Jump to content

Advertisements




CHẾT VÀ TÁI SINH


17 replies to this topic

#16 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/10/2011 - 08:40

CHẾT VÀ TÁI SINH

16. MỘT THẾ HỆ MỚI CỦA LAMA TÂY TẠNG

Chết không phải là hết, mà chỉ là một sự thay đổi về hình hài, dòng tâm thức vẫn lưu chuyển cho đến khi con người ấy đạt đạo. Ðặc biệt theo truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, các vị Cao tăng sau khi viên tịch thường chọn phương pháp tái sinh (Reincarnation) vào một cảnh giới khác, để tiếp tục tu tập hoặc tái sinh trở lại kiếp người, trong những điều kiện thuận lợi hơn, để hoàn tất hạnh nguyện độ sinh, mà họ còn dở dang ở kiếp trước. Trong bài này chúng tôi sẽ giới thiệu bốn vị Lama tái sinh Tây Tạng, nổi tiếng ở thế kỷ hai mươi đã viên tịch đầu thập niên tám mươi, và tái sinh trở lại kiếp người. Hiện tại các "hài đồng Lama" này đang tu học tại các Phật học viện Tây Tạng ở miền Nam nước Ấn Ðộ. Ðại đức Roger Kunsang phóng viên tạp chí Mandala USA, đã viếng thăm các vị để thực hiện một cuốn băng video về sinh hoạt hằng ngày của các vị Lama tý hon này.

Ling Rinpoche

Lama Ling Rinpoche năm nay mười tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Drelung, là hậu thân của cố Ðại sư Kyabje Ling Rinpoche 1903-1993. Từng là Viện trưởng Ðại học Phật giáo Gander, thầy dạy học cao cấp của đức Dalai Lama thứ 14 và nhiều Lama nổi tiếng khác. Từ năm 1986 đến những năm cuối đời, ngài được cung thỉnh sang châu Âu và châu Mỹ để truyền giới pháp cho người Tây phương tu học.

Roger: Kính chào, chú khỏe không?

Ling: Cảm ơn, tôi khỏe.

Roger: Xin hỏi, năm nay chú bao nhiêu tuổi?

Ling: Mười tuổi.

Roger: Uớc mơ lớn nhất của chú là gì?

Ling: Uớc mơ lớn nhất của tôi là mong ước một nền hòa bình thực sự trên hành tinh này.

Roger: Còn hạnh phúc dành cho riêng chú?

Ling: Dành cho mọi người.

Roger: Làm sao chú có thể đạt được ước mơ đó?

Ling: Cầu nguyện, thiền định và học hành. Không phải một người mà tất cả mọi người.

Roger: Chú sẽ hóa độ cho mọi người chứ?

Ling: Sẽ làm tất cả với khả năng của mình.

Roger: Khi nào chú mới bắt đầu?

Ling: Khi việc học và tu của tôi hoàn tất.

Roger: Sẽ phải mất bao lâu?

Ling: Tôi không biết, nhưng tôi phải hoàn tất.

Roger: Theo chú, thiền định cần thực hành như thế nào?

Ling: Thiền à? Bạn nên quán tưởng đến đức Phật hoặc tập trung vào một đề mục nào đó, để tâm bạn được yên tịnh. Làm sao cho tâm bạn không dao động là cốt lõi của thiền.

Roger: Chú có lời khuyên nào cho các đệ tử (của vị tiền thân) trên thế giới?

Ling: Hãy nỗ lực tu học, kiên nhẫn và không nên ích kỷ.

Trijang Rinpoche

Năm nay ngài 14 tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Gander ở Nam Ấn Ðộ, được xem là hóa thân của cố Ðại sư Kyabje Trijang Rinpoche 1904 - 1981 là thầy dạy học trung cấp của đức Dalai Lama thứ 14.

Roger: Kính chào chú, chú có khỏe không?

Trijang: Khỏe, cảm ơn.

Roger: Chú có nhớ gì về kiếp trước không?

Trijang: Không, hiện tại tôi đang ôn lại những gì mà tôi từng biết.

Roger: Chú học thuộc lòng có dễ không?

Trijang: Dễ.

Roger: Thời khóa biểu sinh hoạt của chú một ngày như thế nào?

Trijang: Tôi thức dậy vào lúc 5 giờ 30, tôi đi đảnh lễ bảo tháp vị tiền nhiệm. Sau đó tôi có một thời kinh sáng, rồi dùng điểm tâm.

Từ 7g30 đến 9g tôi đọc kinh. Sau đó tôi nghỉ và chơi khoảng nửa giờ. Từ 9g30 đến 10g30 tôi ôn lại các bộ kinh mà tôi từng thuộc trước đây.

Từ 10g30 tôi học văn phạm Tạng ngữ; 11g tôi thọ trai, 11g30 tôi tập viết. Từ 1g đến 2g30 tôi nghỉ trưa. Thức dậy tôi uống trà rồi bắt đầu với lớp học tranh luận đến 5g.

Sau đó là giờ tiểu thực; 6g tôi học giáo lý với thầy Khensur Lati Rinpoche; 8g tôi tranh luận với các bạn cùng lớp và 9g đến 11g tôi tiếp tục học thuộc lòng kinh. Sau đó tôi đi ngủ.

Zong Rinpoche

Mười tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Gander, là hậu thân của cố Ðại sư Kyabje Zong Rinpoche 1905-1983, ngài từng là Viện trưởng Ðại học Gander nổi tiếng ở Tây Tạng từ năm 1959, trường này được dời sang Ấn Ðộ.

Được xem là một người có nhiều pháp thuật trong giới Lama Tây Tạng. Từ năm 1978 đến 1980, ngài thường đến phương Tây để thuyết giảng, hàng ngàn tín đồ tại Ấn Ðộ và các nước ở phương Tây đã tìm thấy sự an lạc và hạnh phúc từ lời dạy của ngài.

Roger: Kính chào chú.

Zong: Xin chào!

Roger: Hôm nay là ngày nghỉ của chú?

Zong: Vâng.

Roger: Chú đang làm gì?

Zong: Tôi đang chơi.

Roger: Còn ngày mai?

Zong: Ngày mai thứ hai, cũng là ngày nghỉ của tôi.

Roger: Buổi sáng, bình thường chú làm gì?

Zong: Tôi thức dậy vào lúc 6 giờ. Tôi tụng kinh đến 8g, rồi ăn sáng và nghỉ đến 9g. Sau đó tôi học giáo lý.

Roger: Hiện nay chú đang học giáo lý gì vậy?

Zong: Tôi đang học đến chương hai cuốn "Con đường hướng đến Trung đạo".

Roger: Chương thứ nhất là gì?

Zong: Gander Lha Gyema.

Roger: Buổi sáng, học xong chú làm gì?

Zong: Tôi nghỉ trưa và chơi đến 15 giờ. Sau đó tôi học đến 17 giờ. Học xong tôi đi tắm, ăn tối và đi ngủ.

Roger: Chú có học tiếng Anh không?

Zong: Có chứ!

Roger: Chú có thích sang các nước phương Tây không?

Zong: Có.

Roger: Chú nghĩ là chú sẽ thuyết pháp cho Phật tử phương Tây chứ ?

Zong: Tất nhiên.

Roger: Khi nào chú mới bắt đầu?

Zong: Thầy Tenzin biết việc ấy.

Tenzin (vị thị giả của Zong Rinpoche): Chúng tôi có dự kiến viếng thăm phương Tây vào năm tới. Chú có thể nói một số thời pháp ngắn. Tuy nhiên, chú thực sự sẽ làm công tác truyền giáo sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ.

Roger: Rinpoche, quốc gia nào chú sẽ đến trước?

Zong: Canada và Hoa Kỳ.

Roger: Chú sẽ ở đó bao lâu?

Zong: Khoảng ba tháng.

Roger: Chú có nhắn nhủ với Phật tử phương Tây điều gì không?

Zong: Xin đừng quên lời dạy của cố Ðại sư Zong Rinpoche (tiền thân của chú).

Roger: Chú có thích thú vật không?

Zong: Có.

Roger: Chú thích loài nào nhất?

Zong: Rùa.

Roger: Tại sao chú lại thích rùa?

Zong: Vì nó không bỏ chạy, nó sẽ ở lại với bạn. Tôi đang nuôi 5 con.

Roger: Chú có biết câu chuyện nào về thú vật không?

Zong: Ồ rất nhiều, nhưng tôi thích nhất là câu chuyện về chú rùa con. Chuyện kể rằng, một hôm rùa con đến hỏi bố mẹ: "Tại sao con cứ mãi mang cái "tòa nhà" nặng nề này trên lưng hoài vậy?". Bố mẹ rùa nói: "Con may mắn lắm mới có được nó, nó rất có ích khi con đi ra ngoài". Rùa con không đồng tình với giải đáp kia nhưng chú nghĩ mình phải nghe và chấp nhận lời dạy của bố mẹ. Rồi một ngày nọ, rùa con gặp bạn của chú, bạn ếch cũng thắc mắc: "Tại sao bạn phải mang cái nhà trên lưng vậy?". Rùa chưa kịp trả lời, vừa lúc ấy có một người cưỡi ngựa chạy đến, ếch cấp tốc nhảy xuống cái ao gần đó, còn rùa thì chậm chạp nhưng chú nhanh chóng nhớ đến lời dạy của bố mẹ nên chú liền thụt đầu vào "ngôi nhà" của mình. Bạn ếch lo lắng "chắc rùa đã chết rồi". Nhưng sau khi con ngựa chạy qua rồi, chú rùa từ từ di động và bò đi. Chú không làm sao cả. Chú nhớ lại lời của bố mẹ: "Này con trai, con may mắn mới có được ngôi nhà ở trên lưng!".

Osel Rinpoche

Mười hai tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện Sera, là hậu thân của cố Ðại sư Thubten Yeshe 1935-1984, một Pháp sư nổi tiếng Tây Tạng. Người góp sức san bằng các chướng ngại địa dư, và nối liền những phân cách văn hóa, chủng tộc để dòng tuệ giác mặt trời đầu nguồn Tây Tạng, có thể tuôn chảy xuống vùng đất lạ Tây phương. Người đã giảng giải giáo lý tái sinh, bằng chính sự thong dong đôi bờ sinh tử, và chuẩn bị sắp xếp cho mình để có thể tái sinh như ý, và để người khác có thể nhận ra hóa thân của mình. Bậc thầy vĩ đại ấy đã qua đời vì bệnh tim tại bang California, Hoa Kỳ ở tuổi bốn mươi chín, để lại phía sau mình một tổ chức khổng lồ. Ông là người sáng lập Hội Hộ Trì Phật giáo Ðại Thừa (FPMT) và cho xuất bản tạp chí Mandala tại Hoa Kỳ, hiện nay tổ chức này phát triển thêm hàng trăm chi nhánh trên khắp thế giới. Hai năm sau từ ngày mất, người ta phát hiện ra ngài trong một dáng hình khác, đó là Osel Rinpoche, sinh ngày 12-2-1985 tại Bubion Tây Ban Nha. Giới Phật giáo Tây Tạng đã đưa chú bé tái sinh này trở lại Ấn Ðộ để tiếp tục tu học.

Sau đây là thời khóa sinh hoạt hàng ngày của Osel Rinpoche:

6g thức dậy, 6g10-7g tụng kinh, 7g-8g điểm tâm, 8g-9g học kinh, 9g-9g30 chơi, 9g30-10g30 học tiếng Tây Ban Nha.

10g30-11g nghỉ giải lao, 11g-12g học tiếng Anh, 12g-14g thọ trai và nghỉ trưa, 14g-16g học tiếng Anh.

16g-17g chơi, 17g30-19g học tiếng Tây Tạng, 19g-20g tiểu thực, 20g-20g30 nghỉ, 20g30-21g học văn phạm, 21g tắm và đi ngủ.

#17 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/10/2011 - 08:42

CHẾT VÀ TÁI SINH

17. TÁI SINH Ở PHƯƠNG TÂY

Cô Vicki Mackenzie, một ký giả người Anh, từng là tác giả quyển sách nổi tiếng "The Boy Lama", kể chuyện về cậu bé tái sinh người Tây Ban Nha Tenzin Osel Rinpoche, hậu thân của cố Ðại sư Thubten Yeshe 1935-1984. Ðó là một người truyền dạy minh triết, kẻ vượt qua mọi chướng ngại địa lý, phong tục tập quán định kiến tôn giáo, để đánh thức khơi dậy những điều tốt đẹp nhất đang bị chôn kín trong lòng người. Một con người mà y học của thời đại "chim sắt" phán quyết là phải chết, nhưng vẫn sống và sống hùng tráng như một mặt trời... Quyển sách in lần đầu tiên vào năm 1989 bởi Nhà xuất bản Bloomsbury Luân Ðôn, và lập tức được dịch ra nhiều thứ tiếng trên khắp thế giới, đến nay đã chuyển ngữ ra mười thứ tiếng, bản dịch mới nhất là tiếng Nhật. Bản dịch Việt ngữ "Hài đồng Lama" in năm 1994. Quyển sách thứ hai của Vicki là "Tái sinh ở phương Tây" (Reborn in the West) cũng do Nhà xuất bản Bloomsbury ấn hành vào tháng 4 năm 1995. Quyển sách lần này viết về năm vị thầy tái sinh người Tây phương, bốn nam và một nữ, những người được thừa nhận là hậu thân của các Lama người Tây Tạng. Quyển sách đề cập đến một số người khác tái sinh ở phương Tây, nhưng họ không phải là Phật tử.

Adèle Hulse, phóng viên tạp chí Mandala, nói chuyện với Vicki Mackenrie, đang cư ngụ tại Melbourne Australia, để biết thêm về nội dung quyển sách này. Cô Vicki tâm sự: "Ðiểm chính của tôi khi viết cuốn sách này là an ủi mọi người rằng, họ không bao giờ bị lãng quên khi họ chết, và sau khi chết họ còn có một cuộc sống mới khác. Các Nhà xuất bản yêu cầu tôi viết một cuốn sách về tái sinh, nhưng khi tìm hiểu thì tôi thấy người ta chỉ thừa nhận việc tái sinh, xảy ra trong cộng đồng người Tây Tạng. Vì thế tôi sử dụng "tái sinh ở phương Tây" để làm chủ đề chính, ngõ hầu đánh tan sự ngộ nhận vốn có bấy lâu nay của mọi người. Tôi cũng giới thiệu những sự kiện tái sinh của người phương Tây không theo Phật giáo. Tôi đã phỏng vấn tiến sĩ Roger Woolger, một tu sĩ đạo Do Thái, người nghiên cứu về tái sinh trong cộng đồng người Do Thái. Tôi đã thử so sánh những kết luận của người phương Tây về vấn đề này, với những giáo lý về tái sinh của Phật giáo Tây Tạng.

Ðiều kích thích tôi hơn tất cả là sự nhận ra rằng, hiện nay là thời điểm lịch sử của các bậc thầy phương Ðông, hiện thân ở phương Tây và sự trùng khớp đầy ý nghĩa này, với cuộc tranh luận gắt gao trong giới khoa học, về tâm thức và não bộ có giống không. Dĩ nhiên các bậc thầy thì nói rằng, tâm thức là một phần độc lập đối với cơ thể. Tôi cũng đề cập đến vấn đề "vun trồng" Phật giáo Tây Tạng, thông qua những bậc thầy trên mảnh đất phương Tây, là một quá trình đầy khó khăn, vì phải va chạm sự cách biệt giữa các nền văn hóa”.

#18 hiendde

    Quản Lý Viên

  • Quản-Lý
  • 6221 Bài viết:
  • 6933 thanks

Gửi vào 21/10/2011 - 08:50

CHẾT VÀ TÁI SINH

18. CHUẨN BỊ CHO MỘT CHUYẾN ĐI

Chết là một sự thật hiển nhiên mà cuối cùng ai cũng phải đối mặt, dù mình có muốn hay là không. Ðó là một chân lý mà mỗi chúng ta phải ghi nhớ và chấp nhận, để khi nó đến, ta không còn phải ngạc nhiên, lo âu và sợ hãi. Ôn Như Hầu từng nói: "Biển khổ mênh mông sóng ngập trời. Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi. Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió. Rốt cuộc rồi trong bể thảm thôi" Thật vậy trong cái biển khổ mênh mông ấy, chúng ta chỉ là những "khách trần" lai vãng, đến rồi đi, và nếu chết vẫn chưa hết, ta sẽ phải tiếp tục trôi lăn trong "biển khổ" sinh tử luân hồi này.

Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu từng nhắc nhở rằng: "Vô thường già, bệnh, chết không hẹn trước với ta", tức là cái chết sẽ đến với ta bất cứ giờ phút nào. Một điều quan trọng mà tất cả chúng ta cần phải khắc trong lòng là sau khi chết, thần thức của ta sẽ không mất, mà nó được lưu chuyển sang một đời sống khác. Theo giáo lý nhà Phật, sau khi chết nếu ta chưa đạt Ðạo, giác ngộ và giải thoát, ta sẽ có thể tái sinh, đầu thai vào một trong sáu cõi giới: Cõi trời, Cõi người, A-tu-la, Ðịa ngục, Ngạ quỹ và Súc Sanh. Kết quả được thác sanh vào cõi nào đã được ta thiết lập ngay trong đời sống vừa qua, có nghĩa là trong đời sống hiện tại hôm nay, chính ta đang tạo dựng một đời sống ngày mai của ta vậy. Do đó chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết để có thể mang theo làm hành trang cho riêng mình trong cuộc hành trình vô tận đang chờ đợi ta ở phía trước

Ta phải chuẩn bị điều gì?

Ðó là một câu hỏi lớn, không dễ trả lời. Tuy nhiên, như ở đầu tập sách này, các bậc Thầy người Tây Tạng đã khuyên dạy chúng ta rằng: Phương pháp tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết là mỗi người nên làm điều lành và tránh làm điều ác trong suốt cuộc đời mình. Lời dạy này đã cho chúng ta hiểu rằng, tất cả những nghiệp thiện và nghiệp ác mà mình tạo ra trong suốt cuộc đời. Từ lúc mới sinh đến khi nhắm mắt lìa đời, sẽ là hành trang mà ta sẽ phải mang theo sau khi ta trút hơi thở cuối cùng ở kiếp này và chính nó sẽ dẫn dắt chúng ta đi tiếp trong các đời sống vị lai. Do thấy rõ được cảnh khổ của chúng sinh trong sáu cõi giới luân hồi này, mà Bồ tát Ðịa Tạng đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta về những quả báo khổ đau mà chúng ta sẽ phải gánh chịu ở tương lai, nếu ta phạm phải ở kiếp này: Ngài dạy rõ "Nếu gặp kẻ sát hại loài sinh vật quả báo sẽ bị chết yểu, nếu người trộm cướp sẽ bị quả báo nghèo cùng khốn khổ, nếu người không chung thủy với vợ hoặc chồng sẽ bị quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương.

Kẻ nói lời thô ác sẽ bị quả báo quyến thuộc hay kình chống nhau, nếu kẻ hay khinh chê sẽ bị quả báo không lưỡi hay miệng lở, nếu người thường nóng giận sẽ bị quả báo thân hình xấu xí. Nếu người có tánh bỏn xẻn sẽ bị quả báo cầu muốn không được toại nguyện, nếu người thường tổ chức săn bắn sẽ bị quả báo kinh hãi điên cuồng, mất mạng, nếu kẻ trái nghịch với cha mẹ sẽ bị quả báo trời đất tru lục. Nếu người đốt núi rừng cây cỏ sẽ bị quả báo cuồng mê đến chết, nếu cha ghẻ mẹ ghẻ ăn ở ác độc sẽ bị quả báo thác sinh trở lại hiện đời sẽ bị roi vọt, nếu người dùng lưới bắt chim non sẽ bị quả báo thân quyến chia lìa. Nếu người hủy báng Tam Bảo sẽ bị quả báo đui, điếc, câm, ngọng, nếu người hay khinh chê giáo pháp sẽ bị quả báo ở mãi trong ác đạo, nếu kẻ lạm phá của Thường trụ chùa chiền sẽ bị quả báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục.

Nếu kẻ làm ô nhục người hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng già sẽ bị quả báo ở mãi trong loài súc sanh, nếu kẻ dùng nước sôi, hay lửa, chém chặt, giết hại sinh vật sẽ bị quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau. Nếu kẻ phá giới phạm trai sẽ bị quả báo làm cầm thú đói khát, nếu người phung phí phá tổn của cải một cách phi lý sẽ bị quả báo tiêu dùng thiếu hụt, nếu kẻ thường tự cao kiêu mạn sẽ bị quả báo hèn hạ bị người sai khiến. Nếu kẻ đâm chọc gây gổ sẽ bị quả báo không lưỡi hay trăm lưỡi, nếu kẻ tà kiến hay mê tín dị đoan sẽ bị quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh..." (lược theo Phẩm thứ hai, Kinh Ðịa Tạng, bản dịch của HT Trí Tịnh).

Nếu ta biết rõ những nguyên nhân và kết quả trên, ta phải cố gắng tránh tạo những ác nghiệp tham lam, sân hận, si mê, giết hại sinh vật, trộm cắp, tham ái, nói dối, uống rượu... Và nỗ lực làm những điều thiện,không tham lam, không nóng giận, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, cúng dường, phóng sinh... Để đem an lạc hạnh phúc cho mình và cho người. Bài học công bằng mà tất cả chúng ta đều thuộc lòng, đó là nếu mình đem hạnh phúc cho người, thì mình sẽ được an vui, ngược lại đem khổ đau cho người, thì chính mình sẽ chịu sự bất hạnh. Niềm hạnh phúc và an lạc hoặc sự bất hạnh và khổ đau, đã, đang và sẽ được chính ta tạo ra và chính ta thừa hưởng ngay trong đời sống này, cũng như sau khi chết.

Những điềm báo trước khi chết:

Những người tu hành đã đắc đạo, họ an lạc, tự tại, thong dong giữa hai bờ sống chết, họ có thể tái sinh về bất cứ cõi giới nào họ muốn. Còn chúng sanh mê muội, phàm phu tục tử đều phải tùy nghiệp mà thọ sanh, tức là sau khi chết, phải chịu sự dẫn dắt của nghiệp lực mà thọ sanh về cảnh giới thích ứng với nghiệp mà mình đã gây tạo. Nói vậy không có nghĩa là Phật tử tin vào thuyết định mệnh, tức là cái đã sắp đặt sẵn mọi chuyện, mình phải đi theo cái có sẵn ấy. Ở đây không phải vậy, người Phật tử tin rằng mình là chủ nhân của chính mình, tuy nhiên, một khi mình không làm chủ được mình để cho ác nghiệp đã được xảy ra, thì chính cái nghiệp ấy sẽ trở lại điều khiển mình. Do đó người Phật tử hãy thận trọng trong mọi hành vi, lời nói và ý nghĩ của mình, từ nơi đó sẽ đưa chúng ta tới an lạc, và cũng từ nơi đó sẽ đưa chúng ta đến khổ đau. Theo kinh điển nhà Phật, một người trước khi chết có những điềm báo trước, có thể tùy theo mỗi người mà có cảm thọ khác nhau về cảnh giới thiện hay cảnh giới ác, và những điềm này sẽ giúp cho ta dự đoán được nơi thọ sanh của người quá cố.

Những điềm lành báo trước sẽ có thể sinh về Tịnh độ:

Tâm hồn không bị bối rối. Biết trước ngày giờ chết. Tâm niệm chân chánh không mất. Biết trước giờ chết mà tắm rửa và thay quần áo. Tự mình niệm Phật, niệm có tiếng hoặc niệm thầm. Ngồi ngay thẳng, chắp tay niệm Phật mà chết. Mùi thơm lạ lan tỏa khắp nhà. Có hào quang sáng soi vào thân thể. Nhạc trời vang dội giữa hư không. Tự nói ra bài kệ để khuyên dạy người ở lại.

Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh lên cõi trời:

Móng lòng thương mến. Phát khởi thiện tâm. Lòng thường vui vẻ. Chánh niệm được rõ ràng. Thân thể không bị hôi hám. Sống mũi không xiên xẹo. Tâm không giận dữ. Tâm không luyến ái tài sản, gia đình, dòng họ. Mắt luôn trong sáng. Ngửa mặt lên trời và mỉm cười.

Những điềm báo trước sẽ có thể tái sinh trở lại cõi người:

Ðến khi chết vẫn nhớ nghĩ đến điều lành. Thân không đau khổ. Ít nói lời phô trương, thường nghĩ nhớ đến cha mẹ. Tai thường muốn nghe tên họ của anh chị em và bầu bạn. Ðối với việc lành dữ nhận rõ không lầm loạn. Tâm tánh ngay thẳng không ưa sự dua nịnh. Biết rõ bà con bạn bè giúp đỡ cho mình. Thấy bà con trông nom sinh lòng vui mừng. Dặn dò mọi việc trong nhà trước khi chết. Sanh lòng chánh tín, thỉnh Phật Pháp Tăng đến đối diện quy y.

Những điềm xấu báo trước sẽ có thể đọa vào địa ngục:

Gặp phải tình trạng con cái và bà con đều nhìn kẻ sắp chết bằng đôi mắt ghét bỏ. Người sắp chết thường đưa hai tay lên mà rờ mó hư không. Dù bạn lành có khuyên bảo điều hay cũng không tùy thuận. Người sắp chết kêu gào than khóc. Ði ra tiểu tiện mà không hay biết. Nhắm nghiền đôi mắt
Thường hay che úp mặt mày. Nằm nghiêng mà ăn uống. Mình mẩy miệng mồm đều hôi hám. Gót chân, đầu gối luôn run rẩy. Sống mũi xiên xẹo. Mắt bên trái hay động đậy. Hai mắt đỏ ngầu. Úp mặt mà nằm. Thân hình co rút và tay bên trái chấm xuống đất.

Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh vào cõi giới ngạ quỹ:

Ưa liếm môi miệng. Thân nóng như lửa. Thường lo đói khát và hay nói đến việc ăn uống. Mắt thường hay trương lên mà không nhắm. Hai mắt khô khan như mắt chim gỗ. Ðầu gối bên phải lạnh trước. Tay bên phải thường nắm lại.

Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh vào loài súc sanh:

Yêu mến vợ con đắm đuối không bỏ .Ngón tay và ngón chân đều co quắp. Khắp trong thân mình đều toát ra mồ hôi. Tiếng nói ra khò khè. Miệng thường ngậm đồ ăn.

Hộ niệm cho người hấp hối:

Nếu người hấp hối đang ở trong bệnh viện, người thân nên đến chùa hoặc điện thoại, thỉnh quý Chư Tăng Ni và Ban Hộ Niệm đến giường bệnh để tiếp dẫn cho người mất. Nếu gia đình không quen biết chùa nào, có thể tìm đến khoa Chăm sóc về tinh thần (Pastoral Care) các tu sĩ, giáo sĩ các Tôn giáo chính, được mời vào làm việc toàn thời hoặc bán thời tại nơi đây. Phân khoa này cũng có một Trung Tâm Cầu Nguyện (Worship Center) nằm ngay trong khuôn viên bệnh viện để cung ứng cho niềm tín ngưỡng của bệnh nhân) ngay trong bệnh viện đó để nhờ văn phòng này mời quý Thầy đến hộ niệm. Nếu không cung thỉnh được quý Thầy, Cô đến hộ niệm, hoặc nhà ở xa chùa, thì có thể mở băng cassette niệm danh hiệu Phật cho người hấp hối. Và con cháu trong nhà đứng xung quanh giường bệnh để niệm lớn câu: "Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật". Niệm liên tục cho đến lúc người ấy trút hơi thở cuối cùng, chứ không được khóc kể, sầu thảm.

Nếu cứ khóc than như thế sẽ khiến cho thần thức của người sắp ra đi quyến luyến mãi không rời khỏi thân xác, hoặc nếu có rời khỏi thi thể, thần thức người ấy vẫn quanh quẩn trong nhà, chứ không thể siêu thoát được. Một người thân hoặc người lớn tuổi trong gia đình nên đến bên cạnh người hấp hối nhắc nhở họ về nguyên lý vô thường: "Cõi đời là huyễn ảo, vô thường, mọi sự vật hiện tượng sinh rồi diệt, hội họp rồi chia ly, xin người đừng quyến luyến nữa, hãy xả bỏ tất cả và ra đi trong thanh thản". Sau khi người bệnh vừa tắt thở: người thân nhất nên điều chỉnh thi thể trở lại cho ngay ngắn, mọi động tác đều phải thật nhẹ nhàng, tránh đụng chạm mạnh đến thi thể, vì lúc ấy thần hồn của người chết chưa ra khỏi thi thể, dễ có cảm giác đau đớn và khó chịu. Chính sự khó chịu ấy sẽ khiến cho thần thức của người thác sinh vào cõi ác xấu. Cho nên phải cố gắng càng hạn chế chạm đến thi thể người vừa tắt thở càng tốt. Ba hoặc năm tiếng đồng hồ sau khi tắt thở, gia đình có thể dùng nước ấm, nước hoa hoặc rượu cồn (alcohol) để tắm cho người chết và thay quần áo mới. Tất cả nữ trang phải được tháo ra, để ngăn ngừa kẻ tham lam có thể xâm phạm đến tử thi. Nếu là tín đồ Phật giáo nên mặc lót bên trong một bộ đồ màu trắng mới và sạch, bên ngoài mặc áo tràng màu nâu hoặc màu lam và đắp một cái mền Quang Minh bên trên.

Tang sự:

Lễ tang được bắt đầu sau khi người thân của mình qua đời, có nhiều việc cần thiết phải làm. Những người có trách nhiệm phải thật bình tĩnh mới có thể giải quyết được công việc. Nếu người mất theo tín ngưỡng nào thì nên tôn trọng niềm tin của họ mà tổ chức tang lễ theo nghi thức của tôn giáo ấy. Riêng Phật tử nên tổ chức theo nghi lễ của Phật giáo. Nghi lễ này được diễn ra gọn gàng, đơn giản, trang nghiêm, ít tốn kém, và không theo tập tục mê tín của thế gian, như đốt vàng mã, lầu đài, nhà kho.. Công việc đầu tiên là một hay hai người trong gia đình phụ trách liên lạc với quý Thầy để chọn ngày giờ thích hợp cho việc tẩm liệm, phát tang, di quan và an táng, một mặt liên lạc với Sở Mai táng, để lo mua quan tài, đặt xe tang, nơi an táng.. Những người còn lại trong gia đình chia nhau mỗi người mỗi việc, thông báo cho thân nhân ở xa, viết cáo phó gởi báo, đài, quét dọn nhà cửa, bàn thờ Phật, Tổ Tiên, sắm sửa đèn nến, hương hoa, trang hoàng bàn vong để thờ phụng người quá cố. Bàn thờ Phật cần được trần thiết trang nghiêm với một hình hoặc tượng Phật đặt ngay ngắn ở giữa, hai chân đèn, lư hương, đĩa trái cây, bình hoa, hai ly nước trong.. Bàn thờ Vong, cũng phải trang hoàng cho đẹp đẽ với cặp chân đèn, đĩa trái cây, bình hoa, ba ly nước, một bài vị gồm có tên tuổi, ngày sinh, ngày mất do Thầy viết. Và đặc biệt là di ảnh của người chết, phải chọn một tấm hình đẹp, rõ ràng của người quá cố để thờ.

Tẩm liệm, phát tang, cúng cơm và an táng:

Ðến thời điểm thích hợp đã định trước, quý Thầy Cô, ban Hộ Niệm cùng tang quyến và bạn bè thân hữu vân tập trước bàn thờ Phật để tụng Kinh và cầu nguyện cho vong linh người quá cố. Sau khi nắp quan tài đậy lại là lễ Phát tang, còn gọi là lễ Thành phục. Tất cả con cháu đều quỳ ngay thẳng trước linh đài của người mất. Quý Thầy tụng Kinh và sái tịnh vào khăn tang, rồi phát tang cho tang quyến. Mỗi người đều lạy hai lạy và nhận chiếc khăn màu trắng, rồi chít khăn lên đầu và mặc quần áo tang. Theo tục lệ truyền thống, người con gái chỉ đeo khăn tang, quần tang mà không có áo. Người con rể, chỉ quấn khăn tang là đủ. Riêng hàng cháu, chắt, trên khăn tang có đính thêm một miếng vải nhỏ hình tròn màu xanh hay màu đỏ, tùy theo bên nội và bên ngoại. Vợ chồng để tang cho nhau, chỉ cần bịt một khăn tang là đủ. Sau khi lễ phát tang là lễ cúng cơm (tiến linh). Tất cả nên cúng thức ăn chay, cúng nước trà thay vì cúng rượu. Tiếp đó là lễ tụng kinh cầu siêu cho hương linh. Trong tang lễ, phần quan trọng nhất là tụng kinh cầu nguyện cho thần hồn người chết siêu thoát, chứ không phải chú trọng về hình thức cúng kiến, đờn trống, nhạc Tàu, nhạc Tây..

Những hình thức bề ngoài chỉ cốt để làm nở mặt nở mày của tang quyến đối với người ngoài, chứ không ảnh hưởng gì đến thần thức người quá cố. Ðến ngày an táng linh cữu, tang quyến cùng bè bạn thân hữu cùng quý Thầy Cô và ban Hộ niệm tiễn đưa linh cữu đến nơi an táng, địa táng hay hỏa táng tùy theo sự chọn lựa của người quá cố, tất cả nên thành tâm niệm Phật để tiếp dẫn vong linh đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau lễ an táng, chủ nhà rước vong linh về nhà hoặc chùa để làm lễ An Sàng, tức là lễ an vị vong linh và di ảnh của người quá cố. Có nhiều người hiểu lầm lễ này gọi là lễ ăn sàng, nên bắt buộc tang quyến phải tổ chức tiệc tùng để được ăn uống. Ðây là một sự thật đáng buồn. Sau lễ An sàng, là cúng tuần thất bảy ngày sau khi qua đời, cúng Bách nhật trăm ngày, cúng Tiểu tường giáp năm ba trăm sáu mươi lăm ngày. Và cúng Ðại tường ba năm xả tang, còn gọi là mãn tang hay mãn khó, tức là đúng 1095 ngày. Rồi từ đó mỗi năm cúng lễ giỗ tưởng niệm, cúng đúng vào ngày mất gọi là Chánh kỵ, trước ngày mất gọi là Tiên Thường.

Và nếu gia đình tang quyến có điều kiện nên tổ chức lễ Trai Tăng cúng dường, bố thí, phóng sanh các loài vật, đi lễ Phật và cúng dường mười chùa, để hồi hướng công đức ấy cho vong linh người quá cố, giúp họ tái sinh vào cõi giới an lành. Tóm lại theo giáo lý nhà Phật, chết chưa phải là hết mà còn nhiều vấn đề khác nữa, nếu người quá cố chưa giác ngộ giải thoát, chưa giải quyết được vấn đề sinh tử ngay trong kiếp sống hiện tại này, thì còn vô số đời sống khác đang đợi chờ họ ở phía sau.



TÁC GIẢ: THÍCH NGUYÊN TẠNG








Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

1 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 1 khách, 0 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |