Đạo Dịch với Tôn Giáo (Phật; Lão; Nho; Chúa...)
#16
Gửi vào 25/11/2011 - 21:22
Nhược giả Đạo chi dụng.
Thiên hạ vạn vật sanh ư Hữu;
Hữu sanh ư Vô."
Dịch nghĩa (T.G.N.D. Cần)
"Trở về là cái động của Đạo;
Yếu, mềm là cái dụng của Đạo.
Vạn vật dưới trời sanh nơi Có;
Có sanh nơi Không"
Bình :
Thu Giang nói :Ta nên hiểu câu "Yếu mềm là cái dụng của đạo" tức là lấy yếu mềm làm phương pháp để trở về với Đạo"
Mở rộng ra câu "Vạn vật dưới trời sanh nơi có" tức là "Sanh" cũng là động mà động mạnh mẽ, là hướng ra.
"Phản" là trở về (vào) lấy mềm yếu làm dụng - động mềm nhuyễn.
"Sanh" là trở ra (ra) lấy sinh trưởng làm dụng - động mạnh mẽ.
Hướng tâm : Vào Nam, tượng quẻ Ly, trong rỗng rang thanh tịnh.
Ly tâm : Ra Bắc, tượng quẻ Khảm, ngoài mềm mại.
#17
Gửi vào 27/11/2011 - 02:40
PhapVan, on 22/11/2011 - 16:44, said:
PhapVan có suy nghĩ : y pháp (pháp tượng) bất y lời, người nhập được vào tượng cũng không nhiều, cần ngộ tính cao, Vì thế cổ nhân truyền lại có Tượng và Từ. Các học giả về sau tán Từ nhiều quá thành ra từ chương, càng đọc càng xa dần gốc. Nay đi lại từ Từ (lời kinh) rồi vào tượng. Tượng là tướng, Từ là danh, danh tướng thống nhất thì cũng không đến nỗi xa dịch quá.
Không chấp vào danh tướng (Thấy núi không là núi) cũng chẳng hủy hoại danh tướng (Thấy núi vẩn là núi) đó là Tâm Như Nhiên vô sở trụ :
Dịch. Vô tư dã. Vô vi dã. Tịch nhiên bất động. Cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố. Phi thiên hạ chi chí thần. Kỳ thục năng dữ ư thử.
Dĩ ngôn giả thượng kỳ từ. Dĩ động giả thượng kỳ biến. Dĩ chế khí giả thượng kỳ tượng. Dĩ bốc phệ giả thượng kỳ chiêm.
Thị dĩ quân tử tương hữu vi dã. Tương hữu hành dã. Vấn yên nhi dĩ ngôn. Kỳ thụ mệnh dã như hưởng. Vô hữu viễn cận u thâm. Toại tri lai vật. Phi thiên hạ chi chí tinh. Kỳ thục năng dữ ư thử.
Tham ngũ dĩ biến. Thác tống kỳ số. Thông kỳ biến. Toại thành thiên hạ chi văn. Cực kỳ số. Toại định thiên hạ chi tượng. Phi thiên hạ chichí biến. Kỳ thục năng dữ ư thử.
Sửa bởi daicoviet: 27/11/2011 - 03:02
Thanked by 2 Members:
|
|
#18
Gửi vào 03/12/2011 - 17:41
daicoviet, on 27/11/2011 - 02:40, said:
Dịch. Vô tư dã. Vô vi dã. Tịch nhiên bất động. Cảm nhi toại thông thiên hạ chi cố. Phi thiên hạ chi chí thần. Kỳ thục năng dữ ư thử.
Dĩ ngôn giả thượng kỳ từ. Dĩ động giả thượng kỳ biến. Dĩ chế khí giả thượng kỳ tượng. Dĩ bốc phệ giả thượng kỳ chiêm.
Thị dĩ quân tử tương hữu vi dã. Tương hữu hành dã. Vấn yên nhi dĩ ngôn. Kỳ thụ mệnh dã như hưởng. Vô hữu viễn cận u thâm. Toại tri lai vật. Phi thiên hạ chi chí tinh. Kỳ thục năng dữ ư thử.
Tham ngũ dĩ biến. Thác tống kỳ số. Thông kỳ biến. Toại thành thiên hạ chi văn. Cực kỳ số. Toại định thiên hạ chi tượng. Phi thiên hạ chichí biến. Kỳ thục năng dữ ư thử.
Dịch. Vô tư dã. Vô vi dã. Tịch nhiên bất động.
1. Dĩ ngôn giả thượng kỳ từ. - Vấn yên nhi dĩ ngôn. - Toại thành thiên hạ chi văn.
2. Dĩ động giả thượng kỳ biến. - Cực kỳ số. - Thông kỳ biến.
3. Dĩ chế khí giả thượng kỳ tượng. - Vô hữu viễn cận u thâm. - Toại định thiên hạ chi tượng.
4. Dĩ bốc phệ giả thượng kỳ chiêm. - Toại tri lai vật. -
5. Phi thiên hạ chi chí thần. - Phi thiên hạ chi chí tinh.- Phi thiên hạ chichí biến. Kỳ thục năng dữ ư thử.
Thị dĩ quân tử tương hữu vi dã. Tương hữu hành dã. Kỳ thụ mệnh dã như hưởng.
Sửa bởi PhapVan: 03/12/2011 - 17:51
#19
Gửi vào 06/12/2011 - 14:51
QUAN ÂM BỒ TÁT BỒ ĐỀ TÂM KỆ
Tiên Thiên Địa vô chung vô thỉ
Tâm Bồ Đề tức thị chơn nguyên
Thanh Minh một cõi Tịnh Thiền
Bất Sanh, bất diệt linh thiêng muôn đời
Vào Sanh Tử dạo chơi biển tục
Đi khắp miền Địa ngục trầm luân
Bồ Đề tâm chẳng nhiễm trần
Kim Cang Bát Nhã phân thân khắp cùng
Cõi vạn hữu muôn từng ứng dụng
Cảnh Vô Vi linh ứng vô biên
Vị lai quá khứ hiện tiền
Thần Thông diệu dụng, khắp miền thông tri
Tam Thế Phật huyền vi Pháp Bửu
Tâm Ấn là diệu hũu chơn không
Hữu vô hai lẽ cùng đồng
Vô là thanh tịnh hữu thông mọi đường
Người phía Đạo, Âm Dương khá biết
Động là Dương, Âm thiệt tịnh thanh
Âm thành tức thị dương sanh
Âm dương hòa hiệp mới sanh đạo mầu
Đạo tức Pháp cao siêu huyền diệu
Vô Vi mà có triệu hũu vi
Thậm thâm máy tạo ly kỳ
Sanh sanh, hóa hóa tác vi chẳng ngừng
Điểm Thái Cực biết ngưng Bửu Pháp
Tức Bồ Đề chủng nạp lưỡng nghi
Linh Nha phát triển cơ vi
Trang nghiêm Cửu Phẩm Liên Trì Tây Phương
Hóa chư Phật ba ngàn Thế Giới
Cân đẩu vân tứ hải ngũ hồ
Vạn Bang thâu một bản đồ
Tức là Vô Cực Huyền Đô cõi Thiền
Quy Vạn Pháp Tâm điền nhứt quán
Như Ý chân thiên vạn ức sanh
Tùy duyên vận chuyển phép linh
Hóa thân khắp hiện tầm thinh độ người
Phép Bồ tát muôn đời chẳng đổi
Đạo Từ Bi hạnh Tối Thượng Thừa
Bến Thiền đò giác trực đưa
Rước người lương thiện sớm trưa chẳng nài
Nương Lục Độ quảng khai Đại Đạo
Mở Bồ Đề truyền giáo độ sanh
Đạo ta chỉ một phép lành
Vô thượng Đẳng Giác mà thành Kim Thân
Dắt dìu nam nữ nguyên nhơn
Vãng sanh Cực Lạc an thân Bồ Đề
Tôn Sư Minh Trực
Thanked by 1 Member:
|
|
#20
Gửi vào 10/12/2011 - 20:04
Nói cách khác:trong thì tu thân,ngoài thì tùy theo hoàn cảnh mà biết xử thế (1 âm,1 dương chi vị Đạo).Thánh nhân gọi đó là tính Lưỡng Hành.
Thanked by 3 Members:
|
|
#21
Gửi vào 09/01/2012 - 14:12
Xin các cao nhân cho ý kiến.
#22
Gửi vào 24/02/2012 - 20:02
Thanked by 1 Member:
|
|
#23
Gửi vào 24/02/2012 - 20:07
#24
Gửi vào 26/02/2012 - 22:14
_ Nước Trịnh có 1 người đồng bóng rất tài tên là Quý Hàm,biết được cả sự sống chết,còn mất,may rủi,thọ yểu,lại hẹn được từng năm,từng tháng,từng tuần,từng ngày,đoán trúng như thần.
Người nước Trịnh thấy anh ta đều bỏ chạy.
Liệt Tử thấy anh ta thì me6say.Về,đem việc ấy thưa lại với thầy là HổTử:
_Trước đây tôi cho Đạo của thầy là đã đến mực rồi!Nhưng nay lại có kẻ còn tài giỏi hơn!
Hồ Tử nói:
_ Ta dạy ngươi chỉ mới đến chỗ cùng của phần văn,chưa dạy đến chỗ cùng của phần thực(1).Ngươi cho thế là được đến Đạo rồi ư?Lũ gà mái không chịu trống mà lại đẻ,thì trứng làm gì nở được(2)?Ngươi đem Đạo chống với đời,tất phải tỏ nó ra ngoài,nhân thể mới để cho anh ta xem tướng được.Người hãy thử cùng nó đến đây,đưa ta cho nó xem!
Ngày mai,Liệt Tử cùng hắn vào ra mắt Hồ Tử.
Ra ngoài,gọi Liệt Tử mà bảo:
_ Ôi!Thầy của tiên sinh chết rồi!không sống được nữa!Cũng chẳng được vài tuần đâu!Ta thấy lạ quá:thấy như là tro ẩm?
Liệt Tử vào,nước mắt ướt đầm cả áo,đem nói lại với Hổ Tử.Hồ Tử nói:
_KHi nãy,ta hiện vẻ <<địa văn>>(3) cho nó xem mầm sống không động,không dừng(4).Chắc là anh ta nhìn thấy cái nền tảng vững chắc của cái Đức của ta.Lại ngươi thử cùng hắn tới đây lần nữa!
Ngày mai,Liệt Tử cùng hắn vào ra mắt Hồ Tử.Bước ra về,gọi Liệt Tử, nói:
_May thay! Thầy của tiên sinh gặp được ta,có phần thuyên giảm nhiều,chắc là sống được.Ta thấy cái máy quyền biến đã phát động rồi!
Liệt Tử trở vào,đem thưa lại với Hồ Tử.
Hồ Tử nói:
_ Khi nãy,ta hiện vẻ <<thiên nhưỡng>>(5) cho hắn ta xem:danh lợi không cảm được lòng(6)nhưng quyền cơ của mầm sống phát động ngay từ gốc(7).Chắc là ông ta thấy được cái cơ phát động của nguồn sống(8) nơi ta>Vậy,ngươi thử cùng anh ta tới đây!
Ngày mai,Liệt Tử cùng ông ấy vào ra mắt Hồ Tử.Ra về,gọi Liệt Tử mà bảo:
_ Thầy của tiên sinh ở trang thái không quân bình,cho nên không định,ta không thể xem được.Vậy,thử chờ cho đồng đều lại rồi sẽ trở lại xem cho.
Liệt Tử trở vào,đem thuật lại với Hồ Tử.
Hồ Tử nói:
_Khi nãy ta hiện vẻ <<thái xung>> mờ mịt(9) cho hắn xem.Chắc là anh ta thấy cái khí quân bình của ta,nên không nhận rõ gì cả.Rõ là 1 cái vực sâu,chỗ mà cá nghê vùng vẫy,nơi mà nướ tụ,nơi mà nước chảy dồn vào,thật là 1 cái gì hỗn độn(10),cho nên cái vực sâu ấy có d9e6n1 tên,trên đây đã là 3 rồi.Người hãy thử cùng hắn đến đây!
Ngày mai,Liệt Tử cùng hắn vào ra mắt Hồ Tử.
Đứng chưa yên chỗ,hết hồn bỏ chạy.
Hồ Tử bảo:<<Đuổi theo hắn đi!>>
Liệt Tử đuổi theo mà không kịp,trở về thưa với Hồ Tử:<<Đã mất dạng rồi!Tôi không theo kịp!>>
Hồ Tử nói::
_Khi nãy ta hiện cho hắn xem cái bản thể vừa mới xuất tự NGUỒN GỐC.Ta cho hắn thấy cái HƯ KHÔNG mà thản nhiên(11) nên hắn không nhận biết là gì,nhân thế mà ta làm ra vẻ uể oải,làm ra vẻ sóng tan,cho nên hắn mới chạy trốn.
Về sau Liệt Tử trở về cái học về <<vị thuỷ>>(12).3 năm không ra khỏi cửa ,nấu cơm cho vợ,nuôi heo như nuôi người(không phân biệt vật và người),không tha thiết đến việc gì cả.Phá bỏ mọi trng sức giả tạo để cho lòng trở về cõi thuần phác tự nhiên.Thành như cục đất,giũa cảnh náo nhiệt mà lòng vẫn không xao động.Như thế,cho đến trọn đời mình.
Thanked by 3 Members:
|
|
#25
Gửi vào 29/02/2012 - 16:48
Vạch thượng : Ngôi cha
Vạch trung : Nhân hào, ngôi con
Vạch hạ : Ngôi Thánh thần, nhân duyên.
Cuộc đời Chúa Jesus, nhập thể làm người như tiến trình 8 quẻ cung Càn.
Dịch nói về quẻ Ly như lửa, lửa ấy có thể tắt. Có thứ lửa không tắt, lửa ấy "nương mình nơi rỗng không", lấy lòng nhân làm gốc. Lòng nhân là mộc, Dịch nói về quẻ Chấn và Tốn, một khai mở, một nhu thuận. Hào 1 quẻ Chấn dương, hào 1 quẻ Tốn âm, nhất dương nhất âm chi vi đạo.
Trong kinh Cựu Ước, có nói về hình ảnh Chúa hiện ra dưới hình ngọn lửa.
Sửa bởi Minh An: 29/02/2012 - 16:52
Thanked by 2 Members:
|
|
#26
Gửi vào 01/03/2012 - 11:29
Mùa Xuân tìm hiểu Quẻ Địa Thiên Thái
Quẻ Địa Thiên Thái gồm nội quái là Kiền và ngọai quái là Khôn, 2 quẻ đầu trong 64 quẻ Kinh Dịch. Thái có nghĩa to lớn, thông suốt, tốt đẹp, yên ổn
-Tượng quẻ cho thấy, hạ quái là Kiền, tức Dương khí của Trời hạ xuống; thượng quái là Khôn, là Đất, tức Âm khí bay lên, thể hiện sự gặp gỡ giao hòa giữa Trời Đất, hiểu rộng ra là hai khí Âm Dương giao tiếp nhau, tượng trưng sự hanh thông trong định luật thiên nhiên.
-Áp dụng vào phương diện thời tiết: Khí Dương giáng xuống len lỏi vào trong lòng đất, đun đẩy tác động làm cho đất màu mỡ phát triển nuôi sống cây cỏ tươi tốt. Khí âm bay lên, hòa cùng khí Dương làm cho mưa thuận gió hòa
- Đối với vận hạn chúng sanh: Thái là thời Trời ban rải ân lành xuống cho thế gian, và chúng sanh nói chung, con người nói riêng đều một lòng ngưỡng vọng ân cao đức cả của Đấng Tạo Hóa, hết lòng sống thuận tùng thiên lý, nên cảnh thế gian thái bình hạnh phúc, bốn phương cộng lạc.
-Xét về Hình nhi hạ, tượng quẻ cho thấy : Kiền biểu hiệu cho bậc lãnh đạo, hạ mình xuống hòa hợp với nhân dân, chăm lo cho nhân dân được tượng trưng bởi quẻ Khôn, thể hiện tính nhu thuận tuân hành sự điều động cai trị của người lãnh đạo cho nên tạo nên được thời thái bình thạnh trị cho quốc gia. Như thời Nghiêu Thuấn, trên nói dưới nghe. Con người làm được sứ mạng thế Thiên hành hóa, tiếp nối Trời trong việc sanh hóa vạn vật nơi chốn hữu hình trong vai trò chủ tể muôn loài để "tài thành Thiên Địa chi Đạo, phụ tướng thiên địa chi nghi, tả hữu dân" như lời Đại tượng truyện quẻ Thái.
-Do vậy, Hình tượng quẻ Thái còn có thể được hiểu : Kiền là Dương tượng trưng cho Trời và Khôn là Âm tượng trưng cho người. Vì Trời –Người vốn đồng bản thể linh quang, nhưng Trời vô hình, còn Người hữu hình. Thời Thái là giai đọan tâm Trời và tâm người có sự cảm ứng tương liên, vì con sống trong khuôn mẫu đạo đức theo đúng luật Trời, thể hiện được tinh thần Thiên nhân hiệp nhứt.
Trong phần Thóan truyện, Thánh nhân nói: Nội dương nhi ngọai âm, nội kiện nhi ngoại thuận, nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân. Kiền ở trong tượng trưng cho quân tử và Khôn ở ngòai tượng trưng cho tiểu nhân. Thời Thái là thời thịnh trị của người quân tử là người có đức tính tốt đẹp đạo đức, thuần lương thánh thiện, hạng tiểu nhân phải né tránh, lánh xa.
-Quân tử và tiểu nhân không chỉ được hiểu hạn hẹp trong ý nghĩa ngôn ngữ nhân gian, mà có thể được xem là 2 phần đối lập trong một con người: Đó là chơn thần và thức thần. Chơn thần tốt đẹp ví như người quân tử, còn thức thần bị tập nhiễm do bị chỉ huy bởi thất tình lục dục, tham sân si nên bị coi như là tiểu nhân. Nếu con người có sự giác ngộ, sáng suốt, biết phân biện thiện ác, không để thức thần lôi kéo xa rời đạo lý, là con người tiến gần đến chỗ "Quân tử đạo trưởng , tiểu nhân đạo tiêu dã" có nghĩađạo người quân tử lớn lên, đạo của kẻ tiểu nhân suy mòn, tức chơn thần đã khống chế được thức thần, con người làm chủ được thất tình, sự ham muốn để tạo tiền đề cho tâm linh con người thăng hoa tiến hóa vượt lên cõi thượng thiên.
-Đối với tôn giáo: Đạo khai là để cứu đời. Đời lọan lạc khổ đau là do con người đắm chìm trong dục hải, lãng quên nguồn cội thiêng liêng, quay lưng với gia tài của Thượng Đế phát ban. Con người phải chịu một thời Bĩ đen tối. Để rồi một vị Giáo Tổ ra đời khai sáng một nền tôn giáo, đem ánh sáng cứu độ soi sáng dẫn dắt con người ra khỏi nẻo tối tăm chính là lúc nhân lọai bắt đầu bước sang thời Thái. Nguồn sáng cứu rỗi cứ len chảy trong lòng nhân thế để đến một lúc nào đó, con người bừng tỉnh và mở rộng cõi lòng đón nhận Thiên ân, tu hành giải thoát.
Quẻ Thái nói lên sự hanh thông ngay từ đầu, thể hiện ở hào Sơ Cửu "bạt mao nhự, dĩ kỳ vi, chinh cát [Nhổ rể cỏ tranh, lên cả đám, tiến hành tốt] Cỏ tranh là cỏ rất khó nhổ vì rễ nó rất dài và chằng chịt, nhưng thời Thái hanh thông , làm việc gì cũng dễ dàng, hàm nghĩa việc làm rất nhỏ nhưng kết quả rất lớn: cho nên cát. Con người ý thức được mình đang ở vào thời Thái tức là được ơn Trời , làm gì cũng dễ dàng thành công, cho nên phải biết tận dụng để phát huy giúp đời. thực hiện sứ mạng vi nhân.
Thời vận hanh thông, muốn đem chí giúp đời phải biết phương cách để được trọn vẹn sống trong ơn Trời như ý nghĩa của hào Cửu Nhị: bao hoang, dụng hằng hà, bất hà duy, bằng vong, đắc thượng vu trung hành [bao dung sự hoang phế, dùng cách vượt qua sông , không bỏ sót kẻ ở xa, quên bè phái, phải tôn trọng hành động trung chánh] dễ dàng bao dung tha nhân, không vì sự thành công của mình mà khe khắt với người khác, đòi hỏi người phải như mình, kẻ tốt, người xấu đều có chỗ sử dụng, để thể hiện đức Nhân, là một cách để tạo thêm âm chất cho chính mình.
Phải tin vào sự hanh thông tốt đẹp của thời vận để mạnh dạn tiến tới làm những điều ích lợi cho xã hội, tức là tập đức Dũng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn phải duy trì đức Trí để cẩn thận, suy xét phải quấy, tính tóan tiên liệu đối với mọi vấn đề chứ không vì sự hanh thông mà lơ là, a dua vọng ngọai , để có những lúc phải chấp nhận" bằng vong" [mất bạn]. Ngược lại, để duy trì được Nhân Trí Dũng, phải quay về nội tâm để học đức Kiền: "Chung nhật kiền kiền để tự cường bất tức", và làm gì cũng phải giữ đúng đạo Trung.
Đến hào Cửu Tam: Vô bình bất bí, vô vãng bất phục, gian trinh vô cữu, vật tuất, kỳ phu, vu thực hữu phúc: [Không có gì bằng phẳng mà chẳng nghiêng lệch, không có sự ra đi nào mà không trở lại, gian nan mà chính bền thì không lỗi, đừng xót xa, hãy thành tín, có phúc cả trong sự ăn uống]. Thời Thái đã đi qua gần nửa đường, hanh thông vẫn còn đó, nhưng phải gặp trắc trở vì đó là tính chất bất biến của cõi Nhị nguyên, không có gì là tuyệt đối nơi chốn hữu hình. Khó khăn lúc này đã bắt đầu manh nha. Cho nên hơn lúc nào hết, phải giữ cho được sự chính bền (Nhân Trí Dũng). Làm được như vậy, ơn Trời vẫn được hưởng.
Muốn giữ được chính bền, con người phải sáng suốt tâm linh. Cho nên phải biết tu tâm dưỡng tánh, thì dù không lợi lộc vật chất, không tính tóan, con người vẫn xích lại được gần nhau một cách tự nhiên do niềm tin thành thật với nhau như hào Cửu Tứ: Phiên phiên, bất phú, dĩ kỳ lân, bất giới dĩ phu [Lanh lẹ, chẳng giàu mà kết thành hàng xóm, không chuẩn bị mà đã tin nhau ]. Đây là kết quả cao nhất của thời Thái: chinh phục được lòng người mà không phải bằng vật chất của cõi nhị nguyên, mà bằng tình cảm và đức độ thể hiện qua hào Lục Ngũ: Dĩ chi nguyên cát, trung dĩ hành nguyện dã [được phúc rất tốt, lấy đạo Trung để thực hành ý nguyện]
Nhưng thế gian này không có gì tồn tại vĩnh hằng và tuyệt đối. Có sinh tức có diệt, có thành tức có bại. Đó là qui luật của cõi hữu hình. Thời Thái rồi cũng sẽ qua đi, cho nên hào Thượng Lục, Tiểu tượng viết: Thành phục vu hoàng, kỳ mệnh lọan dã [thành lũy hóa ra rào cạn, mệnh lệnh rối loạn] thành lũy bị sụp đổ xuống hào rãnh. Nhưng nếu hiểu được Thiên lý, giữ được đạo Trời là Trung Đạo bất biến, tức là không làm những điều đi ngược đạo lý thì dù trong mọi hòan cảnh, con người vẫn sẽ vượt qua.
Tóm lại, học quẻ Thái để đừng đeo đuổi, chạy theo những gì gọi là tốt đẹp nơi cõi hồng trần, mà hãy chọn con đường Thiên Đạo để tương lai không còn Thái, không còn Bĩ, có nghĩa là giải thoát, trở về với Nhất nguyên, tức Đạo.
Rõ nét nhất là thời Hạ nguơn mạt pháp với sự lâm trần mở cơ tận độ của Đức Cao Đài. Thế giới vẫn còn đang ngập chìm trong màn đêm của thời Bĩ, nhưng đặc biệt đối với những ai đã giác ngộ, đặt trọn niềm tin vào Thượng Đế, sẵn sàng dâng hiến sở năng sở hữu cho đại cuộc cứu độ Kỳ Ba, là đã được bước chân vào vùng ánh sáng của thời Thái hanh thông an lạc.
-Người môn đệ của Đức Cao Đài muốn làm được sứ mạng cao trọng thiêng liêng đó, phải bước chân lên nấc Đại thừa, để nhận ra rằng quẻ Thái là con đường tâm pháp giúp người hành giả đi đến đích điểm của sự giải thóat, bởi vì Thánh giáo đã dạy:
"Khí Âm Dương hiệp nhứt
Lấy Khảm đắp Ly hào
Trở về Kiền Khôn quái
Là mối Đạo rất cao
Nghĩa là Âm Dương hiệp lại thành quẻ Thái, mà Thái là Hòang Cực Đại Trung; Âm Dương có hợp thì vạn vật mới sanh; thần khí có giao thi kim đơn mới kết; thần phải ngưng, khí mới tụ, mà thần lìa thì khí tán. Phép tu kim đơn, chỉ có thần khí mà thôi. Thần thì vô phương, khí thì diệu tán, nhưng luôn luôn khí theo sát cùng thần…" 1
Chính vì vậy mà Soán Truyện viết: "Nội dương nhi ngọai âm, nội kiện nhi ngoại thuận, nội quân tử nhi ngoại tiểu nhân" [khí dương ở trong mà khí âm ở ngoài, cương kiện ở trong mà nhu thuận ở ngoài, quân tử ở trong mà tiểu nhân ở ngòai]Thân xác con người về mặt y học, nếu mạnh khỏe, tức là ở trạng thái quẻ Thái, dương khí tàng ẩn tràn ngập bên trong, âm khí biểu lộ bên ngòai, tức nội tạng ấm áp, thân thể bên ngòai mát như Kiền ở nội quái, Khôn ở ngoại quái. Ngược lại, bên ngòai thấy sốt tức là người bị bệnh.
Kỷ nguyên Tam Kỳ Phổ Độ là chu kỳ cuối của vũ trụ sẽ đi vào sự bế tắc của quẻ Bĩ, nhưng sự giáng trần mở Đạo của Đức Chí Tôn, chính là ơn Trời đã bao trùm cõi thế gian này, cho nên cơ Đạo dù gặp nhiều khó khăn, dời đổi rồi cũng sẽ hanh thông. Con người hiểu được cơ duyên có một không hai đó để bước vào quỹ đạo an tòan của Đức Từ Phụ tìm phương tu hành, chắc chắn sẽ đắc quả, sẽ tìm thấy sự giải thoát tâm linh, vì đây là thời Thái, bước đầu mọi sự dễ dàng hanh thông, có tu có đắc. (Hào Sơ cửu)
Tu hành với Đức Cao Đài , là tu hành nhập thế, tự độ và độ tha: "chí tại ngoại dã". Việc tu hành là quay về luyện rèn Nhân Trí Dũng bằng công phu thiền định, nên phải giảm duyên đọan sự, tức: "bằng vong"
Nhưng tu hành thường có sự khảo đảo (cửu tam) , phải biết giữ tâm chuyên nhứt thì sẽ được Đức Thượng Đế chở che.
Được như vậy, con người sẽ được thung dung tự tại giữa cõi đời hậu thiên vật chất, dù không sang giàu, thế lực, vẫn nói được người nghe, vẫn cảm hóa được người một cách tự nhiên để tạo thế nhân hòa,(Lục Tứ) thực hiện được tâm nguyện của mình( Lục Ngũ)
Tuy nhiên, phải cảnh giác ở phút cuối cùng cuộc đời , đường tu sẽ vẫn còn nhiều khảo đảo, và nếu không biết áp dụng quẻ Thái vào vào việc tu luyện để đoạt ngôi Hoàng Cực, tức là thóat ra ngòai vòng cương tỏa của qui luật hậu thiên nhị nguyên đối đãi thì việc tu hành chỉ là công dã tràng xe cát biển đông (Thượng Lục)
Hồng Phúc
Thanked by 1 Member:
|
|
#27
Gửi vào 01/03/2012 - 20:02
Ở đây,tôi xin được nói theo sự hiểu biết của tôi về 1 góc độ nào đó.
Thái là khí âm và dương giao nhau,âm đi xuống ,dương đi lên.Nghĩa là nhất nguyên luận (hình nhi thượng học),nghĩa là không phân biệt người vật,đúng hay sai,âm hay dương....Tâm không phân biệt...
Xét về người đó là thông minh,đầu rỗng(ít suy nghĩ,để đầu óc thảnh thơi....).......
Bởi vì ham động thì thành bĩ. Nên cần phải tĩnh để giữ được thái.
Bĩ là hình nhi hạ học,âm dương không giao nhau,hình nhi hạ học,nghĩa là phân chia có khác nhau như đúng sai,nên hay không nên.....,đây là hình nhi hạ học,dùng cho xử thế.Bởi vậy,đối với đời,1 số kẻ thường hay lấy tốt cho mình và đẩy cái xấu cho người khác.lợi dụng lòng tốt người khác,lừa thầy phản bạn...lừa dối mọi người để trục lợi cho cá nhân mình vv và vv.
Người có tâm không phân biệt,không bao giờ làm như người hình nhi hạ học,bởi vì TA và NGƯỜI là 1 nên không có Tâm ấy.KHông đẩy TỐT cho AI và cũng không đẩy cái XẤU cho người khác.
Vài lời đàm tiếu!
Thanked by 2 Members:
|
|
#28
Gửi vào 02/03/2012 - 16:44
Kinh Dịch đại toàn:
24. 地 雷 復 ĐỊA LÔI PHỤC ../Bitmap/24Phuc.gif
Phục Tự Quái
復 序 卦
Bác giả bác dã.
剝 者 剝 也
Vật bất khả dĩ chung tận.
物 不 可 以 終 盡。
Bác cùng thượng phản hạ.
剝 窮 上 反 下,
Cố thụ chi dĩ Phục.
故 受 之 以 復。
Phục Tự Quái
Sự đời đâu mãi tan hoang,Bác cùng trên dưới, đôi đàng trở trăn.
Cho nên Phục đã theo chân...
Quẻ Phục là một trong những quẻ quan trọng của Dịch kinh; nói lên được lẽ Âm Dương tiêu trưởng, lẽ phản phục của Trời Đất và của tâm lý con người. Từ xưa tới nay, các nhà bình giải cũng đã nhận định được rằng: Quẻ Phục đề cập đến 2 vấn đề:
- Sư hồi phục của khí Dương.
- Sự hồi phục của nhân tâm về cùng đạo lý.
Ngày nay, với sự tiến triển của Khoa Học, với sự phổ biến của các Triết thuyết Âu. Á, ta có thể bàn rộng hơn về lẽ phản phục của Đất, Trời, cũng như của Lịch sử.
A. Phục đánh dấu 1 thời kỳ mà vũ trụ sẽ bắt đầu co lại. Vì nếu vũ trụ khuếch tán được, triển dương được, thì cũng có thể co lại được, phản phục được. (M. Sénard , Le Zodiaque, Le Capricorne, p. 376).
Cũng một nhẽ, thời gian cũng có thể phản phục được, vì thời gian gắn liền với không gian. Cho tới ngày nay, ít ai nghĩ được rằng thời gian cũng có hai chiều, hai hướng, cũng có thể vãng phục như không gian.
B. Phục đứng về phương diện tiết khí, là lúc mà sinh khí phục hồi. Trong ngày Đông Chí, khi mà vạn vật trên mặt đất như đang muốn chết cóng vì gió sương, băng tuyết, thì ở dưới lòng đất, Dương khí phục sinh, để chuẩn bị cho gian trần một mùa Xuân mới, để đem lại cho muôn loài một luồng sinh khí mới.
C. Phục cũng vẽ lại con đường phiêu lãng của vừng Dương. Phục xét về phương diện Lịch sốlà ngày Đông Chí, là ngày mà vừng Dương như dừng gót lại, để trở về sống gần gũi với Trái Đất & Vạn vật hơn.
Các dân tộc xưa thường ăn mừng ngày Đông chí, để đáng dấu sự phục sinh của Mặt Trời, của thần Mithra.
Từ thế kỷ thứ Tư, Giáo Hội La Mã cũng theo tục lệ của dân gian, mà ăn mừng Lễ Sinh Nhật vào ngày 25 tháng chạp, tức là vài ngày sau tiết Đông Chí.
D. Xét về phương diện Lịch sử, thì khi tới quẻ Phục, nhân loại đã đạt tới một mức độ văn minh vật chất tuyệt đích.
E. Đối với con người. Quẻ Phục là lúc con người trở nên minh giác, giác ngộ, biết được Thiên Mệnh, biết được rằng trong lòng mình vốn có sẵn Lòng Trời:
Phục kỳ kiến Thiên địa chi tâm hồ?
Theo Toán Học cổ truyền, con người có thể giác ngộ năm 42, 43 tuổi.
G. Về Triết Lý & Đạo Giáo. Quẻ Phục nêu lên mấy vấn đề:
1) Con người khi nàosẽ kiến Thiên địa chi tâm?
2)Và làm sao biết mìnhđã kiến Thiên địa chi tâm?
Các nhà bình giải thường cho rằng: chỉ khi nào tâm hồn con người chí hư, chí tĩnh, mới thấy được Thiên địa chi tâm.
Thiên tâm, đạo tâm là nguồn năng lực, là nguồn sinh hóa, cho nên khi đã kiến Thiên Địa chi tâm, ta sẽ thấy tâm hồn chuyển động, nguồn sống trở nên dạt dào, cảm hứng trở nên sôi động, trí tuệ trở nên mẫn tiệp. Nói tóm lại, ta đã trở thành con người mới.
Phục chính là bước đầu của con đường trở lại. Dịch Kinh đề cập quẻ Phục một cách đơn giản.
*Nơi Thoán thì dùng cho sự hồi phục của Dương khí.
* Nơi Tượng thì nói đến tục lệ đời xưa đã theo trong ngày Đông chí.
* Nơi các Hào thì bình luận cung cách con người trở về cùng Đạo Lý.
I. Thoán.
Thoán Từ.
復:亨。 出 入 無 疾,朋 來 無 咎。 反 復 其 道,七 日 來 復,利 有 攸 往。
Phục. Hanh. Xuất nhập vô tật. Bằng lai vô cữu. Phản phục kỳ đạo. Thất nhật lai phục. Lợi hữu du vãng.
Dịch.
Dương về, vận đã hanh thông,
Cho nên xuất nhập thong dong, nhẹ nhàng.
Có thêm bè bạn lo toan,
Rồi ra sẽ hết vấn vương, lỗi lầm.
Đạo Trời phản phục, cùng thông,
Đường đi bảy độ, lại vòng về ngay.
Đường về, vận đã hoá hay.
Làm đi, rồi sẽ có ngày thành công.
Phục là Dương khí mới trở về (Phục), và sẽ hứa hẹn một vận hội hanh thông mới (Hanh). Người quân tử tuy biết rằng: Cơ phục hồi đạo lý đã trở lại, nhưng chớ nên vội vàng, chớ nên hấp tấp mà hại cho đạo lý, cho lý tưởng (Xuất nhập vô tật). Hãy ráng chờ cho thêm đồng tâm, đồng chí (Bằng lai), rồi mới tránh khỏi được những chuyện lỗi lầm (Vô cữu).
Cơ Trời muốn phục hồi, phải qua hết 6 giai đoạn biến hóa, đó là: Cấu ( tháng 5), Độn (tháng 6), Bĩ (tháng 7), Quan (tháng 8), Bác (tháng 9), Khôn (tháng 10). Thiên vận, thế vận, phải đi cho cùng đường biến hoá, từ tinh thần ra đến vật chất, rồi mới có thể quay ngược trở lại được. Trở về đến quẻ Phục, tức là giai đoạn thứ bảy. Lúc ấy người quân tử mới có cơ hội hoạt động (Phản phục kỳ đạo thất nhật lai phục. Lợi hữu du vãng).
Thoán truyện.
彖 曰 : 復 亨 ﹔ 剛 反,動 而 以 順 行,是 以 出 入 無 疾,朋 來 無 咎。反 復 其 道,七 日 來 復,天 行 也。 利 有 攸 往,剛 長 也。 復 其 見 天 地 之 心 乎?
Thoán viết:
Phục hanh. Cương phản. Động nhi dĩ thuận hành. Thị dĩ xuất nhập vô tật.
Bằng lai vô cữu. Phản phục kỳ đạo. Thất nhật lai phục. Thiên hành dã.
Lợi hữu du vãng. Cương trưởng dã. Phục kỳ kiến thiên địa chi tâm hồ.
Dịch.
Thoán rằng: Vận Phục mà hay,
Là vì Dương cứng tới nay phục hồi,
Động mà vẫn thuận cơ Trời,
Cho nên lui tới thảnh thơi, nhẹ nhàng.
Có thêm bè bạn lo toan,
Xây nền đạo lý, ai than, ai cười.
Vãng lai, phản phục đạo Trời,
Đi đà bảy độ, lại hồi, lại quay.
Làm gì cũng sẽ mắn may,
Là vì Dương vận tới ngày hanh thông,
Phục rồi, được thấy Thiên tâm,
(Vì lòng Trời đất cũng trong lòng người.)
Thoán Truyện đã đưa ra 2 nhận định:
1.) Người quân tử tuy nay gặp hoàn cảnh thuận tiện hơn để hoạt động, nhưng phải hành động cho khéo léo, cho hợp với đạo lý, như vậy mới không chiêu hại cho mình (Động nhi dĩ thuận thị dĩ xuất nhập vô tật.)
2.) Lúc này là lúc con người trở về để tìm cho ra được Thiên địa chi tâm. Tìm ra được Thiên địa chi tâm, chẳng qua là tìm ra được Đạo tâm vi tế trong lòng mình, và nói lên được như Thánh Phao Lồ rằng: Tôi nghĩ tôi có Thần Chúa trong tôi (I Cor. J. 39)
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 : 雷 在 地 中,復 ; 先 王 以 至 日 閉 關,商 旅 不 行,后 不 省 方。
Tượng viết:
Lôi tại địa trung. Phục. Tiên vương dĩ chí nhật bế quan.
Thương lữ bất hành. Hậu bất tỉnh phương.
Dịch. Tượng rằng:
Phục là lòng đất sấm ran,
Tiên vương Đông chí, cửa quan bế tàng.
Ngược xuôi, vắng bóng khách thương.
Nhà vua tránh chẳng lên đường tuần du.
Tượng Truyện nhắc lại hành động của những vị quân vương xưa trong ngày Đông Chí: Đông chí là ngày Nhất Dương sơ động, chính là lúc ứng vào Hào Sơ quẻ Kiền: Tiềm long vật dụng = Rồng ẩn chớ dùng. Cho nên ngày ấy, đóng cửa quan ải, ngăn cấm khách thương đi lại, và nhà vua cũng không đi tuần thú. Nguyên tắc của các vị quân vương xưa là : Theo Trời mà hành sự, cho nên ngày Thu phân thì truyền cho sửa sang lại cân lạng,(vì là ngày tượng trưng cho sự quân bằng mọi sự = ngày, đêm dài bằng nhau), ngày Đông chí là ngày hàm dưỡng, nghỉ ngơi.
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
Các Hào bàn về sự trở về cùng đạo lý. Nguyên tắc tu thân xưa là: Tu thân dĩ đạo. Tu đạo dĩ nhân = Dùng đạo để tu thân. Lấy sự hoàn thiện để tu đạo.
Tu thân là đi vào con đường hoàn thiện, là để trở nên hoàn thiện, là để tìm cho ra được Thiên địa chi tâm = tìm cho ra được đạo tâm.
1. Hào Sơ Cửu.
初 九. 不 復 遠,無 只 悔,元 吉。
象 曰: 不 遠 之 復,以 修 身 也。
Sơ Cửu: Bất viễn phục. Vô kỳ hối. Nguyên cát.
Tượng viết:
Bất viễn chi phục. Dĩ tu thân dã.
Dịch.
Chưa xa đã biết phục hồi,
Thế thời khỏi hối, thế thời rất may.
Tượng rằng:
Chưa xa đã biết phục hồi,
Tu thân ấy chính cơ ngơi mối giường.
Hào Sơ là nhất Dương sơ động, ám chỉ những hạng người như Nhan Hồi, hăng hái theo đường đạo lý. Tuy chưa phải là Thánh Hiền, tuy hãy còn có những điều lầm lỗi, nhưng lỗi thời biết, biết thời không tái phạm nữa.
Tóm lại, Hào Sơ là những người đã sống gần tới mức lý tưởng, dầu chưa được mười phân vẹn mười, thì cũng đã gần Trời, gần Đạo. Mỗi khi có một tà niệm, một mầm mống bất thiện nào vừa muốn nhô lên trong tâm hồn họ, là họ cố tiêu diệt ngay, vì vậy tâm hồn họ thời thường là như ngọc trắng, gương trong chẳng bợn trần ai, tục lụy. Vì vậy, Hào Sơ này nói lên hai chữ tu thân, tức là đặt căn bản cho công cuộc tu thân vậy.
2. Hào Lục Nhị.
六 二 : 休 復,吉。
象 曰: 休 復 之 吉,以 下 仁 也。
Lục nhị. Hưu phục. Cát.
Tượng viết:
Hưu phục chi cát. Dĩ hạ nhân dã.
Dịch.
Phục hồi đẹp đẽ biết bao!
Tượng rằng:
Phục hồi đẹp đẽ biết bao.
Là vì đã biết nương vào đức nhân.
Hào Lục nhị là hạng người trung chính, lại có cái may mắn ở gần những người hiền đức. Họ là những người thành khẩn, muốn khắc kỷ, phục lễ, lấy sự hoàn thiện làm tiêu chuẩn cho đời mình, và công cuộc tu thân đối với họ cũng chẳng mấy khó khăn. Vì thế, dùng chữ Hưu phục.
Hào hai chỉ nói đến tu thân, đến sự hoàn thiện để làm tiêu chuẩn cho cuộc đời, nên đặc biệt có chữ Nhân.
3. Hào Lục tam.
六 三 : 頻 復,厲 無 咎。
象 曰: 頻 復 之 厲,義 無 咎 也。
Lục tam. Tần phục. Lệ. Vô cữu.
Tượng viết:
Tần phục chi lệ. Nghĩa vô cữu dã.
Dịch.
Trở đi, trở lại nhiều lần,
Tuy rằng nguy hiểm, lỗi lầm chi đâu.
Tượng rằng:
Trở đi, trở lại nhiều lần.
Xét theo nghĩa lý, thì lầm lỗi chi?
Hào Lục tam chỉ những hạng người thiếu nghị lực, nên tuy muốn bỏ điều xấu, mà vẫn không thể dứt bỏ, vẫn sa đi, ngã lại nhiều lần. Mặc dầu vậy, mỗi lần họ sa ngã, là một lần họ ăn năn, họ chỗi dậy. Nếu đã thực tâm hối quá, thì cũng không đáng chê bai.
4. Hào Lục tứ.
六 四 : 中 行 獨 復。
象 曰: 中 行 獨 復,以 從 道 也。
Lục tứ. Trung hành độc phục.
Tượng viết:
Trung hành độc phục. Dĩ tòng đạo dã.
Dịch.
Một mình giữa bọn tiểu nhân,
Thế mà đơn độc hồi tâm, hồi đầu.
Tượng rằng:
Một mình giữa bọn tiểu nhân,
Một mình trở lại theo chân đạo Trời.
Hào Lục tứ Độc Phục chính là những cánh sen trong bùn, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Tuy sống trong hoàn cảnh ngang trái, mà lòng vẫn hướng về lý tưởng, đaọ lý. Sống giữa bầy tiểu nhân, mà lòng vẫn hướng về phía chính nhân, quân tử.
5. Hào Lục ngũ.
六 五 : 敦 復,無 悔。
象 曰: 敦 復 無 悔,中 以 自 考 也。
Lục ngũ. Đôn Phục. Vô hối.
Tượng viết:
Đôn Phục vô hối. Trung dĩ tự khảo dã.
Dịch. Lục ngũ:
Đạo Trời thành khẩn phục luôn.
Hết còn hối hận, tâm xoang an bình.
Tượng rằng:
Đạo Trời thành khẩn phục luôn.
Một mình nghiền ngẫm sớm hôm đạo Trời.
Hào Lục ngũ là hạng người không có cái duyên may mắn gần được người Hiền Thánh, nhưng đã một mình tìm được ra Chân Lý (vì thế gọi là tự khảo), mà khi đã tìm ra được đạo lý rồi, thì nhất tâm giữ vẹn Đạo Trời.
6. Hào Thượng Lục.
上 六 : 爻 辭:迷 復,凶,有 災 眚。用 行 師,終 有 大 敗,
以 其 國 君,凶 ; 至 于 十 年,不 克 征。
象 曰: 迷 復 之 凶,反 君 道 也。
Thượng Lục. Mê Phục. Hung. Hữu tai sảnh. Dụng hành sư.
Chung hữu đại bại. Dĩ kỳ quốc quân hung. Chí vu thập niên bất khắc chinh.
Tượng viết:
Mê phục chi hung. Phản quân đạo dã.
Dịch. Thượng Lục:
Nếu mà mê mẩn, chẳng hồi tâm,
Thời thôi họa hại, thật vô ngần.
Điều động binh đao, âu cũng hỏng,
Dẫu làm vua chúa, vẫn gian truân.
Mê chi, mê mẩn tâm thần.
Suốt đời vẫn chẳng qui tâm, hồi đầu.
Tượng rằng: Mê chẳng phục hồi.
Ấy là phản lại đạo Trời trước sau.
Hào Thượng Cửu: Tuy là ở trong hồi Phục Hưng đạo lý, hồi mà nhân tâm qui thuận thiên lý, cũng vẫn có những người mê lú, không chịu trở lại đường ngay. Họ không chịu phục thiện được vì nhiều lẽ:
1) Vì địa vị họ quá cao, nên họ không thể nhận chân lý, nhận đạo lý nơi người khác.
2) Họ xa những người hay, nên không có dịp trở về cùng đạo lý.
3) Bản chất họ tối tăm, dày đặc, nên họ không thể khai ngộ được.
4) Họ không đủ nghị lực để cải tà, qui chánh.
Khi mà họ đã một mực theo đường tà, mặc cho dục tình lôi cuốn, không đếm xỉa gì đến đạo lý nữa, thì dĩ nhiên họ sẽ lâm vào cảnh quốc phá, gia vong. Dẫu họ có làm vua, làm tướng chi nữa, nếu không theo chính nghĩa, thì cũng chỉ là hôn quân, bại tướng.
ÁP DỤNG QUẺ PHỤC VÀO THỜI ĐẠI
Có nhiều người, sau khi đã đi một quãng đường dài trong cuộc đời, đã từng thành công cũng như thất bại, đã sống trên nhung lụa, kẻ hầu người hạ, nhưng cũng có khi ăn tháng này, đã phải lo tháng sau liệu có đủ hay không? Chợt một lúc nào đó, họ cảm thấy đời sống thật là vô vị, không lẽ sinh ra đời chỉ là để lo làm sao cuộc sống được đầy đủ hay sao? Hay sinh ra đời chỉ để làm phân bón nuôi vợ con? Sáng sớm thức dậy đã phải lo đi làm việc, có nhiều người làm việc vất vả hơn trâu. Nhất là ở xứ Mỹ này, đàn ông cũng như đàn bà có người ngày làm hai, ba nơi. Làm mệt quên nghỉ, làm cốt chỉ để kiếm tiền cho thật nhiều, mặc dù họ không cần thiết phải vất vả như vậy họ vẫn đủ sống. Họ làm việc mà không có mục đích, không có lý tưởng, họ làm cho có nhiều tiền, để ăn tiêu huy hoàng hơn người khác, và để tỏ cho người ngoài thấy họ là người tài giỏi, thế thôi.
Nhưng có ai chịu hiểu sâu sa hơn, là Thượng đế sinh ra loài người đâu phải chỉ để nguyên có sống để mà hưởng thụ, như các loài động vật khác, mà Ngài sinh ra loài người là muốn họ phải tiến hóa về mọi mặt, tiến lên để giống Ngài.
Về mặt Vật chất, họ phải tiến cao để tạo cho thế giới ngày thêm tươi đẹp, đầy đủ tiện nghi, cho con người được thoải mái phần nào sau nhiều giờ làm việc trong ngày.
Về mặt Tinh thần, họ phải suy tư, tìm hiểu đâu là bản thể của mình, vì Thần của họ là gốc gác Thần minh, họ phải biết đường để quay về với Thần minh, nếu không sẽ có lúc họ cảm thấy đời vô ý nghĩa, và họ sẽ chán nản vô cùng, vì thế có nhiều người chẳng hiểu vì lý do gì mà lại tự tử.
Thật vậy, nếu chúng ta sinh ra đời, mà suốt cuộc đời sống không mục đích, không lý tưởng, thì quả thật cuộc sống thật là vô vị, và lúc lâm chung chẳng hiểu mình sẽ đi về đâu?
Theo thiển ý của tôi, khi còn nhỏ sống trong gia đình, ta hãy ăn ở sao cho cha mẹ, và thày giáo vui lòng. Khi khôn lớn, giữ sao cho hạnh kiểm đường hoàng, cho minh chính để mọi người nể trọng mình. Ta cứ lập gia đình, tạo sự nghiệp, để góp mặt với xã hội nhân quần. Nhưng khi tóc đã hoa râm, đã qua được quá nửa đời người (quãng 42- 43 tuổi), thì ta phải biết suy tư, học đạo để quay về với nguồn gốc của mình, nếu cứ mê đắm trong hoan lạc, e cuối đời ăn năn không kịp, như Hào Thượng Lục của quẻ Phục răn ta:
Chấp nê, một dạ sống trong mê,
Nghĩa lý, lìa xa chẳng chịu về.
Vương, tướng nghênh ngang, phường múa rối,
Đạo Trời chẳng biết, sống ra chi !
Quẻ Phục này đáng cho ta suy nghĩ vậy!
Thanked by 1 Member:
|
|
#29
Gửi vào 02/03/2012 - 16:46
1. Hào Sơ Lục.
初 六: 履 霜,堅 冰 至。
象 曰: 履 霜 堅 冰,陰 始 凝 也。 馴 致 其 道,至 堅 冰 也。
Sơ Lục. Lý sương kiên băng chí.
Tượng viết. Lý sương kiên băng. Âm thủy ngưng dã. Tuần trí kỳ Đạo. Chí kiên băng dã.
Dịch:
Dưới chân, sương giá chớm dày,
Rồi ra băng cứng có ngày tới theo.
Tượng rằng:
Dưới chân sương giá chớm dày
Rồi ra băng cứng có ngày tới theo.
Âm vừa ngưng đọng ít nhiều.
Cứ đà ấy tiến, có chiều thành băng.
#30
Gửi vào 02/03/2012 - 16:51
13/11/2011 16:46 (2011-11-13 17:16:00) - Đã có 2644 lượt xem
Twitter Print
Tuần trước tôi kể chuyện quẻ Địa Lôi Phục có nhấn cái ý “im lặng cho khí dương sinh”, có bạn đọc hiểu nhầm cho là tôi cổ động cho sự im lặng trong thời thế còn đầy rẫy những hiểm họa này. Không! Đây là cái im lặng trong lúc khí dương mới sinh, không phải cái im lặng dửng dưng bất kỳ trước mọi biến động. Trái lại, quẻ Địa Lôi Phục dạy rằng: vào thời quẻ Phục, bạn bè đông, vận may tới, hành động việc gì cũng có lợi.
Tag: im lặng, hồ chí minh, võ nguyên giáp, yên phong, tiêu sơn, cao bá quát, phù lỗ, bát quái, lập ngôn, chở đò, sư ông, đi quyên, đông chí, việt nam tuyên, tỉnh mộng, chợ chờ, địa lôi phục, bến lo, tư mã quang
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Toan Ánh có kể một câu chuyện sau: Ở Bắc Ninh, ai về thăm huyện Yên Phong cũng biết rõ những vùng đất tên là Chợ Chờ, Bến Lo. Ngày xưa vùng đất này còn hoang vắng, bọn giặc cướp thường rình chộp những người đi chợ Phù Lỗ là chợ phiên nổi tiếng. Muốn sang chợ Phù Lỗ, các lái buôn vùng sông Cầu, vùng Đông Ngàn, Võ Giàng hay trấn Kinh Bắc thường phải đi chợ rất sớm để qua bến đò Kim Lũ, nơi này có khi chính những người chở đò lại biến thành kẻ cướp, nên bến Kim Lũ được gọi là bến Lo. Hễ đoàn thương lái đủ đông mạnh, thì bọn cướp mới sợ, không dám ho he gì. Nhân dân bèn có sáng kiến chọn địa điểm trước đình và đền xã Phú Mẫn làm chỗ tập trung, ai đến sớm thì chờ khi đông mạnh mới đi tiếp.
Lâu dần chính chỗ ấy thành chợ, gọi là chợ Chờ. Trong cái đêm tối của những năm chuyển tiếp của lịch sử ấy, thời nhà Lê đã mất, nhà Tây Sơn đã đại thắng quân Thanh nhưng chưa thiết lập xong triều chính, xã hội còn ngổn ngang, sấm sét trong lòng đất mới xuất hiện, khí dương mới sinh. Vùng chợ Chờ xuất hiện một sư ông, bưng giỏ đi quyên giáo tại các xã bên này sông thuộc huyện Yên Phong, qua bến Lo, sang bên kia sông thuộc huyện Kim Anh. Ai cũng lo cho nhà sư đi một mình vào lúc tranh tối tranh sáng. Nhà sư trả lời: Nhà chùa đi quyên giáo còn có gì mà sợ cướp bóc.
Cho đến một ngày, khi sư ông vừa ở bến Lo lên thì bị cướp vây bắt thật. Nhưng không ai ngờ, nhà sư là một tay võ nghệ cao cường, một mình đánh tan bọn cướp. Thì ra sư ông thuộc một đảng hiệp sĩ tên là Tiêu Sơn. Những ngày đi quyên giáo chính là để dò la đầu mối tung tích bọn cướp. Ngay sau đó, các hiệp sĩ Tiêu Sơn đã mai phục, vây bắt bọn đầu đảng. Bọn cướp tan rã. Từ đó việc giao thông, buôn bán trở nên bình thường. Bến Lo không còn là mối lo của người đi chợ nữa. Hiện tượng nhà sư phải chăng là khí dương mới sinh, sấm từ lòng đất mới hiện lên của quẻ Địa Lôi Phục? Sấm đã lên rồi, đó là báo hiệu một thời đại mới.
Các nhà làm lịch phương Đông chọn ngày Đông chí (giữa đông) làm ngày khí dương sinh. Đây là một ngày tốt lành, báo hiệu một năm mới đầy sinh khí đã bắt đầu. Ngày này theo dương lịch thường là ngày 22 tháng 12. Cánh lính cụ Hồ học Dịch chúng tôi bảo nhau: Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh - một nhà Dịch học - chọn ngày 22.12.1944 là ngày thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân trên rừng Việt Bắc do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam sau này. Đó là ngày Đông chí, ngày khí dương sinh, ngày hào 1 dương quẻ Địa Lôi Phục. Đội quân lúc đầu chỉ có 34 người, duy nhất có một khẩu súng máy, còn lại là súng trường, súng thập, súng kíp. Năm nay 22.12.2011 kỷ niệm “ngày sinh” của quân đội ta cũng là ngày Đông Chí đấy, thưa bạn đọc.
Nhà thơ Cao Bá Quát quê tôi cũng rất nhạy cảm với ngày Đông chí. Sau năm 1841 bị nạn “dùng muội đèn chấm bài thi cứu người” may thoát tội tử hình, ông coi ngày Đông chí, ngày khí dương sinh, là một ngày có ý nghĩa riêng với ông. Trong bài “Ngày Đông chí cùng Chí Đình vẩy bút họa thơ”, có hai câu: (Dịch nghĩa) Chớ lo dòng ánh sáng chuyển nhanh / Hãy chờ có lúc lập ngôn. Bài thơ như một dự báo, quả nhiên toàn bộ thơ Cao Bá Quát đã trở thành một sự nghiệp lập ngôn trong thế kỷ thứ 19. Trong bài có câu Mộng tàn kinh phá úng (tỉnh mộng còn kinh chuyện đập vại) nhắc tích Tư Mã Quang, một sử gia nổi tiếng trong sử Tàu. Hồi bé ông chơi đùa với bạn, một bạn ngã vào một vại lớn chứa đầy nước, cả bọn hoảng sợ bỏ chạy, riêng Tư Mã Quang ở lại dùng gạch đập vỡ vại cứu bạn thoát chết.
Xuân Cang
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối |
---|
9 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 9 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ: An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản | Quẻ Mai Hoa Dịch Số | Bát Tự Hà Lạc | Thái Ât Thần Số | Căn Duyên Tiền Định | Cao Ly Đầu Hình | Âm Lịch | Xem Ngày | Lịch Vạn Niên | So Tuổi Vợ Chồng | Bát Trạch |