Jump to content

Advertisements




Dịch Ẩn


40 replies to this topic

#16 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 01:05

Quyển Đầu (tiếp theo)

Thiên trung sát

Trong tuần giáp tý thì tuất hợi không, trong tuần giáp tuất thì thân dậu không, trong tuần giáp thân thì ngọ mùi không, trong tuần giáp ngọ thì thìn tỵ không, trong tuần giáp thìn thì dần mão không, trong tuần giáp dần thì tý sửu không.

Phụ nhận tinh biện

Nhận tinh tức là kiếp tài.
Như giáp lấy mão làm nhận, trong mão có ất mộc, cướp tài của giáp mộc, vì thế là dương nhận;
Ất lấy dần làm nhận, trong dần có giáp mộc, cướp tài của ất mộc, vì thế là âm nhận.
Bính lấy ngọ làm nhận, trong ngọ có đinh hỏa;
Đinh lấy tỵ làm nhận , trong tỵ có bính hỏa;
Mậu lấy ngọ làm nhận, trong ngọ có kỷ thổ;
Kỷ lấy tỵ làm nhận, trong tỵ có mậu thổ;
Canh lấy dậu làm nhận, trong dậu có tân kim;
Tân lấy thân làm nhận, trong thân có canh kim;
Nhâm lấy tý làm nhận, trong tý có quý thủy;
Quý lấy hợi làm nhận, trong hợi có nhâm thủy là kiếp tài.

Cho nên can dương là dương nhận, can âm là âm nhận. Người đời nay không rõ nghĩa của âm dương sanh tử, tạo sai lầm về dương nhận, lại nói không có âm nhận, đã dùng sai trước lộc một vị trí, nhận tinh vì thế mà không ứng nghiệm. Không hiều ất lấy thìn làm nhận, trong thìn ẩn tàng ất mộc, ất gặp ất là tỷ hòa, làm sao có thể cướp tài của mình đây chứ.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#17 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 01:15

Quyển Đầu (tiếp theo)

Thiên Ất Quý Nhân

Thiên Ất Quý Nhân là chủ của các sát. Quản lý rất là quan trọng, thừa mã thì quý vượt đạo đức, giúp đỡ đức thì danh tiếng chấn động khu then chốt, hợp quan hào thì chức vị A Hoành [tên chức quan xưa của nước Tàu], trị thái tuế quyền đảm đương Phương Diện [ngày xưa chỉ chức chính yếu trong quân ở một địa phương hoặc trưởng quan ở đó].

Ở cung càn tên gọi là Kim Khuyết [thời xưa, ở ngoài cửa cung, hai bên có lầu đài để nhìn ra xa, giữa có lối đi gọi là khuyết], ở hào hợi là Thiên Môn, ở hào sửu mùi là vào Cung Khuyết, gọi là kỳ lạ. Ở hào nhâm thân, gọi là Ngọc Đường [tên cung điện đời Hán], chủ Từ Lâm Thanh Yếu, danh tiếng lẫy lừng. Ở hào nhâm tuất là Giáng Cung, tuy không bằng phúc của Ngọc Đường, cũng chủ tôn quý và hiếu học, thanh cao và kiến thức uyên bác. Ở khôn gọi là Hoàng Cung, sanh ra với đức tính cao lớn. Chỉ ở cung tốn, tên gọi là Địa Cực, ở hào tân mão tên là Lệ Đức, cũng có tên là Thiệp Nan, ở hào tân tỵ tên là Thăng Hoa, đều diệt mất quý khí của mình nếu là quý nhân vượt qua hào sáu, thêm hào thế vượng tướng đúng vị mà không bị hình phá, sẽ là văn ở đài các; vũ trấn biên cương nên là phúc lành phi phàm vây.

Ý kiến về quý của tứ trực [năm tháng ngày giờ], năm sức mạnh ở tháng, tháng sức mạnh ở ngày, ngày sức mạnh ở giờ, luôn luôn phải phân biệt ngày và đêm. Thế thuộc mão thìn tỵ ngọ mùi thân thì dùng trú quý [quý nhân ban ngày]. Thế thuộc dậu tuất hợi tý sửu dần thì dùng dạ quý [quý nhân ban đêm], thí dụ xác định quý nhân ngày và đêm như giáp mậu canh: sửu là trú quý, mùi là dạ quý. Ất kỷ: tý là trú quý; thân là dạ quý. Bính đinh: hợi là trú quý; dậu là dạ quý. Nhâm quý: tỵ là trú quý; mão là dạ quý. Lục tân: ngọ là trú quý, dần là dạ quý. Dương quý hợp các việc vào buổi sáng sớm, sau đông chí; âm quý hợp chiều tối, sau hạ chí.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#18 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 01:34

Quyển Đầu (tiếp theo)

Dịch mã

Dịch mã chọn ở chi thần của năm tháng ngày giờ, nếu được bốn mã tụ họp ở một hào, là phúc lành không nhỏ. Nếu cùng tồn tại với quan và quý, sẽ trở thành tướng lãnh hay tể tướng, sẽ cực kỳ giàu có và quyền quý. Tuy nhiên mã cũng có những đặc điểm riêng, dần thân thuộc dương, là mẫu mã [ngựa đực], khỏe mạnh và chạy nhanh. Tỵ hợi thuộc âm, là tẫn mã [ngựa cái], hèn kém và chậm chạp nên không thể chạy xa. Hơn nữa, mã là súc vật thuộc hỏa, dần là trường sanh, (hỏa trường sanh ở dần), tỵ là lâm quan, hai mã này thì phúc rất nhiều. Thân là đất bệnh, hợi là đất tuyệt, ở chỗ này ân huệ ban thưởng bị giảm phân nửa. Ngoài ra mã nên ở phía sau thế, không nên ở phía trước thế. Thế đuổi theo ngựa [trục mã], một đời làm việc cực khổ. Mã trục thế [ngựa đuổi theo thế] được an hưởng vinh hoa. Mã chạy đến cung vượng, đường quan vượt bực. Mã đi đất suy, sĩ dân lao khổ, nhọc nhằn. Mã bị không vong, nhất định ở thành phố nhơ bẫn. Lại thêm năm thân dần là mã, là tuế hình mã. Năm dần thân là mã là mã hình tuế. Nếu mã lâm hào thế, lại phối hợp quan quỷ, thêm phạm thái tuế, nhật phá, cung khắc hình, tuy chủ quý có bỗng lộc nhiều, gặp hạn hào hình hại khắc phá, các năm tử tuyệt mộ thai, sẽ bị phạt tử hình, hoặc uống độc dược mà chết.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#19 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 01:44

Quyển Đầu (tiếp theo)

Đức ( thiên đức , nguyệt đức , can đức , chi đức )

Đức có bốn loại: gồm có thiên đức, nguyệt đức, can đức, chi đức. Một đức đã có thể trừ được trăm điều ác, giải quyết được trăm nỗi lo, không cầu mà được, không muốn mà thành. Đức ở hào dương, được mọi người kính trọng và cao quý. Đức ở âm vị, chăm chỉ dè sẻn, cung kính và đoan trang. Đức họp cùng quý sát, phú quý, danh dự và yên ổn. Nặc hình vượt hơn đức, không tránh khỏi cái chết. Như năm tháng ngày giáp dần bói, hào thế kỷ mùi, giáp với kỷ hợp, dần đức ở mùi, nghĩa là đức hợp gặp nhau. Năm tháng ngày canh thân bói, thế ở ất sửu cũng giống nhau. Nếu ất sửu bói, thế ở canh thân, kỷ mùi bói thế ở giáp dần, tên gọi là dương đức, tương tự như thế. Đặc biệt thêm vui mừng hơn khi được tứ trực tới sanh hợp nhau, không phạm phải hình phá không vong, thì ngũ phúc [năm thứ hạnh phúc: phú, quý, thọ, khang, ninh 富, 貴, 壽, 康, 寧] đầy đủ và bách lộc [trăm thứ phúc lành] tụ tập vậy.

Kế đến là tam truyền [năm tháng ngày] tại bính thìn, hào thế tại tân dậu, thìn đức ở dậu, bính với tân hợp cũng có tên là đức hợp tương phù [đức hợp trợ giúp nhau]. Tam truyền tại nhâm tuất, thế tại đinh mão, tuất đức ở mão, đinh với nhâm hợp, lại có tên là đức hợp tương phù, nhưng vì hai hào mão dậu, can đức không đến, cho nên tên là cô đức. Hai hào thìn tuất, quý nhân dịch mã không đến, cho nên tên là nhược đức [yếu đuối]. Lại thêm hai hào thìn dậu là nặc hình, cho dù gặp đức cũng là hình đức tương hợp. Cho nên bốn hào thìn tuất mão dậu cho dù gặp tuế nguyệt nhật đức, vẫn không thể đạt đến phúc lành lớn lao. Tuy có chức quan, mà không được thành tựu, có danh vọng vẻ vang. Hoặc phạm hình thương, trái lại thành tai họa. Lại thêm bốn hào tý ngọ tỵ hợi, hung đức hỗ xứ [nơi hung với đức hỗ trợ nhau]. Hai hào ngọ hợi là nặc hình chỉ năm tháng ngày bính ngọ bói và thế ở hào tân hợi, bính với tân hợp, ngọ đức ở hợi thì mới là có phúc lành. Năm tháng ngày tân sửu bói, thế ở bình ngọ cũng như vậy. Nhưng có thể tìm kiếm vị trí chính thức bằng cách dựa vào giới quý tộc và người có quyền lực, nếu phạm hình hại khắc phá, sẽ bị cản trở khó tiến triễn. Hai hào tý tỵ, chỉ năm tháng ngày nhâm tý bói và thế ở hào đinh tỵ, đinh với nhâm hợp, tất cả quý ở tỵ, tý đức ở tỵ [trong bản Hán văn viết là kỷ cần check lại]. Năm tháng ngày kỷ tỵ bói, được hào thế giáp tý thì cũng vậy, đều có tên là quý nhân phù đức hợp, nhưng không bị hung của nặc hình. Nếu ở hào dương, đắc vị và tài vượng, sẽ chủ phúc lành lâu dài, đại khái đức phạm phải nặc hình, thì không thể là phúc, huống chi có hình mà không có đức, ngoài ra hễ trong khắc mà gặp đức thì tai họa nhẹ một chút. Như mão khắc tuất, tý khắc tỵ, dần khắc mùi, thân khắc mão, hợi khắc ngọ, dậu khắc dần, thìn khắc hợi.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#20 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 01:56

Quyển Đầu (tiếp theo)

Hợp (lục hợp, tam hợp)

Hợp thì lục hợp tốt nhất, kế là tam hợp. Nói chung hợp với mình là thuận lợi, là trợ giúp, mọi việc sẽ hoàn thành một cách nhanh chóng. Nếu nơi hợp gặp xung sẽ tan rã, trong động kèm thêm hợp sẽ trì trệ. Nhưng hợp cũng có phân biệt, như mão hợp tuất, tý hợp sửu, trong hợp kèm thêm khắc, lại thành một phần hung xấu. Tuất tới hợp mão, bản thân lại chèn ép nó, đáng lẽ là tốt. Thìn hợp dậu, ngọ hợp mùi, hợi hợp dần, nơi hợp kèm thêm sanh, sẽ thu được phúc trọn vẹn. Như mùi tới hợp ngọ, dần tới hợp hợi, dậu tới hợp thìn, kết cục gần như rút hết năng lượng của bản thân, chính là tốt phân nửa. Tỵ tới hợp thân, kim sanh ở tỵ, không thể nói là khắc, một khi thấy dần động, chính là tam hình sát, không có chút hợp nào cả, đây là tai họa rất xấu. Thân tới hợp tỵ, nơi hình kèm theo sanh, phân nửa là điềm tốt lành. Lại thêm có khi hợp bị biến hào hình xung nên không còn hợp, có khi không hợp hóa xuất hợp, lại có khi can chi đều hợp, tên gọi là thiên địa hợp đức, gặp thương tổn cũng không bị thương tổn.

Tam hợp lấy một chữ ở giữa làm chủ, chữ phía trước sanh nên chủ phát, chữ phía sau là mộ khố nên chủ cất giữ, ba chữ đều đầy đủ mới thật là tam hợp. Hãy lấy tỵ dậu sửu kim cục để bàn luận, dậu làm chủ, có tỵ dậu mà không có sửu, tuy thành kim cục mà thiếu chỗ cất giữ, sự việc chủ có đầu mà không có kết thúc. Có dậu sửu mà không có tỵ, cũng thành kim cục, hiềm nổi là không có nguồn gốc, sự việc sẽ là trước khó khăn sau dễ dàng. Nếu có tỵ và sửu mà không có dậu, không thành kim tượng, sao mà thành cục được. Dần ngọ tuất hoả cục, hợi mão mùi mộc cục, thân tý thìn thủy cục, phỏng theo đó. Ngoài ra hình sát không nên kèm thêm hợp, bởi vì hình sát vốn là hung xấu, kèm thêm hợp càng nặng vậy.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#21 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 04:38

Quyển Nhất

Thân Mệnh Chiêm

Du Nam Tử nói:
Nói chung chiêm thân mệnh có ba điều quan trọng là hào thế, hào thân (còn gọi là nguyệt quái), với hào bổn mệnh.

Đầu tiên xem hào mệnh, như người sanh năm giáp tý, mệnh vốn thuộc tý, rất mừng có hào mệnh ở trên quẻ. Hào mệnh với hai hào thế và thân tương sanh tương hợp, chủ đời sống thoải mái đủ ăn đủ mặc, hoặc là lộc mã quý đến trợ giúp hào thế thân mệnh, chủ vẻ vang, phát đạt. Như thế trì tài lộc long hỷ, chính là niềm vui điền trang. Như gặp lộc không tài hết, gặp thêm năm tháng ngày hình xung khắc hại hào thế thân mệnh, chắc chắn ăn mặc không dồi dào, số phận cực khổ, lao lực vất vả. Nếu hào thế thân mệnh gặp quan quỷ, kèm thêm phá toái sát, chắc chắn phá tướng. Thêm kiếp sát dương nhận, thiên hình, đại sát chắc chắn mang theo bệnh tật. Phục quỷ, hóa quỷ, với quỷ động tới hình xung khắc hại hào thế thân mệnh, cũng vậy. Xem chi tiết ở phần sau. Lưu niên thái tuế với đại hạn, tiểu hạn sanh hợp hào thế thân mệnh thì tốt lành, hình xung khắc hại thì hung xấu. (Quản Công Khẩu Quyết lấy can chi luận giống nhau). Hào thế thân mệnh phục tài phúc, hay hóa tài hóa phúc thì tốt lành. Phục huynh, quỷ hay hóa huynh, hóa quỷ thì gia nghiệp tiêu tan. Phục phụ hay hóa phụ, thì nguồn tài chính dao động, kiệt sức về mặt tinh thần. Vong thần bao gồm mộ, sẽ lập tức thấy buồn thương. Tùy quan nhập mộ sẽ gặp tai họa dính líu. Trợ quỷ thương thân sẽ bị dây dưa đến tài và sắc. Hào thế nguyệt phá, sẽ phạm phải chết non [殤殀 thương yểu]. Thái tuế xung thân vị, nhất định sanh ra bệnh tật hoặc tai ương. Lại thêm mệnh kim sợ thủy và hỏa quỷ, không sợ mộc hay thổ quỷ. Mệnh mộc sợ kim và hỏa quỷ, không sợ thủy và thổ quỷ. Mệnh thủy sợ mộc và thổ quỷ, không sợ kim và hỏa thủy. Mệnh hỏa sợ thủy và thổ quỷ, không sợ mộc và kim quỷ. Mệnh thổ sợ mộc và kim thủy, không sợ thủy và hỏa quỷ.

"Quản công vận hạn khẩu quyết" nói: già nên nhập mộ, trẻ thì không nên. Năm tử mộ thường rước lấy rắc rối về pháp luật, có tang sự. Năm thai dưỡng chắc chắn sẽ thấy lục súc thành bầy đàn [ý là chăn nuôi tốt]. Đế vượng rất thích hợp đi về phía trước. Mộc dục chắc chằn sẽ khởi mầm mối kiện cáo, tranh cãi. Quan đới cát thần không nên bị xung khắc; lâm quan hung diệu, rất mong phù trợ nhau. Suy thì gặp vượng sẽ thông suốt, bệnh thì gặp sanh nên yên ổn. Tuyệt xứ phùng sanh thì phát, trong mộ gặp phá thì nổi lên. Sanh quan cùng vượng, liền có thể vinh thân. Thái tuế với mệnh, mừng hợp ghét xung, thái tuế với vận, thích sanh ghét khắc, khắc xung tương hợp nhất định gặp hình thương.

Theo Quản Công Thân Mệnh Khẩu Quyết, mệnh lấy nạp âm làm chủ, như người sanh giáp tý ất sửu nạp âm thuộc kim, nên là mệnh kim, nó cùng với vận hạn cùng lưu niên thái tuế phối hợp nhau để quyết đoán theo trường sanh quyết mà xác định tai ương hay phúc lành. Điều này khác với những quyển sách lấy địa chi làm hào mệnh có khác biệt. Đây là phần bổ sung.

quỷ cốc phân hào
quỷ cốc phân hào
lục hào _______ nhạc ẩn
ngũ hào______. mưu vi
tứ hào _______. phát đạt
tam hào ______ thụ lập
nhị hào ______. thành đồng
sơ hào _______ thai dưỡng


Thông thường phân hào kèm theo cát thần mà vượng tướng không bị tổn thương, cùng với hào thân, hào thế, hào mệnh sanh hợp, chính là nơi đắc ý. Nếu hưu tù kèm theo hung sát, hoặc bị thương tổn, cùng với hào thế, hào thân, hào mệnh hình xung khắc hại, tức là lúc thất ý. Ngoài ra Quản Công Khẩu Quyết lại nói:hào sơ và hào hai vượng tướng, làm giàu ngay tại chỗ. Hào ba và hào bốn hưu tù, tuổi trung niên lận đận. Hào năm và hào sáu hưng long, tuổi già vẻ vang, hiển quý.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#22 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 05:15

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm (tiếp theo)

Thân mệnh bát yếu

Du Nam Tử nói :
Khi chiêm mệnh có tám điều quan trọng
1- Tổ nghiệp xem đại tượng;
2- Cao thấp xem vị trì hào thế;
3- Mạnh yếu xem âm dương;
4- Lục thân xem dụng thần;
5- Giàu nghèo sang hèn xem thần sát;
6- Họa phúc xem lục thần;
7- Cát hung xem tam hạn;
8- Phát dụng xem lưu niên thái tuế.

1- Tổ nghiệp

Đại tượng là nền tảng khi còn sanh thời. Đại tượng vượng tướng, sanh thời sản nghiệp gia đình hưng thịnh. Đại tượng hưu tù, túi tiền tiêu điều thê lương. Cho nên quẻ phục tàng không có đại tượng của cung gốc, chắc chắn không có tổ nghiệp. Nếu tượng vượng và hào cũng vượng, là phúc lành trọn vẹn.

phụ bát quái phối tiết khí vượng suy thức
___________vượng__tướng___thai___một___tử__.___.__hưu___phế
Lập đông____càn____.khảm___.cấn___chấn__tốn_._ly___._khôn__.đoài
Đông chí____khảm___cấn_____chấn__tốn___.ly__._khôn__đoài___càn
Lập xuân____cấn____.chấn____tốn___.ly__._.khôn..đoài__.càn___.khảm
Xuân phân_._chấn___.tốn_____.ly____.khôn_.đoài__càn___khảm__cấn
Lập hạ_____..tốn____.ly______.khôn__đoài__.càn__.khảm_.cấn___.chấn
Hạ chí_____._ly_____.khôn____đoài__.càn___khảm_cấn___chấn__.tốn
Lập thu_____khôn___.đoài____.càn___khảm_.cấn__.chấn__tốn____ly
Thu phân___.đoài____càn_____khảm_.cấn___chấn_.tốn___.ly_____khôn

2- Thế vị
Thường thế kèm theo quý mã đức hợp (lấy ở tứ trực: năm tháng ngày giờ), thêm long hỷ vượng tướng đắc vị thì giàu sang. Gặp phải vong kiếp hình nhận bạch hổ, bị hình hại xung khắc, và tử mộ tuyệt thai, nếu không có phúc đức giải thần cứu trợ, chắc chắn nghèo hèn không thành công. Thế có cừu địch, vượng thì bệnh tật và suy thì chết. Được nhật thần hay hào động xung khắc thì có thể tránh được cái chết, nhưng cả đời làm việc trăm thứ không có một thứ nào thành công.

"Thân Mệnh Yếu Lược" nói: thế sợ hưu tù, thân nên vượng tướng. Mừng trong sanh có thêm hợp, sợ chỗ hợp mà lại xung.

Phú quý là người khác tới sanh mình; nghèo hèn là mình đi sanh người khác; hiển đạt [thành tựu, có danh vọng vẻ vang] là quan tinh đắc địa; vinh hoa [vẻ vang; hiển quý] là ấn diệu quy viên [sao ấn chỉ phụ mẫu trở về khuôn viên]. Kho chứa đầy vàng chỉ là sao tài được đúng chỗ. Nhà trống bốn vách tường, bởi vì huynh vượng đang lãnh đạo. Thế nhập mộ hương, đến già cầu mưu thường ngang trái. Quái thân lưỡng động một đời thăng trầm không bình thường.

Thế khắc hưu tài, tuy giàu mà không giàu to. Thân thương tổn suy quỷ, tuy có chức quan mà không cao. Quỷ trợ giúp thân, công danh đắc chí. Đằng xà tử tôn trì thế lực và tài sản như ý muốn. Mộc thanh long thế động thành tử tôn, sớm thông suốt những năm đầu đời. Kim bạch hổ tài không vong, thương tổn vợ, tình hưống tuổi trẻ vận may đến chậm. Quan vượng không có tài, chỉ tạm thời phú quý. Tài hưng thịnh mà thiếu quỷ, vinh hoa chỉ trong nháy mắt. Quẻ nội có tài, quẻ ngoại không có, trước giàu sau nghèo. Quẻ nội không có tài quẻ ngoại có, trước nghèo sau giàu. Hào quan vượng tướng hóa mộ thai (thai là tiểu mộ), trước cao quý sau hèn mọn. Hào quan tử tuyệt hóa sanh vượng, trước hèn mọn sau hiển đạt. Lục xung thì mọi việc chỉ là hư ảo. Lục hợp thì trăm việc ổn định. Quẻ chánh biến lục xung, đến già không thành một việc nào. Sau trước đều là lục hơp. cả đời hưởng tận vinh hoa. Thế cường mạnh không có trợ giúp, tự mình làm chủ. Thế nhược được trợ giúp, thành tựu nhờ người khác. Muốn biết ai đang bắt nạt, chỉ xem hào nào khắc thế. Cần biết người nào che chở, chỉ xem tượng nào sanh thân. Ngày giờ trợ giúp, hợp, được người trẻ giúp đỡ đắc lực. Tuế nguyệt khắc xung, thường thấy sân hận ở bậc trên. Tiến một bước huynh đệ hóa tài; lùi một bước hào tài hóa huynh đệ.

Một năm yên ổn, chỉ thấy tử tôn gặp lộc mã. Một tháng yên ổn, chắc chắn phúc đức gặp thanh long. Thổ không vong nên không có ruộng đất, phụ không vong nên không có nơi để trú ngụ. Thế xung phụ mẫu, trẻ thơ mất cha mẹ. Thế hợp văn thư, mạng sống lâu dài. Tử không vong thì tuyệt tự; tài không vong thì góa vợ. Quỷ không vong thì góa chồng; huynh không vong thì chủ chỉ có sức một mình. Đây là chiêm chung thân vậy.

Nếu hỏi tai ương hay phúc lành trong một năm, chỉ lấy sanh hợp xung khắc của năm tháng ngày giờ mà đoán. Như tứ trực kèm theo tài sanh hợp thế chắc chắn tài lộc tăng tiến. Kèm theo phúc sanh hợp thì có việc vui mừng về hôn nhân hay sanh sản. Kèm theo huynh đệ sanh hợp thì có được anh em, bạn bè giúp đỡ. Kèm theo phụ sanh hợp thì được người lớn cất nhắc. Kèm theo quỷ sanh hợp thì có quý nhân tiến cử, hoặc có sự việc đắc ý ở cơ quan chính quyền. Kèm theo tài hình xung khắc hại thế, thì do tham tài háo sắc mà rước tai họa. Kèm theo phúc thương tổn thế, nếu hào thế vượng thì do tửu sắc mà thành bệnh; còn hào thế suy vì tửu sắc mà mất mạng. Hoặc phúc động hóa quỷ, hay quỷ động hóa phúc thương tổn thế, thêm văn thư [phụ mẫu] cùng động chắc chắn do tửu sắc mà dẫn đến kiện tụng. Cần phân biệt rượu hay tình dục, chỉ gặp thanh long là rượu; gặp huyền vũ là tình dục. Kèm theo huynh đệ thương tổn thế, chủ anh em, bạn bè tranh tụng mà phá tài. Kèm theo phụ thương tổn thế, chủ người lớn, nhà cửa, mồ mã, xe thuyền, quần áo mà gây ra tai họa. Kèm theo quỷ thương tồn thế hoặc thế trì tĩnh quỷ, tứ trực xung cùng động, chủ có tai họa bất ngờ xãy ra, lấy lục thần mà quyết định đó là việc gì. Tốt xấu ở thái tuế là sự việc trong một năm; ở nguyệt tướng là sự việc trong một tháng; ở nhật thần là sự việc trong một ngày; ở thời kiến là sự việc trong giờ đó. Nếu như không đới tứ trực mà do hào động sanh hợp hình xung khắc hại hào thế, nên phân biệt suy vượng.

Hào vượng tướng có khả năng khắc hào hưu tù, hào hưu tù không khả năng khắc hào vượng tướng. Hạn kỳ hào trợ giúp hay thương tổn mình lấy ngày tháng mà hào động sanh vượng để xác định. Như quẻ an tĩnh không có hào động tới sanh khắc, thì thuận theo bốn mùa trong năm, như mộc kèm theo cát thần là mùa xuân thấy việc vui mừng; hỏa quỷ thấy sát mùa hè có tai họa; kim gặp thê tài mùa thu đắc lợi; thủy gặp huynh đệ mùa đông chắc chắn phá tài; hào thổ nếu kèm theo cát thần hay hung sát, mỗi thứ tùy theo tháng nắm lệnh mà quyết đoán: thìn thì tháng ba; mùi là tháng sáu; tuất là tháng chín; sửu là tháng chạp. Nếu gặp không vong: cát thần không vong thì hung xấu; hung sát không vong trái lại là tốt. Ngoài ra, nhật nguyệt trị tử tôn, cát thần vượng thì đồng bọn học tập [bằng sài giảng tập- 朋儕講習]; hung sát suy sẽ canh tranh mất tiền bạc. Nhật nguyệt trị thê tài, cát vượng thì ăn uống yến tiệc; hung suy thì ấn thụ [cha mẹ] bị phá thương tổn. Đây là chiêm lưu niên vậy.

“Quy Tàng Dịch” nói: hào sáu là triều đình, hào năm là thiên tử [vua], hào bốn là hầu bá [các nhà đế vương đặt ra năm tước để phong cho bầy tôi, tước Hầu là tước thứ hai trong năm tước: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam 公侯伯子男], hào ba là công khanh [gọi tắt của tam công cửu khanh 三公九卿, chỉ chức quan đại thần thời xưa], hào hai ứng với hào năm là đại phu [chức quan lớn, thời cổ Trung Hoa], hào sơ là tầng lớp thấp nhất là thứ dân. Sáu hào chỉ hào sơ là thấp nhất, nếu như hào thế ở đây nếu phát triễn ở tương lai, thường là ở tỉnh thành và nghèo túng thì ở ngõ xóm. Tuy gặp phải quý mã thì cũng có phúc đức nhưng mà khó thành tựu, có danh vọng vẻ vang. Hào sáu thì rất cao, nếu thế ở đây thường ở trên núi cao và ẩn náu trong rừng và suối. Hào ba là công khanh, thái quá của quẻ nội, gặp khi động thường là hung xấu. Hào bốn chính là hầu bá, bất cập ở ngoại quái, vì sự chậm trễ [yêm ức kê trì 淹抑稽遲] cho nên thường sợ hãi. Chỉ có hào hai và hào năm là vị trí trung chánh, người được đắc vị ở trên nắm quyền lực và cai trị mọi người; còn thất vị thì ở dưới bị cai trị bởi người khác. Thế ở hào một và hào bốn cùng là ở nơi thấp, tuy nhiên bô phận hào sơ mới là nơi thấp nhất. (Trích từ sách "Quản Công Chiếu Tâm Thần Giám Kinh").


《 Quy Tàng Dịch》 phân hào
Lục hào_____triều đình
Ngũ hào____.thiên tử
Tứ hào_____.hầu bá
Tam hào____.công khanh
Nhị hào_____đại phu
Sơ hào_____thứ dân


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#23 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 05:36

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm (tiếp theo)

3- âm dương

Hào thế ở cung dương, mưu tính sẽ thành tựu. Hào thân ở âm tượng, làm việc thấp kém không minh bạch. Do dương chủ trí tuệ và sáng suốt; còn âm chủ vụng về và mờ ám.

Đạt được dương cương [thuộc về phái nam cứng rắn] có thể nắm ngôi vua; còn nếu là âm nhu [nữ tính dịu dàng] mà cướp ngôi vị, chỉ như bản chất dê đội lớp hổ.

Cho đến âm nhu mà nắm giữ hào ba và sáu hung xấu thì rất khó tránh khỏi bị lật đổ và tiêu diệt. Vì thế ngũ hành ở hào thế mỗi hành có một phạm trù khác nhau.

Âm kim hình thương cực lực tàn bạo; dương kim chính trực và kiên cường .

Âm mộc tham lam tàn bạo và bóc lột; dương mộc thì mang tính t.ao nhã và văn chương.

Âm thủy xảo quyết và ngông cuồng càn rỡ; dương thủy thì tài năng và thông minh.

Âm hỏa cố chấp và thiển lậu; dương hỏa mạnh mẽ, nhạy cảm và văn minh.

Âm thổ ngốc nghếch và chậm chạp; dương thổ trung tín đáng tin cậy và chất phác.

Đây là chỗ phân biệt về cương nhu của âm dương.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#24 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 08:39

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm (tiếp theo)

4- Lục thân

Du Nam Tử noi:lục thân trong quẻ có cái có, có cái không; có cái thật, có cái giả; có cái giả trong thật, có cái giả trong giả.

Như quẻ thuần càn, lục thân đều có, và tất cả đều là thật. Như quẻ phong địa quán thuộc cung càn, tất cả lục thân đều là giả. Có quan quỷ, phụ mẫu, thê tài, không có huynh đệ, tử tôn.

Lại như quẻ sơn địa bác, quẻ ngoại cấn bính tuất thổ là phụ mẫu, bính tý thủy là tử tôn, bính dần mộc là thê tài; ở cung càn có ba hào tuất tý dần, chính là giả trong thật. Quẻ nội khôn ất mùi thổ là phụ mẫu, ất tỵ hỏa là quan quỷ, ất mão mộc là thê tài, ở cung càn không có ba hào mùi tỵ mão, chính là giả của giả.

Căn cứ theo suy xét này, thì một gốc chín họ, phân biệt nội ngoại. Là thân là sơ, phân biệt ở thật giả vậy. Cha mẹ ruột và kế; anh em ruột và kết nghĩa; vợ chồng có chánh và thiên vị; con cái có đích và thứ, phân biệt ở giả của thật hay giả của giả vậy. Tuy nhiên nhà ở có thể có, có thể không, thuộc của người hay thuộc của mình, vậy có thể suy ra điều gì đây.

Lục thân thủ dụng thức

Họ hàng bên nội lấy quẻ nội của cung gốc xuất hiện làm thật, như không hiện thì xem phục thần của quẻ nội. Nếu như không hiện, lại không có phục thì chọn phi cung để bàn luận.

Họ hàng bên ngoại lấy quẻ ngoại cung gốc xuất hiện làm thật, như quẻ ngoại không hiện, thì xem phục thần của quẻ ngoại. nếu không có phục thần cũng lấy phi cung để bàn luận.

Nội quái bổn cung lục thân

Dương quan là ông nội, âm quan là bà nội.
Dương phụ là cha, âm phụ là mẹ.
Dương huynh là anh, âm huynh là em trai và chị em gái.
Dương tử là con trai, âm tử là con gái và con dâu.
Dương tài là vợ, âm tài là thiếp [vợ lẽ].

Ngoại quái bổn cung lục thân

Dương quan là ông ngoại, âm quan là bà ngoại.
Dương phụ là cha vợ, cậu, dượng [chồng của cô, dì].
Âm phụ là mẹ vợ, mợ, cô, dì.
Dương huynh anh em họ, âm huynh chị em họ.
Dương tử là rễ, cháu họ, cháu ngoại, âm tử cháu họ gái, cháu ngoại gái.
Dương tài chị dâu họ, âm tài vợ của em trai họ, hoặc vợ lẽ của anh em họ.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#25 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 08:49

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm - Lục Thân (tiếp theo)

Lục thân thủ phi cung pháp [cách chọn lục thân theo phi cung]

Vị trí phi lấy hào thế làm chủ mà suy xét.
Sanh mình là cha, cha khắc là mẹ.
Sanh cha là ông nội, ông nội khắc là bà nội.
Ngang với cha là bác chú, bác khắc là mỗ [bác gái], chú khắc là thẩm [thím].
Thế khắc là vợ, vợ khắc là thiếp [vợ lẽ], thê sanh là con gái, khắc con gái là rễ, rễ sanh là cháu ngoại, con gài sanh là cháu ngoại gái.
Thế sanh là con trai, hào trước con trai lớn là con trai kế, hào trước con trai kế là con trai thứ ba;
Con trai khắc là con dâu, con trai sanh là cháu, con dâu sanh là cháu gái, cháu khắc là tôn tức [cháu dâu], tôn sanh là huyền tôn [cháu chắt].
Dựa theo cách này, không có gì mà không chu đáo tường tận. Nhập vào nơi sanh thì tốt lành, nhập vào nơi kỵ thì hung xấu (như phụ nhập nơi tài; huynh nhập vào hào quỷ). Hào hưu, không vong chắc chắn tránh xa; quỷ sát chắc chắn kèm theo bệnh tật.

Lớn hỏi nhỏ thuận theo vị trí trước hào thế một số đi lên; nhỏ hỏi lớn thuận theo vị trí dưới hào thế một số đi xuống. Tất cả đều lấy số nhất thủy, nhị hỏa, tam mộc, tứ kim, ngũ thổ, số đến của hào tức là chọn lấy dụng.

Lưu Thanh Điền nói: lục thân được xác định bằng số lượng, rõ ràng và chính xác, thành thục phương thức này, vận may vận rủi sẽ tự nhiên đến.

《 hoàng kim sách》 phân hào
Lục hào ____ ông cố
Ngũ hào __... cha
Tứ hào ____.____......._ vợ
Tam hào ___. bà cố___ bác chú ___ anh em
Nhị hào ____ mẹ
Sơ hào ____. ông nội __... chị __.___. con

Theo phương pháp phi số, lấy phân cung làm chủ.
Như hỏi về cao tổ [từ đời ông nội kể lên hai đời nữa], thuận theo vị trí tằng tổ [ông cố 曾祖 cha của ông nội] bắt đầu phi số.
Hỏi về ông bác, ông chú, thuận theo vị trí của ông bắt đầu phi số.
Hỏi về đường huynh đệ [anh em chú bác], thuận theo vị trí của bác chú bắt đầu phi số.

Mỗi thứ tùy theo lớn nhỏ, phân chia trên dưới, bay theo vòng tròn y theo số sanh của ngũ hành để xác định hào dụng, còn lại phỏng theo đó. Cách này để suy ra công trạng của người đã khuất khi kế thừa di sản của họ hàng xa.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

#26 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 08:58

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm - Lục Thân (tiếp theo)

Thế thuộc thổ hào
Cao tổ thuộc kim; ông cố thuộc thủy; ông nội thuộc mộc, ông bác thuộc mộc, ông chú thuộc mộc; bà cao tổ thuộc mộc; bà cố thuộc hỏa; bà nội thuộc thổ; bác chú, bác chú họ [anh em chú bác của cha] thuộc hỏa, cha thuộc hỏa; anh em và anh em chú bác thuộc thổ; con cháu thuộc kim; bác gái, thím, bác gái họ, thím họ thuộc kim, mẹ thuộc kim; vợ, chị dâu, em dâu, em gái, vợ lẽ thuộc thủy [thay vì hỏa như trong bản tiếng Hoa]; con dâu, cháu dâu, con gái thuộc mộc [thay vì thuộc thủy như trong bản tiếng Hoa] cháu nội thuộc thủy, cháu dâu nội, cháu nội gái thuộc hỏa, chắt [cháu ba đời] thuộc mộc (trên đây là họ hàng bên nội)

Cao tổ thuộc kim ------------- Bà cao tổ thuộc mộc
Ông cố thuộc thủy ----------- Bà cố thuộc hỏa
Ông nội thuộc mộc ---------- Bà nội thuộc thổ
Cha thuộc hỏa --------------- Mẹ thuộc kim
Thế thuộc thổ --------------- Vợ thuộc thủy -------------------------------- Vợ bé thuộc hỏa
Con thuộc kim --------------- Con dâu thuộc mộc
Cháu nội thuộc thủy -------- Cháu dâu, cháu ngoại thuộc hỏa
Chắt thuộc mộc

Trên đây là họ hàng bên nội của Thế thuộc thổ

Ông ngoại thuộc mộc; mẹ, cậu, cha vợ, cô phu [dượng - chồng của cô] thuộc hỏa; vợ anh họ, em trai, chồng của chị em gái họ thuộc thổ; bà ngoại thuộc thổ; mợ, mẹ vợ, cô thuộc kim, chị dâu họ, dì họ, chị em họ thuộc thủy; cháu họ, cháu ngoại thuộc kim; vợ của cháu họ, vợ của cháu ngoại, cháu ngoại gái thuộc mộc (trên đây là họ hàng bên ngoại).

Ông ngoại thuộc mộc -------------------------------------- Bà ngoại thuộc thổ
Cậu, cha vợ, dượng thuộc hỏa -------------------------- Mợ, mẹ vợ, cô thuộc kim
Anh em họ, chồng của chị em họ thuộc thổ --------- Vợ của anh em họ thuộc thủy, chị em họ thuộc thủy
Cháu họ thuộc kim ----------------------------------------- Cháu dâu thuộc mộc

Trên đây là họ hàng bên ngoại của Thế thuộc thổ

Thế thuộc mộc hào
Cao tổ thuộc hỏa, tằng tổ thuộc thổ, tổ thuộc kim, bá tổ thúc tổ thuộc
kim, cao tổ tỷ kim, tằng tổ tỷ mộc, tổ tỷ mộc, bá thúc tổ mẫu thuộc mộc, bá thúc đường bá thúc thuộc thủy, phụ thuộc thủy, huynh đệ đường huynh đệ thuộc mộc, tử chất hỏa, mỗ thẩm đường mỗ thẩm thuộc hỏa, mẫu thuộc hỏa, thê tẩu đệ phụ thư muội thổ, thiếp thuộc thủy, tức chất phụ nữ thuộc kim, tôn thuộc thổ, tôn nữ tôn tức thuộc thủy, tằng tôn kim( dĩ thượng nội thân)

Cao tổ thuộc hoả ------------- Bà cao tổ thuộc kim
Ông cố thuộc thổ ------------- Bà cố thuộc thuỷ
Ông nội thuộc kim ----------- Bà nội thuộc mộc
Cha thuộc thuỷ --------------- Mẹ thuộc hoả
Thế thuộc mộc -------------- Vợ thuộc thổ -------------------------------- Vợ bé thuộc thuỷ
Con thuộc hoả --------------- Con dâu thuộc kim
Cháu nội thuộc thổ ---------- Cháu dâu, cháu ngoại thuộc thuỷ
Chắt thuộc kim

Trên đây là họ hàng bên nội của Thế thuộc mộc

Ngoại tổ thuộc kim, mẫu cữu nhạc phụ cô phu thuộc thủy, biểu huynh nội đệ thư
muội phu thuộc mộc, ngoại tổ tỷ mộc, cữu mẫu nhạc mẫu cô nương thuộc hỏa, biểu tẩu thê di biểu thư muội thuộc thổ, biểu chất ngoại sanh thuộc kim, biểu chất phụ sanh nữ sanh tức thuộc mộc( dĩ thượng ngoại thân)

Ông ngoại thuộc kim ---------------------------------------- Bà ngoại thuộc mộc
Cậu, cha vợ, dượng thuộc thuỷ -------------------------- Mợ, mẹ vợ, cô thuộc hoả
Anh em họ, chồng của chị em họ thuộc mộc --------- Vợ của anh em họ thuộc thổ, chị em họ thuộc thổ
Cháu họ thuộc hoả ------------------------------------------ Cháu dâu thuộc kim

Trên đây là họ hàng bên ngoại của Thế thuộc mộc


Thế thuộc thủy hào
Cao tổ thuộc mộc, tằng tổ thuộc hỏa, tổ thuộc thổ, bá tổ thúc tổ thuộc thổ, cao tổ tỷ thổ, tằng tổ tỷ kim, tổ tỷ thổ, bá thúc tổ mẫu thuộc thủy, bá thúc đường bá thúc thuộc kim, phụ thuộc kim, huynh đệ đường huynh đệ thuộc thủy, tử chất mộc, mẫu thẩm đường mỗ thẩm thuộc mộc, mẫu thuộc mộc, thê thư muội tẩu đệ phụ hỏa, thiếp thuộc kim, tức điệt phụ nữ thuộc thổ, tôn thuộc hỏa, tôn nữ tôn tức kim, tằng tôn thuộc thổ (dĩ thượng nội thân)

Cao tổ thuộc mộc ------------- Bà cao tổ thuộc thổ
Ông cố thuộc hoả ------------- Bà cố thuộc kim
Ông nội thuộc thổ ------------- Bà nội thuộc thuỷ
Cha thuộc kim ----------------- Mẹ thuộc mộc
Thế thuộc thuỷ -------------- Vợ thuộc hoả -------------------------------- Vợ bé thuộc kim
Con thuộc mộc --------------- Con dâu thuộc thổ
Cháu nội thuộc hoả --------- Cháu dâu, cháu ngoại thuộc kim
Chắt thuộc thổ

Trên đây là họ hàng bên nội của Thế thuộc thuỷ

Ngoại tổ thuộc thổ, mẫu cữu nhạc phụ cô phu thuộc kim, nội huynh biểu đệ thư
muội phu thuộc thủy, ngoại tổ mẫu thủy, cữu mẫu nhạc mẫu cô nương thuộc mộc, biểu tẩu thê di biểu thư muội thuộc hỏa, biểu chất ngoại sanh thuộc mộc, biểu chất phụ sanh nữ sanh tức thuộc thổ (dĩ thượng ngoại thân)

Ông ngoại thuộc thổ---------------------------------------- Bà ngoại thuộc thuỷ
Cậu, cha vợ, dượng thuộc kim ------------------------- Mợ, mẹ vợ, cô thuộc mộc
Anh em họ, chồng của chị em họ thuộc thuỷ ------- Vợ của anh em họ thuộc hoả, chị em họ thuộc hoả
Cháu họ thuộc mộc ---------------------------------------- Cháu dâu thuộc thổ

Trên đây là họ hàng bên ngoại của Thế thuộc thuỷ

Thế thuộc kim hào
Cao tổ thuộc thủy, tằng tổ thuộc mộc, tổ thuộc hỏa, bá tổ thúc tổ thuộc hỏa, cao tổ tỷ hỏa, tằng tổ tỷ thổ, tổ tỷ kim, bá thúc tổ mẫu thuộc kim, bá thúc đường bá thúc thuộc thổ, phụ thuộc thổ, huynh đệ đường huynh đệ thuộc kim, tử chất mộc, mỗ thẩm đường mỗ thẩm thuộc thủy, mẫu thuộc thủy, thê tẩu đệ phụ thư muội mộc, thiếp thuộc thổ, nữ tức chất phụ hỏa, tôn thuộc mộc,tôn nữ tôn tức thuộc thổ, tằng tôn thuộc hỏa (dĩ thượng nội thân)

Cao tổ thuộc thuỷ------------- Bà cao tổ thuộc hoả
Ông cố thuộc mộc ----------- Bà cố thuộc thổ
Ông nội thuộc hoả ----------- Bà nội thuộc kim
Cha thuộc thổ ----------------- Mẹ thuộc thuỷ
Thế thuộc kim --------------- Vợ thuộc mộc-------------------------------- Vợ bé thuộc thổ
Con thuộc thuỷ --------------- Con dâu thuộc hoả
Cháu nội thuộc mộc --------- Cháu dâu, cháu ngoại thuộc thổ
Chắt thuộc hoả

Trên đây là họ hàng bên nội của Thế thuộc kim

Ngoại tổ thuộc hỏa, mẫu cữu nhạc mẫu cô phu chúc thổ, biểu đệ nội huynh thư
muội phu thuộc kim, ngoại tổ tỷ kim, cữu mẫu nhạc mẫu cô nương thuộc thủy, biểu tẩu thê di biểu tả muội thuộc mộc, biểu ngoại chất sanh thuộc thủy, sanh nữ sanh tức biểu chất phụ hỏa (dĩ thượng ngoại thân)

Ông ngoại thuộc hoả---------------------------------------- Bà ngoại thuộc kim
Cậu, cha vợ, dượng thuộc thổ --------------------------- Mợ, mẹ vợ, cô thuộc thuỷ
Anh em họ, chồng của chị em họ thuộc kim --------- Vợ của anh em họ thuộc mộc, chị em họ thuộc mộc
Cháu họ thuộc thuỷ ----------------------------------------- Cháu dâu thuộc hoả

Trên đây là họ hàng bên ngoại của Thế thuộc kim

Thế thuộc hỏa hào
Cao tổ thuộc thổ, tằng tổ thuộc kim, tổ thuộc thủy, bá tổ thúc tổ thuộc thủy, cao tổ tỷ thủy, tằng tổ tỷ mộc, tổ tỷ hỏa, bá thúc tổ mẫu thuộc hỏa, bá thúc đường bá thúc thuộc mộc, phụ thuộc mộc, huynh đệ đường huynh đệ thuộc hỏa, tử chất thổ, mỗ thẩm đường mỗ thẩm thuộc thổ, mẫu thuộc thổ, thê tẩu đệ phụ thư muội kim, thiếp thuộc mộc, nữ tức chất phụ thủy, tôn thuộc kim, tôn nữ tôn tức thuộc mộc, tằng tôn thuộc thủy (dĩ thượng nội thân)

Cao tổ thuộc thổ------------- Bà cao tổ thuộc thuỷ
Ông cố thuộc kim ----------- Bà cố thuộc mộc
Ông nội thuộc thuỷ --------- Bà nội thuộc hoả
Cha thuộc mộc -------------- Mẹ thuộc thổ
Thế thuộc hoả ------------- Vợ thuộc kim-------------------------------- Vợ bé thuộc mộc
Con thuộc thổ -------------- Con dâu thuộc thuỷ
Cháu nội thuộc kim-------- Cháu dâu, cháu ngoại thuộc mộc
Chắt thuộc thuỷ

Trên đây là họ hàng bên nội của Thế thuộc hoả

Ngoại tổ thuộc thủy, mẫu cữu nhạc phụ cô phu thuộc mộc, nội huynh biểu đệ thư muội phu thuộc hỏa, ngoại tổ mẫu hỏa, cữu mẫu nhạc mẫu cô nương thuộc thổ,biểu tẩu biểu đệ phụ thê di thuộc kim, biểu chất ngoại sanh thuộc thổ, sanh tức sanh nữ biểu chất phụ thuộc thủy (dĩ thượng ngoại thân)

Ông ngoại thuộc thuỷ----------------------------------------- Bà ngoại thuộc hoả
Cậu, cha vợ, dượng thuộc mộc --------------------------- Mợ, mẹ vợ, cô thuộc thổ
Anh em họ, chồng của chị em họ thuộc hoả ---------.- Vợ của anh em họ thuộc kim, chị em họ thuộc kim
Cháu họ thuộc thổ -------------------------------------------- Cháu dâu thuộc thuỷ

Trên đây là họ hàng bên ngoại của Thế thuộc hoả


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

Thanked by 1 Member:

#27 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 09:24

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm - Lục Thân (tiếp theo)

Đoán cao tằng tổ

Cao tổ theo vị trí của ông cố phi xuống, ông cố theo vị trí ông nội phi xuống. Nếu như vị trí ông nội gặp tuần không, nguyệt phá, thì xem tằng tổ phân cung. Ông nội xem hào quan quỷ của quẻ nội cung gốc. Nếu như quẻ nội không có hào quan quỷ xuất hiện, thì xem phục thần của quẻ nội. Nếu như không hiên, lại cũng phông có phục thần, lấy dưới hào phụ một vị khởi số mà bay, thì xác định vị trí bay. Lại xem hào nào đới cát sanh vượng thì biết tổ đó bắt đầu sự nghiệp. Xem tổ nào tới sanh hợp thế thân, thì biết thừa hưởng cơ nghiệp từ tổ đó. Nếu như hào tổ nào suy, không vong, kèm theo các sát phá toái, nhị hao, bạo bại, thì biết tổ nghiệp trôi giạt, lưu lạc, tất mình phải tự thành tự lập. Tổ tông giàu nghèo sang hèn sẽ xem rõ ở phần sau, cho nên không chép lại ở đây.

Lại xem con cháu của tổ nào, gặp hình hại khắc xung, kèm theo các sát phá toái, nhị hao, bạo bại, liền biết nhánh con cháu tổ đó phá bại sự nghiệp gia đình. Nếu như hào tử tôn kèm theo lộc mã, quan quỷ đức hợp, vượng tướng có thể ra làm quan, liền biết nhánh con cháu đó phát đạt. Nếu như gặp không vong, mộ, tuyệt và kèm theo bạch hổ, hình nhận, lại bị tứ trực hay hào dộng khắc phá thì biết nhánh này đứt tuyệt vậy. Nhưng gặp suy bại phá hao không thấy tài lộc, gặp huynh đệ hay phục huynh đệ thì không đứt tuyệt mà là nghèo vậy. Nhiên Tê Tập nói hào quỷ ở cung gốc không vong thì không có tổ nghiệp, hào quỷ vượng hào phụ suy đời tổ thịnh vượng đến đời cha lụn bại.Còn hào quỷ suy hào phụ vượng thì đời tổ lụn bại đến đời cha hưng thịnh. Hào quỷ ở quẻ ngoại gặp sát, tổ mất ở quận khác. Hào quỷ gặp phải ngũ lục sát [sát ở hào năm, hào sáu] mộ (đinh mùi mậu tuất), mất và chôn cất ở đất khách.

Đoạn vong tổ hành vị đệ kỷ vật cố hà niên (Đoán thứ hạng của tổ đã mất và năm mất)

Lấy hào quan quỷ của cung gốc làm dụng thần.

Như năm canh dần, gieo được quẻ "hỏa phong đỉnh", kỷ hợi quỷ cung gốc phục dưới hào ba dậu kim (không hiện thì xem phục quỷ). Kỷ hợi đếm ngược đến bổn tuần giáp ngọ, chính là sáu vị trí. Lại theo năm canh dần, đếm ngược đến kỷ hợi liền biết tổ đó đã mất năm mươi năm rồi vậy. (Trích từ "Viên Khách Sư Chiêm Nghiệm Nhật Lục").

Đoán phụ mẫu

Xem hào phụ mẫu xuất hiện ở quẻ nội, không bàn đến quẻ ngoại. Nếu không có, xem phục thần. Nếu hào vượng tĩnh mà không bị nhị truyền hay hào động hình hại xung khắc, với hào suy tĩnh mà gặp tam truyền (tuế nguyệt nhật), hào động sanh hợp, thì cả hai đều có tuổi thọ cao. Lấy hào tĩnh mà không cần luận âm dương hay thật giả, nếu gặp tử mộ tuyệt thai, tuần không, tử khí, bị tam truyền hào động hình hại khắc xung, nhất quyết chủ có mất mát.

Lại thêm hào tài trì thế động, hoặc hào tài độc phát, hoặc quẻ có hào tài, không có hào phụ, đều chủ tuổi trẻ bị thương khắc, nếu không cũng chủ rời bỏ quê cha đất tổ hoặc phải quá phòng [vào nhà khác ý là làm con nuôi]. Nếu như hào tài ở bên cạnh động, hoặc trì thế mà không động, mà hào phụ mẫu không vong, tuyệt, chỉ chủ cha con không hòa hợp vậy.

Nếu hỏi cha mẹ ai là người mất trước, phải lấy thật giả mà luận, dương cung, dương hào là cha ruột, dương cung âm hào là cha kế. Âm cung âm hào là mẹ ruột, âm cung dương hào là mẹ kế. Hào bên cạnh kèm theo thiên sát, họp cùng hổ hình, động thương tổn chân dương hào là mất cha. Kèm theo địa sát họp cùng hổ hình động thương tổn chân âm hào là mất mẹ. Chân dương hào kèm theo thiên sát động, mất cha. Chân âm hào kèm theo địa sát động mất mẹ. (Cha mẹ kế sống chết phỏng theo đó mà đoán).

Thiên Cương nói: nếu hào động tới xung hợp thì đoán ngược lại. Âm động thương tổn dương, dương động thương tổn âm, hợp dương thương tổn mẹ, hợp âm thương tổn cha.

Khách sư nói: nghĩa là gì?

Thiên Cương nói: đây không phải là điều ông biết. Nếu như cung gốc hào phụ mẫu không xuất hiện, tức là chọn phục thần quẻ nội, nếu cũng không có phục thần, thì chọn sanh hào thế làm cha, hào bị cha khắc là mẹ. Thuận theo dưới hào thế một vị trí, phân chia số phi nhất thủy, nhị hỏa, tam mộc, tứ kim, ngũ thổ, cũng phân biệt âm dương thật giả mà đoán. Như phương pháp trước, hễ phi hào phụ mẫu vào đất tài, kèm theo tử mộ tuyệt thai, bị tam truyền với thế hào hình khắc đều là đã mất. Xem ở trong hạn nào, cùng xem hào hình khắc, là địa chi nào, tức là biết trong hạn nào hay năm nào mất vậy. Như hạn tý hình mão, tý khắc tỵ ngọ, tức là biết trong hạn mão năm tý hình khắc vậy (lục thân phỏng theo đó). Nếu hào phụ mẫu trì quỷ, phục quỷ, hóa quỷ, với nhật nguyệt đại sát dương nhận hợp, suy thì bệnh tật, vượng sẽ mất mạng. Hoặc hào phụ mẫu không vong, hoặc bị hình hại khắc xung, gặp nguyệt nhật hội hợp huynh quỷ động tới hợp trụ, chủ mang tật triền miên. Có thêm cô quả sát động tới sanh hợp, chủ sống một thân một mình khổ sở kéo dài. Như thái tuế động tới xung hình, trong năm đó có tai họa, hoạn nạn. Nguyệt tướng động tới xung hình gặp tai họa, hoạn nạn trong tháng đó, gặp được long phúc động tới giải cứu, có thể tránh được tai họa lớn. Nói chung cha mẹ giàu sang, nghèo hèn kèm theo tật bệnh họa phúc đều giống với cách đoán của hào thế.

"Tiền Tri Tập" luận cha mẹ kế nói: dương phụ nhiều cha dượng thành gia. Âm phụ nhiều, mẹ kế trông coi sinh kế. Phụ hóa phụ, mẫu hóa mẫu sanh hợp hào thế ở quẻ nội cung gốc, bác, chú, bác gái, thím thừa kế vậy. Ở quẻ ngoại cung gốc, dượng, cậu dì chú họ thừa kế. Phụ mẫu hóa quỷ sanh hợp hào thế, bậc tổ tiên thừa kế. Phụ mẫu hóa huynh sanh hợp hào thế, chị dâu chị em họ thừa kế. Phụ mẫu hóa phúc sanh hợp hào thế, tăng ni thừa kế vậy. Phụ mẫu hóa tài sanh hợp hào thế, ứng thừa kế sản nghiệp của nhà tuyệt tự. Họ hàng bên nội, họ hàng bên ngoại đều lấy theo quẻ nội hay quẻ ngoại cung gốc, phân biệt thân sơ lớn nhỏ mà đoán. Nếu quẻ nội cung khác, phụ mẫu hóa ra lục thân tới sanh hợp hào thế, làng xóm thừa kế. Quẻ ngoại cung khác, phụ mẫu hóa ra lục thân tới sanh hợp hào thế, người ở phương xa thừa kế. Lấy quẻ biến để xác định ở phương nào, lấy thần sát mà phân biệt sang hèn giàu nghèo vậy.

Lại nói thêm: tử phục dưới hào phụ thì tuyệt tự. Nếu không thì cũng phải rời bỏ quê cha đất tổ, vào nhà khác làm con nuôi, hay đi ở rễ. Tài phục dưới hào phụ hội hợp cùng huyền vũ, hàm trì chắc chắn cha có vợ lẽ yêu chiều vậy. Phục thần sanh phi thần thì tốt; còn phi thần sanh phục thần thì hung xấu (đây là bàn luận phi cung).

"Quỷ Cốc Bách Vấn Thiên" nói: người có bao nhiêu mẹ, xem hào âm phụ mẫu ở hào nội cung gốc, ở quẻ biến, quẻ hỗ, quẻ phục, nó có bao nhiêu vị trí tức biết có bấy nhiêu. Nếu phi số, thì xem hào phụ khắc, cộng có bao nhiêu vị trí, tức biết có bấy nhiêu mẹ vậy. Như cung càn hào thổ là phụ là cha, phụ khắc là thủy, là mẫu, là mẹ. Xem cung gốc hào phi, hào phục, hào hóa, cộng tất cả có bao nhiêu hào thủy tức biết có bấy nhiêu mẹ. Thấy thủy trên năm tháng ngày giờ, là mẹ kế. Nếu hào gặp tuần không tử mộ tuyệt thai thì không phán đoán như vậy.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

Thanked by 1 Member:

#28 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 09:44

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm - Lục Thân (tiếp theo)

Đoán huynh đệ

Trước tiên xem quẻ nội có xuất hiện hào huynh đệ không, không bàn đến quẻ ngoại, nếu không thấy thì chọn hào phục, số nhiều hay ít thì lấy thủy là một, hỏa là hai, mộc là ba, kim là bốn và thổ là năm để xét. Vương tướng thì tăng lên gấp đôi, hưu thì giữ nguyên số, tù thì giảm bớt phân nửa, không vong tuyệt thì không có vậy. Hào huynh suy mà gặp xung cùng hội hợp hình khắc, chỉ bản thân mình mà thôi vậy. Hào huynh tuy vượng nhưng gặp phải hào bên cạnh, hào phục, hóa hào hình hại xung khắc tuy có mà không có tình cảm.

Quỷ trì thế động, với hào quỷ độc phát, hoặc quẻ nội có hào quỷ mà không có hào huynh, đều chủ hình khắc, không thì cũng phân ly. Nếu như hào quỷ ở bên cạnh động, hoặc trì thế mà không động, cũng chủ không hòa thuận. Lại thêm hào huynh động sanh hợp hào thế, hào thân thì nhiều ân nghĩa. Hình xung khắc hại hào thân, hào thế thì không hòa thuận.

Nếu như hào huynh đệ ở quẻ nội không hiện, cũng không phục, thì mới chọn hào ngang vai với thế làm anh em. Thuận theo hào thế mà phi số, anh thì sau thế một vị trí đi nghịch, em thì trước thế một vị trí đi thuận. Vị trí hào huynh lui một vị trí là anh kế, lui hai vị trí là anh thứ ba. Vị trí hào đệ trước một vị trí là em thứ hai, trước hai vị trí là em thứ ba, tất cả đều phân biệt âm dương thật giả mà bàn luận. Có kèm theo lộc mã đức quý thì cao quý, có thêm tài tử phúc lộc thì giàu có, có thêm mộc dục, hàm trì thì thấp hèn, kèm theo phá toái, hao bại thì nghèo, hào hưu không vong bị thương tổn thì chết, nếu hào hưu không vong bị thương tổn mà được nguyệt nhật phụ phúc động tới hợp trụ, chủ có tật bệnh lâu năm. Hào huynh trì quỷ, phục quỷ hay hóa quỷ thì tai ương bệnh tật, không vong thì không sao. Tuế động hình xung thì năm đó có tai ương. Nguyệt động hình xung thì trong tháng có tai ương. Được long phúc giải thần động tới xung khắc, thì có thể tránh được họa lớn.

Nếu hỏi anh em ai còn ai mất, cần phân biệt thật giả mà bàn luận. Hào dương ở cung dương là anh ruột, hào âm ở cung âm là em ruột. Hào âm ở cung dương là chị, hào dương ở cung âm là em gái. Hào chân dương bắt đầu là anh, sau một vị trí là anh kế, sau hai vị trí là anh thứ ba. Hào chân âm bắt đầu là em, trước một vị trí là em kế, trước hai vị là em thứ ba. Hào dương không vong anh mất, hào âm không vong em mất. Hào bên cạnh kèm theo nguyệt sát vong thần động, kiếp sát động tới hình tịnh [thôn tính] hào chân dương thì anh mất; hình tịnh hào chân âm thì em chết. Nếu hào chân dương, hào chân âm kèm theo nguyệt sát nặc hình (thìn ngọ dậu hợi), vong kiếp động cũng chủ anh em chết. Nếu như hào động tới xung tịnh thì đoán ngược lại, âm động thì thương tổn dương; dương động thì thương tổn âm. Tịnh âm thương tổn huynh; tịnh dương thì thương tổn em. Thường anh em giàu sang, nghèo hèn,mang tật bệnh, họa phúc đều đoán giống với hào thế, xem rõ ở phần sau.


Đoán huynh đệ chân giả trường ấu
- Quẻ thuần cấn, thuần khôn có hai hào huynh đệ, đều liên hệ đến cung gốc, chính là anh ruột em ruột;
- Quẻ đại tráng, quẻ kiển cũng có hai hào huynh đệ, đều không phải cung gốc, chính là anh giả em giả;
- Quẻ thái, quẻ tiệm mỗi quẻ đều có hai hào huynh đệ, chính là anh ruột mà em giả. (quẻ thái sửu thật thìn giả,quẻ tiệm thìn thật mùi giả);
- Quẻ lữ, quẻ hàm mỗi quẻ đều có hai hào huynh đệ, chính là anh giả, em ruột. (quẻ lữ ngọ giả tỵ thật, quẻ hàm thân giả dậu thật);
- Quẻ giải, mậu dần anh em, cung chấn vốn là có hào dần, chính là giả trong thật;
- Quẻ dự ất mão huynh đệ, cung chấn không có hào mão này, chính là giả trong giả;
- Lại như quẻ cấu hào thân dậu là huynh đệ, ứng hào cách đoạn thân với dậu, là anh em khác họ, anh ruột mà em giả;
- Quẻ khiêm hào thân dậu là huynh đệ, hào thế cách đoạn thân với dậu, cũng là anh em khác họ, thân không có ở cung đoài, huynh chính là giả trong giả, dậu có trong cung đoài, đệ là giả trong thật. (Các quẻ khác phỏng theo đó).
- Lại thêm nhật thần cùng huynh đệ vượng động hợp hào thế, chắc chắn có anh em kết nghĩa vậy.

Lục Đức Minh trong “Chỉ Chưởng Quyết” nói: hào huynh không phục tài, ngăn che chỗ sanh của mẹ; hào huynh động hóa tài, di đào tiếp lý [ý là thay tên đổi họ làm con nuôi nhà khác], phụ phục dưới hào huynh, tất cả cha cùng một vợ [各父共娘 các phụ công nương], hào huynh ở vị trí dưỡng, nhất định là con nuôi. Nếu hỏi anh em ai lớn ai nhỏ, thế ở hào dương huynh đệ mình là lớn; ở hào âm mình là nhỏ. Lại thêm thìn tuất sửu mùi (tứ mộ) là lớn, tý ngọ mão dậu (tứ chánh) là kế, dần thân tỵ hợi (tứ sanh) là em. Lại thêm quẻ nội cung gốc, tý dần thìn ngọ thân tuất là anh, sửu hợi dậu mùi tỵ mão là em, lại thêm hào dương là anh em, hào âm là chị em gái, chị em dâu. Quẻ ngoại cung gốc, là cô [con gái chưa chồng là cô], anh em họ; còn quẻ nội, quẻ ngoại của các cung khác là anh em bạn bè đồng xa gần.

Da Luật thị nói: nếu bói anh em sợ tam hình, vượng tướng mà gặp hình chỉ có một, hai người; trái lại hưu tù anh em ít, vượng mà có thêm vong kiếp thì từ từ chết bớt.

Bì Thai Phong nói: hào phụ sanh hợp hào huynh đệ, cha có ưu ái người này người kia. Hào mẫu xung khắc hào huynh đệ, với mẹ không hòa hợp. Thê tử quan quỷ (cha mẹ chồng), sanh hợp xung khắc cũng vậy. Vượng tướng thì nghiêm trọng, hưu tù thì giảm bớt. Lại thêm hào bị huynh khắc là chị dâu, hào bị em trai khắc là em dâu. Gặp cung vượng hay hào vượng, chắc chắn có của hồi môn nhiều mà dung mạo mỹ miều. Có thêm long hỷ đức quý, chắc chắn đầy đủ tài đức nên giúp chồng dạy con [tướng phu giáo tử 相夫教子 giúp chồng dạy con]. Nếu tại hào môn hộ động (hào ba là môn, hào bốn là hộ), chắc chắn sẽ nắm giữ cửa nhà, phụ nữ làm thay cha chồng. Nếu hào gặp suy hay không vong, nếu không phải không có vợ thì chắc là nghèo mạt.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

Thanked by 1 Member:

#29 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 10:49

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm - Lục Thân (tiếp theo)

Đoán thê thiếp

Lấy thê tài xuất hiện ở quẻ nội cung gốc làm chủ, không hiện thì xem phục thần ở quẻ nội. Nếu như không hiện, lại không có phục, thì chọn phi cung để bàn luận. Lấy hào bị thế khắc làm vợ, hào bị hào vợ khắc làm vợ lẽ. Ngoài ra tự bói lấy hào ứng làm vợ chánh, tức là lấy hào bị hào ứng khắc làm vợ bé, cũng có thể chấp nhận được.

Nếu như gặp phải cung dương hào dương vượng tướng kèm theo cát thần, thì người đó có dung mạo xinh đẹp và hành động trinh khiết, giỏi may vá nấu nướng. Gặp phải cung âm hào âm suy mộ kèm theo hình nhận vong kiếp thì người đó xấu xí, không có tài năng mà lại chết trẻ.

Nếu như huynh trì thế động, cùng với hào huynh độc phát, hoặc quẻ có hào huynh mà không cò hào tài, hoặc hào tài vô cố tự không, đều chủ khắc thê tài, không thì cũng phân ly.

Hoặc hào tài vượng tướng tự hình (tài trì thìn ngọ dậu hợi), chủ vợ chồng không hòa hợp, cuối cùng cũng gặp chia ly, do vượng nên không tử biệt vậy. Hoặc hào huynh ở bên cạnh động , cùng với trì thế mà không động và hào tài không bị không vong, cũng chủ không hòa hợp.

Hoặc hào tài động xung khắc hào thế, cùng với hào thế và hào ứng hình hại nhau, đều chủ vợ chồng không có tình cảm. Hào thế động , chồng coi thường vợ; hào ứng động vợ khinh thường chồng; hào thế, hào ứng đều động chắc chắn thường tranh đấu; hóa hào hình hại nhau cũng như vậy.

Nếu như hào tài gặp phải tử mộ tuyệt thai, có thêm hình nhận, bao gồm cả hào huynh đệ động khắc, chủ hình khắc vợ nhiều lần lắm lượt. Nếu gặp được nguyệt nhật sanh hợp, có thể tốt đẹp nhưng mang tật bệnh kéo dài.

Phi hào tài nhập vào đất huynh đệ, hoặc hào ứng trì huynh đệ động, gặp nguyệt nhật hình hại khắc phá, thì chết. Nếu đắc vượng tướng không bị thương tổn, cũng chủ vợ không hiền, ưa gây thị phi,với chị em bạn dâu không hòa thuận, hoặc không một lòng với chồng, thường ăn cắp tiền bạc, đồ vật, giấu giếm tài sản cho riêng mình, và tuồn sang nhà khác.

Hào thê tài sanh hợp hào phụ mẫu, tôn kính cha mẹ chồng. Sanh hợp hào huynh đệ chị em bạn dâu hòa mục, thân thiện. Sanh hợp tử tôn giỏi vỗ về trẻ nhỏ. Xung khắc phụ mẫu, huynh đệ, tử tôn thì trái ngược lại.

Nếu thê tài ở hào năm vị trí tôn quý, sanh hợp hào thế, chắc chắn quản lý việc nhà, phụ nữ làm việc thay cha chồng. Nếu như xung khắc hào thế kèm theo tuế nguyệt nhật phá, với nhị hao phá toái sát, chắc chắn bắt nạt chồng mình, phá hoại gia đình.

Hào thê tài kèm theo huyền vũ, hàm trì, hồng diễm sát có thêm dịch mã động chắc chắn phóng đãng tham sắc dục.

Hào thê tài nếu như hợp hào ứng hay hào bên cạnh, chắc chắn ngoại tình với người khác. Gặp tiến thần động tới sanh hợp, thì dâm dục tiếp tục không giới hạn. Gặp thối thần động tới hợp chế, chỉ là liếc mắt đưa tình, không thật sự dâm dục,hợp gặp không vong cũng như vậy. Hợp nếu gặp xung, tình cờ bị người bắt gặp, tuy dâm dục mà không bừa bãi. Nếu hào thê tài ám động, hợp hào ứng hay hào bên cạnh, đề phòng vợ bỏ trốn theo trai.

Huynh đệ hợp thê tài, anh gian dâm với em dâu. Phụ mẫu hợp thê tài, cha chồng với con dâu gian dâm với nhau. Tử tôn hợp thê tài, con trai nuôi hưởng chung chiếc gối. Phúc động hóa quỷ hợp tài, hay tài động hóa quỷ hợp phúc cũng như vậy. (Phải kèm theo hàm trì, hồng diễm sát mới nên đoán như vậy).

Hào ứng với hào thê tài, nếu như gặp phải huynh đệ, động hóa tài tới hợp hào thế, chắc chắn em vợ cùng chung tiếng nói.

"Hoàng Kim Sách" nói: hợp nhiều mà hình sát đền với thân, phụ nữ chắc chắn là kỹ nữ.

"Nhai Tuyền Trích Cẩm" nói: quý nhiều thì múa hát với váy và quạt [舞裙歌扇 vũ quần ca phiến], hợp nhiều thì bí mật ước hẹn hạn kỳ vụng trộm. (Hành vi ngoại tình xấu xa ban đầu không có ý định ghi chép lại, vì những kẻ làm điều ác trong bóng tối nghĩ rằng thần linh và con người không thể phát hiện ra, nhưng họ không biết rằng bói toán có thể vạch trần hành vi xấu xa của họ. Do đó, điều này được ghi lại một cách đặc biệt như một lời cảnh báo).

Nếu hỏi người có bao nhiêu vợ, bao nhiêu vợ lẽ, chỉ xem trong quẻ chánh, quẻ phục, quẻ biến, quẻ hỗ, có thê tài ở quẻ nội, nắm giữ cung gốc, với hào ứng trì thế, phục tài hóa tài, không hỏi vượng suy, đức hợp, có không, tức là đoán bao nhiêu vợ, bao nhiêu vợ lẽ vậy. Hào dương tý dần thìn ngọ thân tuất là vợ. Hào âm sửu hợi dậu mùi tỵ mão là vợ lẽ. Một tài một vị trí, hai tài hai vị trí, ba tài ba vị trí. Lại như quẻ nội cung gốc một tài, hào ứng lại thêm một tài, cả hai tài đều vượng, chắc chắn cả hai vợ đều quản lý sinh kế. Một không vong một vượng, sẽ tục huyền [cưới vợ khác khi vợ chết] một lần. Hai không vong một vượng thì tục huyền hai lần. Ba không vong một vượng thì tục huyền ba lần. Nếu như cả hai hào tài đều vượng, nhưng một hào tài có kèm theo hàm trì sát, sẽ là một chánh một thiên. Xem hào nào với nhật nguyệt hào thế sanh hợp, biết ngay người này được yêu chiều nắm quyền vậy.

Nếu hỏi vợ còn con gái hay là tái giá, chỉ xem trong quẻ một hào tài không thấy hào quỷ là con gái. Có thể tài quỷ tương hợp, hoặc quỷ phục dưới hào tài, đã có một đời chồng. Một hào tài mà hai hào quỷ tương hợp, hoặc quỷ phục dưới hào tài, lại thêm hóa quỷ, đã có hai đời chồng. Lại thêm quẻ có hai hào quỷ, một không một vượng, chắc là tái giá. Hai hào quỷ vượng mà nhật nguyệt hào động hình xung khắc hại hào tài, chủ ly thân và tái hôn. “Hoàng Kim Sách” nói: hào thê tài khắc hào thế, hào thân mà xung hợp hào ứng, vợ sẽ trùng hôn. Hào thế, hào ứng, hào thê tài tam hợp, nên tuyển chọn chồng chánh thức. Hào quan nhiều nhưng không phạm các hung sát, người phụ nữ tái giá. “Minh Duệ Sao Bổn” nói: đàn ông lấy hào thân sanh (chỗ hào của quái thân) làm màn treo bên giường [sàng trướng 床帐]; phụ nữ lấy hào thân khắc (chỗ hào quái thân khắc) làm phòng the [xuân khuê 春閨]. Xuân khuê mộ tuyệt không phải vợ hòa hợp; sàng trướng không vong không cưới vợ, phương pháp này hiệu nghiệm như thần. chớ truyền cho người có phẩm hạnh xấu.

Nếu hỏi về đức hạnh và ngoại hình như thế nào, hào thê tài lâm kim thì sắc trắng thuần khiết, thân gầy gò, tính tình cương quyết, mạnh mẽ; lâm mộc thì sắc xanh, thân dài, xinh đẹp đa dạng, tính tình khoan thai chậm rãi; lâm hỏa mặt hông hào, thân lùn, tính tình nóng nảy, vội vàng; lâm thổ sắc vàng, thân mập mạp, tính tình ôn hòa, làm việc chậm chạp; lâm thủy sắc tím đen, thân hoạt dộng nhanh nhẹn, tính tình hòa ái độ lượng, hào suy thì gấp, hào động thì nhiều cơ mưu quyền biến, hào xung thì không chủ tâm, hào hợp thì không tri giác. Hào thê tài trì phụ thì tuổi thọ cao, lanh lợi, quản lý nhà cửa, có khả năng làm sổ sách và tính toán, làm việc gì cũng rõ ràng. Hào thê tài trì huynh đệ thì bản chất làm hao tổn vật, tiêu hao tiền bạc, không tìm kiếm nô tỳ, hào vượng tướng phá tan nhà cửa do ham cờ bạc, chị em bạn dâu không hòa thuận. Hào thê tài trì tử tôn bản chất tốt lành, nhiều kiến thức, vượng tướng thì có khả năng trông coi nhà cửa, sanh quý tử, kèm theo châu tước thường hay tụng kinh. Hào thê tài trì tài gương mặt đẹp mỹ miều, bản chất ổn định và thuận hợp, có khả năng quản lý nhà cửa, mở cửa hàng, vượng tướng thì có lợi cho chồng, có tài sản. Hào thê tài trì quan quỷ gương mặt xấu xí, bản chất rất độc ác, vượng tướng thì hiếu sát, có kèm theo quý, có phong ấm [được ân đức che chở do vua ban phát]. Tài phục dưới hào phụ mẫu là người biết tôn trọng không cẩu thả. Tài phục dưới hào tử tôn bản chất tốt lành không làm hao tổn vật, thích trang sức. Tài phục dưới hào huynh đệ, gương mặt xấu, tham tình dục ưa cờ bạc. Tài phục dưới hào quan quỷ, bản chất hung dữ, hay đau ốm, vợ chồng rất tốt lành. Quẻ dương, hào dương, nghề khéo léo không ai sánh bằng. Quẻ âm, hào âm, xấu xí mà vụng về số một. Dương hóa nhập âm, còn nhỏ thì khéo léo mà khi lớn thì vụng về. Âm hóa nhập dương, tuổi trẻ thì xấu xí mà lớn thì đẹp. Xem kỹ ở chương tính tình dung mạo.

Nếu hỏi vợ về giàu sang hay nghèo hèn, chưa kết hôn thì đoán theo cha, đã kết hôn thì đoán theo chồng. Khi chưa kết hôn chỉ xem hào phụ mẫu của quẻ ngoại cung gốc. Nếu như quẻ ngoại hào phụ mẫu không hiện, thì xem phục hào. Nếu không hiện lại không có phục, thì lấy hào sanh hào thê làm mẹ, khắc hào của mẹ vợ làm cha vợ, đều đoán giống cha mẹ sanh của mình về phân biệt âm dương thật giả. Hào cha vợ, mẹ vợ có kèm theo lộc mã quý nhân là con gái nhà quan. Có kèm theo tài lộc đức phú sanh khí là con gái nhà giàu. Có kèm theo hàm trì, mộc dục, huyền vũ hưu tù, tử khí là con gái nhà bần tiện. Có kèm theo bạch hổ quý là con gái nhà quan chức của quân đội. Có kèm theo bạch hổ, dương nhận, kiếp sát là con gái nhà thợ thủ công trong quân đội. Có câu trận thổ vượng tướng, con gài của nhà nông. Có châu tước hoả vượng tài, con gái người môi giới, mối lái. Có huyền vũ, hồng diễm con gái nhà chứa. Có hình hại vong kiếp vô khi con gái người bần tiện. Có kim bạch hổ hình nhận chính là con gài nhà không chuyên tâm nghề nông, mà theo đuổi nghề mọn, đi buôn (vì ngày xưa trọng nghề làm ruộng mà khinh nghề đi buôn). Đằng xà gặp sanh vượng, chính là con gái người cửu lưu. Đằng xà gặp xung tịnh mộ hợp, chính là con gái nghệ nhân, lấy ngũ hành để xác định là loại nghệ thuật nào. Suy bại thì nghèo, không vong tuyệt thì tuyệt. Sanh hợp thế thì được ơn đức che chở; hình hại xung khắc thế thì bị xâm phạm hiếp đáp. Quy Tàng Dịch nói: hào thê tài gặp vị trí khắc xưng là trùng tài [nhiều tài sản], vẫn là hào kim vào chấn đến, quý sát hợp mặt nên vượng tướng, do vợ được lộc ngang với tam thai [tương tự tam công là ba chức quan lớn nhất triều đình thời cổ Trung Hoa, gồm Thái Sư 太師, Thái Phó 太傅, Thái Bảo 太保]. Như hào thê tài cung chấn có kèm theo bạch hổ, bạch hổ thuộc kim,lại khắc chấn mộc, cho nên gọi trùng tài. Lại như hào thê tài cung khôn, cung cấn có kèm theo thanh long, thanh long thuộc mộc,lại khắc khôn hay cấn thổ, cũng là trùng tài. Hào thê tài cung đoài, có kèm theo châu tước, hào tài cung ly có kèm theo huyền vũ, hào tài cung khảm có kèm theo câu trận hay đằng xà đều là trùng tài. Nếu tứ trực quý mã đức hợp, tụ tập ở cùng một hào, thêm vượng tướng ở trên hào hai hay hào năm, lại được thái tuế trợ giúp, mà không bị hình phá, chắc chắn là phò mã nghi tân [khách theo lễ nghi của rễ vua]. Nếu sau khi gã chồng, sang hèn hay giàu nghèo của người vợ thuận theo chồng, đều đoán giống với hào thế.

Nếu hỏi nhà vợ xa gần, cưới vợ muộn sớm, tuổi vợ đã lớn hay còn nhỏ chỉ hào thê tài trì thế với xuất hiện sẽ là ở gần và cưới sớm. Phục tàng không xuất hiện thì ở xa và cưới muộn. Hào thê tài với hào thế ở cùng một quẻ là con gái thân cận. Hào thê tài với hào thế bị nguyệt nhật, hào động, hào biến cách đoạn, sẽ là con gái ở ngoài quận. Như quẻ càn hào tuất là thế, hào dần là thê tài, hoặc hào thân, hay hào ngọ hay hào thìn động , hoặc nguyệt nhật cùng hào thân ngọ thìn động, đều là cách đoạn. Lấy tám quẻ để xác định đó là phương nào, lấy nhị thập bát tú để xác định đó là quận nào. Như quẻ không vong, hào không vong, thì lấy chỗ trường sanh của hào thê tài để xác định. Hễ hào thê tài ở hào hai (hào hai là hào trạch), gọi là toạ trạch, tất là nuôi dưỡng con dâu, không cũng là con gái nhà kế bên. Lại thêm hào thê tài hợp hào thế hay hào thân hay hào mệnh, chắc chắn sẽ kết hôn sớm. Cho đến hào thê tài dương hào thế âm, thì vợ lớn tuổi. Hào thế dương hào thê tài âm thì vợ còn nhỏ tuổi. Hào thê tài ở thìn tuất sửu mùi là trưởng nữ; ở tý ngọ mão dậu là trung nữ; ở dần thân tỵ hợi là thiếu nữ.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

Thanked by 1 Member:

#30 FM_daubac

    Khôn viên

  • Hội Viên TVLS
  • PipPipPipPipPipPipPipPipPipPip
  • 9192 Bài viết:
  • 6289 thanks

Gửi vào Hôm qua, 11:02

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm - Lục thân (tiếp theo)

Đoán tử tôn

Lấy hào tử tôn xuất hiện ở quẻ nội làm chủ, nếu như quẻ nội không xuất hiện, thì xem phục thần, nếu quẻ nội không xuất hiện, lại không có phục, mới xem phi cung.

Lấy hào thế sanh làm trưởng tử [con lớn], trước hào trưởng tử một hào là thứ tử [con kế], trước hào thứ tử là tam tử [con thứ ba], căn cứ theo số một thủy, hai hỏa, ba mộc, bốn kim và năm thổ mà suy xét.

Hào tử sanh là tôn [cháu nội], hào dương thường là nam; hào âm thường là nữ. Hào sanh vượng có thêm long hỷ thì tài năng và xinh đẹp hơn người. Có thêm lộc mã quý nhân đức hợp, vượng tướng đắc vị chủ có con quý trọng. Hào hưu tù có thêm hình nhận, hoang vu sát là mệnh ngu xuẩn, bướng bỉnh không nghe lời cha mẹ, không chuyên tăm lo cho đời sống, kết cuộc là kẻ phá tan nhà cửa và chết yểu. Phi cung tử tôn nhập vào nơi phụ mẫu, gặp nguyệt nhật hình xung khắc hại, chắc chắn chết.Trong quẻ hào phụ mẫu trì thế động, cùng với hào phụ mẫu độc phát, hoặc có hào phụ mẫu không có hào tử tôn, hoặc hào tử tôn không vong mộ tử tuyệt, hoặc thiên cẩu, bạch hổ tương hình khắc tịnh chủ không có con, nếu không phài thì cũng chủ là tình trạng thay tên đổi họ làm con nuôi.

Nếu như hào tử tôn gặp phải thiên cẩu bạch hổ, mà được nhật nguyệt sanh hợp, chủ có muộn nên không cô độc. Nếu tuyệt xứ không có cứu giải, kèm thêm cô quả sát, cổ bồn sát (bạch hổ), mai nhân sát (phụ mẫu động), đoán không có con đưa tiễn khi mình mất.

Nếu như hào huynh đệ kèm theo vong kiếp động tới hình tịnh, gọi là có con mà không đưa tiễn lúc mình mất.

Nếu như được quý nhân lộc mã cùng một nơi, vượng thì hung sát không dám xâm phạm, chủ có con quý. Hào tử tôn gặp quý nhân lộc mã vượng động, hóa xuất văn thư, chức vị bên ngành văn; hóa xuất tài phúc là đường lối khác; hóa xuất thiên y, thái âm, hội cùng thái tuế tương phù, chủ đang trên đường hiển quý. Phân biệt lớn nhỏ lần lượt theo thứ tự mà suy xét, liền biết đứa con nào phát đạt.

Lại thêm luận tử tôn xuất thân [lai lịch], lấy học đường làm chủ. Xem vị trí thân thuộc hào nào, lấy trường sanh làm học đường. Như hào thân thuộc hỏa, hỏa sanh ở dần thì dần là học đường.Hào thân thuộc thủy thổ, thì thân là học đường. Hào thân thuộc mộc thì hợi là học đường. Hào thân thuộc kim thì tỵ là học đường. Nếu vượng tướng không bị thương tổn, có thêm lộc mã quý đức hợp, chắc chắn học vấn uyên thâm, tài năng vượt trội thời đại.

“Xuyên Nhâm Thấu Dịch” nói: quý nhân ở sửu tên là cung khuyết [thời xưa, ở ngoài cửa cung, hai bên có lầu đài để nhìn ra xa, giữa có lối đi gọi là khuyết], dịch mã ở dần hiệu là học đường.

Lại nói thêm: dần là học đường cung gặp bính, chí lớn tài cao lộc vạn chung [đơn vị dung lượng thời xưa, bằng mười hộc 斛]. Nếu cung cấn hào bính dần gặp quý mã tụ tập ở một hào, sẽ tiến bộ phát triễn thật nhanh, như từ đất bằng lên mây.

Nếu như hào tử tôn hưu tù, lại kèm theo địa khiêu, thiên ách, vân long, suy manh, hỏa sóc năm loại sát động, sẽ mang theo bệnh tật. Hào tử tôn vượng tướng sanh hợp hào thế thì hiếu thuận; còn suy tù xung khắc hào thế thì ngỗ nghịch. Kèm theo quý mã đức hợp cát thần, sanh hợp hào thế, không chỉ là nhân từ và hiếu thảo, mà còn được vua ban thưởng cho con trai. Kèm theo bạch hổ, dương nhận, vong kiếp hung thần tới hình xung khắc hại hào thế, không chỉ ngỗ nghịch mà còn mất mạng mình cũng như họ hàng, phá tan tài sản gia đình.

Nếu hỏi con vợ cả hay con vợ lẽ thì lấy quẻ nội cung gốc xuất nhiện hay phục tàng hào tử tôn làm con vợ cả, lấy năm tháng ngày giờ và cung khác làm con vợ lẽ. Nếu như quẻ nội hào tử tôn không hiện cũng không phục, lại không có hào huynh đệ, chắc chắn là con vợ lẽ vậy. Lại thêm sáu hào động hoá tử tôn, chủ sanh con do ngoại tình. Phúc lâm vào hào ứng ở hào hai cung khác, chủ có con nuôi. Tử hóa tử hợp thế, chủ có con trai nuôi nối dõi.

“Quản Công Khẩu Quyết” nói: phúc lâm vào thổ an tĩnh, chỉ chủ đơn truyền, động sẽ là con nuôi [những con tò vò (quả lỏa 蜾蠃) thường bắt minh linh để ở trong tổ để làm lương ăn cho con, người xưa lầm tưởng tò vò nuôi minh linh làm con. Vì thế nên người sau gọi con nuôi là minh linh 螟蛉], , không vong sẽ là con nhận nuôi [bão dưỡng chi tử 抱养之子]. Rất hiệu nghiệm.Thông thường giàu nghèo, sang hèn, họa phúc của tử tôn đều đoán cùng với hào thế.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

Thanked by 2 Members:





Similar Topics Collapse

  Chủ Đề Name Viết bởi Thống kê Bài Cuối

3 người đang đọc chủ đề này

0 Hội viên, 2 khách, 1 Hội viên ẩn


Liên kết nhanh

 Tử Vi |  Tử Bình |  Kinh Dịch |  Quái Tượng Huyền Cơ |  Mai Hoa Dịch Số |  Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Địa Lý Phong Thủy |  Thái Ất - Lục Nhâm - Độn Giáp |  Bát Tự Hà Lạc |  Nhân Tướng Học |  Mệnh Lý Tổng Quát |  Bói Bài - Đoán Điềm - Giải Mộng - Số |  Khoa Học Huyền Bí |  Y Học Thường Thức |  Văn Hoá - Phong Tục - Tín Ngưỡng Dân Gian |  Thiên Văn - Lịch Pháp |  Tử Vi Nghiệm Lý |  TẠP CHÍ KHOA HỌC HUYỀN BÍ TRƯỚC 1975 |
 Coi Tử Vi |  Coi Tử Bình - Tứ Trụ |  Coi Bát Tự Hà Lạc |  Coi Địa Lý Phong Thủy |  Coi Quỷ Cốc Toán Mệnh |  Coi Nhân Tướng Mệnh |  Nhờ Coi Quẻ |  Nhờ Coi Ngày |
 Bảo Trợ & Hoạt Động |  Thông Báo |  Báo Tin |  Liên Lạc Ban Điều Hành |  Góp Ý |
 Ghi Danh Học |  Lớp Học Tử Vi Đẩu Số |  Lớp Học Phong Thủy & Dịch Lý |  Hội viên chia sẻ Tài Liệu - Sách Vở |  Sách Dịch Lý |  Sách Tử Vi |  Sách Tướng Học |  Sách Phong Thuỷ |  Sách Tam Thức |  Sách Tử Bình - Bát Tự |  Sách Huyền Thuật |
 Linh Tinh |  Gặp Gỡ - Giao Lưu |  Giải Trí |  Vườn Thơ |  Vài Dòng Tản Mạn... |  Nguồn Sống Tươi Đẹp |  Trưng bày - Giới thiệu |  

Trình ứng dụng hỗ trợ:   An Sao Tử Vi  An Sao Tử Vi - Lấy Lá Số Tử Vi |   Quỷ Cốc Toán Mệnh  Quỷ Cốc Toán Mệnh |   Tử Bình Tứ Trụ  Tử Bình Tứ Trụ - Lá số tử bình & Luận giải cơ bản |   Quẻ Mai Hoa Dịch Số  Quẻ Mai Hoa Dịch Số |   Bát Tự Hà Lạc  Bát Tự Hà Lạc |   Thái Ât Thần Số  Thái Ât Thần Số |   Căn Duyên Tiền Định  Căn Duyên Tiền Định |   Cao Ly Đầu Hình  Cao Ly Đầu Hình |   Âm Lịch  Âm Lịch |   Xem Ngày  Xem Ngày |   Lịch Vạn Niên  Lịch Vạn Niên |   So Tuổi Vợ Chồng  So Tuổi Vợ Chồng |   Bát Trạch  Bát Trạch |