Tổng Bí thư Tô Lâm gửi Thư thăm hỏi, động viên đồng bào, cán bộ, chiến sỹ đang ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai
29/10/2025 16:00
(Chinhphu.vn) - Ngày 29/10, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có Thư thăm hỏi, động viên đồng bào, cán bộ, chiến sỹ trên cả nước đang ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai trong những ngày vừa qua. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu nội dung Thư thăm hỏi của Tổng Bí thư.
" Thưa đồng bào, cán bộ, chiến sỹ trên cả nước!
Những ngày vừa qua, nhiều địa phương của chúng ta liên tiếp hứng chịu mưa lớn kéo dài, lũ dâng nhanh, sạt lở đất, ngập sâu, chia cắt giao thông, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Ở nhiều nơi, bà con phải sơ tán khẩn cấp trong đêm, nhà cửa bị cuốn trôi, sinh kế bị gián đoạn, đời sống bị đảo lộn. Đặc biệt nghiêm trọng là các tỉnh miền Trung từ Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi, nơi mưa lũ và sạt lở đang diễn biến hết sức phức tạp, tiếp tục đe dọa an toàn của nhân dân.
Trong lúc đang công tác ở nước ngoài, tôi luôn dõi theo tình hình với nỗi lo lắng và day dứt. Tôi gửi tới toàn thể đồng bào bị ảnh hưởng bởi thiên tai trong những ngày qua lời thăm hỏi ân cần và chia sẻ sâu sắc nhất. Tôi gửi lời chia buồn tới các gia đình có người thân không may thiệt mạng trong mưa lũ, sạt lở; lời động viên chân tình tới những người đang bị thương, còn đang bị cô lập, còn đang gồng mình chống chọi thiếu điện, thiếu nước sạch, thiếu nơi ở an toàn.
Tôi đánh giá cao và trân trọng tinh thần trách nhiệm, sự kịp thời, tận tụy và dũng cảm của cấp ủy, chính quyền các địa phương, nhất là các chính quyền cơ sở; của các lực lượng công an, quân đội, y tế, thanh niên xung kích; của các lực lượng cứu hộ cứu nạn, các đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và người dân. Nhiều cán bộ, chiến sỹ và người dân đã không quản hiểm nguy để sơ tán bà con, mang lương thực, áo ấm, thuốc men vào từng điểm ngập sâu, từng khu vực bị chia cắt. Đó là nghĩa tình đồng bào, là truyền thống "nhường cơm sẻ áo", là sức mạnh làm nên bản lĩnh Việt Nam.
Tôi yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể ở tất cả các địa phương bị thiên tai - đặc biệt là các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi - tiếp tục tập trung cao nhất cho nhiệm vụ cấp bách trước mắt: cứu dân, bảo vệ tính mạng người dân là trên hết, trước hết. Phải rà soát, cảnh báo và di dời ngay các hộ ở vùng có nguy cơ lũ quét, sạt lở; tuyệt đối không để bất cứ người dân nào bị đói, rét, bị cô lập mà không có hỗ trợ kịp thời. Cần bảo đảm chỗ ở tạm an toàn, nước sạch, thuốc men, chăm sóc đặc biệt cho người già, trẻ em, phụ nữ mang thai và các nhóm dễ bị tổn thương.
Tôi đề nghị các lực lượng tại chỗ khẩn trương khắc phục bước đầu hạ tầng thiết yếu: giao thông, điện, thông tin liên lạc; kịp thời thống kê thiệt hại, chủ động hỗ trợ trước cho người dân khó khăn nhất; ưu tiên khôi phục trường học, trạm y tế, các công trình dân sinh cấp thiết để bà con sớm trở lại đời sống bình thường. Các bộ, ban, ngành Trung ương phải trực tiếp xuống địa bàn, nắm chắc tình hình, xử lý cụ thể từng việc, không hình thức, không để khoảng trống trách nhiệm. Mọi sự hỗ trợ phải đến đúng người, đúng nhu cầu, đúng thời điểm.
Thưa đồng bào, cán bộ, chiến sỹ trên cả nước!
Thiên tai còn có thể còn diễn biến phức tạp. Nhưng trong gian khó, chúng ta càng thấy rõ tình nghĩa dân tộc, càng hiểu sức mạnh của sự đoàn kết, của tình người Việt Nam. Tôi đặt trọn niềm tin rằng với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và với tinh thần kiên cường, nhân ái của nhân dân ta, đồng bào ở các vùng bị thiên tai sẽ đứng dậy, ổn định cuộc sống và khôi phục sản xuất trong thời gian sớm nhất.
Thân ái gửi tới đồng bào, cán bộ, chiến sỹ ở tất cả các vùng đang chịu ảnh hưởng của mưa lũ, sạt lở trong những ngày qua lời thăm hỏi chân tình và niềm tin son sắt. "
Các Thầy Địa Lý tài danh,
Nước Nam ta có khí lành ở đâu,
Duyệt xem, xét tỏ cho rành,
Huyệt kết, đắc địa, mau mau kiếm tìm.
Nào Huyệt phát Đế, phát Vương
Nào Huyệt khoa bảng, cùng Huyệt tài văn
Nào Huyệt võ lược tinh anh,
Tùy theo gia chủ phước lành, thời trao.
Xét xem gia tộc thế nào,
Con thời Hiếu đức, Phụ Phu nghĩa tình.
Thì lựa mà điểm Huyệt sinh,
Theo Sơn tọa hướng, nông sâu pháp truyền.
Để cho Huyệt kết tơ son,
Khí lành tụ điểm, dòng quyền giống cao.
Để cho con cháu Anh Hào,
Tái lai vào được, thuận thời Phước Duyên !
Từ trên giáng hạ bao nhiêu,
Vài năm có đủ những người Trí siêu.
Phò Vua giúp Nước, hưng Triều
Thời mau đắc vượng hùng cường Nước ta.
Thủy cường tràn ngập vào ra,
Là để tẩy uế, đả thông Long triều.
Kẻ gian kẻ ác chết nhiều,
Người lành thiện Đức chẳng lo, mạng còn.
Để cho sạch Đất Nước non,
Để cho trấn yểm không còn kìm chân.
Để cho tài lộc sáng phần,
Để cho nước Việt, muôn Dân an lành.
Bề Trên dọn dẹp thật nhanh,
Quyết vì cơ nghiệp nghìn năm muôn đời.
Quét đi xây lại hơn người,
Thay cũ đổi mới, được điều khát khao !
MỘT DÂN TỘC DỐT LÀ MỘT DÂN TỘC YẾU !
THANH NIÊN VIỆT NAM YÊU NƯỚC ĐOÀN KẾT LẠI, GẮNG CÔNG HỌC - HÀNH, XÂY DỰNG QUÊ HƯƠNG !
HỒN THIÊNG SÔNG NÚI NƯỚC NAM, LINH THIÊNG TIÊN TỔ KẾ BÊN PHÒ TRÌ!
DŨNG MÃNH TẤN TỚI !
Chê bai ấy việc dễ dàng
Không làm ngồi nói, chuyện ôi lẽ thường.
Xưa nay chí hướng muôn phương,
Quốc gia đại sự, đâu vương tới mình.
