền. Đánh dẹp , đóng. Chẳng phải bớt mà là thêm đó.
Nên chính bền. Đánh dẹp đóng. Chẳng bị tổn thất thêm nữa.

Hào này biết thời, phải bền bĩ, đúng đắn, không vội vàng.Thì sau này (hào 6 có cùng câu phất tổn ích chi) mới được hưởng cái lợi ích.
Thời này tuy điềm có lợi nhưng mà cũng không nên động đao bình thì chẳng bị tổn thất thêm nhân lực vật lực gì nữa.

Hào 3 : Tam nhân hành, tắc tổn nhất nhân. Nhất nhân hành tắc đắc kỳ hữu.
dịch : Ba người đi thì mất một. Một mình đi thì sẽ có bạn.

Câu này giảng về chu kỳ thêm, bớt tự nhiên mấu chốt của cặp quẻ Tổn / Ích.
Cũng mang nghĩa cảm thán về cái việc "lắm thầy thì thối ma", kẻ bàn ra người tính vào, thế nào rồi cũng có lúc 3 ông bất đồng quan điểm nên sẽ có 1 ông bỏ đi. Bớt đi 1 ông thì bớt đi 1 quan điểm nên đỡ phải đắn đo do dự (điều này cũng thể hiện ngay từ hào 1).
Còn trường hợp đi một mình thì thế nào cũng có nhu cầu thêm bạn, thêm người nữa để tham khảo ý kiến.

Hào 4 : Tổn kỳ tật. Sử thuyên. Hữu hỷ. Vô cữu.
dịch : Mau làm giảm thói hư tật xấu. Có mừng, không lỗi.

Hào này QNB cho rằng nên ngắt câu là: Tổn kỳ tật. Sử thuyên hữu hỉ. Vô cữu. = Giảm thói hư tật xấu. Nhanh chóng có sự vui mừng. không lỗi.

Hào 5 : Hoặc ích chi. Thập bằng chi quy: phất khắc vi. Nguyên cát.
dịch : Cái lợi không chắc gì. Mười cặp (câu hỏi ) qua bói rùa cũng chẳng làm thay đổi ý định. Từ đầu đã tốt.
Nghi hoặc. Thêm nữa. Có mười ông rùa thì cũng chẳng hứa hẹn gì cả. Vốn đã mở ngay từ đầu.

Hào này Javary hiểu khác mọi người (tôi dịch theo Javary) .Ông ta cho rằng dù hành động của mình chưa cho thấy lợi ích gì nhưng đã biết là làm đúng thì không để bất cứ chuyện gì thay đổi ý mình ngay cả bói 10 lần đều ra kết quả xấu đi nữa.
"Có muời ông rùa" tức là dẫu có bói thêm mười lần nữa (cũng vẫn thế). Nghĩa là thời này bói quẻ mai rùa, đã được tốt ngay từ lúc đầu mà vẫn còn nghi hoặc, muốn bói thêm xem thế nào.

Hào 6: Phất tổn ích chi. Vô cữu. Trinh cát. Lợi hữu du vãng. Đắc thần vô gia.
dịch : Chẳng phải thiệt mà là ích dó. Không lỗi. Đoán mở. Nên có chỗ đi. Được bầy tôi không có gia tộc.
Chẳng mất thêm gì cả. Không lỗi. Đoán mở. Nên có chỗ đi. Được (thêm) bầy tôi không có gia tộc.

Cuối thời rồi bây giờ cái lợi đã rõ, đoán là đại cục sẽ mở.Nên có dự toán, lòng tin. Hào này chắc có 1 điển tích mà chúng ta không biết đến.

Sửa bởi Ngu Yên: 13/05/2014 - 03:43


#44 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 16/05/2014 - 02:02

42/ QUẺ ÍCH

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Ích là thêm, tăng, lợi. Đây là thời điểm có việc cụ thể phải làm và thời điểm cần tổ chức lại, rà soát lại công việc khi có tăng tiến. Ở đây Ích khác với Tổn ở chỗ hào trung, dương nằm ở bên ngoài / hào 5 chứ không nằm bên trong / hào 2.

Lời quẻ: Ích. Lợi hữu du vãng. Lợi thiệp đại xuyên.
dịch : Ích. Nên có chỗ đi. Nên qua sông lớn.

Xem lợi hữu du vãng và lợi thiệp đại xuyên ở phần dẫn nhập / thuật ngữ. Thời có việc thì cũng có nhiều lôi thôi / cơ hội vậy cho nên phải có kế hoạch và phải thay đổi để thích ứng.

Hào 1 : Lợi dụng vi đại tác. Nguyên cát. Vô cữu.
dịch: ( Được) dùng để làm việc lớn là có lợi. Tốt lớn từ đầu. Không lỗi.
Lợi dụng/Thừa cơ làm việc lớn.

Javary dịch là" được dùng" chứ không" dùng để" vì đây là hào sơ đâu làm chủ chốt được. Vả lại ứng với hào 4, ở đó có người đến gọi hào 1 ra giúp vua.
QNB cho rằng để nguyên chữ "Lợi dụng" hoặc dịch như cụ Nhân Tử là "Thừa cơ" đều cũng rõ nghĩa.
Mà đã là khởi sự làm việc lớn thì hào sơ cũng nên bắt tay vào làm ngay, thừa cơ mà tiến hành luôn, không chần chừ gì cả (xem tiếp hào 2, 3, 4).

Hào 2 : Hoặc ích chi. Thập bằng chi quy, phất khắc vi. Vĩnh cát trinh. Vương dụng hưởng vu đế, cát.
dịch : Cái lợi không chắc. Mười cặp (câu hỏi ) qua bói rùa cũng không thay đổi được ý định. Đoán muôn đời tốt đẹp. Vua dùng lễ cống chầu hoàng đế, mở.
Nghi hoặc. Thêm nữa. Có mười ông rùa cũng chẳng khác gì cả. Điềm mở vĩnh viễn. Vương thi hành, hưởng đến Đế. Mở.

Hào này phần đầu là lặp lại hào 5 quẻ Tổn 41 (xem thêm). Ở đây ý nói thấy việc lợi lâu dài mai sau thì cứ làm chứ không phải chờ đợi được lợi ích ngay.
Cũng như hào 5 quẻ Tổn, lúc đầu bói được điềm tốt mà vẫn còn nghi hoặc, muốn bói thêm xem thế nào.
Sau được khẳng định chắc ăn "Điềm mở vĩnh viễn" (thì có bói lại 10 lần cũng thế thôi). Làm ở mức Vương nhưng sẽ được hưởng đến mức Đế, tức là có lợi to, cao hơn 1 bực.

Hào 3: Ích chi, dụng hung sự. Vô cữu. Hữu phu. Trung hành, cáo công dụng khuê.
dịch : (Nhờ) hung sự mà được thêm. Không lỗi. Có lòng tin tưởng. Hành động đúng / Giữa đường , bào cho đức công bằng ngọc khuê.
Thêm nữa, (lợi) dụng cái sự hung. Không lỗi. Có lòng thành tín. Trong khi thi thành, báo cho đức Công bằng ngọc khuê.

Hung sự là việc chết chóc nên Javary đoán là ám chỉ Khang thúc ( xem quẻ 35 Tấn). Xưa khi có lệnh quan trọng để được tin người ta dùng mảnh nha chương bằng ngọc gọi là Khuê, như hổ phù sau này.
Đây có lẽ là phía Tây Chu lợi dụng cái lúc phía Ân đang gặp hung sự mà khởi sự việc lớn.

Hào 4 : Trung hành cáo công tòng. Lợi dụng vi y thiên quốc.
dịch : Giữa đường gọi đức Công theo lệnh. Nên giúp ( hoàng đế ) việc rời đô.
Trong lúc thi hành, báo cho đức Công dấu vết. Lợi dụng "cái bình phong" rời đô.

Hào này kể việc Cổ công Đản Phụ nhà Chu được vua Ân gọi đến giúp rời đô, sau đó được nhà Ân tấn phong (chính thức ) ở Kỳ sơn ( Cao Hanh dẫn theo Trúc thư kỷ niên).
Chữ Tòng 從 còn thông với chữ Tung 蹤 (tung tích, dấu vết). Chữ Y 依 này đọc là Ỷ (là cái bình phong, nương tựa,...).
Đây có thể là phía Chu định lợi dụng cái việc rời đô của nhà Ân mà nhân cơ hội đó khởi đại sự.

Hào 5: Hữu phu, huệ tâm. Vật vấn: nguyên cát. Hữu phu, huệ ngã đức.
dịch : Có lòng tin, tâm huệ muốn giúp người. Không cần hỏi cũng biết là tốt lớn. Được tín nhiệm là nhờ ta có lòng tốt

Ân, Chu kết hợp , tin tưởng vào nhau đó là thành quả của sự làm ơn của Chu.

Hào 6 : Mạc ích chi. Hoặc kích chi. Lập tâm vật hằng, hung.
dịch: (Lòng tin ) Không tăng nữa. Có lẽ còn bị đánh. Lập tâm chẳng bền, đóng.
Đừng có thêm nữa. Nghi hoặc. Lộ mất rồi. Có tâm chí lập nghiệp thì đừng cứng nhắc. Đóng.

Javary chua : tâm khô cứng chẳng thể bền lâu.
Hiểu thế nào đi nữa thì cuối thời Ích , mọi chuyện lại xảy ra theo chu kỳ đi xuống.
Cái ý định khởi đại sự của phía nhà Chu bị tiết lộ, bị phát giác (kích 擊) nên lỡ mất cơ hội, đó là do sự nghi hoặc, không quyết đoán, nên hỏng chuyện.


#45 Ngu Yên

    Guru Member

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPip
  • 3097 Bài viết:
  • 7529 thanks

Gửi vào 19/05/2014 - 15:28

43/ QUẺ QUẢI


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Quải còn đọc là quyết, nghĩa là nứt vỡ, quyết liệt.Các nhà Nho xưa giảng là 5 hào dương quân tử họp lại để diệt hào âm tiểu nhân trên cùng; quải là quả quyết , đến lúc cùng thì không nhân nhượng.Javary có cái nhìn hơi khác : 5 hào dương chỉ sức mạnh lên cao tột chỉ muốn trồi ra vượt khỏi hào âm trên cùng ngăn chặn như cái nhọt vỡ tung hay nước lũ tràn bờ.

Ở quẻ này các hào ở vị dương (lẻ) thì giương uy , ở vị âm (chẵn) thì cẩn thận.

Lời quẻ: Quải. Dương vu vương đình. Phu hào / hiệu. Hữu lệ. Cáo tự ấp. Bất lợi tức nhung. Lợi hữu du vãng.
dịch : Cương quyết. Công khai (vấn đề ) giữa triều vua. (Lấy) lòng tin mà kêu / hiệu triệu. Nguy đấy. Báo cho ấp mình biết. Chẳng lợi dùng binh. Nên có chỗ đi.

Thời quẻ Quải không thể chờ nữa, không thể hòa giải được phải kêu gào lên , phải giương quyết định/ ý kiến của mình (hào là kêu, hiệu là gọi tùy theo vai trò ).Trước triều đình mà nói lớn thì dĩ nhiên có nguy hiểm.Nên báo cho phe mình biết để họ ủng hộ.Tránh dùng hung hăng để mong áp đảo người. Đoán trước được hậu quả của lời nói của mình, biết cứng cõi mà không mạo phạm hay mạo hiểm.

Hào 1: Tráng vu tiền chỉ Vãng bất thắng vi cữu.
dịch : Nóng lòng bước lên. Tiến ra mà không thắng được là làm sai đó.

Hào này tính nóng ( Tráng như hào 34 đại tráng) nên thiếu suy nghĩ, dễ mắc lỗi. Không dùng chữ quải vì chưa suy nghĩ chín chắn.

Hào 2 : Dịch hào .Mộ dạ hữu nhung. Vật tuất.
dịch : Lo sợ nên hô hào. Chiều tối có đánh nhau. Chớ quá lo.

Hào 2 biết trước nguy cơ nên đã báo trước để phòng ngự.

Hào 3 : Tráng vu quì, hữu hung. Quân tử quải quải. Độc hành. Ngộ vũ nhược nhu. Hữu uẩn, vô cữu.
dịch : Nóng mặt, xấu chắc. Quân tử thì quyết quyết. Một mình đi . Gặp mưa thấm ướt (mát mẻ ).Có giận ghét nhưng không lỗi.

Hào này vì nóng giận mà gặp họa.Nếu là kẻ trí dũng thì quyết tâm làm theo cái mình nghĩ là đúng , dù một mình, tranh cãi với người khác vô bổ.Như vậy sẽ giảm bớt được bực bội (gặp mưa trong Chu Dịch là điều tốt vì giải tỏa được cơn nồng), dù thái độ độc lập đó có gây khó chịu.

Hào 4 : Đồn vô phu. Kỳ hành từ thư. Khiên dương , hối vong. Văn ngôn bất tín.
dịch : Đít không da. Việc làm bị chậm. Giữ con dê, hối hận tiêu tan. Nghe lời đó nhưng không tin.

Hào này có nói ra nhưng bị bỏ ngoài tai nên việc làm bị chậm .Chớ nóng lòng mà nên biết kiên nhẫn (con dê húc càn của quẻ Đại Tráng ở đây được giữ chặt) , thư thả chờ dịp khác.Đít không da là hình ảnh bị thương không được ủng hộ , đi đứng khó khăn.

Hào 5 : Nghiến lục.Quải quải.Trung hành, vô cữu.
dịch : Cỏ răng ngựa. Cả quyết. Làm đúng, không lỗi.

Hào 5 dung hòa được sự cương quyết và sự nóng lòng ( nghiến lục là 1 loại cỏ vừa mềm vừa dai)nên làm đúng (hành động đúng lúc, dùng đúng lời).

Hào 6: Vô hào .Chung hữu hung.
dịch : Không kêu lên. Cuối cùng sẽ đóng.

Hào này quá âm nhu , sợ hãi nên không dám nói. Rốt cuộc là xấu nhất.

QNB :Thời quẻ Quải khả năng là lúc Chu Vũ Vương (Cơ Phát) quyết định khởi binh phạt Trụ. Chúng ta nhớ lại quẻ Ích với dấu hiệu "khởi đại sự", riêng đối với hào 4 quẻ Ích có "lợi dụng cái bình phong rời đô" theo Cao Hanh giảng là rời đô của nhà Ân - nhưng cũng có thể là việc Cơ Phát rời đô từ đất Phong đến đất Cảo để thuận lợi cho việc khởi binh đánh nhà Ân.
Nhưng lần quyết khởi sự này vẫn chưa thành sự thực, chủ yếu do thiếu binh sĩ (đến muộn mới có binh - hào 2), cũng có khả năng là lời khuyên can của Bá Di, Thúc Tề phần nào làm Cơ Phát nhận ra rằng thời cơ chưa chín muồi (mặc dù lúc 2 người đó nói Cơ Phát không tin - "văn ngôn bất tín" - hào 4, suýt nữa cho người chém 2 ông này, may nhờ Khương Tử Nha can ngăn lại).

Sửa bởi Ngu Yên: 22/05/2014 - 14:54







Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

2 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |