←  Kinh Dịch - Bốc Dịch - Lục Hào

Tử Vi Lý Số :: Diễn đàn học thuật của người Việt

»

Dịch Ẩn - Thảo luận đóng góp ý kiến tại đây

Thienluong's Photo Thienluong 03/07/2025

Dạ Bác FM_daubac,

Thienluong đọc đoạn này, và nghĩ mãi mà vẫn chưa ngộ ra được ạ.

"Các quẻ bị nhật thần thương tổn thế ứng
Ngày tý: "Quán", "Dự", "Vị Tế" thương tổn;
Ngày sửu: "Quán", "Đỉnh" thương;
Ngày dần: "Đại Hữu", "Tiết", "Phong", "Chấn", "Hàm", "Kiển" thương;
Ngày mão: "Tấn", "Chấn", "Tiểu Súc", "Lữ", "Thái" thương;
Ngày thìn: "Càn", "Bí", Tỉnh" thương;
Ngày tỵ: "Cấn" thương;
Ngày ngọ: "Cấu", "Khảm", "Vô Vọng", "Đại Tráng", "Nhu" thương;
Ngày mùi: "Thăng", "Đại Quá", "Phục", "Vị Tế" thương;
Ngày thân: "Cách", "Khốn" thương;
Ngày dậu: "Bỉ", "Truân", "Bí", "Hằng", "Mông", "Khôn", "Quải" thương;
Ngày tuất: "Tốn", "Thái", "Đoài" thương;
Ngày hợi: "Dộn", "Ly", "Vị Tế", "Khiêm thương."

Nhật thần Thương tốn Thế Ứng được hiểu như thế nào ạ? Xác định theo sự tương khắc Hành của Nhật Thần với Hành của Hào Thế/ Ứng hay sao ạ?

Ví như: Ngày Tý: "Quán", "Dự", "Vị Tế" thương tổn;

>> Quẻ quán có Hào Thế/ Ứng Mùi; Quẻ Dự có Hào Thế / Ứng là Mùi /Ngọ; Quẻ Vị tế có Hào Thế /Ứng là Ngọ / Tỵ

Nhật Thần Tý Thủy khắc Ty/ Ngọ Hỏa, nhưng Hào Mùi Thổ sao lại bị Nhật Thần Tý Thủy khắc được ạ?

Mong được Bác chỉ dạy ạ.

Thành kính
Sửa bởi Thienluong: 03/07/2025 - 17:42
Trích dẫn

HieuHcmVN's Photo HieuHcmVN 06/07/2025

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

FM_daubac, on 04/07/2025 - 23:36, said:

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm - Lục Thân (tiếp theo)

Phụ chiêm nữ tế (chàng rể)

Lấy cung gốc hào quan quỷ xuất hiện làm chủ, không kể là quẻ nội quẻ ngoại (vì con rể là một phần con trai có ý nghĩa người nhà). Không hiện, thì xem phục thần cung gốc. Nếu như không hiện cũng không có phục, thì chọn hào khắc hào con gái làm rể. Nhưng chỉ lấy quan quỷ cung gốc làm rể chánh thức, còn hiện ra ở năm tháng ngày giờ hay cung khác là bàng tế [r khác, không chánh thức]. Như cung chánh có hai quỷ, thì lấy hào dương và đắc vị làm rể chánh thức, hào âm và thất vị là bàng tế. Nếu chánh quỷ ở tỵ ngọ thì mệnh hỏa tốt, mệnh con gái thuộc thổ thì tốt (hỏa có thể sanh thổ). Quỷ phục dưới hào phụ mẫu, là người lanh lợi và tôn trọng. Quỷ phục dưới hào tử tôn, bản chất thiện lành, không làm tổn hại vật, dễ bao dung. Quỷ phục dưới hào huynh đệ, tham sắc dục, ưa cờ bạc, không thành thật. Quỷ phục dưới hào thê tài, có khả năng quản lý tài sản, làm việc gì cũng rõ ràng, vợ chồng hòa hợp tốt đẹp (nếu tài quỷ mang theo thìn ngọ dậu hợi nặc hình là tiền dâm hậu thú - người mình nói là ăn cơm trước kẻng).

- Quỷ hóa quỷ, nhà trai chưa xác định, hoặc ly hôn và cưới vợ lần nữa.
- Huynh hóa quỷ tàn nhẫn hung bạo tham lam và dâm dục (quỷ mang theo hình nhận cũng như vậy).
- Tài hóa quỷ, khắc vợ, hao tổn tiền bạc.
- Tử hóa quỷ kèm theo long hỷ đức hợp vợ chồng hòa muc thuận hợp. Kèm theo hoa cái, hình nhận là tăng đạo hoàn tục.
- Quỷ hoá tử có lợi cho vợ.
- Quỷ hóa huynh, thương tổn vợ mình bằng mại dâm, cờ bạc.
- Quỷ hoá tài có tài tổ chức, trù hoạch.

Hào phi nhập vào phụ mẫu thì tuổi thọ cao, lưu loát văn chương, vượng tướng thì nhà cửa hưng thịnh. Nhập huynh vượng tướng, ưa cờ bạc, tranh cãi kiện tụng; còn suy thì nhẹ hơn một chút, hao tổn tài sản, ít nô tỳ. Nhập phúc có lòng từ bi, có tài hoàn thành vật, gặp châu tước thích đọc kinh; gặp thanh long ở hào ba giữ trong sạch, ngăn tham dục với ba chức quan (trì tam quan tề), ở hào năm giữ trong sạch, ngăn tham dục như quán âm (trì quán âm tề). Nhập tài bản chất ổn định hoà thuận, có tài lo liệu chi thu cho gia đình; có tài bạch, vượng tướng thì có nhiều tài năng. Nhập mã rất độc ác hiếu sát, tự bản thân có mang tật bệnh. Vượng tướng có thêm mã quý sẽ là quan; còn suy thì chính là lũ hạ lưu [hèn mọn, đê tiện]. Còn lại nghèo giàu sang hèn tật bệnh, hoạ phúc đều đoán giống với hào thế.

Ngoài ra, hễ bói chàng rể, gặp phải nam nữ lâm hào thế, với ứng quỷ ở hào hai (hào hai là hào trạch), hoặc ứng quỷ hợp hào tài quẻ nội, đều chủ nhập dưỡng [入养 nhận vào và nuôi lớn].

Phụ chiêm trượng phu (vợ gọi chồng là trượng phu 丈夫)

Tự mình bói lấy hào ứng làm chồng, bói thay lấy hào quỷ làm chồng. Cung gốc có xuất hiện là chồng chánh thức (không phân biệt quẻ nội hay quẻ ngoại). Hiện ở năm tháng ngày giờ hay cung khác là thiên phu [chồng phụ].

Nếu như quẻ có hai hào quan quỷ xuất hiện, lấy hào dương đắc vị làm chồng chánh thức, hào âm thất vị làm thiên phu (có lễ thành hôn gọi là chánh, lời nói trống rỗng nên không thành thì gọi là thiên tức là phụ).

Nếu như chánh quỷ tại hào dần mão vượng tướng thì tốt cho mệnh mộc, mệnh phụ nữ thuộc ngọ dậu tuất hợi thì tốt (ngọ sanh ở dần, mão với tuất hợp, dần với hợi hợp) (không thấy nói đến dậu thì thế nào).

Nếu như quỷ gặp phải không vong mộ tuyệt thai, có thêm bạch bổ, đằng xà, hình nhận vong kiếp vượng động thì chết. Hào tử tôn vượng động kèm theo bạch hổ, đằng xà, hình nhận vong kiếp tới khắc quỷ nếu hào quỷ vượng thì chỉ có tai vạ, bệnh tật; còn như suy sẽ chết. Nếu người đàn ông [chồng] bệnh thì nên hào quỷ suy, chớ không nên hào quỷ vượng.

Lại thêm quỷ phục dưới hào quỷ với quỷ phục dưới hào huynh, tất là hai họ vợ chồng quản lý sinh kế. Thông thường giàu nghèo, sang hèn, tật bệnh, họa phúc của chồng đều đoán giống hào thế.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.


Kính Cụ,

Chỗ chữ đỏ, y cứ ngũ hành sinh khắc chế hóa, theo thiển ý của cháu:

Phu Mênh ứng Dần Mão, vượng tướng thì tốt cho Mệnh Mộc, Phụ Mệnh ứng Ngọ thì được chồng chiều, ứng Hợi thì yêu chiều chồng, nên cũng được chiều lại và có sự hòa hợp. Ứng Dậu thì rầy la, không khéo chiều Chồng, ứng Tuất thì phục vụ chồng, gọi dạ bảo vâng thụ động, mà chồng coi thường không để tâm tới. Hai cái đầu thì Cát, hai cái sau thì Hung.

Ngọ, Hợi - Cát, thì hợi là tiểu Cát (Vợ có thể lăng nhăng, xa hoa phung phí), Hợi là Đại cát (Vợ chồng hòa hợp, vợ thuận theo chồng, có trên có dưới) . Dậu, Tuất - Hung, thì Dậu là tiểu hung (Chồng có thể vũ phu), Tuất là đại hung (Chồng có thể ngoại tình)
Sửa bởi HieuHcmVN: 06/07/2025 - 10:26
Trích dẫn

HieuHcmVN's Photo HieuHcmVN 06/07/2025

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

FM_daubac, on 05/07/2025 - 10:11, said:

Quyển Nhất - Thân Mệnh Chiêm - Lục Thân (tiếp theo)

Đoán bần phú

Hào tài hướng về vượng khố thì giàu có, hào tài tụ hội vượng thì giàu. Long đức tài phúc vượng trì (trì thế thân) thì giàu, tài phúc kèm theo nguyệt nhật động biến tới sanh hợp thế thân thì giàu.

Tài ở tứ khố thìn tuất sửu mùi vượng tướng, nông công thương cổ (nhà buôn) đạt đến giàu, tài ở tứ sanh dần thân tỵ hợi cho rằng đạt đến giàu có ở quê người, tài ở tứ sanh tý ngọ mão dậu sanh vượng, đạt đến giàu có bằng cửu lưu nghệ thuật.

Thái tuế có thêm tài trợ giúp hào thế, giàu nhờ dựa vào tổ nghiệp. Nguyệt tướng thêm tài trợ giúp thế, giàu nhờ dựa vào cha hay anh. Nguyệt kiến thêm tài trợ giúp thế, giàu nhờ dựa vào vợ con.

Quẻ ngoại cung khác, hào tài tới sanh hợp thế, quẻ ngoại là thu được nguồn lợi và thành gia; quẻ nội cung gốc hào tài tới sanh hợp hào thế, buôn bán ở địa phương của mình mà làm nên cơ nghiệp. Lục thân quẻ nội cung gốc ở hào động, hóa hào tài tới sanh hợp được tài của họ hàng bên nội mà bắt đầu sự nghiệp. Lục thân quẻ ngoại cung gốc ở hào động, hóa hào tài tới sanh hợp, được tài của họ hàng bên ngoại mà bắt đầu sự nghiệp. Quẻ ngoai cung khác, động biến hào tài tới sanh hơp, được tài của người ở phương xa mà bắt đầu sự nghiệp. Quẻ nội tha cung, hào động biến tài tới sanh hợp, được tài của láng giềng mà khởi nghiệp.

Hào quan có thêm quý vượng, hóa tài tới sanh hơp, được tài của quan chức mà bắt đầu cơ nghiệp.Hào quan có thêm kiếp nhận huyền vũ tam hình, hóa tài tới sanh hợp được tài của kẻ xấu ác mà bắt đầu cơ nghiệp. Ở hào năm (hào năm là đường lộ), chính là nhặt được tài sản bị trộm bỏ lại bên dường mà bắt đầu cơ nghiệp.

Tài hóa tài tới sanh hợp, khởi gia bằng nghề cho vay. Có thêm huyền vũ hàm trì, chắc là giam dâm với phụ nữ bên ngoài, do đó được tiền bạc của người đó.

Hào huynh có thêm huyền vũ động hóa tài, keo kiệt bủn xỉn mà bắt đầu cơ nghiệp. Hào huynh có thêm chu tước động hóa tài, lấy cờ bạc mà bắt đầu cơ nghiệp. Phúc đức hóa tài tới sanh hợp, được tài từ bán sinh vật cúng tế, nuôi tằm, tăng đạo mà bắt đầu cơ nghiệp.

Hào phụ mẫu hóa tài tới sanh hợp, được tài sản từ bán nhà cửa mà băt đầu cơ nghiệp. Hào thổ câu trận hóa tài tới sanh hợp, được tài sản từ việc bán đất ruộng mà bắt đầu cơ nghiệp.

Hào tài lâm vượng mã thì kiếm nguồn lợi ở giang hồ (ngày xưa chỉ đi khắp nơi bán thuốc, bói toán, làm trò... để mưu sinh). Hào tài lâm suy mã thì cực khổ bận rộn mà xây dựng gia đình. Hào tài phùng không vong mã, thì ở thành phố kinh doanh. Lộc tài vượng tướng, gặp hình xung, âm xứ (nơi bí mật) thành gia. Quý nhân vượng tướng hình tài lộc, trong hung (trong lúc mất mùa, đói kém) được cơ nghiệp. Nếu vượng tài có thêm bạch hổ dương nhận chắc chắn là trọc phú (giàu mà bất nghĩa).

Quẻ chánh không có hào tài mà quẻ biến có, hoặc hào thế hào tài tử tuyệt hóa sanh vượng, trước nghèo sau giàu. Quẻ chánh có hào tài mà quẻ biến không có, hoặc hào thế hào tài sanh vượng hóa tử, tuyệt, không vong, phá thì trước giàu sau nghèo.

Cho đến thế huynh đệ không vong động, thê tài tử tôn vô khí, thế bị nhật xung, kèm theo huynh đệ, quan quỷ, nhị hao, phá toái sát, dụng thần thê tài tử tuyệt, dụng thần tài hóa không, tuyệt, tử, phá, quan quỷ, huynh đệ, sáu hào không có hào tài, hay tài phục dưới hào quỷ tất cả đều là nghèo.

Muốn biết việc gì làm tiêu tan hết gia sản, chỉ xem dụng thần có thêm huynh đệ động. Hào huynh đệ có thêm thanh long động là việc vui mừng nên phá; tỏ ra phong thái t.ao nhã kết giao với các quan chức, cưới gã, cầu quan mua nàng hầu, xây dựng. Hào huynh có thêm chu tước động do thị phi nên phá, ăn nói xung đột kết giao với thư lại (quan bậc thấp lo việc ghi chép), ra vào công môn (sở quan, nha môn) dùng tiền bạc để thắng kiện. Hào huynh có thêm câu trận động do kiêu ngạo nên phá, phòng ốc nhà cửa trang trí xa xỉ, ưa thích mua ruộng đất, chồng chất không rõ ràng, hoặc cho vay mượn tiền bạc, bị người lấy mất. Hào huynh có thêm đằng xà động, do nghi hoặc nên phá, là những việc tin tưởng chuyện yêu ma xằng bậy, cầu thần trả lễ; diễn hý kịch sắp bày nghi lễ cầu cúng, liên lụy người hòa giải. Hào huynh có thêm bạch hổ động hung dữ và bạo lực nên phá như là việc tang ma hiếu phục chồng chất, tranh đấu để đoạt quyền thừa kế; vu khống mạng sống con người; sát thương mưu hại. Hào huynh có thêm huyền vũ động không cẩn thận nên phá như là bị hại bởi dính líu vào trộm cướp ; bị người nợ quá hạn; cờ bạc rượu chè gái gú; bị kẻ tiểu nhân và phụ nữ gây ra phiền nhiễu. Đây là bói nghèo giàu.

Nếu mà tài sản gia đình nhiều ít thì suy xét theo số tiên thiên trong Chu dịch của nạp giáp hào tài giáp kỷ tý ngọ số chín; ất canh sửu mùi số tám; bính tân dần thân số bảy; đinh nhâm mão dậu số sáu; mậu quý thìn tuất số năm, tỵ hợi luôn là số bốn. Đều lấy hào tài của cung gốc xuất hiện làm chủ, không hiện thì chọn lấy phục tài.

Nếu như quẻ có hai hào tài xuất hiện thì chọn lấy cả hai. Ngoài ra có khi đại tượng là tài của cung gốc, cũng chọn lấy can chi của quẻ để luận cùng lúc. Như là nhâm thân (có lẽ là giáp) tuất hợi càn; ất quý mùi thân khôn; bính sửu dần cấn; tân thìn tỵ tốn; mậu tý ở khảm; kỷ ngọ ở ly, canh mão ở chấn; đinh dậu ở đoài.

Như quẻ thuần càn, hào hai giáp dần là tài, giáp số chín, dần số bảy cộng lại là số mười sáu. Nếu đại phú thì mười tiến thành ngàn, sáu tiến thành trăm, là mười sáu ngàn. Trung phú thì mười tiến thành trăm, sáu tiến thành mười, là một ngàn sáu trăm. Hạ phú thì mười tiến mười, sáu cũng tiến mười là một trăm sáu mươi vậy. Như gia đình nhỏ, thì chỉ lấy một thủy, hai hỏa, ba mộc, bốn kim năm thổ mà suy xét.

Như cung càn hào dần mộc tài, mộc số ba thì một tiến mười chính là ba mươi lượng. Nếu mình vượng tướng thì tăng gấp đôi, hưu thì giữ nguyên số, còn tù hay tử thì giảm còn phân nửa. Nếu thái tuế quý mã phúc lộc tụ ở cùng hào tài, thì lợi ích sẽ tăng gấp đôi. Nguyệt kiến quý mã phúc lộc hội tụ ở cùng hào tài, lợi ích được tăng thêm nửa phần. Thái tuế hình phá hào tài thì giảm phân nửa; nguyệt kiến hình phá hào tài thì giảm một phần ba. Nếu quý sát hợp thì lợi ích, còn bị hình phá hợp thì hao tổn, và không tăng hay giảm chỉ được thường số không đổi.

Lại có trường hợp hào với cung đều không vong, phá tử tuyệt, như năm giáp thân tháng nhâm thân tuần giáp tý ngày canh ngọ gieo được quẻ thuần càn, hào tài bị hình phá tuyệt ở năm và tháng thân, tử ở nhật kiến là ngọ, lại thêm cung gốc tuất hợi không vong ở trong tuần giáp tý, cho dù có giàu như Thạch Sùng thì cũng sụp đỗ không còn lại gì. Lại như quẻ thiên phong cấu sáu hào không có tài, quẻ tốn là mộc cũng là tài của cung càn, dưới hào hai cung tốn phục giáp dần tài của cung gốc, quẻ tốn thiên can là tân, địa chi là thìn tỵ, tân số bảy, thìn số năm, tỵ số bốn cộng tất cả lại là mười sáu, lại có thêm hào phục giáp dần cũng là mười sáu, cộng thành ba mươi hai, nếu là đại phú thì ba mươi tiến thành ba ngàn, hai tiến thành hai trăm là ba vạn hai ngàn. Còn trung phú thì ba mươi tiến thành ba trăm, hai tiến thành hai mươi, là ba ngàn hai trăm. Và tiểu phú thì mười tiến mười, hai tiến hai là ba trăm hai mươi vậy. Mỗi cái đều tăng gấp mười lần, gia đình nhỏ cũng lấy số của ngũ hành, một tiến mười mà xét như phương pháp ở trước. Vượng tướng thì thêm gấp đôi, hưu thì giữ nguyên số, tù tử thì giảm phân nửa. Tuế nguyệt quý sát, với tuế nguyệt hình phá đều dẫn đến ích lợi hay hao tổn như thường lệ (trích từ Chiêm Đăng Pháp)

Thông thường đoán sang hèn nghèo giàu, không kể tổ tiên xa gần, họ hàng cùng một gốc chín họ, người ở nơi xa hay láng giềng, là quan chức hay thấp hèn, đều y theo phương pháp này mà đoán, lại cần biết người tốt lành mà gặp tử mộ tuyệt thai, hình hại khắc phá thì giảm bớt phúc lành của mình, người bị hung xấu mà gặp phải quý mã đức hỷ long phúc sanh hợp sẽ giảm bớt tai họa của mình, không thể một lời mà nói hết.


Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

Kính Cụ,

Chỗ chữ đỏ, theo thiển ý của con, dựa vào đối xứng của tiên thiên Bát Quái: Càn đối Khôn, Cấn đối Đoài, Chấn đối Tốn, Ly đối Khảm, mà định vị hàng Can:

giáp Càn - ất Khôn
bính Cấn - đinh Đoài
mậu Khảm - kỷ Ly
canh Chấn - tân Tốn
nhâm Càn - quý Khôn.

Theo trật tự của Hậu thiên Bát Quái mà định vị hàng Chi, người ta hay nói "khởi thủy" - nghĩa là từ đó mà dấy lên, cho nên lấy Tí ứng Khảm vi Thủy để lập. Lại tứ chính Bắc, Đông, Nam, Tây tương ứng bốn mùa Đông, Xuân, Hạ, Thu - thì Đông là vạn vật ẩn tàng, từ chỗ ẩn tàng mà trỗi dậy, nên khởi từ Đông tức Khảm rồi sang Xuân Chấn, Hạ Ly, Thu Đoài. Y theo tứ chính mà điểm danh đặt để, nên 4 chính + 8 quái = 12 địa chi, vì thế tứ chính chỉ có một Chi, còn các phương khác thì có hai Chi, tương ứng là:

CÀN (Tuất, Hợi) - KHẢM (Tí) - CẤN (Sửu, Dần) - CHẤN (Mão) -

- TỐN (Thìn, Tỵ) - LY (Ngọ) - KHÔN (Mùi, Thân) - ĐOÀI (Dậu)


* Chữ Tí và chữ Tỵ: truyền thống đều là "y", nhưng quan sát tự nhiên, rắn dài chuột ngắn, thế thì lấy "i" ứng Tí chuột, "y" ứng Tỵ rắn cho nó "đẹp". Hí hí
Sửa bởi HieuHcmVN: 06/07/2025 - 11:23
Trích dẫn

Quản Trị Viên 9's Photo Quản Trị Viên 9 03/07/2025

Để bài dịch của quyển Dịch Ẩn được liền mạch, chúng tôi mở ra chủ đề này để hội viên có thể nêu ý kiến, thắc mắc, góp ý... ở đây thay vỉ trong chủ đề Dịch Ẩn.
Trích dẫn

HieuHcmVN's Photo HieuHcmVN 07/07/2025

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

Quản Trị Viên 9, on 07/07/2025 - 02:08, said:

Để bài dịch của quyển Dịch Ẩn được liền mạch, chúng tôi mở ra chủ đề này để hội viên có thể nêu ý kiến, thắc mắc, góp ý... ở đây thay vỉ trong chủ đề Dịch Ẩn.

Tiện tay bác "bế" giúp em 2 bài em lỡ viết trong chủ đề ấy đi với nhé vì em không tìm thấy nút Xoá. Đa tạ bác.
Sửa bởi HieuHcmVN: 07/07/2025 - 05:05
Trích dẫn

Thienluong's Photo Thienluong 10/07/2025

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn

FM_daubac, on 02/07/2025 - 12:10, said:

Quyển Đầu (tiếp theo)

Ngũ Hành Bát Quái Sanh Khắc

Chủ trương dùng tiền thay cỏ thi
Lấy ba đồng tiền, hong trên lò, cung kính khấn: trời cao không nói gì, khấu lạy sẽ ứng, liệt thánh linh thiêng, nhận lòng thành kính của .... có việc quan tâm, còn nghi ngờ do dự, không thể tự quyết định, tốt được xấu mất, chỉ dựa vào quẻ, ngưỡng mong lời thánh, chiêu báo rõ ràng.

Khấn xong thì gieo tiền. Một mặt lưng (mặt trơn không có chữ) là đơn vạch một gạch ngang, hai mặt lưng là bối vạch hai gạch ngắn, ba mặt lưng là trùng vạch O, toàn các mặt chữ là giao vạch X, từ dưới lên trên.

Ba hào đã thành lại khấn tiếp: mỗi cung có hai tượng, tốt xấu chưa rõ, lại cầu thêm ba hào để thành một qiuẻ mà giải quyết lo lắng nghi ngờ, khấn xong lại gieo tiền hợp thành một quẻ.

Cách làm viên thái cực

Họ Tiêu đời nhà Hán để lại phương pháp được trình bày chi tiết trong Tam Nho Mệnh Lý Số do Chu Thiệu Tử đời nhà Tống biên soạn.

Dùng gỗ cây táo bị sét đánh, nếu như không có gỗ cây táo bị sét đánh, thì có thể dùng hương mộc (gỗ thơm) hay ngọc nha (răng ngọc như ngà voi), làm thành ba viên đạn tròn, nếu viên đạn không ổn định, thì các mặt cần phải đều nhau. Giống như hình thể con xúc xắc, chỉ là mặt xúc xắc thì lớn, còn mặt viên đạn thì nhỏ, nên có nghĩa là tròn. Mỗi mặt trên khắc ba ngôi sao, mặt đáy khắc hai ngôi sao, ba mặt khắc ba, và ba mặt khắc hai , tổng cộng sáu mặt khắc mười lăm ngôi sao, ba viên đều như cách thức mà chế tạo.


Chiêm giới
- Đức hạnh mờ ám thì không bói. Thường bói toán cần tâm phải trong sạch, mới có thể cảm cách, còn như cẩu thả khó mà được hưởng ứng.
- Lời khinh nhờn, xúc phạm thì không bói. Thường bói tốt xấu sau này, phải bằng hào và tượng, không dựa theo ý mình, nên xem xét một nơi nào đó khi tốt, trong xấu tìm cái tốt, bói đi bói lại là khinh nhờn tiên thánh (bậc thánh nhân đời trước).
- Chuyện rườm rà, vụn vặt thì không bói. Mỗi người chỉ bói một hai việc, ta coi bói đã chán ghét, đừng làm tôi vất vả. Dịch nói: lặp lại ba lần là khinh nhờn, khinh nhờn thì không báo cho biết.
- Âm tà (gian trá, không ngay thẳng) thì không bói. Tiên thánh nếu linh thiêng, chỉ phù trợ ngay thẳng, quyết không hùa theo gian tà.
- Nóng nảy gấp gáp thì không bói. Thường bói phúc lành và tai hoạ thì khác nhau, có thể dùng để tranh xa hay theo , bói sau này cần theo nơi suy xét bắt đầu theo quẻ hào đoán thẳng, lý sẽ sâu xa, lời nói sao mà dễ dàng.

Mỗi ngày đều có thể bói, lòng thành sẽ ứng nghiệm, không câu nệ ngày tý không bói, cùng với thuyết sáu ngày mậu không bói, điều này về sau này đã thông suốt.

Bát quái tượng lệ
Càn tam liên
Khôn lục đoạn
Chấn ngưỡng vu
Cấn phúc oản
Ly trung hư
Khảm trung mãn
Đoài thượng khuyết
Tốn hạ đoạn

Ngũ hành sanh khắc
Kim sanh thủy, thủy sanh mộc, mộc sanh hỏa, hỏa sanh thổ, thổ sanh kim,
Kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim。

Thiên can sở thuộc
Giáp ất phương đông mộc
Bính đinh phương nam hoả
Mậu kỷ trung ương thổ
Canh tân phương tây kim
Nhâm quý phương bắc thủy

Địa chi sở thuộc
Tý thuỷ chuột
Sửu thổ trâu
Dần mộc cọp
Mão mộc thỏ (Việt Nam dùng con mèo)
Thìn thổ rồng
Tỵ hoả rắn
Ngọ hoả ngựa
Mùi thổ dê
Thân kim khỉ
Dậu kim gà
Tuất thổ chó
Hợi thuỷ heo

lục thần sở thuộc
thanh long thuộc mộc
bạch hổ thuộc kim
huyền vũ thuộc thủy
câu trần thuộc thổ
chu tước thuộc hỏa
đằng xà tuy phụ thổ, vốn là thuộc hỏa, gặp thủy khó thương tổn, gâp mộc không bị khắc。

khởi lục thần pháp
Giáp ất khởi thanh long,
Bính đinh khởi chu tước,
Ngày mậu khởi câu trận,
Ngày kỷ khởi đằng xà,
Canh tân khởi bạch hổ,
Nhâm quý khởi huyền vũ.
Đều chuyển theo sáu chỗ,
Theo từ dưới lên trên.


Bát quái phương thần chi đồ
Tốn: Đông Nam - Thìn Tị
Ly: Bính Đinh Nam - Ngọ Hỏa
Khôn: Tây Nam - Mùi Thân
Chấn: Giáp Ất Đông - Ất Mộc
Trung ương: Mậu Kỷ Thổ
Đoài: Canh Tân Tây - Dậu Kim
Cấn: Đông Bắc - Dần Sửu
Khảm: Nhâm Quý Bắc - Tý Thủy
Càn: Tây Bắc - Tuất Hợi

Lục thân sanh khắc
Tử tôn sanh thê tài, thê tài sanh quan quỷ, quan quỷ sanh phụ mẫu, phụ mẫu sanh huyenh đệ, huynh đệ sanh tử tôn. Sanh ta là nguyên thần, như tử tôn là nguyên thần của thê tài.

Tử tôn khắc quan quỷ, quan quiỷ khắc huynh đệ, huynh đệ khắc thê tài, thê tài khắc phụ mẫu, phụ mẫu khắc tử tôn. Khắc ta là kỵ thần, như tử tôn là kỵ thần của quan quỷ.

Nguyên thần động có thể sanh, kỵ thần động có thể khắc, cái mình sanh mà động gọi là tham sanh, cũng nói là tiết khí, hỷ kỵ đều giảm bợt.

Quẻ hóa mộ tuyệt
Mộ tuyệt như ly hoá càn, khảm cấn tốn hoá tốn, càn đoài biến cấn, chấn tốn hoá thành khôn.

Quẻ phản ngâm
Quẻ biến với quẻ chánh đảo ngược.
Phản ngâm địa sơn khiêm cùng sơn địa bác; lôi trạch quy muội với trạch iôi tuỳ; phong thiên tiểu súc đối với thiên phong cấu; thuỷ hoả ký tế đối với hoả thuỷ vị tế.

Mười sáu quẻ biến
Kinh Phòng nói:
Từ sơ đến năm không động phục,
Dưới bay đến bốn phục dụng phi,
Trên bay dưới bay trở lại bản thể,
Chính là lề lối mười sáu quẻ biến.

Như cung càn một lần biến thành cấu, đến năm lần biến thành bác, hào thượng là TÔNG MIẾU mãi mãi không biến đổi. Trở lại bay xuống hào bốn thành tấn là DU HỒN, , bay xuống hào ba thành lữ là NGOẠI GIỚI, bay xuống hào hai thành đỉnh là NỘI GIỚI, bay xuống hào sơ thành đại hữu là QUY HỒN. Lại bay lên hào hai thành ly là TUYỆT MỆNH, lại bay lên hào ba thành phệ hạp là HUYẾT MẠCH, bay lên hào bốn thành di là CƠ NHỤC, bay lên hào năm thành ích là HÀI CỐT, lại bay xuống hào bốn thành vô vọng là QUAN QUÁCH, bay xuống hào ba thành đồng nhân là PHẦN MỘ, bay xuống hào hai thành càn lại trở về BẢN THỂ.

Thường mười sáu lần biến của tám cung đều phỏng theo đó. Người bói gặp biến vào quẻ của bổn cung (cung gốc) thì hoạ phúc ứng trọn mười phần. Quẻ ngoại giới: tốt xấu đến từ bên ngòi. Quẻ nội giới: hoạ phúc khởi từ bên trong. Quẻ hài cốt: sống thì gầy ốm; chết thì không chôn cất. Quẻ quan quách: bệnh sẽ chết. Quẻ huyết mạch: chù bệnh về máu và rò rĩ . Quẻ tuyệt mệnh: sự việc thường lặp đi lặp lại, là người cô độc, không hoà hợp với tập quán thế gian. Quẻ du hồn, cơ nhục: tinh thần hoảng hốt, như mộng như si. Quẻ quy hồn, trủng mộ: mồ mả tốt, và sự việc có thể thành công.

Bảng mười sáu lần biến quẻ
ngoại giới nội giới tuyệt mệnh huyết mạch cơ nhục hài cốt quan quách phần mộ
Càn cung biến quái .... lữ .............đỉnh .......ly ..........phệ hạp .....di ......ích ........vô vọng ..... đồng nhân
Khảm cung biến quái.. phục ........ lâm ......khôn ...... khiêm ... tiểu quá .. hàm ...kiển ..........bỉ
Cấn cung biến quái ....tiểu súc ... gia nhân . tốn ......hoán .........tụng ...... vị tế ..... mông ........ cổ
Chấn cung biến quái .. khốn ........ tụy ......... đoài .... quái .......... nhu ......thái....... đại tráng ... quy muội
Tốn cung biến quái ..... ..........đại súc ..... cấn ...... bác ......... tấn .......... bỉ.......... quán ......... tiệm
Ly cung biến quái ...... cấu ...........độn ......... càn......... .......... trung phu . tổn ........khuê ...... đại hữu
Khôn cung biến quái .. tiết ..........truân ...... khảm .. tỉnh .......... đại quá ... hằng .... thăng ......
Đoài cung biến quái ... dự ........... giải ....... chấn .... phong ...... minh di .... kí tế ........cách ....... tùy

Tên sáu mươi bốn quẻ
Tám quẻ thuộc cung càn kim: càn vi thiên, thiên phong cấu, thiên sơn độn, thiên địa bĩ, phong địa quán, sơn địa bác, hỏa địa tấn, hỏa thiên đại hữu
Tám quẻ thuộc cung khảm thuỷ: khảm vi thủy, thủy trạch tiết, thủy lôi truân, thủy hỏa ký tế, trạch hỏa cách, lôi hỏa phong, địa hỏa minh di, địa thủy sư
Tám quẻ thuộc cung cấn thổ: cấn vi sơn, sơn hỏa bí, sơn thiên đại súc, sơn trạch tổn, hỏa trạch khuê, thiên trạch lý, phong trạch trung phu, phong sơn tiệm
Tám quẻ thuộc cung chấn mộc: chấn vi lôi, lôi địa dự, lôi thủy giải, lôi phong hằng, địa phong thăng, thủy phong tỉnh, trạch phong đại quá, trạch lôi tùy
Tám quẻ thuộc cung tốn mộc: tốn vi phong, phong thiên tiểu súc, phong hỏa gia nhân, phong lôi ích, thiên lôi vô vọng, hoả lôi phệ hạp, sơn lôi di, sơn phong cổ
Tám quẻ thuộc cung ly hoả: ly vi hỏa, hỏa sơn lữ, hỏa phong đỉnh, hỏa thủy vị tế, sơn thủy mông, phong thủy hoán, thiên thủy tụng, thiên hỏa đồng nhân
Tám quẻ thuộc cung khôn thổ: khôn vi địa, địa lôi phục, địa trạch lâm, địa thiên thái, lôi thiên đại tráng, trạch thiên quải, thủy thiên nhu, thủy địa tỷ
Tám quẻ thuộc cung đoài kim: đoài vi trạch, trạch thủy khốn, trạch địa tụy, trạch sơn hàm, thủy sơn kiển, địa sơn khiêm, lôi sơn tiểu quá, lôi trạch quy muội

Cách định lục thân
Lấy tám cung thuộc về làm chủ, sanh mình là phụ mẫu, mình sanh là tử tôn, khắc mình là quan quỷ, mình khắc là thê tài, ngang với mình là huynh đệ.

Cách nạp giáp
Phương pháp này đều từ dưới đi lên, dương từ chỗ đầu cách một cung thuận chiều thay đổi lần lượt, còn âm từ chỗ đầu cách một cung theo chiều nghịch thay đổi lần lượt.

Càn quái Khảm quái Cấn quái Chấn quái Tốn quái Ly quái Khôn quái Đoài quái
Nnhâm tuất Mậu tý Bính dần Canh tuất Tân mão Kỷ tỵ Quý dậu Đinh mùi
Nhâm thân Mậu tuất Bính tý Canh thân Tân tỵ Kỷ mùi Quý hợi Đinh dậu
Nhâm ngọ Mậu thân Bính tuất Canh ngọ Tân mùi Kỷ dậu Quý sửu Đinh hợi
Giáp thìn Mậu ngọ Bính thân Canh thìn Tân dậu Kỷ hợi Ất mão Đinh sửu
Giáp dần Mậu thìn Bính ngọ Canh dần Tân hợi Kỷ sửu Ất tỵ Đinh mão
Giáp tý Mậu dần Bính thìn Canh tý Tân sửu Kỷ mão Ất mùi Đinh tỵ

Cách an thế ứng
Thế coi như bắt đầu sau hào của tám quẻ, quẻ bát thuần thế ở hào sáu.
Theo từ hào sơ lần lượt luân chuyển lên trên, quẻ thứ hai của mỗi cung thế ở hào sơ.
Quẻ du hồn đứng ở hào bốn, quẻ thứ bảy của mỗi cung gọi là du hồn thế ở hào bốn.
Quẻ quy hồn rõ ràng ở hào ba, quẻ thứ tám của mỗi cung gọi là quy hồn, thế ở hào ba.

Thế ở hào sơ ứng ở hào bốn; thế ở hào hai ứng ở hào năm; thế ở hào ba ứng ở hào sáu; thế ở hào bốn ứng ở hào sơ; thế ờ hào năm ứng ở hào hai; thế ở hào sáu ứng ở hào ba.

Các quẻ bị nhật thần thương tổn thế ứng
Ngày tý: "Quán", "Dự", "Vị Tế" thương tổn;
Ngày sửu: "Quán", "Đỉnh" thương;
Ngày dần: "Đại Hữu", "Tiết", "Phong", "Chấn", "Hàm", "Kiển" thương;
Ngày mão: "Tấn", "Chấn", "Tiểu Súc", "Lữ", "Thái" thương;
Ngày thìn: "Càn", "Bí", Tỉnh" thương;
Ngày tỵ: "Cấn" thương;
Ngày ngọ: "Cấu", "Khảm", "Vô Vọng", "Đại Tráng", "Nhu" thương;
Ngày mùi: "Thăng", "Đại Quá", "Phục", "Vị Tế" thương;
Ngày thân: "Cách", "Khốn" thương;
Ngày dậu: "Bỉ", "Truân", "Bí", "Hằng", "Mông", "Khôn", "Quải" thương;
Ngày tuất: "Tốn", "Thái", "Đoài" thương;
Ngày hợi: "Dộn", "Ly", "Vị Tế", "Khiêm thương.


An thân quyết
Tý ngọ trì thế thân ở hào sơ,
Sửu mùi trì thế thân ở hào hai,
Dần thân trì thế thân ở hào ba,
Mão dậu trì thế thân ở hào bốn,
Thìn tuất trì thế thân ở hào năm,
Tỵ hợi trì thế thân ở hào sáu.

Hễ quẻ dùng thân thì quan trọng, thân của thế trông coi sự việc thì nhẹ, thế nếu không bị không vong, không bị phá, thì không cần luận thân, thế có thể bị không vong, phá, hoạ phúc mới dựa vào hào thân, bởi chọn thân để thay thế mà làm việc vậy.


Khởi nguyệt quái thân pháp
Âm thế thì theo tháng năm khởi, dương thế thì theo tháng mười một khởi, đều thuận theo hào sơ đếm lên đến hào thế liền biết hào nào là nguyệt quái, cũng là quái thân. Tốt xấu đều với hào thế cùng đoán, lại cần phải nghiên cứu luận tiến thối.

Nếu như tháng giêng bói quẻ, nguyệt quái thuộc tháng hai, ba, bốn là tiến độ, thuộc tháng mười hai, mười một, mười là thối độ. Tiến thì các việc tiến ích, thối thì trăm sự thối tự (tan nát).

Quái mệnh quyết

Mão dậu trì thế mệnh ở hào sơ
Thìn mùi trì thế mệnh ở hào hai
Tỵ ngọ trì thế mệnh ở hào ba
Tý mão trì thế mệnh ở hào bốn (Có lẽ là tý hợi thì đúng hơn là tý mão, vì mão có ở hào sơ rồi)
Sửu tuất trì thế mệnh ở hào năm
Dần thân trì thế mệnh ở hào sáu

Trường hợp mệnh hạn có thể không vong tử tuyệt, mười phần khó thoát một hai phần, người chiêm bệnh rất cần xem vậy.

Cách xác định phi thần, phục thần
Âm dương của tám quẻ phục lẫn nhau, cho nên quẻ càn phục khôn, quẻ khôn phục càn, chấn tốn phục lẫn nhau, khảm ly phục lẫn nhau, cấn đoài phục lẫn nhau. Như cung càn các quẻ cấu, độn, bỉ quẻ ngoại phục khôn, quẻ nội phục càn. Các quẻ quán, bác, tấn đều phục càn, chỉ quẻ đại hữu phục ngoại càn nội khôn còn lại phỏng theo đó.

Phạm Trù nói: phi phục là thần qua lại ẩn hiện vậy. Phi là dĩ vãng, phục là tương lai. Nếu trong quẻ dụng thần không bị không vong không bị phá, thì không cần phải tìm phục thần. Chỉ sáu hào không thấy dụng thần thì mới tìm phục thần. Phục thần khắc phi thần thì xuất hiện nhanh, phi thần khắc phục thần sẽ tổn hại bản thân. Phục thần sanh phi thần gọi là tiết khí, phi thần sanh phục thần nên là tham sanh. Phi thần và phục thần hoà nhau, thì trợ giúp nhau nên tốt.

Quách Cảnh Thuần nói: phi phục thần lấy hào thế làm chuẩn, quẻ quẻ nên thẩm xét kỹ lưỡng, bởi phi thần như là hình, phục thần hư là bóng, soi quỷ ma cùng hiện ra bản chất. Như quẻ ích dưới hào thế phục dậu kim quỷ, tốn là gà, dậu cũng là gà. Ở tại âm cung âm kim, nhất định có gà mái là ma quỷ. Lại như quẻ phục biến khiêm. Dưới hào thế phục mùi thổ huynh đệ, hoá nhập vào thìn mộ, là muốn tìm anh em vậy. Người xưa tra xét điều sâu kín, chỉ phỏng theo phục thần mà đoán, thì quỷ thần không có chỗ để ẩn dấu hình ảnh vậy.

Cách khởi tháng từ năm
Năm giáp kỷ bính đứng đầu
Năm ất canh thì mậu đứng đầu,
Bính tân liền hướng về canh dần,
Đinh nhâm thì nhâm thuận trôi chảy,
Có thêm mậu quý khởi chỗ nào,
Tháng giêng lại theo giáp mà tìm.

Cách khởi giờ từ ngày
Giáp kỷ lại thêm giáp,
Ất canh bính làm đầu,
Bính tân theo mậu khởi,
Đinh nhâm ở canh tý,
Mậu quý phương pháp nào,
Nên theo nhâm tý tìm.

Phương pháp của ngũ hành nạp âm
Đầu tiên xếp dặt số đại diễn là bốn mươi chín ở địa, tiếp theo là giáp kỷ tý ngọ chín, ất canh sửu mùi tám, bính tân dần thân bảy, đinh nhâm mão dậu sáu, mậu quý thìn tuất năm, riêng tỵ hợi bốn. Y số chia trừ cho đếm không còn gì nữa, số dư là nhất thuỷ nhị hoả tam mộc tứ kim ngũ thổ. Dùng cách tương sanh liền biết nạp âm. Tương sanh là dư một (thuỷ) sanh mộc; dư hai (hoả) sanh thổ; dư ba (mộc) sanh hoả; dư bốn (kim) sanh thuỷ, dư năm (thổ) sanh kim.

Lại như bốn chữ giáp tý ất sửu, can chi cog65 trừ bỏ số ba mươi bốn, còn lại mười lăm, lấy hai số năm là mười trừ bỏ thì còn lại số dư là năm thộc thổ, và thổ sanh kim, là giáp tý ất sửu kim vậy. Lại như bính dần đinh mão bốn chữ, can chi cộng trừ bỏ số hai mươi sáu, còn lại hai mươi ba, lấy bốn lần năm là hai mươi trừ bỏ, còn dư là ba thuộc mộc, mộc ânh hoả, là bính dần đinh mão hoả. Còn lại phỏng theo đó.

Bài ca hát rằng: sáu tuần giáp tý thật huyền diệu, bảy bảy trừ bỏ đất với trời, năm trừ còn dư số lẽ tìm nơi số sanh, nạp âm được vậy mấy người dạy, có thể xoá bỏ chủ trương vàng ở trong biển, lửa ở trong lò.

Chú giải
1- Giáp kỷ tý ngọ = 9; ất canh sửu mùi = 8; bính tân dần thân = 7; đinh nhâm mão dậu = 6; mậu quý thìn tuất = 5; tỵ hợi = 4.
Thiên can giáp kỷ ..... ất canh ...... bính tân ...... đinh nhâm ....... mậu quý
Địa chi ... tý ngo ....... sửu mùi ..... dần thân ...... mão dậu ......... thìn tuất ........ tỵ hợi
Chữ số ....... 9 ........... ... 8 ................. 7 ................ 6 ....................... 5 ................ 4

2- Số đại diễn = 49, cộng bốn số can và chi để có tổng số rồi trừ đi từ 49. Chia kết quả cho 5. Dư số chia thành 1 thuỷ; 2 hoả; 3 mộc; 4 kim; số chia chẳn tức là 5 là thổ, ngũ hành của dư số tương sanh là ngũ hành của nạp âm.

3- Ví dụ: để tính nạp âm của giáp tý và ất sửu, cách tính như sau:
[49 - (9 + 9 + 8 + 8)] ÷ 5 = 3 => 2 dư 5
Dư số 5 là ngũ hành số của thổ, chỗ sanh của thổ là kim, kim tức là thuộc tính ngũ hành nạp âm của "giáp tý ất sửu".

Thứ tự tám quẻ tiên thiên
Càn một, đoài hai, ly ba, chấn bốn, tốn năm, khảm sáu, cấn bảy, khôn tám.

Phạm vi số tiên thiên
Một thủy, hai hỏa, ba mộc, bốn kim, năm thổ.

Biểu đồ quẻ phụ khí hậu từng tháng để xác định vượng tướng cho dụng sự
Lập xuân tiết tháng giêng cấn vượng chấn tướng; vũ thủy giữa tháng giêng dần mộc dụng sự; Kinh trập tiết tháng hai giáp mộc dụng sự.
Xuân phân giữa tháng hai chấn vượng tốn tướng; Thanh minh tiết tháng ba ất mộc dụng sự; Cốc vũ giữa tháng ba thìn thổ dụng sự.
Lập hạ tiết tháng tư tốn vượng ly tướng; Tiểu mãn giữa tháng tư tỵ hỏa dụng sự; Mang chủng tiết tháng năm bính hỏa dụng sự.
Hạ chí giữa tháng năm ly vượng khôn tướng; Tiểu thử tiết tháng sáu đinh hỏa dụng sự; Đại thử giữa tháng sáu mùi thổ dụng sự.
Lập thu tiết tháng bảy khôn vượng đoài tướng; Xử thử giữa tháng bảy thân kim dụng sự; Bạch lộ tiết tháng tám canh kim dụng sự.
Thu phân giữa tháng tám đoài vượng càn tướng; Hàn lộ tiết tháng chín tân kim dụng sự; Sương giáng giữa tháng chín tuất thổ dụng sự.
Lập đông tiết tháng mười càn vượng khảm tướng; Tiểu tuyết giữa tháng mười hợi thủy dụng sự; Đại tuyết tiết tháng mười một nhâm thủy dụng sự.
Đông chí giữa tháng mười một khảm vượng cấn tướng; Tiểu hàn tiết tháng chạp quý thủy dụng sự; Đại hàn giữa tháng chạp sửu thổ dụng sự.

Âm dương thăng giáng sanh khắc chi đồ
Đông Chí: hào sáu giáng âm; hào sơ thăng dương
Đại Hàn: hào năm giáng âm; hào nhị thăng dương
Vũ Thuỷ: hào bốn giáng âm; hào ba thăng dương
Xuân Phân: hào ba giáng âm; hào bốn thăng dương
Cốc Vũ: hào hai giáng âm; hào năm thăng dương
Tiểu Mãn: hào sơ giáng âm; hào sáu thăng dương
Hạ Chí: hào sáu giáng dương; hào sơ thăng âm
Đại Thử: hào năm giáng dương; hào hai thăng âm
Xử Thử: hào bốn giáng dương; hào ba thăng âm
Thu Phân: hào ba giáng dương; hào bốn thăng âm
Sương Giáng: hào hai giáng dương; hào năm thăng âm
Tiểu Tuyết: hào sơ giáng dương; hào sáu thăng âm.

Trường sanh định cục
_______ trường sanh mộc dục quan đái lâm quan đế vượng suy_ bệnh_ tử_ mộ_ tuyệt_ thai_dưỡng
kim ___ tỵ __________ngọ_____mùi ___thân ____dậu ___tuất_ hợi__._ sửu_ dần_. mão_ thìn
mộc___ hợi_______________ sửu__. dần____. mão__.. thìn_tỵ___ ngọ..mùi.. thân. dậu_. tuất
thủy thổ thân________ dậu_____ tuất__. hợi_________. sửu. dần_. mão. thìn. tỵ__. ngọ_. mùi
hỏa __ dần________ mão_____ thìn__. tỵ______ ngọ___ mùi_ thân_ dậu. tuất. hợi_.___ sửu

Hình hại phá không biện
Hình: khí dương là đức, khí âm là hình, cho nên hình là sát khí, là tai hoạ, hình hợp với hung thần sẽ chủ lo lắng nguy hiểm chết chóc. Hình ở âm thì gian hiểm tham lam tàn bạo. Hình ở dương thì cứng cỏi mạnh mẽ. tam hình là dần hình tỵ, tỵ hình thân, hình của bất tốn (không bằng). Sửu hình tuất, tuất hình mùi, là ỷ thế (cậy thế) hình. (Ba chữ không có đủ thì không thành hình). Tý hình mão, mão hình tý hình của vô lễ. Thìn ngọ dậu hợi là tự hình (không cần gặp lại thìn ngọ dậu hợi tới hình). Hễ hào thế đới hình, được nguyệt nhật với hào động hoặc hào biến gặp vượng phúc tới xung khắc, cơ hồ trước xấu sau tốt. Chỉ thìn ngọ dậu hợi là nặc (ẩn giấu) hình, cho dù có quý sát, cũng không thể giải trừ.

Hại: lục hại là mùi vì thổ vượng hại, đều cậy tài năng lâm quan mà tranh tiến nên hại nhau. Mão lấy vượng mộc khinh thường tử thổ của thìn, đây là nhỏ hại lớn. Tuất là mộ hoả hại vượng kim của dậu, tên là quỷ hại. Hễ hào thế bị hại thì đều tuỳ theo loại của nó mà đoán.

Phá: hào xung phá, tuế phá thì hoạ lớn ở tháng, nguyệt phá thì hoạ lớn ở ngày, nhật phá thì hoạ lớn ở giờ. Gặp sanh không nận được, gặp hoạ có thể rước lấy. Lại thêm hào tĩnh gặp xung thành động, hào động gặp xung thành phá. Hào vượng tướng gặp xung sẽ phát, hào hưu tù gặp xung sẽ tan.

Lại thêm "Hoàng Kim Sách Tổng Đoán" giải thích: như ngày tý bốc quẻ, ngày tý xung hào ngọ, nếu quẻ có hai hào ngọ, thì không thể xung. Trường hợp khác như hai sửu thì tý không thể hợp, hai mão thì ngày tý không thể hình, hai tỵ thì ngày tý không thể khắc, cũng vậy hai tý thì ngày không thể tụ hợp. Còn lại phỏng theo đó.

Không: hào không vong: hào hung không vong sẽ là thiên xá; hào tốt không vong sẽ là thiên phế, phúc không thể thành niềm vui, hoạ cũng không đến nổi chết. Hào thế gặp phải, chỉ chủ trì trệ không thể nhanh được, Lục thân gặp phải, nếu vượng tướng thì tai hoạ nhẹ, còn hưu tù thì tai hoạ trầm trọng. Tháng hai kim, tháng tám mộc, tháng tý hoả là chân không. Lại nói thêm vượng tướng không qua một tuần. Lại nói hào phục tàng không luận không vong. Cũng nói không gặp xung sẽ thật. Chỉ có hào nguyệt phá mãi mãi không thể cứu giúp. Lại nói trong không động xuất không là không. Ngũ Tinh Bí Yếu nói: thổ không nghĩa là thổ hãm sơn băng (đất sụp núi lở), chủ thối bại, gặp hoả động sẽ là bổ khuyết điền ao (lấp đầy khoảng trống). Kim động sẽ là sơn diệu bảo sơn (núi rực rỡ núi trân quý), cũng chủ danh thành lợi toại (danh lợi vừa ý). Mộc không nghĩa là cành khô lá rụng, gặp kim động sẽ chặt đẹo gọt thành gỗ. Hoả động sẽ đốt cháy thành tro, thuỷ động sẽ là bè trôi nổi, không tránh khỏi tai hoạ trôi nổi. Thuỷ không: gọi là trường giang lưu đãng (như sông dài không câu thúc), thối bại không còn gì, gặp kim động sẽ là hồng thuỷ phiếm lạm (lũ lụt tràn lan)., chủ tai hoạ xãy ra không lường trước. Kim không gọi là lạn thiết tú phủ (búa rỉ sét mục nát). Gặp hoả động, sẽ nung đúc thành khí cụ, chủ danh lợi thành công, hoả không gọi là ly trung hoả hư (quẻ ly hoả trống ở giữa) đóm lửa chiếu thật sáng, trái lại chủ phát đạt.


Nguồn:

Vui lòng Đăng nhập hoặc Đăng ký hội viên để đọc nội dung đã ẩn




.

Dạ Thầy FM_daubac

"Bảng mười sáu lần biến quẻ
ngoại giới nội giới tuyệt mệnh huyết mạch cơ nhục hài cốt quan quách phần mộ
Càn cung biến quái .... lữ .............đỉnh .......ly ..........phệ hạp .....di ......ích ........vô vọng ..... đồng nhân


Khảm cung biến quái.. phục ........ lâm ......khôn ...... khiêm ... tiểu quá .. hàm ...kiển ..........bỉ
Cấn cung biến quái ....tiểu súc ... gia nhân . tốn ......hoán .........tụng ...... vị tế ..... mông ........ cổ
Chấn cung biến quái .. khốn ........ tụy ......... đoài .... quái .......... nhu ......thái....... đại tráng ... quy muội
Tốn cung biến quái ..... ..........đại súc ..... cấn ...... bác ......... tấn .......... bỉ.......... quán ......... tiệm
Ly cung biến quái ...... cấu ...........độn ......... càn......... .......... trung phu . tổn ........khuê ...... đại hữu
Khôn cung biến quái .. tiết ..........truân ...... khảm .. tỉnh .......... đại quá ... hằng .... thăng ......
Đoài cung biến quái ... dự ........... giải ....... chấn .... phong ...... minh di .... kí tế ........cách ....... tùy"

Bảng trên có 2 lần quẻ "Bĩ" (Hàng Quẻ Khảm/ Tốn), nhưng TL ngó mãi không thấy Quẻ Tỷ trong bảng này ạ.
Trích dẫn

FM_daubac's Photo FM_daubac 11/07/2025

Cám ơn Thienluong,

chữ 比 bỉ (dấu hỏi) còn đọc là tỷ. Khi dịch từ phần mềm nó dịch ra bỉ, tôi quên sửa lại là tỷ. Trong khi chữ 否 bĩ (dấu ngã) khi dịch từ phần mềm nó dịch ra chữ phủ thì tôi đã sửa lại bĩ.

Khảm cung biến quái.. phục ........ lâm ......khôn ...... khiêm ... tiểu quá .. hàm ...kiển .........tỷ

Tốn cung biến quái ..... ..........đại súc ..... cấn ...... bác ......... tấn .......... .......... quán ......... tiệm
Trích dẫn

Thienluong's Photo Thienluong 11/07/2025

Dạ, TL xin cảm ơn Thầy FM_daubac nhiều ạ.

Và ở chỗ sau có cái tượng Quẻ Càn có chút lỗi (hình là tượng quẻ Khôn lục đoạn ạ).

Bát quái tượng lệ
Càn tam liên
Khôn lục đoạn
Chấn ngưỡng vu
Cấn phúc oản
Ly trung hư
Khảm trung mãn
Đoài thượng khuyết
Tốn hạ đoạn
Sửa bởi Thienluong: 11/07/2025 - 07:57
Trích dẫn