Nhưng mà ngẫm nghĩ cho tinh,
Nước mà loạn mất, Nhà mình sao yên.
Vĩ mô mà khó triền miên,
Vi mô kinh tế, biết đường nào ra ?
Tài nguyên ở chỗ Đất mà,
Lao động là ở Tay ta Trí mình.
Hai thứ kết hợp mới sinh,
Của cải, hàng hóa, đường tàu, đường bay...
Lao động thì có chân tay,
Hay là trí óc, nghĩ ngày nghĩ đêm.
Tay gạch, tay sách đặt lên,
Bên nào nặng nhẹ tự nghiền, tự suy.
Ai cũng chọn việc nhẹ vì:
Nhàn thân, lại có xe đi đò về.
Họp hành mát lạnh sướng ghê,
Ăn ngon, mặc đẹp, tiện nghi đủ đường.
Bởi thế, gắng học cho nên,
Để mà chức lớn, quyền cao về mình.
Giáo sư, Tiến sỹ thật kinh,
Nhưng làm ra Của ở mình hay ai ?
Cày sâu cuốc bẫm sớm mai,
Mặt đen cháy nắng, đường dài bỏng chân.
Lò cao nóng rát tấm thân,
Ấy người đồng áng, công nhân nhận làm.
Cho nên, chớ vội khinh ngang
Hay là coi nhẹ người làm, mà sai.
Vẽ vời, tính toán thật oai,
Mà tay không đụng thì thôi sao thành ?
Cho nên Bác dạy rõ rành:
Học - Hành hai thứ song hành mới nên.
Học từ thực tiễn trước tiên,
Là xem cho tỏ những chuyện gần, ngay.
Là tường Bất Biến Xưa Nay,
Thế rồi biến hóa, chuyển xoay ý mình.
Chớ nên học vẹt như in,
Nguồn cội sinh hóa không tường, không thông.
Nói theo người khác cho đông,
Tự lòng trống rỗng, ý không kế gì.
Vấn đề, đùn đẩy so bì
Ấy vì học giả, việc thì làm sao ?
Học thật thì nó thế nào ?
Nghe Lời, thấy Nghĩa hiện tiền chẳng sai.
Loài người từ buổi sớm mai,
Vốn là mông muội, trí thời ngu si.
Nhìn quanh chẳng rõ thứ gì,
Cho nên sợ hãi, cũng vì chẳng thông.
Ăn hang, ở lỗ, mặc lông
Săn bắt, hái lượm, tìm phương sinh tồn.
Việc gì thử thách chẳng suôn,
Thì rút kinh nghiệm, tìm đường khác đi.
Tới khi đạt được thứ gì,
Lấy đó làm Trí, làm phương cho mình.
Đời đời tiếp nối nhớ ghi
Trở thành sách vở đủ đường chất cao.
Ngàn năm Văn Hiến biết bao,
Đọc đầu sách cũng không sao hết mà !
Cho nên, sự học Dân ta;
Phải tìm đường sáng mà đi mới tường.
Học ít mà tỏ vô lường,
Ấy là nền tảng, không đường đổi thay.
Vạn năm cũng vẫn cái này,
Thì ta mới học, mới ghi vào lòng.
Dẫu cho trăm biển ngàn sông,
Học điều nền tảng, ắt thông vạn đường.
Vấn đề nào mới sinh thêm,
Đều từ nền ấy, chẳng ngoài được đâu !
Vậy Nền ấy nó là đâu ?
Bách môn trăm nghệ, dò đâu để tìm ?
Dò từ Đời sống mà nên,
Dò từ Thực tế, chớ dò mực đen.
Vật có Mắt mới ngó nghiêng,
Hình thời mới tả, Ý thời mới sinh.
Ngữ ngôn theo đó tường minh,
Tùy Hình định Vật, mượn Danh tả Người.
Nay muốn học một biết mười,
Chớ học theo lối Văn xuôi, chữ nhiều.
Như lời người dạy mỹ miều:
"Tiền làm không được, nhớ nhiều ích chi ?!"
Vậy Tiền là cái chi chi ?
Mà sao quan trong thế nhì người ơi ?
Là Vật thêm Sức đổi dời,
Như cây thành ghế, như dây thành đàn;
Như vàng sáng loáng thế gian,
Đều Vật thêm Sức thành Hàng giao thương.
Trao qua đổi lại muôn phương,
Cầm theo bất tiện, nhiễu phiền khó khăn.
Cho nên, Tiền mới hình thành,
Lấy Hàng nào "chuẩn" thì Tiền thế chân.
Cứ thế quy lại từ đầu,
Hết thảy đều dùng Hàng "chuẩn" tính theo.
Thế nên, Tiền mà in nhiều;
Hàng kia không có, ấy liền loạn ngay.
Sản xuất - Hàng hóa - Tiêu dùng,
Tiền là cầu nối, ấy dùng giao thương.
Sản xuất mà yếu trăm đường,
Thì Hàng đâu có mà tiêu mà dùng.
Kinh tế làm sao trấn hưng ?
Nước ta cách mấy Hùng Cường được đây ?
Cho nên, Học để Hành ngay,
Là đi lao động, tạo ngay thành Hàng.
HỌC MÀ KHÔNG HÀNH, HỌC THÀNH VÔ DỤNG !
TĂNG GIA SẢN XUẤT,
HÀNG NHIỀU, "CHẤT" CAO !
KINH TẾ HỌC ĐƯỜNG,
VƯỜN TRƯỜNG XANH TỐT !
Có duyên đã gặp thì ta đãi lòng Ba mầu đến độ suy vong Khỉ về Gà gáy, vầng hồng nổi lên Cúc vàng rót chén rượu tiên Uống mà xem lũ đảo điên luân thường Mèo lùi Cáo nắm kỷ cương Tương tàn cốt nhục nhiễu nhương lạ kỳ Nhân gian mấy độ hợp ly Đồng hoang nhuộm máu kinh kỳ tả tơi Quỉ Ma giao chiến khắp nơi Quỉ ở trên trời, Ma ở dưới hang Cỏ cây non nước điêu tàn Quỉ nọ ra hàng, Ma ấy mới thôi Vẩy Rồng tạm tách làm đôi Bóng câu in dấu muôn đời nhuốc nhơ Kể từ đôi ngũ nằm chờ Thầy Tu mở nước bấy giờ mới hay Chẳng qua cũng giống Quỉ Tây Ma tàn Quỉ hết đến ngày Long-Hoa Khỉ về Gà gáy oa oa Khắp nơi lại dấy can qua kinh trời Quỉ Ma đến lúc đi đời Phụ Nguyên Trời đã định ngôi sẵn sàng Chó mừng tân chủ rõ ràng Bốn phương tấp nập lên đàng hồi hương Long Hoa muôn thuở biên cương Việt Thường con cháu Tiên Rồng vẻ vang. "
<Tại đền Ngọc Sơn, Hà Nội, 1938 >
Mẫu Liễu Hạnh (母柳杏), Mẫu Thượng Thiên (母上天) hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ, bà được gọi ngắn gọn là Mẫu Liễu.
Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng Đế với mẫu thiên hậu, 3 lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của muôn dân", "Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại Vương" và cuối cùng quy y cửa Phật theo lối bán tu rồi thành đạo là Mã Vàng Bồ Tát (鎷鐄菩薩).
Bà chính là vị Thánh Mẫu đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ bà.
Truyền thuyết
Căn cứ vào Tiên Phả Dịch Lục, Quảng Cung Linh Từ Phả Ký, Quảng Cung Linh Từ Bi Ký và Cát Thiên Tam Thế Thực Lục hiện đang lưu giữ ở địa phương do Ban quản lý Di tích – danh thắng của tỉnh Nam Định sưu tầm và một số tài liệu trong Hội đồng khoa học lịch sử Nam Định thẩm định thân thế và sự tích bà Liễu Hạnh như sau:
Lần giáng trần đầu tiên
Vào đầu thời nhà Hậu Lê, tại thôn Quảng Nạp, xã Vỉ Nhuế, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, trấn Sơn Nam, có ông Phạm Huyền Viên, người xã La Ngạn kết duyên cùng bà Đoàn Thị Hằng, người ấp Nhuế Duệ, cũng xã Vỉ Nhuế (nay là thôn Vỉ Nhuế, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).
Hai ông bà là những người hiền lành, tu nhân tích đức nhưng hiềm một nỗi đã ngoài 40 mà chưa có con. Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai là Công chúa Hồng Liên đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu 1433, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.
Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình.
Ngày 10 tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1462), cha của nàng qua đời. Hai năm sau mẹ của nàng cũng về nơi tiên cảnh. Phạm Tiên Nga đã làm lễ an táng cha mẹ ở phía đông nam phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn La Ngạn, ở đây có đền thờ cha và mẹ của Phạm Tiên Nga).
Sau ba năm để tang cha mẹ, lo mồ yên mả đẹp, Phạm Tiên Nga bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện (lúc này Tiên Nga vừa tròn 35 tuổi).
Bà đã ủng hộ tiền của và công sức giúp dân đắp đê ngăn nước Đại Hà từ bên kia phía núi Tiên Sơn (nay là núi Gôi) đến Tịch Nhi (nay chính là đường đê Ba Sát, nối Quốc lộ 10 chạy dọc xã đến ngã ba Vọng. Đây cũng chính là con đường nối di tích Phủ Dầy với Phủ Quảng Cung).
Cùng với việc đắp đê, bà còn cho làm 15 cây cầu đá, khơi ngòi dẫn nước tưới tiêu, khai khẩn đất ven sông, giúp tiền bạc cho người nghèo, chữa bệnh cho người ốm, sửa đền chùa, cấp lương bổng cho các vị hương sư, khuyên họ cố sức dạy dỗ con em nhà nghèo được học hành.
Năm 36 tuổi, bà đến bờ Sông Đồi dựng một ngôi chùa trên mảnh vườn nhỏ, đặt tên là Chùa Kim Thoa. Bên trên thờ đức Nam Hải Quan Thế Âm Bồ Tát, bên dưới thờ cha và mẹ.
Sau đó hai năm, bà tới tu sửa chùa Sơn Trường - Ý Yên, Nam Định, chùa Long Sơn - Duy Tiên, Hà Nam, chùa Thiện Thành ở Đồn Xá, Bình Lục, Hà Nam. Tại chùa Đồn Xá, bà còn chiêu dân phiêu tán, lập ra làng xã, dạy dân trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải.
Tháng Giêng năm Nhâm Thìn (1472), bà trở lại chùa Kim Thoa, và tháng 9 năm ấy bà trở về quê cũ cùng các anh chị con ông bác tu sửa đền thờ Tổ họ Phạm khang trang bề thế (nay còn đền thờ ở phía nam xóm Đình thôn La Ngạn). Sau đó bà lại đi chu du ở trong hạt, khuyên răn bà con dân làng những điều phải trái.
Rồi trong đêm ngày 2 tháng 3 năm Quý Tỵ, thời Hồng Đức (1473), trời nổi cơn giông, gió cuốn, mây bay, bà đã hóa thần về trời. Năm đó bà vừa tròn 40 tuổi.
Ngay sau khi bà mất, nhân dân xã La Ngạn, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng đã lập đền thờ trên nền nhà cũ, gọi là Phủ Đại La Tiên Từ. Đồng thời quê mẹ của bà là xã Vỉ Nhuế cũng lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của bà, gọi là Phủ Quảng Cung.
Lần giáng sinh thứ hai
Vì thương nhớ cha mẹ và quê hương ở cõi trần mà đến thời Lê Thiên Hựu, năm Đinh Tỵ (1557), Mẫu lại giáng sinh lần thứ hai làm con ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc thuộc dòng họ Trần Lê tại Giáp Nhất thôn An Thái, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ (nay là Xóm 1, thôn Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định, cách quê cũ Vỉ Nhuế chừng 7 km). Do ông Lê Thái Công nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng mà ông mơ trước đó nên đặt tên cho con là Lê Giáng Tiên.
Lần này, bà kết duyên với ông Trần Đào Lang (người cùng làng tại Giáp Nhị, Vân Đình, nay là xóm 2 (xóm Đình ) thôn Tiên Hương) sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hòa. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào đúng ngày, bà mất ngày 3 tháng 3 năm Đinh Sửu, thời Lê Gia Thái thứ 5 (1577). Năm ấy, Bà mới 21 tuổi, tuyệt nhiên không bệnh tật gì. Lăng mộ và đền thờ ở Phủ Dày, thôn Vân Cát, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, Nam Định.
Phủ Chính Phủ Dầy ngày nay được xây dựng trên chính nền nhà khi xưa của Mẫu, khu vườn đằng sau phủ cũng chính là khu vườn nơi Mẫu vẫn thường ra gẩy đàn ngâm thơ.
Lần giáng sinh thứ ba
Giáng Tiên về trời đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng. Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con nên nàng muốn xuống trần gian lần nữa. Khi về đến nhà vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng. Thánh Mẫu Liễu Hạnh gặp chồng, con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí, yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây... Cứ như thế, thỉnh thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Ròng rã hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.
Hành thiện giúp đời
Trận giao chiến trên Đèo Ngang
Thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433) trị vì. Lần ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành ở chân đèo Ngang (Hà Tĩnh). Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy chốc, lời đồn đại cũng tới tận kinh đô đến tai hoàng tử sắp kế nghiệp đến tìm Tiên Chúa nhưng bị bà làm thành một kẻ ngẩn ngơ, điên điên dại dại. Cả hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh tình hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Nhà vua nhờ sự giúp đỡ của tám vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh để hỏi tội. Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn.
Cuộc gặp gỡ với Phùng Khắc Khoan và nguồn gốc di tích Phủ Tây Hồ
Tương truyền, ông đã gặp thần nữ là Liễu Hạnh công chúa cả thảy hai lần, và đều có xướng họa thơ: một lần gặp ở chùa Thiên Minh (Lạng Sơn) khi ông đi sứ về, một lần ở Hồ Tây (nay thuộc Hà Nội) khi ông cùng với hai bạn họ Ngô và họ Lý đi chơi thuyền. Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ xướng họa liên ngâm, sau được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm chép trong truyện "Vân Cát thần nữ" ở tập Truyền kỳ tân phả của bà. Theo nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân, thì bài thơ ấy được đặt tên là Tây Hồ quan ngư (Xem cá Hồ Tây). Bản tiếng Việt do Phan Kế Bính dịch có tên là Cảnh Hồ Tây.
Theo "Nam Hải Dị Nhân" của Phan Kế Bính thì Tiên Chúa vân du đến miền xứ Lạng. Lúc Phùng Khắc Khoan đi sứ từ Trung Quốc về đến Lạng Sơn ông thấy một cô gái xinh đẹp ngồi dưới ba cây thông trước sân chùa, vừa đàn vừa hát.
Ông bèn lên tiếng ghẹo: 三木森庭,坐著好兮女子 - Tam mộc sâm đình, tọa trước hảo hề nữ tử. (Cụm từ "tam mộc sâm" 三木森 chỉ ba 三 chữ mộc木 (cây; gỗ) hợp lại thành chữ sâm 森 (cây cối rậm rạp; đông đúc) và cụm từ "hảo... nữ tử " 好... 女子 chỉ chữ nữ 女 (đàn bà, con gái) hợp với chữ tử 子 (con) thành chữ hảo 好 (tốt, đẹp, hay).
Người con gái nghe vậy, đối ngay: 重山出路走來使者吏人 - Trùng sơn xuất lộ, tẩu lai sứ giả lại nhân. (Cụm từ "trùng sơn xuất " 重山出 chỉ hai 重 chữ sơn 山 (núi) chồng lên nhau thành chữ xuất 出 (= ra; đi ra) và cụm từ "sứ... lại nhân"使...吏人 chỉ chữ lại 吏 (làm việc quan) hợp với chữ nhân 人 (người) thành chữ sứ 使 (người được vua hay chính phủ phái đi làm việc gì).
Phùng Khắc Khoan hết sức kinh ngạc bèn nói tiếp: 山人凴一几,莫非仙女臨凡 - Sơn nhân bàng nhất kỷ, mạc phi tiên nữ lâm phàm. (Cô sơn nữ ngồi ở ghế, phải chăng là tiên nữ giáng trần? Nhưng lắt léo ở chỗ: chữ sơn 山 và chữ nhân 亻ghép lại thành chữ tiên 仙. Chữ bàng có bộ kỷ 几. Chữ nhất và chữ kỷ ghép lại thành chữ phàm 凡.
Cô gái đáp ngay: 文子帶長巾必是學生視帳 - Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng. (Ông nhà văn chít khăn dài, chính thị học sinh nhòm trướng. Câu đáp không những lịch sự, dí dỏm mà chơi chữ cũng hết sức tinh vi: chữ văn 文 và chữ tử 子 ghép lại thành chữ học 斈 (= 學). Dưới chữ đới 帯 có bộ cân 巾. Chữ trường 長 và chữ cân ghép lại thành chữ trướng 帳).
Phùng Khắc Khoan vô cùng khâm phục cô gái. Ông cúi đầu làm lễ, lúc ngẩng đầu thì cô gái đã biến mất. Chỉ thấy trên thân cây gỗ viết bốn chữ: 卯口公主- Mão khẩu công chúa) và kế bên tấm biển cũng có bốn chữ: 冫馬已走 - Băng mã dĩ tẩu. Nghĩa là: Cây gỗ là bộ mộc. Mộc 木 thêm chữ mão 卯 là chữ liễu 柳. Mộc 木 thêm chữ khẩu 口 là chữ hạnh 杏, người con gái vừa rồi chính là Liễu Hạnh công chúa. Còn bộ băng 冫 đi với chữ mã 馬, chính là họ Phùng 馮 của ta. Chữ dĩ 已 nằm cạnh chữ tẩu 走, chính là chữ khởi 起. Có lẽ Liễu Hạnh công chúa dặn Phùng Khắc Khoan phải khởi công sửa lại ngôi chùa này. Sau đó, Phùng Khắc Khoan cho người tu sửa lại ngôi chùa khang trang.
Hiện nay những câu đối, những dấu tích về 2 lần gặp gỡ tại Lạng Sơn và Phủ Tây Hồ còn lưu lại ở Phủ Mẫu Thượng (Long Nga Linh Từ) (nơi Phùng Khắc Khoan gặp Liễu Hạnh lần đầu) và Phủ Tây Hồ (lần gặp thứ hai).
Cuộc tái hợp với Đào Lang - Người chồng kiếp trước
Vì tình nghĩa thủy chung với chồng con ở trần thế nên đến thời Lê Khánh Đức thứ 2 (1650), bà vân du đến làng Tây Mỗ, xã Hà Thái, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, vào ngày 10 tháng 10 năm Canh Dần, tái hợp với ông Trần Đào Lang lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai tên là Cổn. Bà mất ngày 23 tháng 12 năm Mậu Thân, thời Lê Cảnh Trị thứ 6 (1668). Năm ấy bà vừa 18 tuổi. Đền thờ bà ở Phủ Sòng Sơn, Thanh Hoá.
Quy y Phật tổ
Sau khi hóa về trời, do vẫn còn tâm nguyện giúp đời nên Tiên Chúa khẩn thiết xin Ngọc Hoàng Thượng đế cho trở lại cõi trần gian. Ngọc Hoàng Thượng đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài cho gọi hai thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với Tiên Chúa.
Lần này Tiên Chúa xuống Phố Cát, huyện Thạch Thành, Thanh Hoá. Ở đây, cũng như những lần trước Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Nhân dân cùng nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa.
Những sự việc ấy lọt đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên vương thả "yêu nữ" ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng tay trừng trị. Bởi vì không thể có luật lệ nào khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến kinh đô trong đó có Tiền Quân Thánh (vốn là tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị đày xuống trần làm con trai thứ ba của một vị thượng sư, sư tổ của phái Nội đạo tràng), giao cho dẫn một đội quân hùng mạnh, đến thẳng miền Phố Cát để đánh dẹp.
Biết là không thể chống cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa, Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy vàng vẩy bạc múa lượn trên không.
Tiền Quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra chụp lấy. Tiên Chúa bị bắt rồi hiện nguyên hình trở lại.
Giữa lúc ấy Phật tổ xuất hiện giải cứu cho Tiên Chúa. Khi vừa thấy Phật tổ, Tiền Quân Thánh liền sững lại, thay vì vậy đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với Phật tổ.
Đạo Mẫu truyền Đời tới nay,
Đã bị biến tướng, tà âm ngập tràn.
Ngự trên loan giá, cung vàng,
Ngự trong điện Cậu, đền Thầy, tượng Cô.
Khiến tâm loạn động bất an,
Chưa tới cửa Đền bò ngược, bò xuôi.
Rên la không giống con người,
Nam thì bóng nữ, nữ thời ảnh nam.
Làm Trần chẳng tỏ rõ ràng,
Con Ta phải chịu, nhà tan thân tàn.
Nay nương Sứ nói rõ ràng:
Mẫu Thiên Đệ Nhất chẳng làm thế đâu !
Đạo Ta trong sáng một màu,
Thanh thanh tịnh tịnh, bình bình an an.
Dầu cho muốn phạt ngang tàng,
Cũng không làm thế, hoang mang tâm hồn.
Nay thời Đại lọc kiếp người,
Thuận theo Tiên Tổ ta tường mấy câu:
Một là không cúng lễ cầu,
Hai là không nhảy điên đầu sáng đêm.
Ba là không nói luyên thuyên.
Bốn ta không giáng đảo điên vào Đồng.
Năm ta tuyển chọn bên trong,
Tâm ấy một lòng, ắt có điềm riêng !
Hành hạ ấy lũ đảo điên,
Ma tà đã ngự liên thiên khắp rồi.
Cho nên mưa lũ tới nơi,
Ta cho ngập hết điện đường Cậu Cô.
Để mà sáng tỏ lẽ xưa,
Để Ta góp sức truyền thừa Cha Ông.
Động Đình cho tới Biển Đông,
Mẫu Ta trấn chỉnh phải Tông phép này !
Các con theo Mẫu thẳng ngay,
Quy hướng người Thầy tâm đức sáng trong.
Tiền mà đi trước nhọc công,
Đức mà đi trước ấy dòng Mẫu Ta !
Thượng Thiên ứng khẩu Nước Nhà,
Phò trì Vua Đức sáng mà an dân,
Kỳ này quyết định thành công,
Rồng Tiên, cháu Lạc ngóng trông thành Tài !
Nam mô Thủy Tổ Đại Việt Kinh Dương Vương.
Nam mô Quốc Mẫu Âu Cơ.
Nam mô Đệ nhất Thượng thiên Thánh mẫu Liễu Hạnh.
Nam mô Thượng Thiên Thiên Tôn, Bác Hồ.
KÍNH LỄ CHƯ PHẬT,
PHỔ ĐỘ QUẦN SANH,
Y NGUYỆN TÁI LAI,
MƯỜI PHƯƠNG HỘ TRÌ !
NAM MÔ ĐÔNG PHƯƠNG A SÚC BỆ PHẬT
NAM MÔ NAM PHƯƠNG BẢO SINH PHẬT
NAM MÔ TRUNG ƯƠNG TỲ LÔ GIÁ NA PHẬT
NAM MÔ TÂY PHƯƠNG A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ BẮC PHƯƠNG BẤT KHÔNG THÀNH TỰU PHẬT
NAM MÔ TA BÀ GIÁO CHỦ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ TA BÀ GIÁO CHỦ HIỆN TIỀN ĐẢN SANH PHÚ VƯƠNG DI LẶC TÔN PHẬT
PHÀM ĐỆ TỬ PHẬT,
THƯỜNG TRÌ CHÚ NÀY,
CHÁNH KHÍ SINH TRƯỞNG,
TÀ KHÍ TIÊU MÒN.
CHƯ PHẬT RA ĐỜI,
MƯỜI PHƯƠNG HOAN HỶ,
HÙNG CƯỜNG ĐẠI VIỆT,
PHÚ VƯƠNG ĐẢN SINH !
NAM MÔ NAM HẢI QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.
NAM MÔ PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG !
Đạo Mẫu truyền Đời tới nay,
Đã bị biến tướng, tà âm ngập tràn.
Ngự trên loan giá, cung vàng,
Ngự trong điện Cậu, đền Thầy, tượng Cô.
Khiến tâm loạn động bất an,
Chưa tới cửa Đền bò ngược, bò xuôi.
Rên la không giống con người,
Nam thì bóng nữ, nữ thời ảnh nam.
Làm Trần chẳng tỏ rõ ràng,
Con Ta phải chịu, nhà tan thân tàn.
Nay nương Sứ nói rõ ràng:
Mẫu Thiên Đệ Nhất chẳng làm thế đâu !
Đạo Ta trong sáng một màu,
Thanh thanh tịnh tịnh, bình bình an an.
Dầu cho muốn phạt ngang tàng,
Cũng không làm thế, hoang mang tâm hồn.
Nay thời Đại lọc kiếp người,
Thuận theo Tiên Tổ ta tường mấy câu:
Một là không cúng lễ cầu,
Hai là không nhảy điên đầu sáng đêm.
Ba là không nói luyên thuyên.
Bốn ta không giáng đảo điên vào Đồng.
Năm ta tuyển chọn bên trong,
Tâm ấy một lòng, ắt có điềm riêng !
Hành hạ ấy lũ đảo điên,
Ma tà đã ngự liên thiên khắp rồi.
Cho nên mưa lũ tới nơi,
Ta cho ngập hết điện đường Cậu Cô.
Để mà sáng tỏ lẽ xưa,
Để Ta góp sức truyền thừa Cha Ông.
Động Đình cho tới Biển Đông,
Mẫu Ta trấn chỉnh phải Tông phép này !
Các con theo Mẫu thẳng ngay,
Quy hướng người Thầy tâm đức sáng trong.
Tiền mà đi trước nhọc công,
Đức mà đi trước ấy dòng Mẫu Ta !
Thượng Thiên ứng khẩu Nước Nhà,
Phò trì Vua Đức sáng mà an dân,
Kỳ này quyết định thành công,
Rồng Tiên, cháu Lạc ngóng trông thành Tài !
Nam mô Thủy Tổ Đại Việt Kinh Dương Vương.
Nam mô Quốc Mẫu Âu Cơ.
Nam mô Đệ nhất Thượng thiên Thánh mẫu Liễu Hạnh.
Nam mô Thượng Thiên Thiên Tôn, Bác Hồ.
NƯỚC VIỆT NAM VĨ ĐẠI, DÂN TỘC VIỆT NAM VĨ ĐẠI !
HỘI ĐỒNG CÁC NGÀI CHÍNH ĐẠO NƯỚC NAM.
Ban hành mệnh lệnh Thanh lọc.
11 giờ 11 phút, ngày 11 tháng 11 năm 2025 (Ất Tỵ)
Y theo Thiên luật, các Mệnh Thiên đã khai mở năng lực, hiệp đồng chấp hành. Các Đồng, Thầy/Bà/Cô/Cậu quy hướng Thủy Tổ chỉnh đốn Điện phủ, tuân hành Thiên Luật Đại Thanh Lọc.
I. CHỈNH ĐỐN TỨ PHỦ - GIẢI PHÁ TRẤN YỂM - HỖ TRỢ DƯƠNG PHẦN DỰNG LẠI CƠ ĐỒ.
Các Dòng họ, gia tộc, cõi giới cư trú tại Nước Nam chỉnh đốn lại Luật lệ, Pháp tắc.
Thi hành lệnh giải phá trấn yểm để Quân Tướng phần Âm Nước Nam đang bị phong ấn, giam giữ được thanh tẩy linh thể, rửa sạch oán nghiệp, trở lại hàng ngũ Thiên Binh Chính Đạo.
Tất cả được phép xuất hiện, vận hành pháp và trở lực cho công cuộc thanh lọc Nhân gian, phục hưng Linh khí Nước Nam.
II. TRUY QUÉT VONG TÀ - LẬP LẠI BINH QUYỀN CỦA THIÊN
Rà soát thanh lọc ráo riết, liên tục các khu vực trên toàn bộ Nước Nam. Truy quét từng nhà dân, từng Đình, Đền, Chùa, Miếu, Phủ để dẹp tan tà đạo và tàn dư phương Bắc.
Mọi thế lực tà ác, vong linh phản nghịch, gian thần mê đạo, lợi dụng pháp giới làm loạn đều bị xét công luận tội, giao cho Thiên Tướng xử theo Thiên Luật.
Người Hiền Đức, chính tâm, giữ lòng trong sáng được thu vào hàng Tu Đạo, phụng hành phép Tiên Thánh.
III. TRAO CỜ LỆNH VÀ THIÊN BINH CHO CÁC QUAN THÀNH HOÀNG CHỈ HUY
Mỗi vùng, mỗi phương nắm giữ cờ lệnh Chính Đạo, phụng hành Thiên chỉ:
1. Giữ yên Thổ địa, hộ dân an cư.
2. Giải trừ ám khí, u linh tà Đạo.
3. Góp lực thanh tẩy, dẫn linh quy Chính đạo.
IV. THANH LỌC TAM GIỚI:
1. Cõi Dương: Trừ dịch bệnh, bão lũ, chiến tranh, khai mở vận an khang.
2. Cõi Âm: Xét định công tội, thu nạp người sửa sai, kẻ ác bất cải thì tiêu diệt, trả lại trật tự Nhân Quả.
3. Cõi Trung giới: Mở đường cho linh binh, Thần tướng hành pháp dưới Ấn Chính Đạo.
V. THIÊN CHỈ - DẪN TÂM.
Nước Nam đến lúc quay về Cội,
Một lòng vẹn nghĩa Đất Trời Nam.
Thẳng bước mà đi, thẳng dạ mà làm,
Tâm sáng như ngọc - trí soi rạng.
Trên có Trời cao, dưới Mẹ Đất vàng,
Mắt Hoắc nhìn xa - cờ lệnh trong tay,
Nhất tâm mà hành, minh tâm mà độ !
HỒN TƯỚNG THANH LỌC !
Nam mô Thủy Tổ Đại Việt Kinh Dương Vương.
Nam mô Lịch triều Hiền Vương Thánh Quân Đại Việt.
Nam mô Thượng Thiên Thiên Tôn, Bác Hồ.
Tổng Bí thư Tô Lâm gửi Thư thăm hỏi, động viên đồng bào, cán bộ, chiến sỹ đang ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai
29/10/2025 16:00
(Chinhphu.vn) - Ngày 29/10, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có Thư thăm hỏi, động viên đồng bào, cán bộ, chiến sỹ trên cả nước đang ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai trong những ngày vừa qua. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu nội dung Thư thăm hỏi của Tổng Bí thư.
" Thưa đồng bào, cán bộ, chiến sỹ trên cả nước!
Những ngày vừa qua, nhiều địa phương của chúng ta liên tiếp hứng chịu mưa lớn kéo dài, lũ dâng nhanh, sạt lở đất, ngập sâu, chia cắt giao thông, gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản. Ở nhiều nơi, bà con phải sơ tán khẩn cấp trong đêm, nhà cửa bị cuốn trôi, sinh kế bị gián đoạn, đời sống bị đảo lộn. Đặc biệt nghiêm trọng là các tỉnh miền Trung từ Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi, nơi mưa lũ và sạt lở đang diễn biến hết sức phức tạp, tiếp tục đe dọa an toàn của nhân dân.
Trong lúc đang công tác ở nước ngoài, tôi luôn dõi theo tình hình với nỗi lo lắng và day dứt. Tôi gửi tới toàn thể đồng bào bị ảnh hưởng bởi thiên tai trong những ngày qua lời thăm hỏi ân cần và chia sẻ sâu sắc nhất. Tôi gửi lời chia buồn tới các gia đình có người thân không may thiệt mạng trong mưa lũ, sạt lở; lời động viên chân tình tới những người đang bị thương, còn đang bị cô lập, còn đang gồng mình chống chọi thiếu điện, thiếu nước sạch, thiếu nơi ở an toàn.
Tôi đánh giá cao và trân trọng tinh thần trách nhiệm, sự kịp thời, tận tụy và dũng cảm của cấp ủy, chính quyền các địa phương, nhất là các chính quyền cơ sở; của các lực lượng công an, quân đội, y tế, thanh niên xung kích; của các lực lượng cứu hộ cứu nạn, các đoàn thể, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và người dân. Nhiều cán bộ, chiến sỹ và người dân đã không quản hiểm nguy để sơ tán bà con, mang lương thực, áo ấm, thuốc men vào từng điểm ngập sâu, từng khu vực bị chia cắt. Đó là nghĩa tình đồng bào, là truyền thống "nhường cơm sẻ áo", là sức mạnh làm nên bản lĩnh Việt Nam.
Tôi yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể ở tất cả các địa phương bị thiên tai - đặc biệt là các tỉnh từ Hà Tĩnh đến Quảng Ngãi - tiếp tục tập trung cao nhất cho nhiệm vụ cấp bách trước mắt: cứu dân, bảo vệ tính mạng người dân là trên hết, trước hết. Phải rà soát, cảnh báo và di dời ngay các hộ ở vùng có nguy cơ lũ quét, sạt lở; tuyệt đối không để bất cứ người dân nào bị đói, rét, bị cô lập mà không có hỗ trợ kịp thời. Cần bảo đảm chỗ ở tạm an toàn, nước sạch, thuốc men, chăm sóc đặc biệt cho người già, trẻ em, phụ nữ mang thai và các nhóm dễ bị tổn thương.
Tôi đề nghị các lực lượng tại chỗ khẩn trương khắc phục bước đầu hạ tầng thiết yếu: giao thông, điện, thông tin liên lạc; kịp thời thống kê thiệt hại, chủ động hỗ trợ trước cho người dân khó khăn nhất; ưu tiên khôi phục trường học, trạm y tế, các công trình dân sinh cấp thiết để bà con sớm trở lại đời sống bình thường. Các bộ, ban, ngành Trung ương phải trực tiếp xuống địa bàn, nắm chắc tình hình, xử lý cụ thể từng việc, không hình thức, không để khoảng trống trách nhiệm. Mọi sự hỗ trợ phải đến đúng người, đúng nhu cầu, đúng thời điểm.
Thưa đồng bào, cán bộ, chiến sỹ trên cả nước!
Thiên tai còn có thể còn diễn biến phức tạp. Nhưng trong gian khó, chúng ta càng thấy rõ tình nghĩa dân tộc, càng hiểu sức mạnh của sự đoàn kết, của tình người Việt Nam. Tôi đặt trọn niềm tin rằng với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị và với tinh thần kiên cường, nhân ái của nhân dân ta, đồng bào ở các vùng bị thiên tai sẽ đứng dậy, ổn định cuộc sống và khôi phục sản xuất trong thời gian sớm nhất.
Thân ái gửi tới đồng bào, cán bộ, chiến sỹ ở tất cả các vùng đang chịu ảnh hưởng của mưa lũ, sạt lở trong những ngày qua lời thăm hỏi chân tình và niềm tin son sắt. "
QĐND.VN
Thứ sáu, 14/11/2025 - 23:27
Tối 14-11, chào mừng kỷ niệm 95 năm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18-11-1930 / 18-11-2025), Tổng Bí thư Tô Lâm đã tới dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc năm 2025 tại phường Thượng Cát, thành phố Hà Nội. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm:
" Thưa các đồng chí lãnh đạo các cơ quan Trung ương, lãnh đạo TP Hà Nội,
Thưa các cụ, các ông, các bà và toàn thể bà con nhân dân,
Thưa các đại biểu dự buổi gặp mặt.
Hôm nay, trong không khí ấm áp của Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta cùng nhau khẳng định lại một chân lý giản dị mà vĩnh hằng: Đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống, là tài sản, là di sản vô giá của cha ông, là sức mạnh làm nên mọi thắng lợi, mọi thành tựu của dân tộc ta, đất nước ta. Chủ tịch H.C.M đã căn dặn: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đó là chân lý, là phương châm hành động, là mệnh lệnh từ trái tim của dân tộc, của hồn thiêng sông núi, của Tổ quốc gửi đến từng người trong chúng ta.
Với bà con ở phường Thượng Cát, qua báo cáo của Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phường Văn Thúy Hoa, qua tham luận của đại diện các tổ dân phố và qua ánh mắt, nụ cười của bà con đã toát lên niềm phấn khởi, tự hào về những gì chúng ta đã làm được trong năm 2025, trong nhiệm kỳ 2020-2025 và khát vọng về những định hướng tương lai của đất nước. Tôi tin tưởng chắc chắn rằng với sự chung sức đồng lòng, ý Đảng hợp lòng dân, dân tin Đảng, nhất định đời sống của nhân dân sẽ tốt lên từng ngày, xã hội ngày một tươi đẹp, đất nước ngày một phồn vinh, thịnh vượng, hùng cường, nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Nhân buổi hôm nay, tôi muốn tâm sự đôi điều với bà con và các đồng chí về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Thưa các đồng chí và bà con,
Sức mạnh đại đoàn kết bắt đầu từ những điều rất gần gũi, mộc mạc: Niềm tin và tình người. Khi ta tin nhau, thương nhau, tôn trọng nhau, ta sẽ biết cùng nhau làm việc lớn. Khi ta đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết, trước hết, mọi khác biệt sẽ tìm được mẫu số chung; mọi khó khăn sẽ có lối mở và được giải quyết.
Nhìn lại những năm qua, có những khoảnh khắc không thể quên. Trong đại dịch Covid-19, cả nước một lòng: Tuyến đầu không lùi bước, đồng bào nhường cơm sẻ áo, doanh nghiệp chung tay, người Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, bà con trong nước mở lòng, dang tay đón những người con xa quê về đất nước, nhường cơm sẻ áo, chia nhau từng liều vắc-xin, từng máy thở, chỗ nằm khi đại dịch hoành hành... Trong thiên tai, bão lũ, mưa dông, lụt lội, sạt lở, từ miền núi đến miền biển, nghĩa đồng bào lại bừng sáng: Những chuyến xe cứu trợ xuyên đêm, những mái nhà tạm ấm lửa, những bàn tay nắm chặt bàn tay.
Trong xây dựng thể chế, nhân dân góp ý thẳng thắn, trách nhiệm vào quá trình xây dựng hệ thống pháp luật, đặc biệt là các dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. Trong một tháng lấy ý kiến nhân dân, đã có hơn 3 triệu lượt ý kiến đóng góp cho Văn kiện Đại hội XIV của Đảng. Đó thực sự là điều rất đáng quý. Đó là sự hòa quyện giữa Đảng với dân. Đó là dân chủ thực chất, là trí tuệ xã hội cùng chọn con đường phát triển. Trong tổ chức và vận hành chính quyền địa phương hai cấp, trong sắp xếp đơn vị hành chính ở cấp tỉnh, cấp xã, chúng ta đã đặt sự đồng thuận của nhân dân làm điều kiện tiên quyết; việc thuận lòng dân, dựa vào dân, vì hạnh phúc của dân chính là thước đo thành công. Sự ủng hộ của tuyệt đại bộ phận các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, Nhà nước trong công cuộc đổi mới, trong “sắp xếp lại giang sơn” là động lực, là nguồn sức mạnh vô song để Đảng vững tin thực hiện các nhiệm vụ chính trị của mình, triển khai quyết liệt các đường lối, chính sách, đặc biệt là nội dung các nghị quyết mà Đại hội Đảng lần thứ XIII và các đại hội của Đảng trước đó đã đề ra.
Trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trên đất liền, biển, vùng trời và không gian mạng, ta kiên định nguyên tắc, mềm dẻo sách lược, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh thời đại. Trên các diễn đàn khu vực và quốc tế, Việt Nam luôn luôn chủ động, tích cực, trách nhiệm và được bạn bè tin cậy bởi chúng ta là một khối ý chí thống nhất của toàn dân tộc.
Thưa các đồng chí và bà con nhân dân,
Trước mắt chúng ta là những cột mốc làm mục tiêu phấn đấu đi tới phát triển, phồn vinh, THỊNH VƯỢNG, TRƯỜNG TỒN, đó là MỤC TIÊU 100 NĂM đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng C.ộng S.ản Việt Nam vào năm 2030, 100 năm thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 2045. Khát vọng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đòi hỏi nội lực mới, mô hình tăng trưởng mới, động lực phát triển mới: Chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế tuần hoàn. Nhưng nền tảng để đi xa, đi tới thành công vẫn là đoàn kết. Đoàn kết để tháo gỡ nút thắt thể chế; đoàn kết để khơi thông mọi nguồn lực; đoàn kết để chia sẻ rủi ro, nhân lên cơ hội; đoàn kết để không ai bị bỏ lại phía sau...
Đại đoàn kết bắt đầu từ đoàn kết trong Đảng: Nội bộ Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh, thống nhất ý chí và hành động; nói đi đôi với làm; nêu gương, liêm chính, kỷ luật. Đoàn kết trong hệ thống chính trị: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội phối hợp nhịp nhàng, hiệu lực, hiệu quả. Đoàn kết giữa các giai tầng trong xã hội: Công nhân-nông dân-trí thức-doanh nhân-văn nghệ sĩ-phụ lão-phụ nữ-thanh niên-thiếu niên nhi đồng-cựu chiến binh-đồng bào các tôn giáo, các dân tộc; mỗi lực lượng đều có vị trí, trách nhiệm và vinh quang trong hành trình chung. Và đoàn kết quốc tế: Thêm bạn bớt thù, tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau kiến tạo hòa bình, cùng nhau phát triển bền vững.
Để tinh thần ấy đi vào đời sống hằng ngày, để thành kết quả có thể đo đếm được, tôi xin nhấn mạnh 7 NHÓM VIỆC CỤ THỂ CẦN THỰC HIỆN: (1) Dân là gốc. Mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ nhu cầu thực sự của dân, do dân bàn, dân kiểm tra, dân thụ hưởng. Tăng cường đối thoại công khai, minh bạch; lắng nghe để điều chỉnh kịp thời. Thành công là sự hài lòng của nhân dân. (2) Kỷ cương-liêm chính. Thượng tôn pháp luật, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với quan điểm không có vùng cấm, không có ngoại lệ, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, tiếp tục tiến hành nhiệm vụ này với tinh thần quyết tâm, quyết liệt, không ngừng nghỉ, không khoan nhượng. Khi niềm tin được củng cố, đoàn kết tự khắc bền chặt, nội lực sẽ được nhân lên. (3) Bộ máy tinh gọn: Chính quyền 3 cấp thông suốt, hỗ trợ nhau với mục tiêu chung là vì nhân dân phục vụ. Chính quyền địa phương hai cấp liên thông, lấy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh làm mục tiêu phấn đấu, lấy “công ăn việc làm” cho mọi người dân là đích đến của bình yên, ấm no, hạnh phúc cho xã hội. Sắp xếp đơn vị hành chính gắn với tinh giản biên chế, cải cách thủ tục; số hóa dịch vụ công, người dân, doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể và đối tượng phục vụ. Ở đâu người dân thuận tiện hơn, chi phí xã hội thấp hơn, ở đó đoàn kết và đồng thuận lớn hơn. (4) Khơi thông nguồn lực để phát triển. Tháo ách tắc pháp lý, nâng cấp hạ tầng chiến lược, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng hành cùng doanh nghiệp trong tinh thần “chung sức đồng lòng-cùng làm cùng hưởng”; thúc đẩy chuyển đổi xanh, chuyển đổi số để tạo động lực mới cho tăng trưởng. (5) An sinh-văn hóa-con người. Giảm nghèo đa chiều, bền vững; chăm lo y tế, giáo dục, nhà ở, việc làm; bảo vệ người yếu thế, chăm lo cho người già, trẻ nhỏ, quan tâm cho vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng khó khăn. Xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, gìn giữ bản sắc, nuôi dưỡng lòng nhân ái, nghĩa tình trong mỗi cộng đồng. (6) Quốc phòng-an ninh gắn với đối ngoại, hội nhập quốc tế. Xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; kiên định bảo vệ chủ quyền bằng biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế; giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển lâu dài. (7) Mặt trận-đoàn thể-tổ chức xã hội-cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, bạn bè quốc tế cần được kết nối chặt hơn, rộng hơn qua các hoạt động đối ngoại nhân dân, qua kết nối thể thao, văn hóa, du lịch, giáo dục-đào tạo, giao lưu nhân dân... Phát huy vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc trong tập hợp, đoàn kết, giám sát, phản biện xã hội. Gắn kết chặt chẽ với cộng đồng quốc tế để tỏa ra sức mạnh và những giá trị nhân văn cao đẹp của dân tộc ta, nhất là giá trị và truyền thống đại đoàn kết của nhân dân ta.
Thưa các đồng chí và bà con,
Đoàn kết rất gần gũi, rất đời thường, là hơi thở, nhịp sống hằng ngày. Đoàn kết là một ánh nhìn tin cậy, là một cái bắt tay sẻ chia, là một lời nói ấm áp, cảm thông, là một việc làm đến nơi đến chốn, tình làng nghĩa xóm... Ở cơ quan, công sở hãy biến cuộc họp thành diễn đàn tìm giải pháp, là nơi tìm ra mẫu số chung, tìm ra lời giải cho mọi vấn đề trên tinh thần “học thầy không tày học bạn”. Ở địa phương, hãy coi sự hài lòng của người dân là thước đo mọi quyết định. Ở doanh nghiệp, công trường, xưởng máy hãy coi sự liêm chính, thu nhập của người lao động là vốn quý, là sức sống của doanh nhân. Trên không gian mạng, hãy là người truyền tin có trách nhiệm, trung thực, không bịa đặt, không phát tán tin giả, không gieo mầm chia rẽ, thay vào đó là lan tỏa hiểu biết, tinh thần cầu thị, tranh luận có văn hóa.
Hãy khắc ghi và lan tỏa tinh thần “5 DÁM”: Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung; và “3 CÙNG”: Cùng bàn, cùng làm, cùng hưởng. Nếu thực hiện như vậy là chúng ta đã góp một viên gạch bền chắc vào ngôi nhà đại đoàn kết Việt Nam.
Với các địa phương, cơ sở, nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội hằng ngày, nơi các tế bào sống phát triển ra không ngừng nghỉ, tôi xin nhấn mạnh: Phải dân chủ, công khai, minh bạch; đối thoại để tạo đồng thuận; phải xây dựng văn hóa nghĩ đúng, nghĩ xa, nghĩ cùng dân, nghĩ vì dân; phải nói thẳng, nói thật, nói gọn; phải làm nhanh, làm chắc; làm đến nơi đến chốn... phải bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân và cán bộ. Việc gì có lợi cho dân thì làm hết sức; việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Đích đến là bộ máy tinh gọn hơn, phục vụ tốt hơn, chi phí xã hội thấp hơn, cơ hội phát triển cao hơn.
Trong phát triển kinh tế-xã hội, hãy để tinh thần đoàn kết dẫn dắt cách ta giải những bài toán khó: Giải phóng mặt bằng với đồng thuận của dân; cải cách thủ tục để dự án trọng điểm không chậm nhịp; nâng cao chất lượng giáo dục, y tế bằng sự chung tay của cộng đồng; chuyển đổi năng lượng công bằng bằng cơ chế chia sẻ rủi ro hợp lý giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người dân; bảo vệ môi trường bằng kỷ luật tự giác từ mỗi hộ gia đình đến mỗi nhà máy, công trường; liên kết vùng để nông thôn-đô thị cùng phát triển, vì lợi ích người dân-cơ sở địa phương-Trung ương hài hòa hôm nay, bền vững mai sau.
Thưa các đồng chí và bà con nhân dân,
Chúng ta bước vào giai đoạn mới với không ít thử thách: Cạnh tranh chiến lược, biến đổi khí hậu, già hóa dân số, áp lực đô thị hóa, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh mạng... Nhưng càng khó, đoàn kết càng tỏa sáng. Một dân tộc đã đi qua chiến tranh vệ quốc, vượt qua những năm tháng bao cấp gian nan, tạo kỳ tích đổi mới-dân tộc ấy, khi đồng lòng, chắc chắn sẽ vươn tới những đỉnh cao mới.
Chúng ta đã có “hàng thẳng, lối thông”: Đường lối đúng, thể chế đang hoàn thiện, khát vọng phát triển bừng sáng, niềm tin nhân dân là vốn quý vô song. Việc của chúng ta bây giờ là “bước đều, bước nhanh, bước vững chắc” vào kỷ nguyên mới. Mỗi người, mỗi tổ chức, mỗi địa phương, mỗi ngành, đúng vị trí, đúng chức trách, đúng cam kết, cùng nhìn về một hướng.
Nhân Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc 18-11, tôi kêu gọi: Đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước; cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, hãy cùng nhau gìn giữ, bồi đắp và phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Hãy biến tinh thần ấy thành hành động hôm nay: Trong gia đình, tổ dân phố; trong nhà máy, trên cánh đồng; trong lớp học, bệnh viện; trên biển khơi và trên không gian số, tất cả vì Tổ quốc Việt Nam thân yêu; vì hạnh phúc của nhân dân; vì mục tiêu 2030 và khát vọng 2045 mà nhân dân đang mong chờ.
Chúng ta hãy nắm chặt tay nhau, đồng lòng chung sức: Đoàn kết để chiến thắng khó khăn. Đoàn kết để đi tới thành công. ĐOÀN KẾT ĐỂ XÂY DỰNG NON SÔNG BỀN VỮNG MUÔN ĐỜI !