

CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
Viết bởi hiendde, 13/10/11 00:20
95 replies to this topic
#61
Gửi vào 18/10/2011 - 23:16
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
THỰC HIỆN SỰ HỢP NHỨT
Tất cả chúng sinh đều là cùng một gốc duy nhứt. Những người Đạo Đồ được gia nhập Quần Tiên Hội có bổn phận phải biết rõ điều đó như một sự thật. Chúng ta nghe nói rằng Chơn Ngã vốn là một, và chúng ta thử tìm hiểu xem câu ấy có nghĩa gì. Nhưng khi chúng ta tự mình thực nghiệm lấy điều đó, như khi người Đạo Đồ nhập cõi Bồ Đề, thì đó là một việc hoàn toàn khác hẳn. Ví như trong cuộc đời trần thế chúng ta sống ở dưới đáy giếng, nơi đó chúng ta có thể ngẩn mặt lên để nhìn thấy ánh sáng mặt trời của thế giới bên ngoài. Và tuy rằng ánh sáng soi xuống giếng sâu vực thẳm nhưng nó vẫn là một thứ ánh sáng, cũng như thể Ánh Sáng của đấng Duy nhứt soi sáng sự vô minh u tối của cõi lòng chúng ta. Người Đạo Đồ đã thoát ra khỏi cái vực thẳm của Phàm Nhơn, và thấy rằng cái ánh sáng mà y tưởng rằng của y, thật ra là cái Ánh Sáng Vô Tận của tất cả mọi chúng sinh.
Trong khi nó sinh hoạt trong Thể Thượng Trí, Chơn Nhơn đã nhận thức được cái Tâm Thức Thiêng Liêng trong tất cả chúng sinh. Khi nó nhìn vào một Chơn Nhơn khác, tâm thức của nó vươn lên như để nhận ra tánh cách Thiêng Liêng của người kia. Nhưng trên cõi Bồ Đề, nó không còn vươn lên như để đón chào người kia từ bên ngoài nữa, vì nó đã hợp nhứt với cái tâm thức của y. Không còn có sự cách biệt giữa "Anh" và "Tôi" nữa, vì cả hai đều là một, cả hai đều là những khía cạnh của một cái gì nó thấm nhuần và bao gồm lấy họ.
Tuy nhiên, trong sự hỗn hợp lạ lùng đó, cái ý niệm về cá tính không có mất đi đâu, dẫu cho cái ý niệm về sự cách biệt giữa Người với Ta đã hoàn toàn mất hẳn. Điều này dường như là một sự mâu thuẫn, nhưng quả thật đúng như vậy. Con người nhớ lại tất cả những gì thuộc về dĩ vãng. Y vẫn tự là y vẫn chính là người đã làm việc này việc nọ hay việc kia trong cái thời quá khứ xa xăm. Y không thay đổi gì cả, trừ phi ngày nay y đã tiến triển nhiều hơn là con người của y hồi trước, và cảm thấy rằng y bao gồm trong mình của y nhiều phương diện biểu hiện khác nữa. Nếu ở đây và ngay bây giờ, một trăm người trong chúng ta có thể đồng một lúc nâng cao tâm thức của chúng ta lên cõi giới Bồ Đề, thì tất cả chúng ta sẽ là một cái tâm thức duy nhứt, nhưng đối với mỗi người, thì đó dường như là cái tâm thức riêng biệt của mình, tuyệt đối không thể thay đổi, trừ phi bây giờ nó cũng bao gồm luôn cả những người khác.
Đối với mỗi người, thì hình như là chính họ đã đồng hóa hay bao gồm luôn tất cả những người khác. Như thế, ở thế gian, chúng ta đứng trước một điều ảo tưởng, và với một chút cố gắng hơn nữa, chúng ta sẽ thấy rõ rằng tất cả chúng ta đều là những khía cạnh khác nhau của một cái tâm thức rộng lớn hơn, và những gì mà từ trước đến nay ta vẫn tưởng là những cái đức tánh của chúng ta, trí tuệ của chúng ta, nghị lực của chúng ta, bao giờ cũng vẫn là đức tánh của Ngài, trí tuệ của Ngài, nghị lực của Ngài. Chúng ta đã thật sự nhận chân được ý nghĩa của câu châm ngôn cổ truyền: "Ngươi là Cái ấy". Bàn về điều này ở cõi trần thế và hiểu được nó, hoặc tưởng rằng mình đã hiểu được nó về mặt lý trí, là một việc; nhưng bước vào cái thế giới huyền diệu đó và biết được nó một cách chắc chắn không có gì lay chuyển được, lại là một việc khác.
Khi tâm thức Bồ Đề hoàn toàn ghi ấn tượng vào bộ óc xác thịt, nó đem đến một giá trị mới cho tất cả mọi hành động và giao tế của chúng ta trong đời sống hằng ngày. Chúng ta không còn xem xét một người hay một vật, bất luận với mực độ ưu ái hay thiện cảm đến đâu; mà chúng ta chính là cái người đó hay vật đó, và chúng ta biết được y hay nó cũng như chúng ta biết cái tư tưởng của bộ óc chúng ta, hay sự cử động của chính bàn tay chúng ta. Chúng ta nhận định những chủ ý của người khác cũng như chủ ý của ta, dẫu cho chúng ta hiểu rằng một phần của chúng ta, với một sự kiến thức rộng rãi hơn, hoặc một quan điểm khác hẳn, có thể hành động một cách khác hẳn.
Tuy nhiên, ta không nên tưởng rằng khi một người bước vào cảnh giới thấp nhứt của cõi Bồ Đề, thì y sẽ đương nhiên ý thức được một cách toàn vẹn sự hợp nhứt của y với tất cả mọi loài. Sự ý thức toàn vẹn đó chỉ có được khi người ta đạt tới cảnh giới cao nhứt của Cõi Bồ Đề, với nhiều công phu khó nhọc. Bước vào cõi giới này tức là kinh nghiệm được một sự bành trướng tâm thức rất rộng lớn, tức là nhận thức được rằng mình hợp nhứt làm một với mọi người. Nhưng trước đó, người thí sinh còn phải trải qua một thời gian công phu cố gắng tu luyện đại khái giống như ở Hạ Giới, khi tham thiền, chúng ta cố gắng khai mở tâm thức đối với cõi trên gần nhứt cõi chúng ta. Tiến lên lần từng bước một, vượt qua từng cảnh giới nọ đến cảnh giới kia, người thí sinh phải đạt tới mục đích, vì dẫu rằng ở cõi giới cao như thế, sự cố gắng cũng vẫn còn cần thiết cho những ai muốn tiến bộ.
Khi đã trải qua một cuộc Điểm Đạo thứ nhứt, và đã bước một cách có ý thức vào cõi Bồ Đề, từ nay người thí sinh còn phải cố gắng tuần tự vượt qua từng cảnh giới này đến cảnh giới khác. Y còn phải loại trừ ba điều chướng ngại, nó ngăn trở sự tiến bộ của y. Từ nay, y đã vĩnh viễn bước vào Thánh Đạo, Phật Giáo gọi y là vị Tu-Đà-Hườn (Sotapatti), có nghĩa là "người đã xuôi theo dòng", hoặc đã "nhập lưu". Bên Ấn Độ Giáo gọi y là Parivrajaka, nghĩa là "người lữ hành" tức là một người không còn lưu luyến một nơi nào trong ba cõi Hạ Giới làm nơi cư ngụ hay ẩn trú riêng của mình nữa.
THỰC HIỆN SỰ HỢP NHỨT
Tất cả chúng sinh đều là cùng một gốc duy nhứt. Những người Đạo Đồ được gia nhập Quần Tiên Hội có bổn phận phải biết rõ điều đó như một sự thật. Chúng ta nghe nói rằng Chơn Ngã vốn là một, và chúng ta thử tìm hiểu xem câu ấy có nghĩa gì. Nhưng khi chúng ta tự mình thực nghiệm lấy điều đó, như khi người Đạo Đồ nhập cõi Bồ Đề, thì đó là một việc hoàn toàn khác hẳn. Ví như trong cuộc đời trần thế chúng ta sống ở dưới đáy giếng, nơi đó chúng ta có thể ngẩn mặt lên để nhìn thấy ánh sáng mặt trời của thế giới bên ngoài. Và tuy rằng ánh sáng soi xuống giếng sâu vực thẳm nhưng nó vẫn là một thứ ánh sáng, cũng như thể Ánh Sáng của đấng Duy nhứt soi sáng sự vô minh u tối của cõi lòng chúng ta. Người Đạo Đồ đã thoát ra khỏi cái vực thẳm của Phàm Nhơn, và thấy rằng cái ánh sáng mà y tưởng rằng của y, thật ra là cái Ánh Sáng Vô Tận của tất cả mọi chúng sinh.
Trong khi nó sinh hoạt trong Thể Thượng Trí, Chơn Nhơn đã nhận thức được cái Tâm Thức Thiêng Liêng trong tất cả chúng sinh. Khi nó nhìn vào một Chơn Nhơn khác, tâm thức của nó vươn lên như để nhận ra tánh cách Thiêng Liêng của người kia. Nhưng trên cõi Bồ Đề, nó không còn vươn lên như để đón chào người kia từ bên ngoài nữa, vì nó đã hợp nhứt với cái tâm thức của y. Không còn có sự cách biệt giữa "Anh" và "Tôi" nữa, vì cả hai đều là một, cả hai đều là những khía cạnh của một cái gì nó thấm nhuần và bao gồm lấy họ.
Tuy nhiên, trong sự hỗn hợp lạ lùng đó, cái ý niệm về cá tính không có mất đi đâu, dẫu cho cái ý niệm về sự cách biệt giữa Người với Ta đã hoàn toàn mất hẳn. Điều này dường như là một sự mâu thuẫn, nhưng quả thật đúng như vậy. Con người nhớ lại tất cả những gì thuộc về dĩ vãng. Y vẫn tự là y vẫn chính là người đã làm việc này việc nọ hay việc kia trong cái thời quá khứ xa xăm. Y không thay đổi gì cả, trừ phi ngày nay y đã tiến triển nhiều hơn là con người của y hồi trước, và cảm thấy rằng y bao gồm trong mình của y nhiều phương diện biểu hiện khác nữa. Nếu ở đây và ngay bây giờ, một trăm người trong chúng ta có thể đồng một lúc nâng cao tâm thức của chúng ta lên cõi giới Bồ Đề, thì tất cả chúng ta sẽ là một cái tâm thức duy nhứt, nhưng đối với mỗi người, thì đó dường như là cái tâm thức riêng biệt của mình, tuyệt đối không thể thay đổi, trừ phi bây giờ nó cũng bao gồm luôn cả những người khác.
Đối với mỗi người, thì hình như là chính họ đã đồng hóa hay bao gồm luôn tất cả những người khác. Như thế, ở thế gian, chúng ta đứng trước một điều ảo tưởng, và với một chút cố gắng hơn nữa, chúng ta sẽ thấy rõ rằng tất cả chúng ta đều là những khía cạnh khác nhau của một cái tâm thức rộng lớn hơn, và những gì mà từ trước đến nay ta vẫn tưởng là những cái đức tánh của chúng ta, trí tuệ của chúng ta, nghị lực của chúng ta, bao giờ cũng vẫn là đức tánh của Ngài, trí tuệ của Ngài, nghị lực của Ngài. Chúng ta đã thật sự nhận chân được ý nghĩa của câu châm ngôn cổ truyền: "Ngươi là Cái ấy". Bàn về điều này ở cõi trần thế và hiểu được nó, hoặc tưởng rằng mình đã hiểu được nó về mặt lý trí, là một việc; nhưng bước vào cái thế giới huyền diệu đó và biết được nó một cách chắc chắn không có gì lay chuyển được, lại là một việc khác.
Khi tâm thức Bồ Đề hoàn toàn ghi ấn tượng vào bộ óc xác thịt, nó đem đến một giá trị mới cho tất cả mọi hành động và giao tế của chúng ta trong đời sống hằng ngày. Chúng ta không còn xem xét một người hay một vật, bất luận với mực độ ưu ái hay thiện cảm đến đâu; mà chúng ta chính là cái người đó hay vật đó, và chúng ta biết được y hay nó cũng như chúng ta biết cái tư tưởng của bộ óc chúng ta, hay sự cử động của chính bàn tay chúng ta. Chúng ta nhận định những chủ ý của người khác cũng như chủ ý của ta, dẫu cho chúng ta hiểu rằng một phần của chúng ta, với một sự kiến thức rộng rãi hơn, hoặc một quan điểm khác hẳn, có thể hành động một cách khác hẳn.
Tuy nhiên, ta không nên tưởng rằng khi một người bước vào cảnh giới thấp nhứt của cõi Bồ Đề, thì y sẽ đương nhiên ý thức được một cách toàn vẹn sự hợp nhứt của y với tất cả mọi loài. Sự ý thức toàn vẹn đó chỉ có được khi người ta đạt tới cảnh giới cao nhứt của Cõi Bồ Đề, với nhiều công phu khó nhọc. Bước vào cõi giới này tức là kinh nghiệm được một sự bành trướng tâm thức rất rộng lớn, tức là nhận thức được rằng mình hợp nhứt làm một với mọi người. Nhưng trước đó, người thí sinh còn phải trải qua một thời gian công phu cố gắng tu luyện đại khái giống như ở Hạ Giới, khi tham thiền, chúng ta cố gắng khai mở tâm thức đối với cõi trên gần nhứt cõi chúng ta. Tiến lên lần từng bước một, vượt qua từng cảnh giới nọ đến cảnh giới kia, người thí sinh phải đạt tới mục đích, vì dẫu rằng ở cõi giới cao như thế, sự cố gắng cũng vẫn còn cần thiết cho những ai muốn tiến bộ.
Khi đã trải qua một cuộc Điểm Đạo thứ nhứt, và đã bước một cách có ý thức vào cõi Bồ Đề, từ nay người thí sinh còn phải cố gắng tuần tự vượt qua từng cảnh giới này đến cảnh giới khác. Y còn phải loại trừ ba điều chướng ngại, nó ngăn trở sự tiến bộ của y. Từ nay, y đã vĩnh viễn bước vào Thánh Đạo, Phật Giáo gọi y là vị Tu-Đà-Hườn (Sotapatti), có nghĩa là "người đã xuôi theo dòng", hoặc đã "nhập lưu". Bên Ấn Độ Giáo gọi y là Parivrajaka, nghĩa là "người lữ hành" tức là một người không còn lưu luyến một nơi nào trong ba cõi Hạ Giới làm nơi cư ngụ hay ẩn trú riêng của mình nữa.
#62
Gửi vào 18/10/2011 - 23:19
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
CHƯƠNG X
NHỮNG CUỘC ĐIỂM ĐẠO CAO HƠN
THẾ NÀO LÀ MỘT VỊ LA HÁN?
Trên đường Đạo, trải qua các cuộc Điểm Đạo thứ nhứt, thứ nhì và thứ ba, người thí sinh tuần tự phát triển tâm thức Bồ Đề. Đến cuộc Điểm Đạo thứ tư thì người thí sinh nhập cõi Niết Bàn, và từ đó về sau. Người cố gắng vượt lên lần thứ năm cảnh giới thấp nhất của cõi ấy, là nơi tự tại của Chơn Nhơn.
Cuộc Điểm Đạo này ở vào khoảng giữa con đường Thánh Đạo, theo truyền thuyết cho rằng con người phải trải qua một thời gian trung bình là bảy kiếp, từ cuộc Điểm Đạo thứ nhứt đến cuộc Điểm Đạo thứ tư, và bảy kiếp giữa hai cuộc Điểm Đạo thứ tư và thứ năm. Tuy nhiên, những con số kể trên có thể tăng hay giảm, và trong phần nhiều trường hợp, thời kỳ phải trải qua không phải là dài lắm, vì những kiếp đầu thai của người Đạo Đồ thường là nối tiếp nhau một cách liên tục, chớ không có cách khoảng bởi những giai đoạn nghỉ ngơi trên cõi Thiên giới.
Người Đạo Đồ đã vượt qua cuộc Điểm Đạo thứ tư, danh từ Phật Giáo gọi là La Hán (Arhat), có nghĩa là một vị Đại Đức, hay Toàn thiện. Những kinh sách Đông phương đều có trình bày nhiều lời hay ý đẹp ca tụng các vị này, chứng tỏ rằng cổ nhân đã từng biết rõ về trình độ tiến hóa cao siêu của các Ngài vậy, Người Ấn Độ Giáo gọi các Ngài là Parahamsa (Đại Thiên nga), cao hơn quả vị hamsa (A-na-hàm) một bực.
CHƯƠNG X
NHỮNG CUỘC ĐIỂM ĐẠO CAO HƠN
THẾ NÀO LÀ MỘT VỊ LA HÁN?
Trên đường Đạo, trải qua các cuộc Điểm Đạo thứ nhứt, thứ nhì và thứ ba, người thí sinh tuần tự phát triển tâm thức Bồ Đề. Đến cuộc Điểm Đạo thứ tư thì người thí sinh nhập cõi Niết Bàn, và từ đó về sau. Người cố gắng vượt lên lần thứ năm cảnh giới thấp nhất của cõi ấy, là nơi tự tại của Chơn Nhơn.
Cuộc Điểm Đạo này ở vào khoảng giữa con đường Thánh Đạo, theo truyền thuyết cho rằng con người phải trải qua một thời gian trung bình là bảy kiếp, từ cuộc Điểm Đạo thứ nhứt đến cuộc Điểm Đạo thứ tư, và bảy kiếp giữa hai cuộc Điểm Đạo thứ tư và thứ năm. Tuy nhiên, những con số kể trên có thể tăng hay giảm, và trong phần nhiều trường hợp, thời kỳ phải trải qua không phải là dài lắm, vì những kiếp đầu thai của người Đạo Đồ thường là nối tiếp nhau một cách liên tục, chớ không có cách khoảng bởi những giai đoạn nghỉ ngơi trên cõi Thiên giới.
Người Đạo Đồ đã vượt qua cuộc Điểm Đạo thứ tư, danh từ Phật Giáo gọi là La Hán (Arhat), có nghĩa là một vị Đại Đức, hay Toàn thiện. Những kinh sách Đông phương đều có trình bày nhiều lời hay ý đẹp ca tụng các vị này, chứng tỏ rằng cổ nhân đã từng biết rõ về trình độ tiến hóa cao siêu của các Ngài vậy, Người Ấn Độ Giáo gọi các Ngài là Parahamsa (Đại Thiên nga), cao hơn quả vị hamsa (A-na-hàm) một bực.
#63
Gửi vào 18/10/2011 - 23:38
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
QUẢ VỊ LA HÁN (ARHAT)THEO KHOA BIỂU TƯỢNG THIÊN CHÚA GIÁO
Trong khoa biểu tượng Thiên Chúa Giáo, cuộc Điểm Đạo thứ tư được diễn tả bằng sự thương khó ở Vườn Ô Liu, Đóng đinh trên Thập Tự Giá và Phục Sinh của Đấng Christ.
Vì lẽ cần phải bắt đầu bằng những giai đoạn tiên khởi, biểu tượng này sẽ được toàn hảo hơn nếu người ta lưu ý đến những sự việc, mà tục truyền rằng đã xảy ra trong Tuần Thánh. Việc đầu tiên là việc Đấng Christ phục sinh cho Thánh Lazare, và điều này luôn luôn được kỷ niệm vào ngày thứ Bảy trước ngày Chúa Nhật "Lễ Lá" (Rameaux), mặc dầu theo Thánh Kinh thì nó xảy ra một hay hai tuần lễ trước đó.
Ngày Chúa Nhật thì xảy ra việc đáo nhập thành Jerusalem một cách tưng bừng rực rỡ. Ngày thứ hai và thứ ba, Đấng Christ giảng đạo nhiều lần ở Thánh Đường. Ngày thứ tu Ngài bị Judas phản bội. Ngày thứ năm là ngày thành lập Thánh Thể (Eucharistie) và đêm thứ năm rạng ngày thứ sáu, diễn ra những phiên xử trước Pilate và Hérode. Ngày thứ sáu Tuần Thánh là ngày đóng đinh trên Thập Tự Giá. Ngày thứ bảy, giảng đạo cho những linh hồn trong đề lao; đến nửa đêm thứ bảy rạng ngày Chúa Nhật, Đấng Christ phục sinh từ nấm mồ của Ngài, và vĩnh viễn nhập Thánh.
Tất cả những chi tiết kể trên về cuộc đời của Đấng Christ có liên hệ đến những sự việc thật sự xảy ra trong cuộc Điểm Đạo lần thứ tư. Đấng Christ đã làm một việc phi thường và bất hủ khi Ngài phục sinh cho Thánh Lazare vào ngày thứ bảy. Chính một phần lớn do hậu quả của việc ấy mà sau đó không bao lâu Ngài được hưởng cái vinh diệu duy nhất ở trần gian, vì dân chúng đều đến rất đông khi họ nghe nói về việc Ngài làm cho người chết sống lại. Họ chờ đợi Ngài, và khi Ngài, từ nhà đi ra để đi đến Jerusalem, họ tiếp đón Ngài với sự hoan hô nồng nhiệt và trọng đãi Ngài như một bực Thánh.
Họ hộ tống Ngài một cách hăng say đến Jerusalem, và trong lúc đó tự nhiên là Ngài thừa cơ hội để dạy dỗ họ và thuyết pháp nơi Thánh Đường nhiều lần, tại đây dân chúng tề tựu rất đông để chiêm ngưỡng và nghe Ngài giảng Đạo. Điều này là một biểu tượng để chỉ thực trạng của quả vị La Hán. Người Đạo Đồ đắc quả vị này được thiên hạ chú ý, và thu hoạch được ít nhiều danh vọng. Kế đó, luôn luôn có một kẻ phản bội xuất hiện để hãm hại y và xuyên tạc những điều y đã nói và làm. Điều này dường như một ác quả; như Ruysbroek đã nói:
"Đôi khi những kẻ bất hạnh đó thiếu thốn hẳn những vật tốt lành của thế gian, không có bạn bè thân quyến, và bị bỏ rơi bởi tất cả mọi người. Sự thánh thiện của họ bị nghi ngờ và xuyên tạc. Người đời lên án tất cả những công trình của họ đã làm. Họ bị người chung quanh ruồng bỏ và khinh khi; và đôi khi họ lại mắc phải những bịnh tật nọ kia".
Kế đó họ bị một trận mưa phỉ báng và nguyền rủa rơi lên đầu họ, và sau cùng, họ bị thế gian ruồng bỏ. sau đó, diễn ra cảnh tượng trong vườn Getsemane, khi đó Đấng Christ cảm thấy Ngài bị thiên hạ hoàn toàn bỏ rơi. Kế đó, Ngài bị người đời chế diễu và đóng đinh trên Thập Tự Giá. Sau cùng, từ trên Thập Tự Giá, Ngài kêu to: "Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa lìa bỏ con?"
Bà Lbavatsky chủ trương một giả thuyết, mà bà đã trình bày trong bộ sách "Giáo lý nhiệm mầu", giả thuyết ấy cho rằng ý nghĩa thực sự của câu trên, chính là: "Chúa ơi, Chúa đã làm rạng danh Con là dường nào!". Tôi không biết trong hai câu trên, câu nào là đúng hơn, nhưng cả hai đều bao hàm một điều chân lý chính đại. Một trong những khía cạnh của cuộc Điểm Đạo thứ tư là người Đạo Đồ sẽ bị hoàn toàn cô lập một mình. Trước tiên y phải đứng độc lập một mình trên cõi thế gian; tất cả những bạn bè thân thuộc của y, do một sự hiểu lầm nào đó, đều quay lại chống báng y. Về sau, mọi sự đều được giải quyết ổn thỏa, nhưng trong một lúc, người Đạo Đồ bị cô lập và có cái cảm giác rằng tất cả mọi người thế gian đều chống lại y.
Có lẽ đó không phải là một sự thử thách lớn lao, nhưng có một khía cạnh ẩn dấu khác của vấn đề này, vì người Đạo Đồ còn phải kinh nghiệm trong một lúc cái trạng thái gọi là "Avichi"(Sách Tàu dịch là Ngục A Tỳ) có nghĩa là trạng thái vô âm ba, không có sự rung động. Trạng thái A Tỳ (Avichi) không phải là một nơi địa ngục như người ta lầm tưởng, mà là một trạng thái khi người Đạo Đồ đứng cô lập một mình trong không gian và cảm thấy mình bị cắt đứt mọi liên lạc với sự sống bên ngoài, thậm chí đến sự sống của Thượng Đế. Điều này chắc chắn là một kinh nghiệm khủng khiếp rùng rợn nhất có thể xảy đến cho bất cứ một người nào. Người ta đã nói rằng cái trạng thái đó chỉ diễn ra có một lúc, nhưng đối với người nào đã trải qua cái kinh nghiệm thảm khốc đó thì nó dường như một thế hệ dài vô tận, vì ở mức độ của nó không có thới gain và không gian. Sự thử thách kinh khủng rùng rợn đó, theo tôi tưởng, có hai mục đích: Trước nhất, để cho người Đạo Đồ có thể hoàn toàn thông cảm với những người bị lọt vào trạng thái A Tỳ do nghiệp quả của họ gây nên. Mục đích thứ hai là để cho người Đạo Đồ tập đứng hoàn toàn cô lập, cách biệt khỏi mọi sự vật thuộc về ngoại cảnh.
Với trạng thái đó, y cảm biết chắc chắn rằng y là Một với Thượng Đế, và sự rùng rợn và khủng khiếp do bởi cái cảm giác bị ngăn cách với Ngài gây ra, chỉ là một sự ảo tưởng và một sự cám dỗ. Có nhiều người bị thất bại trước sự thử thách kinh khủng này, đã phải thối lui và bắt đầu tu luyện trở lại để vượt qua cuộc Điểm Đạo đó. Nhưng đối với người Đạo Đồ có đủ bản lĩnh để vượt qua cơn thử thách dễ sợ này, thì nó là một kinh nghiệm vô cùng huyền diệu. Nếu câu "Chúa ơi! Sao Chúa lìa bỏ Con" có thể áp dụng trong khi người Đạo Đồ đang lâm cơn thử thách thì câu: "Chúa ơi! Chúa đã làm rạng danh cho Con dường nào!"cũng có thể biểu lộ cảm giác của người Đạo Đồ sau khi đã vượt qua cơn thử thách và đã thành công.
Cuộc Điểm Đạo lần thứ tư khác hẳn với tất cả những cuộc Điểm Đạo khác ở chỗ nó có một khía cạnh lạ lùng, bao gồm cả hai phương diện đau khổ và thành công. Trong ba cuộc Điểm Đạo đầu tiên, mỗi cuộc Điểm Đạo đều được Biểu tượng Thiên Chúa Giáo tượng trưng bằng một sự việc rõ rệt, sự Giáng sinh (Naissance) sự Rửa Tội (Baptême) và sự Biến hình (Transfiguration). Để diễn tả cuộc Điểm Đạo thứ tư, người ta phải dùng nhiều sự việc khác nhau. Việc đóng đinh trên Thập Tự Giá và tất cả những sự thương khó của nó, được dùng để diễn tả một phương diện của cuộc Điểm Đạo này, còn sự Phục sinh với sự thành công chiến thắng cái Chết biểu hiện cho phương diện kia.
Ở giai đoạn này luôn luôn có sự đau khổ về cả ba phương diện: thể chất, tình cảm và tinh thần. Luôn luôn có sự lên án của thế gian, và dường như có sự thất bại. Luôn có sự thành công rực rỡ trên những cõi giới thanh cao hơn; tuy nhiên, điều này thế gian không hề biết. Những sự đau khổ kỳ lạ luôn luôn đi kèm với cuộc Điểm Đạo này, để thanh toán tất cả mọi nghiệp quả còn sót lại, nó có thể làm ngăn trở bước tiến của người Đạo Đồ. Sự kiên nhẫn và an vui trong khi người Đạo Đồ chịu đựng những sự đau khổ đó, có giá trị rất lớn trong việc rèn luyện tâm tánh của y. Nó cũng giúp cho sự định đoạt xem y sẽ được hữu ích đến mức độ nào trong công việc phụng sự, mà y sẽ phải làm trong tương lai.
Việc đóng đinh trên Thập Tự Giá và việc Phục Sinh, biểu tượng của cuộc Điểm Đạo thứ tư được diễn tả trong một phương châm cổ như sau:
"Khi đó, người Đạo Đồ bị trói trên Thập Tự Giá bằng gỗ, y sẽ chết, y sẽ bị đem chôn và sẽ xuống cảnh Âm Ty. Ngày thứ ba, y sẽ sống dậy và Phục Sinh trở lại".
Người Đạo Đồ của xứ Ai Cập thời cổ nằm mê thiếp đi trong cái quan tài suốt ba ngày ba đêm liền. Qua một phần của ngày thứ tư, y được đỡ dậy, trong khi y vẫn còn mê man và được chở đến chỗ thoáng khí ở góc phía Đông của Kim Tự Tháp hoặc của nơi đền phủ, để cho ánh sáng Mặt Trời mọc chiếu vào gương mặt y và đánh thức y tỉnh dậy sau giấc ngủ dài triền miên đó.
Có một câu ngạn ngữ cổ nói rằng: "Không Thập Tự Giá, không có Vương Miện", ý nói con người nếu không giáng xuống cõi vật chất, không bị trói buộc vào cuộc đời vật chất, thì không thể nào Phục Sinh và đạt được cái Vương Miện (cái mão) của đài vinh quang. Trái lại, nhờ sự hạn chế trong cõi vật chất và nhờ đau khổ rèn luyện, mà y đạt được sự thành công. Chúng ta không thể miêu tả sự Phục Sinh đó; mọi thứ ngôn ngữ, văn tự mà chúng ta dùng để diễn tả điều ấy rốt cuộc chỉ làm hoen ố sự huy hoàng lộng lẫy của nó và trở nên hầu như một sự xúc phạm. Nhưng người ta có thể nói như thế này: người Đạo Đồ đã hoàn toàn chiến thắng tất cả những điều phiền não, đau khổ, thử thách, chướng ngại và cám dỗ, và đạt tới sự vinh quang trường cửu muôn đời vì y đã chiến thắng các điều đó bằng trí tuệ và sức mạnh của nội tâm.
QUẢ VỊ LA HÁN (ARHAT)THEO KHOA BIỂU TƯỢNG THIÊN CHÚA GIÁO
Trong khoa biểu tượng Thiên Chúa Giáo, cuộc Điểm Đạo thứ tư được diễn tả bằng sự thương khó ở Vườn Ô Liu, Đóng đinh trên Thập Tự Giá và Phục Sinh của Đấng Christ.
Vì lẽ cần phải bắt đầu bằng những giai đoạn tiên khởi, biểu tượng này sẽ được toàn hảo hơn nếu người ta lưu ý đến những sự việc, mà tục truyền rằng đã xảy ra trong Tuần Thánh. Việc đầu tiên là việc Đấng Christ phục sinh cho Thánh Lazare, và điều này luôn luôn được kỷ niệm vào ngày thứ Bảy trước ngày Chúa Nhật "Lễ Lá" (Rameaux), mặc dầu theo Thánh Kinh thì nó xảy ra một hay hai tuần lễ trước đó.
Ngày Chúa Nhật thì xảy ra việc đáo nhập thành Jerusalem một cách tưng bừng rực rỡ. Ngày thứ hai và thứ ba, Đấng Christ giảng đạo nhiều lần ở Thánh Đường. Ngày thứ tu Ngài bị Judas phản bội. Ngày thứ năm là ngày thành lập Thánh Thể (Eucharistie) và đêm thứ năm rạng ngày thứ sáu, diễn ra những phiên xử trước Pilate và Hérode. Ngày thứ sáu Tuần Thánh là ngày đóng đinh trên Thập Tự Giá. Ngày thứ bảy, giảng đạo cho những linh hồn trong đề lao; đến nửa đêm thứ bảy rạng ngày Chúa Nhật, Đấng Christ phục sinh từ nấm mồ của Ngài, và vĩnh viễn nhập Thánh.
Tất cả những chi tiết kể trên về cuộc đời của Đấng Christ có liên hệ đến những sự việc thật sự xảy ra trong cuộc Điểm Đạo lần thứ tư. Đấng Christ đã làm một việc phi thường và bất hủ khi Ngài phục sinh cho Thánh Lazare vào ngày thứ bảy. Chính một phần lớn do hậu quả của việc ấy mà sau đó không bao lâu Ngài được hưởng cái vinh diệu duy nhất ở trần gian, vì dân chúng đều đến rất đông khi họ nghe nói về việc Ngài làm cho người chết sống lại. Họ chờ đợi Ngài, và khi Ngài, từ nhà đi ra để đi đến Jerusalem, họ tiếp đón Ngài với sự hoan hô nồng nhiệt và trọng đãi Ngài như một bực Thánh.
Họ hộ tống Ngài một cách hăng say đến Jerusalem, và trong lúc đó tự nhiên là Ngài thừa cơ hội để dạy dỗ họ và thuyết pháp nơi Thánh Đường nhiều lần, tại đây dân chúng tề tựu rất đông để chiêm ngưỡng và nghe Ngài giảng Đạo. Điều này là một biểu tượng để chỉ thực trạng của quả vị La Hán. Người Đạo Đồ đắc quả vị này được thiên hạ chú ý, và thu hoạch được ít nhiều danh vọng. Kế đó, luôn luôn có một kẻ phản bội xuất hiện để hãm hại y và xuyên tạc những điều y đã nói và làm. Điều này dường như một ác quả; như Ruysbroek đã nói:
"Đôi khi những kẻ bất hạnh đó thiếu thốn hẳn những vật tốt lành của thế gian, không có bạn bè thân quyến, và bị bỏ rơi bởi tất cả mọi người. Sự thánh thiện của họ bị nghi ngờ và xuyên tạc. Người đời lên án tất cả những công trình của họ đã làm. Họ bị người chung quanh ruồng bỏ và khinh khi; và đôi khi họ lại mắc phải những bịnh tật nọ kia".
Kế đó họ bị một trận mưa phỉ báng và nguyền rủa rơi lên đầu họ, và sau cùng, họ bị thế gian ruồng bỏ. sau đó, diễn ra cảnh tượng trong vườn Getsemane, khi đó Đấng Christ cảm thấy Ngài bị thiên hạ hoàn toàn bỏ rơi. Kế đó, Ngài bị người đời chế diễu và đóng đinh trên Thập Tự Giá. Sau cùng, từ trên Thập Tự Giá, Ngài kêu to: "Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa lìa bỏ con?"
Bà Lbavatsky chủ trương một giả thuyết, mà bà đã trình bày trong bộ sách "Giáo lý nhiệm mầu", giả thuyết ấy cho rằng ý nghĩa thực sự của câu trên, chính là: "Chúa ơi, Chúa đã làm rạng danh Con là dường nào!". Tôi không biết trong hai câu trên, câu nào là đúng hơn, nhưng cả hai đều bao hàm một điều chân lý chính đại. Một trong những khía cạnh của cuộc Điểm Đạo thứ tư là người Đạo Đồ sẽ bị hoàn toàn cô lập một mình. Trước tiên y phải đứng độc lập một mình trên cõi thế gian; tất cả những bạn bè thân thuộc của y, do một sự hiểu lầm nào đó, đều quay lại chống báng y. Về sau, mọi sự đều được giải quyết ổn thỏa, nhưng trong một lúc, người Đạo Đồ bị cô lập và có cái cảm giác rằng tất cả mọi người thế gian đều chống lại y.
Có lẽ đó không phải là một sự thử thách lớn lao, nhưng có một khía cạnh ẩn dấu khác của vấn đề này, vì người Đạo Đồ còn phải kinh nghiệm trong một lúc cái trạng thái gọi là "Avichi"(Sách Tàu dịch là Ngục A Tỳ) có nghĩa là trạng thái vô âm ba, không có sự rung động. Trạng thái A Tỳ (Avichi) không phải là một nơi địa ngục như người ta lầm tưởng, mà là một trạng thái khi người Đạo Đồ đứng cô lập một mình trong không gian và cảm thấy mình bị cắt đứt mọi liên lạc với sự sống bên ngoài, thậm chí đến sự sống của Thượng Đế. Điều này chắc chắn là một kinh nghiệm khủng khiếp rùng rợn nhất có thể xảy đến cho bất cứ một người nào. Người ta đã nói rằng cái trạng thái đó chỉ diễn ra có một lúc, nhưng đối với người nào đã trải qua cái kinh nghiệm thảm khốc đó thì nó dường như một thế hệ dài vô tận, vì ở mức độ của nó không có thới gain và không gian. Sự thử thách kinh khủng rùng rợn đó, theo tôi tưởng, có hai mục đích: Trước nhất, để cho người Đạo Đồ có thể hoàn toàn thông cảm với những người bị lọt vào trạng thái A Tỳ do nghiệp quả của họ gây nên. Mục đích thứ hai là để cho người Đạo Đồ tập đứng hoàn toàn cô lập, cách biệt khỏi mọi sự vật thuộc về ngoại cảnh.
Với trạng thái đó, y cảm biết chắc chắn rằng y là Một với Thượng Đế, và sự rùng rợn và khủng khiếp do bởi cái cảm giác bị ngăn cách với Ngài gây ra, chỉ là một sự ảo tưởng và một sự cám dỗ. Có nhiều người bị thất bại trước sự thử thách kinh khủng này, đã phải thối lui và bắt đầu tu luyện trở lại để vượt qua cuộc Điểm Đạo đó. Nhưng đối với người Đạo Đồ có đủ bản lĩnh để vượt qua cơn thử thách dễ sợ này, thì nó là một kinh nghiệm vô cùng huyền diệu. Nếu câu "Chúa ơi! Sao Chúa lìa bỏ Con" có thể áp dụng trong khi người Đạo Đồ đang lâm cơn thử thách thì câu: "Chúa ơi! Chúa đã làm rạng danh cho Con dường nào!"cũng có thể biểu lộ cảm giác của người Đạo Đồ sau khi đã vượt qua cơn thử thách và đã thành công.
Cuộc Điểm Đạo lần thứ tư khác hẳn với tất cả những cuộc Điểm Đạo khác ở chỗ nó có một khía cạnh lạ lùng, bao gồm cả hai phương diện đau khổ và thành công. Trong ba cuộc Điểm Đạo đầu tiên, mỗi cuộc Điểm Đạo đều được Biểu tượng Thiên Chúa Giáo tượng trưng bằng một sự việc rõ rệt, sự Giáng sinh (Naissance) sự Rửa Tội (Baptême) và sự Biến hình (Transfiguration). Để diễn tả cuộc Điểm Đạo thứ tư, người ta phải dùng nhiều sự việc khác nhau. Việc đóng đinh trên Thập Tự Giá và tất cả những sự thương khó của nó, được dùng để diễn tả một phương diện của cuộc Điểm Đạo này, còn sự Phục sinh với sự thành công chiến thắng cái Chết biểu hiện cho phương diện kia.
Ở giai đoạn này luôn luôn có sự đau khổ về cả ba phương diện: thể chất, tình cảm và tinh thần. Luôn luôn có sự lên án của thế gian, và dường như có sự thất bại. Luôn có sự thành công rực rỡ trên những cõi giới thanh cao hơn; tuy nhiên, điều này thế gian không hề biết. Những sự đau khổ kỳ lạ luôn luôn đi kèm với cuộc Điểm Đạo này, để thanh toán tất cả mọi nghiệp quả còn sót lại, nó có thể làm ngăn trở bước tiến của người Đạo Đồ. Sự kiên nhẫn và an vui trong khi người Đạo Đồ chịu đựng những sự đau khổ đó, có giá trị rất lớn trong việc rèn luyện tâm tánh của y. Nó cũng giúp cho sự định đoạt xem y sẽ được hữu ích đến mức độ nào trong công việc phụng sự, mà y sẽ phải làm trong tương lai.
Việc đóng đinh trên Thập Tự Giá và việc Phục Sinh, biểu tượng của cuộc Điểm Đạo thứ tư được diễn tả trong một phương châm cổ như sau:
"Khi đó, người Đạo Đồ bị trói trên Thập Tự Giá bằng gỗ, y sẽ chết, y sẽ bị đem chôn và sẽ xuống cảnh Âm Ty. Ngày thứ ba, y sẽ sống dậy và Phục Sinh trở lại".
Người Đạo Đồ của xứ Ai Cập thời cổ nằm mê thiếp đi trong cái quan tài suốt ba ngày ba đêm liền. Qua một phần của ngày thứ tư, y được đỡ dậy, trong khi y vẫn còn mê man và được chở đến chỗ thoáng khí ở góc phía Đông của Kim Tự Tháp hoặc của nơi đền phủ, để cho ánh sáng Mặt Trời mọc chiếu vào gương mặt y và đánh thức y tỉnh dậy sau giấc ngủ dài triền miên đó.
Có một câu ngạn ngữ cổ nói rằng: "Không Thập Tự Giá, không có Vương Miện", ý nói con người nếu không giáng xuống cõi vật chất, không bị trói buộc vào cuộc đời vật chất, thì không thể nào Phục Sinh và đạt được cái Vương Miện (cái mão) của đài vinh quang. Trái lại, nhờ sự hạn chế trong cõi vật chất và nhờ đau khổ rèn luyện, mà y đạt được sự thành công. Chúng ta không thể miêu tả sự Phục Sinh đó; mọi thứ ngôn ngữ, văn tự mà chúng ta dùng để diễn tả điều ấy rốt cuộc chỉ làm hoen ố sự huy hoàng lộng lẫy của nó và trở nên hầu như một sự xúc phạm. Nhưng người ta có thể nói như thế này: người Đạo Đồ đã hoàn toàn chiến thắng tất cả những điều phiền não, đau khổ, thử thách, chướng ngại và cám dỗ, và đạt tới sự vinh quang trường cửu muôn đời vì y đã chiến thắng các điều đó bằng trí tuệ và sức mạnh của nội tâm.
#64
Gửi vào 19/10/2011 - 01:01
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
NIẾT BÀN (NIRVANA)
Kể từ nay, vị La Hán đã khai mở được tâm thức của cõi Bồ Đề trong khi người vẫn hoạt động trong xác thân, và khi người rời khỏi Thể Xác trong giấc ngủ hay trong cơn đại định, thì người lập tức bước vào cái vinh quang khôn tả của cõi Niết Bàn. Trong cuộc Điểm Đạo thứ tư, vị La Hán phải có ít nhất một vài kinh nghiệm về tâm thức cõi Niết Bàn, cũng như trong cuộc Điểm Đạo thứ nhất, người Đạo Đồ phải có một ít kinh nghiệm về tâm thức cõi Bồ Đề, và từ nay y phải cố gắng luôn luôn hằng ngày để từ từ tiến lên tận cõi Niết Bàn. Đó là một công việc vô cùng khó khăn nhưng lần lần Người sẽ nhận thấy tự mình có thể vượt lên tận cái cõi giới vô cùng huyền diệu đó.
Việc nhập Niết Bàn làm cho người hành giả hoàn toàn bỡ ngỡ lạ lùng. Cái cảm giác đầu tiên của y là ở đó có một sự sống vô cùng linh động, dầu cho người đã quen thuộc với cõi giới Bồ Đề cũng phải ngạc nhiên. Sự ngạc nhiên này người Đạo Đồ đã từng trải qua, mặc dầu là ít hơn, mỗi khi mà lần đầu y vượt từ cõi này lên một cõi khác. Khi chúng ta vượt cõi hồng trần qua cõi Trung Giới trong sự hoàn toàn thức tỉnh, chúng ta thấy sự sinh hoạt ở cõi này dồi dào phong phú hơn thập bội, những gì mà chúng ta đã biết từ trước đến giờ, đến nỗi chúng ta phải thốt lên rằng: "Tôi tưởng tôi biết đời là gì, nhưng té ra tôi chưa từng biết gì hết!".
Khi chúng ta bước qua cõi Trung Giới, chúng ta càng ngạc nhiên gấp đôi, vì cõi Trung Giới tuy là mới lạ, nhưng nó chẳng ra gì so với cõi Hạ Thiên. Khi chúng ta bước qua cõi Thượng Thiên, chúng ta cũng lại ngạc nhiên như vậy nữa. Mỗi bước vượt bực, chúng ta lại cảm thấy sự ngạc nhiên càng tăng lên bội phần, và không có sự chuẩn bị nào trước có thể ngăn cản sự ngạc nhiên đó, vì mỗi cõi cao hơn đem đến cho chúng ta một sự huy hoàng rực rỡ quá sức tưởng tượng, và đời sống ở những cõi thanh cao đó là một sự hạnh phúc cực lạc, mà ngôn ngữ của thế gian không sao tả nổi.
Các nhà học giả Âu Châu khảo cứu về văn hóa Đông Phương đã dịch chữ Nirvana là "tịch diệt", vì chính danh từ đó có nghĩa là "dập tắt" cũng như ngọn đèn cầy bị cơn gió thổi tắt vậy. Thật không có gì trái với chân lý hơn nữa, trừ phi nó có nghĩa là sự tịch diệt của con người phàm ở cõi thế gian, vì trong trạng thái đó, người ta không còn là một người phàm nữa, mà là Thượng Đế trong con người, một vị Thần Linh trong số những vị Thần Linh khác.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng vũ trụ tràn đầy một nguồn ánh sáng vô biên, sống động, và luân chuyển như mực nước thủy triều lên cao, một biển đại dương đầy ánh sáng, ánh sáng này có một mục đích của nó, nhưng hốn nhiên không có sự áp lực hay căng thẳng. Trước tiên, chúng ta chỉ cảm thấy một sự thoải mái nhẹ nhàng, và không thấy gì khác hơn và mãnh lực thậm thâm vi diệu của ánh sáng. Nhưng lần lần, chúng ta nhận thấy rằng dầu cho trong cái ánh sáng rực rỡ đó, cũng có những điểm chói sáng hơn nữa, chẳng khác nào những trung tâm điểm phát nguyên một thứ đặc tính mới để cho ánh sáng kia có thể cảm xúc được ở cõi Hạ Giới, và nếu không có đặc tính đó thì những chúng sinh ở các cõi này không thể nào cảm biết được sự mầu nhiệm của ánh sáng.
Khi đó, lần lần chúng ta hiểu rằng những ngôi Mặt Trời phụ thuộc đó là những đấng Cao Cả, những đấng Tinh Quân, những đấng đại Thiên Thần, những vị Nam Tào Bắc Đẩu, những vị Phật, Chúa, và các Chân Sư, và nhiều đấng khác nữa mà chúng ta không biết tên, nhưng chính nhờ các đấng ấy mà ánh sáng và nguồn sống được ban rải xuống các cõi hạ Giới. Lần lần, khi chúng ta trở nên quen thuộc với cái sự thật huyền diệu đó, chúng ta bắt đầu nhận định rằng chúng ta hợp Nhứt với các Ngài, mặc dầu chúng ta còn thấp kém hơn các Ngài một trời một vực.
Chúng ta cũng sẽ nhận định rằng chúng ta là một phân tử của cái Duy Nhất nó biểu hiện trong các Ngài và ở khắp chốn trong không gian; rằng chính chúng ta cũng là những trung tâm ở cõi Hạ Giới để nhờ đó ánh sáng và sinh lực được ban xuống và phân phát ra cho những kẻ còn kém hơn chúng ta rất xa. Sự huy hoàng lộng lẫy của cõi Niết bàn tự nhiên là vượt khỏi tầm hiểu biết của người thế gian. Không có thứ ngôn ngữ văn tự nào của trần gian có thể diễn tả sự kinh nghiệm của cõi Niết Bàn, vì tất cả những gì mà cái trí của ta hiểu biết và lãnh hội được đã biến mất từ lâu trước khi chúng ta đạt tới cõi giới đó.
Người nào đã có một lần nhận thức được sự Hợp Nhứt Huyền Diệu của cõi Niết Bàn sẽ không bao giờ quên điều ấy, và không thể nào còn giống y như trước. Dầu cho y trầm mình sâu đến bao nhiêu trong các Hạ Thể để giúp đỡ và cứu rỗi kẻ khác, dầu cho y có bị trói buộc chặt chẽ đến đâu trong cõi vật chất, y cũng không thể nào quên được rằng chính mắt của y đã nhìn thấy đức Ngọc Đế trong sự Mỹ lệ của Ngài, rằng chính y đã lọt vào cái thế giới cực lạc xa xăm. Cõi giới này tuy rất xa xăm nhưng cũng rất gần, và luôn luôn lúc nào cũng ở trong người chúng ta nếu chúng ta có thể nhìn thấy nó, bởi vì muốn đạt tới cõi Niết Bàn, chúng ta không cần phải đi đến chốn nào xa xôi trong không gian, chỉ cần khai mở tâm thức của ta để đón nhận sự huy hoàng của nó.
Đức Phật xưa kia đã nói: "Ngươi chớ than khóc, cầu khẩn, mà hãy mở mắt ra để nhìn thấy, vì ánh sáng vốn ở chung quanh các ngươi, một ánh sáng huyền diệu thay, tốt đẹp thay, đẹp hơn tất cả những gì mà con người đã từng mơ ước, cầu xin, và nó là thứ ánh sáng trường cửu và bất diệt"
Nhà tiên tri Isaie có nói đến "Cái xứ xa xăm đó", nhưng thật ra, đây là một câu dịch sai nghĩa. Isaie không có nói đến cái xứ xa xăm nào đó, mà nói đến "cái xứ rộng bao la",câu này diễn tả một ý kiến khác hẳn và có một tính cách rất mỹ lệ. Nó chỉ nhà tiên tri đã bước vào những cõi giới thanh cao, và trong tư tưởng đó, Ngài so sánh sự lộng lẫy huy hoàng của các cõi Trời đầy những ánh sao rực rỡ, với chốn trần gian chật hẹp u tối của chúng ta.
Đó chính là cái hình ảnh so sánh đời sống con người ở thế gian với cái đời sống thanh cao siêu việt ở cõi trên: Một mặt, con người tập tễnh bước lần mò trên những con đường quanh co, u ám; so với một đời sống huy hoàng, có định hướng, với một sự nhận thức rõ ràng rằng ý chí Thiêng Liêng của Tạo Hóa truyền sự sống và hoạt động xuyên qua ý chí của người trần gian.
NIẾT BÀN (NIRVANA)
Kể từ nay, vị La Hán đã khai mở được tâm thức của cõi Bồ Đề trong khi người vẫn hoạt động trong xác thân, và khi người rời khỏi Thể Xác trong giấc ngủ hay trong cơn đại định, thì người lập tức bước vào cái vinh quang khôn tả của cõi Niết Bàn. Trong cuộc Điểm Đạo thứ tư, vị La Hán phải có ít nhất một vài kinh nghiệm về tâm thức cõi Niết Bàn, cũng như trong cuộc Điểm Đạo thứ nhất, người Đạo Đồ phải có một ít kinh nghiệm về tâm thức cõi Bồ Đề, và từ nay y phải cố gắng luôn luôn hằng ngày để từ từ tiến lên tận cõi Niết Bàn. Đó là một công việc vô cùng khó khăn nhưng lần lần Người sẽ nhận thấy tự mình có thể vượt lên tận cái cõi giới vô cùng huyền diệu đó.
Việc nhập Niết Bàn làm cho người hành giả hoàn toàn bỡ ngỡ lạ lùng. Cái cảm giác đầu tiên của y là ở đó có một sự sống vô cùng linh động, dầu cho người đã quen thuộc với cõi giới Bồ Đề cũng phải ngạc nhiên. Sự ngạc nhiên này người Đạo Đồ đã từng trải qua, mặc dầu là ít hơn, mỗi khi mà lần đầu y vượt từ cõi này lên một cõi khác. Khi chúng ta vượt cõi hồng trần qua cõi Trung Giới trong sự hoàn toàn thức tỉnh, chúng ta thấy sự sinh hoạt ở cõi này dồi dào phong phú hơn thập bội, những gì mà chúng ta đã biết từ trước đến giờ, đến nỗi chúng ta phải thốt lên rằng: "Tôi tưởng tôi biết đời là gì, nhưng té ra tôi chưa từng biết gì hết!".
Khi chúng ta bước qua cõi Trung Giới, chúng ta càng ngạc nhiên gấp đôi, vì cõi Trung Giới tuy là mới lạ, nhưng nó chẳng ra gì so với cõi Hạ Thiên. Khi chúng ta bước qua cõi Thượng Thiên, chúng ta cũng lại ngạc nhiên như vậy nữa. Mỗi bước vượt bực, chúng ta lại cảm thấy sự ngạc nhiên càng tăng lên bội phần, và không có sự chuẩn bị nào trước có thể ngăn cản sự ngạc nhiên đó, vì mỗi cõi cao hơn đem đến cho chúng ta một sự huy hoàng rực rỡ quá sức tưởng tượng, và đời sống ở những cõi thanh cao đó là một sự hạnh phúc cực lạc, mà ngôn ngữ của thế gian không sao tả nổi.
Các nhà học giả Âu Châu khảo cứu về văn hóa Đông Phương đã dịch chữ Nirvana là "tịch diệt", vì chính danh từ đó có nghĩa là "dập tắt" cũng như ngọn đèn cầy bị cơn gió thổi tắt vậy. Thật không có gì trái với chân lý hơn nữa, trừ phi nó có nghĩa là sự tịch diệt của con người phàm ở cõi thế gian, vì trong trạng thái đó, người ta không còn là một người phàm nữa, mà là Thượng Đế trong con người, một vị Thần Linh trong số những vị Thần Linh khác.
Chúng ta hãy thử tưởng tượng vũ trụ tràn đầy một nguồn ánh sáng vô biên, sống động, và luân chuyển như mực nước thủy triều lên cao, một biển đại dương đầy ánh sáng, ánh sáng này có một mục đích của nó, nhưng hốn nhiên không có sự áp lực hay căng thẳng. Trước tiên, chúng ta chỉ cảm thấy một sự thoải mái nhẹ nhàng, và không thấy gì khác hơn và mãnh lực thậm thâm vi diệu của ánh sáng. Nhưng lần lần, chúng ta nhận thấy rằng dầu cho trong cái ánh sáng rực rỡ đó, cũng có những điểm chói sáng hơn nữa, chẳng khác nào những trung tâm điểm phát nguyên một thứ đặc tính mới để cho ánh sáng kia có thể cảm xúc được ở cõi Hạ Giới, và nếu không có đặc tính đó thì những chúng sinh ở các cõi này không thể nào cảm biết được sự mầu nhiệm của ánh sáng.
Khi đó, lần lần chúng ta hiểu rằng những ngôi Mặt Trời phụ thuộc đó là những đấng Cao Cả, những đấng Tinh Quân, những đấng đại Thiên Thần, những vị Nam Tào Bắc Đẩu, những vị Phật, Chúa, và các Chân Sư, và nhiều đấng khác nữa mà chúng ta không biết tên, nhưng chính nhờ các đấng ấy mà ánh sáng và nguồn sống được ban rải xuống các cõi hạ Giới. Lần lần, khi chúng ta trở nên quen thuộc với cái sự thật huyền diệu đó, chúng ta bắt đầu nhận định rằng chúng ta hợp Nhứt với các Ngài, mặc dầu chúng ta còn thấp kém hơn các Ngài một trời một vực.
Chúng ta cũng sẽ nhận định rằng chúng ta là một phân tử của cái Duy Nhất nó biểu hiện trong các Ngài và ở khắp chốn trong không gian; rằng chính chúng ta cũng là những trung tâm ở cõi Hạ Giới để nhờ đó ánh sáng và sinh lực được ban xuống và phân phát ra cho những kẻ còn kém hơn chúng ta rất xa. Sự huy hoàng lộng lẫy của cõi Niết bàn tự nhiên là vượt khỏi tầm hiểu biết của người thế gian. Không có thứ ngôn ngữ văn tự nào của trần gian có thể diễn tả sự kinh nghiệm của cõi Niết Bàn, vì tất cả những gì mà cái trí của ta hiểu biết và lãnh hội được đã biến mất từ lâu trước khi chúng ta đạt tới cõi giới đó.
Người nào đã có một lần nhận thức được sự Hợp Nhứt Huyền Diệu của cõi Niết Bàn sẽ không bao giờ quên điều ấy, và không thể nào còn giống y như trước. Dầu cho y trầm mình sâu đến bao nhiêu trong các Hạ Thể để giúp đỡ và cứu rỗi kẻ khác, dầu cho y có bị trói buộc chặt chẽ đến đâu trong cõi vật chất, y cũng không thể nào quên được rằng chính mắt của y đã nhìn thấy đức Ngọc Đế trong sự Mỹ lệ của Ngài, rằng chính y đã lọt vào cái thế giới cực lạc xa xăm. Cõi giới này tuy rất xa xăm nhưng cũng rất gần, và luôn luôn lúc nào cũng ở trong người chúng ta nếu chúng ta có thể nhìn thấy nó, bởi vì muốn đạt tới cõi Niết Bàn, chúng ta không cần phải đi đến chốn nào xa xôi trong không gian, chỉ cần khai mở tâm thức của ta để đón nhận sự huy hoàng của nó.
Đức Phật xưa kia đã nói: "Ngươi chớ than khóc, cầu khẩn, mà hãy mở mắt ra để nhìn thấy, vì ánh sáng vốn ở chung quanh các ngươi, một ánh sáng huyền diệu thay, tốt đẹp thay, đẹp hơn tất cả những gì mà con người đã từng mơ ước, cầu xin, và nó là thứ ánh sáng trường cửu và bất diệt"
Nhà tiên tri Isaie có nói đến "Cái xứ xa xăm đó", nhưng thật ra, đây là một câu dịch sai nghĩa. Isaie không có nói đến cái xứ xa xăm nào đó, mà nói đến "cái xứ rộng bao la",câu này diễn tả một ý kiến khác hẳn và có một tính cách rất mỹ lệ. Nó chỉ nhà tiên tri đã bước vào những cõi giới thanh cao, và trong tư tưởng đó, Ngài so sánh sự lộng lẫy huy hoàng của các cõi Trời đầy những ánh sao rực rỡ, với chốn trần gian chật hẹp u tối của chúng ta.
Đó chính là cái hình ảnh so sánh đời sống con người ở thế gian với cái đời sống thanh cao siêu việt ở cõi trên: Một mặt, con người tập tễnh bước lần mò trên những con đường quanh co, u ám; so với một đời sống huy hoàng, có định hướng, với một sự nhận thức rõ ràng rằng ý chí Thiêng Liêng của Tạo Hóa truyền sự sống và hoạt động xuyên qua ý chí của người trần gian.
#65
Gửi vào 19/10/2011 - 03:32
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
CÔNG VIỆC CỦA VỊ LA HÁN
Vị La Hán còn phải thực hiện cái công việc vĩ đại, là tiến lên những đỉnh cao tột trong cõi giới cao siêu huyền diệu nhất của đời người. Muốn thực hiện điều này, vị La Hán phải loại trừ năm điều cuối cùng, trong tất cả mười điều chướng ngại lớn. Đó là:
6. Ủa thích có sắc tướng đẹp đẽ, hoặc ham muốn sự sống có hình hài, sắc tướng, gồm cả sự sống ở cọi Thiên Giới.
7. Ham muốn sống trong cảnh vô sắc tướng.
8. Sự kiêu căng.
9. Sự vọng động, dễ bị động tâm vì ngoại cảnh.
10. Sự vô minh.
Hai điều chướng ngại thứ sáu và thứ bảy bao gồm cả ý nghĩa hấp dẫn (raga) và xô đẩy (Dwesha). Sự loại trừ hai chướng ngại này đòi hỏi một đức tánh bền bỉ, kiên cố để cho không có một điều gì ở cõi sắc giới hay cõi vô sắc giới, có thể làm cho người Đạo Đồ bị hấp dẫn dầu chỉ trong chốc lát; hoặc có thể làm cho y ghét bỏ trốn tránh vì tính chất xấu xa của nó, nếu ở nơi đó y có công việc phải làm để giúp đỡ chúng sinh.
Trong khi điều chướng ngại thứ tám bị loại trừ, người Đạo Đồ quên lửng những công quả vĩ đại lớn lao của mình, và không thể nào còn có sự kiêu căng, vì từ nay y đã luôn luôn được thấm nhuần ánh sáng Chân lý và không còn tự so sánh mình với những kẻ kém hèn hơn mình nữa. Kế đó, y đạt được sự an vui tự tại hoàn toàn, mà không một điều gì ở ngoại giới có thể lay chuyển hay làm cho y bị vọng động. Nhờ đó, y đạt tới sự thông suốt, hiểu biết hết tất cả mọi lẽ, và trở nên một bậc Toàn Trí trong dãy hành tinh của chúng ta.
CÔNG VIỆC CỦA VỊ LA HÁN
Vị La Hán còn phải thực hiện cái công việc vĩ đại, là tiến lên những đỉnh cao tột trong cõi giới cao siêu huyền diệu nhất của đời người. Muốn thực hiện điều này, vị La Hán phải loại trừ năm điều cuối cùng, trong tất cả mười điều chướng ngại lớn. Đó là:
6. Ủa thích có sắc tướng đẹp đẽ, hoặc ham muốn sự sống có hình hài, sắc tướng, gồm cả sự sống ở cọi Thiên Giới.
7. Ham muốn sống trong cảnh vô sắc tướng.
8. Sự kiêu căng.
9. Sự vọng động, dễ bị động tâm vì ngoại cảnh.
10. Sự vô minh.
Hai điều chướng ngại thứ sáu và thứ bảy bao gồm cả ý nghĩa hấp dẫn (raga) và xô đẩy (Dwesha). Sự loại trừ hai chướng ngại này đòi hỏi một đức tánh bền bỉ, kiên cố để cho không có một điều gì ở cõi sắc giới hay cõi vô sắc giới, có thể làm cho người Đạo Đồ bị hấp dẫn dầu chỉ trong chốc lát; hoặc có thể làm cho y ghét bỏ trốn tránh vì tính chất xấu xa của nó, nếu ở nơi đó y có công việc phải làm để giúp đỡ chúng sinh.
Trong khi điều chướng ngại thứ tám bị loại trừ, người Đạo Đồ quên lửng những công quả vĩ đại lớn lao của mình, và không thể nào còn có sự kiêu căng, vì từ nay y đã luôn luôn được thấm nhuần ánh sáng Chân lý và không còn tự so sánh mình với những kẻ kém hèn hơn mình nữa. Kế đó, y đạt được sự an vui tự tại hoàn toàn, mà không một điều gì ở ngoại giới có thể lay chuyển hay làm cho y bị vọng động. Nhờ đó, y đạt tới sự thông suốt, hiểu biết hết tất cả mọi lẽ, và trở nên một bậc Toàn Trí trong dãy hành tinh của chúng ta.
#66
Gửi vào 19/10/2011 - 17:23
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
CUỘC ĐIỂM ĐẠO LẦN THỨ NĂM, QUẢ VỊ CHƠN TIÊN(ASEKHA)
Trong giai đoạn kế tiếp, người Đạo Đồ sẽ đạt tới quả vị cuối cùng làm cho Người trở nên một bậc Siêu Nhân. Danh Từ Phật Giáo gọi đó là quả vị Chơn Tiên (Asekha),vì từ nay Người không còn phải học hỏi điều gì nữa, và đã trải qua tất cả mọi kinh nghiệm của đời sống con người ở dưới trần. Người Ấn Độ Giáo gọi Người là Jivanmukta, một bậc đã giải thoát, một đấng hoàn toàn tự do, tự do không phải là do một sự cách biệt với chúng sinh, mà bởi vì ý chí của Ngài đã hỗn hợp làm một với ý chí của Vũ Trụ, của đấng Dộc nhứt vô nhị trong hoàn vũ. Ngài đã vĩnh viễn nhập Niết Bàn, dầu trong khi thức tỉnh, nếu Ngài muốn giữ Xác Phàm để ở lại thế gian; và khi rời khỏi Xác Phàm, Ngài còn vượt lên cao hơn, đến tận cõi Đại Niết Bàn, cõi này không những ngoài vòng nghị luận của con người, mà trí phàm của chúng ta cũng không thể tưởng tượng nổi.
Đức Phật có nói: "Các ngươi đừng có dùng lời nói mà diễn tả Vô Biên, cũng đừng dùng sợi dây tư tưởng mà đo lường cái Diệu Huyền. Người nào hỏi là lầm, kẻ trả lời cũng lầm. Các ngươi đừng nói gì cả".
Trong khoa biểu tượng Thiên Chúa Giáo, quả vị Chơn Tiên được tượng trưng bằng sự Thăng Thiên (Ascension) và việc Chúa Thánh Thần hiện xuống (Descente) vì vị Chơn Tiên đã thăng lên mực độ cao hơn Nhân Loại, thoát khỏi vòng thế tục, mặc dầu nếu Ngài muốn, cũng như Đấng Christ đã làm, Ngài có thể trở lại thế gian để dạy dỗ và giúp đỡ nhân loại. Khi Ngài Thăng Thiên, Ngài hợp nhứt với Chúa Thánh Thần, và việc đầu tiên mà Ngài làm với cái quyền năng mới của Ngài, là ban rải nó cho các vị đệ tử, cũng như Đấng Christ, tưới những ngọn lửa đỏ trên đầu các người theo Ngài trong cuộc Lễ Ngũ Tuần (Pentecôte).
Nhờ sự hợp nhất đó mà vị Chơn Tiên (Asekha) có thể thâu nhận đệ tử. Vị La Hán (Arhat)mặc dầu có thể dạy, giáo hóa nhân loại, nhưng vẫn phải trực thuộc và thi hành Mệnh lệnh của một vị Chơn Tiên trên cõi thế gian. Vị La Hán không thâu nhận đệ tử, bởi vì Ngài chưa có sự liên lạc đặc biệt với Ngôi Ba (Chúa Thánh Thần) như đã nói ở trên.
CÁC QUẢ VỊ CAO HƠN
Trên vị Chơn Tiên, còn có quả vị Đế Quân (Chohan) những quả vị cao hơn nữa. Cái thanh tiến hóa còn nhiều nấc cao tột bậc hơn nữa, mà ít người trong chúng ta có thể đạt tới. Khi chúng ta hỏi các đấng Cao cả ở bậc trên chúng ta và biết nhiều hơn chúng ta rất xa, thì các Ngài cũng chỉ có thể nói rằng những nấc thang tiến hóa cao tột đó cũng ở ngoài tầm nhận xét của các Ngài. Các Ngài biết về những nấc thang đó nhiều hơn chúng ta rất xa, nhưng cái thang tiến hóa còn lên cao hơn nữa, đến tận những đỉnh cao thâm thâm diệu diệu mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi, và không ai biết được chỗ rốt ráo cùng tột của nó.
Mặc dầu không ai có thể thấy chổ cùng tột của nấc thang tiến hóa, và công việc của những đấng Cao Cả ở những cấp đẳng cao trong Quần Tiên Hội hầu như không thể hiểu nổi, tuy nhiên sự hiện diện và công việc của các Ngài quả thật có một cách thật sự và nhứt định, cũng như mọi sự vẫn có ở thế gian. Hơn nữa, sự nhận xét của chúng tôi về những đấng Cao Cả là một điều chắc chắn, không có một chút điểm nghi ngờ. Mặc dầu tôi biết rất ít về cái phần cao siêu trong công việc của Ngài, trong nhiều năm qua tôi đã từng thấy Đức Di-Lặc-Bồ-Tát làm công việc đó luôn luôn, hầu như mỗi ngày; và tôi đã từng rất nhiều lần chiêm ngưỡng đức Ngọc Đế trong sự hiện diện nhiệm mầu và khó hiểu của Ngài, cho nên đối với tôi, các Ngài là những đấng quả có thật sự cũng như bất cứ người nào tôi biết, và tôi cũng biết một phần nào về sứ mạng của các Ngài ở thế gian.
Tôi biết rằng những điều tôi có thể nói về các Ngài là những sự thật chắc chắn, tuy nhiên tôi không thể giải thích và cũng không hiểu biết được bao nhiêu về công việc của các Ngài. Tôi đã thấy những vị Đại Đế Quân (Dhyan Chohan), các đấng Tinh Quân (Planetary Spirits) và những vị Thiên Sứ của những Thái Dương Hệ khác, và tôi biết chắc chắn về sự hiện diện của các Ngài nhưng tôi không biết gì cả về những công việc làm của các Ngài. Chính tôi đã thấy sự Biểu Lộ của đức Thái Dương Thượng Đế giữa những đấng Cao Cả phụ tá của Ngài, và sự thấy của tôi chẳng qua chỉ là một phần trong muôn triệu về cái đức Cao Cả vô biên và khôn tả mà các đấng ấy nhìn thấy ở Ngài. Cũng như trong chuyện Bhagavad Gita, Arjuna đã nhìn thấy ảnh đức Thượng Đế, tôi đã thấy như vậy không một mảy may nghi ngờ. và tôi muốn chứng minh một cách cụ thể rằng những điều đó có thật. Tôi biết rằng khi tôi viết những chuyện này, tôi có thể bị sự chế nhạo của người đời. Có người sẽ hỏi: "Ông là ai, mà dám nói những chuyện đó?". Nhưng tôi đã thấy, và tôi sẽ hèn nhát nếu tôi không chịu chứng minh sự thật.
Tôi đã nhiều lần tuyên bố, bằng lời nói và sách vở, rằng tôi không muốn thấy một người nào dùng những điều tôi nói để làm căn cứ cho đức tin của y nơi Giáo Lý Thông Thiên Học. Tôi nghĩ rằng mọi người nên tự mình học hỏi giáo lý Thông Thiên Học và tự tìm ra những kết luận để áp dụng cho đời mình. Cái lý do chính của y để chấp nhận một học thuyết phải là lý do kinh nghiệm bản thân, hay là bởi vì y nhận thấy rằng học thuyết đó là hợp lý nhứt. Nhưng điều đó không thay đổi sự kiện là tôi có những bằng chứng để đưa ra cho những người nào muốn biết, những bằng chứng mà tôi đã trình bày trong bài này và những quyển sách khác. Trong thế kỷ hai mươi này những người viết sách về Thông Thiên Học như chúng tôi, có thể áp dụng lời nói sau này của Thánh Jean tửng đua ra gần hai ngàn năm nay:
"Những gì có từ lúc nguyên thủy, những gì mà tôi đã nghe thấy tận mắt, xem xét và sờ mó tận tay, đó chính là những gì mà chúng tôi tuyên bố cho các anh.
"Chúng tôi là người đã từng thấy, chúng tôi xin chứng minh những điều đó, sự chứng minh đó có được người thế gian chấp nhận hay không, điều đó không quan hệ bao nhiêu.
"Người nào đã cảm giác được cái Tinh Thần Thiêng Liêng của đấng Chí Tôn, không thể lầm lẫn, nghi ngờ, hoặc phủ nhận nó. Ôi! Thế gian, ví như các người có đồng thinh phủ nhận nó. Ôi! Thế gian, ví như các người có đồng thinh phủ nhận Ngài, ta thà từ bỏ thế gian, và giữ vững đức tin của ta!"
CUỘC ĐIỂM ĐẠO LẦN THỨ NĂM, QUẢ VỊ CHƠN TIÊN(ASEKHA)
Trong giai đoạn kế tiếp, người Đạo Đồ sẽ đạt tới quả vị cuối cùng làm cho Người trở nên một bậc Siêu Nhân. Danh Từ Phật Giáo gọi đó là quả vị Chơn Tiên (Asekha),vì từ nay Người không còn phải học hỏi điều gì nữa, và đã trải qua tất cả mọi kinh nghiệm của đời sống con người ở dưới trần. Người Ấn Độ Giáo gọi Người là Jivanmukta, một bậc đã giải thoát, một đấng hoàn toàn tự do, tự do không phải là do một sự cách biệt với chúng sinh, mà bởi vì ý chí của Ngài đã hỗn hợp làm một với ý chí của Vũ Trụ, của đấng Dộc nhứt vô nhị trong hoàn vũ. Ngài đã vĩnh viễn nhập Niết Bàn, dầu trong khi thức tỉnh, nếu Ngài muốn giữ Xác Phàm để ở lại thế gian; và khi rời khỏi Xác Phàm, Ngài còn vượt lên cao hơn, đến tận cõi Đại Niết Bàn, cõi này không những ngoài vòng nghị luận của con người, mà trí phàm của chúng ta cũng không thể tưởng tượng nổi.
Đức Phật có nói: "Các ngươi đừng có dùng lời nói mà diễn tả Vô Biên, cũng đừng dùng sợi dây tư tưởng mà đo lường cái Diệu Huyền. Người nào hỏi là lầm, kẻ trả lời cũng lầm. Các ngươi đừng nói gì cả".
Trong khoa biểu tượng Thiên Chúa Giáo, quả vị Chơn Tiên được tượng trưng bằng sự Thăng Thiên (Ascension) và việc Chúa Thánh Thần hiện xuống (Descente) vì vị Chơn Tiên đã thăng lên mực độ cao hơn Nhân Loại, thoát khỏi vòng thế tục, mặc dầu nếu Ngài muốn, cũng như Đấng Christ đã làm, Ngài có thể trở lại thế gian để dạy dỗ và giúp đỡ nhân loại. Khi Ngài Thăng Thiên, Ngài hợp nhứt với Chúa Thánh Thần, và việc đầu tiên mà Ngài làm với cái quyền năng mới của Ngài, là ban rải nó cho các vị đệ tử, cũng như Đấng Christ, tưới những ngọn lửa đỏ trên đầu các người theo Ngài trong cuộc Lễ Ngũ Tuần (Pentecôte).
Nhờ sự hợp nhất đó mà vị Chơn Tiên (Asekha) có thể thâu nhận đệ tử. Vị La Hán (Arhat)mặc dầu có thể dạy, giáo hóa nhân loại, nhưng vẫn phải trực thuộc và thi hành Mệnh lệnh của một vị Chơn Tiên trên cõi thế gian. Vị La Hán không thâu nhận đệ tử, bởi vì Ngài chưa có sự liên lạc đặc biệt với Ngôi Ba (Chúa Thánh Thần) như đã nói ở trên.
CÁC QUẢ VỊ CAO HƠN
Trên vị Chơn Tiên, còn có quả vị Đế Quân (Chohan) những quả vị cao hơn nữa. Cái thanh tiến hóa còn nhiều nấc cao tột bậc hơn nữa, mà ít người trong chúng ta có thể đạt tới. Khi chúng ta hỏi các đấng Cao cả ở bậc trên chúng ta và biết nhiều hơn chúng ta rất xa, thì các Ngài cũng chỉ có thể nói rằng những nấc thang tiến hóa cao tột đó cũng ở ngoài tầm nhận xét của các Ngài. Các Ngài biết về những nấc thang đó nhiều hơn chúng ta rất xa, nhưng cái thang tiến hóa còn lên cao hơn nữa, đến tận những đỉnh cao thâm thâm diệu diệu mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi, và không ai biết được chỗ rốt ráo cùng tột của nó.
Mặc dầu không ai có thể thấy chổ cùng tột của nấc thang tiến hóa, và công việc của những đấng Cao Cả ở những cấp đẳng cao trong Quần Tiên Hội hầu như không thể hiểu nổi, tuy nhiên sự hiện diện và công việc của các Ngài quả thật có một cách thật sự và nhứt định, cũng như mọi sự vẫn có ở thế gian. Hơn nữa, sự nhận xét của chúng tôi về những đấng Cao Cả là một điều chắc chắn, không có một chút điểm nghi ngờ. Mặc dầu tôi biết rất ít về cái phần cao siêu trong công việc của Ngài, trong nhiều năm qua tôi đã từng thấy Đức Di-Lặc-Bồ-Tát làm công việc đó luôn luôn, hầu như mỗi ngày; và tôi đã từng rất nhiều lần chiêm ngưỡng đức Ngọc Đế trong sự hiện diện nhiệm mầu và khó hiểu của Ngài, cho nên đối với tôi, các Ngài là những đấng quả có thật sự cũng như bất cứ người nào tôi biết, và tôi cũng biết một phần nào về sứ mạng của các Ngài ở thế gian.
Tôi biết rằng những điều tôi có thể nói về các Ngài là những sự thật chắc chắn, tuy nhiên tôi không thể giải thích và cũng không hiểu biết được bao nhiêu về công việc của các Ngài. Tôi đã thấy những vị Đại Đế Quân (Dhyan Chohan), các đấng Tinh Quân (Planetary Spirits) và những vị Thiên Sứ của những Thái Dương Hệ khác, và tôi biết chắc chắn về sự hiện diện của các Ngài nhưng tôi không biết gì cả về những công việc làm của các Ngài. Chính tôi đã thấy sự Biểu Lộ của đức Thái Dương Thượng Đế giữa những đấng Cao Cả phụ tá của Ngài, và sự thấy của tôi chẳng qua chỉ là một phần trong muôn triệu về cái đức Cao Cả vô biên và khôn tả mà các đấng ấy nhìn thấy ở Ngài. Cũng như trong chuyện Bhagavad Gita, Arjuna đã nhìn thấy ảnh đức Thượng Đế, tôi đã thấy như vậy không một mảy may nghi ngờ. và tôi muốn chứng minh một cách cụ thể rằng những điều đó có thật. Tôi biết rằng khi tôi viết những chuyện này, tôi có thể bị sự chế nhạo của người đời. Có người sẽ hỏi: "Ông là ai, mà dám nói những chuyện đó?". Nhưng tôi đã thấy, và tôi sẽ hèn nhát nếu tôi không chịu chứng minh sự thật.
Tôi đã nhiều lần tuyên bố, bằng lời nói và sách vở, rằng tôi không muốn thấy một người nào dùng những điều tôi nói để làm căn cứ cho đức tin của y nơi Giáo Lý Thông Thiên Học. Tôi nghĩ rằng mọi người nên tự mình học hỏi giáo lý Thông Thiên Học và tự tìm ra những kết luận để áp dụng cho đời mình. Cái lý do chính của y để chấp nhận một học thuyết phải là lý do kinh nghiệm bản thân, hay là bởi vì y nhận thấy rằng học thuyết đó là hợp lý nhứt. Nhưng điều đó không thay đổi sự kiện là tôi có những bằng chứng để đưa ra cho những người nào muốn biết, những bằng chứng mà tôi đã trình bày trong bài này và những quyển sách khác. Trong thế kỷ hai mươi này những người viết sách về Thông Thiên Học như chúng tôi, có thể áp dụng lời nói sau này của Thánh Jean tửng đua ra gần hai ngàn năm nay:
"Những gì có từ lúc nguyên thủy, những gì mà tôi đã nghe thấy tận mắt, xem xét và sờ mó tận tay, đó chính là những gì mà chúng tôi tuyên bố cho các anh.
"Chúng tôi là người đã từng thấy, chúng tôi xin chứng minh những điều đó, sự chứng minh đó có được người thế gian chấp nhận hay không, điều đó không quan hệ bao nhiêu.
"Người nào đã cảm giác được cái Tinh Thần Thiêng Liêng của đấng Chí Tôn, không thể lầm lẫn, nghi ngờ, hoặc phủ nhận nó. Ôi! Thế gian, ví như các người có đồng thinh phủ nhận nó. Ôi! Thế gian, ví như các người có đồng thinh phủ nhận Ngài, ta thà từ bỏ thế gian, và giữ vững đức tin của ta!"
#67
Gửi vào 19/10/2011 - 17:27
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
BẢY CON ĐƯỜNG SIÊU NHÂN LOẠI
Ngay sau khi con người đã vượt qua cuộc Điểm Đạo thứ năm và đắc quả vị Chơn Tiên (Asekha), thì Thánh Đạo chia làm bảy con Đường lớn để cho vị Chơn Tiên chọn lựa một. Về vấn đề này, tôi xin chú thích những gì tôi đã viết trong quyển: "Con người; từ đâu đến và sẽ đi về đâu":
"Sau khi đã trải qua giai đoạn tiến hóa của nhân loại, và đứng trước ngưỡng cửa của đời sống Siêu Phàm, như một vị Thần Tiên đã giải thoát, thì vị Chơn Tiên sẽ chọn lựa một trong bảy đường sau đây:
1. Ngài có thể bước vào trạng thái Toàn Tri và Toàn Lực của cảnh Niết Bàn, với những hoạt động ngoài tầm hiểu biết của chúng ta rất xa, để trở nên đấng Cao Cả chuyển kiếp xuống trần trong một bầu thế giới tương lai (tiến Phạn gọi là Dharmakaya).
2. Ngài có thể bước vào một "Thời Kỳ Tâm Linh" ở cõi Niết Bàn; câu này có nhiều ý nghĩa huyền bí (tiếng Phạn gọi là: Sambhogakaya).
3. Ngài có thể trở nên một vị Thủ Kho Thần Lực mà các vị Thiên Sứ của Thượng Đế dùng để làm công việc của các Ngài (tiếng Phạn gọi là: Nirmanakaya). Ngài có thể ở lại thế gian để giúp đỡ Nhân Loại, với tư cách là một nhân viên của các Cấp Đẳng Thiên Đình, gọi chung là Quần Tiên Hội.
5)Ngài có thể chuyển qua một dãy Hành Tinh kế tiếp, để trợ giúp cho công việc tạo tác mọi hình thể sinh vật trên đó.
6)Ngài có thể bước vào con đường Tiến Hóa của các hàng Thiên Thần.
7)Ngài có thể gia nhập vào bộ Tham Mưu của Đức Thượng Đế, với tư cách một vị Thiên Sứ, để được Ngài sử dụng ở bất cứ nơi nào trong Thái Dương Hệ. Cũng như một viên Đại Tướng có một bộ Tham mưu, để mang những huấn lệnh của người đến khắp mọi nơi trên bãi chiến trường, thì những vị Thiên Sứ của đức Thượng Đế cũng vậy, các Ngài thừa hành mạng lệnh của đức Thượng Đế và làm công việc của Ngài trong toàn thể cơ cấu của Thái Dương hệ.
Con Đường này được coi như là Con Đường rất khó, có lẽ là sự hy sinh lớn nhất của một vị Chơn Tiên, và bởi đó nó cũng là một điều vinh diệu rất lớn. Một vị Thiên Sứ không mang Thể Xác hồng trần: Ngài dùng Ý Chí (Kriya Shakti) tạo ra một Thể Xác bằng chất khí của bầu thế giới mà Ngài được gởi đến. Bộ Tham Mưu gồm có những đấng Cao Cả thuộc nhiều cấp bậc khác nhau từ cấp bậc Chơn Tiên trở lên.
Vị Dharmakaya rút lui vào Chơn Thần (Monade), và bỏ luôn cả hột lư tánh nguyên tử Niết bàn của Ngài.
Vị Sambhogakaya còn giữ lại hột nguyên tử Niết Bàn và tự biểu lộ như một đấng Cao Cả có đủ Ba Ngôi.
Vị Nirmanakaya giữ lại Thể Thượng Trí và những hột lưu tánh nguyên tử mà Ngài mang theo suốt trôn thời hỳ tiến hóa của Ngài, để cho bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể tạo nên chung quanh những nguyên tử đó những Thể Trí, Thể Vía và Thể Xác khi Ngài muốn. Ngài vẫn luôn luôn giữ liên lạc với bầu thế giới cũ của Ngài, để cho Ngài có thể cung cấp kho Thần Lực do đó ân huệ Thiêng Liêng được ban xuống cho bầu thế giới đó. Trong quyển "Tiếng nói của Im lặng" có nói rằng vị Nirmanakaya là một bức thành đồng ngăn giữ cho thế gian khỏi bị thêm nhiều sự lầm than đau khổ nữa.
Đối với những người không hiểu cái ý nghĩa thâm sâu của câu này, thì nó dường như ám chỉ rằng sự đau khổ đến với thế gian từ bên ngoài, và những đấng Cao Cả đó xua đuổi chúng vẹt đi nơi khác. Nhưng sự thật không phải như vậy, vì tất cà những đau khổ ở thế gian là do con người tạo ra. Mỗi người là một vị quan Tòa của chính mình, tự gieo lấy điều thưởng phạt cho mình; nhưng bổn phận của vị Nirmanakaya là dự trữ một kho Thần Lực để giúp đỡ nhân loại. Các Ngài luôn luôn tạo ra nguồn Thần Lực này, các Ngài không giữ lấy một phần nào cho riêng mình, mà dành trọn hết cả cho Quần Tiên Hội sử dụng để nâng đỡ bớt nghiệp quả nặng nề của trần gian.
Như thế, trong sồ những vị đắc quả Chơn Tiên, chỉ có một số ít còn ở lại thế gian với tư cách nhân viên Quần Tiên Hội. Vì những vị này và những công việc của các Ngài có một tầm quan trọng rất lớn, nên những chương sau đây sẽ dành trọn cho vấn đề này.
BẢY CON ĐƯỜNG SIÊU NHÂN LOẠI
Ngay sau khi con người đã vượt qua cuộc Điểm Đạo thứ năm và đắc quả vị Chơn Tiên (Asekha), thì Thánh Đạo chia làm bảy con Đường lớn để cho vị Chơn Tiên chọn lựa một. Về vấn đề này, tôi xin chú thích những gì tôi đã viết trong quyển: "Con người; từ đâu đến và sẽ đi về đâu":
"Sau khi đã trải qua giai đoạn tiến hóa của nhân loại, và đứng trước ngưỡng cửa của đời sống Siêu Phàm, như một vị Thần Tiên đã giải thoát, thì vị Chơn Tiên sẽ chọn lựa một trong bảy đường sau đây:
1. Ngài có thể bước vào trạng thái Toàn Tri và Toàn Lực của cảnh Niết Bàn, với những hoạt động ngoài tầm hiểu biết của chúng ta rất xa, để trở nên đấng Cao Cả chuyển kiếp xuống trần trong một bầu thế giới tương lai (tiến Phạn gọi là Dharmakaya).
2. Ngài có thể bước vào một "Thời Kỳ Tâm Linh" ở cõi Niết Bàn; câu này có nhiều ý nghĩa huyền bí (tiếng Phạn gọi là: Sambhogakaya).
3. Ngài có thể trở nên một vị Thủ Kho Thần Lực mà các vị Thiên Sứ của Thượng Đế dùng để làm công việc của các Ngài (tiếng Phạn gọi là: Nirmanakaya). Ngài có thể ở lại thế gian để giúp đỡ Nhân Loại, với tư cách là một nhân viên của các Cấp Đẳng Thiên Đình, gọi chung là Quần Tiên Hội.
5)Ngài có thể chuyển qua một dãy Hành Tinh kế tiếp, để trợ giúp cho công việc tạo tác mọi hình thể sinh vật trên đó.
6)Ngài có thể bước vào con đường Tiến Hóa của các hàng Thiên Thần.
7)Ngài có thể gia nhập vào bộ Tham Mưu của Đức Thượng Đế, với tư cách một vị Thiên Sứ, để được Ngài sử dụng ở bất cứ nơi nào trong Thái Dương Hệ. Cũng như một viên Đại Tướng có một bộ Tham mưu, để mang những huấn lệnh của người đến khắp mọi nơi trên bãi chiến trường, thì những vị Thiên Sứ của đức Thượng Đế cũng vậy, các Ngài thừa hành mạng lệnh của đức Thượng Đế và làm công việc của Ngài trong toàn thể cơ cấu của Thái Dương hệ.
Con Đường này được coi như là Con Đường rất khó, có lẽ là sự hy sinh lớn nhất của một vị Chơn Tiên, và bởi đó nó cũng là một điều vinh diệu rất lớn. Một vị Thiên Sứ không mang Thể Xác hồng trần: Ngài dùng Ý Chí (Kriya Shakti) tạo ra một Thể Xác bằng chất khí của bầu thế giới mà Ngài được gởi đến. Bộ Tham Mưu gồm có những đấng Cao Cả thuộc nhiều cấp bậc khác nhau từ cấp bậc Chơn Tiên trở lên.
Vị Dharmakaya rút lui vào Chơn Thần (Monade), và bỏ luôn cả hột lư tánh nguyên tử Niết bàn của Ngài.
Vị Sambhogakaya còn giữ lại hột nguyên tử Niết Bàn và tự biểu lộ như một đấng Cao Cả có đủ Ba Ngôi.
Vị Nirmanakaya giữ lại Thể Thượng Trí và những hột lưu tánh nguyên tử mà Ngài mang theo suốt trôn thời hỳ tiến hóa của Ngài, để cho bất cứ lúc nào Ngài cũng có thể tạo nên chung quanh những nguyên tử đó những Thể Trí, Thể Vía và Thể Xác khi Ngài muốn. Ngài vẫn luôn luôn giữ liên lạc với bầu thế giới cũ của Ngài, để cho Ngài có thể cung cấp kho Thần Lực do đó ân huệ Thiêng Liêng được ban xuống cho bầu thế giới đó. Trong quyển "Tiếng nói của Im lặng" có nói rằng vị Nirmanakaya là một bức thành đồng ngăn giữ cho thế gian khỏi bị thêm nhiều sự lầm than đau khổ nữa.
Đối với những người không hiểu cái ý nghĩa thâm sâu của câu này, thì nó dường như ám chỉ rằng sự đau khổ đến với thế gian từ bên ngoài, và những đấng Cao Cả đó xua đuổi chúng vẹt đi nơi khác. Nhưng sự thật không phải như vậy, vì tất cà những đau khổ ở thế gian là do con người tạo ra. Mỗi người là một vị quan Tòa của chính mình, tự gieo lấy điều thưởng phạt cho mình; nhưng bổn phận của vị Nirmanakaya là dự trữ một kho Thần Lực để giúp đỡ nhân loại. Các Ngài luôn luôn tạo ra nguồn Thần Lực này, các Ngài không giữ lấy một phần nào cho riêng mình, mà dành trọn hết cả cho Quần Tiên Hội sử dụng để nâng đỡ bớt nghiệp quả nặng nề của trần gian.
Như thế, trong sồ những vị đắc quả Chơn Tiên, chỉ có một số ít còn ở lại thế gian với tư cách nhân viên Quần Tiên Hội. Vì những vị này và những công việc của các Ngài có một tầm quan trọng rất lớn, nên những chương sau đây sẽ dành trọn cho vấn đề này.
#68
Gửi vào 19/10/2011 - 17:30
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
PHẦN THỨ TƯ
CÁC CẤP ĐẲNG THIÊN ĐÌNH
CHƯƠNG XI
CÔNG VIỆC CỦA CÁC CHÂN SƯ
Như đã giải thích ở trên, trong sồ những người đắc quả Chơn Tiên (Asekha), chỉ có một số ít còn lại ở thế gian với tư cách nhân viên Quần Tiên Hội, để dìu dắt sự tiến hóa trên quả Địa Cầu theo như Thiên Cơ đã định. Hiện thời có độ năm mươi hay sáu mươi vị Chơn Tiên đảm nhiệm công việc này; sự hoạt động của các Ngài đã được bà Annie Besant diễn tả như sau trong một quyển sách nhỏ nhan đề "Các Đấng Chơn Sư":
"Các Ngài giúp đỡ bằng đủ mọi cách sự tiến hóa của nhân loại. Từ trên cõi giới cao siêu nhứt, các Ngài ban rải ánh sáng và sinh lực xuống khắp thế gian để cho muôn loài được hưởng thụ, chẳng khác nào như ánh nắng Mặt Trời. Cũng như cõi giới hồng trần nhờ nguồn sinh lức của Thượng Đế do ngôi Mặt Trời ban rải xuống thế gian, thì cõi giới tâm linh cũng nhờ nguồn sinh lực đó do Quần Tiên Hội ban rải ra. Những đấng Chân Sư đảm nhiệm về tôn giáo dùng những tôn giáo ấy làm kho chứa đựng Thần Lực của các Ngài ban xuống để phân phát cho mỗi tín đồ của mỗi tôn giáo.
"Kế đó là công việc vĩ đại về mặt trí tuệ. Từ cõi Thượng Thiên, các đấng Chân Sư phóng ra những hình tư tưởng có thần lực rất mạnh để giúp nguồn cảm hứng cho những bậc thiên tài vĩ nhân trong thiên hạ, những người này sẽ bắt được luồng tư tưởng đó và đưa ra cho thế gian được hưởng thụ những kết quả tốt đẹp. Cũng trên địa hạt này, các Ngài gởi chỉ thị cho những vị đệ tử biết những công việc nào họ phải làm.
"Trên cõi Hạ Thiên, các Ngài phóng ra những hình tư tưởng có ảnh hưởng đến Hạ Trí con người, dìu dắt tư tưởng con người theo những đường hoạt động hữu ích cho thế gian. Các Ngài cũng dạy dỗ những linh hồn đang sống trên cõi Thượng Giới.
"Trên cõi Trung Giới, sự hoạt động của các Ngài gồm có việc giúp đỡ những linh hồn vừa mới từ giã cõi Trần, hướng dẫn và trông nom việc huấn luyện những đệ tử trẻ tuổi, và trợ giúp trong vô số những trường hợp cần được giúp đỡ. Ở cõi phàm trần, các Ngài dò xét những trào lưu và thời cuộc thế giới; sửa đổi và diệt trừ những khuynh hướng bất hảo trong phạm vi mà luật thiên nhiên cho phép; giữ mực quân bình giữa những sức mạnh đối lập thuận và nghịch với sự tiến hóa, tăng cường điều thiện, giảm bớt điều ác. Các Ngài cũng hợp tác với những vị Thiên Thần của các quốc gia, dìu dắt những sức mạnh tâm linh của nhân loại trong khi các Thiên Thần dìu dắt sự tiến hóa về hình thể sắc tướng của muôn loài".
PHẦN THỨ TƯ
CÁC CẤP ĐẲNG THIÊN ĐÌNH
CHƯƠNG XI
CÔNG VIỆC CỦA CÁC CHÂN SƯ
Như đã giải thích ở trên, trong sồ những người đắc quả Chơn Tiên (Asekha), chỉ có một số ít còn lại ở thế gian với tư cách nhân viên Quần Tiên Hội, để dìu dắt sự tiến hóa trên quả Địa Cầu theo như Thiên Cơ đã định. Hiện thời có độ năm mươi hay sáu mươi vị Chơn Tiên đảm nhiệm công việc này; sự hoạt động của các Ngài đã được bà Annie Besant diễn tả như sau trong một quyển sách nhỏ nhan đề "Các Đấng Chơn Sư":
"Các Ngài giúp đỡ bằng đủ mọi cách sự tiến hóa của nhân loại. Từ trên cõi giới cao siêu nhứt, các Ngài ban rải ánh sáng và sinh lực xuống khắp thế gian để cho muôn loài được hưởng thụ, chẳng khác nào như ánh nắng Mặt Trời. Cũng như cõi giới hồng trần nhờ nguồn sinh lức của Thượng Đế do ngôi Mặt Trời ban rải xuống thế gian, thì cõi giới tâm linh cũng nhờ nguồn sinh lực đó do Quần Tiên Hội ban rải ra. Những đấng Chân Sư đảm nhiệm về tôn giáo dùng những tôn giáo ấy làm kho chứa đựng Thần Lực của các Ngài ban xuống để phân phát cho mỗi tín đồ của mỗi tôn giáo.
"Kế đó là công việc vĩ đại về mặt trí tuệ. Từ cõi Thượng Thiên, các đấng Chân Sư phóng ra những hình tư tưởng có thần lực rất mạnh để giúp nguồn cảm hứng cho những bậc thiên tài vĩ nhân trong thiên hạ, những người này sẽ bắt được luồng tư tưởng đó và đưa ra cho thế gian được hưởng thụ những kết quả tốt đẹp. Cũng trên địa hạt này, các Ngài gởi chỉ thị cho những vị đệ tử biết những công việc nào họ phải làm.
"Trên cõi Hạ Thiên, các Ngài phóng ra những hình tư tưởng có ảnh hưởng đến Hạ Trí con người, dìu dắt tư tưởng con người theo những đường hoạt động hữu ích cho thế gian. Các Ngài cũng dạy dỗ những linh hồn đang sống trên cõi Thượng Giới.
"Trên cõi Trung Giới, sự hoạt động của các Ngài gồm có việc giúp đỡ những linh hồn vừa mới từ giã cõi Trần, hướng dẫn và trông nom việc huấn luyện những đệ tử trẻ tuổi, và trợ giúp trong vô số những trường hợp cần được giúp đỡ. Ở cõi phàm trần, các Ngài dò xét những trào lưu và thời cuộc thế giới; sửa đổi và diệt trừ những khuynh hướng bất hảo trong phạm vi mà luật thiên nhiên cho phép; giữ mực quân bình giữa những sức mạnh đối lập thuận và nghịch với sự tiến hóa, tăng cường điều thiện, giảm bớt điều ác. Các Ngài cũng hợp tác với những vị Thiên Thần của các quốc gia, dìu dắt những sức mạnh tâm linh của nhân loại trong khi các Thiên Thần dìu dắt sự tiến hóa về hình thể sắc tướng của muôn loài".
#69
Gửi vào 19/10/2011 - 17:32
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
KHU VỰC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÂN SƯ
Mặc dầu các đấng Chân Sư chỉ gồm có một thiểu số, nhưng các Ngài đã sắp đặt cách nào để cho không một phần tử nào trên toàn cõi thế gian bị bỏ rơi hay quên lãng. Bởi đó, các Ngài phân chia quả địa cầu ra làm nhiều khu vực đặc biệt, đại khái cũng như ở một vài xứ, Hội Thánh chia mỗi xứ làm nhiều giáo khu để cho mỗi người, dầu là họ ở nơi nào, họ cũng thuộc về một trong những giáo khu đặt dưới sự quản trị của Hội Thánh để trông nom về phần tâm linh, và đôi khi cả về những nhu cầu vật chất của họ. Tuy nhiên những khu phận của các đấng Chân Sư không phải là những quận huyện hay tỉnh, mà gồm cả những nước lớn và những lục địa.
Theo sự phân chia hiện thời, một vị Chân Sư cai quản toàn cõi Âu Châu, một vị khác cai quản xứ Ấn Độ... và như thế toàn thể địa cầu đều được phân ra từng khu vực rộng lớn. Những khu vực đó không có theo những đường ranh giới chánh trị hay địa dư của chúng ta. Trong vùng địa phận của mỗi vị Chân Sư, Ngài chăm nom săn sóc tất cả những cấp đẳng và hình thể tiến hóa, không những của nhân loại mà thôi, mà cũng gồm cõi giới Thiên Thần, những loại Tinh Linh, cầm thú, thảo mộc và kim thạch, những loại tinh hoa chất, cùng những loài khác nữa mà từ trước đến nay chưa từng nghe nói đến bao giờ. Như thế, công việc của các Ngài bề bộn là dường nào.
Ngoài ra sự chăm nom của các đấng Chân Sư, mỗi giống dân hay mỗi quốc gia còn được sự giúp đỡ của mỗi vị Thiên Thần, vị này cũng bảo trợ và dìu dắt sự tiến hóa của mỗi quốc gia.
Có nhiều động lực khác nhau cùng hoạt động để phụng sự đức Thượng Đế trong công việc giúp đỡ sự tiến hóa của nhân loại, và tự nhiên là những động lực đó đều hoạt động theo một chiều hướng, và cùng hợp tác lẫn với nhau.
Chúng ta đừng tưởng lầm mà gán cho những động lực đó cái nguyên nhân đã gây ra những cơn biến cố tai hại ở một vài xứ, chẳng hạn như cuộc Cách Mạng Pháp và cuộc Cách Mạng ở Nga. Những cơn bạo động lưu huyết này hoàn toàn do nơi bản năng thấp hèn và những thú tính của con người không được kiềm chế, đã gây ra nên sự phá hoại thay vì xây dựng. Nó chỉ sự nguy hiểm đe dọa công việc của các Chân Sư khi các Ngài bắt đầu thí nghiệm theo đường lối dân chủ. Sự chuyên chế gây nên những tai hại và đau khổ rất lớn; vấn đề khó khăn trong việc loại trừ sự chuyên chế là làm sao thực hiện được điều đó mà không làm mất sự quân bình và trật tự xã hội.
Nhưng trái lại, khi thực hiện điều này thì nhiều người không làm chủ được phàm nhơn của mình; họ tự thả trôi theo sự buông lung, hỗn loạn, và như thế họ rất dễ bị ám ảnh và sai khiến bởi những luồng ảnh hưởng hắc ám và tà vây. Đấng Thiên Thần quốc gia cố gắng dìu dắt những tư tưởng và cảm xúc của dân tộc; Ngài chỉ ảnh hưởng đến số đông quần chúng và khi cần, Ngài thúc dục họ làm những hành động ái quốc và anh hùng, cũng như một vị tướng soái thúc dục quân sĩ tiến tới trên bãi chiến trường, nhưng Ngài không hề phung phí sinh mạng hoặc làm ngơ trước sự đau khổ của họ, cũng như vị tướng soái biết thương quân sĩ vậy.
KHU VỰC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÂN SƯ
Mặc dầu các đấng Chân Sư chỉ gồm có một thiểu số, nhưng các Ngài đã sắp đặt cách nào để cho không một phần tử nào trên toàn cõi thế gian bị bỏ rơi hay quên lãng. Bởi đó, các Ngài phân chia quả địa cầu ra làm nhiều khu vực đặc biệt, đại khái cũng như ở một vài xứ, Hội Thánh chia mỗi xứ làm nhiều giáo khu để cho mỗi người, dầu là họ ở nơi nào, họ cũng thuộc về một trong những giáo khu đặt dưới sự quản trị của Hội Thánh để trông nom về phần tâm linh, và đôi khi cả về những nhu cầu vật chất của họ. Tuy nhiên những khu phận của các đấng Chân Sư không phải là những quận huyện hay tỉnh, mà gồm cả những nước lớn và những lục địa.
Theo sự phân chia hiện thời, một vị Chân Sư cai quản toàn cõi Âu Châu, một vị khác cai quản xứ Ấn Độ... và như thế toàn thể địa cầu đều được phân ra từng khu vực rộng lớn. Những khu vực đó không có theo những đường ranh giới chánh trị hay địa dư của chúng ta. Trong vùng địa phận của mỗi vị Chân Sư, Ngài chăm nom săn sóc tất cả những cấp đẳng và hình thể tiến hóa, không những của nhân loại mà thôi, mà cũng gồm cõi giới Thiên Thần, những loại Tinh Linh, cầm thú, thảo mộc và kim thạch, những loại tinh hoa chất, cùng những loài khác nữa mà từ trước đến nay chưa từng nghe nói đến bao giờ. Như thế, công việc của các Ngài bề bộn là dường nào.
Ngoài ra sự chăm nom của các đấng Chân Sư, mỗi giống dân hay mỗi quốc gia còn được sự giúp đỡ của mỗi vị Thiên Thần, vị này cũng bảo trợ và dìu dắt sự tiến hóa của mỗi quốc gia.
Có nhiều động lực khác nhau cùng hoạt động để phụng sự đức Thượng Đế trong công việc giúp đỡ sự tiến hóa của nhân loại, và tự nhiên là những động lực đó đều hoạt động theo một chiều hướng, và cùng hợp tác lẫn với nhau.
Chúng ta đừng tưởng lầm mà gán cho những động lực đó cái nguyên nhân đã gây ra những cơn biến cố tai hại ở một vài xứ, chẳng hạn như cuộc Cách Mạng Pháp và cuộc Cách Mạng ở Nga. Những cơn bạo động lưu huyết này hoàn toàn do nơi bản năng thấp hèn và những thú tính của con người không được kiềm chế, đã gây ra nên sự phá hoại thay vì xây dựng. Nó chỉ sự nguy hiểm đe dọa công việc của các Chân Sư khi các Ngài bắt đầu thí nghiệm theo đường lối dân chủ. Sự chuyên chế gây nên những tai hại và đau khổ rất lớn; vấn đề khó khăn trong việc loại trừ sự chuyên chế là làm sao thực hiện được điều đó mà không làm mất sự quân bình và trật tự xã hội.
Nhưng trái lại, khi thực hiện điều này thì nhiều người không làm chủ được phàm nhơn của mình; họ tự thả trôi theo sự buông lung, hỗn loạn, và như thế họ rất dễ bị ám ảnh và sai khiến bởi những luồng ảnh hưởng hắc ám và tà vây. Đấng Thiên Thần quốc gia cố gắng dìu dắt những tư tưởng và cảm xúc của dân tộc; Ngài chỉ ảnh hưởng đến số đông quần chúng và khi cần, Ngài thúc dục họ làm những hành động ái quốc và anh hùng, cũng như một vị tướng soái thúc dục quân sĩ tiến tới trên bãi chiến trường, nhưng Ngài không hề phung phí sinh mạng hoặc làm ngơ trước sự đau khổ của họ, cũng như vị tướng soái biết thương quân sĩ vậy.
#70
Gửi vào 19/10/2011 - 17:38
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
SỰ PHÂN PHỐI THẦN LỰC
Như đã nói trước đây, một phần lớn công việc của Chân Sư được thực hiện trên những cõi giới cao hơn cõi hồng trần, khi các Chân Sư ban rải thần lực riêng của các Ngài, hoặc rút trong kho thần lực vĩ đại thiên nhiên của đấng Nirmanakaya. Do hành động của luật nhân quả mà thế gian được hưởng một phần nào của nguồn thần lực quý báu đó. Dầu cho những người thường mà chuyển hướng cuộc đời mình theo đường lối của Thiên Cơ, bằng cách hướng tư tưởng và hành động của mình vào công việc phụng sự nhân loại, thì những người đó sẽ cộng thêm một ít vào kho thần lực chung, và như thế, họ được hân hạnh cùng chia sớt một phần trong công việc hy sinh vĩ đại. Vì lẽ đó nhân loại tiến hóa như một đơn vị, và sự kỳ diệu của tình huynh đệ đại đồng là giúp cho mọi người có thể tiến bộ gấp mười phần nhiều hơn là nếu họ đứng lẻ loi một mình. Điều này nằm trong chương trình của đấng Thượng Đế, theo đó Ngài đương nhiên cho rằng mọi người sẽ có dự phần trong công việc của Thiên Cơ. Khi hoạch định Thiên Cơ có lẽ Ngài nghĩ rằng: "Khi nhân loại tiến hóa đến một trình độ nào đó, họ sẽ bắt đầu hợp tác một cách thông minh với Ta. Bởi vậy, Ta sẽ sắp đặt sao cho khi họ tiến đến điểm đó, họ sẽ có thể sử dụng nguồn Thần lực của Ta". Như thế, Ngài trông cậy nơi sự cố gắng của mỗi người.
Quần Tiên Hội hợp nhứt với tất cả nhân loại trên những cõi cao, và nhờ bởi cơ quan đó mà một phần của kho Thần lực lớn được phân phối cho nhân loại. Từ cõi Thượng Thiên, các Chân Sư ảnh hưởng đến tất cả mọi linh hồn không bỏ sót một ai, và như thế các Ngài giúp đỡ rất nhiều cho sự khai triển tâm thức của mỗi người. Sự sống bên trong của mỗi người cũng ví như một hột giống cần phải nẩy nở, bởi vì cái nguyên tắc tiến hóa vốn có sẵn trong cái mầm đó. Trong con người, cái mầm đó đã mọc thành cái cây đang vươn mình lên để tìm không khí, và sự tiến bộ mau chóng của Con Người một phần lớn là nhờ bởi cái sức mạnh tâm linh do Quần Tiên Hội ban rải cho y, chẳng khác nào như cái cây được hấp thụ ánh sáng Mặt Trời. Đây là một trong nhiều phương pháp theo đó người đã tiến hóa nhiều giúp đỡ kẻ ít tiến hóa, khi mà họ càng ngày càng biểu lộ được nhiều đức tính thiêng liêng, theo đà tiến hóa tự nhiên.
Mỗi vị Chân Sư đảm nhiệm công việc đặc biệt này ảnh hưởng đến một số rất đông người, thường khi đến hằng triệu người một lúc. Tuy thế, Thần lực của Ngài ban rải có cái tánh chất kỳ diệu này, là nó ảnh hưởng đến mỗi người một cách đầy đủ trọn vẹn chẳng khác nào như y là người duy nhứt được cái diễm phúc đó, và đồng thời nó cũng ảnh hưởng y như vậy đối với mỗi người trong toàn thể.
Đó là một công việc khác hẳn với việc coi sóc một khu phận trên thế giới. Trong công việc đó, Ngài đặc biệt chú ý đến một hạng người phát triển đúng theo đường lối tiến hóa của Ngài, mặc dầu phần nhiều trong số đó không hay biết gì cà về hành động của Ngài. Ngài cũng có nhiều trường hợp đặc biệt cần săn sóc giúp đỡ, và bởi thế, đôi khi Ngài giao một phần công việc của Ngài cho các vị Thiên Thần đảm nhiệm, với rất nhiều tự do hành động trong những giới hạn nhứt định. Về phần họ, những vị Thiên Thần xử dụng các Tinh Linh Ngũ Hành và tạo nên nhiều loại hình tư tưởng. Như thế, công việc của các vị ấy cũng gồm cả một ngành hoạt động rất lớn.
SỰ PHÂN PHỐI THẦN LỰC
Như đã nói trước đây, một phần lớn công việc của Chân Sư được thực hiện trên những cõi giới cao hơn cõi hồng trần, khi các Chân Sư ban rải thần lực riêng của các Ngài, hoặc rút trong kho thần lực vĩ đại thiên nhiên của đấng Nirmanakaya. Do hành động của luật nhân quả mà thế gian được hưởng một phần nào của nguồn thần lực quý báu đó. Dầu cho những người thường mà chuyển hướng cuộc đời mình theo đường lối của Thiên Cơ, bằng cách hướng tư tưởng và hành động của mình vào công việc phụng sự nhân loại, thì những người đó sẽ cộng thêm một ít vào kho thần lực chung, và như thế, họ được hân hạnh cùng chia sớt một phần trong công việc hy sinh vĩ đại. Vì lẽ đó nhân loại tiến hóa như một đơn vị, và sự kỳ diệu của tình huynh đệ đại đồng là giúp cho mọi người có thể tiến bộ gấp mười phần nhiều hơn là nếu họ đứng lẻ loi một mình. Điều này nằm trong chương trình của đấng Thượng Đế, theo đó Ngài đương nhiên cho rằng mọi người sẽ có dự phần trong công việc của Thiên Cơ. Khi hoạch định Thiên Cơ có lẽ Ngài nghĩ rằng: "Khi nhân loại tiến hóa đến một trình độ nào đó, họ sẽ bắt đầu hợp tác một cách thông minh với Ta. Bởi vậy, Ta sẽ sắp đặt sao cho khi họ tiến đến điểm đó, họ sẽ có thể sử dụng nguồn Thần lực của Ta". Như thế, Ngài trông cậy nơi sự cố gắng của mỗi người.
Quần Tiên Hội hợp nhứt với tất cả nhân loại trên những cõi cao, và nhờ bởi cơ quan đó mà một phần của kho Thần lực lớn được phân phối cho nhân loại. Từ cõi Thượng Thiên, các Chân Sư ảnh hưởng đến tất cả mọi linh hồn không bỏ sót một ai, và như thế các Ngài giúp đỡ rất nhiều cho sự khai triển tâm thức của mỗi người. Sự sống bên trong của mỗi người cũng ví như một hột giống cần phải nẩy nở, bởi vì cái nguyên tắc tiến hóa vốn có sẵn trong cái mầm đó. Trong con người, cái mầm đó đã mọc thành cái cây đang vươn mình lên để tìm không khí, và sự tiến bộ mau chóng của Con Người một phần lớn là nhờ bởi cái sức mạnh tâm linh do Quần Tiên Hội ban rải cho y, chẳng khác nào như cái cây được hấp thụ ánh sáng Mặt Trời. Đây là một trong nhiều phương pháp theo đó người đã tiến hóa nhiều giúp đỡ kẻ ít tiến hóa, khi mà họ càng ngày càng biểu lộ được nhiều đức tính thiêng liêng, theo đà tiến hóa tự nhiên.
Mỗi vị Chân Sư đảm nhiệm công việc đặc biệt này ảnh hưởng đến một số rất đông người, thường khi đến hằng triệu người một lúc. Tuy thế, Thần lực của Ngài ban rải có cái tánh chất kỳ diệu này, là nó ảnh hưởng đến mỗi người một cách đầy đủ trọn vẹn chẳng khác nào như y là người duy nhứt được cái diễm phúc đó, và đồng thời nó cũng ảnh hưởng y như vậy đối với mỗi người trong toàn thể.
Đó là một công việc khác hẳn với việc coi sóc một khu phận trên thế giới. Trong công việc đó, Ngài đặc biệt chú ý đến một hạng người phát triển đúng theo đường lối tiến hóa của Ngài, mặc dầu phần nhiều trong số đó không hay biết gì cà về hành động của Ngài. Ngài cũng có nhiều trường hợp đặc biệt cần săn sóc giúp đỡ, và bởi thế, đôi khi Ngài giao một phần công việc của Ngài cho các vị Thiên Thần đảm nhiệm, với rất nhiều tự do hành động trong những giới hạn nhứt định. Về phần họ, những vị Thiên Thần xử dụng các Tinh Linh Ngũ Hành và tạo nên nhiều loại hình tư tưởng. Như thế, công việc của các vị ấy cũng gồm cả một ngành hoạt động rất lớn.
#71
Gửi vào 19/10/2011 - 17:49
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
CÁCH XỬ DỤNG LÒNG SÙNG TÍN
Trong quyển "Bí Tích Minh Luận" (The Science of Sacrament), tôi có giải thích bằng cách nào những đấng Cao Cả dùng những buổi nghi lễ của các tôn giáo làm phương tiện để ban rải thần lực của các Ngài cho thế gian, và do đó, khích động sự phát triển tâm linh trong một số rất đông người. Nhưng các Ngài không phải chỉ dùng những cuộc nghi lễ tôn giáo mà thôi, mà các Ngài dùng tất cả mọi cơ hội thuận tiện để ban rải thần lực cho thế gian. Nơi nào có một cuộc hội họp nhiều người cùng chịu ảnh hưởng của lòng sùng tín, tất cả đều cùng trong một lúc nâng cao tư tưởng của họ lên một mực độ thanh cao tốt đẹp, một cuộc hội họp như thế tạo ra cho các Chân Sư một cơ hội hiếm có mà các Ngài không thể bỏ qua, vì nó tạo nên một sự tập trung mà các Ngài có thể dùng như một đường vận hà để ban rải ân huệ thiêng liêng. Khi mỗi người đều sống rời rạc, lẻ tẻ trong gia đình, họ cũng ví như nhiều đường lộ tẻ, và chỉ nhận được có một ít thần lực đi xuyên qua. Nhưng khi họ cùng đến tề tựu đông đảo trong một cuộc hội họp, thì đó chẳng khác nào như một đường vận hà lớn, xuyên qua đó thần lực của Chân Sư có thể được ban rải một cách dồi dào gấp bội.
Tôi có thấy hằng triệu người đi hành hương ở tại Thánh Địa Bénarès, phần nhiều trong số đó hiển nhiên là những người dốt nát và dị đoan, nhưng cùng trong một lúc họ đều tràn đầy lòng sùng tín và hoàn toàn hướng thiện. Khối tư tưởng sùng tín mộ đạo do một số đông người như thế phóng ra trong không gian là khối vĩ đại không thể đo lường, và các Chân Sư không thể bỏ qua cơ hội đó để ban bố ảnh hưởng của các Ngài. Lẽ tự nhiên là một số đông người vừa nhiệt thành lại vừa thông minh sẽ tạo nên một sức mạnh dồi dào hơn và có thể vang dội lên một cõi giới cao siêu hơn, nhưng chúng ta đừng tưởng lầm rằng khối tư tưởng vĩ đại của một số người dốt nát và cuồng tín tạo nên là không có giá trị gì. Những đấng Cao Cả trong Quần Tiên Hội có một quyền năng kỳ diệu là gạn lọc điều lành với điều ác; nói một cách khác, từ trong một khối lớn tư tưởng bất hảo, các Ngài có thể rút ra một thiểu số sinh lực để dùng vào việc lành.
Người ta thường thấy có khi lòng sùng tín mãnh liệt nhứt lại đi đôi với tư tưởng đố kỵ và chia rẽ. Trong trường hợp đó, Chân Sư sẽ phân loại ra, Ngài dùng lấy cái phần thuộc về lòng sùng tín, và loại bỏ cái phần thuộc về lòng đố kỵ, ganh ghét. Bởi đó, có người tâm địa bất chính có khi lại gặp được những nghiệp quả tốt, tuy người ta không thể chối cãi rằng cái nghiệp tốt đó còn lớn lao hơn nhiều, nếu y không có những thói hư tật xấu kia.
Một thành phố như Bénarès luôn luôn là một trung tâm thần lực vĩ đại, dầu cho ngoài những thời kỳ hành hương hằng năm. Đó là một nơi có nhiều đền đài lăng tẩm và xá lợi của những bậc Thánh Hiền, mà các Chân Sư cũng có thể dùng làm những đường vận hà tốt; điều này cũng áp dụng cho tất cả những nơi đền miếu, chùa chiền ở khắp nơi trên thế giới. Nếu là xá lợi thật, thì nó phát ra một số từ điển mạnh mẽ do sự liên hệ của nó với một bậc Thánh Nhân, và bởi đó nó có thể dùng làm phương tiện chuyển di thần lực để phân phối cho những người đi hành hương. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thì đó là xá lợi giả, nhưng dầu thật hay giả, cái xá lợi mà chúng ta coi là điều quan trọng, thật ra nó không quan trọng lắm như chúng ta tưởng.
Nếu trong một thời gian lâu dài, người ta đã dùng xá lợi ấy làm cái trung tâm để biểu lộ sự chiêm bái và lòng sùng tín, thì điều đó cũng đủ để cho các Chân Sư dùng nó một cách hữu hiệu như là một xá lợi thật. Dầu sao đó là xá lợi giả mà người ta lầm tưởng là thật đi nữa, điều đó cũng không ảnh hưởng gì đến sự hữu ích của nó, vì lòng sùng tín được tạo ra chung quanh nó vốn là thật, và chính đó mới là điều quan trọng. Nếu điều này được hiểu rõ, thì nó sẽ giúp sự thông cảm cho những người hẹp hòi nông cạn, thường hay chế nhạo sự dị đoan mê tín của những người nông dân ở Ý, Sicile hay Tây Ban Nha, hoặc khinh rẻ những người lao công Ấn Độ vì họ thờ cúng ở những đền miếu tối tăm, không phải linh thiêng như là họ tưởng. Lẽ tất nhiên, sự thật vẫn tốt đẹp hơn sự sai lầm, nhưng ta nên nhớ rằng đối với những người còn dốt nát, mà muốn cho họ đương nhiên dẹp bỏ sự tín ngưỡng của họ thì đó quả thật là một điều không hay, trừ ra khi nào họ có thể hiểu được những điều cao thượng hơn. Làm như thế không những là lòng sùng tín của họ bị thương tổn mà nó còn khép chặt những đường vận hà hữu ích cho thần lực của Chân Sư.
Ngoài ra, một người nông dân thất học không thể xét đoán được rằng một xá lợi vốn thật hay giả, và thật là một điều bất công nếu lòng sùng tín của họ, mà họ dâng lên với tất cả tấm lòng sùng tín của họ, mà họ dâng lên với tất cả tấm lòng nhiệt thành và hảo ý, lại bị lệ thuộc nơi một sự kiện mà họ không thể hay biết chi cả!
Lòng sùng tín mới là điều đáng kể, và nó luôn luôn được đáp lại. Cái xá lợi chẳng qua chỉ là một trung tâm điểm để cho ta trụ lòng sùng tín vào đó mà thôi, và một trung tâm điểm tưởng tượng cũng vẫn có đủ hiệu lực như bất cứ một trung tâm điểm nào khác.
CÁCH XỬ DỤNG LÒNG SÙNG TÍN
Trong quyển "Bí Tích Minh Luận" (The Science of Sacrament), tôi có giải thích bằng cách nào những đấng Cao Cả dùng những buổi nghi lễ của các tôn giáo làm phương tiện để ban rải thần lực của các Ngài cho thế gian, và do đó, khích động sự phát triển tâm linh trong một số rất đông người. Nhưng các Ngài không phải chỉ dùng những cuộc nghi lễ tôn giáo mà thôi, mà các Ngài dùng tất cả mọi cơ hội thuận tiện để ban rải thần lực cho thế gian. Nơi nào có một cuộc hội họp nhiều người cùng chịu ảnh hưởng của lòng sùng tín, tất cả đều cùng trong một lúc nâng cao tư tưởng của họ lên một mực độ thanh cao tốt đẹp, một cuộc hội họp như thế tạo ra cho các Chân Sư một cơ hội hiếm có mà các Ngài không thể bỏ qua, vì nó tạo nên một sự tập trung mà các Ngài có thể dùng như một đường vận hà để ban rải ân huệ thiêng liêng. Khi mỗi người đều sống rời rạc, lẻ tẻ trong gia đình, họ cũng ví như nhiều đường lộ tẻ, và chỉ nhận được có một ít thần lực đi xuyên qua. Nhưng khi họ cùng đến tề tựu đông đảo trong một cuộc hội họp, thì đó chẳng khác nào như một đường vận hà lớn, xuyên qua đó thần lực của Chân Sư có thể được ban rải một cách dồi dào gấp bội.
Tôi có thấy hằng triệu người đi hành hương ở tại Thánh Địa Bénarès, phần nhiều trong số đó hiển nhiên là những người dốt nát và dị đoan, nhưng cùng trong một lúc họ đều tràn đầy lòng sùng tín và hoàn toàn hướng thiện. Khối tư tưởng sùng tín mộ đạo do một số đông người như thế phóng ra trong không gian là khối vĩ đại không thể đo lường, và các Chân Sư không thể bỏ qua cơ hội đó để ban bố ảnh hưởng của các Ngài. Lẽ tự nhiên là một số đông người vừa nhiệt thành lại vừa thông minh sẽ tạo nên một sức mạnh dồi dào hơn và có thể vang dội lên một cõi giới cao siêu hơn, nhưng chúng ta đừng tưởng lầm rằng khối tư tưởng vĩ đại của một số người dốt nát và cuồng tín tạo nên là không có giá trị gì. Những đấng Cao Cả trong Quần Tiên Hội có một quyền năng kỳ diệu là gạn lọc điều lành với điều ác; nói một cách khác, từ trong một khối lớn tư tưởng bất hảo, các Ngài có thể rút ra một thiểu số sinh lực để dùng vào việc lành.
Người ta thường thấy có khi lòng sùng tín mãnh liệt nhứt lại đi đôi với tư tưởng đố kỵ và chia rẽ. Trong trường hợp đó, Chân Sư sẽ phân loại ra, Ngài dùng lấy cái phần thuộc về lòng sùng tín, và loại bỏ cái phần thuộc về lòng đố kỵ, ganh ghét. Bởi đó, có người tâm địa bất chính có khi lại gặp được những nghiệp quả tốt, tuy người ta không thể chối cãi rằng cái nghiệp tốt đó còn lớn lao hơn nhiều, nếu y không có những thói hư tật xấu kia.
Một thành phố như Bénarès luôn luôn là một trung tâm thần lực vĩ đại, dầu cho ngoài những thời kỳ hành hương hằng năm. Đó là một nơi có nhiều đền đài lăng tẩm và xá lợi của những bậc Thánh Hiền, mà các Chân Sư cũng có thể dùng làm những đường vận hà tốt; điều này cũng áp dụng cho tất cả những nơi đền miếu, chùa chiền ở khắp nơi trên thế giới. Nếu là xá lợi thật, thì nó phát ra một số từ điển mạnh mẽ do sự liên hệ của nó với một bậc Thánh Nhân, và bởi đó nó có thể dùng làm phương tiện chuyển di thần lực để phân phối cho những người đi hành hương. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thì đó là xá lợi giả, nhưng dầu thật hay giả, cái xá lợi mà chúng ta coi là điều quan trọng, thật ra nó không quan trọng lắm như chúng ta tưởng.
Nếu trong một thời gian lâu dài, người ta đã dùng xá lợi ấy làm cái trung tâm để biểu lộ sự chiêm bái và lòng sùng tín, thì điều đó cũng đủ để cho các Chân Sư dùng nó một cách hữu hiệu như là một xá lợi thật. Dầu sao đó là xá lợi giả mà người ta lầm tưởng là thật đi nữa, điều đó cũng không ảnh hưởng gì đến sự hữu ích của nó, vì lòng sùng tín được tạo ra chung quanh nó vốn là thật, và chính đó mới là điều quan trọng. Nếu điều này được hiểu rõ, thì nó sẽ giúp sự thông cảm cho những người hẹp hòi nông cạn, thường hay chế nhạo sự dị đoan mê tín của những người nông dân ở Ý, Sicile hay Tây Ban Nha, hoặc khinh rẻ những người lao công Ấn Độ vì họ thờ cúng ở những đền miếu tối tăm, không phải linh thiêng như là họ tưởng. Lẽ tất nhiên, sự thật vẫn tốt đẹp hơn sự sai lầm, nhưng ta nên nhớ rằng đối với những người còn dốt nát, mà muốn cho họ đương nhiên dẹp bỏ sự tín ngưỡng của họ thì đó quả thật là một điều không hay, trừ ra khi nào họ có thể hiểu được những điều cao thượng hơn. Làm như thế không những là lòng sùng tín của họ bị thương tổn mà nó còn khép chặt những đường vận hà hữu ích cho thần lực của Chân Sư.
Ngoài ra, một người nông dân thất học không thể xét đoán được rằng một xá lợi vốn thật hay giả, và thật là một điều bất công nếu lòng sùng tín của họ, mà họ dâng lên với tất cả tấm lòng sùng tín của họ, mà họ dâng lên với tất cả tấm lòng nhiệt thành và hảo ý, lại bị lệ thuộc nơi một sự kiện mà họ không thể hay biết chi cả!
Lòng sùng tín mới là điều đáng kể, và nó luôn luôn được đáp lại. Cái xá lợi chẳng qua chỉ là một trung tâm điểm để cho ta trụ lòng sùng tín vào đó mà thôi, và một trung tâm điểm tưởng tượng cũng vẫn có đủ hiệu lực như bất cứ một trung tâm điểm nào khác.
#72
Gửi vào 19/10/2011 - 17:52
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
CÔNG VIỆC CỦA CÁC ĐỆ TỬ
Trước đây, tôi có nói rằng các đệ tử Chân Sư cũng là những người tập sự ở cõi hạ giới, họ được xử dụng như những trạm di chuyển thần lực, và cũng làm nhiều công việc trong mọi nghành hoạt động của nền văn minh nhân loại, tất cả những hoạt động này đều là một phần công việc của Chân Sư trên thế gian. Một phần lớn những công việc này cũng được thực hiện bởi những người thế gian đã từng hấp thụ được những nguồn cảm hứng hoặc tấm gương lành của những vị đệ tử: hoặc bởi những hội hay cơ quan mà các vị đệ tử đã giúp công xây dựng và giúp ảnh hưởng tinh thần. Thật ra, nhân loại sẽ bị thiệt thòi nếu không có những ảnh hưởng này, mặc dầu họ không hề hay biết chi cả về cái nguồn gốc đã tạo nên những ảnh hưởng tốt đẹp đó.
Các Chân Sư không thể bỏ phế những công việc vĩ đại của các Ngài để làm những công việc thấp thỏi hơn và dễ dàng hơn như đã kể trên, vì nếu các Ngài làm như thế, thì toàn thể cơ tiến hóa sẽ bị thiệt hại không ít.
Thí dụ, đôi khi có người hỏi tại sao các Chân Sư không viết sách? Họ quên rằng các Chân Sư đang đảm nhiệm cả một cuộc tiến hóa của nhân loại trên thế gian. Các Ngài không thể bỏ phế công việc lớn lao đó để viết sách nói về một phần nào mà thôi của cái đại cuộc chung. Thật ra, nếu Chân Sư có thời giờ để viết sách và dùng hết năng lực của Ngài vào công việc đó, thì quyển sách ấy chắc là phải hay hơn nhiều bất cứ quyển sách nào của người thế gian. Nhưng nếu ở đời, tất cả mọi việc đều phải để cho những bậc Toàn Năng làm hết, thì chúng ta sẽ không có cơ hội nào để xử dụng những khả năng của mình và đời sống của chúng ta ở thế gian sẽ không có ích lợi gì nữa!
Một ngành hoạt động đã được các đệ tử Chân Sư tổ chức trên một quy mô rộng lớn trong thời gian gần đây, là việc phụng sự một cách thực tế trên cõi Trung Giới, mà tôi đã nói đến trong quyển sách "Những Đấng Cứu Trợ Vô Hình". Phần quan trọng nhứt trong công việc này là giúp đỡ những người vừa mới chết, khi bước qua cõi Trung Giới họ thường bị hoang mang, bỡ ngỡ, lạc loài và có khi đau khổ, nhứt là vì thuở sanh tiền họ đã bị sợ hãi, dọa nạt vì những chuyện quái đản rùng rợn về việc tra tấn kiềm kẹp người chết dưới cõi Âm Ty, do những giả thuyết sai lầm của một vài tôn giáo.
Tuy công việc này được nêu ra từ mấy chục năm về trước, nhưng chỉ có trong Hội Thông Thiên Học là nhóm Cứu Trợ Vô Hình được thành lập có tổ chức và bắt tay vào việc. Lúc đầu, nhóm này còn có những người còn sống, quyết định dùng thời giờ của mình trong giấc ngủ của Thể Xác để làm công việc đó; nhưng không bao lâu, họ quy tựu chung quanh họ một số đông những người đã chết nhưng chưa hề nghĩ đến công việc này bao giờ.
Trước đó, những người mới bước qua cõi Trung Giới phần nhiều đều tự xoay sở lấy, trừ phi họ được thân nhân tiếp đón và dìu dắt họ trong cuộc đời mới ở bên kia cửa Tử. Thí dụ, một người mẹ đã chết vẫn còn trông nom những đứa con còn sống, và nếu một thời gian sau, có đứa con nào chết thì người mẹ sẽ giúp đỡ người ấy bằng đủ mọi cách mà bà ấy có thể. Thường thì những người tốt bụng trong số những người đã chết sẽ giúp cho những người khác những điều kinh nghiệm và hiểu biết của họ khi cần phải giúp đỡ. Trong những nền văn minh cổ, mà người ta có tập quán sống chung trong đại gia đình thì ít khi người ta không gặp một thân nhân cần đến sự giúp đỡ ở bên kia cửa Tử. Những kinh sách Ấn Độ thường nói đến tầm quan trọng của sự liên hệ gia đình, và những bổn phận cùng sự liên lạc trong gia đình vẫn còn tiếp tục trong những cõi vô hình sau khi chết. Đại khái, tình trạng ở cõi Trung Giới cũng giống như một xứ không có bệnh viện, trường học, hay công sở chi cả, nơi đó có nhiều người bị đau khổ, và trong những thời kỳ tai biến hay chiến tranh, thì sự đau khổ ấy còn tăng lên rất nhiều.
CÔNG VIỆC CỦA CÁC ĐỆ TỬ
Trước đây, tôi có nói rằng các đệ tử Chân Sư cũng là những người tập sự ở cõi hạ giới, họ được xử dụng như những trạm di chuyển thần lực, và cũng làm nhiều công việc trong mọi nghành hoạt động của nền văn minh nhân loại, tất cả những hoạt động này đều là một phần công việc của Chân Sư trên thế gian. Một phần lớn những công việc này cũng được thực hiện bởi những người thế gian đã từng hấp thụ được những nguồn cảm hứng hoặc tấm gương lành của những vị đệ tử: hoặc bởi những hội hay cơ quan mà các vị đệ tử đã giúp công xây dựng và giúp ảnh hưởng tinh thần. Thật ra, nhân loại sẽ bị thiệt thòi nếu không có những ảnh hưởng này, mặc dầu họ không hề hay biết chi cả về cái nguồn gốc đã tạo nên những ảnh hưởng tốt đẹp đó.
Các Chân Sư không thể bỏ phế những công việc vĩ đại của các Ngài để làm những công việc thấp thỏi hơn và dễ dàng hơn như đã kể trên, vì nếu các Ngài làm như thế, thì toàn thể cơ tiến hóa sẽ bị thiệt hại không ít.
Thí dụ, đôi khi có người hỏi tại sao các Chân Sư không viết sách? Họ quên rằng các Chân Sư đang đảm nhiệm cả một cuộc tiến hóa của nhân loại trên thế gian. Các Ngài không thể bỏ phế công việc lớn lao đó để viết sách nói về một phần nào mà thôi của cái đại cuộc chung. Thật ra, nếu Chân Sư có thời giờ để viết sách và dùng hết năng lực của Ngài vào công việc đó, thì quyển sách ấy chắc là phải hay hơn nhiều bất cứ quyển sách nào của người thế gian. Nhưng nếu ở đời, tất cả mọi việc đều phải để cho những bậc Toàn Năng làm hết, thì chúng ta sẽ không có cơ hội nào để xử dụng những khả năng của mình và đời sống của chúng ta ở thế gian sẽ không có ích lợi gì nữa!
Một ngành hoạt động đã được các đệ tử Chân Sư tổ chức trên một quy mô rộng lớn trong thời gian gần đây, là việc phụng sự một cách thực tế trên cõi Trung Giới, mà tôi đã nói đến trong quyển sách "Những Đấng Cứu Trợ Vô Hình". Phần quan trọng nhứt trong công việc này là giúp đỡ những người vừa mới chết, khi bước qua cõi Trung Giới họ thường bị hoang mang, bỡ ngỡ, lạc loài và có khi đau khổ, nhứt là vì thuở sanh tiền họ đã bị sợ hãi, dọa nạt vì những chuyện quái đản rùng rợn về việc tra tấn kiềm kẹp người chết dưới cõi Âm Ty, do những giả thuyết sai lầm của một vài tôn giáo.
Tuy công việc này được nêu ra từ mấy chục năm về trước, nhưng chỉ có trong Hội Thông Thiên Học là nhóm Cứu Trợ Vô Hình được thành lập có tổ chức và bắt tay vào việc. Lúc đầu, nhóm này còn có những người còn sống, quyết định dùng thời giờ của mình trong giấc ngủ của Thể Xác để làm công việc đó; nhưng không bao lâu, họ quy tựu chung quanh họ một số đông những người đã chết nhưng chưa hề nghĩ đến công việc này bao giờ.
Trước đó, những người mới bước qua cõi Trung Giới phần nhiều đều tự xoay sở lấy, trừ phi họ được thân nhân tiếp đón và dìu dắt họ trong cuộc đời mới ở bên kia cửa Tử. Thí dụ, một người mẹ đã chết vẫn còn trông nom những đứa con còn sống, và nếu một thời gian sau, có đứa con nào chết thì người mẹ sẽ giúp đỡ người ấy bằng đủ mọi cách mà bà ấy có thể. Thường thì những người tốt bụng trong số những người đã chết sẽ giúp cho những người khác những điều kinh nghiệm và hiểu biết của họ khi cần phải giúp đỡ. Trong những nền văn minh cổ, mà người ta có tập quán sống chung trong đại gia đình thì ít khi người ta không gặp một thân nhân cần đến sự giúp đỡ ở bên kia cửa Tử. Những kinh sách Ấn Độ thường nói đến tầm quan trọng của sự liên hệ gia đình, và những bổn phận cùng sự liên lạc trong gia đình vẫn còn tiếp tục trong những cõi vô hình sau khi chết. Đại khái, tình trạng ở cõi Trung Giới cũng giống như một xứ không có bệnh viện, trường học, hay công sở chi cả, nơi đó có nhiều người bị đau khổ, và trong những thời kỳ tai biến hay chiến tranh, thì sự đau khổ ấy còn tăng lên rất nhiều.
#73
Gửi vào 19/10/2011 - 17:56
SỰ CỐ GẮNG CỦA MỖI THẾ KỶ
Phương pháp hoạt động của các Chân Sư để cải tiến nền văn minh nhân loại đã được nêu ra trong những bài diễn thuyết của bà Annie Besant tại Luân Đôn hồi năm 1907, trong đó bà có nói về những biện pháp mà Quần Tiên Hội đã dùng để giúp cho Âu Châu thoát ra khỏi thời kỳ hắc ám của thời Trung Cổ. Bà nói rằng hồi thế kỷ mười ba, một đấng Cao Cả sống bên Tây Tạng đã công bố một nhựt lịnh của Ngài cho Quần Tiên Hội, định rằng trong khoảng hai mươi lăm năm cuối cùng của mỗi thế kỷ một cố gắng phải được thực hiện để giúp đỡ sự tiến bộ cho Âu Châu.
Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy rằng từ đó về sau, vào khoảng cuối cùng của mỗi thế kỷ, lại có xảy ra một việc hệ trọng để đem lại một tia ánh sáng mới do Quần Tiên Hội ban bố cho nhân loại. Một học giả Thông Thiên Học là Ông Fritz Kunz, đã ghi chép sự kiện này trong bản lược đồ sau đây: Trong các cố gắng kể trên thì cố gắng cuối cùng là việc thành lập Hội Thông Thiên Học vào năm 1875. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, các đấng Chân Sư Morya và Kuthumi mới đảm nhiệm trọng trách này, và chọn nhà lãnh đạo cao quý của chúng ta là bà Blavastky để hợp tác với các Ngài ở cõi Trần.
Phần nhiều những người đọc sách vở T.T.H. đều biết rõ về giai đoạn bà được chuẩn bị để lãnh sứ mạng cao cả. Sau cùng bà được Quần Tiên Hội gởi sang Mỹ để gặp đại tá Olcotgit, người đồng chí sẽ cùng cộng tác với bà và bổ khuyết những đức tánh mà bà thiếu sót: đó là khả năng tổ chức và quy tựu quần chúng trong một phong trào, mới ở thế gian. Hội Thông Thiên Học lúc đầu được thành lập tại New York, và về sau mới dời trụ sở sang Ấn Độ.
Khi tôi viết quyển sách này, Hội Thông Thiên Học đã hoàn thành vừa đúng năm mươi năm phụng sự nhân loại, và sự ích lợi mà nó đem đến cho mọi ngành sinh hoạt của con người, thật ra không thể đo lường. Ảnh hưởng tốt đẹp của nó không thể đo lường bằng số hội viên hay chi bộ nhiều ít, mặc dầu điều này cũng là một yếu tố đáng kể, vì Hội bành trướng ảnh hưởng đều khắp mọi nơi trên thế giới. Nhưng trên mỗi lãnh vực hoạt động của xã hội, Hội Thông Thiên Học đều có gây một tiếng chuông đặc biệt, nó vang dội khắp chung quanh chúng ta dưới hình thức những lời nói và việc làm của những nhà chánh trị, nhà bác học, văn hào, nghệ sĩ và nhiều nữa, trong số đó có rất nhiều người có lẽ chưa từng bao giờ nghe nói đến danh từ Thông Thiên Học.
Hội Thông Thiên Học đã làm cho người đời chú ý đến sự thật của cõi giới vô hình và quyền năng của tư tưởng. Hội đã nêu ra tình huynh đệ đại đồng, nó không chủ trương rằng mọi người đều phải giống nhau trong sự sinh hoạt hằng ngày, nhưng chủ trương sự khoan dung và thông cảm lẫn nhau giữa những cá nhân hoàn toàn khác biệt nhau về mọi mặt. Trong sự khác biệt đó, mỗi người đều vẫn giữ cái sắc thái riêng biệt của mình, và tất cả đều liên lạc chặt chẽ với nhau do một cái tinh thần bất diệt, là sự tôn trọng tự do của người khác biệt với mình.
Hội Thông Thiên Học đã làm cho Tây Phương và Đông Phương hòa hợp với nhau hơn bao giờ hết kể từ trước đến giờ. Nó đem sự công bình sáng suốt trong việc học hỏi so sánh các tôn giáo, và tiết lộ với một sự rõ ràng minh bạch, sự thống nhứt giáo lý và nguồn gốc chung của tất cả những tôn giáo. Ngoài ra, Hội còn đem hằng ngàn người đến gần các đấng Chân Sư để phụng sự các Ngài với tất cả khả năng và lòng thành của họ, nhằm mục đích đem hạnh phúc cho nhân loại trong những thế hệ tương lai.
Phương pháp hoạt động của các Chân Sư để cải tiến nền văn minh nhân loại đã được nêu ra trong những bài diễn thuyết của bà Annie Besant tại Luân Đôn hồi năm 1907, trong đó bà có nói về những biện pháp mà Quần Tiên Hội đã dùng để giúp cho Âu Châu thoát ra khỏi thời kỳ hắc ám của thời Trung Cổ. Bà nói rằng hồi thế kỷ mười ba, một đấng Cao Cả sống bên Tây Tạng đã công bố một nhựt lịnh của Ngài cho Quần Tiên Hội, định rằng trong khoảng hai mươi lăm năm cuối cùng của mỗi thế kỷ một cố gắng phải được thực hiện để giúp đỡ sự tiến bộ cho Âu Châu.
Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy rằng từ đó về sau, vào khoảng cuối cùng của mỗi thế kỷ, lại có xảy ra một việc hệ trọng để đem lại một tia ánh sáng mới do Quần Tiên Hội ban bố cho nhân loại. Một học giả Thông Thiên Học là Ông Fritz Kunz, đã ghi chép sự kiện này trong bản lược đồ sau đây: Trong các cố gắng kể trên thì cố gắng cuối cùng là việc thành lập Hội Thông Thiên Học vào năm 1875. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, các đấng Chân Sư Morya và Kuthumi mới đảm nhiệm trọng trách này, và chọn nhà lãnh đạo cao quý của chúng ta là bà Blavastky để hợp tác với các Ngài ở cõi Trần.
Phần nhiều những người đọc sách vở T.T.H. đều biết rõ về giai đoạn bà được chuẩn bị để lãnh sứ mạng cao cả. Sau cùng bà được Quần Tiên Hội gởi sang Mỹ để gặp đại tá Olcotgit, người đồng chí sẽ cùng cộng tác với bà và bổ khuyết những đức tánh mà bà thiếu sót: đó là khả năng tổ chức và quy tựu quần chúng trong một phong trào, mới ở thế gian. Hội Thông Thiên Học lúc đầu được thành lập tại New York, và về sau mới dời trụ sở sang Ấn Độ.
Khi tôi viết quyển sách này, Hội Thông Thiên Học đã hoàn thành vừa đúng năm mươi năm phụng sự nhân loại, và sự ích lợi mà nó đem đến cho mọi ngành sinh hoạt của con người, thật ra không thể đo lường. Ảnh hưởng tốt đẹp của nó không thể đo lường bằng số hội viên hay chi bộ nhiều ít, mặc dầu điều này cũng là một yếu tố đáng kể, vì Hội bành trướng ảnh hưởng đều khắp mọi nơi trên thế giới. Nhưng trên mỗi lãnh vực hoạt động của xã hội, Hội Thông Thiên Học đều có gây một tiếng chuông đặc biệt, nó vang dội khắp chung quanh chúng ta dưới hình thức những lời nói và việc làm của những nhà chánh trị, nhà bác học, văn hào, nghệ sĩ và nhiều nữa, trong số đó có rất nhiều người có lẽ chưa từng bao giờ nghe nói đến danh từ Thông Thiên Học.
Hội Thông Thiên Học đã làm cho người đời chú ý đến sự thật của cõi giới vô hình và quyền năng của tư tưởng. Hội đã nêu ra tình huynh đệ đại đồng, nó không chủ trương rằng mọi người đều phải giống nhau trong sự sinh hoạt hằng ngày, nhưng chủ trương sự khoan dung và thông cảm lẫn nhau giữa những cá nhân hoàn toàn khác biệt nhau về mọi mặt. Trong sự khác biệt đó, mỗi người đều vẫn giữ cái sắc thái riêng biệt của mình, và tất cả đều liên lạc chặt chẽ với nhau do một cái tinh thần bất diệt, là sự tôn trọng tự do của người khác biệt với mình.
Hội Thông Thiên Học đã làm cho Tây Phương và Đông Phương hòa hợp với nhau hơn bao giờ hết kể từ trước đến giờ. Nó đem sự công bình sáng suốt trong việc học hỏi so sánh các tôn giáo, và tiết lộ với một sự rõ ràng minh bạch, sự thống nhứt giáo lý và nguồn gốc chung của tất cả những tôn giáo. Ngoài ra, Hội còn đem hằng ngàn người đến gần các đấng Chân Sư để phụng sự các Ngài với tất cả khả năng và lòng thành của họ, nhằm mục đích đem hạnh phúc cho nhân loại trong những thế hệ tương lai.
#74
Gửi vào 19/10/2011 - 17:58
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
CÁC GIỐNG DÂN
Trong công việc giúp đỡ thế gian, Quần Tiên Hội không những chỉ lo về hiện tại mà thôi, mà còn nhìn xa về tương lai, và chuẩn bị sự tiến hóa của những giống dân và quốc gia mới, trong đó những đức tánh của một nhân loại tương lai sẽ được phát triển một cách tuần tự và điều hòa. Như chúng ta sẽ thấy ở chương 13, sự tiến bộ của nhân loại không phải diễn ra trong sự ngẫu nhiên tình cờ. Trái lại, sự thành lập các Giống Dân, với những đặc tính của nó, đặc tính về thể chất, tình cảm và trí tuệ, cũng có trật tự rõ ràng, nhứt định chẳng khác nào như chương trình học tập và thời khắc biểu của những trường đại học tối tân.
Giống Dân Aryen, mặc dầu chưa đến thời kỳ cực thịnh, nó đang ngự trị khắp thế giới hiện nay với cái trí tuệ thông minh kỳ diệu của nó, đã nối tiếp theo sau Giống Dân Atlante, một chủng tộc hiện vẫn còn gồm đa số nhân loại và chiếm một phần lớn đất đai trên quả địa cầu.
ĐỨC CHƯỞNG GIÁO LÂM PHÀM
Về vấn đề này, hiện nay có ba công trình lớn đang được thực hiện. Công trình thứ nhứt là việc chuẩn bị lâm phàm của đức Bồ Tát Chưởng Giáo, Ngài cũng là đấng Christ, đã từng mượn xác của Jésus để nhập thế cách đây hai ngàn năm. Chúng ta không nên lầm lộn việc lâm phàm của Ngài với những hiện tượng xảy ra ở mỗi thế kỷ như đã nói ở trên. Những hiện tượng đó thuộc về Cung 1, phần công việc huyền bí của cung này là dìu dắt sự tiến hóa của các Giống Dân chánh và các Chủng Chi, còn việc làm phàm của đức Chưởng Giáo là một việc lâu lắm mới xảy ra có một lần và thuộc về Cung 2, coi về ngành hoạt động Tôn Giáo và Giáo Dục.
Đức Chưởng Giáo hiện nay sắp xuất hiện dưới thế gian, và chúng ta có thể hy vọng sẽ thấy những sự biểu lộ càng ngày càng tăng của Quyền Năng, Minh Triết và Ý Chí của Ngài.
Điểm Chân lý chánh đại mà Ngài sẽ nhấn mạnh là: những đau khổ của thế gian đều do bởi sự thiếu tình thương và tình huynh đệ giữa loài người. Nếu con người biết thương yêu nhau và đối xử với nhau tình huynh đệ thân hữu, thì mọi điều ác đều tiêu trừ và một hoàng kim thời đại sẽ đến với chúng ta.
CÁC GIỐNG DÂN
Trong công việc giúp đỡ thế gian, Quần Tiên Hội không những chỉ lo về hiện tại mà thôi, mà còn nhìn xa về tương lai, và chuẩn bị sự tiến hóa của những giống dân và quốc gia mới, trong đó những đức tánh của một nhân loại tương lai sẽ được phát triển một cách tuần tự và điều hòa. Như chúng ta sẽ thấy ở chương 13, sự tiến bộ của nhân loại không phải diễn ra trong sự ngẫu nhiên tình cờ. Trái lại, sự thành lập các Giống Dân, với những đặc tính của nó, đặc tính về thể chất, tình cảm và trí tuệ, cũng có trật tự rõ ràng, nhứt định chẳng khác nào như chương trình học tập và thời khắc biểu của những trường đại học tối tân.
Giống Dân Aryen, mặc dầu chưa đến thời kỳ cực thịnh, nó đang ngự trị khắp thế giới hiện nay với cái trí tuệ thông minh kỳ diệu của nó, đã nối tiếp theo sau Giống Dân Atlante, một chủng tộc hiện vẫn còn gồm đa số nhân loại và chiếm một phần lớn đất đai trên quả địa cầu.
ĐỨC CHƯỞNG GIÁO LÂM PHÀM
Về vấn đề này, hiện nay có ba công trình lớn đang được thực hiện. Công trình thứ nhứt là việc chuẩn bị lâm phàm của đức Bồ Tát Chưởng Giáo, Ngài cũng là đấng Christ, đã từng mượn xác của Jésus để nhập thế cách đây hai ngàn năm. Chúng ta không nên lầm lộn việc lâm phàm của Ngài với những hiện tượng xảy ra ở mỗi thế kỷ như đã nói ở trên. Những hiện tượng đó thuộc về Cung 1, phần công việc huyền bí của cung này là dìu dắt sự tiến hóa của các Giống Dân chánh và các Chủng Chi, còn việc làm phàm của đức Chưởng Giáo là một việc lâu lắm mới xảy ra có một lần và thuộc về Cung 2, coi về ngành hoạt động Tôn Giáo và Giáo Dục.
Đức Chưởng Giáo hiện nay sắp xuất hiện dưới thế gian, và chúng ta có thể hy vọng sẽ thấy những sự biểu lộ càng ngày càng tăng của Quyền Năng, Minh Triết và Ý Chí của Ngài.
Điểm Chân lý chánh đại mà Ngài sẽ nhấn mạnh là: những đau khổ của thế gian đều do bởi sự thiếu tình thương và tình huynh đệ giữa loài người. Nếu con người biết thương yêu nhau và đối xử với nhau tình huynh đệ thân hữu, thì mọi điều ác đều tiêu trừ và một hoàng kim thời đại sẽ đến với chúng ta.
#75
Gửi vào 19/10/2011 - 18:05
CHÂN SƯ VÀ THÁNH ĐẠO
CHI NHÁNH CỦA MỘT GIỐNG DÂN
Công trình thứ hai là tạo nên hình thể, tình cảm và trí tuệ của Chủng Mỹ và Châu Úc, và ở vài nơi khác trên thế giới. Quyền năng của đức Bàn Cổ hiện đang được xử dụng trên những cõi cao để làm công việc này. Ngài dùng ý chí và trí tuệ để nhồi nắn, sửa đổi hình thể, sắc tướng của những trẻ sơ sinh của thời đại mới. Đồng thời, những nhân viên trẻ tuổi của Quần Tiên Hội hiện đang hoạt động ở thế gian, cũng được chỉ thị của các Ngài để giúp đỡ cho những thiếu nhi ấy, sự giáo dục và huấn luyện thích nghi với Giống Dân mới.
Công việc này mới chỉ bắt đầu, nhưng sẽ trở nên rất quan trọng trong tương lai. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của vài thế kỷ, Chủng Chi thứ sáu sẽ xuất hiện rõ rệt trên thế gian mới với sự trẻ trung, tốt đẹp và rực rỡ của nó, trong khi thế giới cũ vẫn tiếp tục phát triển Chủng Chi thứ năm cho đến mức hoàn toàn tuyệt mỹ.
GIỐNG DÂN CHÁNH THỨ SÁU
Công trình thứ ba là việc thành lập Giống Dân thứ sáu, Giống dân này sẽ xuất hiện bên xứ California (Hoa Kỳ) vào khoảng độ bảy trăm năm sau năm sau. Khi đó, một thiểu số người sẽ thiết lập tại xứ ấy, dưới sự điều khiển của đức Bàn Cổ. Giống Dân thứ sáu tức là đức Chân Sư Morya hiện nay, và cùng hợp tác với Ngài sẽ có đức Chân Sư Kuthumi, tức là vị Bồ Tát của Giống Dân thứ sáu, chúng tôi có viết về thiểu số dân tộc này trong quyển “Con người: Từ đâu đến, và sẽ đi về đâu”. Mặc dầu việc này còn đến bảy trăm năm nữa mới thực hiện, nhưng chúng ta biết rằng cuộc chuẩn bị cho công việc đó hiện nay cũng đã bắt đầu, và Hội Thông Thiên Học cũng đóng một vai trò quan trọng trong công trình ấy.
Mỗi Chi Bộ của Hội Thông Thiên Học nên khuyến khích hội viên hãy cố gắng áp dụng ở ngoài thế gian những sự hiểu biết về Thông Thiên Học mà họ đã thu thập được. Trong mỗi Chi Bộ, hội viên nên tập lấy đức tánh rộng rãi cởi mở, nhờ đó họ sẽ nhận được một nền giáo dục về tinh thần huynh đệ mà người ta không tìm thấy được ở ngoài thế gian. Phần nhiều những Hội khác ở ngoài đời đều nhằm thực hiện một mục đích nhất định nào đó, nhưng trong Hội Thông Thiên Học chúng ta biết rằng, mặc dầu có người thiên về một lý tưởng, và người khác thiên về một lý tưởng khác, nhưng tình huynh đệ trong nhân loại không thể thực hiện bởi sự độc tôn của một lý tưởng duy nhứt nào, dầu đó là Bác Ái, hay Chân Lý, hay Mỹ Lệ...mà bởi sự hòa hiệp chung của tất cả những lý tưởng đó làm một, nó sẽ đưa con người đến gần chỗ Thiêng Liêng.
Đó tức là cái tinh thần huynh đệ đại đồng mà người Thông Thiên Học sẽ lần lần thu thập được; y sẽ bắt tay hòa hợp với người đồng loại, không phải do sự ép buộc từ bên ngoài, mà do sự thúc đẩy bên trong. Làm một người hội viên Thông Thiên Học, tức là được sự huấn luyện của các Chân Sư và nếu người ấy thành công, y sẽ có đủ điều kiện để được đầu thai vào nhóm người tiền phong của Giống Dân này bắt đầu xuất hiện trên thế gian.
CHI NHÁNH CỦA MỘT GIỐNG DÂN
Công trình thứ hai là tạo nên hình thể, tình cảm và trí tuệ của Chủng Mỹ và Châu Úc, và ở vài nơi khác trên thế giới. Quyền năng của đức Bàn Cổ hiện đang được xử dụng trên những cõi cao để làm công việc này. Ngài dùng ý chí và trí tuệ để nhồi nắn, sửa đổi hình thể, sắc tướng của những trẻ sơ sinh của thời đại mới. Đồng thời, những nhân viên trẻ tuổi của Quần Tiên Hội hiện đang hoạt động ở thế gian, cũng được chỉ thị của các Ngài để giúp đỡ cho những thiếu nhi ấy, sự giáo dục và huấn luyện thích nghi với Giống Dân mới.
Công việc này mới chỉ bắt đầu, nhưng sẽ trở nên rất quan trọng trong tương lai. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi của vài thế kỷ, Chủng Chi thứ sáu sẽ xuất hiện rõ rệt trên thế gian mới với sự trẻ trung, tốt đẹp và rực rỡ của nó, trong khi thế giới cũ vẫn tiếp tục phát triển Chủng Chi thứ năm cho đến mức hoàn toàn tuyệt mỹ.
GIỐNG DÂN CHÁNH THỨ SÁU
Công trình thứ ba là việc thành lập Giống Dân thứ sáu, Giống dân này sẽ xuất hiện bên xứ California (Hoa Kỳ) vào khoảng độ bảy trăm năm sau năm sau. Khi đó, một thiểu số người sẽ thiết lập tại xứ ấy, dưới sự điều khiển của đức Bàn Cổ. Giống Dân thứ sáu tức là đức Chân Sư Morya hiện nay, và cùng hợp tác với Ngài sẽ có đức Chân Sư Kuthumi, tức là vị Bồ Tát của Giống Dân thứ sáu, chúng tôi có viết về thiểu số dân tộc này trong quyển “Con người: Từ đâu đến, và sẽ đi về đâu”. Mặc dầu việc này còn đến bảy trăm năm nữa mới thực hiện, nhưng chúng ta biết rằng cuộc chuẩn bị cho công việc đó hiện nay cũng đã bắt đầu, và Hội Thông Thiên Học cũng đóng một vai trò quan trọng trong công trình ấy.
Mỗi Chi Bộ của Hội Thông Thiên Học nên khuyến khích hội viên hãy cố gắng áp dụng ở ngoài thế gian những sự hiểu biết về Thông Thiên Học mà họ đã thu thập được. Trong mỗi Chi Bộ, hội viên nên tập lấy đức tánh rộng rãi cởi mở, nhờ đó họ sẽ nhận được một nền giáo dục về tinh thần huynh đệ mà người ta không tìm thấy được ở ngoài thế gian. Phần nhiều những Hội khác ở ngoài đời đều nhằm thực hiện một mục đích nhất định nào đó, nhưng trong Hội Thông Thiên Học chúng ta biết rằng, mặc dầu có người thiên về một lý tưởng, và người khác thiên về một lý tưởng khác, nhưng tình huynh đệ trong nhân loại không thể thực hiện bởi sự độc tôn của một lý tưởng duy nhứt nào, dầu đó là Bác Ái, hay Chân Lý, hay Mỹ Lệ...mà bởi sự hòa hiệp chung của tất cả những lý tưởng đó làm một, nó sẽ đưa con người đến gần chỗ Thiêng Liêng.
Đó tức là cái tinh thần huynh đệ đại đồng mà người Thông Thiên Học sẽ lần lần thu thập được; y sẽ bắt tay hòa hợp với người đồng loại, không phải do sự ép buộc từ bên ngoài, mà do sự thúc đẩy bên trong. Làm một người hội viên Thông Thiên Học, tức là được sự huấn luyện của các Chân Sư và nếu người ấy thành công, y sẽ có đủ điều kiện để được đầu thai vào nhóm người tiền phong của Giống Dân này bắt đầu xuất hiện trên thế gian.
Similar Topics
Chủ Đề | Name | Viết bởi | Thống kê | Bài Cuối | |
---|---|---|---|---|---|
![]() Nhật ký thành đại gia |
Vài Dòng Tản Mạn... | kyvibach |
|
![]()
|
|
![]() Có một núi Thanh Thành đẹp tựa chốn tiên cảnh tại Tứ Xuyên |
Gặp Gỡ - Giao Lưu | thanhthanh2014 |
|
![]()
|
|
![]() Nhật ký thành tỷ phú![]() |
Vài Dòng Tản Mạn... | kyvibach |
|
![]() |
|
![]() Cảm ơn người khiến tôi yêu tử vi để thành nghề tay trái |
Linh Tinh | hoa1618021989 |
|
![]() |
|
![]() Vì Sao ? Người Thân Mất Lại Hóa Thành Bướm Bay Về Thăm Gia Đình! |
Nguồn Sống Tươi Đẹp | FM_daubac |
|
![]() |
|
![]() NGŨ BỘ CHÚ - QUÁN ÂM - Huyền Thanh dịch |
Sách Huyền Thuật | administrator |
|
![]() |
2 người đang đọc chủ đề này
0 Hội viên, 2 khách, 0 Hội viên ẩn
Liên kết nhanh
Tử Vi | Tử Bình | Kinh Dịch | Quái Tượng Huyền Cơ | Mai Hoa Dịch Số | Quỷ Cốc Toán Mệnh | Địa Lý Phong Thủy | Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp | Bát Tự Hà Lạc | Nhân Tướng Học | Mệnh Lý Tổng Quát | Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số | Khoa Học Huyền Bí | Y Học Thường Thức | Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian | Thiên Văn - Lịch Pháp | Tử Vi Nghiệm Lý | TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:
An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |
Quỷ Cốc Toán Mệnh |
Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |
Quẻ Mai Hoa Dịch Số |
Bát Tự Hà Lạc |
Thái Ât Thần Số |
Căn Duyên Tiền Định |
Cao Ly Đầu Hình |
Âm Lịch |
Xem Ngày |
Lịch Vạn Niên |
So Tuổi Vợ Chồng |
Bát Trạch |
Coi Tử Vi | Coi Tử Bình - Tứ Trụ | Coi Bát Tự Hà Lạc | Coi Địa Lý Phong Thủy | Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh | Coi Nhân Tướng Mệnh | Nhờ Coi Quẻ | Nhờ Coi Ngày |
Bảo Trợ & Hoạt Động | Thông Báo | Báo Tin | Liên Lạc Ban Điều Hành | Góp Ý |
Ghi Danh Học | Lớp Học Tử Vi Đẩu Số | Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý | Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở | Sách Dịch Lý | Sách Tử Vi | Sách Tướng Học | Sách Phong Thuỷ | Sách Tam Thức | Sách Tử Bình - Bát Tự | Sách Huyền Thuật |
Linh Tinh | Gặp Gỡ - Giao Lưu | Giải Trí | Vườn Thơ | Vài Dòng Tản Mạn... | Nguồn Sống Tươi Đẹp | Trưng bày - Giới thiệu |
Trình ứng dụng hỗ trợ:












