Jump to content

Advertisements




NHƠN QUẢ NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI


24 replies to this topic

#16 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/05/2012 - 06:50

NHƠN QUẢ NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI

NHỮNG BẰNG CHỨNG LUÂN HỒI Ở ẤN ĐỘ

(CHƯƠNG BỐN)

I. MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI Ở ẤN ĐỘ:

Cách đây vài chục năm, tờ báo Mai có chụp hình và đăng một câu chuyện như sau:

Tại Ấn Độ, ở thành Delhi, có một cô gái 8 tuổi tên Phanti Devi. Cô đã nhiều lần khóc lóc với cha mẹ đòi về thành Mita thăm chồng là một giáo viên. Thành Delhi các thành Mita trên 200km. Cha mẹ cô gái lấy làm lạ mời một phóng viên nhà báo đến để nhờ anh điều tra giùm. Phóng viên nhà báo đến hỏi, thì được cô cho trả lời rằng: cô là vợ của một giáo viên, ăn ở với nhau sanh được một đứa con. Khi đứa con lên 11 tuổi thì cô lâm bịnh từ trần.

Người phóng viên hỏi xem cô ta có gì làm bằng chứng không? Cô trả lời là cô có để lại vàng bạc cà đồ đạc chôn ở chỗ nọ chỗ kia..và cô còn nhớ rõ có một cái quạt do người chị em bạn tặng, trên quạt có ghi lại mấy dòng chữ, rồi cô đọc mấy dòng chữ ấy cho phóng viên chép vào sổ tay. Phóng viên liền đến thành Mita, tìm hỏi tên họ ông giáo viên, thì thật quả không sai. Phóng viên hỏi ông giáo:

- Ông có người vợ đã chết độ 8, 9 năm nay phải không?

Ông giáo trả lời:

- Vâng, có! Vợ tôi chết nay đã chín năm. Chẳng biết ông hỏi có việc chi?

Phóng viên trình bày những lời cô bé đã nói.

Ông giáo nghe đều cho là đúng cả.

Phóng viên lại lấy quyển sổ tay đưa mấy dòng chữ cho ông giáo đọc và hỏi:

- Khi vợ ông mất, có để lại một cây quạt, trên ấy có ghi mấy dòng chữ như thế này có phải không?

Ông giáo trả lời:

- Trúng y như vậy cả.

Qua ngày sau, phóng viên lại mời cha mẹ và cô Phanti Devi cùng đi xe tới thành Mita. Từ khi sanh ra đến 8 tuổi, cô chưa từng đi xa, thế mà đường đi trong thành Mitha cô đều thuộc cả, cô chỉ đường này là đường gì, đi về đâu, đường kia tên gì, đi về đâu, và còn nói trúng cả tên những nhà quen ở hai bên đường nữa. Gần đến nhà ông Giáo, cô bảo đi xe chậm lại và dừng ngay trước nhà ông Giáo. Vào đến nhà, gặp một ông già độ 80 tuổi, đầu tóc bạc phơ, cô vừa mừng vừa khóc òa mà nói rằng:

- Đây là cha chồng của tôi.

Cô chỉ ông giáo mà nói:

- Kia là chồng tôi.

Rồi cô chạy lại ôm đứa con mười một tuổi khóc và nói:

- Đây là con tôi!

Mọi người trông thấy, ai cũng đều cảm động. Việc này làm sôi nổi cả dư luận Ấn Độ và các báo trên thế giới, đều bàn tán xôn xao. Các nhà bác học ra sức tìm tòi, nghiên cứu, nhưng không một ai giải thích được. Chúng ta đã rõ biết lý luân hồi, thì việc này cũng chẳng lấy làm lạ.



Thanked by 1 Member:

#17 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/05/2012 - 06:54

II. MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI TẠI MỸ

Vào khoảng năm 1956, ở Mỹ có một thiếu phụ tên Ruth Simmons, vì quá tin tưởng có kiếp luân hồi, nên đã nhờ nhà thôi miên Morey Bernstein giúp cô được thấy lại kiếp trước của cô. Nhà thôi miên kia, sau khi đưa cô vào giấc ngủ, liền bảo:

- Thử nhớ lại hồi mười tuổi, cô đã làm gì!

Cô Simmons, trong cơn mê nói lại thuở thiếu niên của cô, những lúc cô đi học và tả tỉ mỉ những lúc cô nô đùa với bạn. Nhà thôi miên lại bảo:

- Bây giờ thử nhớ lại lúc cô mới một tuổi, cô thấy gì?

Cô trả lời bằng những tiếng bập bẹ, y như đứa trẻ chưa biết nói. Nhà thôi miên lại dồn hết tinh thần vào cặp mắt, nhìn thẳng vào mặt cô Simmons và nói:

- Thử nhớ lại tiền kiếp của cô!

Sau một lúc im lặng, cô Simmons mới nói, nhưng giọng nói của cô đã đổi khác, giọng Ái Nhĩ Lan (ở Anh Quốc), chứ không phải giọng người Mỹ. Cô kể lại rằng:

“Kiếp trước cô đầu thai vào gia đình họ Murphy ở làng Cork bên Ái Nhĩ Lan vào năm 1789. Cô tả nơi chôn nhau cắt rún của cô và cho biết nhiều chi tiết khác về làng này. Cô nói thêm rằng chồng cô tên Brian Mac Carthy, giáo sư trường luật đã từng cộng sự với tờ báo Belfast news, rồi sau cùng cô nói đến ngày cô chết, mả cô hiện ỏ đâu và cô phải làm ma hơn một thế kỷ. Sau đó, cô đầu thai vào gia đình họ Simmons ở Mỹ, hồi năm 1923".

Nhà thôi miên đã thâu tất cả lời nói của cô Simmmons về tiền kiếp của cô và sau đó viết một quyển sách nhan đề là: “Đi tìm gốc tích cô Murphy”. Sách này in ra 170 ngàn cuốn và chỉ trong ba tháng đã bán sạch. Sau đó, nhà thôi miên lại lấy lời thuật chuyện của cô Simmons thâu vào ba mươi ngàn (30,000) dĩa nhựa và chỉ trong 2 ngày đã bán sạch. Chuyện này báo chí quốc tể đều có đăng tin, riêng ở Pháp có tờ Paris Math thuật lại rất rõ, ở Việt Nam cũng có nhiều tờ nói đến như tờ Tin Điển, tờ Liên Hoa...



Thanked by 1 Member:

#18 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/05/2012 - 07:05

III. MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI Ở PHÁP

Một Bác sĩ Pháp, ông Maurice Delarry, vốn là người hoài nghi về thuyết luân hồi, nhưng sau một thời gian khảo cứu rất công phu, đã viết trong tạp chí “Thần linh học” xuất bản hồi năm 1748 về sự luân hồi như sau: Ban đầu ông không tin có kiếp luân hồi, nhưng sau một thời gian thí nghiệm bằng cầu cơ, ông phải công nhận kiếp luân hồi có thật. Đây là lời ông Maurrice Delarry kể:

- Một hôm tôi và vợ tôi đang cầu cơ thì bỗng chiếc xe lay động lần lượt chỉ vào 5 chữ F.E.L.I.X rồi ngừng lại, tức là kẻ khuất mặt tên Félix đã nhập vào cơ, chúng tôi liền hỏi:

- Ông Félix muốn gì?

Trả lời:

- Tôi cho ông bà hay tôi sẽ trở lại trong họ hàng ông bà trong một ngày gần đây.

Hỏi:

- Tại sao vậy? Tại sao trở lại trong họ hàng chúng tôi.

Trả lời:

- Phải! trong gia đình ông bà.

- Họ hàng chúng tôi đông đảo quá, đi ở rải rác mỗi người một nơi. Vậy ông có thể cho biết chắc chắn ông sẽ xuất hiện ở xứ nào không?

Trả lời:

- Tại xứ P. (Bác sĩ Maurrice vì một lẽ riêng, không muốn nói rõ xứ này) và trong gia đình ông Y. (Ông Y đây là bà con với bà vợ Bác sĩ Maurrice, nhưng Bác sĩ cũng giấu tên, vì sợ động chạm đến đời tư không hay của gia đình khác).

Hỏi:

- Chắc chắn ông sẽ vào gia đình ông Y bà con chúng tôi?

Trả lời:

- Phải! Hiện nay gia đình ông Y có hai đứa con gái.

Hỏi:

- Ông có biết tên chúng không?

Trả lời:

- Có! (Rồi kẻ vô hình nói đúng tên hai đứa con gái của người bà con bà Maurrice, nói đúng cả ngày sinh tháng đẻ của chúng nữa).

Hỏi:

- Ông có thể cho biết chắc chắn ngày nào ông sẽ ra đời trong gia đình ông Y không?

Trả lời:

- Ngày 24 tháng 9 năm 1924 vào buổi mai.

Hỏi:

- Nhưng làm thế nào để biết chính ông đã đầu thai làm con trong gia đình ông Y?

Trả lời:

- Cô J. (tức là tên vợ của Bác sĩ Maurrice mà ông cũng giấu tên luôn) sẽ được biết khi nhìn thấy tai bên mặt của tôi, vì chính tôi là Félix, đứa tớ trung thành của ông bà thân sinh của cô J. đây.

Cuộc đối thoại giữa Bác sĩ maurrice và kẻ khuất mặt tên Félix được Bác sĩ biên chép kỹ càng từng câu một để sau này xem có đúng không. Bấy giờ vào khoảng tháng năm Dương Lịch, vợ chồng Bác sĩ Maurrice không mảy may hay biết người chị họ (của bà Bác sĩ) có thai. Cho đến ngày 24 tháng 9 năm 1947 nghĩa là cách đó bốn tháng, vợ chồng Bác sĩ tiếp được điện tín từ xứ P. đánh về cho hay người chị họ vừa hạ sanh một trai hồi tám giờ sáng ngày nói trên.

Thế là rất đúng với lời của kẻ khuất mặt Félix. Nhưng Bác sĩ không muốn cho vợ chồng người chị họ biết rằng chính ông bà đã biết trước việc này. Ba tháng sau, vợ chồng Bác sĩ Maurrice vừa đến nơi thì vợ chồng người chị họ liền đưa ông bà vào phòng để xem mặt đứa bé. Khi bà bác sĩ đến gần chiếc nôi thì thằng bé nhìn bà mĩm cười, mà nước mắt cứ tuôn ra, rồi nó đưa tay về phía bà Bác sĩ đòi ẵm. Vợ chồng người chị họ rất đỗi ngạc nhiên, vì thường khi không bao giờ con chịu người lạ, thế mà lần này, mới gặp bà Bác sĩ nó lại đòi ẵm.

Vợ chồng Bác sĩ Maurrice thì không lạ gì với thằng bé, nhưng không dám nói sự thật ra cho vợ chồng người chị biết về kiếp luân hồi của tên lão bộc Félix, sợ rằng gia đình người chị họ cho mình quá tin dị đoan chăng. Khi nhìn thấy miếng vải băng ngang đầu đứa bé, vợ chồng Bác sĩ đã đoán biết một phần nào đúng như lời lão bộc Félix dã nói trong lúc cầu cơ, nên Bác sĩ giả vờ hỏi:

- Tại sao lại băng đầu nó? Chắc lại sanh ghẻ chứ gì?

Người chị họ trả lời:

- Không, vì lúc sinh nó ra, nó có tật nơi tai, vành tai chỉ dính vào da đầu có chút xíu, nên tôi có nhờ Bác sĩ chữa, bác sĩ bảo xức thuốc băng lại trong một thời gian thì liền lại.



Thanked by 1 Member:

#19 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/05/2012 - 07:06

IV. MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI THỨ HAI Ở PHÁP

Một đứa bé gái mới ba tháng tên Thérèse bỗng nhiên một hôm thốt lên tiếng Aroupa, cha mẹ đứa bé không để ý, tưởng rằng con mình bập bẹ bậy bạ vậy thôi, nhưng về sau có người cho biết Aroupa có nghĩa là “trời” theo tiếng Ấn Độ. Đến lúc lên hai, em bé Thérèse trong lúc chơi mua bán, có thốt ra tiếng Roupie. Tiếng này trong gia đình không hề nghe ai nói tới, thế mà Thérèse biết được, mới lạ.

Mười tháng sau nữa, trong khi mẹ Thérèse nói chuyện với một chị em bạn, cô Thérèse thường xen vào câu chuyện với những tiếng “Bapou”. Bà bạn vốn là tín đồ đạo Phật, rất lấy làm lạ hỏi mẹ Thérèse tại sao nó biết tên riêng của ông Gandhi vì tên Bapou chỉ có gia quyến thánh Gandhi cùng tín đồ ông gọi ông mà thôi, người ngoài ít ai biết được. Mẹ cô gái Thérèse nghe nói càng thêm kinh ngạc. Bà bắt đầu tin có luân hồi và từ đó, bà mua sách về thần học khảo cứu, và bà có mua một bức hình của ông thánh Yogàmanda. Khi nhìn thấy bức ảnh này, cô bé la lớn:

- Con biết ông này! Lúc thánh Gandhi còn sống thường đến nói chuyện với thánh Gandhi, có mặt con trong những lúc ấy.

Sau khi dọ hỏi những tín đồ của thánh Gandhi, mẹ co bé Thérèse thấy lời nói của con mình là đúng sự thật. Lên năm tuổi cô bé bắt đầu ăn chay và không thích ăn bánh mì mà chỉ ăn cơm. Thỉnh thoảng cô lại kể một vài đoạn đời của thánh Gandhi.





Thanked by 1 Member:

#20 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/05/2012 - 07:10

V. MỘT CHUYỆN LUÂN HỒI Ở ĐẢO MAURICE

Chuyện sau đây do giáo sư Bissoundya ở hải cảng Port Luois tại đảo Maurice kể lại trong “Tạp chí đầu thai luân hồi”. Tại làng Castel có một gia đình nọ sanh một đứa bé trai lên ba tuổi, đặt tên là Chatanàdeva. Bỗng một hôm nó bảo nó không phải ở làng ấy. Cha mẹ và người lối xóm đều cười, vì cho nó nói bậy. Nó lại nhất định nói nó không phải tên Chatanàdeva mà là tên Sreeram Jankoo. Lúc đó người ta mới lấy làm kinh ngạc vì tên Sreeram Jankoo không phải lạ. Anh này bị chết đuối cách đây 3 năm, trong lúc đi thuyền đến cù lao Plate. Người ta hỏi nó tại sao nó biết tên Sreeram Janko thì nó có thuật lại rằng:

- Tôi đang chèo thuyền đi ra cù lao Plate thì bị sóng đánh chìm và chết đuối giữa biển.

Lời thuật của thằng bé làm mọi người kinh dị, vì thật đúng như thế. Rồi nó lại kể thêm những chi tiết về cảnh sống của Jankoo, nhất nhất đều đúng sự thật cả. Câu chuyện này được đồn đãi ra. Mẹ của anh chài lưới Jankoo ở làng bên, nghe được, liền tìm tới nhà thằng bé. Thằng bé đang chơi, thấy bà lão bước vào, nó mừng rỡ reo lên và nhảy sổ đến ôm bà, la lớn:

- Mẹ! mẹ!

Những câu chuyện tương tợ như những bằng chứng đã kể ở đoạn trước nhiều không thể kể xiết. Ngoài ra còn bao nhiêu vị thần đồng, những cậu bé có thiên tài xuất chúng ở rải rác trong thế giới và trong lịch sử mà chúng ta thường nghe nói đến như: Ông Pascal, một Triết gia và một nhà Toán học Pháp, mới bảy tuổi mà đã thông thạo phương pháp kỷ hà học, Ông Mạc Đỉnh Chi mười hai tuổi đậu Trạng Nguyên. Nhạc sĩ Mozart mới bảy tuổi đã biết đặt những bản nhạc hòa âm

Ông Christian Heinecken vài giờ sau khi ra đời đã nói chuyện được, khi lên một tuổi đã học thuộc lòng vài đoạn kinh Thánh giáo trong cuốn thánh kinh, lên hai tuổi đã trả lời tất cả những câu hỏi về địa dư, lên ba tuổi đã nói được tiếng Pháp, tiếng La tin, lên bốn tuổi đã có thể theo học các lớp triết học. Ông Stuart Mill lên ba đã học chữ Hy Lạp. Ông William James Sidis lên hai đã đọc và viết chữ mẹ đẻ (Hoa Kỳ), lên tám đã nói được tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Đức và một ít tiếng Latin, Hy Lạp.

Cậu bé Silvanorigoll ở Ý, mới ba tuỗi đã làm nhạc sư và điều khiển một giàn nhạc, chưa biết đọc và viết nhưng lại chép bản nhạc rất tài tình, đánh dương cầm và phong cầm không thua gì những nhạc sĩ hữu danh. Những bằng chứng rõ ràng trên không ai có thể chối cãi được, nhưng cũng không ai có thể giải đáp được lý do đâu có hiện tượng lạ lùng như thế, nếu không tin có nhân quả luân hồi. Các nhà khoa học cố gắng giải thích là tại những hạch tuyến trong người các thiên tài ấy phát triển một cách nhanh chóng khác thường, nhưng tại sao hạch tuyến chỉ phát triển trong một số người ấy mà thôi?

Có người giải thích là do di truyền, nhưng lời giải thích nào cũng không làm cho người ta thỏa mãn, vì ông cha những thần đồng ấy cũng không có gì xuất sắc hơn những người khác, Vả lại, con cháu các vị thần đồng ấy về sau cũng không thừa hưởng được gì của ông cha cả. Chỉ còn một lối giải thích duy nhất có thể đứng vững được là: nghiệp nhân của nhiều đời kiếp trước đã phát triển thành quả trong đời hiện tại.



Thanked by 1 Member:

#21 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/05/2012 - 07:13

NHƠN QUẢ NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI

Giải Đáp Những Thắc Mắc Nghi Vấn Về Vấn Đề Nhân Quả Luân Hồi

(CHƯƠNG NĂM)

Từ trước đến nay, chúng tôi chỉ trình bày những điểm chính của giáo lý Nhân quả Luân hồi, mà không đi sâu vào chi tiết, và để sự trình bày được rõ ràng, có mạch lạc, chúng tôi đã tạm gác lại tất cả những thắc mắc, nghi vấn có thể hiện ra nhiều lần trong đầu óc quý vị, khi đọc các đoạn trước. Đến đây, sau khi trình bày xong xuôi những nét chính của giáo lý Nhân quả Luân hồi, chúng tôi xin lần lượt giái đáp những thắc mắc, hay nghi vấn trong vấn đề này:

1. Có người nghĩ rằng: Nhân quả là một luật tự nhiên rất công bằng đứng đắn, sao có người cả đời hiền từ, mà lại gặp lắm tai nạn, khổ sở, trái lại những người hung ác sao lại vẫn an lành?

Đáp: Chắc quý vị chưa quên trong chương nói về nghiệp, chúng tôi đã trình bày rằng xét về thời gian, nghiệp có chia ra làm ba thứ:

a. Hiện báo: Quả báo hiện tiền, như mình đánh người, bị người đánh ngay; hay ăn cơm thì no, uống nước liền đỡ khát.

b. Sanh báo: Đời nay tạo nhân, qua đời sau mới thọ quả báo, như làm một tội ác gì, ngay khi ấy không ai biết mà bắt, đến lâu sau việc ấy mới tiết lộ và người làm ác mới đền tội.

c. Hậu báo: Đời nay tạo nhân, mà các mấy đời sau mới chịu quả báo, Như ngài Ngộ Đạt quốc sư, đời trước làm quan tên là Viên Án, vì giết Triệu Thố, mà đến 10 đời sau mới chịu quả báo.

Vậy nếu có người trong đời hiện tại, làm việc hung ác, mà được an lành là do kiếp trước họ tạo nhân hiền từ, còn cái nhân hung ác mới tạo trong đời hiện tại, thì trong tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo. Cũng như người năm nay ăn chơi, không làm gì hết mà vẫn no đủ, là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy. Cái nhân ăn chơi, không làm năm nay thì sang năm họ sẽ chịu quả đói rách.

Còn người dữ đời nay hiền từ, làm các điều phước thiện mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở là do đời trước, họ tạo những nhân không tốt. Cái nhân hiền từ đời nay, qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui. Cũng như có người tuy năm nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt là vì nhân ăn chơi năm vừa rồi. Cái nhân siêng năng năm nay, sang năm họ sẽ hưởng quả sung túc. Do đó, cổ nhân có nói:

“Thiện ác đáo đầu chung hữu báo,

Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì”.

(Nghĩa là: Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi).



Thanked by 1 Member:

#22 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/05/2012 - 07:19

2. Có người hỏi: Người đã có phước mới được giàu sang, vậy tại sao trong số người giàu sang ấy vẫn có người ngu si, chết yểu, hoặc đui, điếc, ngọng, lịu... Trái lại, người vô phước mới nghèo nàn, vậy sao trong số những người này, vẫn có người thông minh, đẹp đẽ, trường thọ...

Đáp: Người đời nay giàu có là trước tạo nhân giàu có, nhưng họ chỉ tạo nhân giàu có mà không tạo các nhân khác như trường thọ, trí tuệ... nên đời nay họ chỉ giàu mà thôi, chứ không sống lâu, không thông minh...Trái lại, có người kiếp trước chỉ tạo nhơn trường thọ, trí tuệ mà không tạo nhân giàu có, nên kiếp này được hưởng quả trường thọ và trí tuệ mà không hưởng được quả giàu có. Nhân nào mình có tạo mới có quả ấy, còn nhân nào mình không tạo thì làm sao có quả được? Nên trong kinh nhân quả có nói: Nhân quả báo ứng như ảnh tùy hình” (nhân quả trả nhau, như bóng theo hình. Hình ngay thì bóng thẳng, hình vạy thì bóng cong).

3. Có người hỏi: Theo luật nhân quả thì ai làm nấy chịu, cha làm tội con không thể thay thế được; con làm tội, cha không thể thay thế được. Sao thấy có những việc: cha làm con phải chịu liên can, con làm cha phải chịu ảnh hưởng?

Trả lời: Trong kinh Phật dạy nhân quả Nghiệp báo có hai thứ: biệt nghiệp và cộng nghiệp.

a. Biệt nghiệp: Là nghiệp báo riêng của mỗi chúng sinh, như mình có học nhiều thì mình biết nhiều, mình ăn thì mình no, mình siêng năng thì mình dễ thành công, mình nhác lười thì mình thất bại.

b. Cộng nghiệp: Là nghiệp báo chung cho nhiều chúng sanh cùng sống trong một hoàn cảnh. Như người Việt Nam sống trên mãnh đất chữ S này, trong giai đoạn chiến tranh Việt Pháp vừa qua, thì giàu, dù nghèo, dù trí thức, dù bình dân đều chịu ảnh hưởng chung của chiến tranh. Như sanh ở một nưóc tiền tiến thì mọi người đều được hưởng một đời sống vật chất đầy đủ hơn ở một xứ bán khai. Đã chung sanh trong một gia đình, một xứ sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải có liên can với nhau. Sách có nói: “Nhứt nhơn tác phước, vạn thọ hương” (một người làm phước, ngàn người đều được ảnh hưởng; một cây trổ hoa, muôn cây chung quanh đều được thơm lây).



IV. Có người hỏi: Đã gọi là cộng nghiệp thì tất nhiên phải chịu những nghiệp quả giống nhau, đã sinh trong một hoàn cảnh thì tất chịu chung một ảnh hưởng, mặc dù có biệt nghiệp, nhưng những biệt nghiệp ấy dù sao cũng chỉ co tính cách sai biệt tiểu tiết mà thôi (đại đồng, tiểu dị).

Vậy tại sao trong đời, thấy có những người sống chung trong một hoàn cảnh mà lại trái hẳn nhau. Thí dụ như: có người hiền lành lại sanh trong một gia đình hung ác, có người hung ác lại sanh trong gia đình hiền lương?

Trả lời: Trong đoạn phân loại về các thứ nghiệp, đã nói rằng có bốn loại nghiệp là:

- Tích lũy nghiệp,

-Tập quán nghiệp,

- Cực trọng nghiệp,

- Cận tử nghiệp.

Trong các loại nghiệp ấy, cực trọng nghiệp có tác động mạnh mẽ nhất sau khi chết.

Nếu khi sống, cá nhân nào đó tạo nhân cực trọng nghiệp về loại thiện, như triệt để áp dụng những phương pháp tu hành có hiệu quả như tứ đế, thập nhị nhân duyên ... thì sau khi chết, được hưởng kết quả tốt đẹp vô cùng.

Trái lại, như giết cha mẹ, sát hại người tu hành v.v... thì khi chết phải đọa vào địa ngục vô gián.

Nhưng cực trọng nghiệp không phải người nào cũng có: nếu không tạo nhân cực trọng, như không tu hành hay không phạm tội ngũ nghịch thì tất nhiên không có nghiệp cực trọng.

Trong trường hợp không có cực trọng nghiệp, thì cận tử nghiệp (nghiệp lực khi lâm chung) là cái nghiệp có một tác động mạnh mẽ trong vấn đề dắt dẫn đi đầu thai.

Trong nhiều trường hợp, thì cận tử nghiệp và tích lũy nghiệp, tập quán nghiệp cùng đồng một tính chất giống nhau, nghĩa là trong những đời trước và đời hiện tại có gây những việc thiện và khi lâm chung.

Cũng có những hành động hay ý nghĩ việc thiện, hay trái lại, trong nhiều đời trước và hiện tại có tạo những nhân ác, và khi lâm chung cũng làm hay nghĩ đến những việc ác.

Trong trường hợp này, thì cận tử nghiệp sẽ dắt dẫn đi đầu thai một cách tự nhiên, đến một hoàn cảnh thích hợp với cả ba thứ nghiệp là tích lũy nghiệp, tập quán và cận tử nghiệp.

Chẳng hạn như một người, trong đời quá khứ đã tạo những nhân hiền lành thì sau khi chết, đầu thai vào một gia đình cũng hiền lành, và những người ở trong gia đình ấy cũng không có trái ngược nhau.

Nhưng có một vài trường hợp mà cận tử nghiệp không đồng một tính chất với tích lũy nghiệp và tập quán nghiệp, chẳng hạn như một người trong đời quá khứ và hiện tại phần nhiều đều gieo nhân lành, đều có nhiều hành động thiện.

Nhưng khi lâm chung, vì một lý do nào đó, có những ý nghĩ, hành động bất thiện, nghĩa là tạo một cận tử nghiệp bất thiện, như tham đắm, giận dữ v.v... thì cận tử nghiệp này sẽ dắt dẫn đến một hoàn cảnh bất thiện, như sanh vào một gia đình tham đắm, hay giận dữ v.v...

Nhưng nghiệp chính của người này là thiện thì trong đời sau này, người ấy sẽ hưởng quả thiện, mặc dù sống trong gia đình ác.

Hay trái lại, tích lũy và tập quán nghiệp của người ấy là ác, nhưng khi lâm chung, người ấy biết ăn năn hối cải, tha thiết nghĩ đến điều thiện và nhờ những người chung quanh hộ niệm chú nguyện cho, nên tạo ra một cận tử nghiệp thiện.

Nghiệp này sẽ dắt dẫn đầu thai vào một gia đình thiện. Nhưng nghiệp chính của người này trong quá khứ là ác, cho nên sau ít lâu sống trong gia đình ác ấy, các nghiệp quả ác lại xuất hiện. Do đó mới có những trường hợp cha mẹ ác có con thiện, hay cha mẹ thiện có con ác.



V. Có người hỏi: Nếu có Luân hồi thì khi chết rồi, một người chỉ sanh ra một người thôi, tại sao trên thế giới này, khi mới khai thiên lập địa chưa có người, mà cứ mỗi ngày nhân loại mỗi thêm đông? Vậy do đâu mà có nhiều người thế?

Trả lời: Trong đoạn Luân hồi, chúng tôi đã nói: chúng sinh luân hồi trong trong sáu cảnh giới là: thiên, nhân, a tu la, ngạ quỉ, súc sinh, địa ngục.

Chúng sinh ở cảnh giới này có thể đầu thai qua cảnh giới khác, đắp đổi cho nhau, khi lên khi xuống, chứ không phải chỉ có người mới đầu thai làm người mà thôi.

Những loài thú có những tâm trạng giống người có thể đầu thai làm người được, cũng như những người có tâm trạng lang sói sẽ trở thành lang sói.

Hơn nữa, trong đoạn trước, chúng tôi cũng có nói rằng trong các kinh Phật dạy: thế giới trong vũ trụ này nhiều như cát sông Hằng, chứ đâu phải chỉ một quả đất này là trung tâm điểm của vũ trụ và có người?

Các nhà bác học cũng công nhận mỗi ngôi sao là một thế giới. Trong hằng hà sa số thế giới ấy, cũng có biết bao nhiêu là thế giới có hoàn cảnh giống như quả đất nhỏ bé chúng ta đang ở đây!

Thế giới đã nhiều như thế, thì nhân loại đâu phải ít? Tại sao chúng ta không thể tin được rằng thế nào cũng có sự luân chuyển, sự lưu thông, sự trao đổi về phương diện tinh thần, về cái nghiệp giữa thế giới này với thế giới khác?

Mỗi một thế giới sắp hoại thì chúng sinh ở thế giới ấy tản cư, mỗi thế giới đã thành, thì chúng sinh ở các thế giới đồng cảnh chung quanh tựu đến.

Trong kinh Địa Tạng có nói:

“Thử giới hoại thời, hoàn ký tha phương ...” (thế giới này hoại, thì gởi qua thế giới khác, thế giới khác hoại lại gởi đến thế giới khác nữa ...) Như đô thành Saigon hiện giờ đây dân số rất đông, là do người ở các tỉnh đến.

Khi giặc yên, dân chúng trở về các tỉnh thì dân số Saigon tự nhiên bớt. Dân chúng ở Đô thành nhiều hay ít là do người ở các nơi tụ đến hay tản đi. Trong thế giới hiện này nhân loại nhiều hay ít cũng như vậy.

Đứng về phương diện tổng thể mà nói, thì không có mất còn, sạch nhớp, thêm bớt, đầy vơi (bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm). Chỉ vì chúng ta có quan niệm hẹp hòi, chia cắt, khu biệt, đóng khung trong một cảnh giới nên mới thấy loài này, loài khác, thế giới này, thế giới khác hoàn toàn cách biệt nhau.

4. Có người hỏi: Người và thú vật hoàn toàn khác nhau, làm sao người có thể tái sanh thành thú vật và thú vật thành người được?

Trả lời: Người ta thường có quan niệm sai lầm rằng, người có linh hồn người, thú vật có hồn thú vật. Linh hồn người hay hồn thú, tuy người ta chưa hề thấy bao giờ, nhưng người ta tưởng tượng hễ linh hồn người thì có bóng dáng như người, hễ hồn chó, mèo thì có bóng dáng như chó mèo, và bất biến, dù chết hay sống. Vì tưởng tượng như thế nên người không thể công nhận rằng: chết rồi linh hồn người lại chui vào thân hình chó, mèo, chẳng hạn, và hồn chó mèo lại nằm lốt thân hình người.

Thật ra, nghiệp không phải là linh hồn (như đã nói ở đoạn trước) mà là một năng lực có nhuốm tính chất những hành động của mỗi chúng sinh. Vì tính chất riêng biệt ấy mà nghiệp lực nhập vào một hình thức này hay một hình thức khác do cái luật hấp dẫn “đồng sanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. “Thay vì nói người kia trở thành thú hay trái lại, thú kia trở thành người, đúng hơn nói rằng: nghiệp lực phát hiện dưới hình thể người hay dưới hình thể thú”.

Một hôm có hai người đạo sĩ: một người tên Punna tu khổ hạnh theo lối sống của loài bò, một người tên Seniya tu khổ hạnh theo lối sống của loài chó, hai người này đến hỏi đức Phật về kiếp vị lai của họ. Đức Phật trả lời: “Trong đời này, một gã kia thực hành trọn vẹn không thối chuyển những thói quen, những tâm trạng những tính cách của chó, gã ấy đã sống theo thói thường của chó, sau khi chết sẽ tái sanh trong loài chó”. Đức Phật cũng giải thích như trên rằng: kẻ nào tu khổ hạnh theo bò, cũng sẽ tái sanh trong loài bò.

Thí dụ trên chứng minh một cách hùng hồn: nghiệp lực có thể dắt dẫn đi đầu thai bất luận trong loại nào, cảnh giới nào. Không cần phải đợi đến đời vị lai, phải trải qua kiếp này đến kiếp khác, ngay chính trong tâm niệm, trong từng hoàn cảnh của cuộc đời hiện tại, con người cũng trải qua trạng thái của sáu loài: khi con người sanh lòng giận dữ chém giết, thì cảnh A tu la hiện khởi;

khi con người ung dung tự tại sống trong nhung lụa huy hoàng thì cảnh giới thiên đàng hiện khởi; khi con người sống trong cảnh chiến tranh bom đạn, trong cảnh kiềm kẹp giam cầm, tra khảo dã man, nào bị treo ngược, nào bị đổ nước sôi...thì đó là cảnh giới địa ngục. Ngay trong loài người, nếu xét về phần vật chất thì có nhiều người sống một cuộc đời đế vương sáng lạn như ở cõi thiên đàng; có người lại sống chui rúc trong hang trong hố, ăn lông ở lỗ như thú vật.

Xét về phần tinh thần, thì có người thông minh tài trí, đức hạnh như thánh nhân; có kẻ tâm địa lại tối tăm, độc ác, xấu xa như lang sói. Nếu đã tin có nghiệp lực thì hạng người nói trên tất sẽ dắt dẫn đến cõi thiên, và nghiệp lực của hạng dưới tất phải đầu thai trong loài thú vật. Chúng tôi đã giải đáp một số nghi vấn, thắc mắc thông thường trong khi đề cập đến vấn đề Nhân quả Luân hồi. Chúng tôi biết còn nhiều thắc mắc, nghi vấn khác, nhưng chúng tôi xin gác lại, vì chúng không được phổ thông và có tính cách bác học, chuyên môn như vấn đề nguyên nhân đầu tiên của nghiệp, vấn đề trách nhiệm về phương diện đạo đức, vấn đề so sánh giữa thuyết tiền định, mệnh và nghiệp báo khác nhau như thế nào...

Chúng tôi không muốn kéo dài thêm nữa, phạm vi có chừng hạn của sách loại phổ thông này. Và đến đây, chúng tôi tưởng đã đến lúc nói vài lời tạm biệt cùng quí vị độc giả thân mến.



Thanked by 1 Member:

#23 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/05/2012 - 07:25

NHƠN QUẢ NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI

Vài Lời Tạm Biệt

Thưa quí vị độc giả!

Vấn đề Nhân quả Luân hồi là một vấn đề vô cùng quan trọng, không những đối với người Phật tử mà cả đến những ai đang băn khoăn thắc mắc trước bao vấn đề mà cuộc sống đã đặt ra, như: Chúng ta từ đâu lại và sẽ đi về đâu? động lực của sự sống là gì? Ai là chủ nhân của đời mình? Tại sao có những hoàn cảnh trái ngược nhau trong xã hội? Ta có thể giải thoát khỏi cảnh giới tối tăm này để đến một cảnh giới đẹp đẽ khác không? Và nếu được, thì bằng phương tiện gì? Những vấn đề trên, mọi người đều nên biết. Nhưng một khi đã biết rồi, chúng ta không nên tự cho là đã thỏa mãn trí tò mò mà yên lòng xếp sách lại.

Cái biết suông ấy không có lợi ích thiết thực gì cho ta cả. Không biết thì phải tìm biết, khi đã biết rồi thì phải hành động đúng theo sự hiểu biết ấy. Giáo lý Nhân quả Luân hồi đem lại cho chúng ta một niềm phấn khởi mạnh mẽ vô cùng, đó là tự kiến tạo lấy đời mình. Trong bao nhiêu kiếp Luân hồi, mỗi chúng ta là tay thợ tự xây dựng lấy địa vị của mình mà không hay. Do sự mê mờ ấy, chúng ta đã làm hại đời của chúng ta bằng cách buông xuôi tay, trao gởi niềm tin vào những đấng thiêng liêng tưởng tượng, hay rên xiết, khóc than trách móc định mệnh khắc nghiệt đã trói buộc đời mình.

Giờ đây, chúng ta đã biết chính mỗi chúng ta đã tự tay trói buộc chúng ta trong cảnh sinh tử luân hồi. Chúng ta đã tự trói buộc chúng ta, thì cũng chỉ có chúng ta là có thể cởi mở cho chúng ta mà thôi. Đức Phật là đấng sáng suốt đã chỉ dạy cho chúng ta những phương pháp tự cởi trói. Vậy chúng ta còn chờ đợi gì, còn luyến tiếc gì mà không chịu bắt tay làm ngay cử chỉ mở trói ấy? Chung quanh chúng ta đã có nhiều vị thầy hướng dẫn bước đầu của chúng ta, đã có những người bạn đồng hành đang tinh tấn, hăng hái ngày đêm làm cái công việc tự cởi mở ấy, hay nói theo danh từ nhà Phật, làm công việc giải thoát ấy.

Bạn còn chờ đợi gì?

Nếu bạn đã là Phật tử, bạn hãy tinh tấn nữa lên! Nếu bạn chưa là Phật tử, bạn hãy gấp rút gia nhập vào đạo quân giải phóng hiện đang có mặt khắp năm châu, đạo quân giải phóng đang theo dấu chân Phật để diệt trừ vô minh đem lại hạnh phúc chân thật cho mình và cho người.

Xin kính chào bạn.

HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA





Thanked by 1 Member:

#24 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/05/2012 - 07:28

NHƠN QUẢ NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI

Mỗi tôn giáo đều có một giáo lý riêng, để giải thích sự sống. Giáo lý ấy có khi hoàn toàn dựa lên đức tín thuần túy, có khi dựa lên sự tưởng tượng hoang đường, có khi dựa lên lòng ước mơ tha thiết của loài nguời. Riêng về đạo Phật, giáo lý về sự sống đặt căn bản lên lý trí và thực nghiệm. Giáo lý ấy mệnh danh là Nhân quả Luân Hồi. Luật Nhân quả không xa lạ gì đối với những ai có một chút nhân xét và suy luận; luật Nhân quả lại càng rất gần gũi với giới khoa học. Nhờ tin chắc ở luật nhân quả mà nhà khoa học khám phá ra biết bao nhiêu điều huyền bí của vũ trụ và phát minh được những cái kỳ lạ cho cõi đời, nhưng nhà khoa học chỉ áp dụng luật Nhân quả trong phạm vi vật chất. Đức Phật đi xa hơn, chứng minh luật Nhân quả cả trong phạm vi tinh thần.

Nhà khoa học chỉ áp dụng luật Nhân quả trong một khoảng thời gian nhất định. Đức Phật đi xa hơn, chứng minh rằng luật Nhân quả trong suốt thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Luật nhân quả chứng minh qua thời gian vô hạn định cà trong phạm vi tinh thần ấy, đức Phật gọi bằng một cái tên riêng là “luân hồi”. Nói một cách khác, Luân hồi là Nhân quả liên tục trong phạm vi tinh thần. Đã tin Nhân quả tất nhiên không thể phủ nhận Luân hồi. Vì thế, ngày nay trên thế giới, không phải chỉ có tín đồ Phật giáo mới tin lý Nhân quả Luân hồi, mà các nhà thông thái Âu Mỹ cũng đã lãnh nạp giáo lý ấy. Trong các báo chí và sách vở ở khắp năm châu, vấn đề Nhân quả Luân hồi đã được đem ra nghiên cứu một cách đứng đắn và chân thành.

Ở Việt Nam, vấn đề này không xa lạ gì với đọc giả, nhất là đối với đọc giả Phật tử, thì lại càng quen thuộc. Tuy thế vấn đề Nhân quả Luân hồi, một vấn đề căn bản trong giáo lý nhà Phật, nói bao nhiêu cũng vẫn thấy còn bổ ích. Vì nhận thấy sự quan trọng của vấn đề này, nên Thượng tọa THIỆN HOA đã soạn lại những bài giảng của Thượng tọa, sắp đặt lại thành hệ thống trong tập sách này và lấy nhan đề chung là: “Nhân quả Luân hồi”. Đặc điểm của tập sách này là sự trình bày rất sáng sủa, phổ thông và khoa học.

Với đặc điểm trên, chúng tôi tin chắc rằng tập sác nhỏ này sẽ ổn định được tinh thần những ai đang băn khoăn, thắc mắc về vấn đề sống chết, về ý nghĩa của cuộc đời, và sẽ gây thêm lòng tin tưởng vững chắc cho hàng Phật tử và giúp họ thêm hăng hái trong việc tu hành để chóng thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi. Với lòng tin tưởng ấy, chúng tôi hân hạnh xin giới thiệu tập sách nhỏ này với toàn thể qúy vị đọc giả thân mến.

Kính.

NHÀ XUẤT BẢN HƯƠNG ĐẠO

.

Thanked by 1 Member:

#25 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 06/05/2012 - 07:35

NHƠN QUẢ NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong cõi mung lung, vô cùng vô tận của trời đất, con người thật bé nhỏ, như một hòn sỏi, như một hạt cát; trong cái vĩnh viễn không đầu không cuối của thời gian, con người xuất hiện và mất đi nhanh như ánh sáng chợt đỏ, chợt tắt của con đôm đốm, như ánh sáng của một làn chớp. Nhưng khổ thay, con người bé nhỏ và chóng tan biến ấy lại mang trong đầu óc những câu hỏi quá to lớn: “Ta từ đâu đến đây? Ta đến đây để làm gì? Đến đây rồi ta sẽ chấm dứt cuộc hành trình sau hơi thở cuối cùng ở đây, hay còn tiếp tục đi nữa? Đi đâu? Đi hay về?

Đi theo một con đường thẳng hay đường cong? Đi xuống hay đi lên?” Quá khứ đã không hay; tương lai cũng sẽ không biết, còn hiện tại thì quá ngắn ngủi phù du Và than ôi! ngay trong cái hiện tại ngắn ngủi ấy, cũng đã chứa đựng không biết bao nhiêu sự bất công, vô lý:

- Tại sao người ấy đẹp mà ta xấu? người kia giàu mà ta nghèo? người ấy sướng mà ta khổ? Tại sao có người chết yểu, có người sống lâu? có người thông minh có người ngu muội? có người hiển lương, có kẻ ác độc?

- Tại sao và tại sao!

Bao nhiêu câu hỏi xoay tít trong đầu, như những cái chong chóng, gầm thét kêu gào, đòi hỏi, làm cho người ta điên đầu, lộn não. Để chấm dứt sự hoành hành của những câu hỏi ấy, có người đã tìm cách chấm dứt đời mình với thuộc độc; có người lẫn tránh trong thuốc phiện, trong rượu nồng dê béo, trong sóng mắt làn môi...Đề cho khỏe não, có người tự bảo mọi sự mọi vật đều do ý Trời sắp đặt; có người bảo là do một mãnh lực tiền định, có người bảo là sự may rủi trớ trêu, không có nguyên do, luật lệ gì cả.

Nhưng những câu giải đáp gượng gạo trên, không làm thỏa mãn được những tâm hồn thiết tha muốn tìm hiếu sự thật: Bảo rằng do ý một vị Thần sắp đặt thì ý vị thần ấy thật mâu thuẫn, phi lý, độc tài.Xưa, đức Phật đã nói như sau đây, khi đề cập đến thần Brahma:

“Người đã chứng kiến bao sự đau khổ ở trước mắt, tại sao không làm cho chúng sanh được an vui? Nếu người ấy có nhiều thần lực, tại sao không dùng thần lực để cứu độ chúng sanh? Tại sao những con sanh của người ấy lại phải chịu lắm điều khố sở? Tại sao người ấy không ban phước lành đến cho con họ? Tại sao những xảo quyệt giả dối mê lầm vẫn tồn tại mãi mãi? Tại sao gian xảo càng ngày càng tăng tiến, còn chân lý và công bằng lại phải lu mờ? Ta xem thần Brahma như một người vô cùng bất công đối với kẻ bị sanh ra trong thế giới đầy dẫy nhơ bẩn, xấu xa này”. (Kinh Bhucidatta Jataka).

Nếu bảo rằng mọi sự vật ở đời đều do một sức mạnh tiền định, chi phối tất cả, thì thử hỏi sức mạnh ấy là sức mạnh gì? Của ai? Có sáng suốt hay mù quáng? Nếu không giải đáp được những câu hỏi phụ thuộc ấy, mà cử quyết đoán như thế, thì thật là quá nông nổi. Còn nếu bảo rằng sự hiện hữu của cõi đời này, không do một nguyên nhân gì cả, thì thật là vô cùng phi lý! vì chúng ta hãy nhìn chung quanh ta, có một cái gì sanh ra mà không có nguyên nhân không? Riêng nói về sanh mạng con người, có hai quan niệm thông thường, trái ngược nhau:

- Quan niệm chấp đoạn, cho rằng con người chỉ có một dời trong hiện tại, trong khoảng một trăm năm; đến khi nhắm mắt xuôi tay, thân thể tan ra tro bụi và kiến văn, tri giác cũng không còn gì hết. Chết là hết, là hoàn toàn mất hẳn.

- Quan niệm chấp thường, cho rằng linh hồn bất tử? sau khi chết, thân thể tan rã, nhưng linh hồn thường còn mãi mãi, sẽ lên cõi Thiên đường đề thọ hưởng vĩnh viễn những sự an vui khoái lạc (nếu trong đời hiện tại ăn ở hiên lương) hay sẽ bị đoạ xuống địa ngục chịu khổ mãi mãi (nếu trong đời hiện tại làm nhiều điều tội lỗi).

Hai quan niệm trên này đểu không đúng! Chềt là một hẳn! Sao lại mất hẳn được? Hãy nhìn chung quanh ta có cái gì mất hẳn đâu? Một hạt cát, một máy lông còn không thề mất hẳn được, huống chi con người là một sinh vật có khả năng tri giác nhất trong chúng sanh? Nhưng bảo rằng linh hồn là thường còn, ở mãi trên thiên đường hay dưới địa ngục cũng không đúng. Sự nhận xét thông thường cho chúng ta thấy rằng, trong vũ trụ, không có một cái gì có thề vĩnh viễn và ở yên một chỗ, mọi sự vật đểu biến đời và xê dịch. Vả lại có gì bất công hơn là chỉ vì những cái nhân đã gieo trong một đời hiện tại ngắn ngủi, mà phải chịu cái quả vĩnh viễn tốt hay xấu trong tương lai.

Cho nên những loại giải đáp nói trên, đều không thể đứng vững được trước ánh sáng lý luận. Những vần đề trên này, giáo lý nhà Phật đã giải đáp một cách rõ ràng, khúc chiết, mạch lạc. Những lời giải đáp này không dựa vào oai lực của thần quyền, không dựa vào những tín điểu độc đoán, cũng không dựa vào trí tưởng tượng mơ hồ, mà bằng cứ vào những nhận xét xác đáng trong hiện cảnh những cái tai nghe mắt thấy, những điều cỏ thể chứng nghiệm được.

Đức Phật bao giờ cũng dựa trên thực tế để lập luận, vì thế, mặc dù những lời dạy của Ngài đã nói ra trên hai ngàn năm trăm năm rồi, mà bây giờ vẫn còn đúng đắn và vô cùng giá trị; có đủ năng lực làm thỏa mãn sự khát khao hiểu biết của những ai băn khoăn đi tìm chân lý và ý nghĩa của cuộc đời.

Trong tập sách nhỏ này, chúng tôi không có tham vọng giải đáp tất cả những vấn đề trọng đại, hàm chứa trong những chữ “siêu hình”, “vũ trụ quan”, “nhân sinh quan”... chúng tôi chỉ xin trình bày cái kiếp sống của con người, qua thời gian và không gian, những nguyên nhân và kết quả đã tạo cho mỗi người một hoàn cảnh giống nhau hay khác nhau; đồng thời chúng tôi sẽ giải đáp một số những thắc mắc có liên quan mật thiết đến kiếp người.

Trong khi trình bày, chúng tôi sẽ giữ một thải độ hoàn toàn khách quan và nêu lên những bằng chứng cụ thể, có thể nhận xét được rõ ràng, chứ không dựa vào những tín điều độc đoán hay mượn uy lực của thần quyền đề bắt độc giả phải cúi đầu tin theo.


HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA


Hết



Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |