Jump to content

Advertisements




BIÊN NIÊN TỰ THUẬT CỦA HÒA THƯỢNG HƯ VÂN


72 replies to this topic

#16 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 27/01/2012 - 23:30

Quang Tự năm thứ hai mươi bảy, sáu mươi hai tuổi. (1901-02)

Tôi vẫn ở tại am tu thiền trong mùa xuân và hạ. Lão nhân Pháp Nhẫn từ Xìch Sơn đến đất Thiểm Tây, kết am tại núi Thúy Vi, cùng với hơn sáu mươi vị. Phân nửa trú tại chùa Hoàng Dụ. Phân nửa trú tại am tranh mới cất và chùa Hưng Thiện.

Khi đó, tướng họ Tô đang khai khẩn đất hoang ở miền bắc. Ông lấy ấp Bá Than, rộng khoảng một trăm mẫu cấp cho tăng chúng núi Thúy Vi, trồng trọt sinh sống tu hành. Người địa phương không chấp thuận. Họ bảo nơi đó là đất tổ tiên trú ngụ bao đời, không thể cắt ruộng xẻ đất cho ai. Chư tăng không khứng chịu. Thế nên, việc này phải đem ra tòa xử lý. Chư tăng thua kiện. Lão pháp sư Pháp Nhẫn rất bực tức, nên năm sau trở về Nam, và đem tất cả pháp khí, vật dụng trả lại cho thầy Thể An, Nguyệt Hà. Bốn chúng sau đó phân tán.

Mỗi lần nhớ đến chuyện rắc rối này, nhận thấy là chớ cậy chút uy quyền mà kết cuộc phải mang lấy tai họa. Từ đó, chư tăng từ miền nam lên đất bắc đều bị ít nhiều tai tiếng. Vì thế, không thể coi thường hình thể núi sông mà cho là không quan hệ đến việc tu hành.

Gần cuối năm, núi non đều đóng tuyết, hang sâu khí lạnh buốt xương. Một mình tôi đơn độc tu trì trong am tranh, thân tâm thanh tịnh. Ngày nọ, sau khi bỏ khoai vào nồi, tôi ngồi xếp bằng đợi khoai chín, tự nhiên nhập định.

Quang Tự, năm thứ hai mươi tám, sáu mươi ba tuổi. (1902-03)

Qua năm mới, tôi nhập định không biết ngày giờ. Trên núi, gần am có các thầy như Phục Thành v.v... lấy làm lạ vì sao đã lâu mà tôi chưa tới, nên đến am chúc mừng năm mới cùng tặng quà cáp. Họ thấy ngoài am đầy dấu chân hổ, mà chẳng thấy dấu chân người. Họ đi vào, nhìn kỹ, thấy tôi đang nhập định, liền đánh khánh khiến xả định.

Các thầy hỏi: "Thầy đã ăn cơm chưa?"

Tôi đáp: "Thưa chưa! Khoai vẫn còn trong nồi, chắc đã chín rồi."

Mở nắp nồi ra, thấy mốc đầy cả tấc, nước đóng cứng như đá. Thầy Phục Thành chúc mừng nói: "Nhất định là thầy đã nhập định hơn nữa tháng rồi!"

Sau đó, họ cùng tôi đun tuyết, nấu khoai. Ắn khoai xong họ liền từ giã. Vài ngày kế, sau khi thầy Phục Thành rời am, chư tăng kẻ tục xa gần đến thăm. Chán việc khách chủ đối đáp, tôi lặng lẽ mang hành lý bỏ đi trong đêm tối, hướng về muôn dặm nơi không có một tấc cỏ.

Đầu tiên, tôi đến núi Thái Bạch, ẩn cư trong hang sâu núi thẳm. Chẳng bao lâu, thầy Giới Trần theo vết chân tôi mà tìm đến. Thầy muốn cùng tôi đi xa, mục tiêu là núi Nga Mi. Chúng tôi vượt khẩu Bảo ấp, đến núi Tử Bá, qua Diệu Đài Tử, đến miếu Trương Lương, tới huyện Chiêu Hóa, xem cây bách Trương Phi, đến Thành Đô, tạm dừng chân tại một ngôi chùa nhỏ. Sau đó, chúng tôi từ Gia Định đi thẳng đến núi Nga Mi, leo lên Kim Đảnh, ngắm xem ánh sáng chư Phật.

Những ánh sáng này cùng với Phật quang tại núi Kê Túc không khác. Tối lại ngắm xem muôn chùm ánh sáng bay lên bay xuống trên đảnh núi. Những chùm ánh sáng này cũng giống như bao chùm ánh sáng và đèn trí huệ tại núi Ngũ Đài.

Chúng tôi đến điện Tích Ngõa lễ lão hòa thượng Chân Ứng, tuổi ngoài bảy mươi, là vị lãnh tụ của toàn núi, cũng là bậc thiện tri thức trong tông môn. Ngài vui vẻ giữ chân chúng tôi lại vài ngày.

Xuống núi, chúng tôi đi quanh hồ Dật Tượng, đến chùa Đại Nga, mộ Trưởng Lão, điện Tỳ Lô, huyện Nga Mi, huyện Hạp Giang, rồi qua Ngân Thôn.

Tới sông Lưu Sa, gặp lúc nước lớn, chúng tôi phải đợi đò từ sáng đến trưa. Sau khi mọi người đều lên đò, tôi bảo Giới Trần mang hành lý lên trước. Còn tôi, vừa định lên thì dây neo bị đứt, nhưng kịp bám được mạn đò bằng tay phải. Đò nhỏ mà người đông, nếu nghiêng qua lắc lại chút ít thì cũng đủ bị lật. Thế nên, tôi không động đậy, thân chìm dưới nước, cố bám mạn đò.

Chiều đến, đò vừa tấp vào bến thì người trên đò kéo tôi lên. Y phục cùng hai bàn chân đều bị đá lớn đá nhỏ cắt đứt. Trời lạnh mưa tuôn, chúng tôi đi đến ải Sái Kinh. Các quán trọ đều không cho tăng nhân trú ngụ. Chúng tôi lại đi ra ngoài, đến một ngôi chùa chỉ có một tăng trụ trì. Chúng tôi xin tạm trú qua đêm cả ba lần mà thầy kia chẳng cho, lại bảo ra ngoài trước cổng chùa tạm trú dưới bục thềm. Đất ướt, y ướt, nên chúng tôi lấy tiền nhờ thầy kia mua rơm khô để đốt sưởi. Thầy kéo đến hai bó rơm ướt, chẳng đốt được. Chúng tôi chỉ nhẫn nhục lãnh thọ, ngồi dưới đất ướt, kham chịu khí trời lạnh buốt qua đêm. Ngày kế, chúng tôi mua trái cây khô ăn lót lòng rồi tiếp tục tiến bước.

Chúng tôi qua núi Hỏa Nhiên, đến Kiến Xương, phủ Ninh Viễn, tới châu Hội Lý, vào biên giới tỉnh Vân Nam; ghé huyện Vĩnh Bắc, lễ thánh tích Bồ Tát Quán Ấm; vượt sông Kim Sa, thẳng đến núi Kê Túc, ngủ đêm dưới gốc cây, lại nghe trong cửa đá có tiếng chuông mõ vang lên.

Ngày kế, lên Kim Đảnh dâng hương lễ bái các chùa. Nghiệm lại đạo tràng Phật Tổ hiện tại suy đồi hoang phế, quy củ của tăng chúng toàn trấn đọa lạc thậm tệ, tôi phát nguyện kết am ở lại núi để tiếp đãi khách hành hương lên núi lễ bái, nhưng con cháu trong các chùa chẳng cho phép.

Tâm tư buồn bã, rơi lệ, tôi xuống núi, đến phủ Côn Minh, được cư sĩ hộ pháp Sầm Khoan Từ lưu giữ lại chùa Phúc Hưng.

Tôi bế quan nhập thất. Giới Trần làm hộ pháp. Tôi ở trong thất qua năm.


Thanked by 1 Member:

#17 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 27/01/2012 - 23:46

Quang Tự năm thứ hai mươi chín, sáu mươi bốn tuổi. (1903-04)

Trong khi nhập thất, một vị tăng từ chùa Ngưỡng Dương đến, nói rằng chùa có phóng sanh một con gà trống nặng vài cân. Gà nầy rất dữ tợn. Những con gà khác đều bị nó đá có thương tích. Tôi liền thuyết giới và dạy nó niệm Phật. Chẳng bao lâu, nó không còn cắn đá những con gà khác và ăn bọ trùng nữa. Một mình nó bay lên cây cao, chỉ ăn thực phẩm khi được cho. Lâu sau, những khi nghe tiếng chuông khánh thì nó liền đi theo sau đại chúng lên chánh điện tụng kinh. Khi được dạy niệm Phật, nói liền gáy tiếng như: "Phật, Phật, Phật..."

Hai năm sau, ngày nọ, khi làm lễ công phu chiều xong, nó ngưỡng cổ lên, xòe đôi cánh và vỗ ba lần giống như niệm Phật, rồi đứng thẳng mà chết. Trải qua vài ngày mà thân sắc của nó vẫn không biến đổi. Sau đó, chư tăng để nó vào một thùng kín và hỏa táng.

Quang Tự năm thứ ba mươi, sáu mươi lăm tuổi. (1904-05)

Mùa xuân, chư hộ pháp cùng hòa thượng Khế Mẫn đến khẩn thỉnh tôi ra thất để đến chùa Quy Hóa giảng kinh Viên Giác và kinh Bốn Mươi Hai Chương. Người quy y Tam Bảo tại chùa hơn cả ba ngàn người. Mùa thu, thượng nhân Mộng Phật thỉnh tôi đến chùa Cung Trúc giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tại chùa, tôi hướng dẫn khắc bản gỗ kinh Thủ Lăng Nghiêm cùng các bài thi kệ của đại sư Hàn Sơn. Những bản gỗ khắc nầy được tồn trử tại chùa. Tôi cũng được cung thỉnh truyền giới. Phật sự xong, đề đốc Trương Tùng Lâm, tướng Lý Phúc Hưng cùng quan thân sĩ thứ cung thỉnh tôi đến phủ Đại Lý giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Sùng Thánh, Tam Tháp. Người quy y Tam Bảo cả vài ngàn người.

Đề đốc Lý Phúc Hưng muốn giữ tôi lại. Tôi đáp: "Tôi không thích trú tại thành phố. Xưa kia, muốn kết am tại núi Kê Túc nhưng con cháu các chùa trên núi không cho. Nay chư vị là hộ pháp, vậy hãy cho tôi một khoảnh đất; nguyện cất am tiếp chúng, cùng cứu vãn tăng chúng toàn trấn, khôi phục đạo tràng của tổ Ca Diếp. Đó là sở nguyện của lão tăng này vậy."

Chư vị hộ pháp đều trả lời là được. Họ lại bảo quan Tri Huyện huyện Tân Châu trợ giúp. Trên núi, tôi tìm được một am thất hư tàn, tên là Bồn Vu, để tạm trú. Trong am không có phòng xá, không lương thực, nhưng tôi vẫn tiếp lễ bốn chúng từ mười phương đến.

Am Bồn Vu được lập từ đời Gia Khánh, nhà Thanh 1796-1820, vốn không có tăng trụ trì vì bên ngoài cửa chùa có một tảng đá, Bạch Hổ. Tôi muốn xây hồ phóng sanh nơi đây, nên thuê người dời tảng đá đó. Đào đất chung quanh tảng đá, nhưng không thấy chân đá.

Tảng đá cao chín thước bốn tấc, rộng bảy thước sáu tấc. Đỉnh đá bằng phẳng, có thể ngồi thiền trên đó. Thuê hơn một trăm công nhân để dời tảng đá đó ra xa hai trăm tám mươi thước. Công nhân gắng sức cả ba ngày mà tảng đá vẫn không động đậy.

Sau khi tất cả công nhân bó tay bỏ về, tôi tụng đọc kinh chú, cầu nguyện chư thần hộ pháp Già Lam Thánh chúng gia hộ, rồi hướng dẫn hơn mười vị tăng, di chuyển được tảng đá đó qua bên phải cửa chùa. Người đến xem phải kinh ngạc, biết là nhờ thần lực của chư thần hộ pháp gia hộ. Nhân việc lành này, có người đề khắc lên tảng đá: "Vân Di Thạch", tức là tảng đá được di chuyển bởi lão tăng Hư Vân. Quan thân sĩ thứ cũng đề thơ lên tảng đá đó rất nhiều.

Vì muốn trùng tu mái chùa để tiếp hầu tăng tục mười phương, nên tôi phải gấp rút đi quyên góp tịnh tài. Tôi giữ thầy Giới Trần ở lại làm Lương Lý nội vụ, rồi một mình đi thẳng qua Đằng Xung. Từ Hạ Quan đến Vĩnh Xương, qua Hòa Mộc. Cả hơn trăm dặm, đường xá thật rất khó đi. Quan dân xưa nay chưa từng sửa chữa.

Tôi nghe người dân địa phương nói: "Có một vị tăng ở tỉnh ngoài đến, tự phát tâm khổ hạnh sửa sang đường xá. Không đi quyên góp, chỉ nhận thức ăn cúng dường của khách qua đường. Như thế đã bao thập niên rồi mà chưa từng thối chuyển. Đường lộ đã được Ngài sửa chữa khoảng chín mươi phần trăm. Người Bố Phiêu nơi đây cảm kích ân đức, muốn sửa lại chùa Khổng Tước Minh Vương lại cho Ngài ở, nhưng Ngài từ chối và cứ tiếp tục sửa đường."

Tôi nghe điều kỳ lạ này, liền đi thẳng đến tìm Ngài. Hoàng hôn vừa xuống, tôi gặp Ngài trên đường, đang mang cuốc xẻng và giỏ rơm, chuẩn bị trở về. Tôi đến trước mặt định hỏi, nhưng Ngài trương mắt nhìn thẳng mà không đáp lời. Tôi cũng không để ý, chỉ cùng theo Ngài đi thẳng về chùa. Ngài bỏ dụng cụ xuống xong, liền đến ngồi trên tấm bồ đoàn mà tọa thiền. Tôi cúi mình đảnh lễ. Ngài chẳng thèm nhìn hay nói năng gì.

Tôi cũng ngồi thiền đối diện trước mặt Ngài. Sáng hôm sau, Ngài nấu cơm, tôi thổi lửa. Khi cơm chín, Ngài chẳng thèm kêu mời. Tôi cũng vẫn lấy chén xúc cơm ăn. Ắn xong, Ngài cầm cuốc, tôi mang giỏ, cùng nhau ra đường liệng đá đào đất, trải cát. Cùng làm và nghỉ ngơi như thế cả hơn mười ngày mà chưa từng nói năng một lời nào. Tối nọ, trăng sáng như ban ngày, tôi ngồi thiền trên một tảng đá ngoài sân chùa cho đến khuya. Ngài từ trong chùa bước đến sau lưng tôi mà hô tiếng lớn: "Thầy đang làm gì đây?"

Tôi từ từ mở mắt ra và trả lời: "Thưa, tôi đang ngắm trăng."

Ngài hỏi: "Trăng ở đâu?"

Tôi đáp: "Vừng trăng sáng tuyệt đẹp."

Ngài đáp lại:

"Giữa bao giả huyễn, khó biết chân thật

Chớ nhận cầu vồng làm ánh sáng."

Tôi đáp:

"Xưa nay ánh sáng bao trùm muôn vật

Chẳng bị âm dương tuyệt cách ngăn."

Ngài cười to và nói:

"Thôi, trời đã khuya rồi. Chúng ta hãy vào trong nghỉ ngơi."


Thanked by 1 Member:

#18 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 28/01/2012 - 00:07

Hôm sau, Ngài vui mừng bắt đầu tiếp chuyện, cho biết là người Hồ Hương Phiêu tỉnh Hồ Nam, tên là Thiền Tu, xuất gia từ thuở nhỏ. Năm hai mươi bốn tuổi, tại thiền đường chùa Kim Sơn Ngài đã mang tâm về nơi an trú (tâm không còn vọng động). Sau đó, Ngài đi lễ bái các núi trong nước, cho đến cả Tây Tạng, Miến Điện. Từ Miến Điện trở về nước, trên lộ trình thấy đường xá ở đây gập ghềnh khúc khuỷu, người ngựa đi đứng khó khăn, khởi tâm thương xót. Lại nhân cảm đức hạnh xưa của Bồ Tát Trì Địa, nên Ngài phát nguyện một mình ở lại đây để sửa sang đường xá, đã qua bao thập niên. Hiện thời, tuổi ngoài tám mươi ba, chưa từng có tri kỷ, nay được gặp người hữu duyên, thật là vui vẻ.

Tôi cũng thuật lại nhân duyên xuất gia của mình. Ngày kế, sau khi ăn sáng xong, chúng tôi trò chuyện rất vui vẻ, rồi lại chia tay. Tôi đi Đằng Xung để quyên góp tịnh tài. Vừa ghé ngang hội quán Hồ Nam, chưa kịp đặt hành lý xuống để nghỉ ngơi, bỗng đâu có một nhóm người trẻ tuổi đang mặc áo tang đi đến trước tôi, dập đầu lễ bái và thưa: "Chúng con xin cung thỉnh Hòa Thượng đến nhà để tụng kinh!"

Tôi đáp: "Tôi không phải là ông thầy tụng kinh đám!"

Họ thưa: "Xin Hòa Thượng vì chúng con mà tụng kinh."

Tôi đáp: "Chẳng lẽ, chư vị không biết có thầy nào trong vùng này thường đi tụng kinh đám sao?"

Người chủ hội quán liền thay mặt họ mà trần thuật sự việc như sau: "Xin thỉnh Đại Sư đi tụng kinh cho nhà họ, vì việc này xảy ra rất lạ lùng, hiếm có. Những người này là con cháu của quan Thái Sử họ Ngô. Lúc Thái Sử còn sống, ông tu trì rất cẩn mật, được người địa phương xưng là vị Thiện Nhân. Lão thái bá họ Ngô, tuổi thọ hơn tám mươi, con cháu được vài mươi người, mà trong đó có vài vị là bậc khoa bảng, tiến sĩ. Trước ngày mất, Thái Sử họ Ngô tự nói mình là tăng nhân, nên trong di chúc có nói là phải được tẩm liệm với y phục của người xuất gia, không cho gia quyến khóc lóc, giết hại loài vật, hay mời thầy cúng đến tụng kinh, và bảo rằng mai đây sẽ có một vị cao tăng đến tụng kinh siêu độ cho ông. Sau đó, ông ngồi xếp bằng mà mất. Qua vài ngày, nét mặt vẫn còn tươi tỉnh như lúc còn sống. Nay Đại Sư đến, có phải đây là duyên pháp chăng?"

Nghe xong, tôi nhận lời đến nhà họ tụng kinh siêu độ cùng phóng sanh, bố thí, trong bảy ngày. Các quan dân sĩ thứ trong xã ấp đều vui mừng hoan hỉ. Người thọ giới quy y hơn cả ngàn người. Quan thân sĩ thứ muốn giữ tôi ở lại Đằng Xung. Tôi đáp: "Tôi muốn tu sửa lại núi Kê Túc mới đến đây hóa duyên, nên không thể ở lại được."

Nghe thế, mọi người đều vui vẻ đóng góp cúng dường rất thâm hậu. Tôi mang số tiền này trở về núi Kê Túc, xây dựng phòng xá, thiền đường, giảng đường, cùng chấn chỉnh luật nghi, lập ra quy củ, ban truyền giới pháp. Năm ấy, bốn chúng đến cầu thọ giới hơn bảy trăm vị. Những chùa chiền trên núi cũng thay đổi theo quy củ từ từ. Họ mặc tăng y, cạo râu tóc, ăn chay trở lại.

(Đại sự trong năm: Nhật-Nga tuyên chiến. Trung Quốc tuyên bố trung lập.)

Quang Tự năm ba mươi mốt, sáu mươi sáu tuổi. (1905-06)

Mùa xuân, lão hòa thượng Bảo Lâm tại chùa Thạch Chung thỉnh tôi đến chùa truyền giới. Cầu giới có hơn tám trăm người. Phật sự xong, tôi qua Nam Dương hoằng pháp. Giới Trần bế quan nhập thất tại am Bồn Vu. Khi đến chùa Thái Bình tại Nam Điện, tỉnh Vân Nam, tôi giảng kinh A Di Đà. Giảng xong, vài trăm người thọ giới quy y.

Sau đó, theo những vách núi cheo leo, Thiên Nhai, tôi vượt qua núi Dã Nhân, đến Tân Nhai, Ngõa Thành. Vì vùng núi Dã Nhân là nơi thâm sơn chướng độc, nên tôi bị cảm bệnh rất nặng. Tôi trú trong những chòi lá ven đường. Thân thể ngày đêm nóng rực. Tuy bịnh nặng, tôi vẫn cố gượng đi đến chùa Quán Ấm tại Liễu Động. Trong chùa có một thầy người Hoa, tên là Định Như. Tôi lễ bái, nhưng thầy chẳng thèm nhìn. Tôi lên chánh điện tọa thiền. Đến tối, trên chánh điện, lúc thầy đánh khánh, tôi giúp đánh chuông trống. Sau khi đọc văn sám hối, thầy xướng: "Giết, giết, giết", rồi lạy ba lạy.

Hôm sau, lên chánh điện, tụng kinh xong, thầy cũng xuớng lên chữ giết và lạy ba lần như trưóc. Tôi lấy làm lạ nên cố nán lại để quan sát thêm. Thức ăn của thầy vào buổi sáng trưa chiều tối đều có hành tỏi. Tôi không ăn, cũng không nói lời nào, chỉ uống nước. Thầy biết lý do vì sao tôi không ăn cơm nên bảo người trong chùa nấu thức ăn nhưng không bỏ hành tỏi. Khi ấy, tôi mới ăn được. Đến ngày thứ bảy, thầy mời tôi uống trà. Tôi liền hỏi việc thầy xướng lên ba câu giết rồi lạy ba lạy là nghĩa gì.

Thầy đáp: "Giết những con quỷ da trắng! Quê quán tôi tại Bảo Khánh, tỉnh Hồ Nam. Cha là quan võ tại thị trấn đó, nhưng đã qua đời. Vì vậy, tôi đi tu, thọ pháp tại núi Phổ Đà, theo hòa thượng Trúc Thiền học đạo. Hơn mười năm trước, lúc từ Hồng Kông trở về Tinh Châu, tôi bị người da trắng ngược đãi trên tàu, không thể nhẫn nhịn được, thực hận đến chết chẳng nguôi. Nay, tôi vẽ tranh nơi đây, có rất nhiều người thích đến mua, nên sinh sống không sợ thiếu thốn. Cả hơn mười năm, tăng nhân đi ngang qua đây, thường làm bộ làm dạng, tánh khí kỳ quái, không ai được như Ngài, viên dung vô ngại, nên nay mới nói ra những lời thành thật."

Tôi khuyên thầy ấy rằng nên xem oán thân đều bình đẳng, nhưng uất khí của thầy vẫn chưa tiêu nổi.

Bịnh của tôi từ từ giảm bớt nên liền cáo từ, nhưng thầy cố giữ tôi ở lại. Tôi kể lại việc đi quyên tịnh tài để xây chùa. Thầy liền cúng dường tiền lộ phí, lương thực, mua vé xe lửa cùng đánh điện tín qua Ngưỡng Quang, báo tin cho cư sĩ Cao Vạn Bang biết trước để ông ta ra ga xe lửa đón tôi. Sau đó, tôi ân cần cáo biệt. Tôi đến Ngưỡng Quang; toàn gia đình họ Cao cùng Tánh Nguyên, giám viện chùa Long Tuyền ra đón tiếp. Tôi ở lại nhà cư sĩ họ Cao, được tiếp đãi ân cần.

Cư sĩ nói: "Lão hòa thượng Diệu Liên tuy biết Ngài tu khổ hạnh, nhưng những thập niên qua chưa từng nghe tin tức. Nay nghe Ngài đến, lão Hòa Thượng thật rất vui mừng. Vừa rồi có gởi thư đến bảo rằng lão Hòa Thượng sẽ về lại Đường Sơn để trùng tu chùa Qui Sơn tại Ninh Đức."

Vài ngày sau, tôi đi thăm tháp Đại Kim ở Ngưỡng Quang (Miến Điện). Tham quan các thánh cảnh xong, tôi liền cáo từ, vội trở về nước vì e sợ lão hòa thượng Diệu Liên đang đợi chờ. Cư sĩ họ Cao đưa tôi ra ga xe lửa và đánh điện tín về chùa Cực Lạc tại đảo Tân Lang để ra đón tôi.



Thanked by 1 Member:

#19 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/02/2012 - 09:27

Khi vừa đến bến, vì trên tàu có người chết do bịnh dịch hạch, nên một lá cờ màu vàng "Đả Hạn" được trương lên. Những người trên tàu đều bị khám nghiệm trên một vùng đồi núi rộng rãi. Hơn ngàn người ở tạm lại trên núi, nhưng không có lều vải chi hết. Ban ngày, bị mặt trời thiêu đốt cháy da. Ban đêm, mưa gió lạnh buốt. Khẩu phần thực phẩm của mỗi người trong một ngày chỉ có một nhúm gạo và hai củ cà rốt. Tất cả phải tự nấu ăn lấy.

Bác sĩ đến khám bịnh hai lần một ngày. Đến ngày thứ bảy, khoảng phân nửa số người ở đó được rời núi. Ngày thứ mười, hầu hết mọi người đều rời đảo, duy chỉ còn một mình tôi. Khi ấy, tâm tôi thật khó kiên nhẫn, lại thêm thống khổ vì bịnh tình ngày một gia tăng.

Từ từ, tôi không thể ăn gì được. Ngày mười tám, bác sĩ đến, bảo phải khiêng tôi qua một tịnh thất, nơi không ai ở. Tôi vui lên phần nào. Có một ông lão giữ cửa, khi hỏi qua được biết ông là người Tuyền Châu. Ông lão than thở: "Căn phòng này chỉ dành cho những người bịnh sắp chết nằm. Sau khi chết, sẽ bị giải phẩu!"

Tôi nói rõ là muốn đến thăm chùa Cực Lạc. Ông lão cảm động, nói: "Tôi sẽ lấy thuốc cho Ngài uống."

Ông lão liền lấy một đơn thuốc cho tôi uống trong hai ngày. Bịnh tình thuyên giảm đôi chút. Ông lão lại nói: "Khi bác sĩ đến, tôi ở bên ngoài phòng, ho lên làm hiệu. Lúc ấy, Ngài nên ngồi dậy, phấn chấn tinh thần. Nếu bác sĩ cho thuốc thì chớ có uống."

Lát sau, quả nhiên bác sĩ đến, đưa thuốc bảo tôi phải uống. Vì không thể cưỡng lại được nên tôi đành phải uống. Bác sĩ vừa đi khỏi thì ông lão đến và hỏi rằng tôi có uống thuốc không. Tôi đáp là đã uống rồi. Ông lão kinh sợ và nói: "Thôi rồi! Ngài chắc khó sống. Ngày mai bác sĩ sẽ đến để mổ thân Ngài. Tôi sẽ cho Ngài uống thêm một đơn thuốc nữa. Chỉ cầu mong Phật Tổ cứu sống Ngài."

Hôm sau, ông lão đến thăm, thấy tôi đang ngồi dưới đất. Tuy mắt mở to nhưng tôi chẳng thấy gì. Ông lão đỡ tôi dậy, thấy máu chảy đầy mặt đất. Ông cho uống thêm một đơn thuốc, gấp rút giúp tôi thay quần áo, cùng lau chùi sàn nhà sạch sẽ, rồi lại than: "Nếu là người khác, sau khi uống thuốc của bác sĩ cho vào ngày hôm qua, chắc đã bị mổ trước khi trút hơi thở cuối cùng rồi. Số mạng Ngài chưa hết, chắc chắn là do chư Phật gia hộ. Lúc chín giờ, bác sĩ sẽ đến nữa. Khi ấy, tôi sẽ ho lên để làm hiệu. Nghe tiếng ho, Ngài nên cố ngồi dậy, phấn chấn tinh thần."

Khi bác sĩ đến, thấy tôi vẫn còn sống. Ông chỉ ngón tay về hướng tôi rồi cười và bỏ đi. Khi hỏi tại sao bác sĩ lại cười, ông lão đáp là mạng sống tôi chưa dứt. Tôi bảo ông lão là cư sĩ họ Cao có cúng dường tôi một ít tiền. Vậy hãy giúp tôi lấy số tiền này mà tặng cho bác sĩ, để xin ông ta thả tôi ra. Sau đó, tôi liền lấy ra bốn mươi ngàn đồng nhờ đưa cho bác sĩ và hai mươi ngàn đồng để tặng riêng như một món quà để đáp đền những gì ông lão đã giúp đỡ. Ông lão nói: "Tôi không thể lấy tiền của Ngài được. Hôm nay, sẽ có bác sĩ người tây phương đến nên không thể thương lượng. Ngày mai, bác sĩ sẽ là người Cát Lãnh. Lúc đó mới có thể bàn chuyện được."

Chiều hôm đó, ông lão đến và bảo: "Tôi đã nói chuyện với bác sĩ người Cát Lãnh và đã đưa cho ông ta hai mươi ngàn đồng rồi. Ngày mai, Ngài sẽ được thả ra."

Nghe thế, tôi rất an tâm, liền cảm tạ ông lão. Ngày kế, bác sĩ đến, khám xong, liền sai người đem ghe ra đưa tôi vào đất liền. Ông lão đỡ tôi lên ghe. Lúc đến bờ thì họ mướn xe chở tôi đến chùa Quảng Phúc. Vì thấy hình dạng gầy gò quái dị, nên thầy tri khách để mặc tôi ngồi cả hai giờ. Tự dưng tâm tôi khởi niềm buồn vui lẫn lộn. Vui vì không chết dưới tay của người ngoại quốc. Buồn vì thầy tri khách không làm tròn bổn phận. Cuối cùng, một lão già bước ra. Đó là thầy thủ tọa Giác Không. Tôi tự xưng là Hư Vân, rồi cúi đầu đảnh lễ. Lạy xuống rồi nhưng không đủ sức để đứng dậy, nên thầy thủ tọa liền đỡ tôi đứng dậy và nói: "Cư sĩ họ Cao đã đánh điện tín hơn hai mươi ngày mà không biết tin tức của thầy chi hết. Lão hòa thượng Diệu Liên cùng toàn thể đại chúng đều lo lắng cho thầy. Tại sao thân thể thầy ra nông nỗi này?"

Khi ấy, tất cả tăng chúng đều ra đến đầy cả điện đường. Trong phút chốc, tôi cảm giác nắng ấm mùa xuân tràn đầy khắp gian phòng. Lát sau, lão hòa thượng Diệu Liên bước vào và nói: "Ngày ngày trông mong tin tức. Sợ con gặp hiểm nạn. Thầy muốn trở về Phước Kiến để trùng tu lại chùa Qui Sơn, nhưng nghe con sắp đến đây nên mới nán ở lại."

Tôi đáp: "Đệ tử tội nặng. Cúi xin thầy từ bi tha lỗi!"

Sau đó, tôi lược thuật lại sự tình. Lão Hòa Thượng cùng đại chúng đều kinh ngạc và vui mừng, chấp tay niệm Phật, rồi đồng trở về chùa Cực Lạc. Lão Hòa Thượng lại bảo tôi hãy nên uống thuốc. Tôi thưa: "Con đã trở về nhà, vọng niệm đều dứt sạch, nghỉ ngơi vài ngày thì bịnh chắc sẽ khỏi."

Sau nầy, lão Hòa Thượng thấy tôi mỗi lần ngồi thiền suốt cả vài ngày nên răn dạy: "Khí hậu ở Nam Dương nóng nực, không như ở trong nước, ngồi thiền lâu e sợ hại đến thân."

Tuy nhiên, tôi không cảm thấy như thế. Lão Hòa Thượng lại bảo tiếp: "Con nên giảng kinh Pháp Hoa ở đây để kết duyên. Thầy phải trở về nước. Sau khi giảng kinh xong, chớ vội về Vân Nam, hãy đến núi Cổ Sơn, vì thầy còn một việc muốn nói với con."

Đưa lão Hòa Thượng lên tàu xong, tôi trở về chùa khai giảng kinh. Vài trăm người thọ giới quy y với tôi. Các vị hộ pháp tại Malacca thỉnh tôi đến đình Thanh Vân giảng kinh Dược Sư. Tôi qua Kuala Lumpur, được cư sĩ Diệp Phật Hữu, Vạn Vân Phàm...thỉnh đến chùa Linh Sơn giảng kinh Lăng Già. Tại các pháp hội giảng kinh, người thọ giới quy y có đến hơn mười ngàn người.

Mùa đông, toàn thể tăng chúng tỉnh Vân Nam đánh điện tín bảo là chính phủ hiện tại đang kê khai tài sản chùa chiền. Ngài Kỳ Thiền (tức thiền sư có tám ngón tay) cũng gởi điện tín qua, mời tôi quay về nước gấp để cùng nhau bàn tính chuyện giải quyết vấn đề. Vì cuối năm, nên tôi ở lại Kuala Lumpur qua năm mới.


Thanked by 1 Member:

#20 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/02/2012 - 09:32

Quang Tự năm thứ ba mươi hai, sáu mươi bảy tuổi. 1906-07

Mùa xuân, tôi trở về nước. Khi tàu ghé Đài Loan, tôi đến tham quan chùa Linh Tuyền. Đến Nhật Bổn, tôi viếng thăm các danh lam thắng cảnh, chùa tháp. Lúc ấy, chánh phủ Trung Hoa và Nhật Bổn có sự hiềm khích nên chư tăng người Nhật không được qua Trung Quốc, còn chư tăng người Hoa ở Nhật thì lại bị dòm ngó. Vì thế ước muốn liên hợp tín đồ Phật giáo Trung-Nhật của tôi bị trì hoãn.

Tháng ba, tôi trở về nước, cùng các đại biểu hội Phật giáo trong nước và đại sư Kỳ Thiền...đồng lên Bắc Kinh dâng thư thỉnh nguyện. Khi đến Bắc Kinh, chúng tôi trú tại chùa Hiền Lương. Ty tăng lục, thầy Pháp An chùa Long Tuyền, thầy Đạo Hưng, Giác Quang chùa Quán Âm...đồng đến tiếp đón chúng tôi. Túc Thân Vương Thiện Kỳ thỉnh tôi thuyết giới pháp cho vợ ông. Các vương công đại quan, thân hữu quen biết tôi vào thời hộ giá chạy loạn cũng đến viếng thăm. Khi bàn cách thức dâng chiếu thỉnh nguyện thì chúng tôi được các vị hộ pháp trợ giúp rất nhiều. Thế nên, mọi việc đều thuận lợi. Sau khi dâng chiếu thỉnh nguyện xong, Hoàng Đế liền ra sắc dụ như sau:

"Quang Tự năm thứ ba mươi hai. Trong sự quyên góp, xưa đã ban dụ chỉ, không cho phép các vị quan to ỷ quyền thế, hà hiếp quấy nhiễu dân nghèo. Nhưng gần đây, nghe các vị Biện Lý ở các tỉnh, đang hà hiếp quấy nhiễu dân lành, thậm chí còn đi ra ngoài, đến các chùa chiền quyên góp nữa. Những việc như thế, không thể chấp nhận được. Nay ra chiếu chỉ cho các tỉnh phủ, phàm có các chùa viện lớn nhỏ cùng tất cả tài sản của tăng chúng đều phải do các quan địa phương bảo hộ, không được điêu ngoa đố kỵ chiếm lấy, tạo nên mầm mống nhiễu loạn. Chính quyền địa phương, không được thâu góp quyên tổn tài sản tăng chúng, phải giữ lễ đoan chánh. Khâm Thử."

Sau khi chiếu dụ ban ra, sự niêm phong tài sản tự viện ở các tỉnh liền chấm dứt. Tại Bắc Kinh, tôi nói với các vị hộ pháp rằng bắt đầu từ triều Thanh, tỉnh Vân Nam chưa từng được ban Đại Tạng kinh. Nay, tôi muốn dâng chiếu thỉnh toàn bộ Đại Tạng Kinh, để cho vùng biên địa được thấm nhuần mưa pháp. Được sự bảo hộ của Túc Thân Vương, Thiện Kỳ, chiếu thỉnh nghị do đại quan tổng quản nội vụ dâng lên như sau:

"Theo lời của Ngài tăng lục, đại sư Pháp An, thì tỉnh Vân Nam, phủ Đại Lý, huyện Tân Châu, núi Kê Túc, am Bồn Vu, chùa Ngưỡng Dương, phương trượng trụ trì tăng nhân hiệu Hư Vân trình xưng rằng chùa vốn là đạo tràng thắng hội của tổ Ma Ha Ca Diếp, thuộc hàng danh lam thắng cảnh, và là ngôi phạm sát cổ xưa trong nước, nhưng lại thiếu Đại Tạng kinh. Nay, cầu thỉnh Đại Tạng kinh, hầu mong vĩnh viễn cung kính phụng thờ, sùng hưng Phật pháp. Chiếu thỉnh cầu này do quan thượng thư chánh bộ Túc Thân Vương, đại sư Trừng Hải trụ trì chùa Bách Lâm, đại sư Đạo Hưng trụ trì chùa Long Hưng...cùng dâng biểu. Nếu như được chấp thuận, xin quan nha môn truyền bảo ty tăng lục lo việc ban chuyển Đại Tạng kinh, phụng theo thỉnh dụ trên đây. Thỉnh chỉ."

Ngày sáu tháng sáu, Quang Tự năm thứ ba mươi ba, dụ được phê chuẩn như sau:

"Thượng dụ, tỉnh Vân Nam núi Kê Túc, am Bồn Vu, chùa Ngưỡng Dương, được ban tặng, đổi hiệu là Hộ Quốc Chúc Thánh thiền tự, lại ban cho một bộ Đại Tạng kinh, tăng y màu vàng tím, bát cụ, cùng ngọc ấn Hoàng Đế và tích trượng Như Ý cho đại sư phương trượng, vì có công hộ giá Hoàng Đế lúc tao loạn. Lại ban hiệu cho đại sư trụ trì, Hư Vân là đại sư Phật Từ Hồng Pháp, phụng chỉ trở về núi truyền giới, hộ trì quốc gia, làm việc hữu ích cho nhân dân. Đại quan nội vụ nên báo cho đại sư Hư Vân, đem các vật trên, trở về núi, vĩnh chấn sơn môn, vì việc thiện mà ban bố giáo lý Phật Đà. Quan dân địa phương, tất cả phải phụng chỉ, nhớ rõ mà hộ trì Phật pháp, chớ có khinh thường. Khâm Chỉ. Quang Tự tháng bảy, năm thứ ba mươi hai."

Việc thỉnh Đại Tạng kinh như thế đã tạm yên. Ngày hai mươi tháng sáu, tôi nhận được thư của lão hòa thượng Diệu Liên, viết: "Lúc khởi hành thỉnh Đại Tạng kinh về Vân Nam, trước tiên con hãy đến cửa ải Hạ Môn, đi Nam Dương, rồi từ đó vào đất Vân Nam. Tại Hạ Môn, con nên lưu lại, trở về Cổ Sơn gặp thầy gấp."

Sau đó, tôi chuẩn bị vận chuyển Đại Tạng kinh đi về Nam. Chư vị hộ pháp ở Bắc Kinh trợ giúp rất nhiều. Gần cuối năm, nên tôi ở lại Bắc Kinh qua năm mới.


Thanked by 1 Member:

#21 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/02/2012 - 09:36

Quang Tự năm thứ ba mươi ba, sáu mươi tám tuổi. 1907-08

Tháng giêng, tôi vận chuyển Đại Tạng kinh rời Bắc Kinh. Đầu tiên, đến Thượng Hải và Hạ Môn. Trên đường đi, nhờ sự giúp đỡ của hai thầy Văn Chất tại núi Phật Đảnh và Chuyển Đạo tại cung Dưỡng Chân rất nhiều. Khi đến Hạ Môn, tôi nhận được điện tín cấp báo từ Cổ Sơn gởi tới, bảo rằng lão hòa thượng Diệu Liên tại chùa Quy Sơn đã viên tịch vào tháng giêng. Lúc ấy, chư sơn trưởng lão cùng tăng chúng ở Hạ Môn đến Cổ Sơn tham gia lễ trà tỳ của lão hòa thượng Diệu Liên.

Từ chùa Qui Sơn, linh tháp lão Hòa Thượng được dời về Hạ Viện Cổ Sơn để tiện việc lễ táng. Tôi tức tốc quay về Cổ Sơn, kiến lập Tháp Tổ cùng truyền giới U Minh...bận rộn ngày đêm. Ngày mười tháng tư, làm lễ nhập tháp. Lúc vừa xây tháp xong, trời đổ mưa to, ròng rã cả nữa tháng. Toàn thể đại chúng đều ưu buồn. Ngày mồng tám, truyền giới Bồ Tát xong, trời bắt đầu tạnh mưa. Ngày mồng chín, trời trong mây tạnh; quan dân sĩ thứ đến núi dự lễ an táng đều cảm duyên nơi đạo. Ngày mồng mười, lúc làm lễ nhập tháp, trăm bàn thức ăn chay tịnh được sắp ngoài trời để cúng lễ. Đại chúng cùng tụng kinh.

Đang cúng Ngọ, niệm đến chân ngôn biến thực, bỗng đâu một ngọn gió cuồn cuộn, thổi bay tất cả thức ăn tế phẩm lên trên trời. Từ linh cữu phóng ra một luồng hào quang màu đỏ sáng tỏ, bay thẳng vào trên đảnh tháp. Đại chúng đều vui vẻ tán thán. Lễ nhập tháp xong, toàn thể đại chúng trở về chùa thì trời đổ mưa to dầm dề. Xá Lợi của lão hòa thượng Diệu Liên được phân làm hai phần: Một phần để vào trong tháp. Một phần đem đến chùa Cực Lạc ở Nam Dương để thờ.

Lúc phụng chuyển Đại Tạng kinh cùng xá lợi của cố lão Hòa Thượng đến Penang, Mã Lai Á, đại chúng cùng chư tăng đình Quán Âm tới đón tiếp cả vài ngàn người. Đang tụng kinh, niệm đến chân ngôn biến thực thì lại một luồng gió cuồn cuộn, thổi bay hết tất cả bông hoa cúng dường. Từ nơi linh cữu phóng ra một luồng ánh sáng trắng, bay thẳng đến đỉnh tháp, cả ngoài hai dặm. Tôi làm pháp chủ hai buổi lễ nhập tháp, mắt thấy tai nghe, tường tận chứng kiến. Phật nói: "Người hành mật hạnh thật khó nghĩ bàn."

Nói về sự tu trì của lão hòa thượng Diệu Liên lúc còn sống, tôi không biết được nhiều. Lão Hòa Thượng không tu thiền hay tịnh độ, duy chỉ cất chùa lập viện, tiếp độ tăng chúng để kết duyên. Nhân duyên sau cùng khi làm lễ nhập tháp, thực rất kỳ lạ. Sau khi xuống tóc xuất gia, tôi đi chu du khắp bốn phương, đã lâu lắm rồi chưa được dịp hầu hạ Ngài. Lại cả bao thập niên, không thư từ thưa hỏi, phụ bạc ân Thầy. Nhân duyên cuối cùng với lão Hòa Thượng, là việc tôi có phước phần lo liệu lễ táng linh cữu tháp tự, cùng đặt để phân chia xá lợi. Nhớ đến việc, dặn bảo tôi lần sau cùng lúc trước, chứng tỏ Ngài biết được ngày giờ lâm chung. Thật khó mà biết đúng sự thật. Tôi chỉ lược thuật sự thật trong hiện tại, còn việc chứng minh thì để người sau tự kết luận lấy.



Thanked by 1 Member:

#22 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/02/2012 - 09:42

Kế tiếp, tôi đi tàu đến đình Quán Âm, được thỉnh giảng Tâm Kinh. Sau đó, đón tàu khác đi Xiêm La (Thái Lan). Trên tàu không có thức ăn chay. Tôi ngồi thiền suốt cả ngày. Một người Anh, đi qua chỗ tôi ngồi, ngó vài lần rồi nói: "Bạch Hòa Thượng! Ngài đi đâu vậy?"

Nghe ông ta nói tiếng Hoa, tôi đáp: "Tôi đi Vân Nam."

Lúc ấy, ông ta liền mời tôi lên phòng tàu, lấy bánh và sữa ra mời, nhưng tôi nhã nhặn từ chối.

Ông hỏi: "Bạch Hòa Thượng! Nơi Vân Nam, Ngài ở vùng nào vậy?"

Tôi đáp: "Tôi ở tại chùa Ngưỡng Dương, núi Kê Túc."

Ông nói: "Quy củ của chùa ấy rất nghiêm ngặt."

Tôi hỏi: "Ông làm việc gì ở đó?"

Ông trả lời: "Tôi là quan lãnh sự ở Côn Minh, Đằng Xung. Tôi có đến tham quan tự viện nơi đó."

Ông lại hỏi: "Bạch Hòa Thượng! Vậy Ngài đi ra nước ngoài để làm gì?"

Tôi đáp: "Trên đường vận chuyển Đại Tạng kinh trở về Vân Nam, vì thiếu tiền lộ phí, nên tôi phải đi qua Kuala Lumpur (Mã Lai Á) để hóa duyên, quyên góp tịnh tài."

Ông hỏi: "Bạch Hòa Thượng! Vậy Ngài có đem theo công văn không?"

Tôi lấy công văn chứng cứ và ngân phiếu ra cho ông ta xem. Ông liền viết một ngân phiếu ba ngàn đồng cúng dường cho tôi. Thật là một thiện duyên kỳ lạ. Sau đó, ông ta mời tôi ăn cơm chay gồm có cơm chiên với rau cải. Khi tàu cập bến tại Xiêm La, chúng tôi chia tay tạm biệt. Tôi trú tại chùa Long Tuyền, giảng kinh Địa Tạng. Trong lúc giảng kinh, ông ta đến chùa gặp tôi, cúng dường ba ngàn đồng. Để xây điện thờ Đại Tạng kinh, cần phải có một số tiền cả hơn vài ngàn đồng. Trước khi ông lãnh sụ cúng dường, tôi chỉ quyên được chút ít thôi. Sau khi giảng kinh Địa Tạng xong, tôi lại tiếp tục giảng phẩm Phổ Môn. Thính giả có đến vài trăm vị.

Ngày nọ, khi đang ngồi thiền, tôi bỗng dưng nhập định, quên rằng mình đang giảng kinh. Tôi nhập định suốt bảy ngày. Tin này lan tràn cả thủ đô Xiêm La. Từ Quốc Vương, đại quan, cho đến thiện nam tín nữ, đều đến lễ bái. Sau khi xuất định, giảng kinh xong, Quốc Vương thỉnh tôi đến hoàng cung thiết lễ cúng dường, chí thành quy y. Quan thân sĩ thứ cùng dân chúng quy y tôi cả vài ngàn người.

Sau khi xuất định, chân tôi bị tê liệt, đi đứng không nỗi. Kế đến, toàn thân tê cứng như cây khô, không thể nói năng chi được. Ăn phải nhờ người đút. Chư hộ pháp mời bác sĩ đông tây đến chữa trị, châm cứu uống thuốc, nhưng vô hiệu quả. Thậm chí, miệng không nói được lời nào, mắt không thấy chi. Các bác sĩ đều bó tay chịu thua. Tuy vậy, thân tâm tự tại, không chút đau khổ, buông xả hết mọi việc, duy chỉ còn một việc chưa yên lòng là trong áo tôi còn một ngân phiếu, không ai biết cả.

Miệng không thể nói. Tay không thể viết. Lúc nhắm mắt, thân này được hỏa táng thì ngân phiếu đó chắc cũng sẽ bị đốt luôn. Đại Tạng kinh không thể đem về Vân Nam, điện các tại núi Kê Túc không thể kiến lập. Nhân quả này bút mực nào viết cho hết được. Nghĩ đến đó, nước mắt tuôn trào, thầm lặng cầu mong tôn giả Ma Ha Ca Diếp gia hộ. Lúc ấy, có thầy Diệu Viên là pháp hữu tại núi Chung Nam thuở xưa, thấy tôi rơi lệ, miệng nhấp nháy, liền kê tai gần miệng để lắng nghe. Ra hiệu nhờ thầy đem trà cho tôi uống.

Tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Uống trà xong, thân tâm lắng trong, liền nhập mộng, thấy một lão tăng tướng mạo giống Ngài Ma Ha Ca Diếp, ngồi kế bên chỗ tôi nằm, lấy tay phải xoa đầu và bảo: "Nầy Tỳ Kheo! Y bát chớ để xa thân. Thầy đừng quá ưu sầu. Hãy lấy y bát lót đầu nằm, rồi mọi việc sẽ an lành!" Nghe xong, tôi liền đưa tay lấy y bát làm gối nằm, rồi xoay đầu lại thì không thấy tôn giả Ma Ha Ca Diếp đâu cả. Lúc đó, toàn thân đều toát mồ hôi. Thân tâm khỏe khoắn, an lạc không lời chi diễn tả. Tôi lại nói được chút ít. Nhờ thầy Diệu Viên đến trước điện Hoa Đà cầu thuốc uống, nhưng chỉ được hai vị Mộc Trát và Dạ Minh Sa. Lúc ấy, mắt tôi mở ra chút ít, nói chuyện lại được.

Lại cầu thêm một toa thuốc nữa, chỉ được vị Xích Tiểu Đậu. Lấy đậu nầy nấu với cháo mà ăn. Không được dùng thức ăn cứng. Ăn như thế hai ngày, đầu động đậy được đôi chút. Lại cầu nguyện xin thuốc, vẫn là vị Xích Tiểu Đậu. Từ đó, lấy đậu này nấu với cháo mà ăn. Đại tiểu tiện đều thông. Ra phẩn đen ngòm. Từ từ, thân thể cảm giác đau chút ít. Có thể ngồi và có thể đi. Bịnh tình như thế trước sau, trải qua hơn hai mươi ngày. Thật đa tạ đại chúng, đã mệt thân phí sức vì tôi. Thầy Diệu Viên ngày đêm túc trực lo lắng. Tôi thật cảm ân hết sức. Tôi lễ tạ Bồ Tát Hoa Đà; nguyện sau này sẽ xây cất điện già lam để thờ Ngài. Tôi lấy vài thẻ, tất cả đều được như ý.

Bịnh tình thuyên giảm, tôi tiếp tục giảng luận Đại Thừa Khởi Tín. Giảng vừa xong, hai thầy Thiện Khiêm và Bảo Nguyệt từ chùa Cực Lạc ở Penang đến đón tôi về. Quốc Vương, đại thần, cư sĩ hộ pháp, thiện nam tín nũ trong thủ đô Xiêm La đều đến tiển đưa, cúng dường số lớn tịnh tài. Lúc trước, khi tôi đến hoàng cung làm Phật sự, Quốc Vương Xiêm La cúng dường ba trăm mẫu đất tại Đổng Lý. Tôi giao khoảnh đất này cho hòa thượng Thiện Khánh ở chùa Cực Lạc, Penang, và yêu cầu Ngài lập một cơ xưởng làm cao su. Tôi cùng với hai thầy Thiện Khiêm và Bảo Nguyệt ở lại vùng đất sắp lập cơ xưởng đó qua năm mới.


Thanked by 1 Member:

#23 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/02/2012 - 09:48

Quang Tự năm thứ ba mươi bốn, sáu mươi chín tuổi. 1908-09

Mùa xuân, từ Đổng Lý, tôi cùng hòa thượng Thiện Khiêm đến thăm lâu các Quán Ấm tại Tuyết Lan Nga. Đạo tràng này chính tay thầy Thiện Khiêm lập ra. Sau đó, tôi tham quan các danh lam thắng cảnh tại Dị Bảo và Phính Lịch, rồi trở về chùa Cực Lạc, giảng luận Đại Thừa Khởi Tín, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Trong những pháp hội giảng kinh, chư thiện nam tín nữ đến quy y rất nhiều. Tôi dành rất nhiều thời giờ để tiếp chuyện với họ cả ngày. Nơi chùa Cực Lạc, lúc giảng kinh xong, tôi liền bế quan nhập thất, tạm đình chỉ việc giảng kinh cùng tiếp đãi khách khứa. Tôi ở qua năm mới tại chùa.

(Đại sự trong năm: Ngày mười một tháng mười, Hoàng Đế băng hà, lập miếu hiệu là Đức Tông. Ngày hai mươi hai, thái hậu Từ Hy băng hà.)

Tuyên Thống nguyên niên, bảy mươi tuổi. 1909-10

Từ Penang, Mã Lai Á, tôi bắt đầu khởi hành vận chuyển Đại Tạng kinh. Khi đến Ngưỡng Quang (Miến Điện), cư sĩ Cao Vạn Bang ra tiếp đón, lưu giữ tôi ở lại nhà ông hơn cả tháng. Đích thân ông đưa tôi đi Ngõa Thành. Tại Ngưỡng Quang, Cao cư sĩ thỉnh một tôn tượng Phật nằm, định mang về chùa Chúc Thánh thờ phụng. Khi tàu đến Tân Nhai, tôi ghé lại đình Quán Âm, thuê người ngựa đi về núi Kê Túc. Vì kiện vật quá nặng, ngựa không thể chở hết và lại không thể thuê người thêm, nên tạm để tượng Ngọc Phật lại đình Quán Âm, vài năm sau sẽ thỉnh về núi. Cao cư sĩ lưu giữ tôi lại hơn bốn mươi ngày, tự thân lo liệu sắp đặt việc chuyển vận, cúng dường tiền tài, sức lục. Cử chỉ ông rất chân thành, thật là hiếm có.

Người ngựa đồng hành; đi qua các trấn như Đằng Xung, Hạ Quan đều được dân chúng vui vẻ tiếp đón. Tuy đi hơn cả mười ngày mà người ngựa đều bình an. Chỉ có một lần, khi từ Hạ Quan vào Đại Lý thì sét đánh, hồ Nhĩ Hải nổi sóng to, mây khí biến chuyển, tạo khung cảnh rất kỳ đặc, nhưng lại không mưa. Vừa đến cổng chùa gần hồ Nhĩ Hải thì làm lễ nghinh tiếp Đại Tạng kinh. Sau khi Đại Tạng kinh được chuyển vào chùa an toàn thì trời đổ mưa to dầm dề cho đến hôm sau mới tạnh. Dân chúng cho là lão rồng hồ Nhĩ Hải đến nghinh đón Đại Tạng kinh.

Lúc ấy, có tổng tỉnh trưởng Lý Kỉnh Hy của tỉnh Vân Nam và Quý Châu, phụng theo chiếu chỉ Hoàng Đế, phái tùy viên đến Đại Lý, thống lãnh quan dân sĩ thứ tiếp chiếu chỉ nghinh đón Đại Tạng kinh. Họ mắt thấy những việc kỳ lạ này, đồng tán thán Phật pháp thật vô biên. Nghỉ ngơi tại Đại Lý mười ngày, rồi từ Hạ Quan, Triệu Châu đến huyện Tân Xuyên, đi thẳng về chùa Chúc Thánh, một mạch bình an, không một giọt mưa thấm ướt hòm đựng Đại Tạng kinh. Cuối cùng, Đại Tạng kinh được chuyển vào điện các. Đến ngày ba mươi tháng chạp, chùa Chúc Thánh tổ chức hội hương lễ. Hàng chục ngàn người đến dự, đều vui vẻ tán thán điềm lành, thật chưa từng có.

Trong khi thỉnh kinh về núi, có một việc đáng ghi nhận: Lúc tôi đi ngang qua Đằng Xung, ghé lại chùa Vạn Thọ, đang cùng ngồi đàm đạo với đề đốc Trương Tùng Lâm, bỗng đâu một con bò vàng chạy đến, quỳ xuống, hai mắt rơi lệ. Chạy theo sau là chủ của nó, tên Dương Thắng Xương, cùng nhiều người khác. Được biết ông Dương Thắng Xương, là người chuyên giết bò. Tôi quay về hướng con bò đó và nói: "Nếu con muốn chạy trốn để sống thì phải quy y Tam Bảo!" Bò liền gật đầu. Tôi thuyết Tam Quy Y, rồi đỡ nó đứng dậy. Bò thuần thục nghe theo như người vậy. Tôi lấy tiền ra đưa cho chủ bò, nhưng ông ta không nhận. Cảm động việc kỳ lạ này, ông chủ bò thề nguyền rằng sẽ đổi nghề khác, và thỉnh cầu quy y cùng ăn chay trường. Đề đốc Trương Tùng Lâm cảm kích việc này nên nhận ông chủ bò làm việc tại một khách sạn.

Tuyên Thống năm thứ hai, bảy mươi mốt tuổi. 1910-11

Từ khi chiếu vua ban ra, ngăn cấm quan quân thâu lấy tài sản chùa chiền, cùng thỉnh được Đại Tạng Kinh về núi, tăng già toàn tỉnh tạm sống an ổn. Tỉnh trưởng tỉnh Vân Nam, Lý Kỉnh Hy, phái tùy viên đến thăm viếng và bảo toàn gia quyến đến chùa làm lễ quy y, tặng rất nhiều lễ vật. Tôi thỉnh thầy Giới Trần ra thất. Lại cố khuyên răn tăng chúng trên núi phải tôn trọng giữ gìn giới luật cẩn trọng. Đề xướng giáo dục thanh niên, dẹp trừ tập khí xấu xa, phấn chấn đạo phong núi Kê Túc. Thương lượng quan huyện Tân Xuyên thả các thầy bị nhốt trong tù cùng các tù nhân nhẹ tội.

Mùa hạ, từ Cổ Sơn chuyển đến một bức thư gia đình tại Tương Lương. Chốc đó mà đã năm mươi năm kể từ lúc xuất gia. Tôi viết ba bài thơ, trong đó có câu:

Kính ai một đời nghiệp thanh tịnh

Nơi tâm cảnh chẳng dính mãi trần

Lâu rồi quên hẳn việc thế gian,

Hãy trông chừng tập khí nơi đất tâm.

Lúc ấy, cư sĩ Hàn Vĩnh Xương, tổng bí thư chánh phủ đương thời, sau khi đọc bài thơ của tôi, liền khắc lên đá cuộc đời của tỳ kheo ni Diệu Tịnh cùng bài thơ lưu kệ của bà.




Thanked by 1 Member:

#24 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/02/2012 - 09:56

Lưu kệ ký của tỳ kheo ni Diệu Tịnh: Tỳ kheo ni Diệu Tịnh, tên tục Vương Thị, là mẹ kế của Vân Công (hòa thượng Hư Vân). Vân Công pháp danh Cổ Nghiêm tự Đức Thanh hiệu Hư Vân, người Tương Lương, tỉnh Hồ Nam, tên tục là Trai, thuộc dòng dõi vua Lương Võ Đế. Cha tên Ngọc Đường, làm quan tại phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến. Mẹ họ Nhan, tuổi ngoài bốn mươi mà chưa có một mụn con, nên cầu nguyện Bồ Tát Quán Âm, ban con cho. Cha mẹ mộng thấy một vị trưởng lão mặc y màu xanh, đầu đội tượng Quán Âm, thân cỡi hổ, nhảy lên giường nằm. Mẹ kinh sợ tỉnh dậy, nghe mùi hương lạ bay khắp phòng, liền thọ thai Vân Công.

Sau đó sanh ra một bọc thịt. Mẹ Ngài thất vọng ê chề, uất khí mà mất. Hôm sau, một lão bán thuốc đến nhà, lấy dao rạch bọc thịt ra được một bé trai trân quý chính là Vân Công. Từ đó Ngài được người mẹ kế săn sóc nuôi nấng. Vân Công tánh vốn không ăn thịt. Khi lớn lên, được học hành nhưng không thích Nho giáo mà chỉ thích giáo lý nhà Phật, làm cha không vui, nên bị nghiêm trách. Năm mười bảy tuổi, theo định ước, cha cưới hai cô gái là Điền Thị và Đàm Thị, nhưng Vân Công chưa hề nhiễm sắc dục. Ngài trốn lên núi Cô Sơn, tỉnh Phúc Kiến, lễ hòa thượng Diệu Liên làm thầy xuống tóc xuất gia. Đồng Trị năm thứ ba, cha qua đời. Bà mẹ kế dẫn hai cô dâu đi tu. Điền Thị bị bịnh phổi, ho ra máu. Bà tu được bốn năm thì bị chết vì bịnh. Đàm Thị vẫn còn sống, làm sư cô tại núi Quán Ấm huyện Tương Lương, pháp danh Thanh Tiết.

Trong thơ gởi cho Vân Công, bà cho biết là ngày mồng tám tháng chạp năm Kỷ Dậu1909-10, người mẹ kế ngồi xếp bằng, viết bài kệ rồi thị tịch, vãng sanh cõi tây phương Cực Lạc.

Tuyên Thống năm thứ ba, bảy mươi hai tuổi. 1912-13

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tôi kiết thiền thất trong bốn mươi chín ngày đêm, đề xướng tọa hương, an cư kiết hạ, theo tất cả quy củ pháp thức. Đến tháng chín, cách mạng Vũ Hán lan tràn đến Vân Nam. Vùng địa phương bị loạn lạc, thành Tân Châu bị bao vây, bức bách nguy hại. Tôi đến điều giải. Nhân vì quan tổng binh Lý Căn Nguyên hiểu lầm nên phái binh lính đến vây núi Kê Túc. Tôi giải thích tự sự cho ông ta. Sau đó, ông cho binh lính rút lui và lại quy y Tam Bảo.

"Phần phụ chú của ông Sầm Học Lữ, người viết lại quyển biên niên tự thuật của thiền sư Hư Vân: Quyển biên niên tự thuật này do chính thiền sư Hư Vân thuật lại bằng miệng, nhưng Ngài chỉ nói sơ lược thôi. Theo người viết lại quyển biên niên tự thuật này, khi duyệt lại quyển biệt ký tỉnh Vân Nam mới biết rõ sự việc tường tận, càng thấy ân đức của Ngài thật vô lượng. Quyển biệt ký ghi lại như sau:

Vân Công tại Vân Nam hoằng pháp độ sanh. Những tai nạn được Ngài cứu giúp, nay sơ lược kể lại: Việc thứ nhất là trong năm cuối triều vua Tuyên Thống, quan tri huyện Tân Xuyên họ Trương, người Trường Sa, tánh tình nóng nảy. Nhân huyện Tân Xuyên bị trộm cướp liên miên, họ Trương trừng trị thẳng tay, giết rất nhiều người, mà trộm cướp lại còn tăng nhiều hơn trước. Chúng cùng nhau kết hội đảng. Các thân sĩ vì muốn bảo vệ gia đình nên phải gia nhập vào các hội đảng, nên bị họ Trương trừng trị giết hại.

Tăng nhân núi Kê Túc, những ai không tu đúng theo pháp cũng bị bắt cả vài mươi người, chỉ có Vân Công luôn được họ Trương cung kính lễ bái. Khi cách mạng Tân Hợi bộc phát, huyện Tân Xuyên hưởng ứng đầu tiên. Quần chúng kéo đến bao vây dinh huyện. Họ Trương cố thủ, không được viện trợ bên ngoài, chỉ còn chờ chết. Vân Công xuống núi đi thẳng đến dinh huyện. Những người đang bao vây dinh huyện thấy Ngài đến liền nói: "Tên Trương này rất ác độc. Xin Ngài hãy dụ hắn ra để chúng con giết, hầu xoa dịu lòng căm phẩn của quần chúng."

Nghe thế, Ngài không nói chi. Nhưng khi vị thủ lãnh đến, Ngài liền bảo: "Giết họ Trương không khó. Vùng biên địa này có nhiều tin đồn thất thiệt. Việc lớn chưa định đoạt được. Chư vị vây hãm thành của quan tri huyện, khi viện binh đến thì chư vị sẽ bị trừng phạt nặng nề." Viên thủ lãnh hỏi: "Bạch Hòa Thượng! Vậy, Ngài có lời dạy gì chăng?" Ngài đáp: "Tôi nghe rằng Vương Công tỉnh Tứ Xuyên trên đường kinh lý, đã đến Đại Lý, tức chỉ cách đây hai ngày đường. Chư vị đến gặp Vương Công mà kể tội, thì họ Trương sẽ bị trừng trị đúng theo pháp luật, còn chư vị lại không tội vạ gì hết."

Viên thủ lãnh nghe theo lời dạy của Ngài, đóng quân ngoài dinh huyện. Vân Công đi vào dinh huyện, thấy họ Trương phẩn uất, đang định ra ngoài dinh ứng chiến. Khi thấy Vân Công bước vào, họ Trương liền cầm tay và nói: "Con đã làm tròn bổn phận của mình. Duy chỉ làm phiền Ngài là cho con một miếng đất để xây phần mộ dưới chân núi Kê Túc. Con thật cảm ơn công đức của Ngài." Vân Công đáp: "Không cần thiết đâu! Thân sĩ ở đây kính trọng Trương Tịnh Hiên. Hãy mời ông ta đến bàn luận với dân chúng."

Trương Tịnh Hiên đến nghị luận với viên thủ lãnh. Quả nhiên, sau đó quần chúng giải tán. Trương Tịnh Hiên đi thẳng đến Đại Lý gặp Vương Công xin viện binh, giải vây dinh huyện. Khi Trương Tịnh Hiên đi khỏi, tỉnh Vân Nam tuyên bố độc lập. Thái Ngạc nhậm chức đô đốc. Con của họ Trương được cử làm ty trưởng ngoại giao vì là bạn đồng học của họ Thái. Sự việc giải quyết xong, họ Trương gởi thơ đến cảm tạ Vân Công như sau: "Ngài không những cứu mạng sống con mà lại còn tạo phước cho huyện Tân Xuyên. Nếu không có Ngài thì thù cha bị giết, con mình không báo phục sao!"



Thanked by 1 Member:

#25 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 20/02/2012 - 10:00

Việc thứ hai lại quan trọng hơn nữa, xảy ra như sau:

Khi Dân Quốc được thành lập, ở Tây Tạng, đức Phật sống cùng vương công quần thần ỷ đất đai hiểm trở, đường xá xa xôi, không tuân lệnh theo chánh phủ đương thời treo cờ cách mạng. Chính quyền Trung Ương ra lịnh cho quân tỉnh Vân Nam do tướng Ân Thúc Hoàn thống lãnh, kéo quân sang trị tội. Quân tiền phong đã đến huyện Tân Xuyên. Vân Công sợ rằng nếu chiến tranh xảy ra thì vùng biên cương này không thể tránh khỏi hiểm họa, nên theo đoàn quân tiền phong đến Đại Lý, gặp tướng họ Ân. Vân Công nói: "Người Tây Tạng đều tin theo Phật pháp. Nếu bảo người nào thông hiểu Phật pháp qua Tây Tạng thương thuyết thì sẽ giải quyết được sự việc mà không cần dùng binh."

Tướng họ Ân đồng ý, lại mời Vân Công làm pháp sư tuyên úy. Vân Công nói: "Tôi là người Hán, đi qua đó sợ sẽ bị thất bại. Hãy thỉnh đức đạt ma hiệu là Đông Bảo, người Lạp Xuyên, là vị xuất gia lâu năm, lại có đức độ, được người Tây Tạng cung kính tín phục và tôn Ngài là Pháp Vương Tứ Bảo. Nếu vị này đi qua đó thì sự việc chắc sẽ thành công."

Nghe thế, tướng họ Ân viết thơ nhờ Vân Công mang đến để gặp ngài lạt ma Đông Bảo cùng phái quân tùy tùng theo hầu giúp. Mới đầu ngài lạt ma Đông Bảo khước từ, viện lý do là già yếu. Vân Công liền nói: "Thảm họa của quân Triệu Nhi Phong, người Tây Tạng cho đến nay vẫn còn run sợ. Ngài tiếc chi ba tấc lưỡi mà hại đến muôn ngàn sanh mạng dân chúng!"

Ngài Đông Bảo đứng dậy đáp: "Được! Tôi sẽ đi! Tôi sẽ đi!"

Ngài lạt ma Đông Bảo thọ nhận mệnh lệnh đi Tây Tạng. Cùng đi với ngài Đông Bảo là lão hòa thượng Pháp Ngộ. Sau khi qua Tây Tạng, họ ký hòa ước rồi trở về. Tại Vân Nam, tướng họ Ấn liền bãi binh. Dân quốc thống nhất thành một khối. Bao năm Hán-Tạng luôn xích mích, chiến tranh thống khổ không ngừng, đến nay tạm điều giải. Hòa bình an lạc mãi trong ba mươi năm.

Việc thứ ba là sau khi Vân Công thỉnh Đại Tạng kinh về Vân Nam, Ngài luôn ban bố Phật pháp, giáo hóa chúng dân. Quan dân sĩ thứ vùng địa phương ngày càng thêm kính trọng. Cho đến cô nhi quả phụ, ai ai cũng gọi Ngài là lão hòa thượng Hư Vân. Cách mạng Tân Hợi nổi lên, triều Thanh thoái vị. Các tỉnh trưởng đuổi tăng ni, phá chùa chiền, làm mưa gió một thời.

Lúc ấy, vị tướng tỉnh Vân Nam là Lý Căn Nguyên, vì ghét vài ông tăng không chịu giữ giới luật, nên định kéo quân lên núi đuổi tăng chúng, phá chùa chiền. Khi sắp lên núi, ông hỏi quan quân địa phương là tại sao Vân Công, một lão tăng nghèo hèn, mà lại thâu phục được lòng dân chúng, chắc có việc chi kỳ quái. Vì vậy, ông ra lệnh bắt giam Ngài. Thấy việc không may, hiểm họa sắp đến, tăng chúng các chùa đều bỏ trốn đi cả. Trên một trăm vị tăng còn ở lại với Ngài, tất cả đều lo sợ, lại khuyên Ngài hãy đi lánh nạn. Vân Công đáp: "Các vị muốn đi thì cứ đi. Nếu phải trả nghiệp báo thì lẫn trốn có ích chi? Tôi sẵn sàng đem thân mạng mình hy sinh cho Phật pháp."

Toàn thể đại chúng an lòng ở lại với Ngài. Vài ngày sau, quả nhiên nhiếp tướng Lý Căn Nguyên thống lãnh quân sĩ tiến lên núi, đóng quân tại chùa Tất Đàn, phá tượng đồng Đại Vương, tượng Phật, điện chư Thiên tại Kim Đảnh, núi Kê Túc. Vì việc cấp bách nên Vân Công một mình đơn độc xuống núi, đi thẳng vào trại lính, đưa thẻ trình cho lính gác cổng. Lính gác nhận diện được nên bảo Ngài hãy mau trốn đi chỗ khác, nếu không thì chỉ chuốc lấy tai họa, chắc sẽ bị giết hại.

Vân Công không quay về, lại tự đi thẳng vào doanh trại, thấy Lý Căn Nguyên cùng quan bố chánh Triệu Phiên đang ngồi trong nội điện. Vân Công tiến đến trước mặt họ làm lễ. Họ Lý vẫn không quay mặt lại nhìn Ngài. Vì Triệu Phiên đã từng quen biết Vân Công thuở trước, liền hỏi Ngài đến để làm gì. Vân Công trần thuật mọi sự việc. Lúc ấy, họ Lý với sắc mặt nóng giận, nghe thế liền hỏi: "Phật giáo dùng để làm gì, có ích lợi chi?"

Vân Công đáp: "Ân đức giáo hóa của thánh nhân thật vô lượng. Nói rộng ra, Phật giáo dùng để cứu đời, làm lợi ích cho nhân dân. Từ lời dạy đơn sơ đến lý lẽ thâm sâu đều vì tạo việc lành, dẹp trừ điều ác... Từ xưa, chánh quyền và tôn giáo cùng lập hạnh. Chánh quyền lo việc trị an cho dân chúng. Tôn giáo lo dạy dỗ chúng dân làm lành lánh ác... Phật giáo dạy người trị bịnh trong tâm. Tâm là gốc của muôn ngàn sự vật. Gốc nếu chân chính thì muôn việc đều bình an, trời đất luôn thái bình."

Sắc mặt họ Lý dịu xuống đôi chút, lại hỏi: "Vậy còn tượng đồng tượng gỗ để chi vậy, chỉ tốn hao tiền của thôi chứ gì?"

Vân Công đáp: "Lời Phật là tướng của pháp. Tướng biểu hiện Pháp. Nếu không có tướng biểu hiện thì người dân không thể biết đến Pháp, hoặc họ không khởi tâm cung kính nể sợ. Đối với con người, tâm nếu không cung kính, thì việc ác nào cũng dám làm, tạo thành họa loạn. Những tôn tượng trong chùa chiền ở Trung Quốc thường được tạo bằng đất đá gỗ mộc, cũng giống như các tượng đồng ở các nước Đông Tây. Nói theo thế gian, những tôn tượng này, bất quá chỉ khiến cho chúng dân có chỗ nương tựa, cùng thầm khởi tâm cung kính tín phục, diệu dụng không thể nghĩ bàn, ngôn từ không chi diễn đạt. Nếu thấy các tướng mà không phải tướng, tức thấy đức Như Lai!"

Họ Lý nghe lời phân giải nên rất vừa lòng, liền bảo lính hầu mang trà bánh ra đãi Ngài. Họ Lý lại hỏi: "Nếu thế, tại sao các thầy tu thay vì làm những việc tốt mà lại đi làm các việc kỳ quái, như những kẻ phế thải trong xã hội?"

Vân Công đáp: "Hòa thượng chỉ là danh xưng, có phàm có thánh, sai biệt rõ ràng; không thể thấy một hai ông thầy hư đốn mà lại khinh khi toàn tăng chúng. Không thể phỉ báng Khổng Tử chỉ vì một hai người nho sinh hư hoại. Như nay tiên sinh thống lãnh binh sĩ. Tuy kỷ cương quân đội nghiêm minh mà có phải mỗi mỗi binh lính đều thông minh chánh trực như Ngài đâu! Biển cả bao la vì chứa đựng muôn loài, không phân biệt cá tôm. Tánh Phật pháp rộng như biển cả, không chi không dung chứa. Chư Tăng nhậm thừa lời Phật dạy, hộ trì Tam Bảo, ẩn mật lạ kỳ, âm thầm hóa độ chúng sanh, diệu dụng rõ ràng, không phải là những người phế thải!"

Sắc mặt họ Lý vui lên, lại cùng Vân Công trò chuyện. Chốc lát nét mặt ông nở một nụ cười. Chốc lát ông lại cúi đầu cung kính. Họ Lý giữ Vân Công lại để dùng cơm tối, đốt đuốc đàm đạo; lời nói cùng ví dụ rõ ràng, lý lẽ thâm sâu; bàn luận từ nhân duyên nghiệp quả, cho đến lưới nghiệp giao thức, cùng chúng sanh tương tục.

Họ Lý tiếp nhận hết tất cả lời lẽ và rất cung kính dung mạo oai nghi của Vân Công. Ông chợt thốt ra lời than: "Phật pháp cao siêu như thế mà con lại giết tăng phá chùa. Ôi nghiệp tội nặng vô cùng. Vậy con phải làm sao?"

Vân Công đáp: "Đó chỉ do tánh khí nhất thời thúc đẩy, không phải là tội của Ngài. Xin hãy nguyện sau này, hết sức hộ trì Tam Bảo. Vậy, công đức to lớn biết chừng nào!"

Tướng họ Lý vui mừng hớn hở. Hôm sau, ông theo Vân Công đến chùa Chúc Thánh, sống lẫn lộn với tăng chúng, ăn cơm chay vài ngày. Khi ấy, trên núi bỗng hiện ra một luồng ánh sáng màu vàng, bay từ đảnh núi xuống chân núi. Màu sắc cây cỏ đều biến thành màu vàng kim. Tương truyền trong núi có ba loại ánh sáng: Một là ánh sáng của chư Phật. Hai là ánh sáng màu trắng bạc. Ba là ánh sáng màu vàng. Ánh sáng của chư Phật, hằng năm đều hiện rõ, còn ánh sáng màu trắng bạc và màu vàng thì từ lúc khai sơn đến nay, ít có hiện ra. Họ Lý cảm động vô cùng, nguyện làm đệ tử Vân Công, lại thỉnh Ngài làm tổng trụ trì toàn núi Kê Túc, rồi dẫn quân rời khỏi núi. (Việc này, nếu không phải do đức tu hành khổ hạnh của Vân Công thì làm sao chuyển tâm được viên tướng họ Lý trong khoảng sát na!)

Mùa đông, hội Phật giáo Đại Đồng tại Thượng Hải và hội Phật giáo Trung Quốc có sự tranh biện nên đánh điện tín đến Vân Nam, mời tôi lên hòa giải. Đến Thượng Hải, tôi gặp các thầy Thái Hư, Phổ Đường, Nhân Sơn, Đế Nhàn, cùng nhau thương thuyết hòa giải. Tại chùa Tịnh An, chúng tôi thành lập Tổng Hội Phật Giáo.

Tôi cùng hòa thượng Kỳ Thiền đi Bắc Kinh, trú tại chùa Pháp Nguyên. Hoà thượng Kỳ Thiền đột nhiên nhuốm bệnh rồi ngồi xếp bằng thị tịch. Tôi đứng ra tổ chức lễ an táng, đem linh cữu về Thượng Hải. Tại chùa Tịnh An, chúng tôi khai mở đại hội thành lập Tổng Hội Phật Giáo cùng làm lễ truy điệu an táng Kỳ Thiền thiền sư.

Tôi nhận lãnh công văn hai tỉnh Vân Nam và Quí Châu cùng công văn chi hội hai miền Vân Nam-Tây Tạng. Khi sắp trở về Vân Nam thì Lý Căn Nguyên gỏi thơ giới thiệu đến tỉnh trưởng Vân Nam, tức Thái Tùng Ba, và chư vị quan chức các tỉnh để hộ trì Phật pháp.

(Đại sự trong năm: Mồng chín tháng tám, dân quân khởi nghĩa tại Võ Xương. Tháng mười một, hạ thành Nam Kinh.)


Thanked by 1 Member:

#26 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/02/2012 - 09:23

Trung Hoa Dân Quốc nguyên niên, bảy mươi ba tuổi. 1912-13

Sau khi trở về Vân Nam, tôi liền thành lập chi hội Phật giáo. Tại cung Vũ Xương, khai mở đại hội Phật giáo. Tôi thỉnh thầy Liễu Trần thiết lập chi hội Phật giáo tại Quý Châu. Vị Phật sống, lạt ma Tây Tạng từ vùng đất xa xôi cùng đến với rất đông vị lạt ma khác. Chúng tôi bàn thảo việc mở trường học Phật giáo, xây nhà thương, lập các hội từ thiện, tổ chức đoàn truyền giáo. Trong năm đó có một việc nhỏ đáng ghi.

Số là có người nông dân, đem một con két biết nói đến phóng sanh. Lúc đầu nó còn ăn thịt, nhưng sau khi được quy y, dạy niệm Phật rồi thì không còn thích ăn thịt nữa. Nó rất thuần thiện, tự biết ra vào, mỗi ngày thường niệm Phật và thánh hiệu Bồ Tát Quán Thế Ấm không ngừng nghỉ. Ngày nọ, nó bị một con diều hâu bắt cắp đi. Lúc bay trên không trung, chỉ nghe tiếng Phật thôi. Tuy chỉ là loài vật, đến lúc báo thân sắp hết, chết sống kề cận, mà không xả bỏ niệm Phật. Chẳng lẽ con người lại không bằng được như con két này sao?

Tôi ở lại chùa Côn Minh qua mùa đông.

(Đại sự trong năm: Mồng một tháng giêng, tiên sinh Tôn Trung Sơn nhậm chức Tổng Thống lâm thời tại Nam Kinh. Tháng hai, vua Tuyên Thống tuyên bố thoái vị. Nhà Mãn Thanh mất. Tham nghị viện đồng cử Viên Thế Khải nhậm chức phó tổng thống lâm thời. Tỉnh trưởng tỉnh Tây Xuyên, Duẩn Xương Hành, định đem quân vào Tây Tạng.)

Dân Quốc năm thứ hai, bảy mươi bốn tuổi. 1913-14

Vừa thành lập chi hội Phật giáo miền Vân Nam-Tây Tạng, liền ghi nhận tất cả tài sản chùa chiền tự viện trong vùng và dự trù hoạch định những chương trình mới. Những việc trên đòi hỏi phải tường trình với chính quyền địa phương. Có quan trưởng ty dân chánh là La Dong Hiên, thường gây rất nhiều trở ngại, khiến chúng tôi khó tiến hành, làm những việc đã được hoạch định. Khi ấy, tỉnh trưởng Thái Tùng Ba thường đến hòa giải, nhưng không kết quả. Đức Phật sống cùng các hội đoàn địa phương thỉnh tôi đi Bắc Kinh mang việc này trình lên chính quyền trung ương. Gặp quan tổng lý nội các, Hùng Hi Linh, trợ giúp rất nhiều, lại thuyên chuyển La Dong Hiên trở về Bắc Kinh. Nhậm Khả Đăng được đưa về làm dân biểu. Tôi trở về Vân Nam. Họ Nhậm đối với những sự việc liên hệ đến Phật giáo đều tận tình giúp đỡ.

(Đại sự trong năm: Tháng mười, Viên Thế Khải cùng Lê Nguyên Hồng chánh thức được cử làm phó tổng thống.)

Dân Quốc năm thứ ba, bảy mươi lăm tuổi. 1914-15

Tỉnh trưởng Thái Tùng Ba được vời về Bắc Kinh. Tướng họ Đường được cử thay thế chức tỉnh trưởng.

Tôi muốn về lại núi Kê Túc hưu dưỡng, nên giao chức đại biểu chi hội Phật giáo lại cho các vị khác rồi trở về núi. Vừa về đến, tôi liền lo việc trùng tu chùa Hưng Vân, chùa La Thuyên tại Hạ Dương. Đốc thúc lo liệu công trình xây cất sửa chữa xong, chư sơn trưởng lão tại Hạc Khánh thỉnh tôi đến chùa Long Hoa giảng kinh. Hòa thượng Chánh Tu thỉnh tôi qua chùa Kim Sơn tại Lệ Giang giảng kinh. Giảng xong, tôi ghé thăm động Thái Tử tại Tuyết Sơn, Duy Tân, Trung Điện, A Đôn Tử cùng các danh lam thắng cảnh khác. Lại đến vùng biên giới Trung-Tạng, tham quan ba mươi ngôi chùa Lạt Ma lớn nhỏ.

Năm đó, khi đang giảng kinh tại núi Long Hoa thì bốn huyện trong phủ Đại Lý bị nạn động đất rất kinh hồn. Nhà cửa, phòng xá, thành quách đều bị sập, duy trừ bảo tháp của chùa là không bị chi hết. Lúc chấn động, đất nứt ra, lửa cháy lan tràn, người người tranh nhau mà chạy thoát mạng, nhưng hầu như mỗi tấc đất đều rạn nứt, nên họ bị té lọt xuống. Muốn trèo lên khỏi thì đất liền khép lại, cắt đứt thân mình, chỉ thấy đầu người nằm la liệt trên đất. Bãi tha ma này như địa ngục lửa sôi trong kinh Phật, thật rất thê thảm, không dám nhìn xem.

Trong thành có khoảng một ngàn căn nhà, hầu hết đều bị nạn động đất, chỉ còn sót lại vài căn. Khi ấy, có một tiệm kim hoàn của hai gia đình: Một là họ Triệu, tên Vạn Xương Hiệu. Hai là họ Dương, tên là Thâm Nhiên Hiệu. Lửa cháy đến tiệm của họ lại dừng. Cửa tiệm chưa hề bị hư hoại vì nạn động đất. Trong mỗi gia đình, có trên mười người. Tất cả đều được bình an vô sự. Vài người trong vùng biết đến hai gia đình này. Trãi qua bao đời, họ đều ăn chay niệm Phật. Đấy là những người lành thiện, mẫu mực mới tránh được những thiên tai hoạn nạn như thế. Tôi thật rất vui mừng.

(Đại sự trong năm: Đại chiến Ấu Châu bùng nổ.)



Thanked by 1 Member:

#27 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/02/2012 - 09:24

Dân Quốc năm thứ tư, bảy mươi sáu tuổi. 1915-16

Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tại huyện Đặng Châu, thân sĩ họ Đinh, là bậc học giả triều Thanh, có con gái tuổi khoảng mười tám, chưa lập gia đình. Ngày nọ, cô đột nhiên té xuống, bất tỉnh nhân sự. Toàn thể gia đình kinh hoàng sợ hãi, không biết phải làm gì. Lát sau, cô tỉnh dậy, nói giọng đàn ông, chỉ thẳng và mắng cha: "Này tên họ Đinh! Mi cậy thế, vu oan cho ta là tướng cướp. Mi phải chịu trách nhiệm về cái chết của ta. Ta là người Tây Xuyên, phủ Đại Lý, họ Đổng. Ngươi có nhớ ra không? Hôm nay, ta cáo bạch trước điện Diêm Vương, trả mối thù tám năm về trước!"

Nói xong, cô ta lấy dao rượt họ Đinh. Họ Đinh sợ hãi, chạy trốn nơi khác, không dám về nhà. Mỗi ngày, quỷ đến một lần. Khi đến, liền nhập vào thân cô con gái, khiến điệu bộ cô trở nên rất hung hăng. Mọi người trong nhà đều lo buồn, lại làm liên lụy đến cả hàng xóm. Khổ thật!

Bấy giờ, trên núi Kê Túc có hai vị tăng là Biểu Cầm và Tố Chân đến huyện Đặng Châu, đi ngang qua nhà họ Đinh. Lúc ấy, quần chúng bu quanh nhà rất đông vì quỷ lại nhập vào thân cô gái và đang hiện tướng trạng hung dữ. Hai vị tăng này nói với quỷ: "Ngươi chớ nên làm dạng mạo như thế, khiến dân địa phương không được an ổn!"

Quỷ đáp: "Các thầy là người tu hành chớ có lắm chuyện!"

Tăng nói: "Vâng, dĩ nhiên là không phải chuyện của chúng tôi, nhưng vì thầy chúng tôi thường dạy rằng oan gia nên xả bỏ, chẳng nên kết thêm. Càng kết thì càng thâm sâu. Lúc nào mới giải quyết cho xong được?"

Quỷ ngừng chốc lát rồi nói: "Thầy của chư vị là ai?"

Tăng đáp: "Thầy chúng tôi là lão hòa thượng Hư Vân, trụ trì chùa Chúc Thánh."

Quỷ nói: "Tôi cũng có nghe đến danh Ngài, nhưng chưa từng gặp mặt. Ngài có thể truyền giới cho tôi được không?"

Tăng đáp: "Đại từ đại bi, cứu độ tất cả khổ não! Sao Thầy chúng tôi không truyền giới cho ngươi được?"

Tăng lại khuyên quỷ nên bảo họ Đinh xuất tiền ra làm lễ siêu độ.

Quỷ nói: "Hắn giết người hại mạng. Tôi không muốn dùng tiền của hắn!"

Tăng đáp: "Như vậy, nếu người địa phương gom góp tiền lại, cầu siêu cho ngươi, để họ được sống an ổn. Vậy được không?"

Quỷ nói: "Thù này nếu không báo, tôi hận mãi không nguôi. Oán ân tương báo, làm sao giải hết? Để tôi xuống hỏi lại Diêm Vương coi. Ngày mai, chư vị hãy đến đây đợi tôi!"

Quỷ xuất ra. Cô gái liền tỉnh dậy, nhìn thấy mọi người bao vây xung quanh, mắc cở, bỏ chạy vào nhà. Hôm sau, quỷ đến sớm hơn hai vị tăng, nên trách móc rằng sao không giữ lời hứa đến đúng giờ. Tăng bảo rằng vì có công việc nên mới đến trể.

Quỷ nói: "Tôi đã hỏi qua Diêm Vương. Ngài trả lời rằng chùa Chúc Thánh là đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh, nên cho phép đi, nhưng chư vị phải đưa tôi đến đó."

Hơn cả chục thân sĩ và dân chúng vùng địa phương cùng hai vị tăng đi đến chùa. Chiều đến, chúng tôi bàn việc giải quyết vấn đề. Hôm sau, chùa thiết đàn tụng kinh thuyết giới. Kể từ đó, gia đình họ Đinh được bình yên trở lại. Dân chúng, sĩ thứ huyện Đằng Châu thường cùng nhau đến chùa lễ bái.

(Đại sự trong năm: Tháng giêng, Nhật Bổn ép bức Trung Quốc thừa nhận hai mươi mốt điều ước. Tháng chạp, Viên Thế Khải tuyên bố đế chế, đổi hiệu là Hồng Hiến nguyên niên.)



Thanked by 1 Member:

#28 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/02/2012 - 09:27

Dân Quốc năm thứ năm, bảy mươi bảy tuổi. 1916-17

Từ lúc cư sĩ Cao Vạn Bang cúng dường tượng Ngọc Phật đến nay đã vài năm. Tôi trở lại Nam Dương để thỉnh tượng Phật về. Nghe có nhiều người dân thuộc sắc tộc khác Hán tộc tin tưởng Phật pháp, nên tôi đi qua tham quan các vùng đất của họ như Thường Đạt Miến, Oa Tán, Lạp Tán, rồi lại trở về Ngưỡng Quang lễ tháp Đại Kim, thăm Cao cư sĩ.

Tại chùa Long Hoa, giảng kinh xong, tôi đón tàu đi Tân Gia Ba. Tàu đến cảng Tân Nhai, một viên cảnh sát người Anh nói: "Hiện nay tại Trung Quốc, đại Tổng Thống đang thiết lập đế chế, ra lịnh bắt giữ tất cả những tên nổi loạn. Mọi người Hoa lục địa, qua đến đây, phải được kiểm soát chặt chẽ, rồi sau mới cho lên bờ."

Vài trăm người được đưa đến ty cảnh sát tra hỏi. Sau đó, từ từ họ đều được thả ra hết, nhưng trừ nhóm người chúng tôi, gồm có sáu vị tăng. Họ bảo rằng chúng tôi thuộc đảng cách mạng, nên giữ lại. Họ trói chúng tôi lại, rồi đánh đập, đem phơi nắng, không cho ăn uống, không cho đi đại tiểu tiện, không cho cử động, nếu nhúc nhích liền bị đánh; cứ như thế từ sáu giờ sáng cho đến tám giờ tối. May thay, có đệ tử quy y của tôi là Hồng Thịnh Dương và ông quản lý họ Đổng, nghe biết tình cảnh của chúng tôi, nên đến ty cảnh sát bảo lảnh, nhưng phải đóng tiền thế chân là năm ngàn đồng cho mỗi người, rồi mới được thả ra. Sau đó, chúng tôi được đưa về thương hiệu Thịnh Dương, lưu trú qua năm mới. Hai vị cư sĩ này cũng giúp tôi việc mang tượng Ngọc Phật về nước.

(Đại sự trong năm: Viên Thế Khải mất. Lê Nguyên Hồng lên nhậm chức Tổng Thống.)

Dân Quốc năm thứ sáu, bảy mươi tám tuổi. 1917-18

Mùa xuân, từ đình Quán Ấm, tôi vận chuyển tượng Phật về nước, mướn tám người phụ giúp mang về núi Kê Túc. Tiền mướn họ khoảng cả ngàn đồng. Đoàn chúng tôi phải đi qua các vùng đồi núi hẻo lánh, cheo leo chập chùng, chưa từng có dấu chân người. Đi như thế cả vài mươi ngày. Ngày nọ, lúc đến núi Dã Nhân, những người khuân vác nghi rằng trong tượng Ngọc Phật có vàng bạc châu báu hay ngân phiếu, nên họ đặt tượng Phật xuống, nói rằng không còn sức để khiêng tượng Phật nữa, lại đòi trả tiền thêm tiền công. Tôi cố an ủi, nhưng họ càng làm ồn ào, hung tợn thêm. Biết không còn cách nào để làm cho họ dịu xuống, nhìn bên đường thấy tảng đá to, nặng khoảng vài trăm cân, tôi bảo bọn họ: "Tảng đá này cùng tượng Phật, vật nào nặng hơn?"

Họ đáp: "Chắc chắn là tảng đá nặng hơn tượng Phật hai ba lần."

Tôi liền dùng hai tay nâng tảng đá lên cả thước. Bọn họ trố mắt thè lưỡi và nói: "Lão Hòa Thượng này thật là Phật sống!"

Từ đó, họ không còn dám nói năng chi hết, khiêng tượng Ngọc Phật đi thẳng về núi. Đến núi, tôi cũng thưởng thêm tiền cho họ. Tôi tự biết sức mình không thể nâng nỗi tảng đá đó, mà thật ra chỉ nhờ thần lực của Long Thần hộ pháp thôi.

Sau đó tôi đi Đằng Xung, Bảo Sơn giảng kinh tại các chùa viện.



Thanked by 1 Member:

#29 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/02/2012 - 09:32

Dân Quốc năm thứ bảy, bảy mươi chín tuổi. 1918-19

Đề đốc Đường Kế Nghiêu phái tùy viên đem thơ đến, ra lịnh cho quan tri huyện Tân Châu đồng lên núi, thỉnh mời tôi ba lần. Bất đắc dĩ lắm, tôi mới đáp lời mời của ông ta để đi Côn Minh. Khi ấy, đường lộ rất nguy hiểm, nên quan huyện phái quân lính đến hộ tống. Tôi từ chối, chỉ đem theo đệ tử là Tu Viên. Một bộ tăng y cùng một bình bát, chúng tôi khởi hành. Khi đến Sở Hùng, gặp loạn quân, họ khám xét kỹ càng. Vì tìm thấy lá thơ của đề đốc họ Đường, nên họ liền đánh tôi. Tôi nói: "Chư vị đánh tôi làm gì. Xin cho tôi gặp tướng thủ lãnh của chư vị."

Họ liền đưa tôi đến gặp hai thủ lãnh, Dương Thiên Phúc và Ngô Học Hiển. Họ hỏi: "Thầy là ai?"

Tôi đáp: "Tôi là hòa thượng núi Kê Túc."

Hỏi: "Thầy tên chi?"

Đáp: "Tôi tên Hư Vân."

Hỏi: "Thầy lên tỉnh lỵ có việc gì?"

Đáp: "Tôi lên tỉnh lỵ để làm Phật sự."

Hỏi: "Làm Phật sự cho ai?"

Đáp: "Tôi vì nhân dân mà làm Phật sự. Cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho dân chúng được tiêu trừ thiên tai hoạn nạn."

Hỏi: "Họ Đường là thằng giặc, kẻ tồi bại. Tại sao Thầy lại giúp hắn. Thầy qua lại với hắn. Vậy Thầy cũng là người tồi bại!"

Đáp: "Ngài nói họ Đường là người xấu, thật rất khó xác định!"

Hỏi: "Tại sao khó xác định?"

Đáp: "Nói về việc tốt thì mọi người đều tốt cả. Nói về việc xấu thì mọi người đều xấu hết."

Hỏi: "Thầy nói cái gì?"

Đáp: "Giả sử Ngài cùng họ Đường vì dân vì nước mà tạo phước, cho đến các thuộc hạ của chư vị cũng thế, thì ai ai cũng là người tốt hết. Nói về việc xấu, Ngài bảo họ Đường là kẻ tồi bại, mà ông ta cũng bảo rằng các Ngài là kẻ tồi bại. Chư vị đều có thành kiến, như nước với lửa, cùng đem quân giết hại lẫn nhau, lại sát hại nhân dân. Như vậy có phải chư vị đều là người xấu hết phải không? Nhân dân theo bên tả là giặc, mà theo bên hữu là cướp. Vậy đáng thương họ lắm không?"

Cả hai thủ lãnh nghe tôi phân trần đều cười và bảo: "Thầy nói thế không sai. Vậy phải làm thế nào mới đúng?"

Tôi đáp: "Theo ý tôi thì chư vị đừng nên đánh nhau nữa. Xin hãy hòa giải."

Họ Ngô nói: "Thầy bảo chúng tôi phải đầu hàng ư?"

Tôi đáp: "Không phải như thế! Tôi nói rằng chư vị hãy nên hòa giải kia. Chư vị đều là những người hiền sĩ của đất nước. Nếu muốn đem hòa bình an lạc lại cho quốc gia, việc quan trọng trước nhất là chư vị hãy dẹp bỏ thành kiến, để cùng nhau an dân cứu nước. Đó có phải là việc tốt lắm không?"

Họ Ngô đáp: "Vậy phải bắt đầu như thế nào?"

Tôi đáp: "Bắt đầu với họ Đường."

Họ Ngô nói: "Không thể thương lượng với hắn được. Hắn giết hại và giam cầm quân chúng tôi rất nhiều. Phải nên báo thù. Nói việc ra hàng, thì làm sao chấp nhận được."

Tôi đáp: "Tiên sinh chớ hiểu lầm! Tôi nói Ngài nên thương thuyết với họ Đường, vì hiện giờ ông ta là quan của chính quyền trung ương, có quyền uy trong tay. Tương lai Ngài cũng có thể làm quan vậy. Việc ông ta giết nhiều người của Ngài, để khi đến Côn Minh, tôi sẽ làm Phật sự, cầu siêu cho các âm hồn chiến sĩ trận vong. Đối với những người đang bị nhốt, tôi sẽ xin ông ta thả ra hết. Chư vị nếu không lắng nghe lời tôi giải bày, cứ gây chiến tranh với nhau, thì thắng bại khó bàn. Tuy có quân, nhưng so với họ Đường thì chư vị không thể sánh bằng. Ông ta có quân lính, tiền tài lương thực, và được chính quyền trung ương hỗ trợ. Uy thế của ông ta mạnh hơn chư vị rất nhiều. Hôm nay, không phải tôi đến đây khuyên chư vị ra hàng, nhưng vì thuận tiện cùng có chút duyên lành, nên mới tỏ rỏ sự tình. Lại nữa, tôi chỉ ước mong đất nước được thanh bình, nhân dân an lạc, để người ngoại quốc không khinh dân tộc mình."

Họ Ngô và họ Dương đều cảm động, lại ủy thác tôi làm đại biểu. Tôi nói:

"Không dám đâu! Xin chư vị hãy viết một tờ hòa ước. Nếu có cơ hội, tôi sẽ đưa thơ này và thương thuyết với họ Đường."

Hai họ Ngô và Dương nghe xong, liền cùng nhau luận bàn cả ba ngày, rồi viết ra sáu điều hòa ước:

1. Trước khi hòa giải, hãy thả hết tất cả người của chúng tôi.

2. Không thể giải tán quân binh của chúng tôi.

3. Không được hủy bỏ chức vụ binh quyền của chúng tôi.

4. Quân đội của chúng tôi phải do chúng tôi chỉ huy, tiếp quản.

5. Không được truy xét tội lỗi chiến tranh giữa hai quân đội lúc trước.

6. Sau khi hòa giải, phải đối xử bình đẳng với quân của hai bên.

Tôi nói: "Những hòa ước này, chắc sẽ không thành vấn đề gì đâu! Đợi tôi thương thuyết với họ Đường, rồi sau đó sẽ đem công văn và phái tùy viên đến đón tiếp."

Họ Ngô nói: "Thật làm phiền Ngài. Sự việc nếu thành, chúng tôi cảm ơn Ngài rất nhiều."

Tôi đáp: "Xin đừng cảm ơn! Tôi làm việc này, chẳng qua chỉ do thuận tiện mà thôi."

Họ Ngô và Dương ưu đãi tôi rất trịnh trọng. Tối đến chúng tôi lại đàm đạo những chuyện khác, rất vui vẻ. Họ muốn giữ tôi lại, nhưng vì chuyện gấp, nên hôm sau tôi liền từ giã. Ắn sáng xong, họ cúng dường tiền lộ phí, thức ăn, xe ngựa, đồ vật, lại phái người đi theo hộ tống. Tôi khước từ hết cả, chỉ nhận đồ ăn để đi đường. Ra khỏi doanh trại khoảng nữa dặm, đột nhiên có một nhóm người chạy đến, quỳ ngay trước mặt, cúi đầu xuống đất. Nhận ra họ chính là những quân sĩ đánh tôi hôm qua. Họ đồng thanh thưa: "Xin Bồ Tát tha lỗi cho chúng con."

Tôi an ủi họ và bảo rằng việc ác chớ làm, hãy nên làm việc lành. Tất cả họ đều cảm động, rơi lệ, rồi đi khỏi.

Khi đến Côn Minh, họ Đường phái tùy viên đến đón tiếp, đưa tôi về đài Chúc Long, chùa Viên Thông. Tối đến, ông mời tôi vào dinh trại gặp mặt. Ông nói: "Đã bao năm không được gặp Ngài. Trong thời gian ấy, bà nội, cha mẹ, vợ, anh em, đã lần lượt qua đời. Tâm con không an. Cộng thêm, bọn cướp trong vùng địa phương luôn hoành hành, làm dân lành điêu đứng, tướng sĩ thương vong, cô hồn đói rét.

Vì thế, con nghĩ đến ba việc:

- Thứ nhất là tổ chức lễ cầu nguyện chư Phật gia bị cho dân chúng được tiêu trừ tai nạn, và cầu siêu cho các vong hồn vất vưởng.

- Thứ hai là kiến lập một đại tùng lâm tại chùa Viên Thông để hoằng dương Phật pháp.

- Thứ ba là xây một trường đại học đạo đức thiện lành để giáo dục thanh niên.

Việc thứ ba đã có người của con lo liệu, còn việc thứ nhất và thứ hai, ngoài Ngài ra thì không ai có thể đảm nhận nỗi."



Thanked by 1 Member:

#30 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/02/2012 - 09:34

Tôi đáp: "Ngài phát hoằng đại nguyện, trên thế gian này thật khó có được, vì đây là sự phát tâm của Bồ Tát. Lão tăng đây trí huệ cạn cợt, không đủ sức để giúp Ngài hết tất cả. Việc kiến lập tùng lâm, trong nước có rất nhiều chư vị cao tăng hiền đức. Lại nữa, chùa Viên Thông không phải là một đại tùng lâm vì chỉ có thể chứa được khoảng vài trăm người thôi. Xin Ngài hãy xem xét lại. Việc lập đàn tràng cầu nguyện, không đến nỗi lâu lắm, tôi có thể giúp Ngài được."

Họ Đường nói: "Ngài bảo rằng chùa Viên Thông không phải là một đại tùng lâm, thật rất đúng. Xin hãy gác lại việc này. Mai mốt sẽ bàn sau, còn việc lập đàn tràng thì như thế nào?"

Tôi đáp: "Tâm Phật là một thể, cảm ứng đạo giao không thể nghĩ bàn. Lập đàn tràng là vì nước vì dân, cùng làm lợi ích đến cõi u minh. Theo ngu kiến của lão tăng, trước khi làm phật sự, xin Ngài ba việc: Thứ nhất là khi lập đàn tràng, trong suốt ngày, cấm dân chúng trong huyện không được giết hại loài vật. Thứ hai là hãy nên thả tù nhân ra. Thứ ba là chẩn tế cứu giúp nạn nhân chiến tranh."

Họ Đường đáp: "Việc thứ nhất và thứ ba có thể làm được, còn việc thứ hai thì do bộ hành pháp của chính quyền trung ương quyết định. Con không thể tự ý làm."

Tôi nói: "Việc nước rất nhiều. Chính quyền trung ương khó mà lo hết. Vấn đề này, xin Ngài hãy bàn thảo với bộ hành pháp trong tỉnh thì có thể làm được. Nếu thế thì chư thiên mới ban phước lành đến cho nước nhà."

Họ Đường gật đầu chấp thuận.

Tôi nói thêm: "Tôi vẫn còn một việc muốn thưa với Ngài (tôi liền kể lại việc gặp hai thủ lãnh họ Ngô và Dương trên đường). Xin Ngài hãy thả những tù nhân đó ra, để cảm hóa họ trở về với mình."

Nghe rõ sự tình, họ Đường rất vui mừng, liền bàn thảo việc thả tù nhân và hòa giải chiến tranh.

Gần cuối năm, cư sĩ Ấu Dương, Cảnh Vô, Lữ Thu Dật, từ Thượng Hải đến, quyên góp tịnh tài cho Phật học viện Chi Na, cùng trú tại chùa Viên Thông. Họ thỉnh mời tôi giảng luận Nhiếp Đại Thừa Khởi Tín. Sau đó, tôi ở lại Côn Minh qua năm mới.

(Đại sự trong năm: Tháng chín, chiến tranh Châu Âu chấm dứt. Từ Thế Xương nhậm chức Tổng Thống.)


Thanked by 1 Member:





Similar Topics Collapse

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |