

HỌC THUẬT 88888888
#6301
Gửi vào 23/11/2012 - 20:37
Ngay cả khi xới cơm chị được dạy là phải xới ít nhất 2 thìa, kiêng 1 thìa
Thanked by 3 Members:
|
|
#6302
Gửi vào 23/11/2012 - 20:40
Chụp hình 3 người, trong 3 sẽ mất 1. Kỵ lắm. Người Trung Quốc rất kỵ chụp hình 3 người. Kinh nghiệm của anh thì chụp hình chung 3 đứa bạn thì trước sau 1 trong 3 đứa sẽ không còn là bạn. Nhưng anh cũng không hiểu sao Cúng Thờ lại cúng 3 trái cây okay.
Sửa bởi 888: 23/11/2012 - 20:44
Thanked by 3 Members:
|
|
#6303
Gửi vào 23/11/2012 - 20:43
Công nhận nghe clip trên mà xôn xao nhớ thời hay xem phim chưởng HK
Thanked by 3 Members:
|
|
#6304
Gửi vào 23/11/2012 - 20:44
Thanked by 3 Members:
|
|
#6305
Gửi vào 23/11/2012 - 21:33
------------
Thanked by 2 Members:
|
|
Thanked by 3 Members:
|
|
#6307
Gửi vào 25/11/2012 - 22:01
(10/27/2002)
Tác giả : Thiên Đức
Anh Thiên Đức mến,
Em có một thắc mắc mà chưa giải tỏa được, là khi em đi xem tử vi có người nói cung phu của em xấu, nên lập gia đình trể, mới có thể tránh được xung khắc và đổ vở, thế nhưng hiện nay tình yêu đến trước tuổi hy vọng nói trên, như vậy em có nên lập gia đình theo tiểu hạn đào hoa của mình hay là phải chờ đợi qua vận hạn xấu của mình"
Trả lời cô Lý Phúc Anh:
Câu hỏi của các bạn đặt ra có hai phần để trả lời. Đó là thời gian lập gia đình theo lá số, duyên nợ theo tình yêu đến.
1)- Hạn lập gia đình: Theo khoa tử vi, việc lập gia đình là một biến cố nhất thời làm đổi thay cả cuộc đời, vì thế để xét và giải đoán về biến cố này, thường xét cung đại vận và tiểu vận, xác tín nhất là các cung này tọa thủ trực chiếu hay hội chiếu cung phu thê, và cung nhập hạn lập gia đình thông thường sẽ hiện diện các sao Thiên Hỷ, Hỷ Thần, Đào Hoa, Hồng Loan, Tứ Linh (Long, Phượng, Hổ Cái), Nhật Nguyệt, Thanh Long, Song Hao. Nếu hôn nhân do mai mối bạn bè giới thiệu thường có thêm Tả Hữu, Thai Tọa. Lập gia đình xa xứ hay vợ chồng khác chủng tộc lại đi kèm theo Thiên Mã, Khốc Khách, Tràng Sinh. Riêng vợ chồng đã chung sống với nhau rồi mới đi đến hôn nhân thì hiếm khi không có sự hiện diện của các sao tình dục như Thiên Riêu, Thai, Mộc Dục, Liêm Trinh, Tham Lang, Hoa Cái. Ngoài ra hôn nhân xuất phát từ tai nạn ái tình như cưỡng hiếp hay người hôn phối bất chính thường có thêm Phục binh, Thiên Không, Thiên Tướng. Tóm lại khi giải đoán thời gian lập vợ chồng thì tính theo cung tiểu hạn, nhưng xét nội dung của cuộc hôn nhân thì rất đa dạng tiềm ẩn qua các sao phối hợp lại. Đặc biệt trong trường hợp cung phu thê quá xấu và cung tiểu hạn cũng hiện diện nhiều hung sát tinh nhưng lại rơi vào trong hạn lập gia đình thường được giải đoán kết quả hôn nhân khó bền vững, nếu xảy ra đúng trong thời gian này. Và thông thường theo kinh nghiệm của các bậc tiền bối tử vi đã để lại lời khuyên nên lập gia đình theo sau đó từng chu kỳ 4 năm nếu tiểu hạn hội chiếu, trực chiếu sáu năm hay là từ 9 năm đến một giáp nếu rơi vào trường hợp tọa thủ với hy vọng hóa giải được vận hạn xấu của cung phu thê. Về phương diện lý thuyết là như vậy thế nhưng cuộc đời không đơn thuần theo vận số ước mong, và con tim thường có lý lẽ riêng mình, vì thế khi tình yêu đến màu hồng hiện tại đẩy lùi màu sắc ảm đạm của lá số thì đương số có nên vì tương lai mà bỏ đi hạnh phúc hiện tại trong tầm tay hay không" Đó chính là vấn đề duyên và nợ.
2)- Duyên nợ và tình yêu: Thật vậy, một người có số đào hoa thường may mắn có nhiều cơ hội đưa đến để xây dựng tình yêu, và tình yêu này có đưa đến hôn nhân vợ chồng hay không đó chính là cái nợ. Một người có số đào hoa có nhiều tình yêu chưa hẳn đã là điều may mắn, vì nếu người này không tỉnh táo trong vận số đào hoa có thể đưa đến hậu quả xấu ảnh hưởng đến sự nghiệp và gia đình đó chính là HỌA Đào Hoa. Thế nhưng người không có số đào hoa chưa hẳn là điều bất hạnh, thường khó khăn lắm mới tìm kiếm được một mảnh tình vắt vai, và nếu có nợ với nhau lại thường có hạnh phúc lâu dài ít khi xãy ra cảnh dĩa bay chén bay vì tình cảm ngoại lai đưa vào. Vì vậy một người có vận số đào hoa mà rơi phải cung phu thê quá xấu thì không lo gì không có cơ hội để tìm kiếm tình yêu tốt đẹp theo vận thời khả dỉ tránh được hậu quả xấu của cung phu thê. Thế nhưng đối với người không có số đào hoa, cơ hội thường không đến sớm trước vận hạn hôn nhân vì vậy phải khôn khéo, nắm bắt cơ hội của mình đó chính là yếu tố nhân mệnh trong hôn nhân vậy. Tóm lại, để trả lời câu hỏi của bạn đọc có nên lập gia đình theo tiểu hạn đào hoa của mình hay là phải chờ đợi qua vận hạn xấu" Và câu trả lời là của chính bạn có số đào hoa hay không và có khả năng nuôi dưỡng tình yêu và HẠNH PHÚC hay không" Nếu bạn trả lời được câu hỏi này cũng chính là lời đáp nên nắm lấy tình yêu trái mộng hiện tại vậy. Và bạn cũng đã chuẩn bị tâm lý sau hôn nhân như một văn nhân nào đó đã từng nói: "Trong tình yêu và hạnh phúc không phải là hai người nhìn lại mình hay người đối diện, mà chính hai người nhìn về một hướng" Phải không các bạn"
(Sưu tầm)
Sửa bởi Tử Phủ Vũ Tướng: 25/11/2012 - 22:02
Thanked by 8 Members:
|
|
#6308
Gửi vào 25/11/2012 - 22:11
(11/15/2003)
Song Lộc
Năm, tháng, ngày và giờ theo âm lịch là 4 yếu tố cần có đủ để lập thành một lá số tử vi, cả 4 yếu tố trên đều phải chính xác. Năm thì cần có đủ nạp âm (can+chi) tháng và ngày thì dùng con số theo âm lịch (thí dụ tháng 6 ngày 20) còn giờ thì dùng 12 giờ theo địa chi. Đây là 4 yếu tố để lập thành lá số, nhưng khi giải đoán lá số thì cả 4 yếu tố trên đều cần đến nạp âm (can+chi) để biết ngũ hành sinh hợp, chế hóa mà luận đoán. Ngoài ra còn cần lưu ý đến các tháng nhuận và ngày tháng nhuân khi lập các lá số đặc biệt. Riêng về giờ, thì cần phải nắm vững tùy theo từng thời điểm tại các địa phương khác nhau mà ứng xử.
- Ở Hoa Kỳ phải chú ý đến "saving time" và các vùng đặc biệt.
- Ở Việt Nam, thì phải chú ý đến sự thay đổi giờ giấc của nhà cầm quyền lúc đó. Vì tuy giờ căn bản để lấy lá số tử vi là 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng ngày hôm sau, là giờ tý, nhưng từ 1 tháng 4 năm 1945 đến 31 tháng 3 năm 1947 lấy theo giờ của Nhật, tăng lên 2 giờ, nên giờ Tý phải kể là từ 1 giờ đến 3 giờ sáng. Và riêng ở miền Nam Việt Nam thì từ 1 tháng 1 năm 1960 đến 19 tháng 5 năm 1975 thì giờ Tý phải kể từ 12 giờ đêm đến 2 giờ sáng.
Tứ trụ hay bát tự niên canh (năm, tháng, ngày, và giờ) mà sai thì không có thể có một lá số chính xác được. Sai một ly đi một dặm, bài ký sự này sẽ nói lên điều đó.
Khách là một phụ nữ trẻ, duyên dáng và mau mắn. Bà đưa cho tôi một lá số tử vi viết tay và nói: "Mấy năm nay vợ chồng cháu làm ăn vất vả và gặp nhiều chuyện không may. Mới đây, khi về Việt Nam mẹ cháu có nhờ một người quen chấm và giải đoán lá số này nhưng cháu thấy không đúng chút nào cả, không hiểu tại sao""
Cầm lá số có cách: "Cơ-nguyệt-đồng-lương" nhìn bà khách dáng cao cao tôi thầm nghĩ: Tướng và số không có điểm tương đồng, chắc là có vấn đề, cần xem kỹ lại. Nhắc thấy ghi giờ thân (18 giờ) tôi vội hỏi: "Xin lỗi, bà sinh ở đâu, trong Nam hay ngoài Bắc. Bà đáp: "Thưa thày cháu sinh ở Hải Phòng năm 1967 đầu năm 1968 Mậu Thân. Bố cháu hy sinh tại chiến trường miền Nam. Gia đình cháu thuộc thành phần tập kết ra Bắc nên cuối năm 1975 mẹ con cháu hồi cư về quê nội và sinh sống tại Tây Ninh. Đời sống cũng cơ cực và bị chèn ép như ở ngoài Bắc, chán quá mẹ con cháu theo ông bà nội và gia đình vượt biển tìm tự do vào năm 1979 và đến định cư tại Hoa Kỳ năm 1980, tương đối dễ dàng. Vì gia đình bên nội có nhiều chú bác làm việc cho chế độ cũ và nhất là có đủ tiền để mua bến bãi cùng sự an toàn khi ra khơi. Thấy bà hơi dài dòng tôi vội ngắt lời: Xin lỗi bà, như thế lá số này lấy sai giờ vì vào năm 1967 miền Bắc và miền Nam chênh lệch 1 giờ đồng hồ. Giờ thân ở miền Bắc lúc đó là từ 15 giờ tới 17 giờ, 18 giờ phải kể là giờ Dậu. Giờ tính sai, nên lá số này không đúng. Thêm vào đó, chắc người lập và giải đoán lá số không thấy rõ tướng mạo của bà để có sự so sánh, mà chỉ luận đoán một cách thông thường nên khó có được sự chính xác lẽ ra phải có. Ngoài ra, tuổi Đinh Mùi mà sinh vào giờ Thân thì là số cô đơn, đâu có thể có được một tiểu gia đình sớm sủa như bà. Như thế phải lập lại lá số mà giờ sinh là giờ Dậu mới đúng. Bà đáp, thưa thầy cháu không rành về tử vi, vậy xin thầy lập lại lá số và giải đoán cho. Điều làm cháu lo âu nhất là hạnh phúc gia đình, việc học hành của con cái và công việc làm ăn của vợ chồng cháu sẽ ra sao" Nhằm trấn an bà, tôi nói tiếp: nhìn nét tướng, tôi thấy bà đã có nhiều khởi sắc: "Qua cơn bỉ cực, tới hồi thái lai" xin bà yên tâm. Để có đủ yếu tố luận đoán xin bà cho biết thêm vài chi tiết sau đây:
- Tuổi của cha mẹ đôi bên (nếu có)
- Tuổi của chồng
- Tuổi và giới tính của các con
- Phương hướng nơi cư trú (nếu biết).
Sau đó, tôi lập lại lá số tử vi theo giờ dậu, phân tích, tổng hợp và so sánh các dữ liệu, tổng lược như sau:
- Số vững nhờ phúc đức tứ đại bên nội.
- Mấy năm nay làm ăn gặp khó khăn vì hạn xấu. Vợ chồng lục đục vì nơi cư trú có sự khắc kỵ về phi cung như:
Hạn: chồng, tuổi Ất tỵ (hành hỏa) 37 tuổi hạn xấu, vợ Đinh mùi (hành Thủy) 3 năm Tỵ, Ngọ, Mùi hạn xấu
Tuổi: Vợ chồng xung khắc về ngũ hành (thủy khắc hỏa) và khác biệt về phi cung nên thiếu sự ấm êm, thuận vợ thuận chồng (cấn & ly).
Nơi cư trú: Nhà hướng Bắc phạm ngũ quỷ, cần thiết trí trấn giải cho hợp với trạch chủ, hầu hóa giải đi sự khắc kỵ vợ, chồng tốt cho sức khỏe sự học hành của con cái và công danh sự nghiệp.
Thấy tôi trầm ngâm suy nghĩ bà lo lắng hỏi: Thưa thày, có gì xấu lắm không" Tốt xấu ra sao, xin thày cứ cho biết và giúp hóa giải đi để có được sự an bình hạnh phúc và thịnh đạt. Tôi đáp: Tôi đang cân nhắc và sắp xếp các điều cần nói để bà dễ thâu đạt và yên tâm. Đồng thời sẽ nêu lên các điểm chính yếu bà cần làm để đạt được sự ước muốn và như ý. Phần luận giải gồm 4 vấn đề:
1. Tổng lược 12 cung số liên quan đến môi trường sống và cuộc sống của bà.
2. Tổng lược các điểm chính yếu của từng đại vận trong quá khứ, hiện tại và vị lai.
3. Tổng lược niên vận năm nay.
4. Nói rõ các điểm cần làm và có thể làm để mang lại sự vững vàng, giúp có sự thăng hoa trong cuộc sống.
Phần luận giải sẽ được ghi âm lại, xin bà nghe kỹ có gì còn thắc mắc xin ghi nhận và nêu lên sau đó. Khi về nhà nghe lại băng cassette có gì cần hỏi thêm xin bà cứ phone cho tôi.
Sau đó, trong gần một giờ đồng hồ tôi luận giải chi tiết các điểm nêu trên. Cuối cùng bà cám ơn và cho biết lá số thật chính xác. Khi về, bà sẽ làm đầy đủ và thật đúng các điều tôi dẫn giải ở mục 4, chắc chắn sẽ hóa giải đi vận xấu và đạt được sự an bình thịnh đạt, đón được hồng vận vào năm tới. Bà đã hết âu lo.
Tôi viết lại bài ký sự này với mục đích góp ý với các thân chủ về sự sai lạc của giờ giấc nên không có được lá số tử vi chính xác. Kết quả đưa đến sự giải đoán sai lạc nên nghi ngờ là khoa tử vi đầu số không chính xác. Điểm quan trọng là khi lập lá số nên để ý đối chiếu để có được giờ giấc thật đúng.
Ở Mỹ thì cần chú ý đến "saving time" và các vùng đặc biệt không có sự thay đổi giờ giấc. Ở Việt Nam thì cần chú ý đến giờ giấc thay đổi của mỗi thời kỳ, kể từ 1 tháng 1 năm 1943 đến 19 tháng 5 năm 1975 giờ sinh là một trong tứ trụ để lập thành lá số, giờ sinh mà sai thì lá số không thể nào đúng được.
Xảy một ly đi một dặm, xin hãy thận trọng. Nếu có năm tháng ngày giờ chính xác, thì lá số không thể nào sai được, nhất là khi đã được phối hợp với các dữ liệu cũa môi trường sống, hoàn cảnh xã hội và với khoa tướng pháp toàn chân. Như thế điểm quan trọng là khi luận đoán được phối hợp đầy đủ. Câu phương ngôn "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng" thật đúng và cần nhớ khi luận đoán tử vi. Vì nếu chỉ đơn thuần căn cứ vào bát tự niên canh không thôi thì chắc chắn còn có sự trùng hợp và thiếu sót. Hạn chế của khoa tử vi một phần là ở điểm này. Qua các giai thoại về tử vi, ta đã ghi nhận nhiều trường hợp như vậy:
- Tại sao Hán cao tổ và người chữ vườn ông cùng có năm, tháng, ngày, giờ sinh giống nhau mà lại có sự khác biệt về địa vị và quyền lực trong cuộc sống và trong xã hội.
- Tại sao cụ Nguyễn Công Trứ Kinh lược sứ Đinh Điền vùng Kim Sơn, Tiền Hải và người khiêng cáng đưa cụ đi Kinh lý có cùng năm, tháng, ngày giờ sinh giống nhau mà lại có sự khác biệt về địa vị như thế.
Do đó, có thể nói môi trường sống, hoàn cảnh xã hội và tướng mệnh đều có liên hệ mật thiết đến sự luận đoán "đúng" một lá số tử vi. Dù sao, đây cũng chỉ là sự đóng góp kinh nghiệm của người viết cùng khoa tử vi. Mong nhận được sự góp ý của các cao nhân và quý thân hữu.
(Sưu tầm)
Sửa bởi Tử Phủ Vũ Tướng: 25/11/2012 - 22:14
Thanked by 8 Members:
|
|
#6309
Gửi vào 26/11/2012 - 08:33
(06/01/2011)
Tác giả sinh quán tại Hội An, Quảng Nam, tốt nghiệp Đốc Sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Việt Nam Cộng Hoà, hiện là cư dân Virginia. Nhà văn Phạm Thành Châu đã cộng tác với các báo Van, Thế Kỷ 21 và có ba tập truyện ngắn đã xuất bản. Nhân vật trong truyện của anh thật tuyệt vời! Họ chung tình quá sức." Nhà văn, nhà biên khảo Võ Phiến khi đọc truyện của Nguyễn Thành Châu đã nhận xét như trên. Sau đây là truyện ngắn của ông, về một lá số làm tể tướng lưu lạc từ Việt Nam trước và sau 1975 tới Hoa Kỳ.
*
Bạn tin có số mạng không" Người tin thì bảo "Giày dép còn có số, huống gì con người" Người không tin, quạt lại "Mấy thầy tướng số có biết được tương lai bản thân mấy thầy không" Hay chỉ nói phét kiếm tiền"" Người tin với người không tin, cãi nhau, có ai chịu thua ai! Nay tôi xin kể, một chuyện về chính bản thân tôi, để nhờ bạn phán xét, rằng con người có số phận hay không"
Ông nội tôi là người cựu trào. Sách chữ nho ông để đầy một tủ. Ông là người nghiện sách nên suốt ngày cầm quyển sách trên tay. Khi về hưu, ông tôi làm thầy thuốc nam, thuốc bắc kiêm cố vấn cho bà con chòm xóm trong các vụ quan, hôn, tang, tế. Ngay cả khi sinh con, họ cũng đến nhờ ông tôi một lá số để biết tương lai đứa bé ra sao" Dĩ nhiên con cháu trong nhà, ông tôi đều chấm cho mỗi người một lá số, hễ người nào gặp một biến cố gì lớn trong đời, ông tôi lại đem lá số đó ra chứng minh. Ngay cả chuyện bố tôi mất tích, ông tôi cũng đã phân tích sẵn trong lá số của bố tôi nhưng không nói ra trước mà thôi. Bố tôi là con út của ông tôi, tôi lại là con út của bố tôi, là đứa cháu trai nhỏ nhất trong gia đình nên trong nhà, tôi được coi như ông hoàng con, muốn gì được nấy. Thời Pháp thuộc, bố tôi làm "Jeunesse", là làm việc làng nhàng gì đó ở ty thanh niên, thể thao của thị xã. Đến thời kháng chiến chống Pháp, bố tôi theo kháng chiến và mất tích.
Khi kháng chiến bùng nổ thì mọi người phải tiêu thổ và tản cư về vùng nông thôn, ít lâu sau chúng tôi hồi cư về lại thành phố. Đó là một thị trấn miền biển, cách Nha Trang không xa lắm. Khi lên trung học, tôi ra Nha Trang học đệ Nhị và đệ Nhất trường Võ Tánh, vì thị trấn tôi ở không có trường trung học đệ nhị cấp.
Trở lại cái lá số của tôi, ông tôi chấm rất kỹ, nhưng hình như có điều gì khác lạ nên thỉnh thoảng ông tôi lại đem ra chiêm nghiệm, rồi giở sách ra nghiên cứu với vẻ trầm ngâm, suy tư lung lắm. Hễ nghe ai có tài chấm tử vi thì ông tôi lại đem lá số của tôi, tìm đến, nhờ xem giùm, rồi hai người lại bàn cãi, lý luận rất sôi nổi nhưng rốt cuộc cũng chịu thua, không biết có trục trặc ở chỗ nào mà tìm không ra"! Sở dĩ tôi biết được như thế là vì mỗi lần có bạn bè đến, khi bàn chuyện sách vở đông tây, kim cổ, ông tôi thường đem lá số của tôi ra làm đề tài về sự huyền bí của văn minh cổ của người Tàu. Tôi vốn không tin ở số mạng nên chẳng bận tâm. Đến năm tôi lên trung học thì ông tôi đã trên tám mươi, tuy là người tri thiên mệnh, nhưng ông tôi vẫn bồn chồn, ưu tư cho thằng cháu út, nên một hôm, ông gọi riêng tôi và bảo.
- Ông đã chấm cho con một lá số, theo như lá số, sau nầy, con có thể làm đến nhất phẩm triều đình, xưa gọi là tể tướng, tướng quốc, nay thì tệ ra cũng làm thủ tướng chính phủ, nhưng ông vẫn thấy có sự bất thường nào đó trong lá số"
Tôi đáp cho vui lòng ông tôi.
- Không thủ tướng thì bộ trưởng cũng được, ông đừng lo cho con.
Ông tôi cười.
- Người ta nói, số phận an bài, đâu có kèo nài, thêm bớt được.
- Như vậy tương lai của con ra sao"
Ông tôi trầm ngâm.
- Cái số của con thì luôn luôn được may mắn, đi thi là phải đậu, có dịp là làm lớn ngay, không phải leo lên từng cấp bậc một. Giống như thời Chiến Quốc bên Tàu, mấy ông nho sĩ, từ cùng đinh nhảy lên tướng quốc vậy. Nhưng lá số của con có điểm mờ ảo nào đó mà ông vẫn chưa tìm ra. Dù sao thì cổ nhân có dạy "Đức năng thắng số" sau nầy, con nên nhớ, phải cố mà giữ cho vững cái đạo của người quân tử.
Tôi tò mò.
- Con thấy, chỉ cần học giỏi là làm lớn. Phải không ông"
Ông tôi lại cười.
- Người xưa nói rằng "Nhất mệnh, nhì vận, tam âm công, tứ phong thổ, ngũ độc thư", ý là số phận con người còn phụ thuộc rất nhiều vào mồ mả và phước đức ông bà, tổ tiên để lại, còn chuyện học hành, cố cho lắm mà không gặp thời vận thì cũng chỉ là tên cuồng nho, mọt sách mà thôi. Xưa nay, có biết bao người dốt mà làm nên sự nghiệp.
Chuyện dốt mà làm lớn, sau nầy tôi mới thấy. Lúc đó tôi không tin nhưng vẫn hỏi để tỏ vẻ chú ý lời ông tôi dạy bảo.
- Vậy nhà mình có âm công phong thổ gì không ông"
Ông tôi hào hứng.
- Về mục âm công, phong thổ thì ông đang tiến hành đây. Ông đã tìm được một cuộc đất rất tốt. Ông đã xây sẵn một sinh phần (huyệt mộ), hễ ông nhắm mắt thì đem quan tài đến đó, bỏ xuống, lấp đất lại là xong, và cứ thế mà chờ cho đến khi mộ ông kết phát.
Mấy hôm sau, ông tôi dẫn tôi đi xem cuộc đất, là nơi ông sẽ yên giấc ngàn thu. Huyệt mộ nằm trên một sườn đồi, hướng ra biển. Ông tôi rất vui khi giải thích cho thằng cháu nội sáng giá của ông nghe nào long chầu, hổ phục ra sao, đặt biệt, huyệt mộ nằm ngay hàm của con rồng, chỉ chờ bão tố hoặc sóng thần, nước tràn lên, đất sẽ sụp lỡ, đổ ụp lên mộ, vậy là coi như con rồng đã ngậm miệng lại, lúc đó, con cháu mặc sức mà phát vương, phát tướng. Tôi làm như chăm chú và thích thú lắm để ông tôi vui lòng chứ sự tin tưởng chẳng có bao nhiêu.
Từ nhỏ đến lớn, việc dạy dỗ, học hành của anh chị em tôi trong nhà đều do ông tôi lo. Mẹ tôi phải buôn bán tảo tần, không có thì giờ, vả lại bà rất thương yêu, chiều chuộng chúng tôi, chẳng nặng lời bao giờ nên khi ông tôi mất thì tôi như ngựa không cương, mặc sức leo lổng, chẳng ai quản lý được cả. Đi học về là vất sách vở, nhào ra sân đá banh, đá banh chán, xuống sông tắm. Buổi tối, ăn xong là xách cây đàn guita đến nhà mấy đứa bạn hát hò đến khuya mới về nhà, lăn ra ngủ. Vì dốt toán nên tôi học ban C (văn chương), ra vẻ ta đây nghệ sĩ.
Đến khi đi thi tú tài một thì trong bụng tôi không có một chữ để làm "hành trang ứng thí". Sách vở, từ đầu niên học cho đến cuối năm, bài nào tôi cũng thấy mới tinh!
Con người khi gặp khó khăn, không biết giải quyết cách nào mới nghĩ đến những đấng vô hình, năn nỉ cầu xin quí vị đó cứu giúp. Tôi tuy không tin những chuyện mơ hồ, nhưng sẵn có lá số tử vi mà ông tôi chấm cho nên tôi giao trách nhiệm thi cử cho ông tôi đảm trách, dù ông tôi không còn trên cõi đời nầy nữa. Tôi vẫn tiếp tục lười biếng, tiếp tục ca hát một cách vô tư như con "Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè..." trong thơ ngụ ngôn của ông La Fontaine. Nhưng đến nhà bạn bè thì đứa nào cũng bận học thi và cha mẹ chúng thường đuổi khéo tôi, nên tôi về nhà hát một mình, đi cà lơ thất thểu ngoài đường phố, đến khuya, về nhà lăn ra ngủ.
Thực tâm, tôi cũng muốn học như bạn bè, nhưng bài nhiều quá, học sao cho xuể" Thế là tôi đem tất cả sách vở, tài liệu để lên bàn thờ ông nội tôi, thắp nhang rồi quì xuống, long trọng khấn vái "Ông nội chỉ cho con bài nào sẽ ra trong đề thi, con không có thì giờ học hết" Khi ngẩn lên, nhìn ảnh ông tôi, quả nhiên tôi thấy hình như ông tôi mỉm cười, vậy là tôi yên tâm. Mỗi môn học, tôi lấy quyển sách hay quyển vở, vái ông tôi mấy vái và giở ra, độ năm bài, theo kiểu tình cờ và tôi chỉ học có năm bài đó thôi. Môn học nào tôi cũng làm như thế. Vậy mà đi thi, tôi trúng tủ, đậu bình thứ. Bạn bè thán phục. Chúng biết tôi đã dốt lại lười, mà đậu bình thứ, trong khi có nhiều đứa thức khuya dậy sớm, học ngày, học đêm, mặt mũi xanh lè vì mất ngủ mà vẫn rớt" Chúng thắc mắc, tôi phét lác.
- Sang năm, tú tài hai, tao sẽ đậu tối ưu cho tụi bây coi.
Năm sau, thi tú tài hai, tôi vẫn mửng đó mà làm. Tôi tin ở lá số tử vi của ông tôi đã chấm cho tôi - thi đâu đậu đó - và tin nhất là ông tôi vẫn ở bên tôi, phù hộ tôi, dù tôi không thấy được ông.
Thi tú tài hai gồm hai đợt, đậu thi viết mới vào thi vấn đáp. Thi viết thì tôi vẫn trúng tủ, nhưng thi vấn đáp, môn vạn vật, tôi bị kẹt. Số là, khi vào vấn đáp, giám khảo thường để sẵn một số câu hỏi trong hộp nhỏ, thí sinh bốc trúng câu nào trả lời câu đó. Ông giám khảo môn vạn vật nầy nghe nói khó tính lắm. Lạng quạng là ông ta đuổi ra và nói "Anh về học lại, sang năm đi thi. Tôi cho anh không điểm" Buổi sáng đó, tôi để cho mấy đứa vào thi trước. Đứa nào thi xong, bước ra, mặt cũng méo xẹo, khiến tôi mất tinh thần, bụng đánh lô tô, miệng cứ lẩm bẩm kêu cứu ông nội tôi phù hộ, độ trì. Tôi giở mấy bài tủ ra coi lại, kiểu nhứt chín nhì bù. Đến khi không còn đứa nào nữa tôi mới rón rén bước vào. Ông giám khảo nầy trẻ nhưng coi bộ hắc ám. Mặt hầm hầm như sắp bợp tai thằng thí sinh ngồi đối diện. Tôi trình thẻ học sinh, ông không thèm nhìn, chỉ tay vào cái hộp nhỏ đựng câu hỏi. Tôi thò tay bốc một câu, mở ra thấy "Tại sao ban đêm, không nên ngủ dưới tàng cây"" Tôi trình câu hỏi cho ông ta. Ông ta bảo.
- Nói đi!
Tôi lặng người! Câu hỏi, tôi nghĩ, không có trong sách vạn vật chứ đừng nói trong những bài tủ của tôi. Trong đầu tôi, hoàn toàn không có một chút ý niệm về chuyện đó, nó sạch bóc như tờ giấy trắng. Tôi biết rõ là vong linh ông nội tôi đang ngồi bên cạnh, nhưng chắc chắn ông tôi cũng lắc đầu, thở dài vì vô phương! Thấy tôi cứ ngồi đực ra, ông giám khảo lại nhắc.
- Nói đi!
Tôi khiếp quá, tự nghĩ nên nói một câu gì đó cho không khí bớt căng thẳng, chứ hột vịt thì chắc chắn tôi đã có sẵn rồi. Bỗng nhiên tôi "liên hệ bản thân" và nói.
- Thưa thầy, ban đêm không nên ngủ dưới tàng cây, vì khi ngủ dậy người uể oải, khó chịu.
Ông ta ngẩng lên nhìn tôi.
- Sao anh biết"
Tôi thấy le lói một tia hy vọng.
- Thưa thầy, buổi tối, em thường đem ghế bố ra sân ngủ, dưới mấy cây vú sữa, sáng dậy, thấy hơi mệt mỏi trong người.
Ông ta ngước nhìn tôi, mặt lạnh tanh.
- Đây là khoa học thực nghiệm chứ không phải khoa học huyền bí. Anh phải chứng minh bằng công thức đàng hoàng. Anh biết khí ốc xi không" Anh biết cạt bô níc là gì không" Viết công thức ra xem"
Tôi gãi đầu! Ốc xi thì tôi viết được, cả đến khí cạt bô níc tôi cũng viết được nữa, nhưng công thức viết thế nào" Thấy đã mớm ý cho mà tôi vẫn ngồi ngẩn ngơ như người thất tình, ông giám khảo mở to mắt, ngạc nhiên, có lẽ nghĩ rằng ông đang gặp người ngoài hành tinh, gì cũng không biết! Ông cầm thẻ học sinh của tôi lên. Đó là cách đuổi lịch sự. Bỗng nhiên ông nhìn vào thẻ học sinh và hỏi.
- Anh học vạn vật với thầy nào"
- Thưa thầy, em học với thầy Đồng Đen.
Nói xong tôi mới biết mình hớ, biệt danh của các thầy cô là chỉ bọn học trò dùng với nhau để phân biệt thầy cô nầy với thầy cô khác, đây lại đem ra nói với ông giám khảo của mình, đúng là tộâi phạm húy! Ông giám khảo trao tôi thẻ học sinh và bảo.
- Gặp thầy Đồng thì thưa với thầy là thầy Bình gửi lời thăm. Tôi cho anh bảy điểm. Còn người nào ngoài kia thì bảo họ vào ngay. Gần hết giờ rồi!
- Thưa thầy, em là người chót.
Ông giám khảo nhìn lại danh sách và gật đầu. Tôi cúi chào ông ta và đi thụt lùi ra khỏi phòng.
Bạn thử tưởng tượng xem, tôi như một người đang bị đày xuống hỏa ngục, đời đời bị lửa đốt, đau đớn mà không thể chết được, rồi thình lình có ông Phật, ông Thánh nào đó cứu ra khỏi hỏa ngục, còn cho lên thiên đường ở nữa. Trước đó, chỉ năm phút thôi, tôi thấy ông giám khảo sao ác ôn quá, ngay sau đó lại thấy ông ta hiền từ như ông Phật! Sướng sao đâu! Tôi sướng đến độ cứ tưởng mình đang bay lơ lửng, tưởng như mình nằm mơ. Năm đó tôi đậu tú tài hai, mà đậu vớt mới đã! Đúng như ông tôi nói "Thi đâu đậu đó!"
Cũng chưa hên bằng kỳ thi vào trường Hành Chánh của tôi sau nầy. Tôi vào Sài Gòn học Luật và học cả Văn Khoa nữa. Sau thấy trường Hành Chánh tuyển sinh viên ban Đốc Sự, tôi cũng nộp đơn, nghĩ rằng sau nầy mình làm lớn (!), phải thông thạo luật lệ và rành về hành chánh. Muốn thi vào trường nầy, tối thiểu phải biết luật Hiến Pháp. Bài bình luận chính trị có đủ điểm, trường mới chấm đến các môn thi khác. Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi chả thèm để ý đến chuyện bài vở. Một buổi tối, đi coi xi nê về, tiện tay, tôi mua tờ báo Chính Luận, về nằm đọc chờ giấc ngủ. Khi giở trang trong, tôi thấy bài "Hành Pháp" của giáo sư Nguyễn Văn Bông. Không biết xui khiến sao, tôi lại học thuộc bài báo nầy, thuộc từ dàn bài đến từng chữ một. Quả nhiên, mấy hôm sau đi thi, tôi lại trúng tủ, tuy đề thi có hơi khác. Bạn nào học khóa 14 ban Đốc Sự, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ắt còn nhớ rõ đề thi đó. Mà bạn biết thi vào trường Hành Chánh khó cỡ nào không" Năm tôi thi tổng số hơn sáu nghìn sĩ tử, chen nhau một trăm chỗ ngồi, trong một trăm chỗ đó lại ưu tiên lấy mười sinh viên sắc tộc, mười sinh viên nữ, còn lại chỉ có tám mươi chỗ. Nếu tính tỉ lệ thì còn khó hơn thi tiến sĩ thời xưa nữa. Hên cỡ đó bảo sao tôi không tin tưởng vào lá số tử vi của mình được"
Sau bốn năm đèn sách, tôi ra trường, nhưng học dốt quá nên đội sổ (đứng chót). Khi chọn nhiệm sở, mấy đứa học giỏi chọn trước, còn lại mấy tỉnh khỉ ho cò gáy ở miền giới tuyến và trên cao nguyên cho mấy thằng cầm đèn đỏ, cỡ như tôi. Tôi về địa phương lãnh một chức phó quận ở một quận miền núi. Ngồi trong quận đường nhìn ra chỉ thấy đồng bào Thượng, nhìn xa hơn nữa là núi cao rừng thẩm, thỉnh thoảng nghe vọng về tiếng máy bay, tiếng bom đạn.
Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi không bao giờ buồn chán. Tôi rất cẩn thận trong cuộc sống cũng như trong công vụ. Tôi đóng đúng vai một ông quan thanh liêm, luôn thương yêu, giúp đỡ đồng bào trong quận. Nói "ông quan thanh liêm" cho oai chứ chức phó quận đâu có quyền hành gì, hơn nữa bọn trẻ chúng tôi đều có lý tưởng, chính phủ đào tạo chúng tôi là để phục vụ tổ quốc, phục vụ đồng bào, chỉ nghĩ đến hai tiếng tham nhũng đã xấu hổ với mọi người rồi. Tôi còn nghiêm khắc với chính mình. Tôi không bao giờ nhìn đàn bà, con gái dù các cô gái thượng đã đẹp lại để ngực trần, căng cứng, nhởn nhơ đi trước mặt. Tôi cũng không rượu chè, cờ bạc bao giờ. Chẳng phải tôi thánh thiện gì, nhưng nghĩ đến tương lai sáng lạn (") tôi chả dại mà để cho bọn đối lập sau nầy mang đời tư của tôi ra mà bêu riếu.
Thời gian trôi qua, tôi bắt đầu sốt ruột, không hiểu phải bao lâu nữa tôi mới ngồi vào cái ghế tể tướng (thủ tướng)" Nếu cứ làm việc ở nơi hẻo lánh nầy mãi, thiên hạ làm sao biết tôi mà mời tôi ra chấp chính"! Rồi thì tôi được lệnh đi học lớp sĩ quan Thủ Đức. Tôi rất hài lòng khi nghĩ rằng, khi tốt nghiệp sĩ quan quân đội, tôi là người "văn võ toàn tài", sẽ không mặc cảm khi (làm lớn) phải chỉ huy mấy ông tướng lãnh.
Mãn khóa sĩ quan, tôi được trả về nhiệm sở cũ. Tỉnh điều tôi về làm trưởng ty công vụ tòa hành chánh tỉnh, là ty chuyên việc quản lý hồ sơ, điều động cán bộ, nhân viên trong tỉnh. Tôi nghĩ bộ máy huyền bí của định mệnh bắt đầu chuyển động và con đường công danh, sự nghiệp của tôi đã mở ra một cách thênh thang đây rồi. Không ngờ ngồi chưa nóng đít ở cái ghế trưởng ty thì xảy ra vụ sập tiệm năm bảy lăm, tôi chạy thẳng một mạch vô tới Sài Gòn rồi chui vô cái rọ tù cải tạo của việt cộng.
Khi có thông cáo tập trung cải tạo, ủy ban quân quản Sài Gòn ghi rõ là đem một tháng tiền ăn. Ai cũng tưởng học tập một tháng rồi về nên hăng hái xin đi học tập, chen nhau vô cổng (tù) đến nỗi bộ đội phải bắn súng để giữ trật tự. Đến chiều hết giờ, nhiều người ở ngoài cổng, chưa vào kịp, phải trải chiếu nằm ngủ, chờ sáng mai được vô tù sớm! Nơi trình diện học tập cải tạo là các trường học Gia Long, Trưng Vương, Don Bosco (") Ai cũng tưởng sẽ học ở đó, không ngờ mấy hôm sau, lúc nửa khuya, bộ đội dựng đầu dậy, lùa ra xe tải, chở đi. Xe nào cũng có bộ đội, sát khí đằng đằng, súng lăm lăm chỉa vào mấy cậu ngụy, khiến mấy cậu chới với.
Xe tụi tôi được đưa lên làng cô nhi Long Thành, có tên mới là trại cải tạo 15 NV. Trước đây, làng cô nhi nầy nuôi bọn trẻ mồ côi, khi tụi tôi lên thì bọn trẻ biến đâu mất cả, có lẽ đã cho tan hàng. Trại gồm hai dãy nhà dài, mỗi dãy có sáu căn, giống như sáu dãy trường học. Bọn tù được nhốt mỗi dãy khoảng trên ba trăm tù. Lúc đông nhất, cả trại có trên bốn nghìn tù. Giai đoạn đầu, tù được thong thả, ăn xong thì làm bản tự khai, nghĩa là khai gia phả ba đời, khai làm chức vụ gì cho Mỹ, Ngụy, đã phạm tội ác gì với cách mạng và nhân dân. Khai xong nộp cho đội trưởng, đội trưởng (cũng là tù) nộp cho nhà trưởng, nhà trưởng (cũng là tù) nộp cho cán bộ quản giáo phụ trách. Ngoài việc tự khai còn lên hội trường nghe cán bộ chửi Mỹ, Ngụy rồi về làm thu hoạch, nghĩa là tù cải tạo cũng chửi Mỹ, Ngụy, càng giống cán bộ càng tốt. Buổi tối thì học hát, những bài hát cách mạng, cũng chửi Mỹ, Ngụy.
Mấy tên tù nầy đóng kịch, ra điều ta đây giác ngộ cách mạng để đánh lừa cán bộ coi tù, vì biết ngoài cửa nhà tù làm gì cũng có cán bộ rình. Đúng y bon, một lần bọn tù chúng tôi hát bài "Giải phóng miền Nam", đến câu "Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng..." thì cán bộ Hai Sự, phụ trách dãy A, thình lình xuất hiện ngoài cửa, nạt vào.
- Dẹp, không được hát bài ấy nữa. Miền Bắc không anh hùng sao" Cấm hát. Ai hát bài ấy, tôi cùm đầu!
Vào nhà tù, tôi chưng hửng! Tể tướng, thủ tướng đâu chẳng thấy mà làm thằng tù không biết ngày nào ra" Khổ nổi, cán bộ cộng sản lại bảo "Ty Công Vụ" là công an, mật vụ, kết tội nặng, đày ra Bắc cho chóng chết.
Tháng đầu tiên trong trại cải tạo 15 NV được coi là thời sướng nhất trong đời thằng tù cộng sản. Ăn uống đã có nhà thầu Chợ Lớn lo, vì đã đóng một tháng tiền ăn. Bữa nào cũng thịt cá ngon miệng, lại sẵn căn tin, cậu nào có lận theo tiền thì mua cà phê, kẹo bánh. Buổi chiều kéo nhau ra bên hông nhà, nấu cà phê, nhâm nhi, tán phét, tự coi như đi nghỉ hè một tháng. Nhiều ông còn bàn chuyện sau một tháng về nhà sẽ làm gì sinh sống, vì cách mạng vô thì coi như bị thất nghiệp. Ngây thơ đến thế, mất nước cũng phải thôi.
Trong trại cải tạo nầy có rất nhiều tay rành tử vi, đẩu số. Những người có học mà nghiên cứu một vấn đề gì, tất phải rộng rải, sâu sắc lắm. Thế nên, nhân một lúc các tay tổ tử vi họp nhau sau hè, nói chuyện tướng số, tôi mới đem cái lá số của tôi ra và thắc mắc. Ai cũng hỏi tôi có chắc là đúng ngày sinh, tháng đẻ, có đúng giờ chào đời của tôi không" Tôi xác nhận là đúng y trăm phần trăm, họ bấm tay như mấy thầy bói mù, có người đem tờ giấy ra, vẽ ngang, vẽ dọc. Rồi ai cũng ngớ ra, lá số của tôi quả có chuyện lạ! Rõ ràng nhất phẩm triều đình nhưng lại ở tù, mà tù cộng sản thì chỉ có nước mục xương, hi vọng gì được thả ra. Họ cãi nhau như mổ bò, cuối cùng một ông hỏi tôi, từ trước đến giờ có đóng kịch, hát bội, cải lương lần nào chưa" Có đóng vai thừa tướng, tướng quốc, thủ tướng lần nào chưa" Tôi quả quyết là chưa. Ông ta bảo, sau nầy tôi nên theo gánh hát và đóng vai thừa tướng thì xuất sắc lắm. Một ông khác, lớn tuổi, hỏi tôi một cách nghiêm trang.
- Cậu biết hiện nay cậu làm chức vụ gì trong trại nầy"
- Tôi làm đội trưởng.
- Cậu có biết, dưới tay cậu có những ai không"
Tôi kể tên mấy ông trại viên trong đội tôi. Ông A, ông B, ông C...
Ông ta lại hỏi.
- Mấy ông đó, vì sao vô đây cậu có biết không"
- Thì ông A làm thẩm phán, ông B làm dân biểu, ông C làm giám đốc nha...
Ông bạn tù giải thích.
- Thủ tướng chỉ làm xếp ngành hành pháp thôi. Đây cậu quản lý cả ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, lớn hơn thủ tướng. Vậy là cậu làm tướng quốc, tể tướng đúng với cái lá số của cậu rồi, còn phàn nàn gì nữa!"
Tôi nổi xùng.
- Các ông đó đâu còn làm quan chức gì"
- Cậu thấy, thông báo tập trung cải tạo từ phó quận đến tổng thống. Họ nhốt chức vụ vào đây chứ có nhốt tên A, tên B nào đâu. Cậu làm đội trưởng, là làm xếp mấy quan chức đó, vậy cậu không phải tướng quốc thì làm gì"
Cả bọn cười vang, nhưng tôi không cười. Cha lốc cốc tử nào bên Tàu, ngày xưa, đã chơi cho tôi một cú đau điếng. Hay là con rồng chưa khép miệng để nuốt ông tôi vô bụng cho con cháu phát vương, phát tướng" Lúc đầu tôi nghĩ như thế, cho đến khi bị đày ra Bắc tôi mới hoàn toàn thất vọng. Sau một tháng, đã hết tiền ăn mà tù đã nộp, chúng tôi bắt đầu ăn "cơm" tù để hiểu thế nào là thằng tù cải tạo cộng sản.
Từ trại tù Long Thành, chúng tôi lần lượt, mỗi đứa được lãnh một cái bao bố, (là loại bao chỉ xanh có thể chứa đến một trăm ký gạo), nghe cán bộ bảo để đựng vật dụng cá nhân, nhưng có người lại bảo để cho thằng tù vô bao bố, thả xuống biển cho mò tôm được nhanh gọn, vì thực sự, chúng tôi có đem gì theo đâu (một bộ đồ, vài cái quần đùi, bàn chải đánh răng...) mà phải dùng bao bố"
Chúng tôi xuống tàu thủy, ra Bắc. Lúc lên bờ, bị "nhân dân" đứng chờ sẵn, mắng nhiếc và ném đá nữa, nhưng khi tù lên vùng rừng núi, đi lao động, gặp đồng bào, họ lại bảo "Nhân dân miền Bắc chờ các ông ra giải phóng, không ngờ các ông ra làm thằng tù!"
Tôi chẳng bao giờ để ý đến những chuyện đó, cũng chẳng suy nghĩ, lo lắng cho tương lai bản thân. Nhưng có điều lạ là đi đến trại tù nào, tôi cũng bị cán bộ chỉ định làm đội trưởng, từ chối (cãi lệnh cán bộ) là đi cùm ngay, mà dưới quyền tôi, bao giờ cũng là các ông, trước đây là quan lớn trong các ngành hành pháp, tư pháp, lập pháp... đủ cả.
Gần mười năm tù, tôi được thả về. Ở Sài Gòn, tôi đạp xích lô, bán vé số, sửa xe đạp sống qua ngày. Tôi cố quên cái lá số tử vi của mình, tôi cũng rất cảnh giác, tuyệt đối không bao giờ thay mặt cho ai, không trưởng toán, tổ trưởng nào cả. Tôi sống một mình, và cũng nghĩ rằng cái lá số tử vi của tôi chỉ là những chuyện rắc rối mà mấy chú ba tàu đặt ra để lừa phỉnh, dọa nạt những người ngu dốt, kém hiểu biết để kiếm tiền mà thôi.
Thế rồi có vụ HO, tù được đi Mỹ. Tôi nghĩ, giỏi lắm tôi làm thằng cu ly. Tiếng tây, tiếng u tôi nói như thằng ngọng thì chỉ huy được ai, nên tôi yên trí.
Thị trấn tôi ở, thuộc vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, tuy không đông lắm nhưng rất xô bồ. Đủ thứ người. Da đen cũng có, Mễ cũng có, Á Châu cũng có. Lộn xộn, bát nháo. Tôi ở trong một chung cư đông người Việt, dơ bẩn, nhiều tệ đoan xã hội. Trộm cắp, hút xách, đánh lộn, ngày nào cũng xảy ra. Đậu xe, khóa cẩn thận, nhưng chúng thấy trong xe có gì vừa ý là đập kiếng xe, lấy đi. Đôi khi chúng ăn cắp xe để chở những thứ quốc cấm như xì ke, súng đạn hoặc để đi ăn cướp, bắt cóc. Nhà có con gái, khuya chúng đập cửa kiếng vô mò con người ta, bọn nhỏ la lên, cha mẹ chạy ra, mở đèn, chúng ngang nhiên mở cửa chính đi ra, chẳng ai dám làm gì vì sợ chúng trả thù. Bọn chúng cùng sắc tộc với nhau thì mặc kệ, nhưng vì người Việt hiền lành, chúng quậy luôn cả người Việt. Thấy thế tôi nổi xùng, vận động đồng bào người Việt tổ chức thành một cộng đồng nhỏ, có gì binh vực, giúp đỡ nhau. Bọn bất lương động đến người Việt là tất cả đồng lòng chống trả hoặc gọi cảnh sát đến chỉ tận mặt. Từ đó, chúng chừa người Việt, không quấy phá nữa. Các chung cư quanh đấy, người Việt cũng theo gương mà đoàn kết lại.
Những dịp lễ, tết, cộng đồng người Việt họp nhau tổ chức chợ tết, tổ chức các ngày kỷ niệm truyền thống... rồi tiến đến thành lập một cộng đồng lớn, bầu cử hội đồng quản trị, ban chấp hành, xin giấy phép lập hội để đủ tư cách liên lạc với chính quyền địa phương. Đến đây thì tôi tự động rút lui. Tôi không muốn đại diện hay chỉ huy ai cả. Tôi ngán chức tước lắm rồi. Nhưng nhiều người thấy tôi còn trẻ lại có thiện chí nên năn nỉ tôi tham gia ban chấp hành. Từ chối mãi không được, tôi chấp nhận vì nghĩ rằng, mình không đi họp, họ sẽ chán, tìm người khác thay thế. Nhưng rồi vì một nguyên nhân mà tôi lại bon chen, cố cho được chức chủ tịch ban chấp hành.
Số là trong ban chấp hành có một người đẹp. Với người khác, không biết thấy cô ra sao nhưng với tôi, mới gặp lần đầu tôi đã ngớ người, như bị cô bắt mất vía. Người cô cao ráo, trắng trẻo, mắt lá răm, má lúm đồng tiền, răng trắng đều, môi hồng tự nhiên. Khi cô trò chuyện với ai, tôi la cà đến, nhìn sững miệng cô, mặt ngớ ra, ai cũng thấy. Sở dĩ mấy ông bà mời cô vào hội vì cô rất thiện chí với đồng hương lại rành tiếng Anh, trước đây, khi còn ở Việt nam, cô là giáo sư Anh văn. Cô thường giúp đỡ, hướng dẫn những người mới qua Mỹ đi làm giấy tờ, xin việc làm... Cô được bầu làm phó chủ tịch ngoại vụ, lo liên hệ với chính quyền địa phương và các cộng đồng Á Châu khác. Cô còn độc thân, là con gái một ông cựu thẩm phán (trước bảy lăm). Gia đình cô có một nhà hàng rất đông khách, nhất là về ban đêm. Ban ngày cô rảnh rỗi, lo việc cộng đồng.
Từ khi lên chức chủ tịch, tôi xin làm buổi tối (tôi làm cu li trong một tiệm buôn), để ban ngày có dịp cùng cô lo việc thiên hạ. Đi đâu tôi cũng năn nỉ cô đi theo, viện lý do không rành tiếng Anh. Lúc nào cô cũng vui vẻ, nhưng khi chỉ có mình tôi với cô trên xe, cô rất nghiêm trang, mắt nhìn thẳng phía trước, tôi pha trò, cô không cười, như đề phòng tôi đi quá trớn điều gì.
Nhưng khi đã yêu mà phải làm thinh mãi, tôi không chịu được nên tìm dịp tỏ tình. Nhân một hôm ra phi trường đón một gia đình HO sắp xuống máy bay, trong lúc chờ đợi, tôi làm bộ buồn rầu báo cho cô biết là tôi sẽ qua tiểu bang khác. "Ở đây buồn quá!" Cô hỏi "Sao lại buồn"" "Tôi thất tình nên buồn" "Anh yêu cô nào mà bị từ chối. Phải không"" "Đúng rồi. Tôi năn nỉ cô ta yêu tôi, nhưng cô lắc đầu" Cô tò mò "Anh có thể cho tôi biết cô nào không" Tên gì" Dung nhan ra sao" Có lẽ đẹp lắm mới lọt mắt xanh một người khô khan như anh" Tôi phịa ra một chuyện tình "Cô ta tên Ni, con gái ông Nam, mới đến Mỹ được ba tháng nay. Cô ta cao ráo, mắt lá răm, má lúm đồng tiền. Khi cô cười nói thì miệng cô đẹp... như tiên" Cô cười "Anh tả, tôi cũng mê theo anh. Tôi biết gia đình ông Nam, có đưa hai ông bà đi làm giấy tờ, nhưng các con của họ thì tôi không để ý. Khi nào có dịp đến gia đình ông Nam, tôi sẽ tìm hiểu cô Ni và tỏ tình giùm anh lần nữa. Đàn bà, con gái với nhau dễ thông cảm. Nhưng nếu đẹp như anh tả thì anh không nên hi vọng gì" Thấy cô thản nhiên, tôi biết mình đã thất bại nên nín thinh.
Năm đó, khoảng tháng chạp âm lịch, ban chấp hành họp bàn việc tổ chức chợ tết cộng đồng. Sau khi phân công, phân nhiệm, tôi báo sẽ đi tiểu bang khác, đề nghị bầu chủ tịch mới. Mọi người ngạc nhiên hỏi lý do, tôi nói "Cô phó chủ tịch biết rõ chuyện nầy. Hôm trước tôi có tâm sự với cô. Tôi yêu cô Ni, con gái ông Nam, nhưng bị từ chối. Quê quá, lại buồn nữa nên tôi sẽ qua tiểu bang khác" Mọi người cười nói, bàn tán xôn xao, họ đề nghị cô phó chủ tịch làm bà mai dong, đến nhà ông Nam năn nỉ cô Ni chấp nhận tình yêu của tôi. Tôi cười "Cô phó chủ tịch hay bất cứ ai năn nỉ được cô Ni chấp nhận tôi, tôi xin ghi ơn suốt đời và hứa sẽ ở lại phục vụ đồng hương cho đến khi nào quí vị đuổi tôi ra khỏi hội" Cô phó chủ tịch hứa sẽ cố gắng, nhưng cô phải đến nhà ông Nam tìm hiểu cô Ni ra sao trước đã. Cô hẹn, tuần sau, khi họp ban chấp hành kiểm điểm tiến trình chợ tết, cô sẽ cho biết kết quả.
Tuần sau, mới vào họp mà mọi người đã sốt ruột hỏi công tác xe duyên của cô phó chủ tịch đến đâu" Kết quả ra sao" Cô đứng lên vừa cười vừa hỏi tôi "Anh tả lại cô Ni, người đẹp làm anh say mê, dung nhan ra sao"" Tôi cũng cười và nói "Cô Ni cao ráo, mặt trái xoan, mắt lá răm, má lúm đồng tiền...Đẹp như tiên" Cô phó chủ tịch, đúng là người vô tình, vẫn cười "Xin thưa với quí vị. Tôi có đến nhà ông Nam, gia đình ông ta có năm người con, chỉ duy nhất một cô con gái, tên là cô Ni. Nhưng quí vị biết sao không" Cô Ni chỉ là con bé năm tuổi. Làm sao mà cao ráo được" Quí vị bị anh chủ tịch đánh lừa rồi. Lý do đi tiểu bang khác không phải vì thất tình cô Ni đâu" Mọi người lao xao bàn tán, bỗng một bà kêu lên "Mắt lá răm, má lúm đồng tiền, người cao ráo...Đẹp như tiên. Đó là cô phó chủ tịch." Cô phó chủ tịch tái mặt, đứng lên, đến trước mặt tôi, ném mạnh vào tôi quyển sổ tay và cây bút đang cầm trên tay rồi chạy ra khỏi phòng họp. Cô vừa chạy vừa khóc. Từ đó, cô không họp hành, sinh hoạt gì trong cộng đồng nữa.
Sau hôm chợ tết, ban chấp hành lại họp để nghe kết quả chợ tết, rút ưu, khuyết điểm. Xong buổi họp, tôi ngỏ lời từ giả mọi người để ra đi "Xin vị nào, có gặp cô phó chủ tịch, nói giùm tôi lời xin lỗi. Tôi còn ở đây mà gặp cô thì mắc cỡ để đâu cho hết" Bà hôm trước phát giác người đẹp như tiên là cô phó chủ tịch lắc đầu nói "Anh đi đâu" Ở đây, tiếp tục phục vụ cộng đồng với chúng tôi. Mọi việc giải quyết xong cả rồi. Hôm trước tụi tôi đến thăm gia đình cô phó chủ tịch, có nói chuyện của anh. Ông bà cụ thân sinh cô ta coi bộ mến anh lắm. Họ nói cô con gái cũng thường nói về anh, rằng anh đàng hoàng, đứng đắn, có thiện chí, hết lòng giúp đỡ cộng đồng. Họ hứa sẽ thuyết phục cô con gái. Kết quả gần trăm phần trăm rồi. Ít lâu nữa, chồng làm chủ tịch, vợ phó chủ tịch, đúng là ban chấp hành gia đình trị"
Mấy ông kia cũng trấn an tôi "Anh yên tâm. Chúng tôi với bố cô ta là bạn tù cả chục năm với nhau, nói một tiếng là xong ngay. Gia đình đó rất nghiêm khắc, bố mẹ bảo sao con cái phải vâng lời. Hơn nữa, anh được khen là đứng đắn, có tư cách, từ thời còn trong tù..." Tôi phát ngượng "Quí vị có cảm tình mà nói vậy thôi, chứ ông bố cô ta có gặp tôi lần nào đâu mà biết để khen tặng quá lời như vậy!" Họ cười "Anh chỉ thấy người đẹp, biết người đẹp chứ đâu có biết ai. Hay là anh làm bộ không biết tụi nầy. Ông bố cô phó chủ tịch và tụi nầy cùng đi tù cải tạo ngoài Bắc với anh. Chuyển trại, đổi trại... đi đâu, anh cũng làm đội trưởng tụi nầy"
Tôi ngớ ra một lúc mới hiểu. Gần hai mươi năm rồi, ai cũng thay đổi, mấy vị nầy lớn tuổi, nếu tóc không rụng hết thì cũng bạc phơ, hơn nữa, qua xứ Mỹ, các vị không còn là những tù nhân trơ xương, đi đứng xiêu vẹo, lờ quờ mà mập tròn, nhanh nhẹn, hoạt bát. Vả lại, không ai muốn kể lại, nhắc lại thời đi tù cộng sản, là những ám ảnh chua cay trong đời, nên tôi không nhận ra (trước đây) họ đều là bạn tù với tôi.
Sau khi cưới vợ, là cô phó chủ tịch ngoại vụ, tôi tiếp tục làm xếp quí vị (cựu) quan lớn đó, cũng đầy đủ hành pháp, tư pháp, lập pháp. Tôi nói với vợ tôi "Anh không phải là chủ tịch cộng đồng. Anh là tể tướng, tướng quốc như thời Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc bên Tàu ngày xưa. Lá số tử vi của anh khẳng định như vậy".
(Sưu tầm)
Thanked by 14 Members:
|
|
#6310
Gửi vào 29/11/2012 - 16:25
Thanked by 3 Members:
|
|
#6311
Gửi vào 29/11/2012 - 19:42
(01/14/2006)
Tác giả : Song Lộc
- "Vẻ chi ăn uống sự thường
Cũng còn tiền định khá thương lo là!"(CQNK)
Lời người viết: Viết lại vài dòng này để ôn lại một trong những kỷ niệm đau buồn của những con người từng bị hy sinh oan uổng cho một mưu đồ chính trị bẩn thỉu hay cao đẹp nào đó, hầu để nhớ đời hay quên đi tùy theo tâm thức của mỗi người.
Song Lộc (626) 289-8467
Những ngày giáp Tết Kỷ Mùi/ 1979. Núi rừng Yên Bái như đặc quánh lại bởi mưa phùn, gió bấc và bùn lầy nhơ nớp khắp nơi. Đêm đến, trời tối đen như mực, gió bấc lùa qua vách nứa, dội lên các sạp ngủ cũng bằng nứa tạo nên cái lạnh kinh người. Trời rét cắt da, bụng lại đói cồn cào. Thật đúng là "Lửa cơ đốt ruột, dao hằn cắt da" như đã được diễn tả trong "Cung oán ngâm khúc" mà tôi đã thuộc lòng khi còn ngồi ở ghế nhà trường. Ba đống lửa được chụm lên, mùng mền chăn gối được trải ra mang lại một bầu không khí ấm áp, tỉnh người.
Trong láng, mọi người bắt đầu một bữa ăn tối thuờng lệ. Những gô (hộp sữa guigog) cóng lủng lẳng quanh bếp lửa. Thôi thì đủ thứ. Nào là cá tôm, ếch nhái, rau cỏ lượm được trong buổi lao động chiều nay. Nào là những mẩu bành "khai mì luộc" đuợc xắt nhỏ, rồi trộn đủ thứ nấu thành một thứ cháo lòng.
Một món ăn đặc biệt lỏng. Một món ăn đặc biệt không hề có trong thực đơn của bất cứ một tiệm ăn bình dân hay sang trọng nào. Họ vừa xì sụp ăn uống vừa thì thầm tâm sự nhỏ to. Anh Tâm lấy que tăm gặm một mẩu bánh "khoai mì luộc" đúng bằng đầu cây đũa đưa lên miệng nhai chậm rải chừng 3 phút rồi uống một ngụm nước "vối rừng".Với một miếng bánh "khoai mì luộc" to bằng lòng bàn tay, anh cắt thành 40 miếng nhỏ, một phần canh trại (1 cọng rau muống+ nước muối) và một gô nước "vối rừng" chưa làm ấm dạ bằng những người khốn khổ, bụng đói dạ thèm này. Họ ước mong có được một chén cơm độn, một đĩa nhỏ rau luộc và vài muỗng muối mè trong mỗi bưa ăn hàng ngày.
Nhưng những ước mơ nhỏ nhoi khi đó chỉ là ảo vọng vì những con thú đội lốt người muốn hành hạ họ, tiêu diệt họ, dìm họ vào vũng máu ngầm, hầu che dấu hành động bất nhân, tàn ác của chúng.
Ăn xong, mọi người quây quần quanh đống lửa, hút thuốc lào, tự tạo bằng lá cây khô, cho ấm bụng. Anh T nói: Chiều nay, tụi nó giao cho nhà bếp một bao gạo nếp trộn 50% tẻ, một thúng khoai lang để gói bánh chưng cho toàn trại và một con trâu già dơ xương để ăn tết. Thực đơn rất đặc biệt:
-Ngày 30: Bánh luộc- lòng trâu xào rau muống
-Ngày mồng một: một chén cơm độn ngô- thịt trâu xào lá xu hào.
-Ngày mồng hai: Bánh luộc-Xương trâu nấu canh cải già.
-Ngày mồng ba: Bánh luộc- Da trâu hầm củ cải.
Anh T. quay qua tôi. Đố cụ (tôi là người có cấp bậc cao nhất trong đám nên anh em thân thường kêu là cụ, có phần nể trọng) Ngày mai, ngoài lòng trâu, chúng ta còn có gì ăn khác nữa không" Chợt nghĩ, trong tử vi, có những sao diễn tả các đồ vật và các món ăn, tôi mỉm cười và nói: "Có hỏi là có ứng. Để tôi coi: À, mai nhóm mình được ăn đủ sơn hào, hải vị và có cả rượu uống nữa. Các bạn cứ tin đi. Nhật hạn trong tử vi của tôi có tứ linh (Long+Phượng+Hổ+ Cái) tượng trưng cho sơn hào, hải vị và tấu thư +hỏa linh tượng trưng cho rượu. Nếu đúng, là hên vận của chúng ta sắp tới. Chúng tôi cười xòa và đi ngủ. Chập chờn rồi thiếp đi trong cái lạnh của núi rừng Yên Bái, được sưởi ấm bởi lòng tin và ba đống lửa còn âm ỉ.
Sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục xuất trại lao động, lấy củi cho nhà bếp và củi sưởi trong láng, ra khỏi trại, chúng tôi 10 người chia làm 3 nhóm: 6 người đi lấy củi bó thành 10 bó chi đủ chi tiêu bắt buộc. 2 người xuống ven hồ Tháp Bà kiếm cá tôm, 2 người vào rừng kiếm khoai mì dại, lá giang, lá mì chính (loại lá rừng nêm vào canh có vị ngọt như bột ngọt) bắp chuối và linh tinh. Phân công xong, tôi và anh T. lấy khăn bịt đầu, xắn quần áo, buộc dép vào thắt lưng rồi xuống mò mẫm khu ven bờ.
Chúng tôi đã chặt sẵn các ống nứa dài khoảng nữa thước, dìm sâu xuống nước.Thường thì mỗi ống cũng được một con tôm nhỏ, hoặc một cặp cá bống mũn. Một, hai tiếng đồng hồ say, chúng tôi đã được mỗi người nửa "gô" tôm cá. Lạnh quá, chúng tôi , tính kiếm chỗ kín gió ngồi nghỉ cho lại sức, rồi đi vác củi về. Tôi nghĩ, "sơn hào" thì không biết sao nhưng "hải vị chả lẽ chỉ có thế".
Khỏi khúc quanh, chúng tôi thấy một chú rái cá khá to đang thưởng thức "bộ lòng " một con cá măng dài cả thước. Chúng tôi vung dao đi rừng, la to và ào tới. Hoảng sợ chú rái cá vút xuống hồ mất dạnh. Đành phải cướp cơm chim vậy Chúng tôi chăt cá ra khúc cho đủ 3 món chiên, kho và canh chua. Tôi nhìn T và nói: Có Hải Vị rồi chắc là phải có "Sơn hào". Đúng lúc đó, thì cánh đi rừng cũng vừa tới. Chiến lợi phẩm là hai con "cúi" (một loại thú trong tựa như heo rừng nhưng chỉ to bằng con chuột cống) hai cái bắp chuối rừng, một bó lá giang để nấu canh chua và một nạm lá mì chính. Anh L cho biết.
Dọc đường tìm khoai mì dại, họ nghe tiếng động lạ, lén tới thì thấy 2 con "Cúi" đang moi củ khoai mì, có lẽ vì chúng đói mải ăn, mất cảnh giác nên mới đập được. Gốc khoai mì khá lớn họ đã lấp lại để ra giêng sẽ tính. Hai chú cúi, được hóa kiếp ngay bên bờ hồ, trông như hai con heo sữa tại mân tiệc tất niên ở đơn vị năm nào. Anh K. còn đổi chiếc khăn quàng "kỷ niệm" lấy một chai rượu nếp nhở thơm lừng và một gô cơm nếp. Ngày tết, tụi bộ đội mải lo cải thiện nên chúng tôi mang "chiến lợi phẩm" về trại ngon lành.
Tối 30 Tết năm đó, lần đầu tiên trong trại tù, với tài nấu nướng của anh T. và có lẽ là nhờ ơn trên, chúng tôi có được một "bữa tất niên" có chút hương vị của ngày xuân năm cũ.
Thực đơn khá:
-Cúi nướng lá thơm "Hoàng Liên Sơn"
-Cá chiên dòn "Hồ Tháp Bà"
-Cá kho xả ớt "Cẩm Nhân"
-Canh chua cá măng "Yên Bái"
-Xôi lam "Vòng Sao"
-Rượu thơm "Nếp Nùng"
Vừa ăn, anh bạn "tù thi sĩ" tên G vừa nói: Sự kiện xẩy ra đúng như vận số, chứng tỏ chúng ta còn có lối thoát và có thể vận đáp mấy câu thơ chót trong bài thơ "Say thuốc lào" của nhà thơ Hà Thượng Nhân làm tại trại tù Long Giao vào đầu năm Bính Thìn 1976:
… "Có hay không nẻo cụt"
Anh châm điếu thuốc lào
Mình say" Mình say sao""
Năm 1979, đồng chí Trung Cộng đem quân đánh "Hữu nghị" 6 tỉnh miền Bắc, môi hở thì răng lạnh, mộng xưng "bá" tan thành mây khói và dưới các áp lực khuynh đảo từ mọi phía, trong cũng như ngoài, Bắc bộ Phủ đành phải nhượng bộ, thả dần các người tù cải tạo nguyên là quân cán chính miền Nam, họ ngậm đắng nuốt cay thả cọp về rừng và đưa các người này ra nước ngoài. Ao tưởng của họ là loại được các thành phần đối kháng hầu dễ dàng thống trị, bóc lột nhân dân Việt Nam một thời gian nữa. Nhưng người tính sao bằng Trời tính. Mong rằng họ sẽ kịp hối đầu tỉnh ngộ.
Sang đây, không thiếu gì sơn hào, hải vị nhưng mỗi năm vào những ngày giáp tết, tôi vẫn nhớ về các người bạn "tù cộng sản" và bữa tất niên giáp Tết Kỷ Mùi tại trại 9/ Liên trại 4 Hoàng Liên Sơn. Mong các anh vẫn giữ được khí thế đó và dù ở hoàn cảnh nào cũng phải kiên trì tiếp tục góp phần đấu tranh bằng mọi cách hầu mang lại tự do, no ấm cho dân, cho nước.
"Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định." Những điều mà chúng ta cùng nhau dự đoán trước kia nay đã dần dần trở thành hiện thực. Tôi vẫn tin rằng: Ngày tươi sáng sẽ đến với đất nước ta không còn xa lắm. Sâu cây đào sẽ làm bật rễ cây đào và chúng ta sẽ có một ngày về đầy sáng lạn. Hãy cùng nhau đoàn kết và cũng cố niếm tin tất thắng.
(Sưu tầm)
Sửa bởi Thùy Mị: 29/11/2012 - 19:47
Thanked by 5 Members:
|
|
#6312
Gửi vào 29/11/2012 - 19:53
(03/05/2005)
Tác giả: Song Lộc
"Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế
Sợi xích thằng chi để vướng chân"
(CONK)
Năm 1953. thụ huấn tại Quân trường Thủ đức, tôi có một anh bạn rất thân. Chúng tôi cùng trang lứa và hợp "gu" nên đi đâu cũng có nhau. Có lần anh đang viết thư thì tôi đến "phá": Viết thư cho "Đào" hả" Thế mà trông cậu có vẻ hiền lành chứ. Trồng cây si ở đâu vậy" Anh mỉm cưới đáp: "Có gì đâu. Vợ "tớ" ở Thái bình viết thư báo tin Bà Nội bị đau, nên "tớ" viết thư về thăm cụ". Lúc đó tôi mới biết anh đã có vợ. Thảo nào, cuối tuần đi phép, anh ta không ham cái "khoản đó", vì phải để dành cho Bà xã. Có lẽ để tránh bị tôi "phá" tiếp, anh ngừng viết, quay lại hỏi tôi: "Cậu có tin là có nhân duyên không" Nếu không, sao tớ phải lấy vợ mà không được chung sống với người mình yêu thương; Nếu có, thì cuộc nhân duyên của tớ và cô vợ này sẽ ra sao" Cậu học về tử vi, lý số chắc có thể lý giải giúp chứ"" Tôi gật đầu đáp: "Dễ mà, có bát tự niên canh là có giải đáp thôi."
Anh lấy giấy ghi năm, tháng, ngày, giờ sanh của vợ chồng anh và đưa ngay cho tôi. Tôi nhìn qua và hỏi thêm. Cậu có nhớ ngày giờ làm đám cưới không" Anh gật đầu: Đám cưới "chạy tang" Ông Nội nên dễ nhớ. Có đủ dữ kiện, tôi bấm số, phân tích, tổng hợp và nói: có thế nào, tớ nói thế à nghen"
Anh gật đầu: "Tớ đang bối rối, bên hiếu bên tình, đừng đùa nữa." Hồi đó, còn thanh niên, thiếu kinh nghiệm hành xử trong cuộc sống, nên tôi không ngần ngại nói thật theo nhận xét của mình: Tử vi của cậu, cung mệnh có Tham Vũ đồng hành, nhị hợp có Đào + Hồng + Tả hữu hội hợp, Nô có Đào hoa chiếu, Thê có Phủ + Tuần; Phủ phùng không. Với các dữ kiện này cộng với diện tướng, thanh tướng và các chỉ trên 2 bàn tay, số cậu sẽ có thời gian sống với 2 cô vợ, rồi có lúc chẳng có cô vợ nào và lúc xế bóng lại gặp được mối duyên tiền định, có người an ủi, yêu chiều. Đấy là về nhân duyên, còn về công danh sự nghiệp, có dịp sẽ nói sau. Bây giờ hãy quên đi, đi mà lấy phép. Xe đang chờ kìa ông bạn.
Hôm đó, sau xuất phim chiều, thay vì đi "Vũ trường" chúng tôi về khách sạn, ngồi uống cà phê và tâm sự. Anh với tôi đều ở Thái Bình, một tỉnh trù phú năm trên tả ngạn sông Hồng Hà/ Bắc Việt. Anh sinh trưởng trong một gia đình Nho giáo trung lưu. Cha mẹ mất sớm, anh được Ông Bà Nội nuôi dưỡng và lo cho học hành. Năm 1953, Ông Nội đau nặng. Bà Nội vội lo cưới vợ cho cháu. Đám cưới thời chiến trong vùng xôi đậu thật vội vã, đâu có thì giờ để chọn lựa, so đôi tuổi và chọn ngày giờ...cho chu đáo; Và như thế, các sự sơ xuất do số mạng xui khiến đều ảnh hưởng khá nhiều đến cuộc sống và công danh, sự nghiệp của anh sau này. Lúc đó, tôi đâu dám nói ra điều đó.
Thời gian rèn luyện vất vả ở Quân trường cũng qua mau. Ra trường, kẻ Nam người Bắc, những tưởng "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" nhưng khoảng tháng 8 năm 1954, sau Hiệp định Genève (VC ký với Pháp, chia đôi đất nước, đưa Miền Nam, từ vĩ tuyến 17 vào phía Nam cho Pháp) chúng tôi gặp lại nhau tại Hải Phòng. Anh cho biết: Cuối tháng 6, khi Liên quân Viêt-Pháp rút khỏi các tỉnh Thái Bình, Nam Định. Anh đang hành quân tại Bùi Chu nên không về đón được Bà Nội và vợ. Bà Nội thương cháu dâu nên nhờ người đưa vợ anh chạy khỏi Thái Bình, họ gặp nhau tại Bãi Ngô đồng, rồi cùng lên tàu ra Hải phòng. Sự việc lúc đó xảy ra quá nhanh, cô vợ thì non trẻ, khờ khạo chẳng biết gì, thêm vào đó, VC ngăn chận và đón bắt người trên khắp các nẻo đường, rất là nguy hiểm nên chú anh và anh không thể về lại Thái bình đón Bà Nội được. Đó là điều... anh ân hận suốt cuộc đời.
Vô Nam, mỗi người mỗi ngã, Quân đội lại đang tái phối trí, tổ chức thành các Đại đơn vị cấp Sư đoàn, Quân đoàn, thay thế Quân đội Pháp, bảo vệ lãnh thổ và tiếp thu các vùng VC vừa thoát đi. Công việc ở đơn vị đa đoan nên mãi đến năm 1960 tôi mới gặp lại anh ở Sài gòn. Lúc này, anh vẫn sống với Bà vợ Thái Bình, họ chưa có con cái gì cả và cuộc sống chỉ ở mức bình thường. Bà vợ chẳng biết làm gì, ống dẫn buồng trứng lại bị trục trặc, tìm thuốc men điều trị đòi hỏi khá nhiều làm cho anh "xất bất xang bang". Có người khuyên anh nên ly dị, lấy người vợ khác, để có con cái nối dõi tông đường nhưng anh không đang tâm bỏ cô ta cô đơn nơi đất lạ, vì nghĩa "tào khang". Nghe nói, sau này anh ta có gặp lại cô bạn cũ nhưng duyên nghiệp đưa đẩy nên vẫn bị bà vợ kia bám riết, bỏ thì thương, vương thì tội là như thế.
Năm 1974, gặp nhau lại khi học khoá 1 chỉ huy 2 tham mưu Liên quân, anh vẫn nghèo vì chỉ sống nhờ đồng lương và vẫn chưa có con cái gì cả. Tôi nghĩ cung thê của anh không được tốt, hai tuổi lại xung khắc cộng với nhiều yếu tố hạn chế nên phải như thế. Anh chép miệng: "Số mạng!"
Tháng tư đen năm 1975, miền Nam mất về tay CS, thì anh và tôi và những người chiến sĩ thiếu phương tiện hoặc có gan ở lại đến phút chót đều bị CS đưa vào trại giam, rồi đưa đi biệt xứ, giam tại vùng rừng núi giáp giới Trung quốc, khổ nhục ra sao thì đã được các ngòi bút đủ loại viết ra, trên hàng triệu trang giấy. Tôi thấy không cần viết lại. Năm 1979, gặp anh tại trại Công an Tân lập, anh vui vẻ cho biết Bà vợ đã vượt biên thành công (nhờ người cháu của anh) và hiện đã định cư tại Hoa kỳ. Anh hy vọng Bà ta sẽ đỡ khổ nhưng không biết có thể có khả năng kiếm được việc làm độ nhật hay không, vì bà học lực kém lại chẳng biết nghề ngỗng gì. Tôi nghĩ: Trước đà văn minh vật chất, con người thiếu bản lãnh dễ bị "Cuốn theo chiều gió", không biết bà ta có xứng với sự thương yêu trước kia và sự lo lắng hiện nay của Anh không"
Năm 1988 đi phỏng vấn, tôi lại gặp anh. Anh cho biết, chấp nhận đi theo diện di dân để có thể lên đường sớm, vì diện tỵ nạn có thể còn phải chờ cấp khoản. Tôi thắc mắc: Sang Hoa kỳ, diện di dân với hai bàn tay trắng, tuổi tác lại cao thì làm sao mà xoay sở" Anh thở dài: "Nhờ Trời."
Cuối năm 1990, anh và tôi cùng sang Mỹ nhưng mỗi người mỗi ngã. Mãi đến năm 1993, mới gặp lại anh trong buổi họp mặt khoá 4 Thủ đức tại Santa Ana. Anh kể lại là ngay từ khi gặp mặt Bà vợ tại phi trường LAX, anh đã cảm thấy thất vọng tràn trề vì biết mình đã sai lầm khi tin vào một người đàn bà như thế.
Thấy anh, mặt Bà lạnh như tiền, khác hẳn thái độ hân hoan vồn vã như trước, mỗi khi thấy chồng mang tiền lương về cho Bà chi tiêu. Về đến nhà bà con, Bà ta né tránh tiếp xúc và nói truyện với chồng. Thoạt đầu anh tưởng do mình, sau 10 năm tù đày, trên 15 năm xa cách đã già đi hoặc có những lời nói, hành động quê mùa, so với cuộc sống của Bà hiện tại. Nhưng anh lại lầm nữa, vì Bà đang ấp ủ một cái gì đó mới mẻ hơn, tài hoa hơn, hào hoa phong nhã hơn anh. Và chỉ vài tuần sau, thấy anh đi xin việc làm không được, chắc chắn Bà phải nai lưng ra làm, nuôi báo cô anh nên Bà đã nói thẳng với anh là: "Sang đây chồng làm chồng ăn, vợ làm vợ ăn". Câu nói vô tình dứt nghĩa đó như quả đấm ngàn cân giáng vào mặt, làm anh tối tăm mắt mủi. Vài ngày sau, anh may mắn được một nơi nhận cho làm với đồng lương tối thiểu. Vừa mừng, vừa tủi, anh vội vã thu xếp đi ngay không chờ Bà ta đuổi khéo một lần nữa. Anh thuê được một căn phòng nhỏ mỗi chiều chừng 2 mét 50 để dung thân. Chưa tha, chỉ ít lâu sau, khi biết anh bị thất nghiệp. Bà ta lại gọi phôn đòi ly dị. Anh chấp thuận và sau đó có lúc quá buồn nản, phẫn chí, đã định đi tìm về lạc cảnh.
Một lần, sau 26 giờ mê man trong xe đậu tại "parking" vắng vẻ ở chỗ mới làm, anh được cô hàng xóm hữu tình tìm được, kêu 911 đến cứu tỉnh. Anh quen cô từ trước 1975, khi cô là một sinh viên và anh là sĩ quan phụ trách chương trình kết nghĩa giữa các Đơn vị Quân đội và các Trường sở tại Sàigòn. Hai người đều dang dở vì "nạn nước", cô gặp lại anh và trở thành cái phao cứu nạn, giúp anh có đủ nghị lực tiếp tục lặn hụp vượt "biển đời", đến nơi hằng mong ước.
Bây giờ chúng tôi đều đã lớn tuổi nên anh gọi tôi là Anh, không cậu cậu, tớ tớ như hồi còn trẻ. Anh nói: Các điều anh tiên đoán hồi đó tuy sơ lược nhưng thật đúng. Biết vậy, năm 1975 tôi đã để cô ta ở lại Miền Bắc hoặc đã cho cô ta "de" ngay từ mấy năm sau đó. Tôi an ủi anh: "Nhất ẩm, nhất trác gia do tiền định." Nghiệp số đã như thế đừng nên trách ai cả. Biết đậu "Lão bạng sinh châu," và mối tình này sẽ đào tạo ra một viên ngọc quý, hoặc sẽ có được những ngày thanh thản hạnh phúc. Nhờ đổi đời có thể mong manh "chiếu rách" trải lên "sập vàng" và cũng có thể đem "dù hoa che dái ngựa" nhưng hãy giữ lấy "tình người".
Năm 1998, về họp khoá, anh dẫn theo một Bà còn khá trẻ và một cậu bé đĩnh ngộ, trông giống anh như đúc. Trông anh trẻ ra và đầy hào khí như hồi còn chiến đấu bên nhau. Số tốt: Tham Vũ giáp Nhật, Nguyệt hợp cách thì dù vật đổi, sao dời, vẫn có thể có một cuộc sống có tương lai và đầy ý nghĩa. Con trai anh sẽ được anh giáo dưỡng chu đáo, không những không quên cội nguồn mà còn hăng hái tiếp bước anh hoàn thành nhiệm vụ bảo quốc an dân, mang lại tự do dân chủ thực sự cho dân, cho nước: "Phúc đức tốt, số mạng tốt, thì dù có đổi đời: "biển cả nương dâu" vẫn có dịp phục hồi theo vận số. Sau cuộc họp "khoá", anh mời tôi về nhà, chỉ dẫn giúp anh thiết trí lại căn nhà mới mua. Đến nơi, khi Bà vợ đi pha trà, anh hỏi tôi: Anh thấy Bà xã tôi thế nào" Tôi đáp: Ngũ quan đều đặn, tam đình phân minh, mũi và đình môn có chút khuyết lãm. Nhân duyên muộn thì vượng phu ích tử. Anh an tâm không như...
Tôi định nói: "Không như Bà kia. Tướng khắc con, hại chồng 'Lấy quan, quan cách, lấy khách, khách về Tàu, lấy nhà giàu, nhà giàu phá sản.' Cứ nghiệm sẽ thấy". Nhưng tôi kềm lại kịp. Vì nói ra chẳng ích gì mà có khi còn gây khẩu nghiệp. Tôi thường tự nhủ: nghĩ, làm, nói và viết đều phải dè chừng, tránh gây ra nghiệp báo, luân hồi truyền kiếp, và nên tránh hoang tưởng về "cái ta", tưởng mình là "cái thế", có bản lãnh xoay chuyển "càn khôn" rồi đi đến "mục hạ vô nhân" coi thường kẻ khác thì chẳng tốt lành gì.
Thấy thì dễ nhưng làm được thì khó. Thưa quý vị. Thấy tôi ngưng ngang, anh hỏi: không như ai" Tôi gạt ngang: Nói ra anh cũng không biết đâu, cách đây ít lâu tôi cũng có một thân chủ có hoàn cảnh, số mạng như anh, vì có bà vợ "nghiệp chướng" (tác giả đã viết về ông này cách đây vài năm). Thôi để tôi coi căn nhà của Ông Bà ra sao. Đo đạc, định vị xong, tôi nói: Thời vận tốt tới, thì Trời cũng chiều người. Nhà tốt: hướng, sơn hướng và trạch vận hợp chỉ cần chỉnh lại Bàn thờ và giường nằm là "xong ngay". Hôm nay, tốt ngày để tôi giúp anh một tay nghe. Xong việc, vợ chồng họ hân hoan tiễn tôi ra xe và hẹn ngày tái ngộ.
Trên đường về tôi suy nghĩ miên man về số vận và tình nghĩa con người.
Vận khứ, Hoài sơn năng chí tử
Thời lai, Thanh thủy khả thôi sinh
Khi "bỉ vận" thì Hoài sơn (một vị thuốc bổ) cũng có thể làm chết người, còn khi thời vận tốt đến thì "nước lạnh" cũng có thể giúp sinh đẻ, mẹ tròn con vuông được.
Đúng là cuộc "đổi đời" có thể làm thay đổi hầu như tất cả, khó mà cưỡng lại, nhất là: với các bản thể thiếu nghị lực, dễ bị thái hoá, lôi cuốn vì tiền tài, danh vọng hoặc dục vọng, sẽ quên đi tất cả, kể cả "Tình nghĩa tào khang", tình xưa nghĩa cũ cũng như các kỷ niệm lẽ ra khó mà quên được. Tuy nhiên, như trên đã nói, có phúc đức tốt và số mạng tốt thì sẽ có thời vận tốt. Xin đừng vì một vài trắc trở nhất thời mà bi quan rồi bỏ cuộc.
(Sưu tầm)
Sửa bởi Thùy Mị: 29/11/2012 - 19:56
Thanked by 6 Members:
|
|
#6313
Gửi vào 03/12/2012 - 18:17
(06/20/1999)
Tác giả : Thiên Đức
Anh Thiên Đức mến,
Em năm nay 27 tuổi, vừa qua có tham dự một party nhỏ ở nhà người bạn, em nghe thấy các anh chị nói “số của chủ nhà là cần một người đàn bà biết xài tiền” mà họ nói có vẻ nghiêm túc. Em thì thật sự chưa vào đời nên rất ngạc nhiên và nghi ngờ câu nói đó, vậy nhờ anh giải thích giùm lời nói trên có ý nghĩa ra sao, cuộc đời của em có khá không"
Trả lời em John ở thành phố Garden Grove,
Em là người mới vào đời nên nghe câu nói “Cần Một người đàn bà biết xài tiền” nghe như có vẻ nghịch lý, thế nhưng trong thực tế khoa tử vi hay tướng diện vẫn có những trường hợp như vậy. Và không riêng gì người đàn ông, mà người đàn bà cũng vậy, đôi trường hợp vẫn rơi vào hoàn cảnh cần một người đàn ông biết xài tiền. Nói một cách nghiêm túc đây là trường hợp của những người có khả năng làm ra tiền của dễ dàng nhưng lại bất hạnh trong hôn nhân và hạnh phúc của mình.
Thông thường theo khoa tử vi, lá số của những người này có cung tài, quan, mệnh, thân hội tụ nhiều sao tài tinh như là Tử vi, Thiên Phủ, Vủ Khúc, Thiên Tướng, Cự Môn, hóa lộc, Lộc tồn, và các sao giữ của. Trái lại cung mệnh, thân, Phu, Thê hội tụ nhiều hung sát tinh hay sao cô độc như tuần, triệt, không kiếp, cô thần, quả tú, Sát Phá Liêm Tham hãm địa. Một điểm nổi bật trong lá số của những người này là rất chung tình với người hôn phối cũ mà không may vắn số hay bất ngờ chia tay, để lại cho người này một tình thương sâu đậm khó kiếm được người thay thế trong cuộc sống tình cảm của mình, vì thế các sao Đào Hoa, Hồng Loan thường đóng lạc lối trong các lá số này.
Đi vào thực tế lá số của em John tuổi Quý Sửu Âm nam, mạng Tang Đố mộc khắc xuất thổ ngũ cục và hành cung bản mệnh đóng tại thìn âm thổ, dễ dàng vượt qua nhiều trở ngại khi vào đời, bản thân nhân hậu, nhiều mưu trí lại có năng khiếu về kinh doanh (thiên cơ Thiên Lương miếu địa tại mệnh cung) cung Quan vô chính diệu đắc tứ không Cự Nhật vượng địa trực chiếu dễ dàng thành công trong sự nghiệp của mình, nếu chọn những ngành nghề khéo ăn nói. Cung tài với Thái Âm Thiên Đồng vượng địa là người tay trắng làm nên sự nghiệp, càng lớn tuổi càng phát triển sau 30 tuổi.
Đặc biệt cung Thê Thái dương cự môn vượng địa là số có vợ chồng hạnh phúc, khá giả nhưng tiếc thay cung thê hội tụ quá nhiều hung sát tinh (Tuần, Thiên Không, Địa Kiếp, Thiên Hình, Cô Thần Kiếp Sát), thì kém may mắn để giữ bền hạnh phúc trong thời gian dài, người chồng sống thọ hơn người vợ, dễ rơi vào cảnh quạnh hiu thương nhớ ở vào tuổi trung niên. Đi vào hàm số vận mệnh, em hiện chưa có định hướng rõ ràng về cuộc đời của mình hơn là ưu tư về số phận theo bản tính nhân từ của mình. Thiên mệnh tốt đẹp, địa mệnh và thời mệnh chưa có gì đổi thay, riêng về nhân mệnh em nên phát nguyện tâm từ của mình vào những việc hướng thiện với lòng thành mong rằng em sẽ nhận được quả báo tốt trong cuộc đời sắp đến của mình. Chúc em mọi sự an lành.
(Sưu tầm)
Thanked by 5 Members:
|
|
#6314
Gửi vào 03/12/2012 - 18:21
(09/15/2002)
Tác giả :
Anh Thiên Đức Mến,
Em là người thường xuyên theo dỏi những bài viết của anh trên Việt báo, Saigon post, Giaomua.com và cả diễn đàn thiênduc.com, em có một thắc mắc về tử vi như sau: Phải chăng những lá số thân cư phu là vợ sợ chồng hay nhờ chồng và trái lại thân cư thê là số thờ bà hay nhờ vợ. Nhờ anh giải thích dùm"
Trả lời ban Hoa Hạ
đặt câu hỏi ở diễn đàn Thienduc.com,
Trong khoa tử vi, có một cung thường gây bối rối và nhiều tranh cải nhất đối với người giải đoán tử vi đó là cung THÂN. Thật vậy cung thân song hành với cung mệnh để lý giải cuộc đời của đương số sau 30 tuổi tức là tuổi vào đời, và tùy theo ví trí của cung Thân ta có thể phần nào định hướng cuộc đời của đương số, và cung Thân chỉ có thể trú đóng trong 6 cung như sau:
1)- Thân cư mệnh (Hay nói khác là thân mệnh đồng cung) có thể lý giải phải nào cuộc đời của đương số tương đối an nhàn, bảo thủ, ít đổi thay, cho dù cuộc đời đầy sóng gió ta vẫn bình thản, vô tâm.
2)- Thân cư di là người luôn luôn có cuộc sống hướng ngoại, giao tiếp, thích hợp với cuộc sống ngoài xã hội hơn là cuộc sống khép kín đời thường.
3)- Thân cư tài là người có cá tính rất độc lập ít chịu lệ thuộc vào giai đình, vợ con kể cả người xung quanh nhất là về mặt tài chánh.
4)- Thân cư Phúc người chịu ảnh hưởng nặng nề về quá khứ của gia đình, hưởng phúc đức của giòng họ để làm nên sự nghiệp và cũng là người sống nhiều với nội tâm, hoài cổ như một thi nhân từng nói:
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại để dành hơi"
5)- Thân cư Quan là người nhiều tham vọng, mong đạt được danh vọng trong xã hội, rất thích hợp cho người hoạt động xã hội chính trị với lá số thân cư quan.
6)- Thân cư phu thê: đây là trường hợp nhiều tranh cải nhất và cũng là trường hợp lý thú để lý giải cuộc đời của đương số và một thời trường hợp này đã được lý giải là số nhờ hay sợ vợ (chồng). Để làm sáng tỏ vấn đề chúng ta nên trở lại quá khứ để phân biệt hai trường hợp khác nhau như sau:
I/- THÂN CƯ THÊ: Trước đây trong xã hội phong kiến, đàn ông là người lao động chính trong gia đình, người vợ chỉ lo việc nội trợ, mà mang lá số thân cư thê thì ít nhiều sống nhờ vợ bởi nhiều lý do như là gia đình nhà vợ giàu, có thế lực. Người vợ hiếm khi phát huy tài năng của mình để đóng góp công sức giúp chồng trong sự nghiệp gia đình. Từ ưu thế của gia đình nhà vợ như vậy nên người chồng thường trở nên lép vế, trở nên lệ thuộc người vợ hay nói bình dân hơn là số sợ vợ. Bất hạnh cho đương số chẳng may thất thế không có việc làm thì khó tránh được cảnh làm anh hùng trong bàn nhậu:
"Vuốt râu qua, ta đây không sợ vợ!
Vuốt râu lại, về nhà còn nợ mấy con heo".
II/-THÂN CƯ PHU: Đối với người phụ nữ chịu ảnh hưởng của phong kiến thì cung PHU là cung mạnh nhất trong tất cả các cung của lá số vì rằng theo quan niệm TAM TÒNG " Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử", vì thế người có số thân cư phu là điều may mắn số nhờ được chồng hạnh phúc và ấm no cả đời. Người đàn bà không còn tham vọng nào khác hơn là lo tròn thiên chức nội trợ, nuôi con và chờ chồng sáng trưa chiều. Mọi lo toan xã hội và kinh tế gia đình phó thác cho chồng đảm đang. Từ sự lệ thuộc này với lá số thân cư phu mà giải đoán số nhờ chồng hay sợ chồng cũng không có điểm gì sai lạc để tranh cải.
Ngày nay xã hội đổi thay nhiều, cuộc sống gia đình nhất là về mặt kinh tế đòi hỏi cả hai vợ chồng đều đóng góp, nên người vợ dần dần tham gia vào xã hội nhiều hơn, tích cực và chủ động cuộc sống của mình hơn, nên người vợ có cơ hội bình đẳng, độc lập ít lệ thuộc vào người chồng hơn trước cho dù nằm trong lá số thân cư phu, và người chồng cũng vậy, có cơ hội thi thố tài năng của mình nhiều hon, hiếm khi chịu lép vế để sống nép dưới ảnh hưởng của gia đình vợ để mất đi nam tính của người đàn ông. Vì thế mà quan niệm lý giải lá số Thân cư phu thê cũng đổi thay cho thích hợp.
Từ sự đổi thay hai mặt nam và nữ như trình bày trên, dần dần rút kinh nghiệm thực tiển của người viết, lá số thân cư phu thê mang ý nghĩa chỉ rõ hơn sự trưởng thành của đương số, và đương số lệ thuộc vào người hôn phối và chỉ thật sự thành công về sự nghiệp hay là giữ bền được sự nghiệp của mình sau khi lập gia đình. Trường hợp người có nhiều đời vợ chồng mà rơi vào lá số thân cư phu thê cũng vậy, giai đoạn đổ vở hôn nhân là giai đoạn khủng hoảng hay bi đát, tiêu tan về sự nghiệp. Sự lệ thuộc vào cung phu thê này tốt hay xấu là tùy theo nội dung của cung phu thê để giải đoán là nhờ cậy nhau, sợ nể nhau, hay gồng gánh cho nhau về nợ nần.
Và chữ nhờ vợ chồng ở đây chúng ta cũng nên hiểu theo nghĩa rộng, chưa hẳn người có số thân cư phu thê là người nhờ vào người hôn phối về mặt tiền bạc, tài năng mà có thể nhờ vào vận mệnh của người hôn phối để làm nên hay cầm giữ được sự nghiệp của minh. Ví dụ một người thích phiêu lưu làm ăn táo bạo với nhiều tài năng, tự bản thân cũng đã thành công, nhưng ở lá số thân cư phu thê thì lý giải ra sao. Trong trường hợp này người vợ hay người chồng chẳng những không giúp gì cho người hôn phối làm nên sự nghiệp mà chỉ là làm nhiệm vụ kỳ đà cản mũi ngăn chận sự làm ăn quá trớn để tránh nguy hiểm rơi vào sụp đổ, như vậy trong trường hợp người vợ (chồng) này đã đóng vai trò cái thắng trong xe hơi vậy. Cũng là cái số nhờ vợ chồng phải không các bạn"
(Sưu tầm)
Thanked by 6 Members:
|
|
#6315
Gửi vào 03/12/2012 - 18:28
(09/15/2007)
- Loạt bài ký sự tham luận về Phong thủy, tử vi số và huyền học của PTTVG Song Lộc
Năm 1954, khi phục vụ tại một tiểu đoàn khinh quân ở Bùi Chu, tôi tình cờ quen với cụ Nguyễn. Cụ rất hiếu khách và cũng yêu thích khoa phong thủy, tử vi và lý số nên thường mời tôi đến nhà dùng và đàm luận về môn khoa học huyền bí này. Một hôm, sau một tuần, trà mạn sen do chính cụ ướp chế, cụ gọi bế hai cậu cháu nội ra chào và nhờ tôi coi lại giùm lá số tử vi của hai cậu.
Quan sát tôi thấy 2 lá số đều có cung Phúc thật tốt, các chính tinh và trung tinh đều đắc cách, tả hữu triều lai,khoa quyền lộc cũng ngộ triệt chứng tỏ trong gia tộc có một ngôi mộ kết phát nhưng bị động nên ảnh hưởng không đều đến các dòng con cháu. Hai cậu này chắc là "con chú con bác" nên tièn vận, trung vận và hậu vận đều có điềm khác biệt. Trong hai Đại vận tới cũng thế. Cậu Nhâm sẽ gặp nhiều trờ lựfc trong cuộc sống, vất cả, cơ cực và việc học hành cũng khó mà thành đạt. Còn cậu Quý thì lại có moật cuộdc sống dễ chịu, học hành thành tàim,có bằng cấp cao và có địa vị trong xã hội.
Tuy nhiên, khi số vận đi vào cung THÂN, khoảng 30 tuổi, thì số mệnh hai cậu đều đổi khác. Họ sẽ có dịp dời khỏi nơi "chôn nhau cắt rún" và sinh sống tại một chân trời xa lạ. Đến thời điềm này, cậu Nhâm ít học nhưng lại thành công và trờ nên khá giả hơn cậu Quý. Điềm đặc biệt là nhờ có phúc đức tốt và nhờ ảnh hưởng của ngôi mộ kếp phát, hai cậu đều có một hậu vận khá vững vàng!
Sau khi nghe các nhận sét tổng quát của tôi, cụ Nguyễn nói: “Thưa ông, hậu vận các cháu có cơm ăn, áo mặt đầy đủ là tôi mừng rồi. Chả giấu gì ông, bố cháu Quý là một giáo sư đang dạy học tại Hà Đông, còn bố cháu Nhâm hiện cũng có chức phận tại địa phương này. Hoàn cảnh gia đình các cháu có khác nên chắc sẽ có ảnh hưởng đến tương lai của chúng như ông dự đoán."
Tôi mỉm cười, tiếp lời: "Thưa Cụ, nhờ ơn phúc tổ tiên, nếu tích phúc thêm thì hai cậu đều có hậu vận khá vững vàng như đã nói."
Lúc tiễn tôi ra về, cụ ân cần nhắc nhở: "Gần đây, vùng này có vẻ bất ổn, có lẽ gia đình tôi cũng phải dời lên Nam Định. Mong sẽ được gặp lại ông và xin ông hãy thận trọng."
Sau đó, nhiều biến động dồn dập. Cuối tháng 6/54, đơn vị tôi rút khỏi Bùi Chu, 20-7-1954, Việt Cộng ký Hiệp định Genève dâng miền Nam cho Pháp với nhiều âm mưu khuynh đảo (có dịp sẽ nói sau) các đơn vị quân đội quốc gia phải rút vào Nam. Tìnhhình chínhtri. thế giới biến chuyển buộc Pháp phải trao trả độc lập thực sự cho Nam Việt Nam và nền Đệ nhất Cộng Hòa được thành lập với đầy đủ thực quyền của một Quốc gia độc lập. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức thành các đơn vị lo tiếp nhận và bảo vệ các vùng Việt Cộng vừa triệt thoái.
Công việc đơn vị đa đoan nên mãi đến năm 1960, tôi mới gặp lại cụ Nguyễn tại Saigon, cụ cho biết cả gia đình cậu Quý đều vào được Saigon, còn gia đình cậu Nhâm thì chỉ có hai người chị cậu đang buôn bán tại Hà Nội là thoát nạn,và nay đều khá giả, còn thì bị kẹt lại Bùi Chu vì bố mẹ cậu Nhâm đều bị đấu tố đến chết trong đợt cải cách ruộng đất tại miền Bắc trong mấy năm vừa qua. Cụ thở dài: Số mạng! Mười năm sau, tôi mới có dịp ghé thăm thì được biết cụ đã mất năm trước, còn cậu Quý, sau khi tốt nghiệp Đại học Luật khoa, bị động viên và đang phục vụ tại vùng II chiến thuật.
Biển dâu biến đổi, 30-4-75 Việt cộng cưỡng chiếm miền Nam, tôi bị đưa vào trại giam biệt xứ tại Yên Bái, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, tưởng sẽ đi vào ngõ cụt. Nhưng "Người muốn không bằng trời muốn", nhờ ơn trên và ân phúc tổ tiên, tôi vẫn an toàn trở về. Năm 1985, tôi ghé thăm gia đình cụ Nguyễn thì chỉ gặp bà cô của cẫu Quý. Bà cho biết: "Cậu Nhâm và cậu Quý đều đang định cư ở Hoa Kỳ." Cậu Nhâm là bộ đội phục viên, năm 1978 vô Nam tìm lại được chị ruột và sau đó đã theo gia đình chị vượt biên tìm tự do. Đến Mã Lai, cậu được người chị cả, định cư ở Hoa Kỳ năm 1975 bảo lãnh nên được Hoa Kỳ cho nhập cư vào năm 1979. Còn cậu Quý thì vượt thoát khỏi trại giam, mạo hiểm vượt biên và cũng đến Hoa Kỳ vào năm 1979, bà tin tôi nên cho tôi địa chỉ của mấy người cháu này.
Cuối năm 1990, tôi đến Mỹ theo diện HO. Có lẽ vì méo mó nghề nghiệp nên sau khi ổn định mọi việc là tôi phone cho cậu Quý ngay. Cậu rất mừng rỡ và đã đến thăm tôi vào buổi sáng ngày hôm sau. Cậu tâm sự: "Thưa bác, bác đoán tử vi cho cháu và anh Nhâm tại Bùi Chu nam 1954 thật đúng. Sang đây được 2 tuần lễ là cháu có việc làm ngay và ai cũng tưởng, cháu là người dễ dàng thích ứng tại đây và chắc chắn sẽ thành công nhanh hơn anh Nhâm nhưng ngược lại hiện nay anh Nhâm, tuy chỉ là một công nhân sửa ống nước nhưng nhờ chí thú làm ăn nay đã có nhà riêng để ở và cho thuê, còn cháu thì vẫn ở nhà thuê và công việc làm vẫn còn hết sức bấp bênh, chưa biết sẽ ra sao nữa. Tất cả đều do cháu. Vì thời gian đầu, cháu chỉ làm việc cầm chừng và dành hầu như tất cả thời gian còn lại cho các hoạt động chính trị nhằm mau chóng quan phục quê hương nhưng rồi tất cả chỉ là ảo vọng."
Nghe cậu tâm sự, tôi thầm nghĩ, người làm chính trị có thể phúc chốc trở nên một người có địa vị ở trong một tổ chức, một cộng đồng hoặc một quốc gia nhưng nếu không có thời và không biết mình, biết người thì thật là khó.
Thời lai đồ điếu thành công dị.
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
Nếu ta không đoàn kết, không có thực lực và không có thời cơ mà chỉ hô hào: "trả ta sống núi" thì lời nói suông sau làn gió thoảng "kinh tế và lợi quyền" sẽ đi vào quên lãng và lớp người Việt đang lớn lên tại hài ngoại sẽ khônghề biết đến hoặc sẽ cho việc đó là không tưởng. Nằm gai nếm mật, có tài có đức, đồng lao cộng khổ, khắc cốt ghi tâm là cần thiết nhưng phải có thực tài và thực lực, ví như một võ lâm cao thủ có nội lực sung mãn, tam hoa tụ đình, ngũ khí triều nguyên, ra tay là kẻ thù vô phương chống đỡ và nhất là phải làm sao cho con em ta hiểu được mục đích đầu tranh và quyết tâm nối chí cha ông, thì khi thời cơ tới mới có thể có thực lực, có nhân tài vật lực cùng nhau dành lại tự do, dân chủ cho quê hương đất nước.
Phá điền thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Dân tộc Việt Nam sẽ có "người tài ba lãnh đạo" toàn dân tiêu diệt Cộng thù và xây dựng nền tự do, dân chủ, tiến đạt và thịnh vượng cho dân cho nước, vang tiếng năm châu. Thấy tôi có vẻ trầm tư, cậu băn khoăn lên tiếng: "Thưa bác, ông nội cháu rất tin ở bác và dặn cháu có gì cần thì tìm bác. Nay may mắn gặp lại bác, xin bác điểm lại, giúp hộ cháu có thể vượt qua các khó khăn hiện tại hầu có một cuộc sống ổn định hơn. Cả chục năm nay, anh Nhâm cũng mong tin bác và mong gặp lại bác. Anh ấy cũng nhớ những điều bác nói hồi chúng cháucòn nhỏ.vì hồi đó ông nội có nói lại với bố mẹ cháu các điều bác tiên đoán."
Thấy cậu quá thành khẩn, tôi an ủi: "hồi hôm tôi có xem lại lá số tử vi của ông, hôm nay xem lại diện tướng và thanh tướng, tôi thấy thời vận xấu của ông sắp qua, ám hãn đã mờ nhạt. Tuy nhiên, để hỗ trợ, khi về nhà, ông xem kỹ các điều tôi ghi trong tờ giấy này và làm cho thật đúng thì chỉ vài tháng nữa qua năm mới, ông sẽ có sự thayddổi khác thường, không những chắc chắn sẽ có cuộc sống vững nàng như tôi tiên đoán trước kia mà còn yên tâm về sự học hành và công việc làm ăn của các cháu nữa. Tôi mong sẽ sớm nhận được tin vui của ông, khi nào rảnh, xin mời ông và ông Nhâm đến chơi."
Cậu khá chu đáo, nên giao thừa đầu tiên trên đất Mỹ, tôi cũng có được một mâm bánh trái để cúng tổ tiên vào dịp đầu năm nơi đất khác. Tôi luôn nhắc ông nhớ đến ơn đức tổ tiên và nhớ chăm sóc ngôi mộ kết phát ngày xưa.
Tôi phải viết lại đoạn ký sự này để góp ý với ký giả Nguyễn K.D. trong việc lý giải về thiên định và nhân định, giữa tài trí và số mệnh của con người. Có học thức, có kiến thức, có bằng cấp cao và có đầy đủ hành trang để vào đời nhưng không nhất thiết là sẽ thành công như bao người khác mà còn tùy thuộc vào cao xanh nữa. số mà xấu thì sĩ khí rụt rè, gà phải cáo. Công danh trầm bổng đấm ăn xôi.
Hay: Vợ lăm le ở vú. Con tấp tểnh đi bồi.
Hoặc: Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non
Còn số tốt thì:
Hoạn lộ:
- Đường mây rộng thênh thang cử bộ. Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo. Thảnh thơi thơi túi rượu bầu.
- Hạnh phúc gia đình và cá nhân:
- Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy. Hai bên có lính hầu đi dẹp đường.
Qua câu chuyện kể trên, hai cậu Nhâm và Quý cùng con dòng cháu giống nhưng vì số mệnh, họ có ngã rẻ cuộc đời khác nhau. Khi vô Nam và sang Hoa Kỳ theo nhận xét thông thường với căn bản và trình độ kiến thức, cậu Quý dễ hội nhập hơn vào cuộc sống mới. Có điều kiện thuận lợi hơn thì chắc chắn sẽ có mức độ thành đạt cao hơn, nhưng trên thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Phải chăng đã có một quyền lực siêu hình, cao hơn tài trí của con người chi phối họ, họ khó mà làm khác đi được, trừ phi có thể bằng cách nào đó cải số hoặc nhờ có ân đức phò trợ.có thể nói, số mạng cũng có thể gia giảm,tùy thuộc một phần vào "phúc" hoặc "họa" của bản thân mỗi người. Như truyện nàng Kiều:
Sư rằng: Phúc họa đạo trời
Cội nguồn cũng ở trong lòng mà ra.
Khi mà có phận hồng nhan, có tên trong sổ đoạn trường như nàng Kiều thì:
Ma dẫn lối quỷ đưa đường
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Tuy phận mỏng như phúc dầy và do việc làm của chính bản thân nên:
Tâm thành đã thấu đến trời
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân.
Như vậy hành động "thiện", "ác" sẽ mang lại "phúc" hay "họa" có ảnh hưởng lớn đến số mạng của mỗi người, không những trong hiện tại, tương lai mà còn kéo dài đến kiếp lai sinh nữa.
Trong cuộc sống, ý nghĩ và hành động, lời nói và việc làm đều có thể "tạo phúc" hay "tác họa", cứu mình hay cứu người, hại mình hay hại người, chỉ cách nhau trong gang tấc. Có điều thực tế khẳng định là hại người tức là hại mình và cứu người tức là cứu mình vậy. Do đó, số mạng cũng có thể đổi thay tùy theo "phúc đức tại ngã" và việc làm tốt xấu của chính bản thân mỗi người. Làm phúc và tích phúc là cần yếu cho chính bản thân và còn lợi ích cho cháu con, sòng giống. Muốn "cải số" thì đầu tiên phải tích phúc và muốn tích phúc thì ngoài việc ăn ở hiền lành còn phải dấn thân cứu nhân độ thế một cách tích cực vong thân. Khó lắm thay.
Trở lại câu chuyện của chúng ta. Hai cậu Nhâm và Quý đã làm đúng di huấn của ông nội họ, luôn tích phúc và lo chăm sóc nơi yên nghĩ tổ tiên, giữ gìn đất cát, nên hiện nay họ và gia đình đều khá thành đạt, con cái họ có thể vương lên trên đất Mỹ và luôn nhớ đến quê hương. Chắc họ có thể góp phần mang lại tự do, dân chủ cho xứ sở và làm rạng rỡ non sông Việt mến yêu.
(Sưu tầm)
Thanked by 5 Members:
|
|
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() Thái tuế nhập quái với lụa chọn năm sinh con.Chỉ bàn học thuật, không luận lá số |
Tử Vi | Transporter |
|
![]() |
|
![]() Hỏi về Kỹ thuật |
Giải Trí | Đinh Văn Tân |
|
![]()
|
|
![]() Bộ sách thuật tạng của Trung Quốc |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | trongtri |
|
![]() |
|
![]() sách công thức bào chế các loại dầu thảo dược, dầu ma thuật |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Elohim |
|
![]()
|
|
![]() sách bùa chú châu Phi, ma thuật nước ngoài |
Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Elohim |
|
![]()
|
|
![]() Kỹ Thuật của Người An Nam - Henri Oger![]() |
Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | huygen |
|
![]()
|
3 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 3 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












