Jump to content

  •  
  • Trình Ứng Dụng

Advertisements




Nhập mônTử bình nên bắt đầu từ đâu?


251 replies to this topic

#226 Tử Phủ Vũ Tướng

    Thái Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 13547 Bài viết:
  • 50203 thanks
  • LocationThiên nhiên

Gửi vào 02/05/2012 - 10:06

Nhật chủ là Can ngày

(âm và dương khác nhau về chất)

Thí dụ tứ trụ: Bính Tý - Tân Sửu - Ất Mão - Canh Thìn
Ất là can của trụ ngày, là nhật chủ, có tính cách quyết định đầu tiên trong tứ trụ.

Sau đây là nhận định đối với thập can qua hình ảnh của thiên nhiên và sự hình thành tính khí tương đối của con người.

1. MỘC nhật chủ thường có tính nghiêm nghị nhưng lại dễ cảm. Khi đã chọn được địa bàn họat động, họ chỉ hướng về sự thành công và thường thích tự đối phó vấn đề. Giống như ta ít khi quan sát cây cối hàng ngày như thế nào; hình thì như tĩnh, nhưng khí chất của chúng vẫn luôn phát triển. Trong điều kiện tốt thì sự lớn mạnh và thịnh vượng là kết quả mỹ mãn nhất.

- GIÁP (dương mộc): cây cao, to, nhánh lớn, vững, dai sức, cứng rắn, cố chấp, vấn đề gay go không làm cản trở họ. Vì thể nên họ có khi bảo thủ và miễn cưỡng khi phải thay đổi.

- ẤT (âm mộc): hoa, nhánh nhỏ, lá, cỏ, dễ uốn, dễ sai khiến, thuyết phục được, linh hoạt, mềm mỏng, luồn cúi, thuận theo. Hình ảnh này cho thấy là 1 sự đối nghịch với Giáp, nhưng cùng là mộc nên tính khí vươn lên vẫn lộ rõ tuy với một cách kín đáo hơn. Khác với Giáp, Ất mộc chấp nhận thay đổi và thường tránh đụng chạm vấn đề. Ất mộc vì thế sống bền bĩ hơn trong thiên nhiên vì vậy.

2. HỎA nhật chủ là người luôn sôi nổi, nồng nhiệt, thân thiện, cởi mở, nếu thái quá thì dễ cáu, dễ giận, nhưng họ là những nhân vật mang lại không khí tràn đầy sức sống và dễ khiến cho người bộc lộ tình cảm. Trong điều kiện tứ trụ không thuận lợi, những cá tính trên đây sẽ lại là một chướng ngại cho chính họ và thường là những người tự mâu thuẫn nhất. Hỏa dương khác Hỏa âm và ít khi thành cộng sự tốt được.

- BÍNH (dương hỏa): mặt trời, ấm áp, nuôi nấng, giáo dục, nóng bức, đốt cháy, xung nộ. Thường là những người có niềm tin vững nhất và hay chia xẻ kiến thức của mình. Là hình ảnh của mặt trời, họ không thích yên ổn một nơi và giống như khi chan hòa được ánh sáng của mình lên đồng cỏ rộng mênh mông, họ sẽ buông thả hết công việc và hưởng thụ.

- ĐINH (âm hỏa): lửa nhỏ, âm ỉ, than hồng, ấm áp, chiếu sáng trong bóng tối, khai trí, thường là những người lãnh đạo tốt và có niềm kiêu hãnh riêng. Như lửa đèn cầy, có người hay chao động vì gió tức là không có lập trường, nhưng họ lại có khả năng làm được những việc kinh thiên động địa. Ở trạng thái bi quan, họ lại không thể tự vực mình lên được.

3. THỔ nhật chủ là người có lòng tín nhiệm cao, trách nhiệm nặng, kỳ vọng lớn. Giống như núi đã hiện diện từ bao lâu đời và sẽ còn ngự trị cho đến thời khắc cuối cùng của nhân loại, đấy là những người đi trước về sau trong công việc, lặng yên nhưng vận động tâm trí nhiều, và thường là giữ bí mật không bao giờ thố lộ.

MẬU (dương thổ): đá tảng, đập nước, núi lớn, vững vàng, kiên quyết, ổn định, không chịu nhượng bộ, trung thành tuyệt đối. Đó là mẫu người „cảnh vệ“, một người bạn mà ta dựa dẫm vào. Tuy nhiên, họ cũng rất bảo lưu ý kiến và ngoan cố trong nhiều tình huống nên đôi khi phải trả giá rất đắt cho cuộc đời.

KỶ (âm thổ): đất đồng bằng, ẩm, màu mở, khả năng sinh sản cao, thuộc tính của núi lửa nên nóng nảy, sục sôi, nổi lên bất ngờ, đất dễ bị ủng nên thường kỵ thủy. Tính tình tốt bụng của nhật chủ Kỷ thổ làm cho nhiều người có thể lợi dụng; vì họ chậm nhận ra những xấu xa của người khác. Nếu thái quá hay bất cập, nhật chủ này cũng có khi phạm phải nhiều thói xấu về cách cư xử như ngược đãi và lạm dụng quyền hành.

4. KIM nhật chủ có tính ưa bảo vệ kẻ yếu hơn mình, chịu đựng được những thách thức và cố gắng thuyết phục, dũng cảm trước tai ương, nhưng điều quan trọng đối với họ phải là sự công bằng và thẳng thắn. Lật ngược lại vấn đề là những trường hợp mất tự chủ không có gì ngăn cản được.

CANH(dương kim): kim lọai nặng, thô, thanh kiếm lớn, rìu bự, không chịu dưới quyền ai, cứng cỏi, phản ứng nhanh. Thường không phải là người thích vuốt ve hay nịnh bợ. Họ sẽ không ngần ngại khi muốn làm việc gì, đôi khi phải nhận lấy hậu quả xấu cho dù cảm thấy trước. Bạn bè và anh em đối với họ rất nặng tình nghĩa. Nếu bất cập thì sự yếu nhất của nhật chủ Canh là thiếu suy nghĩ chín chắn hoặc do dự thái quá trước một vấn đề.

TÂN(âm kim): vàng, bạc, kim loại trang sức nói chung, thanh tao, mảnh khảnh, dễ vỡ, tinh vi, lịch thiệp. Tân nhật chủ xuất hiện lôi cuốn thường dưới 2 dạng: vì dễ nhìn (người đẹp) hoặc sự thông minh lịch lãm. Đó là những người thích làm „trung tâm điểm“ của tất cả mọi nơi, mọi trường hợp. Nếu không phải là tứ trụ mạnh thì họ sẽ làm cho tình hình không khí trở nên tàn tệ. Muốn hòa hợp với Tân kim phải biết cách thuyết phục, tỉ mỉ và đôi khi rất huyền ảo là nên chuyện.

5. THỦY nhật chủ thường chứng tỏ sự thông minh tài trí của mình. Có hành nào mà thay đổi được vô số trạng thái của mình như thủy? Nước có thể sắc bén như dao, mềm mại như lụa, trong sáng như gương và trầm đục không nhìn thấy đáy, ở đại dương không thể nhận ra bến bờ. Giống như Mộc, đôi khi hình thì tĩnh, nhưng thực ra các tinh thể của nước đang chuyển động không ngừng, bốc lên thành hơi và đổ xuống thành mưa.

NHÂM(dương thủy): biển, đại dương, thác gầm lớn, luôn chuyển động, vồn vã. Nhâm nhật chủ không bao giờ ngồi yên và tinh thần hướng ngoại. Lúc nào họ cũng có vấn đề nào đó để giải quyết, đôi khi mạo hiểm, liều lĩnh và mất phương hướng. Nhưng họ là những người đi đầu, khi đã nhận nhiệm vụ thì không có sức mạnh nào ngăn trở được. Nếu thái quá hoặc bất cập, đây là những người bất tuân luật pháp, hành động không tính trước được.

QÚY(âm thủy): sương mù, màn che ánh sáng, mây đen, mưa nhẹ, dịu dàng, tế nhị, tinh vi, xảo quyệt. Giống như tính chất trên, Quý thủy không ngừng làm việc và học hỏi đào sâu về kiến thức. Các thầy cô giáo gương mẫu thường có Quý nhật chủ mạnh trong trụ. Tuy nhiên họ là mẫu người hướng nội nhiều hơn, thích mơ mộng, thích sáng tạo, nhưng đặc cách là không ra khỏi quy tắc. Họ luôn nghĩ đến điều gì tốt đẹp hơn nữa trong cuộc sống. Thế bất lợi nhất của Quý nhật chủ trong trường hợp ngược lại là thiếu nỗ lực và sự gắng sức.

(Trích Sưu tầm)

Sửa bởi Tử Phủ Vũ Tướng: 02/05/2012 - 10:07


#227 TanHongThuy

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 383 Bài viết:
  • 334 thanks
  • LocationHanoi

Gửi vào 03/05/2012 - 15:56

Đoạn về nhật chủ kỷ đúng quá. Hơi chậm nghe nhạc hiệu đoán chương trình bọn xấu. Lại có thể ngược đãi , quân phiệt .
Thế ra em này kỷ mùi. Nam kỷ mùi , cực hợp với tớ, chắc tại chịu được nhiệt quân phiệt dởm của hắn.nữ kỷ mùi , thôi rồi, cực duyên cho đời chút hương. Mấy thiếp roài . Ở đây, về mặt tướng số, nó là cùng cung phi chấn giua hai tuổi , nam nữ kỷ mùi và canh tuất đều là chấn, chấn chấn trùng cung cũng tạm nhàn, phong thủy là cách phục vị chủ bình an, mà cung phi vốn chỉ để xem hôn nhân và phong thủy
Dụng thần tớ cũng là kim thủy , do đó biết rằng việc hỷ cứ hạn mùa thu mà tới, tiền bạc có đại bại thì đến đông chí cũng có tin vui về. Và , nhớ là ô tô đỗ mới là kim , ô tô chạy là hỏa .điều nũa, cực đau nếu không biết mà tránh, phương hướng nhà ở phải theo phong thủy, cấm theo tử bình. Đợt trước còn bị cao nhân diễn đàn tu vấn hướng nhà theo dụng thân tử bình , may mà k sao, và vẫn quí ảnh , chắc ảnh giưỡn mình chút cho zui thôi , hổng sao ...trụ này quan tùm lum, tử vi thì vũ khúc hay sao, ứng thật, cô độc của vũ khúc cũng giống đa quan tinh , nhiều mà lại very ít đó vậy a. Có khi em này làm cùng ngân hàng thì đúng là đụng hàng .

Thanked by 1 Member:

#228 Tử Phủ Vũ Tướng

    Thái Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 13547 Bài viết:
  • 50203 thanks
  • LocationThiên nhiên

Gửi vào 03/05/2012 - 16:05

Tưởng bác Tanhongthuy là nam hoá ra nữ nhân à?
À, có ls VK y hệt em mà chuyển sang tử bình lại chả có quan tinh nào.
Nhiều Quan tinh hình như tính tình hơi quá nghiêm túc.

Sửa bởi Tử Phủ Vũ Tướng: 03/05/2012 - 16:17


#229 Kimthuy20212054

    Kiền viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPip
  • 1070 Bài viết:
  • 1219 thanks

Gửi vào 03/05/2012 - 16:32

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

TranTienNam, on 23/04/2012 - 10:00, said:

Có vài lời mỗ muốn gửi đến những ai đang muốn tìm thầy học hỏi !
Cổ chí kim, thời nào cũng có người xấu kẻ tốt, cũng như bậc chan sư hay kẻ lừa đảo đội lót thầy.
Nhiều đam mê học hỏi khhb mong mỏi gặp dc ng thầy dẫn dắt con đường học thuật , rồi ko ít ng ngậm ngùi cay đắng vì nhận nhầm thầy lừa, để suốt đời ân hận bởi " nhất tự vi sư, bán tự vi sư " trách mình đui mù lỡ nhận nhầm thầy !

Khhb ko như những ngành nghề khác như hiện nay, chỉ bỏ tiền ra để học, học xong trò ko nhớ tên thầy, thầy ko nhớ mặt trò.
Khhb đặt nặng tôn sư trọng đạo nên mối quan hệ thày trò sâu sắc, cao quý rất nhiều !

Để tránh sai lầm trong việc nhận thầy , các bạn nên :
- Dò hỏi từ những ng quen của thầy để biết thầy là ng đạo đức hay ko.
- Tìm hiểu về đời sống hôn nhân của thầy có bình thường như ng bình thường hay ko . Ko thể ông thầy đó tùm lum vợ, vợ ngoại tình, con ko ai nuôi mà ta nhận làm thầy dc. Làm thầy mà bản thân gia đình ko ra gì làm sao làm thầy dc.
Bác Nam khắt khe quá ko đấy. Reggan 2 vợ vẫn là TT đc iu quí nhất nc mỹ. Beckenbaeur 3 vợ vẫn có cơ ứng cử chủ tịch FiFA săp tới, Mao Nhuận Chi 4 vợ vẫn đc hơn tỷ người tôn sùng như Thánh
Ko nên quan trọng hóa vấn đề gia đình thời đại ngày nay

Thanked by 2 Members:

#230 Tử Phủ Vũ Tướng

    Thái Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 13547 Bài viết:
  • 50203 thanks
  • LocationThiên nhiên

Gửi vào 03/05/2012 - 16:38

Đúng rồi, Thống đốc SBV mà cũng 2 vợ mà.

Thanked by 2 Members:

#231 TanHongThuy

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 383 Bài viết:
  • 334 thanks
  • LocationHanoi

Gửi vào 03/05/2012 - 19:09

Đã gọi là có tới mấy case thiếp là kỷ mùi thì nam hay nữ? Có vẻ hơi rối trí , lượng post bài rất nhiều, nút thanks lia lịa, đọc bài cũng nhiều...ái ngại! Như kiểu tôi muốn quên đi, tôi muốn quên đi ...khi tâm trí bất an dễ sa lầy mạng ảo hoặc một hoạt động gì đó, nhưng hoạt động thể lực thì cân bằng hơn là vùi đầu vào màn hình đau thủ càng thêm thủ đau.

Thanked by 2 Members:

#232 Tử Phủ Vũ Tướng

    Thái Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 13547 Bài viết:
  • 50203 thanks
  • LocationThiên nhiên

Gửi vào 03/05/2012 - 19:29

Tk!

Sửa bởi Tử Phủ Vũ Tướng: 03/05/2012 - 19:37


Thanked by 1 Member:

#233 haohuyen

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 11 Bài viết:
  • 4 thanks

Gửi vào 03/05/2012 - 20:12

5. THỦY nhật chủ thường chứng tỏ sự thông minh tài trí của mình. Có hành nào mà thay đổi được vô số trạng thái của mình như thủy? Nước có thể sắc bén như dao, mềm mại như lụa, trong sáng như gương và trầm đục không nhìn thấy đáy, ở đại dương không thể nhận ra bến bờ. Giống như Mộc, đôi khi hình thì tĩnh, nhưng thực ra các tinh thể của nước đang chuyển động không ngừng, bốc lên thành hơi và đổ xuống thành mưa.

NHÂM(dương thủy): biển, đại dương, thác gầm lớn, luôn chuyển động, vồn vã. Nhâm nhật chủ không bao giờ ngồi yên và tinh thần hướng ngoại. Lúc nào họ cũng có vấn đề nào đó để giải quyết, đôi khi mạo hiểm, liều lĩnh và mất phương hướng. Nhưng họ là những người đi đầu, khi đã nhận nhiệm vụ thì không có sức mạnh nào ngăn trở được. Nếu thái quá hoặc bất cập, đây là những người bất tuân luật pháp, hành động không tính trước được.

chị TPVT luận thử bát tự NA với

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

hihi!


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Sửa bởi haohuyen: 03/05/2012 - 20:13


#234 Tử Phủ Vũ Tướng

    Thái Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 13547 Bài viết:
  • 50203 thanks
  • LocationThiên nhiên

Gửi vào 11/05/2012 - 15:00

Luận nữ mệnh

Trong môn tử bình, trong khi luận cho nam mệnh lấy Tài Quan Ấn làm chính thì nữ mệnh lấy Quan tinh và Tử tinh mà xét. Đó là vì theo quan niệm trọng nam khinh nữ, lấy tam tòng tứ đức làm chính. Nếu Quan và Thực có lợi thì mệnh của nữ cũng tốt đẹp, ngược lại thì xấu. Quan niệm ngày nay có thay đổi, giai cấp thay đổi, nam nữ bình đẳng, nên luận số vẫn phải theo thời, cả nam lẫn nữ đều xét mệnh cục chung. Tuy nhiên, bình đẳng đến mức nào có lẽ để mỗi người tự xét đoán. Chỉ xem lại những cách luận cho nữ theo quan niệm "phu lợi kì phụ tất lợi"* để hiểu và làm tài liệu nghiên cứu.

* (Chồng có lợi thì vợ cũng lợi theo)

Có một cái chung nhất khi luận nam và nữ mệnh, cần nhất là ngũ hành trung hòa, kỵ mệnh thiên khô và cần phải đắc khí. Nếu nam có 8 cách để luận bình thường, thì nữ cũng có "bát pháp" và "bát cách".

Bát pháp là 8 mẫu hình dành cho phụ nữ: Thuần, Hòa, Thanh, Quý, Trọc, Lạm, Xướng, Dâm.

1. Thuần: chỉ có 1 Quan hay 1 Sát lộ, có Tài và Ấn lộ, địa chi không xung, không hình, không có hỗn tạp (thiên chánh đều có gọi là hỗn tạp).

2. Hòa: tứ trụ trung hòa, không quá vượng, không quá nhược, không có khắc, xung, hình, hại; gọi là "hòa bình chi tượng". Người bên ngoài thể hiện rất là điềm tĩnh, rất dễ nhận ra.

3. Thanh: giống như Thuần, chỉ có 1 Quan hay 1 Sát, nếu không lộ cũng không được hỗn tạp, có Tài sinh Quan hoặc có Ấn trợ thân. Người rất thanh quý và hiền hòa.

4. Quý: có Quan tinh trong trụ, không hỗn tạp, Tài tinh vượng sinh cho Quan, địa chi không bị hình xung, lại có Quý nhơn hỗ trợ (Thiên đức, Nguyệt đức, Văn Xương).

5. Trọc: hành Thủy và Thổ đều có và mạnh, thân quá vượng, Quan tinh không có, lại có nhiều Thiên quan (Sát), hoặc không có Tài, Ấn và Thực. Mệnh gọi là tiện cách, thường là vợ lẽ, thứ thiếp hoặc nghề nghiệp không được trọng vọng trong xã hội.

6. Lạm: nhiều Quan tinh và Sát hỗn tạp, Tài vượng nhưng bị ám xung. Mệnh người ham mê vẻ bề ngoài, không hướng nội, hoặc gặp tái giá hay chỉ làm thê thiếp, làm thuê mướn.

7. Xướng: thân cực vượng, mà Quan tinh tọa đất suy bại. Hoặc trụ không có Quan Sát, nếu có lại cùng thấu lộ ra. Thực Thương quá vượng. Mệnh này hoặc là theo nghề ca kỹ, hoặc khắc phu loạn luân.

8. Dâm: thân tự vượng, can loạn trọc hoặc bị đa hợp tranh hợp, chi bị ám, xung, Tài tinh hoặc Thực Thương quá vượng, nhiều Đào hoa tinh. Hoặc tứ trụ Thủy thịnh vượng không có Thổ khắc chế cũng nằm trong pháp này.

Nhìn chung, về nghề nghiệp của phụ nữ cũng bị đặt theo thời thế khi xưa, bây giờ nên xét giảm khinh lại hầu như quá nửa.


Dựa vào Bát pháp cổ nhân đặt ra Bát cách (8 cách cục dành riêng cho nữ mệnh):

1. Vượng phu ích tử: giúp được cho chồng nhưng khắc con. Mệnh có Tài tinh sinh Quan, nhưng Thực Thương bị xung mạnh, nhất là ở trụ giờ, hoặc đất của Thực Thương là đất suy, bịnh, tử, tuyệt.

2. Vượng tử thương phu: có con nhiều, lợi cho con nhưng không lợi cho chồng. Quan hay Sát bị phản sinh, hoặc cung phu là tuyệt địa, trong khi Tử tinh được trường sinh, lại có Tài vượng.

3. Thương phu khắc tử: khắc cả chồng lẫn con. Tệ nhất là can hợp với can của Quan hay Sát mà không hóa được Khí. Hoặc quan tinh bị đa khắc, thí dụ như 2 Mậu khắc 1 Nhâm. Tử tinh lại ở đất suy bại, bị không vong, hình xung.

4. An tĩnh thủ phận: mệnh trung hòa, tình cảm hợp đạo vợ chồng, chung thủy. Tốt nhất là can hợp hóa khí thuận với phu tinh, thí dụ như Quan là Hỏa mà có Mậu hợp Quý đúng thời đắc khí. Tuy nhiên lại có hành khắc chế quan tinh mạnh hơn. Tử tinh cũng đắc trường sinh, không bị xung hình hại. Mệnh có chồng con thuận thảo, chỉ vì thiếu Tài tinh nên chỉ thủ phận nội trợ là yên lành.

5. Hoạch tử yểu chiết: mệnh yểu tướng. Thân nhược mà Sát lại mạnh, nguyên cục bị khắc không có cứu, phu tinh không có, tử tinh làm loạn. Mệnh bị rút khí sớm nên yểu tướng.

6. Phúc Thọ lưỡng bị: vừa có phúc lại thọ. Chi ngày sinh có Lộc, không bị xung ám, phu tinh tọa đất trường sinh lại tọa đất Lộc trụ giờ. Cách này quý hiếm, gọi là Hội Lộc cách, vì chồng và con đều có Lộc (không bị xung khắc). Suốt đời bình an, chồng con đều hưởng.

7. Chánh Phiến tự xử: Chánh là Chánh quan, Phiến là Thiên Quan. Tượng này một là đa hợp, tranh hợp, hoặc có Thương quan và Quan tinh đều vượng khí, duyên phối đến chậm hoặc làm vợ kế, hay chẳng được yên thân, lưỡng lự hai bề.

8. Chiêu giá bất định: Quan tinh ở trụ tháng bị thất thời, tọa bại địa (như Giáp mộc là Quan tinh tọa mộc dục), lại trường sinh ở chi giờ (Giáp trường sinh ở Hợi). Quan tinh không gặp ở thời trung niên, mãi sau mới gặp. Hoặc như các can của Quan tinh bị hợp mà không hóa cũng rơi vào Cách này.

(Sưu tầm)

Thanked by 7 Members:

#235 TanHongThuy

    Hội viên

  • Hội Viên TVLS
  • Pip
  • 383 Bài viết:
  • 334 thanks
  • LocationHanoi

Gửi vào 16/05/2012 - 14:22

Chủ thot cho hỏi làm cách nào trao đổi học thuạt phuong đông riêng , khi pm bị sable ? Tks in advanced.

#236 Tử Phủ Vũ Tướng

    Thái Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 13547 Bài viết:
  • 50203 thanks
  • LocationThiên nhiên

Gửi vào 21/05/2012 - 16:30

Trong lúc nhập môn tử bình thì cứ chúng ta cứ thấy sách nào cũng vơ vào đọc, mình thấy bên blog của bác Dịch học có bài chia sẻ kinh nghiệm về việc Đọc sách của Thiệu Vĩ Hoa.

Đọc sách của Thiệu Vĩ Hoa

Tháng Tám 11, 2011 bởi

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Những người học huyền học ở Việt nam ai cũng biết ông Thiệu Vĩ Hoa, danh dân đương đại Trung Quốc, đại sư dự đoán học nổi tiếng. Sách ông bán đầy đường đầy chợ, nổi bật thống lĩnh thị trường sách học thuật. Đọc sách quả là hay, lý thú, thầy Thiệu đúng là kỳ tài, đoán việc như thần. Nhưng đọc xong rồi, nghiền ngẫm một năm, hai năm, mười năm hình như thấy mình chả tiến bộ, chả hiểu ra được cái gì cả, vậy là sao ?
Ngoài phần tổng hợp rất hay thì thầy Thiệu thường dẫn ra rất nhiều ví dụ minh họa, ví dụ nào thầy cũng đoán đúng cả nhưng đọc mãi vẫn chả hiểu thầy đã đoán như thế nào, đành chỉ biết phục thầy mà tự trách mình căn cơ thấp không lĩnh hội được. Phải đến khi đọc các sách cổ về dịch, tử bình khác mới hiểu ra phần tổng hợp là thầy chép trong sách cổ, còn ví dụ là thầy cố tình đoán theo kiểu che mắt bạn đọc để giấu nghề. Sau đây là dẫn chứng.
Mậu thân Canh thân Mậu dần Quý sửu
Ví dụ này thầy Thiệu nói từ 10 đến 20 tuổi hành tài vận nhâm tuất, thực thần sinh tài, lợi cho thi cử rồi phán nhất định thi đỗ. Thực thần sinh tài thì lợi cho tài chứ sao lại lợi cho thi cử, thầy viết sai trắng trợn thế tức chả coi bạn đọc ra gì. Ví dụ này thực chất là thân nhược thực thương nhiều nên ấn hỏa là dụng thần, trong mệnh chỉ có bính hỏa tàng trong dần mà thôi, dụng thần yếu. Đại vận nhâm tuất không tốt nhưng năm 19 tuổi lúc thi đại học thì vận đã sang nửa sau tuất tỷ kiếp giúp thân là tốt. Năm 1986 Bính dần gặp đúng vận ấn dụng thần trường sinh lại thêm sát ấn tương sinh nên thi đỗ. Ví dụ này đúng ra phải gọi là thân nhược gặp vận ấn tỷ là tốt, thất sát hóa ấn là tuổi trẻ đã thi đỗ. Nhưng viết rõ ra thế thì làm sao khiến bạn đọc ngỡ ngàng bởi câu thực thần sinh tài, lợi cho thi cử, làm sao khiến bạn đọc tưởng thầy có cách đoán cao siêu bí mật gì nữa!
Ngay gần ví dụ này, ở trang sau là ví dụ thi trượt:
Kỷ dậu Đinh mão Mậu tuất Quý sửu
Thầy Thiệu giải rằng thủy thổ hỗn tạp lại hành kiếp vận nên thi hỏng vì thủy thổ hỗn tạp là ngốc, dốt. So sánh với ví dụ trên thấy rất giống nhau, cùng can ngày Mậu thổ, cùng giờ Quý sửu, thế mà ví dụ này bị gán cho cái xấu, ví dụ trên là tốt, nếu cứ bám vào cái câu thủy thổ hỗn tạp thì không thể hiểu nổi sự khác nhau ở đâu. Thực chất là ví dụ này thân quá vượng, mão quan sát vừa bị dậu xung vừa bị tuất hợp lại bị Đinh ấn hóa nên vô dụng, quý thủy cũng bị hợp, tức là thân vượng mà không có dụng thần, hỷ thần nào khả dĩ dùng được, nghĩa là số vốn đã kém. Đại vận Kỷ tỵ, lưu niên Bính dần hỏa thổ quá nhiều là kỵ thần, dần đáng lẽ tốt thì bị hóa sinh hỏa, lại là chỗ can ngày trường sinh. Thân vượng gặp vận vượng, lại được sinh nhiều nên xấu. Vậy trường hợp này là số xấu gặp vận xấu nên thi trượt chứ chả liên quan gì đến thủy thổ hỗn tạp. Chỉ có duy nhất một chi tiết ngũ hành cần nhắc đến là thổ nhiều thì chậm chạp, trì trệ, nặng nữa thì là thổ nhiều thì u tối, đần độn. Nhưng thầy Thiệu đâu có viết ra thế, nếu mọi người đều thấy rõ ràng thì đâu còn là phong cách của thầy! Ví dụ này còn có thể đoán là nữ thân vượng gặp vận ấn nhiều thì dâm loạn nên sau khi thi hỏng chắc phải gấp gấp lấy chồng để hạ ngay hỏa dục đùng đùng kẻo sinh bệnh mà thành ma nữ điên tình. Dục hỏa bốc lên như thế thì đầu óc nào mà học. Vì biết rõ vậy nên thầy Thiệu ra vẻ nhẹ nhàng : “thi đại học gặp khó khăn đấy”. Ối giời ơi, sao thầy không tư vấn cách giải để ma nữ thi đỗ chứ, lại đi vu cho thủy thổ hỗn tạp làm bạn đọc rối mù khi so sánh với ví dụ trên. Sự khác biệt rành rành thì thầy chả nói, lại nói cái giống nhau thì có phải định nhiếp tâm làm loạn thần bạn đọc không?
Còn vô số ví dụ khác, nếu đoán đúng bài bản thì rất rõ ràng dễ hiểu nhưng thầy Thiệu cố tình luận đoán chả theo kiểu nào vẫn ra kết quả làm bạn đọc chỉ biết phục thầy mà không hiểu tại sao nên không học được tý nào, càng đọc càng mù đặc.
Ngoài chuyện có khi đưa sai dữ kiện ngày giờ mà vẫn đoán đúng, thầy Thiệu chuyên nghề đưa ra những kết luận băm bổ, chắc ăn như dao chém đá. Nào là dương nhận gặp tuế quân là họa đột nhiên ập đến, nào nếu không ly hôn thì nhất định gặp họa, nào ba dậu xung phá một mão chưa từng thấy ai không chết…
Ai thì cũng cứ 12 năm lại gặp vận sống dê mà đa số chả bị họa gì. Tôi đã gặp trường hợp ba dậu xung phá một mão mà vẫn tốt, ví dụ như thế đầy rẫy, chỉ vì thầy Thiệu muốn khẳng định cái đúng chắc chắn của mình thôi. Sau đây ta xét một ví dụ mà thầy chém rằng “chắc chắn là chết không nghi ngờ gì nữa” xem thầy có đúng không.
Kỷ mão Tân mùi Nhâm tý Canh tuất
Thầy Thiệu giải rằng năm 1989 đại vận Bính tý, tiểu vận Canh tý là ba sống dê hội với hai kiêu, chắc chắn là chết không nghi ngờ gì nữa. Nhưng ác hại thay là năm 1989 tiểu vận đúng là Tân sửu, tức không còn kiêu với sống dê nữa. Nếu đúng phải chết như thầy kết luận thì đã chết từ năm 1988 rồi vì năm đó tiểu vận mới là Canh tý. Thực ra người này chết năm 1989 Kỷ tỵ vì trong mệnh thân nhược quan sát nhiều nắm lệnh, đại vận tài, lưu niên quan thông gốc tài tạo thành hỏa thổ quá vượng khắc thân. Tiểu vận Tân sửu cùng mệnh tạo ra tam hình sửu tuất mùi, tam hình là rất xấu, khí vượng cùng cực dẫn đến đổ sập, chính tam hình này là nguyên nhân dẫn đến cái chết chứ không phải kiêu hội với sống dê. Năm 1988 trước đó lưu niên Mậu thìn, tiểu vận canh tý sát kiêu tương sinh vẫn chả sao, vì thực chất sống dê tý trợ thân là tốt, nên cái xấu chỉ manh nha tiềm ẩn. Nhưng sang lưu niên Kỷ tỵ thêm một chữ hỏa tài sinh sát, và đủ tam hình thì sát khí cùng cực nên mới gặp họa. Vậy với kết luận của mình thầy Thiệu vừa vu oan cho sống dê kình dương vừa làm loạn trí người đọc. Tin theo các câu kết luận băm bổ của thầy tất sẽ lắm lúc: ”em đây ngây ngô khóc than âm thầm, sao không thấy ứng cũng trường hợp này thầy ơi”!
Tính cách của thầy Thiệu còn thể hiện ở các ví dụ khi có người tỏ ý không tin vào đoán mệnh, thầy có cách rất hiệu quả để đập lại, đó là đốp ngay vào điểm yếu của người ta. Ví dụ có bà quan chức tỏ ra không tin dự đoán, lập tức thầy Thiệu đoán ngay năm 1974 chết chồng khiến bà ta qui phục tức khắc. Một anh cán bộ không tin số phận, thầy đoán ngay ra năm chết vợ làm anh ta bội phục. Những ví dụ này cho thấy thầy quả thật là một thầy bói sành sỏi lão luyện nhưng không kém phần lạnh lùng sắc sảo.
Với tính cách như thế thì việc giấu nghề là tất yếu thôi nhưng đến mức thầy bảo phải đổi giờ người nước ngoài thành giờ Bắc kinh mới đúng thì thật quá đáng. Con người sinh ra bẩm thụ khí trời đất mà thành mệnh vận, khí trời đất đương nhiên là cái khí ở vị trí có con người ở đó chứ đâu phải lấy cái khí đại bá Bắc kinh mà áp đặt được. Thầy có thể đưa sai tứ trụ do nhầm lẫn nhưng cố ý xui dại làm người đọc lẫn lộn thì đấy là thứ tâm địa thâm hiểm hạ tiện của bọn thuật sỹ lưu manh giang hồ. Đó không phải là tư cách củamột học giả chân chính.
Tóm lại ông Thiệu giỏi nhưng không hề muốn truyền đạt kiến thức cho bạn đọc. Tinh thần giấu nghề, giấu bí kíp của ông quá nặng. Cả tin vào danh tiếng lẫy lừng của ông, chỉ đọc sách ông chắc chắn không tiến bộ, không nắm bắt được cái cơ bản nhỏ nhất. Cách viết của ông chỉ duy nhất đề cao cá nhân ông, người đọc phục ông, nghiền ngẫm sách ông nhưng gặp ví dụ cụ thể thì không biết làm thế nào. Chỉ khi đã đọc sách khác, đã nắm được những điều cơ bản, đã thấy ông viết che mắt như thế nào, thì hiểu ra ông là một thầy bói giỏi, người tổng hợp sách điêu luyện. Sách ông là bản tổng hợp có ích cho nhưng ai đã có trình độ cơ bản. Còn cách đoán của ông, các kết luận của ông đều chỉ để tham khảo. Cách xem của ông, các ví dụ sống động hấp dẫn của ông đọc thì hay nhưng không có giá trị vận dụng. Không sớm nhận biết bản chất con người ông thì chỉ làm cản trở sự học của mình. Một bậc thầy mà như thế thì để có kiến thức cổ học người ta chỉ có thể tự mình đi tìm, tự học mà thôi.
(Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

)

Thanked by 5 Members:

#237 teka

    Hội viên mới

  • Hội Viên mới
  • 5 Bài viết:
  • 8 thanks

Gửi vào 22/05/2012 - 11:20

Trích dẫn

Mậu thân Canh thân Mậu dần Quý sửu
Ví dụ này thầy Thiệu nói từ 10 đến 20 tuổi hành tài vận nhâm tuất, thực thần sinh tài, lợi cho thi cử rồi phán nhất định thi đỗ. Thực thần sinh tài thì lợi cho tài chứ sao lại lợi cho thi cử...

ý là nói cách cục Thực thần sinh Tài. Tài cũng không nhất định là tiền bạc, hiểu như vậy thì hơi bị hạn hẹp. Tài là cái mà ta đi khắc, còn Thực thần là cái mà ta tiết tú được, 2 cái này là cách-dụng-hỉ thần thì ở sinh hoạt nào là thành công ở sinh hoạt đó. đi học thì thi đỗ mà buôn bán thì có lời. còn Ấn là sinh ra ta, là một phò trợ, thấu ra năm mà gặp địa chi hỗ trợ thì khả năng thi đậu là đúng.

Trích dẫn

Kỷ dậu Đinh mão Mậu tuất Quý sửu
Thầy Thiệu giải rằng thủy thổ hỗn tạp lại hành kiếp vận nên thi hỏng vì thủy thổ hỗn tạp là ngốc, dốt. So sánh với ví dụ trên thấy rất giống nhau, cùng can ngày Mậu thổ, cùng giờ Quý sửu, thế mà ví dụ này bị gán cho cái xấu, ví dụ trên là tốt, nếu cứ bám vào cái câu thủy thổ hỗn tạp thì không thể hiểu nổi sự khác nhau ở đâu...

lí luận cùng can ngày cùng giờ mà đã rất giống nhau thì cũng hơi bị quá đà, mỗi tứ trụ đều có 1 diện mạo khác nhau, làm sao lí luận như vậy được?

thủy thổ hỗn tạp cũng là đoán mậu quí hợp mà không hóa được nên quí tài tinh không thể sinh quan. mão dậu lại xung nên cả quan lẫn thực cũng không phải là chỗ dụng. thân vượng lấy tài quan làm dụng, mà cả hai đều thất bại, trong khi đó thân vượng mà ấn tinh (đinh) lại cứ nhồi thêm thì bị phản cách. tài quan ấn đều có vấn đề, tức là từ mậu quí hợp bất hóa mà ra. chẳng những thi rớt mà lấy chồng cũng không dễ dàng thuận lợi. tuy nhiên, đoán cho nữ thường chung qui toàn luận Quan tinh là chính, nên có khuyên ráng lấy chồng xây dựng gia đình hơn là học hành thì cũng phải đạo.

Ông Thiệu cũng đâu có thấy khuyên phải lấy chồng?

Trích dẫn

Ví dụ này còn có thể đoán là nữ thân vượng gặp vận ấn nhiều thì dâm loạn nên sau khi thi hỏng chắc phải gấp gấp lấy chồng để hạ ngay hỏa dục đùng đùng kẻo sinh bệnh mà thành ma nữ điên tình. Dục hỏa bốc lên như thế thì đầu óc nào mà học.

chỉ là người bình luận chủ quan quá mức, giống như quen biết rõ cá nhân người hỏi mệnh.

Sửa bởi teka: 22/05/2012 - 11:49


Thanked by 3 Members:

#238 Tử Phủ Vũ Tướng

    Thái Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 13547 Bài viết:
  • 50203 thanks
  • LocationThiên nhiên

Gửi vào 23/05/2012 - 16:15

Hỉ dụng thần và những điều quan yếu

Phép xem tử bình việc mấu chốt là phải tìm ra được dụng thần cho đương số.
Vậy dụng thần là gì?
Dụng trong chữ Sử dụng, dụng thần có nghĩa nôm na là: yếu tố được sử dụng để số mệnh được tốt hơn. Yếu tố này thể hiện dưới dạng ngũ hành và can chi, trong khoa tử bình.
Như vậy, dụng thần có thể là một trong các hành Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ, có thể là một trong các can từ Giáp đến Quý, hay là một trong các chi từ Tí đến Hợi.

Dụng thần là cái có tác dụng lớn nhất, cần thiết nhất trong tứ trụ. Khác với vệ thần, kỵ thần, hỉ thần, dụng thần có sức cứu giải và ảnh hưởng đặc biệt. Nếu không tìm nổi dụng thần, thì một là số xấu, buộc phải chấp nhận thiệt thòi, hai là rất khó dự đoán đúng vận hạn cuộc đời .
Dụng thần không nhất thiết là hành yếu nhất trong tứ trụ, không nhất thiết là hành sinh cho thân, nói tóm lại không có dụng thần theo kiểu sản xuất công nghiệp, mà đòi hỏi sự tinh tế và chắc chắn trong tay nghề của người giải số.
Nguyên tắc của dụng thần thông thường là :
- Phát huy cách cục tốt trong trụ
- Chế giải cách cục xấu
- Điều hoà âm dương ngũ hành của trụ.

Một lá số gặp được dụng thần, thì mức cao nhất là phú quý, mức thấp hơn thì cuộc đời được thuận lợi vui vẻ, ít nhất thì cũng có thể giảm đi nhiều tai hoạ.
Dụng thần có thể nằm ngay trong tứ trụ, có thể không có trong tứ trụ. Khi không có trong trụ thì ta tìm dụng thần trong tên goị, trong đại vận, trong nghề nghiệp, trong tuổi của người thân, trong môi trường và phong thuỷ. Cuối cùng thì trong tuổi của bạn bè, đối tác.
Dụng thần biến hoá tuỳ theo cách cục của từng trụ. Ví như điểm xấu của trụ là thân nhược, thì dụng thần phải là can chi hay hành làm cho thân vượng.
Nếu thân đang quá vượng, thì dụng thần là can chi hay hành làm cho thân nhược bớt đi.
Tuy nhiên dụng thần không nên phá mất quý khí, có những trường hợp hành vượng đang là quý khí, thì chọn dụng thần phải khéo léo để điều hoà mà không khiến cho thui chột.
Dụng thần có phân định giữa ngũ hành và can chi, ví dụ nếu hành hoả là dụng thần thì không có nghĩa là Bính Đinh Tỵ Ngọ đều dùng được, bởi lẽ can chi còn có quan hệ xung hợp, hợp hoá làm cho ngũ hành bị thay đổi. Điều này hết sức quan trọng, không được phép lơ là khi chấm số.

Hỉ thần đứng sau dụng thần, hoàn toàn không phải hành sinh cho dụng thần như một số người nói, mà là hành hay can chi có lợi cho tứ trụ, nhưng vai trò không lớn, không thực sự cần thiết như dụng thần. Cũng như trong đời, mình cần thức ăn nước uống, đó là dụng, còn đồ trang sức, cái nhà đẹp... là hỉ thần vậy.
Vệ thần khá dễ hiểu, là thần bảo vệ: cái gì yếu quá trong trụ thì cần có bảo vệ, vì nếu quá yếu sẽ tượng trưng cho bệnh tật, hoặc trong thân nhân có người yếu kém, hoặc trong vận số có tiềm ẩn tai hoạ. Vệ thần dùng để bảo vệ trong trường hợp này. Khái niệm vệ thần PC nghe lần đầu từ Sư huynh HTM, thấy cũng có ý nghĩa rất nên xem xét.

Kỵ thần ngược với dụng thần, là yếu tố mà đụng vào thì xui, đương số cần tránh. Chỉ cần hiểu sơ sơ vậy là được. Kỵ thần sử dụng để tránh các tuổi, các ngành nghề,phương vị, năm tháng... tương ứng nhằm giảm thiểu rủi ro. "


Dụng thần thường sẽ là:
- Can chi trợ cho thân, khi thân nhược.
- Can chi hoá giải sự xung khắc giữa các can chi trong trụ.
- Can chi có lực nhất trong trụ và thể hiện sự giàu sang phú quý.

Hỉ thần thường là:
- can chi đem lại giàu sang phú quý.
- Can chi tương trợ dụng thần mà không ảnh hưởng hoá hợp hay sinh hoá ra kỵ thần.
( Phượng Các - tuvil
yso.com)

Thanked by 3 Members:

#239 Tử Phủ Vũ Tướng

    Thái Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 13547 Bài viết:
  • 50203 thanks
  • LocationThiên nhiên

Gửi vào 30/05/2012 - 16:31

MẪU NGƯỜI QUA CÁC CHÍNH CÁCH

Thực thần cách
Bổn thân ưa chuộng tự do cá nhân và một cuộc sống thảnh thơi. Vô tư, lạc quan, yêu thích thơ văn, ca vũ nhạc, thích làm những gì tự hưởng thụ được. Tính tình hiền lành, vẻ hòa nhã và rất hướng về thiên nhiên, đương số không chịu đựng được áp lực và hòan cảnh thúc bách.

Thương quan cách
Nhật chủ tỏ ra đầy nghị lực, ưa họat động, cạnh tranh, nhiều tham vọng. Thu thập kiến thức rất nhanh, phản xạ nhạy bén và đặt toàn sự ưu tiên cho chính mình. Vì thế rất có khuynh hướng lấn át người khác vì quá ngang ngạnh. Mẫu người tự do như Thực thần cách, nhưng không thích hợp với các nghề nghiệp mang tính cộng đồng.

Chính tài cách
Người rất đáng tin cậy, thận trọng trong lĩnh vực quản lí tài chính và thương nghiệp. Xem trọng gia đình là chỗ dựa cho mình. Ưa thích những việc chính danh ngôn thuận, lại giản dị và xây dựng sự thịnh vượng của mình qua tính siêng năng, chuyên cần, bền chí.

Thiên tài cách
Đương số cũng thích hợp cho ngành quản lí kinh tế, nhưng thường thu họach trong cơ hội nhiều hơn là sự kiên trì như Chính tài cách. Tính tình linh hoạt, luôn tự cảnh giác, mà lại dễ chan hòa kết bạn giao du thân mật. Tóm lại, Thiên tài cách là mẫu người hào phóng, không chần chừ cẩn thận như Chính tài cách. Cả hai đều là các doanh nhân thành đạt nếu cách cục hoàn mĩ.

Chính quan cách
Người rất chính trực, liêm khiết, tỏ vẻ quyền quí sang trọng, nhưng rất khiêm tốn và lịch sự. Cũng giống như Chính tài cách về mặt tin cậy, đương số có kỉ luật và sẵn lòng giúp đỡ. Tinh thần trách nhiệm cao là đặc điểm quí báu nhất của mẫu người này nên rất được kính trọng.

Thiên quan cách
Còn gọi là Sát nếu trong trụ có Kiêu thần (Thiên Ấn). Bổn thân rất cường tráng, đầy khí lực, can đảm và quyết đoán. Không sợ bất kì sự gian khổ, thử thách cam go nào, đương số rất ưa chuộng sự thách thức mà lại thích ra hiệu lệnh hơn là nhận lệnh. Cá tính nổi bật giống như Chính quan là họ cũng tán dương công lý nhưng kém khoan dung, tha thứ hơn. Tính ưa thích thử thách, công kích và hơn người khác qua sức mạnh của mình thường dễ gây xúc phạm với người đối diện.

Chính ấn cách
Người đạt cách này tỏ ra rất chuyên tâm, có lòng ân cần, tử tế, và cũng rất ngay thẳng như Chính quan cách. Nổi bật là lòng trắc ẩn, từ bi và dễ khoan dung. Mẫu người thành đạt ở những công việc của gia đình, xã hội, cộng đồng, mà người khác rất kính trọng và yêu mến.

Thiên ấn cách
Đương số có cách cục này là người có kỹ năng kỹ xảo tốt, linh động, khéo léo trong mọi việc. Thông minh sắc sảo, luôn quan sát kỹ lưỡng từ mức độ thận trọng đến đa nghi, hay ngờ vực. Về xã hội tính thì lại vì tính tình rất điềm tĩnh, không tỏ lộ thiện cảm rõ ràng nên chỉ thành công ở những công việc cá nhân, thu hẹp ở góc độ ít giao tiếp.

(Sưu tầm)

Sửa bởi Tử Phủ Vũ Tướng: 30/05/2012 - 16:32


Thanked by 4 Members:

#240 Tử Phủ Vũ Tướng

    Thái Dương

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 13547 Bài viết:
  • 50203 thanks
  • LocationThiên nhiên

Gửi vào 03/06/2012 - 17:23

Sinh ngày Nhâm Quý

Nhâm: Dương Thủy – sinh vào mùa xuân, hạ là cát
Thuộc tính của Nhâm Thủy là Dương, là Thủy chảy ở đầm nước ngọt, có thể nuôi dưỡng cỏ cây, vạn vật. Sinh ngày Nhâm, sinh vào tháng mùa xuân, mùa hạ là tốt nhất. Nếu sinh mùa thu, mùa đông kém cát hơn một chút. Nếu gặp Dần, Ngọ, Tuất, Quan tinh, có thể có khí trợ giúp, có thể có danh tiếng lẫy lừng. Nếu gặp Kim cục, lại sinh vào tháng tám, cũng có thể có danh lợi song toàn. Nếu gặp Thủy cục, lại sinh vào tháng ba, là sao Thiên Đức chiếu mệnh, chủ về phú quý. Nếu sinh ngày Nhâm và địa chi Hợi, Mão, Mùi hành vận ở phương nam có thể sẽ phát tài.

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn


Quý: Âm Thủy – sinh vào thời điểm giữa mùa xuân và thu là cát
Thuộc tính của Quý Thủy là Âm, là Thủy của biển cả rộng lớn, không thể nuôi dưỡng vạn vật. Cũng có quan điểm cho rằng Quý Thủy là nước mưa, sương ở các ao hồ, có thể trợ giúp vạn vật sinh trưởng. Người sinh ngày Quý, sinh vào thời điểm giữa mùa xuân và mùa thu là tốt nhất, hành vận ở phương Tỵ, Ngọ, Tuất thuộc Hỏa sẽ vô cùng phát đạt; tối kỵ phạm vào vận Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, dù có thành công cuối cùng cũng thất bại. Địa chi Hợi, Mão, Mùi hợp thành Mộc cục tổn vượng ích tài. Nếu không gặp Dần Giáp, danh lợi song toàn. Nếu gặp Kỷ Thổ và tháng Sửu, Mùi, lại mang tam hình chủ về bình thường, khi bắt đầu chưa chắc đã thành công, nhưng cuối cùng cũng sẽ phát đạt. Nếu trong ngũ hành trợ giúp thân vượng. Hành vận Tài, Quan cũng rất tốt, mệnh chủ nhất định được phú quý.
Sinh ngày Nhâm, Quý: được Kim trợ giúp – chủ về quý
Người sinh ngày Nhâm, Quý, tọa ở chi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ, Ngọ là Huyền Vũ đương quyền. Nên hành vận ở ranh giới của Hỏa, Mộc. Nếu thái quá hay thiên về Âm thiên về Dương, đều là quý mà không thực. Nếu sinh vào bốn tháng quý thuộc Thổ, và tháng Tỵ, Ngọ, có trụ giờ là Hợi, Tý; hoặc sinh vào mùa đông, có trụ giờ là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ, Ngọ đều quý. Nếu không sinh vào những giờ đó chỉ có hư danh, hư lợi. Thích hành vận ở ranh giới giữa Kim, Thủy. Được Kim trợ giúp thì vinh, không có Kim thì Thủy tuyệt. Kỵ gặp Tỷ Kiên, Kiếp Tài. Nếu sinh vào tháng mười một trong mùa đông, địa chỉ lại có tam hợp Thủy cục thì Thủy tràn lan khắp nơi, Thổ sạt lở. Cho nên, Thủy không có Thổ sẽ tràn lan, Thổ không có Thủy sẽ khô cằn, Thổ có Thủy được ẩm ướt và thông khí, Thủy có Thổ thành đê, thành sông. Hai nguyên tố này có thể trợ giúp lẫn nhau. Nếu lại có vận khí thích hợp nhất định có phúc, quý, hiển đạt.
Xác định Tài, Quan của người sinh vào sáu ngày Nhâm
Người sinh vào sáu ngày Nhâm, ngoài Nhâm Thìn là Khôi Cang có hợp, kỵ của Tài Quan luận theo trụ ngày; năm ngày Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhâm Thân, Nhâm Ngọ, Nhâm Tuất đều coi Bính, Đinh thuộc Hỏa là Tài, Kỷ Thổ là Chính Quan, Mậu Thổ là Thiên Quan. Nếu trong tứ trụ có Bính, Đinh, Kỷ phải sinh vào Hỏa, Thổ cục của tháng mùa hạ và bốn tháng quý thì Tài, Quan mới tác dụng. Nếu không có ba Can đó, nhưng sinh vào mua hạ thuộc Hỏa cục cũng có thể coi là có Tài, Quan. Gặp Nhâm, Quý thuộc Thủy là Kiếp Tài; gặp Ất Mộc là Thương Quan, không có danh lợi. Nếu sinh vào mùa xuân, mùa đông, hoặc thuộc Thủy, Mộc cục, dù Tài, Quan cũng không có khí; dù được trợ giúp cũng không có nhiều danh lợi. Thích hành vận phương nam, bốn tháng quý thuộc Hỏa, Thổ, ở phương vị hướng Quan lâm Tài. Nếu trong trụ có Mậu, Kỷ là Quan và Sát hỗn tạp, nếu không có nhân tố khắc chế lại chủ nghèo khổ, hạ tiện. Nếu trong tứ trụ không có Kỷ mà có Mậu, và không có nhân tố khắc chế được coi là Quỷ, cần phải phân biệt mức độ mạnh, yếu của quỷ mới có thể đoán định cát hung, thọ yểu. Nếu khắc chế thích hợp là Thiên Quan; khắc chế thái quá lại không có phúc. Càng phải xem kỹ lương Can của trụ ngày trong trụ tháng có được trợ giúp hay không, phân biệt tình hình của tiết khí rồi mới luận đoán. Thích hành vận ở phương vị Thân vượng, Quỷ suy; kỵ hành vận phương vị Thân suy, Quỷ vượng.
Xác định Tài, Quan của người sinh vào sáu ngày Nhâm
Người sinh vào sau ngày Quý như Quý Dậu, Quý Mùi, Quý Tỵ, Quý Mão, Quý Sửu, Quý Hợi coi Bính, Đinh thuộc Hỏa là Tài, Mậu Thổ là Chính Quan, Kỷ Thổ là Thương Quan. Nếu trong tứ trụ có Bính, Đinh, Kỷ phải sinh vào Hỏa, Thổ cục của tháng mùa hạ và bốn tháng quý thì Tài, Quan mới tác dụng. Nếu không có ba Can đó, nhưng sinh vào mua hạ và bốn tháng quý thuộc Hỏa, Thổ cục cũng có thể coi là có Tài, Quan. Gặp Nhâm, Quý thuộc Thủy là Kiếp Tài; gặp Ất Mộc là Thương Quan, không cát lợi. Nếu sinh vào mùa xuân, mùa đông, hoặc thuộc Thủy, Mộc cục, dù Tài, Quan cũng không có khí. Thích hành vận phương nam và bốn tháng quý thuộc phương vị Tài, Quan. Kỵ có Quan và Sát hỗn tạp, nếu có Sát mà không có nhân tố khắc chế được coi là Quỷ. Nếu khắc chế thái quá thì hung. Cần phải xem kỹ lưỡng Can của trụ ngày trong trụ tháng có được trợ giúp hay không rồi mới phán đoán. Thích hành vận ở phương vị Thân vượng, Quỷ suy; kỵ hành vận phương vị Thân suy, Quỷ vượng.
- Trích “Tam mệnh thông hội” -

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |